
I . Tổng quát
Báo Ân Từ là tòa nhà lớn để thờ các
bậc tiền bối có đại công với Đạo và các bậc vĩ nhân có đại công giúp nền văn
minh của nhơn loại tiến hóa lên cao, và để nhơn sanh tỏ lòng biết ơn các
bậc ấy.
Hiện nay, Báo
Ân Từ được tạm dùng làm Đền Thờ Đức Diêu Trì Kim Mẫu (tức là Đức Phật Mẫu).
Khi nào Hội
Thánh xây dựng được Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương thì Báo Ân Từ sẽ được xử dụng
đúng chức năng của nó,
là nhà thờ các bậc tiền bối có đại công với Đạo và với
nhơn loại.
Đức Phạm Hộ
Pháp nói rằng: Báo Ân Từ là Panthéon của Đạo, tức là Công Thần Miếu của Đạo, và
Đức Chí Tôn gọi nó là Vân Đài.
Cho nên, Báo
Ân Từ thuở xưa có 2 đôi liễn sau đây, đều khởi đầu bằng 2 chữ BÁO ÂN để nói lên
ý nghĩa của ngôi Báo Ân Từ :
- BÁO đắc
Thánh danh hương hỏa thiên thu phụng tự,
- ÂN di thế
đại uy linh vạn cổ lưu tồn.
Nghĩa là :
- Báo đáp được
các bậc Thánh, ngàn năm thờ phượng cúng tế,
- Lưu lại cái
công ơn to lớn cho đời, cái oai linh được mãi mãi lưu truyền tồn tại.
- BÁO đáp chí
công tiền bối khai cơ Thiên đạo lưu truyền thiên vạn đại,
- ÂN từ đại
đức hậu nhơn thừa kế tôn sùng Chánh giáo thất ức niên.
- Đền đáp công
nghiệp lớn lao của các bậc tiền bối đã mở ra nền tảng Đạo Cao Đài để truyền lại
muôn đời về sau,
- Đền thờ
những vị có ơn đức lớn, người sau thừa kế nền Đạo Chơn chánh, tôn sùng đến 700
000 năm.
II . Lịch sử kiến trúc Báo Ân
Từ
Vào năm 1932, Đức Phạm Hộ Pháp bảo các vị công quả Phạm Môn đi tháo dở 3
căn nhà gỗ của 3 Sở Phạm Môn : Sở Dưỡng Lão, Sở Nữ
Công Nghệ, và Sở Trường Hòa, vì 3 căn nhà nầy đều có
cùng kiểu vở và kích thước, đem chở tất cả vào Nội Ô Toà Thánh để ráp lại
thành một ngôi nhà lớn bên cạnh Hộ Pháp Đường, dùng làm Báo Ân Tư.
Lúc đó, Báo Ân
Từ có cột làm bằng gỗ, vách đắp bằng đất, và mái lợp ngói.
Qua năm sau,
1933, Hội Thánh khởi công xây dựng Tòa Thánh (Đền Thánh) thiệt thọ bằng vật
liệu nặng với bê-tông cốt sắt, nên phải tháo dở Đền Thánh cũ làm bằng cây ván
lúc trước, và đem dời Quả Càn Khôn đến tạm đặt thờ nơi Báo Ân Từ.
Vì không tính
trước, nên khi Quả Càn Khôn đưa vào cửa Báo Ân Từ thì không lọt, bề ngang cửa
nhỏ hơn một chút, túng thề đành phải ép Quả Càn Khôn móp vô một chút đặng cho
lọt qua khung cửa.
Đứng trước
cảnh nầy, Đức Phạm Hộ Pháp khóc và nói rằng: " Rồi đây Phước Thiện sẽ khổ lắm."
Việc xây cất
Tòa Thánh trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, kéo dài ngót 14 năm, mãi đến Tết
năm Đinh Hợi (1947), Tòa Thánh mới được xây cất và trang trí xong.
Ngày mùng 6
tháng Giêng năm Đinh Hợi (dl 27-1-1947), Đức Phạm Hộ Pháp làm lễ di chuyển Quả
Càn Khôn từ Báo Ân Từ trở về an vị nơi Bát Quái Đài của Tòa Thánh mới để thờ.
Lúc bấy giờ,
Đức Phạm Hộ Pháp cho dọn dẹp và sửa soạn trở lại Báo Ân Từ để dùng tạm làm Đền
Thờ Đức Phật Mẫu, bởi vì từ ngày Khai Đạo đến giờ, nơi Nội Ô Tòa Thánh chưa có
Đền Thờ Đức Phật Mẫu.
Đức Hộ Pháp
dạy Hội Thánh Phước Thiện tổ chức buổi lễ thỉnh Long vị Phật Mẫu nơi Đền Thờ
Phật Mẫu tại Trường Qui Thiện đem về thờ nơi Báo Ân Từ và dạy Lễ vụ Phước Thiện
tạo thêm 2 Long vị chữ Nho để thờ 2 gian bên là : Chư Chơn Linh Nam phái và Chư
Chơn Linh Nữ phái.
Đây là một
vinh dự cho các vị công quả nơi Trường Qui Thiện mà Ông Đinh công Trứ đứng đầu.
Nguyên Ông
Đinh công Trứ là Chủ trưởng của Minh Thiện Đàn do Đức Lý Giáo Tông lập năm 1928
tại làng Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho; đến năm 1929, Đức Lý Giáo Tông bàn giao Minh Thiện
Đàn cho Đức Hộ Pháp cai quản. Nơi đây có lập một Thánh Thất gọi là Thánh Thất
Khổ Hiền Trang và một Sở Thảo Đường, do lời dạy của Đức Phật Mẫu giáng cơ năm
1928 với bài thi Thảo Đường, chép ra như sau:
Thảo Đường phước địa ngộ tòng hoa,
Lục ức dư niên võ trụ hòa.
Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp,
Thế đăng Bồng đảo định âu ca.
Thích nghĩa :
- Ngôi nhà
tranh nơi đất phước gặp một mối Đạo mới mở ra,
- Hơn sáu trăm
ngàn năm, vũ trụ được hòa bình.
- Nhơn loại
nơi cõi trần cùng nhau hưởng được cảnh an cư lạc nghiệp,
- Cõi trần
tiến lên thành cõi Tiên, mọi người đều có đời sống thạnh vượng vui vẻ.
Do đó Đức Phạm
Hộ Pháp có dạy Ông Đinh công Trứ lập bàn thờ Đức Phật Mẫu nơi Sở Thảo Đường. Sự
thờ phượng Đức Phật Mẫu nơi đây còn rất đơn sơ.
Thời gian kể
từ năm 1941, giặc giã bắt đầu nổi lên và cuờng độ chiến tranh càng lúc càng
lớn. Nơi làng Phú Mỹ không còn được an ninh như trước, nên từ năm 1943 đến năm
1945, Ông Đinh công Trứ cùng với các bạn đạo trong Minh Thiện Đàn, rời bỏ Phú
Mỹ, tản cư về Tây Ninh, lập ra Trường Qui Thiện để làm cơ sở tiếp tục tu hành.
Tại Trường Qui
Thiện, Ông Đinh công Trứ tạo lập một Đền Thờ Đức Phật Mẫu khang trang hơn nhiều
so với lúc còn ở Phú Mỹ, gọi là Đền Thờ Phẫt Mẫu Qui Thiện.
Long vị của
Đức Phật Mẫu thờ nơi Báo Ân Từ có đề ở giữa 4 chữ Nho lớn theo đường thẳng đứng
là : DIÊU TRÌ KIM MẪU.
Phần tô điểm
trang trí sơn phết thì Đức Phạm Hộ Pháp giao cho Ban Kiến Trúc. Tá lý Sở Đắp Vẽ
Lâm thành Kía và Nguyễn thế Trạch lãnh đắp chơn dung Đức Cao Thượng Phẩm đứng
trên mặt dựng trong Báo Ân Từ, tay cầm Long Tu Phiến đưa lên, mặc áo rộng
trắng.
Đức Phạm Hộ
Pháp dạy Lễ Viện Phước Thiện sửa soạn đúng 6 giờ chiều ngày mùng 9 tháng Giêng
năm Đinh Hợi (dl 30-1-1947), thiết Lễ an vị Đức Phật Mẫu.
Từ từ, toàn
thể Chức sắc và Đạo hữu tề tựu tại Báo Ân Từ, các Chức sắc đều mặc Đại phục
theo sắc phái, khi thấy Đức Hộ Pháp mặc áo dài trắng thường phục, cả thảy đều
trở về thay đổi, mặc áo dài trắng tay chẹt hết.
Đức Hộ Pháp
nói: " Nơi triều Thiên ở Đền Thánh chầu Lễ Đức Chí Tôn là đẳng cấp nên
phải có áo mão, còn về nơi đây là cửa Phật của Đức Phật Mẫu, chỉ với tình MẸ -
CON mà thôi, nên không mặc Thiên phục với áo mão." Đức Ngài sắp đặt Chức
sắc Nữ phái quì ban giữa, kế tiếp đến Nữ Đạo hữu quì chót. Ban bên hữu toàn là
Nữ phái quì cúng; Ban bên tả thì thuộc Nam phái, Chức sắc Nam phái quì trước,
nối theo là các Nam Đạo hữu.
Ngoại Nghi
được gọi là Bàn Hội Đồng, cũng hương hoa trà tửu quả, để mời chư Chức sắc Đại
Thiên Phong Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài quá vãng như Đức Cao Thượng Phẩm,
Đức Quyền Giáo Tông, vv...đến dự lễ cúng Phật Mẫu.
Phía sau Ngoại
Nghi, dành cho Đức Hộ Pháp cùng chư vị Thời Quân và Chức sắc Hiệp Thiên Đài quì
cúng Đức Phật Mẫu.
Sau khi cúng
Đức Phật Mẫu xong, lễ thành, Đức Ngài gọi Lễ Viện Phước Thiện và các Giáo Nhi,
Đồng Nhi, đến đứng chung quanh Bàn Hội Đồng (Ngoại Nghi).
Đức Ngài dạy :
" Khi cúng rồi phải day ra xá một xá, cũng như
ở Đền Thánh vậy. Nên hiểu, không phải xá Hộ Pháp, mà là xá để kỉnh chào Khí
Sanh Quang, tức là nguồn cội của Pháp biến sanh vạn vật : trước là Phật Pháp
Tăng gọi là Tam Qui, trong Pháp ấy xuất hiện Phật Mẫu, kế tiếp vạn linh, vạn
vật, vv ... Bởi cái Bí Pháp
Diêu Trì Cung có liên quan mật thiết cùng Hiệp Thiên Đài (một căn cội Pháp) vận
hành nguơn khí. Nơi nào có Hiệp Thiên Đài thì có Tam Qui thường bộ Pháp giới.
Mặc dầu nơi đây không có thờ chữ KHÍ mà buộc mình phải xá ra, đó là lòng tin
tưởng biết ơn và chào mạng sanh của chúng ta đó vậy.
Mấy em lễ sĩ nhớ, khi cúng Đức Phật Mẫu, phải xướng
câu: " NAM NỮ NHẬP ĐÀN." Nơi nầy về MẸ, ai cũng là con, không ai dám
xưng Chức sắc, dầu Hộ Pháp cũng là con.
Lễ sĩ mặc áo vàng phái Thái, được phép đi giày mang
vớ trắng. Theo lẽ có Lễ sĩ Nữ dâng Tam Bửu, mà thấy coi bộ bề bộn, phải mấy đứa
thủ trinh, còn nhỏ, bắt nó tập lễ đi coi gọn hơn.
Mấy em Giáo Nhi, khi cúng đàn nơi Đền Thờ Phật Mẫu,
đọc bài Kinh Tạo Hóa Thiên huyền vi Thiên Hậu, rồi kế Điện Hoa. Khi cúng Tứ
Thời mới tụng bài Kinh Tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu, tụng đến câu: Cùng chung
giáo hóa chung cùng lo âu, thì sửa lại là: Cùng chung giáo hóa ân cần lo âu; để
rồi Bần đạo cho lịnh Tiếp Lễ Nhạc Quân sửa lại những chữ trùng tự trong Kinh.
Bài Dâng Hoa đến chữ: Cúi mong Thượng Đế ...thì sửa
lại là: Cúi mong Phật Mẫu rưới ân Thiên.
Kỳ Lễ cúng Phật Mẫu nầy, theo lẽ cúng giờ Ngọ,
nhưng Bần đạo định cúng thời Dậu là cốt yếu thuộc Âm, lại là ngày Vía Đức Chí
Tôn. Buổi đầu, Bần đạo biết thế nào cũng bở ngở và sơ sót, nên cúng để chỉ dạy.
Đến kỳ Sóc Vọng tới đây, phải chấn chỉnh cho trang hoàng.
Từ đây, Lễ Viện Phước Thiện, Hành Chánh, phải tuân
y lịnh dạy, đừng sửa đổi. Vào những ngày Sóc Vọng cùng các ngày Lễ, Vía, phải
thiết lễ cúng Đức Chí Tôn vào thời Tý, còn cúng Đức Phật Mẫu vào thời Ngọ.
Từ đây về sau, nơi nào muốn lập Đền Thờ Phật Mẫu
thì phải lập Thánh Thất trước, rồi mới lập Đền Thờ Phật Mẫu sau. Phải coi cách
thức hành lễ nơi Đền Thánh và nơi Báo Ân Từ đây mà bắt chước làm y theo một
khuôn mẫu, chẳng nên canh cải trái Pháp mà sanh biến, loạn hàng thất thứ."
(Viết theo bài
Tường thuật của Ông Truyền Trạng Phạm ngọc Trấn).
Ngày 2-2-Đinh
Hợi (dl 22-2-1947), Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng cơ tại Báo Ân Từ, bày tỏ sự cảm
động vì con cái của Phật Mẫu đã lập Đền Thờ Phật Mẫu trang trọng để thờ phụng
Người. (Xin xem bài Thánh ngôn số 11 ở phần Thánh Ngôn Sưu Tập phía sau).
"Đức Phạm Hộ Pháp có dành một khu đất rộng 4
mẫu phía trước cửa Hòa Viện để chánh thức kiến tạo Đền Thờ Phật Mẫu (Trung
Ương).
Nhưng lòng từ bi của Phật Mẫu thấy con cái còn đang
chịu loạn lạc khổ sở, trong cửa Đạo lại có sự chia phân, nên Đức Phật Mẫu dạy
tạm thờ Phật Mẫu nơi Báo Ân Từ, là nhà thờ công nghiệp của con cái Phật Mẫu,
đặng thấy lòng thương yêu cưng con đáo để của Phật Mẫu dường nào, cho đến khi
cổi xác phàm, còn đem vô tế lễ cũng là trình diện trước mắt Bà MẸ Thiêng
liêng." (Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp).
Khu đất rộng 4
mẫu mà Đức Phạm Hộ Pháp dành để cất Điện Thờ Phật Mẫu Trung Ương, nằm ở ngoại ô
Tòa Thánh, trên đường Bình Dương, cách cửa Hòa Viện (cửa số 1) chừng 1000 thước
về hướng Núi Bà, bên tay mặt, tại xóm Tà Mun hiện nay.
Vào cuối năm
Tân Mão (1951), nhận thấy Báo Ân Từ bằng cây ván, cất trước đây 20 năm, nay đã
hư mục hầu hết, mái ngói quá cũ bị dột nhiều chỗ khi trời mưa, nên Bà Phối Sư
Hương Nhiều, Chưởng quản Phước Thiện Nữ phái, có dâng tờ lên Đức Hộ Pháp và Hội
Thánh xin cho Nữ phái Phước Thiện được lãnh cất lại Báo Ân Từ bằng vật liệu
nặng cho chắc chắn.
Đức Hộ Pháp
chấp thuận, nhưng kiểu mẫu phải do Ngài chỉ định và Ban Kiến Trúc đứng ra xây
dựng.
Đức Ngài kêu
Tá Lý Đinh văn Cung (Ban Kiến Trúc) chỉ dẫn từng chi tiết để chỉ huy công quả
thợ hồ làm việc.
Phần làm móng,
đúc cột và đà ngang, hoàn toàn bằng bê-tông cốt sắt, cả mái lợp bên trên cũng
đúc bê-tông luôn, vách xây hai mươi bằng gạch rất chắc chắn.
Phần trang trí
và đắp vẽ, Đức Phạm Hộ Pháp giao cho Tá Lý Hà văn Chỉnh của Ban Kiến Trúc,
hướng dẫn công thợ đắp vẽ và sơn phết.
Đức Ngài dạy
đắp một khuôn bao thật lớn ở ngay giữa tấm vách ngăn (mà phía sau làm Hậu điện),
để đắp các pho tượng thờ theo sự tích HỚN RƯỚC DIÊU TRÌ, tức là vua Hớn Võ Đế
rước Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên Nương và 4 Tiên đồng Nữ nhạc, cỡi chim Thanh
loan đi xuống phàm trần để chứng lễ Khánh thọ của vua Hớn Võ Đế.
- 1 . Trên hết đắp
chơn dung Đức Phật Mẫu cỡi chim Thanh loan. (Thanh loan là con chim loan màu
xanh, cùng một loại với chim phụng, con chim trống gọi là phụng, con mái gọi là
loan. Thanh loan được dùng làm con chim lịnh của Đức Phật Mẫu và để Đức Phật
Mẫu cỡi đi du hành đến các cõi trần.).
- 2 . Kế đó đắp 9
pho tượng của Cửu vị Tiên Nương.
- 3 . Tiếp theo
đắp 4 pho tượng của 4 vị Tiên đồng Nữ nhạc theo hầu Đức Phật Mẫu.
- 4 . Đắp pho
tượng của Ông Tiên Đông Phương Sóc đứng, 2 tay nâng một cái dĩa rước 4 quả đào
Tiên do Đức Phật Mẫu đem xuống tặng mừng vua Hớn Võ Đế . Tượng của Ông Đông
Phương Sóc phải đặt bên phía tay mặt của Đức Phật Mẫu mới đúng.
- 5 . Bên phía tả
của Đức Phật Mẫu đắp lên một ngôi chùa cổ thật đẹp gọi là Hoa Điện, rồi đắp Pho
tượng Đức Thượng Phẩm Cao quỳnh Cư (thường gọi là Cao Thượng Phẩm) quì trước
sân Hoa Điện.
Anh em công
quả Sở Đắp Vẽ bạch: Bạch Thầy, làm sao biết được hình dung của Đức Phật Mẫu và
Cửu vị Tiên Nương cùng các Đấng mà đắp.
Đức Hộ Pháp
dạy: Tượng của Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương đắp theo hình chưng cộ lần đầu
tiên năm Đinh Hợi (1947). Thầy có chỉ cho Chí Thiện Trạch với Trần phong Lưu
làm và Tá Lý Lâm thành Kía cất giữ, coi theo đó làm mẫu. Khi trước có mượn bức
ảnh của Bà Nữ Phối Sư Hương Hiếu về sự tích về đời nhà Hớn bên Tàu. Biểu mấy
đứa nó rọi lại bức ảnh và chép lại sự tích ấy.
Trong lúc anh
em công thợ làm việc, Đức Hộ Pháp thường đến xem sóc, chỉ dạy việc nầy việc nọ,
khơi nhắc nhiều chuyện vui vẻ làm phấn khởi tinh thần của các anh em công thợ.
Nơi khuôn bao
hình chữ nhựt ở tấm vách ngoài, ngó ngay vào Chánh điện, Đức Hộ Pháp định cho
đắp tượng Đức Cao Thượng Phẩm quì nghinh tiếp Đức Phật Mẫu, nhưng sau đó Đức
Ngài đổi ý, dạy chừa trống.
Đức Ngài nói:
- Chờ ngày nào tạo được Đền Thờ Phật Mẫu Trung Ương chánh thức thì nơi đó sẽ
đắp hình NAM BÌNH VƯƠNG PHẬT, cũng như nơi Đền Thánh có Hộ Pháp ngự trên ngai
trông vào Bát Quái Đài. Còn ở đây là Báo Ân Từ dùng tạm làm Đền Thờ Phật Mẫu ,
nên chỗ nầy không đắp, để trống.
Anh em thợ hồ bạch :
- Xin Thầy cho biết hình Nam Bình Vương Phật để sau nầy mấy con đắp.
Đức Hộ Pháp
nói :
- Chừng nào
tạo Đền Thờ Phật Mẫu chánh thức thì Thầy sẽ cho biết, không gì lạ. Đền Thánh
tượng trưng Bạch Ngọc Kinh tại thế có hình Hộ Pháp mặc Thiên phục khôi giáp,
thì nơi Đền Thờ Phật Mẫu tượng trưng Lôi Âm Tự, lẽ dĩ nhiên có hình Ngài, nhưng
không mặc Thiên phục, chỉ mặc áo cà sa nhà Phật mà thôi.
Theo tài liệu
của Ban Kiến Trúc, Báo Ân Từ được :
+ Khởi công
xây dựng ngày 16-1-Nhâm Thìn (dl 11-2-1952).
+ Đức Hộ Pháp
trấn Thần và An vị cúng Đức Phật Mẫu ngày 4-8-Quí Tỵ (dl 11-9-1953).
+ Khánh thành
ngày 9-1-Ất Mùi, nhân dịp Đại Lễ Khánh Thành Tòa Thánh Tây Ninh từ ngày mùng 6
đến ngày 16-1-Ất Mùi.
III . Sự tích Hớn rước Diêu Trì
Lòng mộ Đạo và sự tín ngưỡng nơi Trời Phật đã trải qua
các triều đại Đế Vương, dĩ chí đến đời nhà Hớn (Hán), duy chỉ có vua Hớn Võ Đế
là thật lòng thành kính và tin tưởng có Đấng Phật Mẫu hơn ai hết.
Từ ngàn xưa,
nhơn loại đã tin tưởng và thờ phượng Đấng Phật Mẫu , cũng gọi là Diêu Trì Kim
Mẫu hay Bà Thiên Hậu, tin chắc rằng Đấng Vô Hình ấy tạo hóa ra nhơn loại và vạn
vật, nhưng chưa ai được may mắn nhìn thấy Đức Phật Mẫu.
Vua Hớn Võ Đế
hay Hán Vũ Đế (141-87 trước Tây lịch) là vị vua thứ 5 của nhà Hớn (Hán) bên
Tàu, có hùng tài đại lược, nhưng cũng rất tín ngưỡng Trời Phật.
Khi Hớn Võ Đế
mới lên ngôi, Ngài có phát nguyện lập một cảnh chùa thật tráng lệ gọi là HOA
ĐIỆN để sùng bái Trời Phật. Gọi là Hoa Điện, vì chùa nầy được chạm khắc hình
các thứ hoa trên các vật liệu xây dựng, nên mới trông vào thấy như là một Cung
Điện toàn bằng hoa.
Ngôi chùa lớn
lao cực kỳ xinh đẹp như thế, nhưng nhà vua chưa quyết định thờ Đấng nào, chỉ để
trống, chủ tâm là chờ đợi đến chừng nào nhà vua thấy được sự huyền diệu hiện
tượng ra thì nhà vua mới sùng bái.
Đến năm Hớn Võ
Đế được 61 tuổi, nhà vua định tổ chức một Lễ Khánh Thọ Đáo tuế long trọng, và
Ngài có sở vọng là cầu khẩn thế nào cho có Đức Phật Mẫu giáng xuống chứng lễ,
nên nhà vua lập bàn hương án trước sân chùa cầu khẩn ngày đêm, mà không biết
Đức Phật Mẫu ngự ở nơi nào và có thấu biết chăng.
Lúc bấy giờ có
Ông Đông Phương Sóc, tu đắc đạo thành Tiên, mà trước kia Ông có làm quan trong
triều đình của vua Hớn Võ Đế, sau về núi tu luyện , đang ngồi tịnh, chợt động
tâm, liền đoán biết hiểu rõ mọi việc của Hớn Võ Đế nơi triều đình. Ông liền
xuống núi, đi đến Kinh đô, vào triều đình yết kiến Hớn Võ Đế.
Vua Hớn Võ Đế
gặp được Đông Phương Sóc thì rất mừng rỡ, thuật hết mọi việc cho Đông Phương
Sóc nghe và nói rõ ước vọng của nhà vua nhân cuộc Lễ Khánh thọ Đáo tuế là sở
cầu Đức Phật Mẫu đến chứng lễ, mà không biết Đức Phật Mẫu ở nơi nào, và nhờ ai
đi thỉnh, may mắn có Đông Phương Sóc tới, vậy nhờ khanh giúp trẫm đi thỉnh Đức
Phật Mẫu được chăng ?
Ông Đông
Phương Sóc tâu rằng :
- Bệ Hạ đã
định thì Hạ thần xin phục mạng, dầu khổ nhọc thế nào, Hạ thần cũng sẽ đến Diêu
Trì Cung thỉnh Đức Phật Mẫu, nhưng kết quả được cùng chăng là do lòng thành cầu
nguyện của Bệ Hạ. Vậy xin Bệ Hạ ban chiếu cho Thần đi thỉnh.
Đoạn Đông
Phương Sóc lãnh chiếu chỉ ra đi.
Ông dùng huyền
diệu Tiên gia có khác, chỉ trong chốc lát, Đông Phương Sóc đã đến được Diêu Trì
Cung nơi cõi Tạo Hóa Thiên.
Đông Phương
Sóc xin vào yết kiến Đức Phật Mẫu và tâu bày hết các việc của vua Hớn Võ Đế
khẩn cầu.
Đức Phật Mẫu
cảm động và phán :
- Phật Mẫu sẽ
giáng phàm vào đêm Trung Thu chứng lễ Khánh thọ của Hớn Võ Đế theo sự khẩn cầu,
sẽ đem theo 4 Tiên đồng Nữ nhạc đờn ngâm bài chúc thọ, và tặng 4 quả Đào Tiên .
Khi Phật Mẫu đến có Thanh loan báo tin trước.
Đông Phương
Sóc rất vui mừng, bái tạ Đức Phật Mẫu, rồi cấp tốc trở lại trần gian, vào triều
tâu bày các việc cho vua Hớn Võ Đế biết.
Nhà vua rất
vui mừng và hỏi :
- Thanh loan
là gì ?
Đông Phương
Sóc đáp :
- Thanh loan
là con chim loan màu xanh, đó là con chim lịnh của Đức Phật Mẫu, dùng để chở
Đức Phật Mẫu du hành khắp nơi.
Xin Bệ Hạ
chỉnh trang cho long trọng, tinh khiết và thanh tịnh để nghinh tiếp Đức Phật
Mẫu, phải lập bàn hương án bên trong và bên ngoài, xông hương khử trược và cho
thật tinh khiết và trang nghiêm.
Đêm rằm Trung
Thu năm đó, trăng sáng vằng vặc, đầu giờ Tý, Hớn Võ Đế quì trước Hoa Điện,
thành tâm cầu khẩn.
Xảy thấy một
con chim Thanh loan đáp xuống sân Hoa Điện. Liền khi đó, Đức Phật Mẫu cùng Cửu
vị Tiên Nương và 4 Tiên đồng Nữ nhạc giáng lâm trước Hoa Điện.
Hớn Võ Đế cung
nghinh Đức Phật Mẫu vào ngự nơi Chánh điện của Hoa Điện.
Đức Phật Mẫu
dạy 4 Tiên đồng Nữ nhạc trao tặng cho Hớn Võ Đế 4 quả Đào Tiên và ca ngâm bài
chúc thọ. Ông Tiên Đông Phương Sóc quì, hai tay nâng cái dĩa lên để rước lộc
(rước 4 quả Đào Tiên).
Bốn vị Tiên
đồng Nữ nhạc ấy có tên là :
- Hứa Phi Yến,
- An Phát Trinh,
- Đổng Song Thành,
- Vương Tử Phá.
Sau khi chứng
lễ Đáo tuế của Vua Hớn Võ Đế xong, Đức Phật Mẫu cùng Cửu vị Tiên Nương và 4
Tiên đồng Nữ nhạc cỡi chim Thanh loan trở về Diêu Trì Cung nơi cõi Thiêng
liêng.
Vua Hớn Võ Đế
ghi nhớ hình ảnh của Đức Phật Mẫu và Chín vị Nữ Tiên, cho thợ khéo, tạc hình Đức
Phật Mẫu và Chín vị Nữ Tiên nơi Hoa Điện để ghi nhớ sự tích và phụng thờ Đức
Phật Mẫu.
Sự tích nầy
được truyền tụng đến ngày nay.
Do đó, nơi thờ
Đức Phật Mẫu được gọi là ĐIỆN chớ không gọi là ĐỀN.
Do theo sự
tích nầy, Đức Phạm Hộ Pháp dạy đắp tượng thờ Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương
nơi Báo Ân Từ như đã trình bày trong phần II ở trên.
Nhưng ở đây
không có tạo hình vua Hớn Võ Đế mà lại tạo hình Đức Cao Thượng Phẩm quì cung
nghinh Đức Phật Mẫu. Tại sao ?
Đức Hộ Pháp có
giải thích rằng :
- Đáng lẽ tạo
hình Hớn Võ Đế, nhưng vì đời Hớn đến nay quá xa, lại nữa nguyên căn của Hớn Võ
Đế là chơn linh của Hớn Chung Ly trong Bát Tiên đầu kiếp. Nay là thời Hạ nguơn
Tam Chuyển, bước qua Thượng nguơn Tứ Chuyển, Bát Tiên lãnh lịnh giáng phàm làm
tướng soái cho Đức Chí Tôn khai Đạo. Đức Cao Thương Phẩm chính là Chơn linh Hớn
Chung Ly giáng phàm kỳ nầy, nên tạo hình Cao Thượng Phẩm thay vào chỗ Hớn Võ Đế
thì thuận hơn.
IV . Mô tả và Kích thước Báo Ân Từ
A. Phần bên
ngoài
* Đứng trên
đường Phạm Hộ Pháp nhìn thẳng vào mặt tiền Báo Ân Từ, chúng ta thấy có một từng
trệt, một từng lầu, bên trên có 2 lớp mái ngói âm dương màu đỏ chói vớùi mái
cong cong như các chùa ở Á Đông; chính giữa nhô lên cao một cái tháp cao hình
vuông có 4 từng với 3 lớp mái ngói cong đỏ vây quanh, trên nóc tháp là một hoa
sen lớn, có cây thu lôi cao vút ở chính giữa. Tháp vuông 4 từng nầy dùng làm
Tháp chuông của Báo Ân Từ.
Trên cây thu
lôi, có gắn một hình chữ VAÏN làm bằng đèn ống, đặt trong một vòng tròn lớn
cũng làm bằng đèn ống. Ban đêm, bật điện cho cháy các đèn nầy, chúng ta thấy
chữ VAÏN và vòng tròn bao quanh hiện sáng trên bầu trời đêm rất đẹp.
Nơi từng lầu,
ngay chính giữa phần lan can phía trước, dựng cố định một cây dài hơi xiên ra
trước, dùng làm cái cán treo cây cờ 3 màu vàng xanh đỏ của Đạo Cao Đài.
Nơi từng trệt,
chia làm 3 gian, có 3 cửa lớn đi vào bên trong. Hai bên bìa có 2 cầu thang hình
xoắn ốc đi lên lầu.
Mặt tiền Báo
Ân Từ, bề ngang đo được 18 thước, bề cao từ mặt đất lên tới hoa sen trên nóc
Lầu chuông đo được 18 thước. Như thế, bề ngang và bề cao của Mặt tiền Báo Ân Từ
đo bằng nhau và bằng 18 thước.
* Đi qua phía
bên hông, nhìn vào bề dài của Báo Ân Từ, chúng ta thấy bên trên có 3 lớp mái
ngói âm dương màu đỏ chói và ở trên nóc có đắp hình một con chim loan rất lớn
màu xanh rất đẹp trong tư thế xòe cánh đáp xuống, gọi là chim Thanh loan.
Đây là con
chim lịnh của Đức Phật Mẫu dùng để chở Đức Phật Mẫu du hành khắp nơi trong Càn
khôn Vũ trụ.
Chỉ có phần
mặt tiền của Báo Ân Từ là cất lầu, còn phần sau thì không lầu.
Theo bề dài
của Báo Ân Từ, chúng ta đếm được tất cả 14 lồng căn, mỗi lồng căn rộng 4 thước,
chia ra :
* 4 lồng căn
phía sau cùng, có vách ngăn riêng ra, dùng làm Hậu Điện, trong đó thờ Cửu Huyền
Thất Tổ chung, tượng trưng bằng 3 chữ nho PHƯỚC LỘC THỌ.
* 8 căn kế
tiếp dùng làm nơi thờ phượng và bái lễ Đức Phật Mẫu. 8 căn nầy tượng trưng Bát
Cảnh Cung của Đức Phật Mẫu nơi cõi thiêng liêng.
* Căn thứ 9
dành cho Ban Nhạc và Đồng nhi đứng tụng kinh khi cúng Đức Phật Mẫu vào Tứ thời
mỗi ngày.
* Kế đó là một
vách ngăn, chỉ ngăn phần gian giữa, trên đó có một khung lớn sơn màu trắng,
tượng trưng Khí Sanh Quang.
* Phần bên
ngoài tấm vách ngăm nầy là căn thứ 10 , nơi chính giữa có treo một cái ngôi sao
lớn nhiều màu sắc, hai bên ngôi sao, trên 2 cây cột là đôi liễn chữ Nho mà 2
chữ khởi đầu là:
BÁT QUÁI,
phiên âm ra như sau :
- BÁT phẩm
chơn hồn tạo thế giới hóa chúng sanh vạn vật hữu hình tùng thử Đạo,
- QUÁI hào bác
ái định Càn khôn phân đẳng pháp nhứt thần phi tướng trị kỳ Tâm.
Nghĩa là :
- Tám phẩm
chơn hồn tạo nên thế giới, và hóa thành chúng sanh, vạn vật hữu hình đều tùng
theo cái Đạo ấy.
- Trong sự tạo
hóa Càn khôn Vũ trụ, Đấng Thượng Đế dùng luật Thương yêu , sắp đặt mọi vật của
Càn khôn Vũ trụ, phân chia ra nhiều thứ bực cao thấp khác nhau, chỉ duy có một Chơn
linh vô hình làm chủ cái Tâm.
Phần đầu của
câu liễn số 1 có ý nghĩa giống câu kinh: "Bát
hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh." trong Phật Mẫu Chơn Kinh, nghĩa
là : Đức Phật Mẫu vận chuyển 8 phẩm chơn hồn đầu kiếp hóa thành chúng sanh nơi
cõi trần.
* Chung quanh
Báo Ân Từ đều có hành lang rộng bao bọc, phía trước, phía sau và 2 bên. Bề rộng
của hành lang đo được 2 thước.
Hai mặt, bên
ngoài và bên trong, của hành lang giáp vòng xung quanh Báo Ân Từ đều có vẽ
những bức tranh, màu sắc rất đẹp, ghi lại các điển tích xưa về Hiếu, Trung,
Nhơn, Nghĩa, có mục đích dạy dỗ con người về phần Nhơn đạo theo Nho giáo.
Nơi mặt tiền
Báo Ân Từ, bên ngoài và phía trên, có đắp hình nổi và tô màu 24 bức tranh Nhị
thập tứ Hiếu, xem từ bên Nam phái sang Nữ phái, theo thứ tự kể ra như sau :
1 . Ngu Thuấn
2 . Hán văn Đế
3 . Châu Thọ
Xương
4 . Vương Tường
5 . Ngô Mãnh
6 . Hoàng Hương
7 . Đường thị
8 . Khương Thi
9 . Đinh Lan
10 . Lục Tích
11 . Vương Thôi
12 . Mạnh Tông
13 . Quách Cự
14 . Dương Hương
15 . Thái Thuận
16 . Mẫn Tử Khiên
17 . Tử Lộ
18 . Lão Lai Tử
19 . Diễm Tử
20 . Đổng Vĩnh
21 . Giang Cách
22 . Sứu Kiềm Lâu
23 . Hoàng Đình
Kiên
24 . Tăng Tử.
Hai bên hông
Báo Ân Từ, chúng ta đứng bên ngoài nhìn lên phía trên hành lang, gần mái ngói,
là các bức tranh vẽ màu sắc rất linh động, đếm các bức tranh từ bên Nam phái,
vòng ra phía sau, rồi tiếp qua bên Nữ phái, tất cả được 29 bức, mỗi bức có đề
tên, kể ra như sau :
1 . Lôi Chấn Tử
cứu cha thoát nạn.
2 . Hữu Phước -
Lệ Dung.
3 . Bá Lý Hề.
4 . Bạch khỉ đến
sơn khê.
5 . Vợ Châu
Công.
6 . Vua Sở đi
cầu Đổng Vân trên núi Hoài sơn.
7 . Hứa Hành
chạy loạn tới vườn lê,
8 . Từ Thức
viếng chùa xem hoa.
9 . Người báu
hay của báu.
10 . Lương Hồng -
Mạnh Quang tề mi vẹn đạo.
11 . Vua Hiên
Viên tu đắc đạo.
12 . Người sống
hơn đống vàng,
13 . Đông Lao -
Tây Bích.
14 . Ngài Trầm
Quan lớn đi chơi.
15 . Phật gieo mạ
- Ba-ra-hoa-đa (Bharavadja).
16 . Tôn điệt phế
nhi.
17 . Hoàng tử
Việc-Văn-Tôn cùng thê tử kỵ lạc đà qua sa mạc.
18 . Chúa Jésus
Christ bị đóng đinh trên Thập tự giá chịu tội cho loài người.
19 . Dương Giác
Ai tử hữu - Tả Bá Đào.
20 . Lê Lễ trở về
rước gia đình.
21 . Phật dạy Ra-hầu-la.
22 . Oán trả oán, oán kia không
dứt, Lấy nghĩa đáp đền, oán nọ mới tiêu.
23 . Phật thuyết pháp tại chùa Linh
Sơn.
24 . Đậu Yên Sơn
hữu nhân nghĩa.
25 . Ngọc Mỹ Nhơn
thử quẻ Khương Thượng.
26 . Tống Hoằng
chí trượng phu không đổi.
27 . Bao Công
chẩn bần xứ Trần Châu, Hồn Y thị đội trạng đầu cáo.
28 . Công Dã
Tràng.
29 . Chiêu Quân
cống Hồ.
Bây giờ chúng
ta bước vào đứng trong hành lang bên Nam phái và quan sát lần lượt từ phía
trước ra tới sau rồi vòng qua phía Nữ phái.
Chúng ta đứng
day mặt ra bên ngoài, ngước mặt nhìn lên phía trên, phần trước, chúng ta thấy 9
bức họa lớn, vẽ những sự tích trong Truyện Tây Du Ký, xem từ bên Nam phái qua
bên Nữ phái, kể ra như sau :
1 . Hoa Quả Sơn
trứng đá nở Hầu Vương.
2 . Hầu Vương
xưng Tề Thiên Đại Thánh.
3 . Tiểu long
hóa Bạch mã.
4 . Yêu tinh Hắc Phong cướp cà
sa.
5 . Tam Tạng cứu
Tề Thiên thoát khỏi núi Ngũ Hành và thâu làm đồ đệ.
Tam Tạng thâu
Trư Bát Giới.
7 . Tam Tạng
thâu Sa Tăng.
8 . Hồng Hài Nhi
đốt Tề Thiên.
9 . Kim Ngư Tinh
bắt Tam Tạng.
Chúng ta trở
qua hành lang bên Nam phái, đứng bên trong hành lang và hướng ra phía ngoài,
nhìn lên phía trên, chúng ta cũng thấy những bức họa liên tiếp từ trước ra sau
Hậu Điện, rồi tiếp tục vòng qua Nữ phái, ta cũng đếm được 29 bức họa, theo thứ
tự kể ra sau đây :
1 . Tô Võ.
2 . Thần đồng
vấn Khổng Tử.
3 . Tôn Tẫn tầm
sư học Đạo.
4 . Phật Nhiên
Đăng - Công Chúa Diệu Thiện.
5 . Khổng Tử tác
Xuân Thu.
6 . Sĩ-Đạt-Ta vượt thành đi tu.
7 . Tô Huệ chức cẩm hồi văn.
8 . Châu Văn Vương ngồi ngục.
9 . Lão Tử giáng sanh.
10 . Kỉnh Tâm thọ hàm oan.
11 . Từ Giáp.
12 . Thành Bình Định, Võ Tánh thiêu
mình.
13 . Trưng Nữ Vương
khởi nghĩa.
14 . Đào Viên kết
nghĩa.
15 . Đường Minh
Hoàng du Nguyệt điện.
16 . Huyền sử Ông
Thầy không tên.
17 . Trung Úy Võ
Đông Sơ bình hải khấu.
18 . Hạng Võ thất
thủ thành Cai Hạ.
19 . Sài - Triệu
- Trịnh.
20 . Hàn Dũ bị
đày.
21 . Tận trung
báo quốc.
22 . Hàn Tín lòn
trôn.
23 . Bạng Duật
tương trì, Ngư ông đắc lợi.
24 . Tích Mạnh
Mẫu.
25 . Tín nhạn.
26 . Trương Lương
dâng dép 3 lần.
27 . Ngưu Lang -
Chức Nữ.
28 . Thương dương
- Võ.
29 . Mẫu đơn -
Trĩ.
( Các độc giả
muốn biết rõ các Điển tích trên các bức họa vẽ bên ngoài và bên trong hành lang
Báo Ân Từ, xin xem quyển : 91 Điển tích nơi Hành lang Báo Ân Từ. )
B . Phần Chánh Điện thờ Đức Phật
Mẫu
Chúng ta đã
quan sát xong phần bên ngoài Báo Ân Từ. Bây giờ chúng ta bước vào trong Chánh
Điện, quan sát sự thờ phượng Đức Phật Mẫu.
Trên bức vách
ngăn giữa Hậu Điện và Báo Ân Từ, nơi gian giữa có đắp tượng Đức Phật Mẫu, Cửu
vị Tiên Nương và 4 Tiên đồng Nữ nhạc, ngồi trên lưng chim Thanh loan trong tư
thế đáp xuống sân Hoa Điện.
Bên tay mặt
của Đức Phật Mẫu, ở phía dưới, có tượng của ông Tiên Đông Phương Sóc đứng
thẳng, 2 tay nâng một cái dĩa lên khỏi đầu để rước 4 quả Đào Tiên do Đức Phật
Mẫu ban tặng cho Hớn Võ Đế. Phía tay trái của Đức Phật Mẫu , bên dưới, nơi sân
Hoa Điện , có tượng của Đức Cao Thượng Phẩm tay cầm Long Tu Phiến, đang quì
ngước mặt lên cung nghinh Đức Phật Mẫu.
Trên lưng chim
Thanh loan :
- Tượng Đức
Phật Mẫu to lớn, ngồi chính giữa.
- Hai bên tay
mặt và tay trái của Đức Phật Mẫu là Cửu vị Tiên Nương tay cầm bửu pháp, kể ra
như sau :
1) Nhứt Nương,
mặc áo màu xanh, tay ôm đàn Tỳ bà, ngồi dưới thấp bên trái của Đức Phật Mẫu.
2) Nhị Nương,
cũng mặc áo màu xanh, tay cầm Lư hương, ngồi kế Đức Phật Mẫu phía trái.
3) Tam Nương,
cũng mặc áo màu xanh, tay cầm Quạt Long tu, ngồi dưới thấp bên mặt của Đức Phật
Mẫu.
4) Tứ Nương,
mặc áo màu đỏ, tay cầm Kim bảng, ngồi bên mặt Đức Phật Mẫu, kế Tam Nương.
5) Ngũ Nương,
mặc áo màu đỏ, tay cầm cây Như Ý , ngồi bên trái Đức Phật Mẫu, kế Nhị Nương.
6) Lục Nương,
mặc áo màu đỏ, tay cầm Phướn Tiêu Diêu (cũng gọi là Phướn Truy Hồn), ngồi kế
bên mặt của Đức Phật Mẫu.
7) Thất Nương,
mặc áo màu vàng, tay cầm bông sen, ngồi phía trái Đức Phật Mẫu, kế Nhứt Nương.
8) Bát Nương,
mặc áo màu vàng, tay cầm Giỏ Hoa lam, ngồi nơi phía mặt của Đức Phật Mẫu, kế
Tam Nương.
9) Cửu Nương,
mặc áo màu xanh, tay cầm Ống tiêu, ngồi nơi phía mặt Đức Phật Mẫu, kế Lục
Nương.
Phía sau Đức
Phật Mẫu là 4 Tiên đồng Nữ nhạc theo hầu Đức Phật Mẫu có tên như sau :
* Vương Tử
Phá, mặc áo màu xanh, đứng bên phía trái của Đức Phật Mẫu, tay cầm cây Phướn.
* Đổng Song
Thành, mặc áo màu xanh, đứng bên phía mặt của Đức Phật Mẫu, tay cũng cầm một
cây Phướn giống như Vương Tử Phá.
* An Phát
Trinh, mặc áo màu vàng, đứng phía trái Đức Phật Mẫu, kế Vương Tử Phá, tay cầm
cây quạt lông cán dài.
* Hứa Phi Yến,
mặc áo vàng, đứng bên phía mặt của Đức Phật Mẫu, kế Đổng Song Thành, tay cũng
cầm cây quạt lông cán dài.
Phía dưới
tượng của Đức Phật Mẫu và Cửu vị Tiên Nương là Bàn thờ, trên đó có đặt một Long
vị Đức Phật Mẫu, đề chữ Nho lớn thẳng đứng là : DIÊU TRÌ KIM MẪU.
Trên bàn thờ,
cách bày trí Hoa, Quả, Rượu, Trà, Đèn, Nhang giống như bàn thờ Đức Chí Tôn,
nhưng không có Đèn Thái Cực, chỉ có Đèn Vọng, và đặc biệt có 2 Lư hương :
- Một Lư hương
đặt bên trên có cắm 5 cây nhang, dành thờ Đức Phật Mẫu.
- Một Lư hương
đặt bên dưới có cắm 9 cây nhang phân làm 3 hàng, dành thờ Cửu vị Tiên Nương.
Lồng căn có
đặt bàn thờ Đức Phật Mẫu gọi là lồng căn số 1. Lồng căn số 2, mỗi bên đặt 3 cây
Tàn với 3 màu vàng, xanh, đỏ, theo thứ tự từ trong ra ngoài.
Lồng căn số 3,
mỗi bên đặt một Dàn Lỗ bộ gồm 8 món binh khí thời xưa, có 2 cây Lọng đặt ở hai
đầu.
Giữa 2 cây cột
phân chia lồng căn số 2 và số 3, có đặt một Bàn Hương án dùng làm Nội Nghi,
trên đó có : Bình bông, Dĩa trái cây, Lư trầm để đốt lên trong giờ hành lễ, Cặp
chưn đèn và Lư hương cắm 3 cây nhang. Ngoài ra ở 2 bên, trên 2 ghế nhỏ có đặt 1
cái chuông và 1 cái mõ để đồng nhi tụng Di Lạc Chơn Kinh sau khi cúng thời Dậu
xong. Do đó bàn Nội Nghi còn được gọi là Bàn Kinh.
Ngó ra bên ngoài,
chúng ta còn thấy một Bàn Hương án nữa, đặt giữa 2 cây cột phân chia lồng căn
số 6 và số 7, gọi là Bàn Hội Đồng, dùng làm Ngoại Nghi. Trên bàn Ngoại Nghi có
Bình bộng, Dĩa trái cây, Đèn vọng, Ly rượu, Chung trà, Cặp chưn đèn, Lư hương
cắm 3 cây nhang.
Bàn Hội Đồng
dành cho Chơn hồn của các Chức sắc Đại Thiên Phong Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng
Đài quá vãng đến đó chầu lễ Đức Phật Mẫu khi cúng Đại đàn.
Cuối lồng căn
số 8 có đặt một cái bàn, trên đó không có chưng bày gì cả, gọi là Bàn Lễ sĩ, để
các Lễ sĩ chuẩn bị Bông, Rượu, Trà(Tam Bửu) điện lễ dâng cúng Đức Phật Mẫu.
Sau Bàn Lễ sĩ
là lồng căn thứ 9, đặt một cái bàn tròn thấp, có băng tròn vây quanh dành cho
Ban Nhạc ngồi đờn khi cúng Đức Phật Mẫu vào Tứ thời mỗi ngày.(Khi cúng Đại đàn,
Ban Nhạc không được ngồi ở đây, mà phải lên lầu 1 Báo Ân Từ).
Bên cạnh Bàn
tròn của Ban Nhạc, phía bên Nữ phái có đặt một cái Kiểng.
Bên ngoài Bàn
tròn của Ban Nhạc là một tấm vách ngăn, trên đó có chừa một khung lớn, sơn toàn
trắng, để tượng trưng Khí Sanh Quang.
Chúng ta đi
trở lên, giữa 2 cây cột phân chia lồng căn số 1 và số 2, phía bên trên, sát với
la-phông (Plafond) có đắp một tấm diềm. Phía sau tấm diềm có treo tấm màn màu
vàng. Chúng ta còn thấy nơi Ngoại Nghi cũng có treo một tấm màn màu vàng tương
tự.
Nhìn lên tấm
diềm trước Bàn thờ Đức Phật Mẫu, chúng ta thấy có trang trí các thức mây lành
ngũ sắc, phía bên trên có đắp hình một con chim Thanh loan, đây là con chim
lịnh của Đức Phật Mẫu, và xung quanh có đắp 9 Bửu pháp của Cửu vị Tiên Nương,
kể ra dưới đây :
Bên dưới chim
Thanh loan là cây phướn Tiêu Diêu của Lục Nương.
Phía bên Nữ
phái có 4 Bửu pháp : Kim bảng của Tứ Nương, Giỏ Hoa Lam của Bát Nương, Quạt
Long tu của Tam Nương, và Ống Tiêu của Cửu Nương.
Phía bên Nam
phái có 4 Bửu pháp : Đờn Tỳ bà của Nhứt Nương, Lư hương của Nhị Nương, Cây Như
ý của Ngũ Nương và Bông sen của Thất Nương.
Trên mỗi cây
cột 2 bên Chánh điện có gắn một tấm bảng màu vàng, đề 3 chữ Nho : BÁT CẢNH
CUNG, bên dưới đề một chữ Nho nữa : Kỳ (nghĩa là Cờ). Bảng nầy cho biết 8 lồng
căn của Chánh điện làm nơi thờ Đức Phật Mẫu tượng trưng Bát Cảnh Cung của Đức
Phật Mẫu, và bảng nầy còn dùng để cắm cờ đạo khi có Lễ lớn.
La-phông nơi
gian giữa, tức là của phần Chánh điện, có hình dạng là phân nữa hình ống tròn,
sơn màu xanh da trời, trên đó có vẽ mây trắng và vẽ một con rồng trắng ẩn hiện
trong mây, đầu rồng ở nơi lồng căn số 9 và đuôi rồng nơi lồng căn số 3.
Bây giờ, chúng
ta bước qua gian bên Nam phái để quan sát. Phía bên trong, ngang với tượng thờ
Đức Phật Mẫu, có đắp một cái khánh thờ lớn, ở giữa cẩn hàng chữ Nho lớn thẳng
đứng : CHƯ CHƠN LINH NAM PHÁI, bên trên có 2 chữ Nho nhỏ : CUNG PHỤNG, và bên
dưới có 2 chữ TỌA VỊ.
Phía dưới chữ
CHƯ CHƠN LINH NAM PHÁI là bàn thờ, ngay chính giữa có đặt một Long vị đề chữ
Nho là TỊCH BỘ HỮU CÔNG, để thờ những Chức sắc Nam phái có đại công với Đạo.
Hai bên Long vị nầy là 2 Long vị nhỏ hơn của Phạm Phối Thánh (Phối Thánh Phạm
văn Màng) và của Bùi Phối Thánh (Phối Thánh Bùi ái Thoại).
Nhìn lên
la-phông, thấy bằng ngang, sơn màu trắng, ngay chính giữa mỗi căn có trang trí
một hình 8 cạnh vẽ mây và Tứ Linh (Long, Lân, Qui, Phụng).
Ngang với tấm
diềm nơi gian giữa, bên gian Nam phái cũng có đắp một tấm diềm trang trí 5 sắc
mây lành và Tứ Linh. Sau tấm diềm nầy có treo một tấm màn màu xanh.
Chúng ta bước
qua quan sát gian bên Nữ phái, chúng ta thấy cách bố trí giống y như bên Nam
phái, nhưng hàng chữ Nho lớn trên khánh thờ là : CHƯ CHƠN LINH NỮ PHÁI, và trên
bàn thờ không có Long vị của 2 vị Phối Thánh, vì gian bên nầy chỉ thờ các Chơn
linh Nữ phái mà thôi.
Chúng ta đo bề
ngang của Báo Ân Từ nơi cửa hông, tính phủ bì cả 2 Hành lang hai bên, đo được
16 thước; từ vách bên nây sang vách bên kia đo được 12 thước, chia làm 3 gian,
mỗi gian có bề rộng 4 thước; Hành lang rộng 2 thước. Nền Báo Ân Từ được lót bằng
gạch bông. Sau nầy, lớp gạch bông được thay bằng lớp gạch men đẹp và bóng láng
hơn.
C . Phần Hậu
Điện
Phần Hậu Điện
Báo Ân Từ chiếm 4 lồng căn, nên có bề dài 16 thước ( mỗi căn có bề rộng 4
thước).
Giữa phần Hậu
Điện và Chánh Điện có 2 cửa nhỏ thông nhau, một ở bên Nam phái và một ở bên Nữ
phái.
Trong Hậu Điện có thiết lập một Bàn thờ,
trên đó có đề 3 chữ Nho lớn : PHƯỚC LỘC THOÏ. Đó là Tam vị Thiên Quân tượng
trưng Cửu Huyền Thất Tổ chung cho mọi người, nên thường được gọi là Bàn thờ Ông
Bà chung.
Tại sao ? Bởi
vì người ta cho rằng Tổ Tiên Ông Bà của mỗi người đều ở trong 3 bực :
- Phước: Có
con cháu đông đảo nối dõi tông đường.
- Lộc : Có
chức phận và giàu có.
- Thọ : An nhàn và sống lâu.
(Xem bên dưới : Sự tích
Phước Lộc Thọ).
Hai bên Bàn
thờ có đặt 2 cây Lọng màu vàng.
Hai cây cột
phía trước Bàn thờ có gắn đôi liễn bằng chữ Nho, phiên âm ra sau đây :
* BÁO đáp chí
công tiền bối khai cơ Thiên đạo lưu truyền thiên vạn đại,
* ÂN từ đại
đức hậu nhơn thừa kế tôn sùng Chánh giáo thất ức niên.
Nghĩa là :
. Đền đáp công
nghiệp lớn lao của các bậc tiền bối đã mở ra nền tảng Đạo Cao Đài truyền lại
muôn đời về sau,
. Đền thờ
những vị có ơn đức lớn, người sau thừa kế tôn sùng nền Đạo chơn chánh đến 700
000 năm.
Trong Hậu Điện
có đặt 3 dãy bàn ghế dùng làm nơi hội họp hay đãi tiệc trong Đạo.
Sự Tích Tam
Thiên Quân: Phước , Lộc, Thọ
Phước Lộc Thọ
là tên của 3 Ông : Ông Phước, Ông Lộc, Ông Thọ, vào đời nhà Đường bên Tàu.
- Ông PHƯỚC có
đức Trời ban, có con đông, nhưng nhà nghèo, lòng dạ chơn thật, tự lực cánh
sinh, không chịu nhờ vả ai, tin tưởng vận mạng của mỗi người do Trời định, nên
giữ lòng thanh bạch, không tham vọng.
- Ông LỘC có
đức của Đất cho, làm quan lớn tại triều đình, nhà giàu có lớn, tiền của dẫy
đầy, có kẻ hầu người hạ, tánh tình hòa nhã, thanh liêm, một lòng vì nước vì
dân, giàu lòng nghĩa hiệp, hay trợ khó giúp nghèo, mến hiền trọng đạo.
- Ông THỌ có
đức do Người tạo, độc thân, sống lâu hơn mọi người, có lòng nghĩa hiệp, hay
giúp đỡ người nghèo khổ, chỉ sống bằng nghề ăn trộm, một năm chỉ ăn trộm một
lần để nuôi thân suốt năm, không ham lấy thêm, gặp người quá nghèo khổ thì đi
ăn trộm của nhà giàu, đem tiền đến cứu giúp.
Sự tích 3 Ông
Phước, Lộc, Thọ được Đức Phạm Hộ Pháp giảng giải trong đêm giao Tòa nhà mới vừa
xây cất xong vào năm 1947 dành cho Hiệp Thiên Đài làm Văn Phòng của chư vị Thời
Quân Hiệp Thiên Đài, có đông đảo Chức sắc Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài tham
dự.
" Ba Ông
Phước, Lộc, Thọ cùng ở một thôn.
- Ông Phước
thì nghèo khổ mà đông con.
- Ông Lộc thì
làm quan, giàu có mà không con.
- Ông Thọ thì
có nghề sở trường là ăn trộm, đi làm việc một đêm đủ tiền chi dụng một năm,
ngoài ra chẳng làm việc gì khác.
Một hôm, Ông
Thọ khởi sự hành nghề ăn trộm, đang đêm đi ngang qua nhà Ông Phước, thấy đèn
còn thắp leo lét, ghé vào đứng bên ngoài xem, nghe vợ của Phước than thở nghèo
khổ, con cái quần áo tả tơi. Ông Thọ thấy vậy cảm động đem lòng thương xót
thầm, nghĩ rằng : Đêm nay, mình đi ăn trộm chuyến nầy để giúp Anh Phước đỡ
nghèo, có tiền mua gạo ăn và sắm quần áo cho đàn con đông đảo.
Nghĩ vậy rồi
liền thực hành, đi đến nhà Ông Lộc, rình cho đến khuya, đợi tôi tớ trong nhà
ngủ say, mới đánh ngạch vào nhà, mở tủ lấy trộm được một số vàng bạc khá nhiều,
bọc vào một cái khăn, rút lui êm tịnh, không ai trong nhà hay biết.
Ông Thọ liền
đi ngay đến nhà Anh Phước, trời vẫn còn khuya, kêu Anh Phước dậy mở cửa, đốt
đèn lên. Phước hỏi Ông Thọ, nửa đêm kêu cửa có việc chi cần gấp ?
Ông Thọ nói :
- Tôi đem giúp
Anh một gói vàng bạc đây để Anh chi dụng trong nhà, mua gạo và sắm quần áo cho
sắp nhỏ mặc cho lành lặn.
Ông Phước hỏi:
- Vàng bạc ở
đâu mà Anh có nhiều như vậy ?
Ông Thọ đáp :
- Của tôi đem
đến giúp Anh thì Anh cứ nhận mà dùng, hơi nào hỏi lòng vòng lôi thôi.
Ông Phước nói
:
- Xin Anh cho
tôi biết rõ của nầy do đâu mà có thì tôi mới dám nhận sự giúp đỡ của Anh, chớ
tôi thấy Anh đâu có giàu gì !
Ông Thọ túng
thế phải nói thiệt : - Số vàng bạc nầy do tôi lấy trộm của nhà giàu để đem lại
giúp Anh cho đỡ nghèo.
Ông Phước nói
:
- Tưởng đâu
Anh làm ăn khá giả, dư tiền dư bạc mà giúp tôi, nào dè Anh đi ăn trộm, thì vàng
bạc nầy là của phi nghĩa, của gian, tôi không dám nhận đâu, Anh hãy đem về đi.
Hai đàng nói
qua nói lại một hồi, Ông Phước nhứt định không nhận, có vẻ giận, rồi mời Anh
Thọ ra khỏi nhà, đóng cửa đi ngủ trở lại.
Ông Thọ nghĩ
lấy làm lạ cho cái Anh Phước nầy, nhà nghèo rớt mồng tơi, đói nheo nhóc mà lại
không chịu nhận vàng bạc bất nghĩa. Mình chẳng lẽ lấy số vàng bạc nầy về xài
thì tỏ ra kém cỏi hơn Anh ta nhiều quá, nên quyết liều đem lại trả cho Ông Lộc.
Ông Thọ suy
nghĩ như thế, liền trở lại nhà Ông Lộc, kêu mở cửa, rồi vào nhà nói rõ cho Ông
Lộc biết :
- Hồi đêm hôm,
tôi có lén đào ngạch vào nhà Ông ăn trộm một số vàng bạc để đem lại giúp cho
Anh Phước, vì thấy Anh Phước nhà quá nghèo mà lại đông con, nhưng Anh Phước
nhứt định không chịu nhận vì cho rằng của nầy là của ăn trộm, của phi nghĩa,
nên tôi chẳng biết làm sao, đành liều đem lại trả cho Ông, xin Ông đừng bắt
tội.
Ông Lộc nói :
- Tiền bạc ở
trong tủ nhà của tôi thì nó mới là của tôi, nay nó đã ở trong tay Ông thì nó là
của Ông, không phải của tôi nữa. Ông hãy mang về đi, tôi không biết tới nó nữa.
Ông Thọ nài nỉ
:
- Tôi nói
thiệt với Ông là số vàng bạc nầy là của Ông, Ông không tin thì vào mở tủ ra xem
lại đi, tôi mới lấy trộm ra đó. Xin Ông tha tội cho tôi và cất nó trở lại vào
tủ.
Ông Lộc nhứt
định không chịu nhận và mời Ông Thọ ra khỏi nhà.
Ông Thọ buộc
phải ôm gói vàng bạc đi ra, trở về nhà, lòng nặng trĩu ưu tư, thầm nghĩ hai
thằng cha Phước và Lộc là hai tay thật kỳ cục, phi thường khác tục. Ông suy
nghĩ mãi và cảm thấy lương tâm ray rứt, kế trời hừng sáng. Ông quyết định là
mình cũng không xài số vàng bạc nầy làm gì, mất giá trị lắm, chẳng lẽ mình thua
Anh Phước sao, thôi mình nên đem đổ xuống sông cho rảnh.
Ông Thọ liền
đem tất cả số vàng bạc ấy đến đứng giữa cầu, đổ trút xuống dòng sông nước đang
chảy mạnh. Đúng lúc đó, có một đám người cờ bạc vừa tan sòng đi ra đến đầu cầu
nhìn thấy, họ la hoãng lên vì động lòng tham, liền nhảy xuống sông để lặn mò
lấy vàng bạc. Chẳng may nước chảy xiết quá, có một người ham lặn, hụt hơi chết
đuối.
Linh hồn chàng
cờ bạc bị Quỉ sứ dẫn xuống Địa ngục phạt tội, liền tố cáo với Diêm Vương là tại
Ông Thọ nên anh ta mới bị chết chìm một cách oan uổng và đòi Diêm Vương bắt Ông
Thọ đền mạng.
Diêm Vương liền
kêu Quỉ Sứ lên bắt hồn của Ông Thọ dẫn xuống. Diêm Vương hỏi Ông Thọ:
- Tại sao nhà
ngươi làm cho tên nầy chết đuối oan mạng như thế ?
Hồn Ông Thọ
đáp :
- Tâu Diêm
Vương, tại tên nầy quá tham lam thấy tôi đổ vàng bạc xuống sông nên lặn mò
quyết lấy, chẳng may bị hụt hơi chết đuối thì đáng kiếp lắm, chớ tôi đâu có xô
nó xuống sông mà bắt tội tôi.
- Vàng bạc ở
đâu ? Mà tại sao ngươi đổ xuống sông ?
- Vàng bạc nầy
là của tôi, tôi không dùng thì tôi đổ xuống sông, ấy là quyền của tôi, tên nầy
quá tham lam nên chết rán chịu.
Diêm Vương lại
phán :
- Mặc dầu là
tiền bạc của nhà ngươi, nhưng lúc sắp soạn đổ xuống sông, ngươi phải lựa lúc
vắng người, để không ai nhìn thấy mà khêu gợi lòng tham của kẻ xấu. Vậy ngươi
chẳng chối tội đặng.
- Nếu Diêm
Vương xét như vậy thì tội nầy là tội của Anh Phước mới đáng, chớ không phải tội
của tôi, bởi vì số vàng bạc nầy, tôi đem lại cho Anh Phước để giúp Ảnh đỡ
nghèo, mà Anh Phước không chịu lấy, nên tôi tức mình mới đem đổ xuống sông như
thế.
Diêm Vương lại
sai Quỉ Sứ lên bắt hồn của Ông Phước xuống đây đối chất. Diêm Vương hỏi Ông
Phước :
- Số vàng bạc
của Thọ đem đến giúp cho nghà ngươi, sao nhà ngươi không chịu lấy, để nó tức
giận đem đổ xuống sông, làm cho tên cờ bạc nầy nổi lòng tham, lặn mò đến chết
đuối ? Vậy nhà ngươi phải đền mạng cho tên cờ bạc nầy.
Ông Phước biện
bạch thưa rằng :
- Bẩm Diêm
Vương, nhà tôi nghèo thật, nhưng vàng bạc của Anh Thọ giúp tôi là của gian, của
ăn trộm, nên tôi nhứt định không nhận. Vậy tôi có tội gì ?
Diêm Vương
quay qua quở Ông Thọ, Thọ liền thưa :
- Nếu như Anh
Phước vô tội thì tội nầy phải là của Ông Lộc, bởi vì số vàng bạc nầy là của Ông
Lộc do tôi lén lấy trộm đem về giúp Anh Phước, nhưng Anh Phước cho là của gian
nên không nhận, tôi đành đem trả lại Ông Lộc và xin tha tội ăn trộm của tôi.
Ông Lộc rất kỳ cục, không chịu chấp thủ, đuổi tôi ra khỏi nhà, nên tôi tức giận
đem đổ xuống sông. Vậy tội nầy là của Ông Lộc.
Diêm Vương lại
cho Quỉ sứ đi bắt hồn của Ông Lộc xuống tra hỏi.
Ông Lộc biện
bạch rằng :
- Số vàng bạc
nầy của tôi bị mất đã đành, nhưng Ông Thọ đã lấy đem ra khỏi nhà tôi mà tôi
không hay biết, thế là của đó không còn là của tôi nữa, nên dầu cho Ông Thọ có
năn nỉ trả lại, tôi nhứt định không chịu nhận. Kể ra của đó cũng bất nghĩa, tôi
đành chịu ngu dại chớ không nhận lại của đó. Nhận lại hay không là quyền chọn
lựa của tôi, tôi đâu có phạm tội gì.
Diêm Vương
thẩm án, xét thấy 3 Ông Phước, Lộc. Thọ đều là người có nghĩa khí. Phước và Lộc
đều trong sạch. Thọ có tội ăn trộm nhưng biết giác ngộ và làm việc phải, giúp
người nghèo khó. Vậy cả 3 người nầy đều vô tội, chỉ có tên cờ bạc gian tham lặn
mò cho đến đổi chết đuối là đáng kiếp, không thể khiếu nại gì được nữa.
Diêm Vương
phán rồi, liền sai Quỉ sứ dẫn hồn tên cờ bạc chết oan đem giam vào Địa ngục
hành hình và truyền đưa 3 hồn Phước, Lộc, Thọ trở về dương gian nhập xác.
Khi 3 hồn về
tới dương gian thì 3 xác của 3 Ông đã được thân nhân mai táng, sình thúi hư
hỏng hết rồi, vì vụ thưa kiện nầy lòng vòng mất nhiều ngày giờ. Do đó, 3 Chơn
hồn được đưa trở lại Địa phủ.
Diêm Vương làm
tờ sớ trình bày tỉ mỉ sự việc, dâng lên Thiên Tào phán định. Thượng Đế xem
xong, phán rằng :
- Phước nghèo,
đông con, giữ được lòng thanh bạch. Thọ thì độc thân, không tham, có nghĩa,
nhân từ. Lộc thì có lòng độ lượng.
Cho nên, Phước
Lộc Thọ là 3 tánh đức của Trời, Đất, Người. Người mà có được 3 đức ấy để hưởng
là một phúc hạnh lớn.
Nay phong cho
3 vị làm Tam Thiên Quân, và truyền cho thế gian tôn thờ 3 Đấng Thiên Quân nầy
để làm gương.
Đạo Nho lấy sự
tích Phước-Lộc-Thọ nầy làm biểu tượng thờ Cửu Huyền Thất Tổ, thể sánh Tổ Phụ
Ông Bà thuở xưa cũng đã từng hưởng được 3 đức ấy.
Đức Phạm Hộ
Pháp cho lập tại Hậu Điện Báo Ân Từ và nơi Khách Đình, thờ 3 chữ PHƯỚC-LỘC-THỌ
bằng chữ Nho đại tự, để làm Bàn thờ Ông Bà chung.
Trong truyện
Tây Du Ký có chép chuyện Tôn Hành Giả đi ra Đảo Bồng Lai gặp 3 Ông Phước, Lộc,
Thọ, gọi là Thọ Tinh, Phước Tinh, Lộc Tinh. Chuyện ấy tóm tắt như sau :
" Sau khi Tôn Hành Giả nổi giận quật ngã cây
Nhơn Sâm của Trấn Nguyên Đại Tiên ở Ngũ Trang Quán núi Vạn Thọ, bị Trấn Nguyên
Đại Tiên dùng phép Tiên bắt hết 4 Thầy trò Tam Tạng để bắt đền cây Nhơn Sâm.
Tôn Hành Giả hứa đi tìm thuốc cứu cây Nhơn Sâm ấy cho sống lại, hẹn trong 3
ngày trở lại, để Tam Tạng, Trư Bát Giới cùng với Sa Tăng ở lại làm tin.
Tôn Hành Giả thót lên mây, cân đẩu vân thẳng đến
Đông Dương Đại Hải, tới nơi, Hành Giả đi thẳng đến Đảo Bồng Lai, thấy ngoài cửa
Động Bạch Vân, dưới bóng tùng, có 3 ông già đang ngồi đánh cờ. Người ngồi xem
là Thọ Tinh, còn 2 người đang đánh cờ là Lộc Tinh và Phước Tinh. Hành Giả bước tới chào hỏi :
- Kính chào 3 Ông Em.
Ba người bỏ ván cờ, đồng hỏi :
- Đại Thánh có việc chi tới đây ?
- Chẳng
giấu gì các Ngài, Lão Tôn nhận bảo hộ Đường tăng đi Tây phương thỉnh kinh, giữa
đường gặp một chút trở ngại, có tí việc muốn nhờ đến các Ngài giúp đây.
Phước Tinh hỏi :
- Trở ngại gì, Đại Thánh nói ra để chúng tôi còn
liệu.
- Trở ngại ở Ngũ Trang Quán, núi Vạn Thọ.
Ba vị Phước, Lộc, Thọ kinh ngạc hỏi :
- Quán Ngũ Trang là Cung Tiên của Trấn Nguyên Đại
Tiên. Chắc Đại Thánh vào đấy ăn trộm quả nhơn sâm của ông ấy chớ gì ?
- Ăn trộm thì đáng là bao, Lão Tôn đã quật nó ngã
chổng gọng chết rồi. Lão ấy bắt đền. Ta hứa đi tìm thuốc chữa cho cây Nhơn sâm
ấy sống lại. Nó bắt Thầy ta ở lại làm tin, hẹn trong 3 ngày phải có thuốc. Ba
Ngài có phương thuốc nào chữa cho cây Nhơn sâm ấy sống lại không ?
Ba Ông Phước, Lộc, Thọ buồn rầu đáp :
- Con khỉ nầy chẳng biết gì hết. Trấn Nguyên Đại
Tiên là Ông Tổ của dòng Địa Tiên. Chúng tôi đây thuộc dòng Thần Tiên, nhưng vẫn
thuộc Thái Ất tán số, chưa phải là dòng Chân truyền, nên thoát khỏi tay người
ta làm sao được. Tưởng như Đại Thánh giết chết loài thú chạy chim bay thì dùng
Viên đơn lúa mạch của chúng tôi đây là có thể cứu sống được. Đằng nầy cây Nhơn
sâm là giống cây Tiên, thì cứu làm sao được. Không có thuốc đâu !
Tôn Hành Giả nghe nói không có thuốc thì châu mày
trợn mắt. Phước Tinh nói :
- Đại Thánh ạ ! Ở đây chúng tôi không có thuốc thật
mà. Biết đâu nơi khác có thì sao, hơi đâu mà buồn phiền.
- Dù đi khắp chơn trời góc biển, việc đó có khó gì
đối với Lão Tôn, ngặt Sư phụ của Lão Tôn phép nghiêm lượng hẹp, hạn cho có 3
ngày. Quá hạn 3 ngày không về thì ổng niệm Chú Cẩn Cô khổ lắm. [1]
- Đúng ! Đúng ! Không có phép ấy để trói buộc Đại
Thánh thì Đại Thánh lại chọc trời mất !
Thọ Tinh nói :
- Đại Thánh yên tâm, chớ phiền não. Vị Đại Tiên ấy, tuy là bậc trên của chúng tôi, nhưng cũng là chỗ quen biết. Để 3 chúng tôi đến đó
thăm Ngài và nói giùm cho Đại Thánh, bảo Đường Tăng đừng đọc Chú Cẩn Cô, đợi
khi nào Đại Thánh mang thuốc về, chúng tôi mới từ biệt. Đại Thánh an lòng lo đi
tìm thuốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét