
GIẢI THÍCH 10 BÀI THÀI
Trong buổi Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung
lần đầu tiên được tổ chức tại nhà Ngài Cao quỳnh Cư ở địa chỉ:
134 đường Bourdais Sài gòn ngày 15-8-Ất Sửu (dl 2-10-1925), sau khi Đức Phật Mẫu giáng cơ để lời
cảm tạ 3 vị: Cao quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao hoài Sang, thì Đức Phật Mẫu và
Cửu vị Tiên Nương viết ra 10 Bài thi, mỗi vị viết một bài, để kỷ
niệm buổi Hội Yến Diêu Trì Cung lần đầu tiên ấy.
10 Bài thi nầy, về sau được dùng
làm 10 Bài Thài hiến lễ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương mỗi khi
tổ chức Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung vào ngày Rằm tháng 8 hằng năm.
Sau đây là phần giải thích 10 Bài
Thài nầy.
1 . Bài Thài hiến lễ Đức Phật Mẫu
Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên,
Thiên Thiên cửu phẩm đắc cao huyền.
Huyền hư tác thế Thần Tiên Nữ,
Nữ hảo thiện căn đoạt Cửu Thiên.
Biên ra chữ Hán :
............................
............................
............................
............................
GIẢI THÍCH :
Bài thi trên có 4 chữ đầu câu
(khoán thủ) là : CỬU THIÊN HUYỀN NỮ. Đây là một danh hiệu đặc biệt của Đức Phật
Mẫu.
Câu 1 : Cửu kiếp Hiên Viên thọ sắc
Thiên.
Cửu kiếp : Kiếp giáng trần thứ 9.
Hiên Viên : Vua Hiên Viên Huỳnh Đế bên Tàu (-2697 - 2597 trước
Tây lịch). Thọ : Nhận lãnh. Sắc Thiên : Tờ giấy viết lệnh của Đức Thượng Đế ban
ra.
Đức Phật Mẫu
thọ lãnh sắc lịnh của Đức Chí Tôn, giáng trần kiếp thứ 9 vào thời vua Hiên Viên
Huỳnh Đế.
Câu 2 : Thiên
Thiên Cửu phẩm đắc cao huyền.
Thiên Thiên :
Trời Trời, chỉ các cõi Trời. Cửu phẩm : 9 phẩm Thần Tiên. Đắc : Được. Cao huyền
: Cao siêu và huyền diệu.
Nơi các cõi
Trời, Cửu phẩm Thần Tiên được cao siêu huyền diệu.
Câu 3 : Huyền
hư tác thế Thần Tiên Nữ.
Huyền hư :
Huyền diệu nơi cõi hư không. Tác : Làm ra. Thế : Cõi trần. Thần Tiên Nữ : Các
Nữ Thần, Nữ Tiên.
Đức Phật Mẫu
huyền diệu nơi cõi hư không, tạo hóa ra các cõi trần và các Đầng Thần Tiên Nữ
phái.
Câu 4 : Nữ hảo
thiện căn đoạt Cửu Thiên.
Nữ : Phái Nữ.
Hảo : Tốt. Thiện căn : Gốc rễ lành, căn lành. Cái căn lành nầy có được là do những
việc làm lương thiện đạo đức trong các kiếp sống trước tạo nên. Cửu Thiên : 9
từng Trời.
Người Nữ phái
có tấm lòng tốt, có căn lành, tu hành thì sẽ đoạt được phẩm vị nơi 9 từng Trời.
2 . Bài Thài hiến lễ Nhứt Nương
Hoa thu ủ như màu thẹn nguyệt,
Giữa thu ba e tuyết đông về.
Non sông trải cánh Tiên lòe,
Mượn câu thi hứng vui đề chào nhau.
GIẢI THÍCH :
Câu 1 : HOA
thu ủ như màu thẹn nguyệt.
Hoa : Bông
hoa. HOA cũng là tên của Nhứt Nương trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam (Xem
sự tích bên dưới). Thu : Mùa thu. Hoa thu : Bông mùa thu. Khi xưa chỉ có bông
cúc là nở rộ vào mùa thu, trong khi đó thì các thứ hoa khác không nở được vì
không chịu được mưa gió. Ủ : Buồn rầu, ủ rủ. Nguyệt : Mặt trăng. Mặt trăng mùa
thu tỏa ánh sáng lung linh trong bầu trời trong xanh rất đẹp.
Hoa cúc mùa
thu buồn rầu như có ý e thẹn vì không đẹp bằng ánh trăng thu.
Câu 2: Giữa
thu ba e tuyết đông về.
Thu ba: Làn
sóng nước mùa thu. E: Ngại. Tuyết : Hơi nước khi gặp nhiệt độ rất lạnh, đông
lại thành những hột nước đá nhỏ trắng xóa rơi xuống mặt đất. Đông : Mùa đông.
Giữa sóng nước
mùa thu, e ngại khi mùa Đông trở lại, có tuyết rơi xuống.
Câu 3 : Non
sông trải cánh Tiên lòe.
Non sông :
Khắp đất nước. Trải : Mở rộng ra trên mặt đất. Lòe : Tỏa sáng, ý nói lộng lẫy.
Cánh Tiên : Ý
nói các cánh hoa tuyệt đẹp.
Hoa nở khắp
non sông, các cánh hoa tuyệt đẹp trải ra lộng lẫy.
Câu 4 : Mượn
câu thi hứng vui đề chào nhau.
Câu thi hứng :
Làm ra các câu thơ trong lúc hứng khởi vui vẻ. Vui đề : Đề tài vui vẻ.
Mượn các câu
thơ trong lúc hứng thú vui vẻ làm đề tài chào hỏi nhau.
Nhứt Nương có
bửu pháp là Đờn Tỳ bà, có nhiệm vụ cai quản Vườn Ngạn Uyển nơi từng Trời thứ 1
trong Cửu Trùng Thiên, xem xét các Nguyên nhân đang còn sống nơi cõi trần hay
đã qui vị, vì mỗi đóa hoa trong Vườn Ngạn Uyển tượng trưng một Nguyên nhân. Khi
Chơn linh Nguyên nhân ấy đầu kiếp xuống trần thì hoa nở, khi Chơn linh làm điều
thiện lương chơn chánh thì sắc hoa tươi thắm, khi Chơn linh làm điều tà mị gian
ác thì sắc hoa ủ dột xấu xí, khi Chơn linh qui vị rời khỏi cõi trần thì đóa hoa
héo tàn.
Theo bài Kinh
Đệ Nhứt Cửu, Nhứt Nương có nhiệm vụ tiếp dẫn các Chơn hồn của người tín đồ Cao
Đài qui vị trong kỳ làm tuần Nhứt Cửu đến từng Trời thứ 1 trong Cửu Trùng
Thiên.
SỰ TÍCH NHỨT
NƯƠNG :
Trong một kiếp
giáng trần ở Việt Nam, Nhứt Nương có tên là HOA.
Trong cuộc Lễ
Hội Yến Diêu Trì Cung tổ chức tại Báo Ân Từ vào năm Ất Hợi (1995), Cơ quan Vườn
Hoa Kiểng trong Nội Ô Tòa Thánh có triển lãm pho tượng Nhứt Nương và có ghi ra
sự tích của Nhứt Nương, xin chép nguyên văn ra sau đây :
1 . Lược sử :
Nhứt Nương
Diêu Trì Cung tên là Hoàng Thiều Hoa, sanh khoảng năm 20 sau Tây lịch, tướng
của Hai Bà Trưng. Người có công dẹp giặc Hán, được Hai Bà Trưng phong là Đông
Cung Công Chúa (năm 40 sau Tây lịch), và sau khi chết được dân tôn thờ ở Chùa
Phúc Khánh và lập miếu thờ ở xã Song Quang (nay là xã Hiền Quang, huyện Tam
Nông, tỉnh Vĩnh Phú).
Theo truyền
thuyết, vợ chồng Hoàng Phụ và Đào thị sống với nhau quá lâu mà không con. Ngày
nọ, hai vợ chồng đi kiếm củi ở núi Tản Viên, khi mệt nhọc, cả hai nằm ngủ và
người vợ mộng thấy một người con gái đẹp xưng tên Thiều Hoa, là con gái của Sơn
Thánh Tản Viên, đến xin làm con của ông bà. Sau đó bà Đào thị mang thai và hạ
sanh một người con gái đẹp như Tiên và giống y như người trong mộng nên đặt tên
là Thiều Hoa.
Năm 14 tuổi,
cha mẹ đều mất, Cô Thiều Hoa phải đi chăn trâu ở xã Song Quang. Một hôm đứng
trên gò cao nhìn xuống bãi sông, Cô thấy quân Hán nắm râu một cụ già lôi đi. Cô
tức giận định lấy gậy chạy xuống bãi, chợt nghe tiếng gọi, Cô thấy một Ni Cô
đang vẫy tay,Cô chạy tới,Ni Cô bảo :
- Con tuy có
sức khỏe, nhưng việc con làm chưa có ích gì cho dân tộc. Ta không chỉ lo cho
một người khỏi bị đánh mà phải lo cho cả nước khỏi bị đô hộ.
Thiều Hoa tỉnh
ngộ và được Ni Cô thâu làm đệ tử về chùa học Đạo.
Năm 18 tuổi,
Cô đến Mê Linh đầu quân được Hai Bà Trưng trọng dụng và cho về Song Quang mộ
nghĩa quân.
Khi lịnh khởi
nghĩa ban ra, Cô dẫn 500 quân trai gái Song Quang kéo về Mê Linh, được Hai Bà
phong đến chức Tiên Phong Hữu Tướng. Sau khi công thành danh toại, Cô từ quan
và trở về Chùa tiếp tục tu hành cho đến khi thoát trần.
Theo Cơ bút,
khi mới khai Đạo, Cô là một trong 9 vị Tiên Nương hầu cận Đức Diêu Trì Kim Mẫu.
2 . Vai trò và
nhiệm vụ của Nhứt Nương :
Trong Tam Kỳ
Phổ Độ, Nhứt Nương Diêu Trì Cung giữ vai trò phổ độ nhơn sanh miền Thượng du và
Trung du Bắc Việt và nhiệm vụ cai quản Vườn Ngạn Uyển.
- Một chơn
linh khi xuống trần thì Vườn Ngạn Uyển có một hoa nở.
- Một chơn
linh khi thoát xác thì Vườn Ngạn Uyển có một hoa héo.
Chơn linh nào
ở trần gian làm điều đạo đức thì sắc hoa nơi Vườn tươi thắm, ngược lại làm điều
gian ác tà mị thì sắc hoa ủ dột xấu xí đi.
Hiện nay, Nhứt
Nương Tiên Nữ đã đầy đủ công đức đắc quả Phật vị. "
3 . Bài Thài
hiến lễ Nhị Nương
Cẩm tú văn chương hà khách đạo ?
Thi Thần tửu Thánh vấn thùy nhân?
Tuy mang lấy tiếng hồng quần,
Cảnh Tiên còn mến cõi trần anh thư.
GIẢI THÍCH :
Câu 1 : Cẩm tú
văn chương hà khách đạo ?
Cẩm : Gấm. Tú
: Thêu. Cẩm tú là gấm thêu. Văn chương cẩm tú là lời văn hay và đẹp như gấm
thêu hoa. Cẩm cũng là tên của Nhị Nương Diêu Trì Cung trong một kiếp giáng trần
ở Việt Nam. Hà : Chữ dùng để hỏi : Sao, gì, nào ? Khách đạo : Người khách có
tín ngưỡng đạo đức.
Người khách
đạo nào có được văn chương hay đẹp ?
Câu 2 : Thi
Thần tửu Thánh vấn thùy nhân ?
Thi : Thơ văn.
Tửu : Rượu. Thần Thánh : Những bậc siêu phàm thoát tục. Thi Thần tửu Thánh là
chỉ những bậc siêu phàm, sốâng an nhàn ngoài vòng cương tỏa với bầu rượu túi
thơ, ngao du sơn thủy, chẳng vướng việc trần. Vấn : Hỏi. Thùy : Ai. Nhân : Người.
Hỏi ai là
người tửu Thánh thi Thần, siêu phàm thoát tục ?
Câu 3 : Tuy
mang lấy tiếng hồng quần.
Hồng quần :
Cái quần màu đỏ. Khi xưa, con gái nhà giàu bên Tàu thường mặc quần màu đỏ, do
đó chữ Hồng quần là chỉ con gái, phụ nữ.
Tuy là phận
làm con gái.
Câu 4 : Cảnh
Tiên còn mến, cõi trần anh thư.
Anh : Tốt đẹp
nhứt. Thư : Tiếng tôn xưng người con gái. Anh thư là người con gái tài giỏi.
Nơi cõi trần,
là một người con gái tài giỏi, nhưng vẫn còn mến cảnh Tiên hơn.
Nhị Nương có
bửu pháp là cái Lư hương, có nhiệm vụ cai quản Vườn Đào Tiên của Đức Phật Mẫu,
đón tiếp các chơn hồn của những người qui liễu lên từng Trời thứ 2 của Cửu
Trùng Thiên trong kỳ làm Tuần Nhị Cửu, mở tiệc Trường Sanh thết đãi, rồi đưa
các chơn hồn đến Ngân Kiều, để cỡi Kim quang bay lên chầu Ngọc Hư Cung.
4 . Bài Thài
hiến lễ Tam Nương
Tuyến đức năng thành đạo,
Quảng trí đắc cao huyền.
Biển mê lắt lẻo con thuyền,
Chở che khách tục, Cửu tuyền ngăn sông.
GIẢI THÍCH :
Câu 1 : TUYẾN
đức năng thành đạo.
Tuyến : Đường.
TUYẾN cũng là tên của Tam Nương trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam. Đức : Đạo
đức. Năng : Có khả năng làm được. Thành đạo : Đắc đạo, đạt được ngôi vị thiêng
liêng.
Con đường đạo
đức có khả năng giúp con người đắc đạo.
Câu 2 : Quảng
trí đắc cao huyền.
Quảng : Rộng
rãi. Trí : Sự thông minh hiểu biết. Quảng trí là trí hiểu biết rộng rãi, đó là
Trí huệ, do theo con đường đạo đức mà có được. Đắc : Được. Cao huyền : Cao siêu
huyền diệu.
Cái trí huệ
được cao siêu huyền diệu.
Câu 3 : Biển
mê lắt lẻo con thuyền.
Biển mê : Vì
mê nên khổ, hết mê hết khổ. Do đó, biển mê chính là biển khổ. Lắt lẻo : Đưa qua
đưa lại như không vững trong một khung cảnh vắng vẻ. Con thuyền : Ý nói chiếc
thuyền Bát Nhã đi trên biển khổ, đưa người đạo đức từ bến mê qua bờ giác, đi
vào cõi Thiêng liêng Hằng Sống.
Chèo chiếc
thuyền Bát Nhã lắt lẻo trên biển khổ.
Câu 4 : Chở
che khách tục, Cửu tuyền ngăn sông.
Khách tục :
Khách trần (tục là tầm thường thấp kém, chỉ cõi trần). Gọi là Khách vì cõi trần
không phải là quê hương của các Chơn linh, mà quê hương thật sự của các Chơn
linh là cõi Thiêng liêng Hằng sống. Các Chơn linh đến cõi trần chỉ ở tạm trong
thời gian ngắn (nhiều lắm là 100 năm) để học hỏi và tiến hóa. Xong rồi thì trở
về cõi thiêng liêng là quê hương cũ. Cửu tuyền : 9 suối. Tương truyền nơi cõi
Âm Phủ có 9 con suối chảy, nên Cửu tuyền là chỉ cõi Âm Phủ, Địa ngục.
Che chở các
khách trần, ngăn cản không cho xuống cõi Địa ngục.
Hai câu 3-4: Ý
nói: Tam Nương có nhiệm vụ chèo chiếc thuyền Bát Nhã trên biển khổ nơi cõi
thiêng liêng để rước những người đắc đạo từ bến mê qua bờ giác, đi vào cõi
Thiêng liêng Hằng sống, và che chở Chơn linh của các khách trần không cho xuống
cõi Địa ngục.
Tam Nương có
bửu pháp là Quạt Long Tu, có nhiệm vụ tiếp dẫn các Chơn hồn lên từng Trời Thanh
Thiên, là từng Trời thứ 3 trong Cửu Trùng Thiên, trong kỳ làm Tuần Tam Cửu, để
đưa chơn hồn đến diện kiến 7 vị Tiên (Chính là Trúc Lâm Thất Hiền vào thời nhà
Tấn tu thành Tiên), vào Cung Như Ý bái kiến Đức Thái Thượng Lão Quân, học sách
Trường Xuân do Hội Thánh Minh giao cho.
Ngoài ra, Tam
Nương còn có nhiệm vụ chèo chiếc thuyền Bát Nhã để độ sanh, như đã nói ở trên.
5 . Bài Thài hiến lễ Tứ Nương
Gấm lót ngõ chưa vừa gót ngọc,
Vàng treo nhà ít học không ưa.
Đợi trông nho sĩ tài vừa,
Đằng giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi.
GIẢI THÍCH :
Câu 1 : Gấm
lót ngõ chưa vừa gót ngọc.
Gấm : Hàng dệt
bằng tơ nhiều màu rất đẹp, mắc tiền. GẤM cũng là tên của Tứ Nương Diêu Trì Cung
trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam. Ngõ : Cổng vào sân nhà. Chưa vừa : Không
vừa lòng. Gót ngọc : Cái gót chân của người phụ nữ quí phái.
Câu 2 : Vàng
treo nhà, ít học không ưa.
Vàng treo nhà
: Vàng treo đầy nhà, chỉ nhà rất giàu có, nhiều tiền của. Ít học : Dốt nát,
không có học thức.
Hai câu 1-2 :
Đem gấm trải dài từ cổng vào nhà để rước người con gái quí phái ấy thì nàng
cũng chưa vừa ý. Đem vàng treo đầy nhà mà chủ nhà dốt nát, nàng cũng không ưa.
Ý nói : Người
con gái quí phái ấy không ưa chuộng sự giàu có mà dốt nát, chỉ ưa chuộng người
học thức tài giỏi.
Câu 3 : Đợi
trông nho sĩ tài vừa.
Đợi trông : Trông
đợi, mong chờ. Nho sĩ : Người học chữ Nho, chỉ người trí thức thời xưa. Vừa :
Xứng hạp. Tài vừa : Có tài tương xứng.
Câu 4 : Đằng
giao khởi phụng khó ngừa Tiên thi.
Đằng : Vọt lên
cao. Giao : Con rồng không có sừng. Khởi : Dấy lên. Phụng : Con chim phụng, một
trong Tứ Linh. Con chim trống gọi là Phụng, con chim mái gọi là Loan, nên
thường nói Phụng Loan.
Đằng giao khởi
phụng : Con rồng bay vọt lên, con chim phụng dấy lên, tức là rồng bay phụng
dậy. Thành ngữ nầy có ý nói : Tài giỏi vượt lên trên mọi người, xuất chúng.
Ngừa : Chờ
đợi, chờ đón. Tiên thi : Thơ văn của bực Tiên, chỉ người tài giỏi siêu phàm như
bực Tiên.
Hai câu 3-4 :
Mong đợi một trang trí thức tài giỏi xứng hạp, chớ khó mà chờ người tài giỏi
siêu phàm thuộc bực Tiên.
Trong Bài Thài
hiến lễ Tứ Nương nầy, ý nói : Tứ Nương có một kiếp giáng trần tên là GẤM. Nàng
Gấm rất kén chồng, không thích kẻ giàu có mà dốt nát, chỉ kén chọn người trí
thức, có văn tài lỗi lạc tương xứng, chớ khó mà chờ đợi người tài giỏi siêu
phàm thuộc hàng Tiên.
Tứ Nương có
bửu pháp là Kim Bảng (Bảng vàng để ghi tên những người thi đậu Trạng Nguyên,
Tiến Sĩ), nên Tứ Nương có nhiệm vụ tuyển chọn người đủ tài đủ đức cho thi đậu
để ra giúp nước.
Tứ Nương tiếp
dẫn các Chơn hồn lên từng Trời Huỳnh Thiên, là từng thứ 4 trong Cửu Trùng
Thiên. Nơi đây, Chơn hồn được vào Cung Tuyệt Khổ bái kiến Đức Huyền Thiên Quân,
được roi thần của Lôi Công trừ hết các trược khí còn bám vào Chơn thần, đi vào
Lầu Bát Quái, lãnh Kim Câu đi lên chờ ở cửa Thiên môn (Cửa Trời).
6 . Bài Thài hiến lễ Ngũ Nương
LIỄU yểu điệu còn ghen nét đẹp,
Tuyết trong ngần khó phép so
thân.
Hiu hiu nhẹ gót phong trần,
Đài sen mấy lượt gió thần đưa hương.
GIẢI THÍCH :
Câu 1 : Liễu
yểu điệu còn ghen nét đẹp.
Liễu : Cây
dương liễu, cành mềm, lá nhỏ và dài rủ xuống lả lướt trông rất nên thơ. Liễu
còn là tên của Ngũ Nương Diêu Trì Cung trong một kiếp giáng trần tại Việt Nam.
Yểu điệu : Có dáng mềm mại tha thướt. Ghen : So bì ganh tỵ.
Cây liễu có
dáng mềm mại tha thướt mà còn so bì ganh tỵ với nét đẹp của Cô.
Câu 2 : Tuyết trong ngần khó phép so thân.
Tuyết : Hơi nước khi gặp lạnh đột ngột, đông lại thành những hạt nước đá
nhỏ trắng xóa rơi xuống đất. Thông thường nói : Trắng như tuyết. Trong ngần :
Rất trong, không chút dính bợn. So : So sánh. Thân : Thân thể.
Tuyết trắng
trong ngần mà còn không thể so sánh được với nước da của Cô.
Câu 3 : Hiu
hiu nhẹ gót phong trần.
Hiu hiu : Nhẹ
nhàng, ở trạng thái êm nhẹ. Nhẹ gót : Bước chân đi nhẹ nhàng vì không còn vướng
bận. Phong trần : Gió bụi, chỉ những nỗi vất vả ở cõi đời.
Bước chân đi
rất nhẹ nhàng, không còn vướng bận những nỗi vất vả nơi cõi trần.
Câu 4 : Đài
sen mấy lượt gió thần đưa hương.
Đài sen : Tòa sen, ngôi vị của Phật. Gió Thần : Ngọn gió huyền diệu. Hương :
Mùi thơm.
Mấy lượt gió
thần thổi đưa mùi thơm tới để rước Cô về ngự nơi Tòa sen.
Ngũ Nương Diêu
Trì Cung có bửu pháp là Cây Như Ý, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn đến từng
Trời Xích Thiên, là từng Trời thứ 5 trong Cửu Trùng Thiên, trong kỳ làm Tuần
Ngũ Cửu, đưa chơn hồn đến Minh Cảnh Đài để xem rõ ràng trở lại tất cả những
việc làm thiện ác vừa qua của chơn hồn nơi cõi trần, rồi hướng dẫn chơn hồn đến
trước quyển Kinh Vô Tự để cho chơn hồn thấy được quả duyên của mình. Xong, đưa chơn hồn lên xe Như Ý, có các
vị Oai Thần tiễn chân đi lên.
7 . Bài Thài hiến lễ Lục Nương
HUỆ ngào ngạt đưa hơi vò dịu,
Đứng tài ba chẳng thiếu tư phong.
Nương mây như thả cánh hồng,
Tiêu Diêu phất phướn cõi tòng đưa Tiên.
GIẢI THÍCH :
Câu 1 : Huệ
ngào ngạt đưa hơi vò dịu.
Huệ : Bông
huệ, một loại hoa rất thơm. Huệ cũng là tên của Lục Nương Diêu Trì Cung trong
một kiếp giáng trần ở Việt Nam. Trước kiếp nầy, Lục Nương có giáng sanh bên
nước Pháp ở Âu Châu, tên là Jeanne d'Arc, một Thánh Nữ của nước Pháp rất được
dân tộc Pháp sùng kính. (Xin xem Tiểu sử nơi phần sau). Ngào ngạt : Mùi rất
thơm và tỏa rộng ra xung quanh. Vò dịu: Mùi thơm nhẹ dễ chịu.
Hoa huệ thơm
ngào ngạt, tỏa ra xung quanh mùi thơm dễ chịu.
Câu 2 : Đứng
tài ba chẳng thiếu tư phong.
Đứng : Đấng,
người có ngôi vị cao sang. Tài ba : Tài hoa, người có tài đặc sắc. Tư phong :
Dáng dấp thùy mị và xinh đẹp.
Đó là người có
tài đặc sắc mà lại có dung mạo xinh đẹp và thùy mị.
Câu 3 : Nương
mây như thả cánh hồng.
Nương mây : Đi
trên mây. Cánh hồng : Cánh của con chim hồng, một loại chim có tài bay cao và
bay xa. Lông của chim hồng rất nhẹ.
Đi trên mây
nhẹ nhàng như cánh chim hồng bay.
Câu 4 : Tiêu
Diêu phất phướn cõi tòng đưa Tiên.
Tiêu Diêu phất
phướn : Lục Nương cầm phướn Tiêu Diêu, cũng gọi là phướn Truy Hồn (Lục Nương
phất phướn Truy Hồn, Tang thương nay lúc bảo tồn chúng sanh.), phất lên cho
người sau thấy mà đi theo. Đó là cây phướn dẫn đường. Cõi tòng : Cõi có nhiều
cây tòng, chỉ cõi thanh tịnh, cõi Tiên. Lục Nương cầm phướn Tiêu Diêu phất lên
để hướng dẫn chơn hồn đắc đạo thành Tiên đi lên cõi Tiên.
Lục Nương có
bửu pháp là Phướn Tiêu Diêu (Phướn Truy Hồn) tiếp dẫn các chơn hồn lên từng
Trời Kim Thiên, là từng thứ 6 trong Cửu Trùng Thiên, đưa chơn hồn vào Cung Vạn
Pháp xem cho biết rõ cựu nghiệp của mình, vào Cung Lập Khuyết xem ngôi vị cũ,
lãnh một hột Kim Sa đi bái kiến Phật, được chim Khổng Tước chở lên Đài Huệ
Hương, để mùi thơm của Đài nầy khử hết trược khí, đặng chơn thần thơm tho đi
lên cõi Niết Bàn.
(Xem Tiểu sử của Lục Nương nơi Phần thứ năm
phía sau).
8 . Bài Thài
hiến lễ Thất Nương
LỄ bái thường hành tâm đạo khởi,
Nhân từ tái thế tử vô ưu.
Ngày xuân gọi thế hảo cừu,
Trăm duyên phước tục khó bù buồn Tiên.
GIẢI THÍCH :
Câu 1 : Lễ bái
thường hành tâm đạo khởi.
Lễ bái : Cúng
lạy. LỄ cũng là tên của Thất Nương trong một kiếp giáng trần ở Việt Nam, vào
gia đình họ Vương ở Sài gòn, gọi là Vương thị Lễ. (Xem Tiểu sử của Thất Nương ở
Phần thứ năm phía sau).
Thường hành :
Làm hoài. Tâm đạo : Cái tâm đạo đức tu hành. Khởi : Dấy lên.
Cúng lạy hằng
ngày thì cái tâm tu hành được khơi dậy.
Câu 2 : Nhân
từ tái thế tử vô ưu.
Nhân từ : Lòng
thương yêu bao la, thương khắp chúng sanh. Tái thế : Đầu kiếp xuống cõi trần
một lần nữa. Tử : Chết, tức là linh hồn trở về cõi thiêng liêng. Vô ưu : Không
lo lắng, không phiền não.
Người có lòng
nhơn từ, khi tái thế hay khi trở về đều không phiền não.
Câu 3 : Ngày
xuân gọi thế hảo cừu.
Ngày xuân :
Ngày còn trẻ tuổi. Hảo cừu : Đẹp đôi.
Kinh Thi : Yểu
điệu thục nữ, Quân tử hảo cừu (cầu). Nghĩa là : Người con gái nết na, yểu điệu,
đẹp đôi cùng người quân tử.
Người con gái
lúc còn trẻ gọi thế là đẹp đôi.
Câu 4 : Trăm
duyên phước tục khó bù buồn Tiên.
Duyên : Sự kết
hơp thành vợ chồng. Phước : May mắn tốt lành. Tục : Cõi trần. Bù : Thêm vô chỗ
thiếu hụt cho được đầy đủ.
Nơi cõi trần,
dù hưởng được trăm cuộc nhơn duyên may mắn hạnh phúc, cũng không bù đắp được
cái buồn nơi cõi Tiên.
Tại sao nơi
cõi Tiên mà Thất Nương lại buồn ? Có lẽ là vì Cô nhận biết nơi cõi trần, cha mẹ
Cô vẫn cứ mải miết trên đường danh lợi nên gây lắm tội tình, không chịu khép
mình vào đường Đạo đức lo việc tu hành để giải trừ nghiệp chướng tiền khiên.
(Xem Tiểu sử Thất Nương nơi phần thứ 5)
Thất Nương có
bửu pháp là Hoa sen, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn lên từng Trời Haọ Nhiên
Thiên là từng thứ 7 trong Cửu Trùng Thiên, đưa chơn hồn đến Cung Chưởng Pháp
bái kiến Đức Chuẩn Đề Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ Tát, được Phật Dà Lam dẫn đường đi
đến cõi Tây Qui, rồi đứng trên cái bông sen thần (Liên Thần) để bông sen đưa
lên cõi Niết Bàn.
Thất Nương còn
lãnh nhiệm vụ đến cõi Âm Quang để giáo hóa các Nữ hồn tội lỗi, khiến họ thức
tỉnh mà cầu nguyện Đức Chí Tôn ân xá tội tình, được đầu kiếp lập công chuộc
tội.
9 . Bài Thài hiến lễ Bát Nương
Hồ Hớn Hoa Sen Trắng nở ngày,
Càng gần hơi đẹp lại càng say.
Trêu trăng hằng thói dấu mày,
Cợt mây tranh chức Phật Đài thêm hoa.
GIẢI THÍCH :
Câu 1 : Hồ Hớn
Hoa Sen Trắng nở ngày.
Hồ Hớn : Họ Hồ
và họ Hớn. Hoa Sen Trắng : Chữ Hán gọi là Bạch Liên hay Liên Bạch. Hớn Liên
Bạch là tên của Bát Nương trong một kiếp giáng trần ở Trung Hoa. Cô cũng có
giáng trần ở Việt Nam vào nhà họ Hồ.
Hoa sen trắng
nở vào lúc ban ngày.
Câu 2 : Càng
gần hơi đẹp lại càng say.
Càng đến gần
hoa sen thì lại càng thơm khiến người ta càng say mê vẻ đẹp và mùi thơm của hoa
sen.
Câu 3 : Trêu
trăng hằng thói dấu mày.
Hằng : Thường.
Dấu mày : Cái dấu chân mày của phụ nữ thường cong và nhỏ như vành trăng non.
Trêu cợt với
trăng, thường có thói quen trang điểm chân mày cong như vành trăng non.
Câu 4 : Cợt
mây tranh chức Phật đài thêm hoa.
Tranh : Đua
tranh. Chức : Chức tước, phẩm vị. Phật đài : Cái hoa sen làm tòa ngự cho Phật.
Phật đài thêm hoa : Thêm một đóa hoa sen làm ngôi vị cho vị Phật mới đắc đạo.
Trêu cợt với
mây, tranh đua đạt cho được ngôi vị Phật.
Bát Nương có
bửu pháp là Giỏ Hoa lam, có nhiệm vụ tiếp dẫn các chơn hồn đến từng Trời Phi
Tưởng Thiên, là từng Trời thứ 8 trong Cửu Trùng Thiên, vào Cung Tận Thức bái
kiến Đức Từ Hàng Bồ Tát, chơn hồn được con Kim Mao Hẩu đưa đến tận Tịch San,
rồi đi lên cõi Niết Bàn. Chơn hồn còn được các Đấng dùng nước Cam Lồ rửa sạch
nỗi ai bi của kiếp người.
Bát Nương rất
thường giáng cơ dạy Đạo, cho rất nhiều thi văn hay tuyệt.
Bài Kinh :
Phật Mẫu Chơn Kinh, do Bát Nương giáng cơ ban cho tại Báo Ân Đường Kim Biên ở
thủ đô Nam Vang, nước Cao Miên, khi Đức Phạm Hộ Pháp và Ngài Cao Tiếp Đạo phò
loan tại đó.
Sau đây xin
chép một Bài thi của Bát Nương giáng dạy Nữ phái :
Trau giồi cho xứng phận nga mi,
Tấn thối riêng lo kịp thế thì.
Thanh sử từng nêu gương Nữ kiệt,
Hồng ân chi kém bạn Nam nhi.
Lọc lừa chớ để đen pha trắng,
Lui tới đừng cho bạc lộn chì.
Hạnh đức điểm tô non nước Việt,
Muôn năm bia tạc tiếng còn ghi.
BÁT
NƯƠNG
10 . Bài Thài
hiến lễ Cửu Nương
Khiết sạch
duyên trần vẹn giữ,
Bạc Liêu ngôi
cũ còn lời.
Chính chuyên
buồn chẳng trọn đời, Thương người noi Đạo, Phật Trời cũng thương.
GIẢI THÍCH :
Câu 1 : Khiết
sạch duyên trần vẹn giữ.
Khiết : Sạch
sẽ. Khiết cũng là tên của Cửu Nương Diêu Trì Cung trong một kiếp giáng trần ở
Việt Nam, vào nhà họ Cao ở Bạc Liêu, tên là Cao thị Khiết, nhưng khai sanh ghi
là Cao thị Kiết. (Xem Tiểu sử của Cửu Nương nơi phần thứ năm phía sau). Duyên
trần : Cuộc nhơn duyên nơi cõi trần.
Cuộc nhơn
duyên nơi cõi trần được giữ gìn hoàn toàn trong sạch.
Câu 2 : Bạc
Liêu ngôi cũ còn lời.
Bạc Liêu :
Tỉnh Bạc Liêu, quê hương của Cô Cao thị Khiết. Cô mất năm 25 tuổi, mộ của Cô
được làm bằng đá xanh rất chắc chắn và hùng vĩ, trong phần đất tư của dòng họ
Cao Triều dành làm nghĩa trang cho dòng họ. Vị trí ngôi mộ nầy nằm cách Thị xã
Bạc Liêu chừng 2 Km đi về
hướng Vĩnh Châu. Dân quanh vùng gọi là mộ Cô Tiên.
Nơi Bạc Liêu,
ngôi mộ của Cô còn được người đời truyền lời cho nhau là mộ của Cô Tiên.
Câu 3 : Chính
chuyên buồn chẳng trọn đời.
Chính chuyên :
Một lòng chung thủy với chồng. Chẳng trọn đời : Ý nói chết sớm. (Mất năm 25
tuổi).
Một lòng chung
thủy với chồng, nhưng buồn vì mất sớm.
Câu 4 : Thương
người noi Đạo, Phật Trời cũng thương.
Noi Đạo : Tín
ngưỡng theo một tôn giáo, tức là người có nhập môn cầu Đạo.
Mến thương
người theo Đạo tu hành, Trời Phật cũng thương mến những người ấy.
Cửu Nương có
bửu pháp là Ống Tiêu, có nhiệm vụ độ dẫn các chơn hồn đến từng Trời Tạo Hóa
Thiên, là từng Trời thứ 9 trong Cửu Trùng Thiên, vào Diêu Trì Cung bái kiến Đức
Phật Mẫu, được ban thưởng cho trái Đào Tiên và uống Tiên tửu, được học tập nghi
lễ của Thiên Triều để chuẩn bị đi lên Ngọc Hư Cung khi có sắc lệnh kêu, để các
Đấng trong Ngọc Hư Cung định phận : Thăng hay đọa.
Sau đây là Bài
thi của Bát Nương tả 9 vị Tiên Nữ :
Tả
chín vị Tiên Nữ
Một mày liễu trong ngần đóa ngọc,
Hai má đào phải trọng tiết trinh.
Mảnh thân trọn hiếu thâm tình,
Phải hình thục nữ, phải gìn căn duyên.
Ba yểu điệu thuyền quyên vóc hạc,
Bốn mỹ miều đài các trâm anh.
Khi vui bóng nguyệt rọi mành.
Khi dòng bích thủy, khi cành hoa xuân.
Năm phận gái hồng quần đáng mặt,
Sáu vẹn toàn quốc sắc thiên hương.
Vào ra phụng trướng loan đường,
Vào ra ngọc các cẩm tường xem hoa.
Bảy trau chuốt thân ngà mặt ngọc,
Tám Chín phần rèn tập nữ nhi
Chung lo mối Đạo Tam Kỳ,
Giúp nhà Nam Việt kịp thì Long Hoa.
BÁT
NƯƠNG / (10-6-1950)
Chú Thích Ba
Bài Thài Hiến Lễ:
Đức Phạm Hộ
Pháp, . Đức Cao Thượng Phẩm, . Đức Cao Thượng Sanh
Khi Đức Phạm
Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Cao Thượng Sanh còn sanh tiền thì mỗi khi Lễ
Hội Yến Diêu Trì Cung, 3 vị nầy luân phiên dâng Hoa, rót Rượu và châm trà hiến
lễ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương.
Ngày nay 3
Ngài đã qui Thiên thì nhiệm vụ ấy được trao lại cho chư vị Thời Quân Hiệp Thiên
Đài, và trong nghi thức Hội Yến Diêu Trì Cung có sắp 3 ghế đặt ở đầu bàn Hội
Yến dành cho 3 Ngài, y như thuở đầu tiên, 3 Ngài cùng ngồi dự yến với Cửu vị
Tiên Nương.
Khi thài hiến
lễ, các Giáo Nhi thài xong 10 Bài Thài hiến lễ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên
Nương rồi thì thài tiếp 3 Bài Thài hiến lễ Đức Phạm Hộ Pháp, Đức Cao Thượng
Phẩm và Đức Cao Thượng Sanh.
Sau đây xin
chép ra 3 Bài Thài ấy và chú thích các từ ngữ khó :
Bài
Thài hiến lễ
Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc:
Trót đã ba năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi,
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi.
Rồi đây ai đến cầm chơn pháp,
Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời.
CHÚ THÍCH :
Ba năm ở xứ
người : Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong 3 năm ở nước Cao Miên, tại kinh đô Nam Vang.
Ngày Đức Hộ Pháp đến Nam Vang là 5-Giêng-Bính Thân (dl 16-2-1956), và Đức Hộ
Pháp cư ngụ nơi đó cho đến ngày qui Thiên 10-4-Kỷ Hợi (dl 17-5-1959), tính ra
được 3 năm 2 tháng.
Chỗ nầy có bản
viết: "Trót đã bao năm". Chữ
ba đúng hơn vì nó xác định thời gian 3 năm Đức Hộ Pháp lưu vong ở nước Cao
Miên.
Tuổi đã bảy
mươi : Đức Hộ Pháp sanh năm Canh Dần (1890) và qui Thiên năm Kỷ Hợi (1959),
hưởng thọ được 69 tuổi tây, hay 70 tuổi ta.
Luống: Nhiều
lần, luôn luôn diễn ra không dứt. Chỗ nầy có bản viết: "Vốn chơi vơi." Vốn: Nguyên từ trước.
Chơn pháp :
Pháp luật chơn thật của Đức Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng lập ra để điều
hành nền Đại Đạo.
*
* *
Bài Thài hiến
lễ
Đức Thượng
Phẩm Cao quỳnh Cư :
Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng,
Cõi Thiên mừng đặng dứt dây oan.
Nợ trần đã phủi, lòng son sắt,
Ngôi vị nay vinh, nghĩa đá vàng.
Cổi tấm chơn thành lòa nhựt nguyệt,
Phơi gan chí sĩ nhuộm giang san.
Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phỉ,
Để mắt xanh coi nước khải hoàn.
CHÚ THÍCH :
Đoạn tràng :
Đứt ruột, chỉ sự đau đớn dữ dội.
Dây oan : Các
mối dây oan nghiệt đã tạo ra lúc sống nơi cõi trần.
Son sắt :
Không phai như màu đỏ của son, bền vững như sắt. Lòng son sắt là tấm lòng trung
nghĩa, đỏ và không phai như son, bền vững cứng cỏi như sắt.
Ngôi vị nay
vinh : Đạt được ngôi vị cao trọng nơi cõi thiêng liêng, ngày nay rất vinh hiển.
Đá vàng : Cứng
như đá, bền vững quí báu như vàng. Nghĩa đá vàng là việc xử thế đúng theo đạo
lý, luôn luôn giữ cho cứng chắc như đá, bền vững tốt đẹp như vàng.
Tấm chơn thành
: Tấm lòng thành thật trung hậu.
Lòa nhựt
nguyệt : Sáng chói như mặt trời mặt trăng.
Câu 5 : Mở ra
để thấy tấm lòng chơn thành sáng lòa như hai vừng nhựt nguyệt.
Đức Cao Thượng
Phẩm viết ra câu nầy là vì khi Ngài còn sanh tiền tại thế, nhóm Ông Tư Mắt và
một số ít người ganh tỵ tố cáo Đức Cao Thượng Phẩm thụt két lấy tiền hành hương
của Đạo để bỏ túi riêng. Họ dùng bạo lực xô đuổi Ngài ra khỏi Tòa Thánh. Nhưng
khi Ngài đăng Tiên về đến Ngọc Hư Cung thì các Đấng Trọn Lành trên ấy hiểu rõ
những việc làm ngay thẳng của Ngài và minh oan cho Ngài. Do đó Ngài mới đạt
đặng ngôi vị Đại Tiên.
Chí sĩ : Người
trí thức có chí khí và có quyết tâm tranh đấu cho chánh nghĩa.
Bốn mươi hai
tuổi : Đức Cao Thương Phẩm đăng Tiên năm Ngài 42 tuổi. Ngài sanh năm Mậu Tý
(1888), và mất năm l929, lúc đó Ngài được 41 tuổi tây, tức là 42 tuổi ta.
Chưa phỉ :
Chưa thỏa mãn nhu cầu tinh thần.
Mắt xanh: -
Theo Thông Chí, khi vui người ta thường nhìn thẳng, lòng đen con mắt nằm chính
giữa nên mắt xanh; khi tức giận, người ta nhìn nghiêng hay trợn mắt lên, lòng
trắng hiện ra nhiều hơn nên mắt trắng. Từ đó, mắt xanh chỉ sự hài lòng vui vẻ.
- Lại theo Tấn
Thư, Nguyễn Tịch, một trong Trúc Lâm Thất Hiền đời nhà Tấn bên Tàu, khi tiếp
khách, vừa ý với ai thì con mắt bèn xanh, không thích ai thì con mắt lộ ra toàn
trắng. Vậy mắt xanh cũng chỉ sự vừa lòng, ưng ý.
Khải hoàn :
Khải là hát mừng thắng trận, hoàn là trở về. Khải hoàn là quân lính hát mừng
thắng trận, kéo quân trở về.
*
* *
Bài Thài hiến
lễ Đức Thượng Sanh Cao hoài Sang :
Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền,
Nguyện đem thi thố tấm trung kiên.
Độ đời quyết lánh vòng danh lợi,
Trau chí tìm noi bậc Thánh Hiền.
Từ ái làm nền an thổ võ,
Đức ân dụng phép tạo nhơn
duyên.
Những mong huệ trạch ơn nhuần gội,
Sứ mạng làm xong giữ trọn nguyền.
CHÚ THÍCH :
Câu 1 : Sau
khi Đức Phạm Hộ Pháp lưu vong sang Cao Miên ngày 16-2-1956 thì Hội Thánh yêu
cầu Đức Cao Thượng Sanh về Tòa Thánh cầm giềng mối Đạo. Đức Thượng Sanh từ Sài
gòn về Tòa Thánh vào cuối tháng 5 năm 1957 và bắt đầu cầm quyền Chưởng Quản
Hiệp Thiên Đài, điều hành nền Đạo.
Thi thố : Đem
hết tài sức ra làm việc.
Tấm trung kiên
: Tấm lòng trung thành đến cùng, không gì lay chuyển được. Trau chí: Trau giồi chí khí.
Từ ái : Từ là lòng thương
yêu của người trên đối với kẻ dưới, Ái là lòng thương yêu. Từ ái là lòng thương
yêu khắp cả chúng sanh.
Thổ võ : Đất
đai của một nước.
Tạo nhơn duyên
: Tạo ra cái nhân tốt và cái duyên lành. Hễ nhân tốt thì tất nhiên hưởng được
quả tốt, hễ duyên lành thì tu hành mau đắc đạo.
Huệ trạch :
Huệ là ơn, trạch cũng là ơn. Huệ trạch là ơn huệ nói chung.
Nhuần gội :
Thấm ướt sâu vào, ý nói hưởng được nhiều ơn huệ của các Đấng Thiêng liêng.
Sứ mạng :
Nhiệm vụ quan trọng do các Đấng Thiêng liêng giao phó.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét