
HT. Nguyễn Long Thành (1942-1998)
sinh ngày mồng 08 tháng 02 âm lịch, năm Nhâm Ngọ, nhằm ngày thứ ba 24 tháng 03
dương lịch năm 1942 (trong khai sinh ghi ngày sinh là 29-03-1942) tại làng Long
Phụng, Quận Cần Giuộc Tỉnh Long An.
Là con trai thứ trong gia
đình làm nghề nông, thân phụ là ông Nguyễn Văn Kiến (sinh 1913), từ mẫu là bà
Phan Thị Vỉ (sinh năm 1914).
• Năm 1949 – 1954 học sinh Trường Tiểu Học
Rạch Núi, Cần Giuộc, Long An.
• Năm 1954 – 1958 học sinh Trường Tư Thục
Tấn Thành, Xã Long An, Cần Giuộc.
• Năm 1958 trúng tuyển vào Trường Công Lập
Petrus Ký, đỗ tú tài toàn phần năm 1961.
• Năm 1961 – 1963 sinh viên Đại Học Văn Khoa
Saigon.
• Năm 1963 – 1965 làm thư ký thống kê thuộc
Bộ Y Tế Saigon.
Năm 1964, phát tâm ngộ
Đạo, nhập môn vào Đạo Cao Đài ngày mồng 06 tháng 02 năm Giáp Dần (dương lịch
19.03.1964) tại Thánh Thất Đô Thành (891 Trần Hưng Đạo – Saigon). Sau đó đã
mạnh dạn tham gia Ban Chức Việc phẩm Thông Sự. Điều đáng nói là ở tuối thanh
niên thuộc giới trí thức lại sớm khải ngộ tâm linh, nhiệt tình tham gia Đạo sự
với bộ áo dài trắng, khăn đóng đen đi lại giữa chốn phồn hoa đô hội ở đất Sài
Thành.
Năm 1965, trúng tuyển vào
trường Đại Học Sư Phạm Saigon (ban Anh Văn “khóa cấp tốc”), năm 1966 thi tốt
nghiệp đỗ hạng ba, được quyền ưu tiên chọn trường dạy học, thay vì chọn điểm
gần nhà tại Saigon, tâm linh lại hướng về Đất Thánh, Long Thành đã chọn trường
Trung Học Tây Ninh làm điểm đến, vì nơi đây vừa làm nhà giáo, vừa đúng ý nguyện
làm môn đệ Đức Chí Tôn, vì ở gần Tòa Thánh. Khi đó ông đã sáng tác một bài thi
gần như dự báo cho cuộc đời phụng sự:
Đường về Thánh Địa lắm chông gai,
Nhọc khách làng văn bước dặm dài !
Chí quyết đem thân nâng nghiệp cả,
Lòng đà phủi sạch mộng cân đai.
* * *
Cân đai phủi sạch đến rừng thiền,
Trực chỉ Thánh Tòa mộng thấy Tiên.
Ngoài ngõ xôn xao tuồng bợn tục,
Trong Đền rộn rã trống cùng chiên.
* * *
Trống chiên rộn rã khúc tiêu thiều,
Giục khách phàm trần cất tiếng kêu.
Thầy hỡi ! quì đây con đợi lịnh,
Chẳng hay Đạo sự ít hay nhiều ?
* * *
Ít nhiều con phải quyết làm xong,
Ngặt nỗi anh em chẳng một lòng.
Đứa trí hiếp ngu hiền chịu thiệt,
Đem thân phụng sự biết tròn không ?
Và ông đã chọn con đường
phụng sự suốt cuộc đời ông. Tại trường học ông là một nhà giáo mẫu mực, làm
tròn chức năng là một nhà mô phạm, thường xuyên nâng đỡ các con em học sinh
hiếu học. Trên đường Đạo ông là một hiền giả đi tìm chân lý.
Cuộc sống thầm lặng trôi
qua, bổng vào một hôm thượng tuần tháng 02 dương lịch năm 1967, ông thấy Thiên
Nhãn hiện sáng lòa trong giường ngủ bốn lần trong đêm. Sáng hôm sau ông thuật
lại cho ông Giáo Hữu Thượng Tý Thanh, hỏi như vậy là thế nào? Và được ông Giáo
Hữu Thượng Tý trả lời là theo kinh nghiệm tâm linh và sự hiểu biết thì Long
Thành được Đức Chí Tôn điểm Đạo giao cho sứ mạng bí truyền để phổ độ chúng
sanh.
Quả thật vậy, từ đó ông ăn
chay trường, sống độc thân suốt đời, đặt toàn tâm toàn ý vào con đường phụng sự
chúng sanh. Ông đạt được phép thông công bằng cách giáng tâm, thường xuyên nghe
được lời hướng dẫn giáo hóa của Đức Lý Đại Tiên, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và
các Đấng trọn lành. Việc trước tiên là ông được dạy phải đọc kỹ và tìm hiểu rõ
nét hai cuốn sách: Pháp Chánh Truyền và Tân Luật. Ông lấy trí phàm phân tách và
hỏi mục đích yêu cầu của công việc này, thì được trả lời để việc làm và lời nói
sau này không sai phạm nền Chơn Giáo ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ. Tiếp theo là ông bị
bắt buộc phải học thuộc kinh Thiên Đạo và Thế Đạo, ông hỏi vậy để làm gì? Trả
lời: Để thử ý chí quyết tâm của con người ông có quyết tâm đi trên con đường
Đạo hay không? Thế là ông vừa dạy học ngoài đời, lại còn vừa học Kinh lễ, ông
không nản chí và đã học thuộc tất cả các bài Kinh trong suốt một tháng để trả
bài cho các Đấng. Nghĩ cũng lạ thường, nếu không phải là một bậc căn tu ắt dễ
ngả lòng nản chí, ngược lại ông là một học trò siêng năng của các Đấng Thiêng
Liêng.
Sau khi được điểm đạo, bề
ngoài ông vẫn là một người bình thường, nhưng trong tâm linh ông là một đồng tử
(medium) thường trực của các Đấng trọn lành. Cái hay của ông là luôn giữ mức
quân bình giữa thần trí và xác thân. Vì vấn đề thông công nhập thể, có thể làm
cái trí con người không bình thường trong đời sống hằng ngày, có khi trở nên
ngớ ngẩn tạm gọi là bị “mát”, nhưng trái lại Long Thành vẫn vững tiến trên con
đường Thiên cơ đã vạch sẵn.
Dù đạt được một trình độ
tâm linh tiến hóa, nhưng bản tánh vẫn ôn nhu, hòa ái, luôn luôn khiêm tốn, suốt
đời chưa thấy ông phiền giận một ai. Việc này, nhiều người sống gần hoặc từng
tiếp xúc đều biết rõ. Quả thật, Long Thành xứng đáng là một đệ tử chân truyền
của Đức Chí Tôn. Ông đã độ được tất cả anh chị em trong gia đình nhập môn vào
cửa Đạo và hướng tâm thức một số người đã từng gặp ông chấp thuận làm môn đệ
Thượng Đế, tu hành theo đường chánh giáo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Và điểm đặc
biệt là ông vui lòng chấp nhận nhân quả của bản thân không lời than oán!
Vào ngày 01-12-1976 ông bị
câu lưu hơn 4 năm tại các trại: B4, Cây Cầy và trại cải tạo Bàu Cỏ đến ngày
2-4-1981 được trả tự do, ông vẫn tiếp tục ở lại Tòa Thánh tu hành cho đến ngày
trở về thiêng liêng vị. Suốt thời gian bị thử thách, vẫn một lòng giữ vững đức
tin với Thượng Đế, vẫn ăn chay trường và tiếp tục phát triển tâm linh.
Con đường phụng sự của
Nguyễn Long Thành có thể chia ra thành ba phần rõ rệt:
1 /Phần xã hội:
• Làm tròn chức năng nhà
giáo đối với con em học sinh.
• Âm thầm cứu trợ, cấp tế
cho người cùng khổ.
2 / Phần Đạo:
• Mặt công truyền: thuyết
trình các đề tài Đạo Giáo tại văn phòng Khảo Cứu Vụ Tòa Thánh Tây Ninh nhằm làm
sáng danh nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
• Tổ chức các khóa dạy
giáo lý Đạo Cao Đài cho con em học sinh tại trường Đạo Đức Học Đường và Lê Văn
Trung, nhằm mục đích dạy cho học sinh tiểu học rõ phần thể pháp và bí pháp của
Đạo, để trong tương lai các em có thể định hướng tâm linh của chính mình trên
đường nhập thế.
• Viết sách Đạo: Với mục
đích đóng góp thêm những viên ngọc quí cho kho tàng tâm linh của nền Chơn Giáo,
từ những năm 1971 đến năm 1998, Nguyễn Long Thành đã lần lượt cho ra đời 12 tác
phẩm về Đạo Cao Đài như sau:
- Con đường của người Đệ
Tử Cao Đài (đã được chính tác giả dịch sang Anh ngữ)
- The Path
of Cao Đài Disciple
- 24 giờ
Đạo.
- Danh hiệu
và tiêu chuẩn lập pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
- Thánh Ngôn
yếu lược.
- Đời sống
người Tín đồ Cao Đài.
- Quan niệm
tu chơn.
- Nhìn lại 50 năm
lịch sử Đạo Cao Đài.
- Luận Đạo
Sưu Tập.
- Thánh Ngôn
tuyển tập.
- Đường vào
cõi tục.
- Đời người.
- Bí pháp.
3 / Phần tâm
linh:
Nâng đỡ tâm
thức cho những ai có tâm hồn đạo đức được may duyên gặp gỡ trong lúc ông còn
sanh tiền. Có người sau vài làn luận Đạo với ông đã được khải ngộ về tâm linh.
Về phương
diện tinh thần, Nguyễn Long Thành là một phú ông tâm linh, trái lại về mặt vật
chất là một người nghèo đúng nghĩa.
Một mình một bóng giữa đêm đông,
Khép kín tư phòng để trống không,
Không, không tất cả đều không cả,
Không cả cuộc đời Đạo pháp thông.
Nguyễn Long Thành
Đời sống vật chất của ông
gần như không có gì tư riêng, ngoại trừ một vài bộ đồ đổi thay, ở tạm nhà một
bà chị kết nghĩa, nhưng ông có một kho báu vô cùng to lớn đó là: “Cái vĩnh cửu
của tâm linh”.
Lúc 15 giờ ngày 19 tháng 4
âm lịch năm Mậu Dần ( 14-5-1998) Nguyễn Long Thành đã thanh thản ra đi trở về
cõi vĩnh hằng.
Dù biết rằng đời là cõi
tạm, nhưng sự ra đi của ông đã để lại nhiều nỗi tiếc thương cho bao lữ khách
còn đang bôn ba trên đường qua bến tục.
Thánh Địa Tây Ninh
Năm 2008 (Mậu Tý)
Kỷ niệm 10 năm sau
ngày Long Thành thoát tục.
HIỀN TÀI
NGUYỄN LONG THÀNH
(1942-1998)
Ngày sinh: 29-03-1942 (8-2- Nhâm Ngọ)
Nơi sinh: Long
Phụng, Cần Giuộc, Long An.
Thân phụ: Nguyễn Văn Kiến
Thân mẫu: Phan Thị Vĩ
Nhập môn vào Đạo Cao Đài:
6-2-Giáp Thìn (dl 19-3-1964) tại Thánh Thất Đô Thành (Sài Gòn), đến năm 1966
được bổn Đạo cử lên làm Thông Sự ở Quận 2, và Hiền Tài Khóa II
Học vấn: Tốt nghiệp Đại
học Sư Phạm Cấp Tốc ban Anh Văn, được bổ nhiệm làm giáo sư Anh Văn tại trường
Trung Học Tây Ninh 19-6-1966.
Trong thời gian nầy ông
nghiên cứu giáo lý Đạo Cao Đài, tham gia giảng dạy giáo lý cho học sinh tại Đạo
Đức Học Đường và trường Trung Học Lê Văn Trung, đồng thời bắt đầu viết sáchvề
đề tài: Tìm Hiểu Giáo Lý Cao Đài (12 tác phẩm).
Từ 1-12-1976 đến
20-4-1981, ông bị giam tại khám đường Tây Ninh và Bàu Cỏ.
Sau khi được trả tự do,
sức khỏe ông rất kém, chỉ nằm nhà dưỡng bệnh. Tuy thể xác đau yếu, nhưng đời
sống tâm linh rất phong phú, được các Đấng Thiêng Liêng mặc khải cho biết nhiều
điều và làm nhiều việc.
Đức Hộ-Pháp có cho ông bốn
câu thơ:
Thuyền Đạo giờ đây vắng bóng Thầy,
Đàn em Chức sắc cũng buồn lây,
Đỡ nâng nghiêng ngửa trong đôi lúc,
Dụng đỡ THÀNH LONG nhắc ý Thầy.
Nguyễn Long Thành qui liễu
19-4-Mậu Dần (dl 14-5-1998), được đưa vào Khách Đình trong Nội ô Tòa Thánh để
làm lễ tang, hưởng 57 tuổi.
Nguyễn Long Thành từ ngày
ngộ Đạo, chí quyết hy sinh phụng sự cho Đạo pháp, cho nhân sanh, không lập gia
đình, không nhà cửa, không tài sản, tất cả đều không.
Một
mình một bóng giữa đêm đông,
Khép
kín tư phòng để trống không,
Không,
không, tất cả đều không cả
Không
cả cuộc đời Đạo pháp thông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét