Lão Tử và Khổng Tử
Thiên
nhơn nhứt thể vạn vật đồng nguyên.
"Vô vi cư Thái Cực chi tiền.
Hữu thỉ siêu quần chơn chi
thượng. *
Lão.
" Khai nhân tâm tất bổn ư đốc thân chi hiếu.
Ðối
với Ðức Lão Tử, Vô Vi là một đạo lý. Ngài cho rằng, bản chất của
"ÐẠO" là Vô Vi. Ðạo thường vô vi nhi vô bất vi. Nghĩa là: Ðạo thường
là không làm, mà không gì là không làm được.
Lão Tử
"Không
làm" vì theo quy luật tự nhiên, trơn tru không vướng mắc, mọi thứ đều tỏ
sức sống cường kiện, như trăm hoa gặp khí Dương của mùa Xuân, tự nhiên đúng kỳ
hoa nở.
Ðạo
Trời Vô Vi, chỉ đem lợi cho muôn vật: Ðạo Trời lợi mà không hại, đạo Thánh nhân
làm mà không tranh, tức là không hề chú ý đến quyền lợi cá nhân, chỉ mong có sự
đóng góp tạo sự chuyển hóa cho vạn vật.
Vô
Vi là một chủ trương được Ðức Lão Tử đề cao trong sách Ðạo Ðức Kinh. Ngài muốn
đem chủ nghĩa Vô Vi áp dụng vào công việc Tu thân và cả đến việc Chánh trị nữa.
-
Về Tu thân, Vô Vi không phải là sống nhàn cư vô sự, ăn bám xã hội, mà chính là
sống cuộc đời cao siêu, huyền hóa với Trời.
Khổng Tử
Liệt
Tử định nghĩa Vô Vi là hoạt động siêu việt.
Trang
Tử định nghĩa Vô Vi là hoạt động của Trời Ðất.
Vô
Vi là để trở về khế hợp với bổn căn bổn tánh, hiệp nhập vào Thượng Ðế. Vô Vi là
nhập Ðại Ðịnh, là giai đoạn chót của khoa Tịnh luyện để đắc đạo.
Cho
nên cõi Vô Vi là cõi Trời, cõi thiêng liêng tuyệt đối vô hình. Cõi Vô Vi chính
là Niết Bàn của Phật.
Trái
với Vô Vi là Hữu Vi, là cõi Hữu hình sắc tướng.
Muốn
đạt tới Vô Vi thì phải bắt đầu từ Hữu Vi. Không có con đường tắt. Từ Hữu hình
sắc tướng mới đi riết tới, lần lần giũ sạch những cái Hữu vi thì sẽ đạt đến Vô
Vi, tức là Niết Bàn vậy.
Ngài
Tiếp Pháp Trương Văn Tràng, trong quyển Giáo Lý, giải thích về Vô Vi như sau:
"Vô
Vi nghĩa là không hành động theo ngoại giới, mà chỉ hồi hướng về nội giới tâm
linh, sưu tầm giác ngộ lẽ huyền nhiệm của Tâm lý và Sinh lý.
Cho
nên Ðạo Ðức Kinh chương 28 nói rằng: Vi Ðạo nhựt tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư
vô vi. Nghĩa là: Học Ðạo thì mỗi ngày mỗi giảm bớt, và giảm bớt nữa cho đến chỗ
Vô Vi.
Không
làm nhưng chẳng phải khô khan như cây khô hay cục đá, mà thật là phải giữ một
tâm trạng hồn nhiên, như đứa trẻ chưa biết cười (anh nhi chi vị hài), cho nên
nói rằng: Ðạo thường vô vi nhi vô bất vi, nghĩa là: Ðạo thường là Vô Vi, nhưng
chẳng có việc gì không làm. Tại sao? Bởi lẽ kẻ học Ðạo phải làm những việc chưa
đến, phải lo những việc chưa xảy ra (Vi vô vi, sự vô sự)."
“Có cái
gì hành động mà tạo ra thế giới”, với “không
có vật gì hành động cả”, hai thuyết đó đều đứng về phương diện vật thể mà
lập luận, đều sai cả. “Có cái gì hoạt
động” là thuyết “thực”; “không có gì
hành động” là thuyết “hư”. Cái gì
có “danh” có “thực” thì ở trong khu vực “chân
thực”; cái gì vô danh, vô thực thì ở trong khu vực không hư của vật. Cái gì
có thể dùng lời nói mà diễn, dùng trí mà suy đoán, cái đó ly khai Đạo lớn rồi.
HỌC
THUYẾT ĐẠO ĐỨC:
Đạo
đức là gì?
Đạo
là gì ?
Đạo
chính là gốc rễ bản tính nguyên thủy của thiên địa vạn vật của mọi sinh linh nó
vô hình vô dạng kín đáo bất lộ không có dấu vết lại tồn tại khắp nơi chỗ nào
cũng có không từ vật nào- sinh ra thiên địa vận hành nhật nguyệt nuôi dưỡng vạn
vật lại không hề khoe khoang tự cao thứ phản ánh hành vi của con người trên
phương diện đạo chính là Đức.
Học
thuyết đạo đức khuyên người trừ dục cũng
tức là nói trừ đi dục vọng sau này tìm về những bản tính nguyên thủy.
Dục
vọng con người có hai loại :ngoại dục, nội dục.
Ngoại
dục:
Người
có ngoại dục tham lam thế sự mong cầu vinh hoa phú quý tham danh hám lợi luôn
đòi hỏi vô số danh lợi cả ngày chìm nổi trong danh lợi khiến cho trong lòng
không tịnh tự sinh phiền não thân tàn tâm mệt .
Nội
dục: ham thích tụ tập tìm hiểu chân lý tự cho là không gì không biết luôn cùng
người khác tranh chấp biện luận không khiêm tốn không học hỏi vì vậy mà sinh
phiền não. Nếu như người nào có cả hai loại này thì bề ngoài theo đuổi ngoại
vật trong lòng thì luôn rầu lo, đánh mất bản tính vô tình làm tổn hại tinh,
khí, thần từ đó mà chịu đau khổ.
Làm
sao mới có thể trừ dục vọng hoặc tận gốc hợp với đạo đức?.
Trước
tiên thì không nên cố chấp đối với vạn sự vạn vật. Người đã cố chấp khó hiểu
đạo đức. Những người
cố chấp sẽ sinh vọng tâm . Vọng tâm càng nhiều dục vọng tất sinh. Lòng tham
vọng tưởng cũng sẽ kéo tới khi lòng tham không chiếm được sự thỏa mãn của nó tự
nhiên sinh ra phiền não. Cho nên ta cần phải bỏ đi bản tính cố chấp , mọi
chuyện không thể cưỡng cầu đòi hỏi . Đừng để ngoại vật quấy nhiểu thuận theo tự
nhiên mà làm , giữ vững trái tim luôn bình an và thanh tịnh. Vậy thì có thể hòa
hợp với đạo hài hòa với đức.
Giá
như một nhà nghèo mỗi ngày phải bôn ba để kiếm
ăn : đây có phải chạy theo dục vọng chăng?.
Con
người sinh ra ăn mặc đi lại đều là bản tính không phải dục vọng nhưng cũng
không thể để tâm suy nghĩ cầu ăn cầu mặc. Ăn uống là để bảo mật dưỡng mật nếu
bởi vì cầu no bụng mà phải bôn ba cả ngày. Như vậy no bụng chưa thấy mà đã thấy
bệnh tật thậm chí chết sớm cần gì phải làm như vậy.
Giá
như một nhà giàu có ăn toàn cao lương mỹ vị , đây có phải dục vọng chăng?.
Mặc
cần mặc ấm ăn cần ăn đủ no, sơn trân chất đóng một bụng khó ăn nhà cửa tuy
nhiều nhưng ngủ một giường nếu đã dư thừa nên giúp người nghèo làm nhiều việc
thiện tích chút công đức để phước cho cháu con.
CHẾT
MÀ KHÔNG HẾT LÀ THỌ.
Sáu
món đầu tiên mà Sư Phụ truyền cho Lão Tử ở Thái Ất cốc.
1
- Trị tâm thanh tịnh vô dục.
2
- Trị quốc tự nhiên vô vi.
3
- Trị gia hòa hợp hành nhứt .
4 - Trị thân qui nguyên chân nhu.
5 - Trị thần bảo nhứt hoàn nguyên.
6 - Trị Vạn vật đắc nhứt vi sinh.
1 . Trị thân qui nguyên chân nhu:
Người
nếu như qui về lúc sơ sinh xương yếu gân mềm mới có thể tâm thần an
định sống lâu muôn đời thôi.
2
. Trị thần bảo nhứt hoàn nguyên:
Cái
thần con người nằm trong cái thân con người nó câu hòa vào làm một
nhơn thần hợp nhứt mới có thể trở về ban đầu thần trí sáng tỏ.
3 . Vạn vật đắc nhứt vi sinh ?......
Khi
lòng dạ rối bời không kềm chế được vì sao?.
Sở
dĩ tâm loạn do thần trí lo sợ hãy xem con người ta sinh ra trên đời
giữa trời và đất này có sinh lão bệnh tử và nỗi khổ bi quan ly hợp
đây cũng là nguồn gốc của mọi đau khổ, thần không kinh sợ thì tâm
không loạn. Dù gặp bất cứ chuyện gì vui cũng vui buồn cũng buồn
phải nhứt định bình thản mà xử trí ; tâm định thần nhứt nếu ai đạt
tới cảnh giới không vui cũng không buồn thì có thể đối phó với mọi
đổi thay trong thiên hạ.
Trời
đất vận hành vạn vật hóa sinh đạo lý trên đời chỉ có một chữ thôi
đó là chữ NHỨT nếu mất đi chữ NHỨT này vậy thì bản tín cũng mất
.
1
- TRỜI: mất chữ NHỨT thế gian trong xanh biến thành vẫn đục, vạn vật
hủy diệt tự nhiên không còn.
Thiên
đắc nhứt dĩ thanh ( Trời được một thì trong )
2
- ĐẤT: mất chữ NHỨT núi non sụp lỡ sông ngòi ngập lục vạn vật từ
nay không còn yên ổn.
Ðịa
đắc nhứt dĩ ninh ( Ðất được một thì yên )
3
- NGƯỜI: mất chữ NHỨT thân hình phân ly chỉ còn cái vỏ đần độn ngu
dốt sống mà không bằng chết.
Nhơn
đắc nhứt dĩ Thánh ( Người được một thì thành Thánh)
4
- QUÂN: mất chữ NHỨT muôn dân muốn sống phải tàn hại nhau các nước
phân tranh thiên hạ sẽ đại loạn.
Quân
đắc nhứt dĩ bình( Vua được một thì nước thái bình)
5
- Thiếu mất chữ NHỨT vạn vật không
sinh cũng không lớn lên Âm Dương bất thông bản thân bị tận diệt. (Bất
Nhứt Âm Dương bất thông bản thân tận diệt)
Cho
dù trị thế trị thân trị gia đều phải tuân theo căn bản và chữ NHỨT
này chính là cốt rễ của vạn sự vạn vật
trên đời là ĐẠO .
Chơn
LÝ của ĐẠI ĐẠO là chơn lý của thế nhân .
Con
người nhứt thể - vạn vật đồng nguyên, con người không có lòng phân
biệt.
Con
số vạn vật sinh học.
Thiên
nhứt sinh thủy
Địa
lục thành chi
Địa
nhị sinh hỏa
Thiên
thất thành chi
Thiên
tam sinh mộc
Địa
bác thành chi
Địa
tứ sinh kim
Thiên
cửu thành chi
Vạn
vật có sinh số , tới lúc sinh mới có thể sinh.
Vạn
vật có thành số, tới lúc thành mới có thể thành.
Cho
nên vạn vật sinh tồn đều có số của nó.
Cho
nên có câu: Thiên đắc nhứt dĩ thanh, Ðịa đắc nhứt dĩ ninh, Nhơn đắc nhứt dĩ
Thánh." (Trời được một thì trong, Ðất được một thì yên, Người được một thì
thành Thánh). Ðược một đó là được một Khiếu Huyền Quan, được món Kim Ðơn.
Khổng
phu Tử chu du khắp nước để gặp minh quân,để cầu quan để truyền bá NHÂN NGHĨA và dùng con đường
quan lộ sĩ cầu.
SAU
ĐÂY LÀ CUỘC PHÁP THOẠI GIỮA KHỔNG TỬ VÀ LÃO TỬ:
Khổng
Tử nói:
Dùng
cả đời truyền bá nhân nghĩa đã không được thuận lợi chẳng lẽ Khâu
đã lầm chỗ nào, Khâu đi chu du các nước để truyền bá NHÂN NGHĨA ?.
Lão
Tử hỏi:
Khổng
tiên sinh chu du các nước mục đích là gì vậy.
Khổng
Tử đáp:
Chu
du các nước là muốn gặp minh quân cho Khâu một chức quan nho nhỏ hầu
có thể truyền bá NHÂN NGHĨA.
Lão
Tử đáp:
Dùng
trái tim thản nhiên tiêu giao để sinh sống trong cảnh điền viên mộc
mạc, thuận theo tự nhiên tiêu giao du vi phi sĩ phi quan. Tại sao tiên
sinh cứ theo quan lộ sĩ cầu vậy?.
Khổng
Tử đáp:
Khâu
cho rằng người sống trên đời nên làm quan nếu có chức quan thì có
quyền lực đã có quyền lực rồi mới có thể thực hiện khát vọng bản
thân còn nếu làm một thứ dân làm sao có thể thực hiện khát vọng
bản thân ̣được chứ.
Lão
Tử đáp:
Khổng
tiên sinh nói vậy không phải không có lý nhưng mà nên tùy thời mà
làm. Bây giờ lòng người vô cùng sa đọa các nước chư hầu phân tranh
với nhau thì có vị quốc quân nào chịu nghe học thuyết NHÂN NGHĨA của
tiên sinh chứ. Sở dĩ học thuyết của Ngài khó có thể truyền khắp
thiên hạ là bởi vì chưa tới thời cơ.
Khổng
lập lại, chưa tới thời cơ?. Nếu đợi thời cơ tới thì Khâu cũng sớm
qui thiên rồi.
Lão
Tử đáp:
Dòng
sông lịch sữ nhân loại chảy xuôi hướng về trước chúng ta chỉ là một
hạt cát nho nhỏ trong con sông dài đó cho dù sống thêm một trăm năm hai
trăm năm thì chẳng là gì so với phát triển mấy ngàn năm của cả nhân
loại tiên sinh có làm theo CHẾT MÀ KHÔNG HẾT LÀ THỌ mới phải.
Khổng
Tử hỏi;
Tiên
sinh à cái gì CHẾT MÀ KHÔNG HẾT LÀ THỌ - “hình
tử nhân vật sinh” mặc dù thân vong nhưng thân hình vẫn còn trường
tồn-vậy thì học thuyết của tiên sinh mới có thể lưu danh muôn đời.
Khổng
Tử đáp:
Chuyện
tiên sinh nói rất chí lý nhưng mà Khâu nghĩ người sống trên đời không
thể thực hiện lý tưởng của mình không thể đem tư tưởng của chính
mình truyền bá hậu gian thật sự là một chuyện đáng buồn. Khâu vẫn
muốn truyền bá học thuyết NHÂN NGHĨA ra khắp thế gian.
Lão
Tử Đáp:
Nếu
như tiên sinh có chí lớn thì cứ thử đi cho dù tương lai kết quả thế
nào thì Ngài cũng đã dốc sức sau này cũng không còn hối tiếc nữa.
Sau
cuộc đối thoại cả hai vẫn chưa đạt chân lý hai người mới ra ngồi trên
tản của dòng sông.
Khổng
Tử nói:
Nước
sông cứ chảy hoài không phân ngày
đêm
Nước
sông cuồn cuộn ào ạc, đời người cũng như vậy trôi qua không ngừng.
Nước sông không biết chảy tới đâu, đời người không biết về nơi nào.
Lão
tử đáp;
Người
sinh ra ở trong cõi thiên địa là cùng một thể với thiên địa. Thiên
địa là vật tự nhiên, đời người cũng chính là vật tự nhiên. Đời
người có: ấu, thiếu, tráng, lão bốn giai đoạn giống như xuân, hạ,
thu, đông của thiên địa. Sinh trong tự nhiên chết trong tự nhiên, thuận
theo tự nhiên thì bản tín không đoạn làm trái tự nhiên suốt ngày
phải hối hả như vậy khiến bản tín ràng buộc trong lòng nặng nợ công
danh tự nhiên sẽ sanh ra lo âu phiền
não như vậy mà tăng.
Khổng
Tử tiếp;
Khâu
lo lắng đại nghiệp không thành nhân nghĩa khó trị quốc loạn không
dừng chiến loạn cứ tiêp tục bởi vì đời người ngắn ngủi không thể
lập công với đời không thể chia xẽ
và đồng cảm với dân chúng.
Lão
tử nói:
Thiên
địa không ai đẩy mà vận hành, nhựt nguyệt không ai thắp mà tự sáng,
tinh tú không ai ghép mà trật tự, gia súc không người tạo mà tự
sinh, tất cả đều là do tự nhiên cần
gì phải rầu lo.
Người
khi nào sinh ra khi nào mất được vinh lộc hay hổ thẹn là lý của tự
nhiên là đạo của tự nhiên cứ làm theo lý của tự nhiên cứ nghe theo
đạo của tự nhiên nước ắt tự trị người ắt tự chính.
Khổng
Tử đáp:
Dân
thiên hạ có mấy người có thể làm theo lý của tự nhiên, nghe theo đạo
của tự nhiên kia chớ. Nếu không đi giáo hóa họ nước không thể tự trị
người không thể tự chính.
Lão
Tử cười to vì thấy không khí hai bên khá căng thẳng nên xin ngừng để
tìm giây phút giải khuây.
Rồi
cả hai đứng dậy cùng song hành dọc theo con suối bên cạnh hai hàng
cây.
Khổng
Tử khai lời trước:
Mỗi
lần gặp mặt tiên sinh thì Khâu lại thêm thông suốt. Khâu vẫn còn một vấn
đề muốn được thỉnh giáo tiên sinh.
Lão
Tử đáp:
Khổng
Khâu tiên sinh khách sáo quá có gì cứ nói.
Khổng
Tử hỏi:
Tới
bây giờ Khâu vẫn muốn được ra làm quan nếu có quyền lực mới có thể thi lệnh mới
có thể đi phát triển học thuyết nhân nghĩa của Khâu và mới có thể làm nhiều
việc thiện được?.
Lão
Tử đáp:
Tại
sao Ngài không học đức của dòng nước chứ?.
Khổng
Tử hỏi tiếp:
Nước
có đức gì?.
Lão
Tử đáp:
Nước đứng đầu thiện. Nước thiện với vạn vật mà
không tranh. Nước ở chốn các của chúng sanh đây là là đức tính biết khiêm tốn
mà giang hải có thể làm dương của trăm sông suối là vì nó biết trọng thiện mới
có thể trở thành Dương. Nếu ai cũng nhu nhược như nước thì người đặt mạnh mẽ
khó thắng họ. Đây là tính nhu nhược của nước, phải dùng nhu thắng cương dùng
nhược thắng cường. Vô hữu tiến vạc vô giang nên có thể hiểu được đạo lý lợi ích
của vô vi.
Khổng
Tử nói:
Người
ở phía trên nước ở phía dưới. Người ở đất bằng nước ở chỗ hiểm. Người ở chỗ
sạch nước ở chỗ bẩn. Ở nơi mọi thứ đều ác thì phải tranh với ai.
Lão
Tử đáp:
Không
tranh với đời thì thiên hạ không ai tranh giành với mình. Đây là noi theo tính
của nước. Nước cũng giống Đạo. Đạo ở đâu cũng có nước chỗ nào cũng lợi nên
Thánh nhân nhìn thời mà làm, thiên giả tùy cơ ứng biến trí giả vô vị mà trị,
đạt giả thuận theo ý trời.
Trước
khi Khổng Tử ra về Lão Tử nói :
“ kẻ phú quí tặng người
của cải,
Kẻ nhân nghĩa tặng người
lời nói “
“Tôi không phú cũng chẳng
quí, không có của cải, chỉ muốn tặng ông vài lời”
“ Thời nay, kẻ thông minh
sâu sắc sở dĩ gặp nạn, là do hay chê cái sai của người”
“Kẻ giỏi hùng biện,
thông hiểu sự việc gặp họa liên miên, là do hay vạch ra cái xấu của
người “
“ Là bậc làm con, đừng
cho mình là cao, là bậc bề tôi, đừng cho mình là hơn”
Cuối
thời Đông Chu trong lúc chư hầu các cứ trăm nhà đua tiến thì hai vị Thánh nhân
của cả Trung Hoa chính là Lão Tử và Khổng Tử đã gặp nhau nhiều lần. Tư tưởng
của hai vị Thánh nhân dường không hề bị trục trặc tuy nhiên lại chung mục đích
trải qua khó khăn hai vị Thánh nhân đã trở thành người sáng lập ra học phái Đạo
Gia và học phái Nho Gia. Hai tư tưởng này đã ảnh hưởng tới lịch sử nhân loại
kéo dài tới hơn hai ngàn năm trăm năm. Vào năm 846 trước công nguyên Lão Tử ẩn
cư ở Man Sơn Ngài muốn đem toàn bộ tri thức về học thuyết Đại Đạo mà Ngài đã
theo đuổi viết thành thư tịch truyền cho hậu thế.
Nam
Mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn.
Nam
Mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn.
Cẩn
bút
* Thi quang Vinh
Tam Quang
Sưu tầm học đạo copy và
phổ biến.
Portland Oregon, ngày 30
tháng 4 năm 2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét