Tên gọi Cao
Đài theo nghĩa triết học "Đấng vĩ đại bất tử"
(Mahāsattva), nghĩa bóng nơi cao nhất ở đó Thượng Đế ngự trị; cũng là danh xưng
rút gọn của Thượng Đế trong Đạo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ là "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha
Tát".
Để tỏ lòng tôn kính, một số các tín đồ Cao Đài thường gọi Đức tin của mình là Đạo Trời.
Để tỏ lòng tôn kính, một số các tín đồ Cao Đài thường gọi Đức tin của mình là Đạo Trời.
Tín đồ Cao Đài
tin rằng Thượng đế là Đấng sáng lập ra các tôn giáo và cả vũ trụ này. Tất cả
giáo lý, hệ thống biểu tượng và tổ chức đều được "Đức Cao Đài" trực tiếp chỉ định.
Và đạo Cao Đài
chính Thượng Đế trực tiếp khai sáng thông qua Cơ bút cho các tín đồ với nhiệm
vụ cao cả Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (chữ Hán: 大道三期普度), có nghĩa là Nền
đạo lớn cứu khổ lần thứ Ba .
Cao Đài là một
Đéc tin lớn, dung hợp nhiều yếu tố từ các tôn giáo lớn, gồm cả Phật giáo, Đạo
giáo, Nho giáo, Hồi giáo, Cơ Đốc giáo, Thần Đạo và cả một số tôn giáo đa thần
thời cổ đại, thể hiện qua Ngũ Chi Đại Đạo. Ngoài ra còn vinh danh một số danh
nhân cận đại gọi là "Tam thánh đứng
đầu Bạch Vân Động", bao gồm Tôn Dật Tiên, Victor Hugo và Nguyễn Bỉnh
Khiêm (xem Tam Thánh ký hòa ước). Tín đồ thi hành những giáo điều của Đạo như
Từ Bi, Bác Ái, Công Bình không sát sinh, sống lương thiện, minh bạch, chân
thành hòa đồng, phục vụ nhân sinh, làm lành lánh dữ, giúp đỡ đồng sinh trợ
nghèo khốn khó, thờ cúng tổ tiên, thực hành tình yêu thương vạn loại qua việc
ăn chay với mục tiêu tối thiểu là đem sự hạnh phúc cho mọi người, đưa mọi người
về với Thượng Đế nơi Thiên giới và mục tiêu tối thượng là đưa vạn loại thoát
khỏi vòng luân hồi. Cho nên mỗi Tín đồ chí tâm cầu nguyện:
" Nam Mô nhứt nguyện : Đại Đạo hoằng khai.
Nhì nguyện : Phổ độ chúng sanh.
Tam nguyện : Xá tội đệ tử
Tứ nguyện : Thiên hạ thái bình.
Đạo Cao Đài chính thức công bố trước
nhân loại, thực hiện lễ Khai Đao vào ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần (Năm 1926).
Tại Chùa Gò Kén Tỉnh Tây Ninh, Việt Nam . Đạo Cao Đài nhanh chóng phổ độ
phát triển cả miền Nam Việt Nam . Theo thống kê năm 1941 của Nhà
Thuộc Địa Pháp số lượng tín đồ Cao Đài 1 triệu 9. Từ miền Bắc, miền
Trung và miền Nam (Nguồn: Le Caodaisme L’ARMEE CAODAISME, par le Chef de
Bataillon A.M. SAVANI de l’Infanterie Coloniale (JUIN-OCTOBRE 1952).
Theo thống kê
dưới thời Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa (1960) tín đồ Cao Đài có 3 triệu. Và thời
đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa (1972), tín đồ Cao Đài trên 4 triệu 3. (Nguồn: Xây
Dựng Nông Thôn).
Về mặt tổ chức
hành chánh Trung Ương Đạo Cao Đài, tại Tòa Thánh Tây Ninh. Chức Sắc hành Đạo có
trên 2 vạn 4, Chức việc có trên 5 vạn 1, điều hành 2.585 Châu Đạo, Tộc đạo và
Hương Đạo. Ngoài ra còn có trên 1.290 cơ sở sinh hoạt Văn hóa, Giáo dục học
đường, truyền thông, giáo lý, phục vụ nhân sanh từ Trung ương đến địa phương.
Đức Phạm Hộ Pháp
I – LỊCH SỬ LẬP ĐẠO
I – LỊCH SỬ LẬP ĐẠO
Những yếu tố thành hình Đạo Cao Đài
a) Quan phủ Ngô Văn Chiêu là một
người có khuynh hướng tu Tiên, thường hay lập đàn cầu cơ thỉnh Tiên về học Đạo
và xin thuốc chữa bịnh, ông có gặp Ðức Cao Đài và có thờ Ngài. Ðức Cao
Ðài có hiện hình Thiên Nhãn (con mắt Trái) làm một huyền diệu để ông đủ tin
tưởng và lấy đó làm biểu tượng thờ phượng. Sự việc đã xảy ra tại đảo Phú Quốc
trong khi ông đang làm quan cho chính quyền Pháp vào năm 1921. Quan phủ Ngô Văn
Chiêu là đệ tử đầu tiên của Ðức Cao Đài, sau có thêm một số đệ tử nữa cùng tu
hành với ông, nhưng những hoạt động của những vị này không đủ khả năng và những
yếu tố chính đáng để thành một tôn giáo mới.
b) Từ năm 1924
– 1925, tại Sài Gòn-Chợ Lớn miền Nam Việt Nam, xuất hiện phong trào xây bàn,
cầu cơ, chấp bút phổ biến lan rộng, thuyết phục được một số trí thức Việt Nam,
nhất là những người đang làm công chức cho Pháp. Thường mỗi đêm họ cùng nhau tụ
họp lại xây bàn thỉnh vong linh của người quá cố để hiện về họa thi tiêu khiển,
tìm hiểu về thế giới vô hình, cũng như về tương lai vận mạng của dân tộc Việt
Nam.
Trong số các
Chơn linh giáng hạ có một Chơn linh đến bằng thần năng điển lực mạnh mẽ phi
thường, không chịu xưng danh mà chỉ xưng A, Ă, Â. Mãi đến đêm Noel 1925 Ông A,
Ă, Â mới cho biết chính Ngài là Đức Chí Tôn, Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngài đến để
lập Đạo Cao Đài. Ngài xưng danh như sau: "
Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam
Phương ".
Từ đó Đức Chí
Tôn thường giáng dạy về đạo lý, chỉ biểu cách thành lập Hội Thánh, Thiên phong
tước phẩm cho những chức sắc buổi ban sơ, và thâu nhận họ làm đệ tử. Như quý
ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Lê Văn Trung... và số bạn bè
trong nhóm trở thành Đại Chức sắc Thiên phong trong Hội Thánh. Quan trọng hơn
hết là vai trò của Ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc giữ phân nửa quyền hành trong Đạo
(Hiệp Thiên Đài phục vụ Thế và Đạo).
Đến ngày 01–9
Bính Dần (07–10–1926). Hai mươi tám (28) người đại diện ký tên vào bảng Tuyên
Ngôn Khai Đạo, gởi lên nhà cầm quyền Pháp. Kể từ đây Đạo Cao Đài chính thức trở
thành một tôn giáo, có đủ pháp lý, pháp nhân tại thế gian. Trong lúc thành lập
Đạo có tất cả 28 vị ký tên vào bảng Tuyên Ngôn Khai Đạo. Vào thời điểm khởi đầu
lập Đạo, Ngài Ngô Văn Chiêu không ký tên vào bảng Tuyên Ngôn Khai Đạo, dù đang
hiện diện, cùng sinh hoạt chung với những đệ tử của Đức Cao Đài, tuy nhiên 28
vị ký tên vẫn tôn trọng Ngài Chiêu là đệ tử đầu tiên của Đức Chí Tôn.
Từ thời điểm
khởi động lập DẠO cho đến khi chính thức thành hình Đạo Cao Đài (Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ) trải qua nhiều thử thách, Đức Chí Tôn chọn người thu nhận làm đệ tử và
lập giáo, như sau:
– Từ năm 1921
Quan Phủ Ngô Văn Chiêu đã biết thờ Đức Cao Đài .
– 1925 Đức Cao
Đài chính thức xưng danh là Ngọc Hoàng Thượng Đế và tuyên bố Giáo Đạo Nam
Phương.
– 1926 một số
môn đồ đầu tiên ký tờ Tuyên Ngôn Khai Đạo gởi cho chính quyền Pháp.
– Đạo Cao Đài
thành hình một tôn giáo, truyền bá lan rộng mạnh mẽ tại miền Nam Việt Nam từ
năm 1926 trở đi, trung ương đặt tại Tây Ninh được gọi là Tòa Thánh.
II – TỔ CHỨC ĐẠO CAO ĐÀI
A) PHẦN QUYỀN
Đạo Cao Đài
quan niệm rằng trong cơ chế Đạo có hai hành quyền là Thiên Thượng và Thiên Hạ.
- Quyền Chí
Linh: Do hành quyền của Đức Chí Tôn và các đấng trọn lành, tức là Thiên Thượng.
- Quyền Vạn
Linh: là hành quyền của ba hội: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội hiệp lại
thành Thiên Hạ.
Bởi Đạo Cao
Đài chủ trương dân chủ, cho nên quyền Chí linh (Thuộc quyền Thiên Thượng) còn
quyền Vạn linh
(thuộc quyền
Thiên hạ) " trên có Trời, dưới có
người " cả hai đồng quyền tự lập luật tu hành cho hợp mọi thời đại. B)
TỔ CHỨC Hành quyền trong Đạo có ba đài: Bát Quái Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu
Trùng Đài, được xem như có hai phần vô hình, và hữu hình.
- Bát Quái
Đài: thuộc về vô hình, do Đức Chí Tôn và các Đấng trọn lành điều khiển, vận
dụng năng lực thần bí trong vũ trụ để thúc đẩy cơ sanh hóa và giục tấn các đẳng
chơn hồn.
- Hiệp Thiên
Đài: là cơ quan bán hữu hình, vì nơi đây tiếp điển, thông công nhận giáo huấn
của Bát Quái Đải. Chức sắc hữu hình, tiếp nhận mệnh lệnh hay lời chỉ giáo của
quyền Chí Linh từ Bát Quái Đài để thực hiện hành quyền Đạo. Đứng đầu Hiệp Thiên
Đài, Đức Ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Hiệp Thiên Đài có nhiệm vụ bảo thủ chơn
truyền luật pháp của Đạo.
- Cửu Trung
Đài: là cơ quan hữu hình, có nhiệm vụ tổ chức đời sống của tín đồ cho phù hợp
với chơn pháp Tam Kỳ Phổ Độ, hành quyền chánh Đạo, và phổ tế nhơn sanh, thi
hành luật pháp Đạo, thông truyền đức tin. Đứng đầu Cửu Trùng Đài là Giáo Tông.
Hay Qu.
Giáo Tông Lê
Văn Trung. Giáo Tông là anh cả của mọi tín đồ. Về mặt hữu hình, Hộ Pháp là em
của Giáo Tông, nhưng về phần Thiêng liêng thì đồng vị. Toàn thể chức sắc làm
việc trong hệ thống Cửu Trùng Đài hiệp lại thành Hội Thánh Cửu Trùng Đài, có cả
nam phái và nữ phái hành quyền riêng biệt.
Toàn thể chức
sắc làm việc trong hệ thống Hiệp Thiên Đài hiệp lại thành Hội Thánh Hiệp Thiên
Đài. Hội Thánh Phước Thiện nằm bên Hiệp Thiên Đài và đặt dưới sự lãnh đạo tối
cao của vị Chưởng quản Hiệp Thiên Đài là Hộ Pháp. Tổ Chức Hội Thánh Cửu Trùng
Đài Trung ương đặt tại Tòa Thánh Tây Ninh, địa phương gồm các tỉnh Trung và Nam
phần Việt Nam, một số tỉnh ở miền Bắc. Ở ngoại quốc cũng có vài Quốc gia có cơ
sở Đạo Cao Đài như: Pháp, Nhựt, Cam-bốt, Lào, Congo...
* Phái Thái điều khiển:
- Hộ viện coi
về tài chánh.
- Lương viện
coi về lương thực.
- Công viện
coi về đường sá, dinh thự.
* Phái Thượng điều khiển:
- Học viện coi
về giáo dục.
- Y viện coi
về y tế.
- Nông viện
coi về canh nông
* Phái Ngọc điều khiển:
- Hòa viện coi
về an ninh, hòa giải.
- Lại viện coi
về hành chánh đạo.
- Lễ viện coi
về tế tự, nghi lễ.
* Tại những địa phương có:
- Trấn Đạo gồm
nhiều Châu Đạo (Tỉnh Đạo)
- Châu Đạo gồm
nhiều Tộc Đạo (Quận Đạo)
- Tộc Đạo gồm
nhiều Hương Đạo (Xã, Làng Đạo)
- Hương Đạo
gồm nhiều Ấp Đạo (Tại Châu Thành Thánh Địa, Phận Đạo tương đương với Tộc Đạo)
Đơn vị hành chánh là Hương Đạo, có công cử Bàn Trị Sự điều khiển tất cả mọi
việc trong Hương Đạo.
Những chức vụ trong Bàn Trị Sự gồm có:
- Chánh Trị Sự
nắm quyền hành chánh và luật lệ trong Hương Đạo.
- Phó Trị Sự
nắm quyền hành chánh trong Ấp Đạo.
- Thông Sự là
ngưòi thay mặt Chánh Trị Sự trong một Ấp, gọi là Thông Lý Đạo, để lo về phần
Luật lệ.
- Và một số
Biện đạo, Tuần đạo, Thư tín...
Theo luật Đạo,
tín đồ liên lạc thường xuyên nhứt với các chức việc Bàn Trị Sự trong các dịp
quan, hôn, tang, tế. Bàn Trị Sự là cơ quan có thẩm quyền xét định và cấp giấy
chứng nhận về hạnh kiểm và đức tánh của tín đồ. Giấy này rất quan trọng trong
mọi hồ sơ về tôn giáo. Chức việc Bàn Trị Sự có quyền phân xử những vụ tranh
chấp giữa những tín đồ với nhau, thường thường dưới hình thức hòa giải, nếu không
xong sẽ đệ trình thượng cấp xét định.
Đức Chí Tôn
lập Ðạo Cao Đài để dạy cho con người làm lành lánh dữ, lập công bồi đức, để trở
thành người hiền, người tốt hữu ích cho thế gian, khi chết Chơn linh được trở
về ngôi vị cũ trong cõi Thiêng Liêng Hằng Sống, tùy theo công đức nhiều ít mà
đạt đến địa vị Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Còn đối với xã
hội, Ngài muốn cho nhân loại có tư tưởng đại đồng, biết thương yêu nhau, coi
nhau như anh em một nhà, thờ một Ông Cha chung.
Ngài xác định
tất cả các Đạo giáo, các giáo thuyết đã có từ trước đến nay đều do chính Thiên
ý Ngài lập ra. Sở dĩ có sự khác biệt giữa các Đạo giáo là vì phong tục, tập
quán, trình độ dân trí của các dân tộc khác nhau tùy theo thời kỳ và tùy theo
từng vùng đất trên địa cầu.
Nay chính mình
Đức Chí Tôn đến, Ngài gom góp những cái hay của tất cả đạo giáo, chỉ dạy thêm
những điều mới lạ mà lập thành Tam Kỳ Phổ Độ nên gọi là Quy Nguyên Tam Giáo
(Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo), Phục Nhứt Ngũ Chi (Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh
đạo, Tiên đạo, Phật đạo).
NHẬP MÔN
I – NGHI LỄ NHẬP MÔN
Bước đầu tiên để một người thường
trở thành tín đồ Cao Ðài là phải nhập môn cầu Ðạo. Ðây là một nghi lễ
hữu hình nhưng nó có giá trị tâm linh và Hội Thánh, cũng như hầu hết các tôn
giáo khác đều làm.
Người nhập môn
phải quì trước Thiên Bàn và nói lên lời minh thệ của mình đại ý như sau:
" Tôi tên là ............. tuổi, thề
rằng: Từ đây biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế chẳng đổi dạ thay lòng, hiệp đồng chư
môn đệ gìn luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục".
Người chứng lễ
là một vị chức sắc đương quyền hành chánh ở cấp nào cũng được. Tại các địa
phương hẻo lánh, không có chức sắc hành Ðạo thì vị Chánh Trị Sự cũng được phép
chứng lễ nhập môn.
II – SỚ CẦU ÐẠO
Sau nghi lễ,
người xin nhập môn đã chính thức trở thành tín đồ Cao Ðài và được cấp một giấy
chứng nhận gọi là “Sớ Cầu Ðạo Tạm”.
Sau sáu tháng tập sự làm quen với các sinh hoạt tôn giáo như cúng lạy, ăn
chay... Nếu chứng tỏ được tinh thần hướng thiện của mình người tân tín đồ sẽ
được cấp "Sớ Cầu Ðạo Thiệt Thọ"
thay cho Sớ Cầu Ðạo Tạm.
Sớ Cầu Ðạo
Thiệt Thọ này sẽ dùng trong suốt đời mình, khi chết sẽ được đốt đi, ý nghĩa là
để cho linh hồn của người chết sử dụng.
Trên sớ Cầu
Ðạo có ghi tên của hai người tiến dẫn mình đi vào cửa Ðạo. Hai người tiến dẫn
có trách nhiệm suốt đời đối với người mới nhập môn.
Sau này, nếu
người tín đồ lập được công đức lớn, người tiến dẫn cũng chung hưởng được một
phần công nghiệp, còn nếu làm điều đại tội trong cửa Đạo, người tiến dẫn cũng
phải chung chịu một phần trách nhiệm.
Tuy luật lệ
hữu hình không ràng buộc nghiêm khắc như vậy, nhưng về mặt tâm linh quả thật có
như thế. Cho nên khi đã kết nghĩa làm bạn đạo với nhau, phải biết giữ gìn cho
nhau khỏi bị sa ngã, đối sử với nhau bằng lòng thành thật tín nhiệm và hòa hiệp,
là những điều căn bản y như lời kinh đã dạy:
"Ðạo gốc bởi lòng thành tín
hiệp..."
III – TẠI SAO PHẢI NHẬP MÔN
Làm lễ nhập môn có ích lợi gì?
Tại sao phải minh thệ?
Về mặt hữu hình, trước nhất nó có ý
nghĩa của một lời tuyên thệ công khai rằng người tín đồ bằng lòng đặt mình
trong kỷ luật của Hội Thánh. Hành động này hoàn toàn tự do, có ý thức, không ai
bắt buộc mình cả. Rồi tự mình khép khuôn trong kỷ luật ấy, vì danh dự của tập
thể, vì sự tôn trọng lời hứa mà các bạn đạo, chức việc, chức sắc bề trên mới có
thể và có quyền can thiệp vào đời sống tư riêng của mình buộc phải sửa đương
cho nên hiền, nên Thánh. Thoảng như mình không gia nhập vào Ðạo Cao Ðài thì
những người kia chỉ là xa lạ, đâu ai có quyền can dự vào đời sống của mình,
ngăn cản, khuyên bảo việc dữ, điều lành. Vả lại chung sống với nhau trong đoàn
thể, anh ngã em nâng, đâu đâu cũng có bạn hữu là một điều lợi trước mắt cả về
tinh lẫn vật chất.
Còn về phương diện vô hình, khi
người tín đồ lập thệ rồi thì sẽ được Thần linh theo phò hộ, nếu họ thật tâm cải
tà qui chánh. Đây là điểm hệ trọng, con người có thể dối gạt được người phàm
nhưng không thể nào dối gạt được Thần linh. Thần linh đến phò hộ chúng ta bằng
sự giao cảm, nên nếu không thật tâm tu hành, dầu đã nhập môn cũng sẽ chẳng thấy
một ân huệ nào cả. Vả lại nếu không dám hứa nhập môn theo Đạo trước mặt Thần
linh thì Thần linh không nhận mình làm đệ tử. Ấy là lẽ đương nhiên.
Lúc mới khai đạo tại Cần Giuộc, có
một Ðàn Cơ, Ðức Chí Tôn giảng dạy như sau: "Qủy
vương đến trước Bạch Ngọc Kinh xin hành xác và thử thách các con. Thầy chẳng
cho hành xác, chúng nó hiệp Tam Thập Lục Ðộng toan hại các con, nên Thầy sai
Quan Thánh và Quan Âm đến giữ gìn các con. Nhưng phần đông chưa lập minh thệ
nên chư Thánh, Thần, Tiên, Phật không muốn nhìn nhận". (Thánh ngôn
Hiệp Tuyển Quyển 1, 1969 – trang 37).
IV – GIẢI OAN TẮM THÁNH
Còn một điều ích lợi nữa về mặt thần
quyền là sau khi lập thệ rồi, nếu may duyên gặp được vị chức sắc có thọ truyền
Bửu pháp sẽ được làm phép giải oan để rửa sạch tội tình oan nghiệt đã gây ra từ
trước. Tâm thần của người tín đồ sẽ cảm thấy nhẹ nhàng hơn trước. Bí pháp này
nhằm đem đến cho thể xác ân điển thiêng liêng thanh khiết, xua đuổi tà khí ra
khỏi xác thân. Đức Chí Tôn có dạy: "Chơn
thần của các con gặp tà khí thì khó chịu nên Thầy xuống điển nhiều để ngăn tà
mị, một đôi khi phải nhập xác vì điển xuống nhiều. Cũng một lẽ ấy mà mỗi lần
lập thệ đều có nhập xác". (Thánh
Ngôn Hiệp Tuyển Quyển II, 1970 – trang 90).
Đối với trẻ sơ sinh, cha mẹ có bổn
phận phải đem nó lên Thánh Thất hay Đền Thánh để làm phép Tắm Thánh. Điều thứ
12 chương thế luật của Bộ Tân Luật ĐĐTKPĐ ghi rõ như sau:
“Đứa con nít khi được một tháng sắp lên phải đem lên Thánh Thất sở tại
mà xin làm lễ Tắm Thánh và ghi vào Bộ Sanh của bổn đạo”.
Sau nghi lễ này, đứa trẻ sẽ được coi
là tín đồ trên mặt pháp lý. Nó được cấp giấy chứng nhận gọi là "Giấy Tắm Thánh". Cha mẹ có
bổn phận gìn giữ giấy này cho đến khi nó trưởng thành. Theo luật lệ hiện hành
của Hội Thánh, đến năm 18 tuổi, đứa trẻ được coi là trưởng thành. Nó phải làm
lễ nhập môn minh thệ và đem giấy tắm thánh đổi lấy Sớ Cầu Đạo Thiệt Thọ. Hội
Thánh sẽ ghi tên nó vào Bộ Đạo chính thức từ đâỵ Sở dĩ có sự ràng buộc này là
khi còn bé thơ, cha mẹ đem nó đi Tắm Thánh, nó chưa có ý thức gì về hạnh động
này cả. Việc làm này hoàn toàn do cha mẹ định đoạt. Giờ đây đứa bé đã trưởng
thành nó có ý thức và trách nhiệm đối với mọi hành động của nó. Nó được hoàn
toàn tự do xác định rằng nó muốn theo Đạo Cao Đài hay không tùy ý nó. Thoảng
như nó nhất quyết từ chối không theo Đạo, luật lệ của Hội Thánh cũng không buộc
tội nó hoặc cha mẹ nó. Nếu không nhập môn, không có Sớ Cầu Đạo thì kể là không
có Đạo.
Còn về mặt thần quyền, Bí pháp Tắm
Thánh cũng có ý nghĩa như phép Giải oan, nghĩa là đem ân điển thiêng liêng
truyền vào cơ thể hài nhi để giúp nó phát triển dễ dàng cả về tâm linh lẫn thể
chất theo chiều hướng tốt đẹp. Đối với trẻ người ta coi là vô tội, ít nhứt từ
khi mới sinh ra, nên dùng chữ "Tắm
Thánh" chứ không dùng chữ "Giải
Oan" vì nó chưa gây nên oan nghiệt gì cả.
Tại sao cha mẹ có bổn phận phải đem
con đi làm lễ Tắm Thánh?
Khi một Chơn linh xuống trần, quyết
định chọn lựa gia đình có đạo đức để đầu thai làm con, Chơn linh ấy xét thấy có
nhiều hy vọng để được bậc cha mẹ nuôi dưỡng suốt thời kỳ thơ ấu trong nếp sinh
hoạt đạo đức, hy vọng được hưởng ân huệ của Đức Chí Tôn ban cho trong Tam Kỳ
Phổ Độ này, được Chí Tôn ân xá tội tình từ kiếp trước. Nếu bậc cha mẹ không đem
trẻ con đi Tắm Thánh, nó sẽ không hưởng được ân lành của Đức Chí Tôn ban cho và
con đường tấn hóa của nó có thể gặp trở ngại vì những quả nghiệp xấu mà nó đã
gây ra từ bao kiếp trước và vì chưa được ân xá nên phải trả theo luật công bình
thiêng liêng vậy. Trách nhiệm ấy về phần cha mẹ gánh chịu trực tiếp vì bậc cha
mẹ là người hiểu Đạo mà không lo tròn bổn phận đối với con trẻ, làm chậm trễ
con đường tấn hóa của các Chơn linh xuống trần.
ĂN CHAY
1 . LUẬT ĐẠO VỀ VIỆC ĂN CHAY
– Điều thứ 12 Bộ Tân Luật của Đạo
Cao Đài ban hành từ ngày lập giáo đến giờ qui định như sau:
"Nhập môn rồi gọi là tín đồ. Trong hàng tín đồ có hai bực: Một bực
còn ở thế có vợ chồng làm ăn như người thường song buộc phải trai kỳ hoặc 6 hay
10 ngày trong tháng, phải giữ ngũ giới cấm và phải tuân theo Thế Luật của Đại
Đạo truyền bá. Bực này gọi là người giữ Đạo mà thôi, vào phẩm hạ thừa. Một bực
đã giữ trường trai, giới sát gọi là vào phẩm thượng thừa".
– Điều thứ 14 nói rằng:
"Chức sắc cai trị trong Đạo từ bực Giáo Hữu sắp lên phải chọn trong
bực người thượng thừa mà thôi".
Ăn chay theo Đạo Cao Đài có nghĩa là
nuôi dưỡng cơ thể bằng chế độ thực phẩm gốc ở thực vật. Người tín đồ không được
phép ăn thịt của bất cứ loại động vật nào trong ngày chay lạt từ con thú lớn
như thịt bò, thịt heo cho đến tôm cua. Nói một cách khác, thực phẩm mà họ dùng
không do một vụ sát sanh động vật mà có.
Trong thời hạn 6 tháng tập sự kể từ
ngày nhập môn, người tín đồ phải cố gắng ăn chay từ 6 ngày mỗi tháng, tập lần
lên đến 10 ngày mỗi tháng, và có thể dừng lại ở mức này cho đến suốt đời nếu
không muốn đi xa hơn nữa.
Những ngày chay được tính theo âm lịch:
– Trai kỳ 6 ngày mỗi tháng là: Mồng
1, 8, 14, 15, 23 và 30 (tháng thiếu thì ăn chay ngày 29 thế cho ngày 30).
– Trai kỳ 10 ngày mỗi tháng là: 1,
8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30 (tháng thiếu thì ăn chay ngày 27).
Tưởng cũng nói rõ nơi đây vấn đề
dùng trứng, sưã, tôm khô, cua hay mực.
Tôm, cá, mực, cua là những loại động
vật, ăn thịt những loại này, dù khô hay tươi vẫn phải kể là ăn mặn. Sữa gốc ở
cơ thể động vật tiết ra, nhưng không phải là sát sanh, nên được phép dùng trong
ngày chay. Vấn đề trứng phức tạp hơn, hiện nay hai loại trứng thường dùng trong
thực phẩm là trứng gà và trứng vịt, thực phẩm này cũng lấy từ cơ thể động vật
mà ra, dù không sát sanh con thú mẹ nhưng nếu có trống, trứng có thể hườn
nguyên hình một con thú mới. Do đó ăn loại trứng có trống này là gián tiếp ăn
thịt một con thú sắp tượng hình. Trường hợp ăn trứng đã tượng hình rồi thì
đương nhiên là đang ăn thịt một con "thú
con", vậy không thể nào gọi là ăn chay được.
Nếu trứng không có trống thì trứng
ấy chẳng khác nào một thứ sữa do thú vật bài tiết ra, dù có ấp cũng không nở ra
con được, người ăn chay có thể tạm dùng được ngoài 10 ngày chay và trong lúc
bịnh hoạn, kém sức.
Nếu phải xếp loại, chúng ta có thể
hiểu như thế này, giữa hai hạng người trường trai hoàn toàn (dùng toàn thực
phẩm gốc ở thực vật) và hạng ăn mặn (dùng thịt của thú vật) có một hạng ở giữa
cũng ăn chay nhưng còn dùng sữa thú vật và trứng không trống.
Tóm lại, dùng tôm, cua, khô mực,
trứng có trống, không thể kể là ăn chay được. Nếu cá nhân người nào còn dùng
những thức ăn này ấy là vì cơ thể họ chưa quen được với chế độ trường trai đúng
nghĩa, họ đang tập lần, chớ luật Đạo Cao Đài không có phép dùng những thức ăn
này trong ngày chay. Có nhiều người đã hiểu lầm về việc này. Hành động của cá
nhân là một việc, không thể nào đồng hóa với luật pháp được.
– Ăn chay bù: Vấn đề thứ hai là có
thể ăn chay vào một ngày khác hơn ngày ấn định để bù lại vì đã ăn mặn vào một
ngày chay, hay vì nhưng lý do nào đó, thí dụ: tiệc tùng, hay vì nể lời nói của
bạn bè hay chính mình không nhớ ngày ăn chay...
Nhập môn cầu đạo là hành động tự
nguyện, hứa tùng theo luật Đạo cũng là hành động tự nguyện, không ai bắt buộc
mình, nhưng một khi đã cam kết tức phải có sự ràng buộc, nếu một người đã cam kết
điều gì rồi chính mình xem lời hứa của mình như không có, còn ai có thể tin
mình được? "Nhơn vô tín bất
lập", cổ nhân vẫn thường nói, vì vậy mà giáo luật có tính cách bắt
buộc người tín đồ phải giữ trai giới trong những ngày đã ấn định. Để tập cho họ
có đức tính tốt là luôn luôn phải nhớ lời hứa, chứng tỏ một nghị lực, muốn vượt
qua những cám dỗ của thể xác và đời sống trần tục, một ý chí muốn tu hành. Ít
nữa trong một phạm vi nhỏ hẹp là sự ăn uống, giữ đúng trai kỳ là một hành động
nói lên phần nào tinh thần của người tín đồ quyết tâm làm chủ thân xác và dục
vọng của mình. Ý chí ấy là một điều kiện rất quan hệ và cần thiết trong mọi cố
gắng cải thiện con người mình. Ăn chay bù lại những ngày không giữ được giới
luật là hành động dễ dãi nuông chìu dục vọng của mình. Nếu không thể giữ được
tốt hơn nên can đảm nhìn nhận khả năng của mình đến mức đó, ấy rồi cố gắng khắc
phục dần dần những trở ngại chớ không nên tìm cách đánh tráo để cho tâm trí
mình được yên ổn.
Trai kỳ đã được ấn định thành quy
luật, tức cần được phải tuân theo, chúng ta không nên sửa cải, thay thế ngày
chay này bằng một ngày chay khác. Đành rằng Đức Chí Tôn có hứa "giữ trai kỳ 10 ngày đổ lên trong tháng
thì được thọ truyền bửu pháp", thay thế ngày này bằng ngày khác thì
tổng số cũng đủ 10 ngày, song về mặt tâm lý đã tỏ rõ yếu kém, xem lời minh thệ
"gìn luật lệ Cao Đài" nhẹ
hơn lời mời của bạn hữu trong bữa tiệc hay trong một cơn thèm muốn của vị giác.
Tóm lại đối với vấn đề ăn chay bù này không nên dễ duôi đối với xác thân, mà
cần phải buộc nó tuân theo kỷ luật tối thiểu của đời tu để làm căn bản.
Không ăn chay, làm việc thiện:
Tới đây một vấn đề được đặt ra là
nếu như một người không ăn chay mà làm việc thiện, có tính tốt với mọi người
thì sao? Người ta vẫn hỏi như vậy và còn có ý so sánh với những kẻ ăn chay
nhưng hành động thường nhật rõ ràng chẳng tốt đẹp gì. Lẽ dĩ nhiên ăn chay chỉ
là việc nhỏ trong đời sống của người tín đồ, còn phải làm nhiều việc khác nữa,
nhứt là sự trau giồi tâm linh mình cho nên Hiền nên Thánh. Còn sự so sánh, chúng
ta nên so sánh mình với những bậc mà thiên hạ đều kính yêu để bắt chước điều
hay lẽ phải nơi họ chớ đừng nên so sánh với kẻ giả tu làm gì. Nếu thấy mình
hãnh diện khi so sánh với kẻ giả tu hay kẻ có lòng thành nhưng hãy còn ở mức độ
thấp kém, chúng ta nên hiểu rằng, niềm hãnh diện ấy chính là lòng kiêu ngạo,
khoe khoang của chính mình đã biến dạng thành một trạng thái tâm lý như vậy.
Nếu thật sự muốn hoàn thiện chúng ta nên dứt bỏ những ý nghĩ so sánh ấy. Dĩ
nhiên sự thành thật là điều đáng quí vô cùng trong đời sống của người tín đồ.
Cố gắng ăn chay không thôi cũng đáng quí, làm việc thiện cũng quí, mà có được
cả hai càng tốt, miễn rằng chúng ta thành tâm muốn sửa đổi con người mình luôn
luôn.
2 – Ý NGHĨA CỦA SỰ ĂN CHAY
Hành động ăn chay có ý nghĩa gì
khiến giáo luật phải buộc nghiêm khắc như vậy?
Chúng ta hiểu rằng chi chi hữu sanh
cũng do bởi Chơn linh Đức Chí Tôn mà ra, hễ có sống ắt có Ngài trong đó. Ngài
là Cha của sự sống, lòng háo sanh của Ngài không cùng tận. Ngài đã phân tánh
Ngài mà sinh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, nhơn loại,
gọi chung là chúng sanh.
Nhơn loại là bậc tiến hóa cao hơn
các loài kia thì vai tuồng chẳng khác người anh cả trong gia đình đối với các
em vậy. Kẻ nào làm được hành động phi thường, yêu thương cả chúng sanh như yêu
thương chính thân mình vậy, bảo bọc, nâng niu, che chở cho đời sống của muôn
loài vạn vật... kẻ ấy được tôn trọng lên hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ngược
lại, kẻ nào cướp đoạt mạng sống của chúng sanh để béo bổ thân mình ắt phải bị
đền bồi mới đúng luật công bằng tạo hóa. Như thân ta đây lấy từ cát bụi đắp nên
hình, chết phải trở về cát bụi. Cỏ cây hút phân mà sống, rồi thú vật ăn cây cỏ
nên hình, người ăn thịt thú và cỏ cây, người chết đi thân thối vữa trở thành
phân, đất để cỏ cây đòi lại những chất bổ ấy. Người đã cướp mạng sống của cỏ
cây, giờ đây phải đền mạng, để cỏ cây mọc lại trên thân xác mình vừa biến thể.
Tấn tuồng ấy đã tạo thành vòng luân
hồi triền miên từ tạo thiên lập địa đến giờ. Càng sống lâu càng khôn ngoan, luân
hồi nhiều kiếp mới đạt đến địa vị con người là anh cả của thú vật, thảo mộc và
vật chất, vốn là anh em do một nguồn gốc với nhau từ một Ông Cha chung là Chí
Tôn mà ra.
Nếu muốn thoát cửa luân hồi, ngừng
nghỉ cuộc tử sanh máu đổ thịt rơi, chỉ có một cách là hãy mở rộng tâm thần nhìn
thẳng vào chúng sanh, sẽ thấy hình ảnh của chính mình trong đó, sẽ thấy mọi
người là ruột thịt với nhau.
Tình thương thiêng liêng ấy sẽ buộc
ta dừng tay chém giết lại. ấy là lòng bác ái, là ý nghĩa của sự ăn chay. Bất
sát sanh là lịnh truyền của Đức Chí Tôn và ăn chay là một trong muôn ngàn cách
thực hiện lời dạy ấy. Bởi vậy hành đông ăn chay phải đi kèm với ý tưởng muốn mở
rộng lòng yêu thương của mình xóa bỏ hận thù với tất cả mọi người, mọi vật.
Thế nhưng ăn chay nào tránh khỏi sát
sanh đâu, ăn thảo mộc cũng là sanh vật vậy? Quả nhiên như thế, ai đã đến cõi
trần nầy mang lấy xác thân, ắt có luân hồi vay trả, chưa dễ gì không ăn mà
sống, nên thôi đành hiệp nhau lại mà làm một điều luật định cho kẻ nào bớt được
việc sát sanh, nhứt là đối với những sinh vật thân thích, gần gủi với mình hơn
hết, thì đồng công nhận kẻ đó có được lòng thương rộng rãi nên ban cho phẩm vị
học đòi theo hàng Thánh, Thần, Tiên, Phật.
Ấy vậy quyền của vạn linh đã định
cho kẻ nào chỉ ăn hoa quả, thảo mộc mà sống cũng vào hàng từ tâm, bác ái, cũng
đáng gọi là "bất sát sanh",
tuy rằng chẳng phải nghĩa cho lắm, nhưng xét ra cũng ít người làm được, thì địa
vị tôn trọng kia cũng không có gì là quá đáng.
Vậy thì hành động ăn chay có ý nghĩa
là biết thương mình, thương người, thương cả chúng sanh, tình thương ấy biểu lộ
một cách tích cực trong hành động chớ không phải trong lời nói suông.
3 – TÁC DỤNG THẦN QUYỀN
Thánh giáo của Đức Chí Tôn có dạy
rằng: "Mọi kẻ phàm dưới thế này đều
có hai xác thân. Một phàm gọi
là Corporel. Còn một thiêng liêng là Spirituel. Mà cái thiêng liêng do nơi cái
phàm mà ra nên gọi là bán hữu hình, vì có thể thấy đặng mà cũng không thấy
đặng. Cái xác vô hình huyền diệu, thiêng liêng ấy do nơi Tinh Khí Thần mà luyện
thành. Nó nhẹ nhàng hơn không khí ............................."
Đức Chí Tôn
gọi xác thần thứ hai này là Chơn thần. Ngài lại dạy: "Nó vẫn là chất, tức hiệp với không khí Tiên Thiên thì hằng có
điển quang. Cái Chơn thần buộc phải tinh tấn, trong sạch mới nhẹ hơn không khí,
ra ngoài Càn khôn đặng". (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I, 1969 – trang
30).
Một trong
những điều kiện để làm cho Chơn thần nhẹ nhàng tinh tấn, trong sạch là người tu
phải ăn chay trường, vì phải có thân phàm tinh khiết mới xuất Chơn linh tinh
khiết. Lẽ dĩ nhiên chỉ ăn chay trường không thôi không đủ để làm cho người ta
trở nên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật. Như điều kiện này rất cần thiết vì khi
còn ăn mặn mà luyện đạo, nếu như hườn hình được nhị xác thân, thì Chơn thần ấy
vẫn còn chứa trược khí trong đó, mà trược khí là một chất tiếp điển nên chưa ra
khỏi làn không khí đã bị sét đáng tiêu diệtrồi. Còn nếu như Chơn thần khôn
ngoan hơn, không xuất ngoại càn khôn, ẩn núp tại thế, thì kiếp đọa trần cũng
chưa mãn.
Vì vậy mà Đức
Chí Tôn buộc người tu vào bậc Thượng thừa phải trường trai giới sát. Còn đối
với bậc Hạ thừa Ngài không buộc trường trai, song ít nhứt phải giữ đặng 10 ngày
trai trở lên mỗi tháng. Ngài có hứa rằng kẻ nào giữ đặng trai kỳ 10 ngày trở
lên được thọ truyền bửu pháp và Hội Thánh thực hiện lời hứa ấy bằng cách làm
phép xác cắt bảy dây oan nghiệt cho người nào tới lúc chết còn giữ được 10 ngày
chay mỗi tháng. Về phần chức sắc đã có thọ phép giải thể, chết về đời sống về
đạo thì đặng phép độ thăng, khỏi cắt bảy dây oan nghiệt.
Đức Bát Nương
Diêu Trì Cung lại còn giảng rõ về Âm quang như sau:
"... Nơi ấy là những chỗ phạt tù những
hồn vô căn, vô kiếp nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế... kỳ thật là nơi
để cho các chơn hồn giải thần định trí (một nơi trung gian giữa Thiên đường và
Địa ngục hay là mờ mờ mịt mịt).
Ấy là một cái quan ải, các chơn hồn khi qui
Thiên, phải đi ngang qua đó. Sự khó khăn bước khỏi qua đó là đệ nhứt sợ của các
chơn hồn. Nhưng tâm tu còn lại chút nào nơi xác thịt con người, cũng nhờ cái sợ
ấy mà lo tu niệm. Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi trăm
năm, tùy Chơn thần thanh trược. Chí Tôn buộc trường trai cũng vì quan ải
ấy". (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển,
Quyển II, 1970 – trang 88).
Lời giải thích
đã khá rõ ràng ăn chay có tác dụng làm cho Chơn thần được thanh khiết là điều
kiện cần thiết để vượt khỏi Âm quang về cỏi Thiêng liêng hằng sống.
Hai tiếng
thanh trược nơi đây có một ý nghĩa tương đối mà thật vậy, có gì là tuyệt đối
trong cõi đời này đâu. Chơn thần của một người được gọi là thanh, xét về phương
diện thần quyền, đâu phải chỉ có ăn chay là đủ, mà còn phải muôn ngàn điều kiện
khác nữa. Đức Chí Tôn có hứa cho thọ truyền bửu pháp kẻ nào giữ trai giới 10
ngày trở lên. Đó là một điều kiện cần thiết riêng trong lãnh vực ăn uống, chớ
thật ra bao nhiêu ngày chay đó cũng chưa chắc đủ làm cho Chơn thần siêu thoát
được. Bởi vậy khi hứa cho tín đồ được phép giữ 10 ngày chay, Đức Chí Tôn đã
buộc liền, phải tạo nhiều công đức, rồi công đức ấy cộng với sự trai giới định
kỳ làm cho Chơn thần tương đối thanh, nó mới có thể nương nhờ nơi ân điển
thiêng liêng thanh khiết hơn nhiều lắm, núp theo đó mà thăng dần đến các cõi
cao siêu tịch diệt. Ấy vậy mới có những giáo pháp không cần đòi hỏi tín đồ phải
giữ trai giới mà vẫn tạo ngôi Thánh, Thần, Tiên, Phật được. Không giữ trai giới
nhưng tạo được nhiều công nghiệp, tâm linh rộng mở, môn đồ của những giáo pháp
không ăn chay ấy vẫn tạo được Chơn thần thanh theo nghĩa tương đối nên vẫn về
được ngôi vị cũ, vẫn được thần linh độ hồn về cực lạc.
Tích cực là
tạo công đức, tiêu cực là trì tâm giới sát, bù qua sớt lại tới mức nào đó, thì
Chơn thần gọi là thanh, đương nhiên được sống nơi cõi phù hợp với trạng thái
của nó.
Đạo vẫn như
nhiên, pháp lịnh của trời đất xưa nay vẫn không thay đổi dù giáo pháp của những
vị giáo chủ có đổi thay.
Ấy vậy luật
pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho ăn chay 10 ngày rồi trường trai không có gì
ngược với bí pháp của Đạo Thánh Ki Tô, Đạo nhân của Khổng Tử, Đạo Phật của
Thích Ca, hay Vô Vi của Lão Tử... Chúng ta thấy có sự khác biệt ở chỗ có ăn chay
hay không, nhưng bí pháp hằng sống của Chơn thần chẳng hề khác nếu người ta
chịu hiểu cho đến tận cùng giáo lý của các vị giáo chủ ấy, nhứt là nền tảng
siêu hình, là phần Hình Nhi Thượng, chớ đừng hiểu ở ngọn, ở chữ nghĩa của kinh
điển.
THỜ CÚNG
I . CÚNG ĐẠI ĐÀN TẠI THÁNH THẤT
Tân Luật Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ điều thứ 19 buộc mỗi tín đồ phải đến Thánh Thất tham dự các
đàn cúng vào ngày mồng một và Rằm mỗi tháng âm lịch và sau đó nghe giảng đạo.
Trường hợp bận việc riêng bất khả kháng thì được chế giảm.
Để kiểm soát
sự siêng năng chầu Lễ Đức Chí Tôn của tín đồ, Hội Thánh đã cho áp dụng thể thức
chứng sổ lưu niệm mỗi lần dự lễ. Có hai hình thức cúng đàn: Đại đàn và Tiểu
dẫn.
Nghi tiết cúng
Đại đàn tại các Thánh Thất được tóm lược như sau:
– Đến giờ
cúng, Lễ vụ đánh ba hiệp trống, mỗi hiệp 12 hồi, mỗi hồi 12 tiếng. Giờ cúng
được ấn định vào thời Tý (00 giờ) hoặc thời Ngọ (12 giờ trưa). Trước khi đánh
trống phải đọc câu kệ trống.
* Chú Kệ Trống:
Lôi âm thánh cổ triệt hư không Truyền
tấu Càn khôn thế giới thông Đạo pháp
đương kim đương chánh giáo
Linh quang chiếu diệu Ngọc Kinh Cung.
Dứt mỗi câu kệ
phải đánh một tiếng trống hoặc một tiếng chuông tùy theo bài kệ.
– Xong đến 3
hiệp chuông cũng y như đánh trống
* Chú kệ chuông:
Thần chung thính hướng triệt Phong đô
Địa tạng khai môn phóng xá cô
Tam kỳ vận chuyển kim quang hiện
Sám hối âm hồn xuất u đồ.
Dứt mỗi câu kệ
phải đánh một tiếng trống hoặc một tiếng chuông tùy theo bài kệ.
– Khi chuông
đổ được hai hiệp, chức sắc chức việc và tín đồ xếp thành hàng đi vào Thánh
Thất, hai tay bắt ấn Tý (Cách bắt ấn Tý như sau: ngón cái của bàn tay trái chỉ
vào gốc của ngón áp út, xong nắm các ngón tay lại. Dùng ngón cái của bàn tay
phải chỉ vào gốc của ngón trỏ bàn tay trái, còn 4 ngón kia bao phía ngoài bàn tay
trái. Khi bắt ấn này thì tâm thần phải yên tịnh.), theo thứ tự nam tả nữ hữu
(nhìn từ trong ra ngoài), phẩm lớn trước, phẩm nhỏ sau. Tất cả đứng dọc theo
hai bên, mặt quay vào nhau.
– Chuông dứt,
Lễ vụ khắc 3 tiếng chuông báo hiệu nhập đàn, tất cả đều xá một xá, xong bước
vào giữa chánh điện, mắt nhìn về phía Thiên Nhãn.
– Nhạc tấu
huân thiên: ban nhạc trổi bản hòa tấu rất đặc biệt kéo dài khoảng nửa giờ. Mọi
người đều đứng yên tại vị trí của mình, cố gắng giữ tâm hồn cho yên tịnh.
– Niệm Thánh:
dứt phần nhạc, nghe theo tiếng chuông của Lễ vụ tất cả đều xá 3 xá, quì xuống
đưa tay lên giữa trán niệm "nam mô
Phật", đưa tay bên trái niệm "nam
mô Pháp", đưa tay bên phải niệm "nam
mô Tăng", đưa tay giữa ngực niệm:
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Nam mô Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.
Nam mô chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư
Thần".
Mỗi câu niệm
phải cúi đầu kính lễ.
– Đọc kinh:
niệm Thánh xong đồng nhi bắt đầu đọc các bài kinh sau đây:
*
Niệm Hương: "Đạo gốc bởi lòng
tín hiệp..."
Khi dứt lạy 12
lạy, nghĩa là 3 lần cúi xuống, mỗi lần 4 gật (vì mỗi gật tương trưng cho một
lạy), mỗi lần gật đầu đều có niệm chú Chí Tôn: “Nam mô Cao Đái Tiên Ông Đại Bồ
Tát Ma Ha Tát".
– Chú ý khi
cúi xuống lạy hai bàn tay xòe ra úp sát mặt đất, giữ cho 2 ngón tay chéo nhau
khi ngẩng đầu lên thì bắt ấn Tý lại như cũ.
*
Khai Kinh: "Biển trần khổ vơi
vơi trời nước..." Khi dứt cúi đầu chớ không lạy.
*
Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế:
"Đại La Thiên Đế..." Khi dứt
lạy 12 lạy như trên, niệm chú Chí Tôn. "Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát ".
*
Phật Giáo Tâm Kinh: "Hổn độn Tôn sư..." Lạy chín (9) lạy nghĩa là
3 lần cúi xuống mỗi lần 3 gật. Niệm chú tại mỗi gật: "Nam mô Nhiên Đăng Cổ Phật Đại Bồ Tát Ma Ha Tát".
*
Tiên Giáo Tâm Kinh: "Tiên Thiên
khí hóa..." Lạy chín (9) lạy như trên. Niệm chú: "Nam mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn".
*
Thánh Giáo Tâm Kinh: "Quế hương
nội điện..." Lạy chín (9) lạy như trên. Niệm chú: "Nam mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn...".
*
Dâng Tam Bửu: Đồng nhi đọc các bài thài sau đây:
– Dâng Hoa: "Từ bi giá ngự rạng môn thiền..."
– Dâng rượu: "Thiên ân huệ chiếu giáng thiền
minh..."
– Dâng trà: "Mai Xuân nguyệt cúc vị trà
hương..."
Dứt mỗi bài
thài lạy 4 lạy nghĩa là chỉ có một lần cúi xuống, 4 lần gật.
Lời cầu nguyện
khi dâng tam bửu như sau:
– Khi dâng hoa
cúi đầu xuống cầu nguyện Đức Chí Tôn như sau: "Con xin dâng mảnh hình hài của con cho Chí Tôn dùng phương nào
thì dùng."
– Khi dâng
rượu cúi đầu xuống cầu nguyện Đức Chí Tôn như sau: "Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng
phương nào thì dùng."
– Khi dâng trà
cúi đầu xuống cầu nguyện Đức Chí Tôn như sau:
"Con xin dâng cả linh hồn của con cho
Chí Tôn dùng phương nào thì dùng."
Và cầu nguyện
luôn câu sau đây:
" Cả linh hồn, cả trí não, cả hình hài
con, Thầy đào tạo, đó là của Thầy thì do nơi quyền hành độc đoán của Thầy
định."
Trích lời
thuyết đạo của Đức Hộ Pháp Quyển 1 trang 115.
*
Dâng Sớ: Sau khi đọc sớ và đốt sớ xong, lạy 12 lạy, niệm chú Chí Tôn.
*
Đọc bài kinh ngũ nguyện:
"Nam mô nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai
Nhì nguyện phổ độ chúng sanh
Tam nguyện xá tội đệ tử
Tứ nguyện thiên hạ thái bình
Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh".
Niệm chú Chí Tôn. "Nam Mô Cao Đài Tiên Ông
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát ."
Phần nghi lễ cúng tế xong, tất cả
đứng dậy xá 3 xá, quay ra sau lưng (nhớ quay đồng lượt phía bên vai trái), xá
bàn Hộ Pháp một xá (Sau Đức Hộ Pháp có chữ Khí) lui về hai bên đàn nội, nam tả
nữ hữu (nhìn từ trong ra ngoài).
* Phần thuyết Đạo của Chức sắc: (nếu
có).
* Bãi Đàn: Lễ Vụ đến dọng chuông bãi
đàn và kệ các câu chú như sau:
- "Đàn tràng viên mãn chức sắc quy nguyên vĩnh mộc từ ân phong điều
võ thuận"
(đánh một tiếng đại hồng chung)
- "Thiên phong hãi chúng quốc thới dân an, hồi hướng đàn đường tận
thâu pháp giái."
(đánh một tiếng đại hồng chung)
- "Án dà ra để dạ ta bà ha". (đánh một tiếng đại hồng chung).
Tất cả nghiêm trang xá đàn, đoạn
theo thứ tự duy chuyển ra khỏi điện. (người đứng phía trong ra trước, ngoài ra
sau, y như trật tự khi vào Thánh Thất).
II . CÚNG ĐẠI ĐÀN TẠI TÒA THÁNH
Đền Thánh tại Tòa Thánh Tây Ninh là
nơi trung ương, nghi tiết cúng đại đàn có phần khác hơn đôi chút ở những điểm
sau:
a) Hoán đàn:
khi vào bên trong Đền Thánh vẫn giữ theo thứ tự nam tả nữ hữu (nhìn từ trong ra
ngoài). Cả chức sắc, chức việc và đạo hữu của mỗi phái nam, nữ đều đi thành một
vòng tròn ngược chiều nhau, nam theo nam, nữ theo nữ, gọi là đi hoán đàn. Khởi
sự từ chỗ bước vào, ngang ngai Hộ Pháp, phía nam đi thẳng lên Bát Quái Đài, đi
ngang qua cung Đạo (khoảng trong giữa bàn thờ Đức Chí Tôn và ngai Giáo Tông,
vòng qua bên phía nữ, xuống tận ngai Hộ Pháp, đi ngang qua trước mặt ngai, trở
lại vị trí bắt đầu khi nãy tức là giáp được một vòng, rồi mới tiến đến vị trí
của mỗi người tùy theo hàng phẩm lớn nhỏ để chờ khởi sự cúng.
Phái nữ cũng đi thành một vòng như
vậy nhưng ngược chiều phái nam.
Ý nghĩa của pháp đi hoán đàn được
Đức Hộ Pháp giải thích như sau:
"Tại sao phải hoán đàn nam nữ chen nhau? Đó là bùa pháp luân thường
chuyển. Tại sao Chí Tôn để bùa pháp luân thường chuyển tại thế này, đặng chi
vậy? Hiện đã mãn Hạ ngươn tam chuyển, Thượng ngươn tứ chuyển ta gọi là khai
ngươn nên phải để cho pháp luân chuyển. Ta đã biết thời Tiên Thiên khí và hậu
Thiên Khí chuyển làm một mới đạt đạo đặng. Cả thảy đều biết qua Cửu Trùng Đài
này là Cửu Thiên Khai Hóa, còn cung trên kia là cung Đạo, từ trước đến nay mỗi
người mải miết tìm Đạo mà Chí Tôn để giữa đó, trước mắt mà không biết. Đi chín
từng trời để cho phần hồn đi cho cùng tột cửu phẩm Thần, Thánh, Tiên, đến Phật
tức là Phật xuống phàm, rồi phàm trở lại Phật, chuyển luân như vậy, bí pháp gọi
là đạt Đạo" (Lời thuyết Đạo. Quyển nhì, trang 28).
b) Khi cúng tại Đền Thánh, được ngồi xếp bằng thay vì quì như ở các Thánh Thất.
c) Chỉnh sát cúng phẩm: Trong thời gian nhạc tấu huân thiên, khi Ngọc Đàn xướng “Chỉnh sát
cúng phẩm”, thì một vị chức sắc Hiệp Thiên Đài rời hàng ngũ lên lầu Hiệp Thiên
Đài quan sát các đồ cúng phẩm có đều đủ và tinh khiết rồi hành pháp trấn thần
các cúng phẩm, xong rồi trở lại vị trí cũ và giao cho sáu vị Lễ Sĩ gồm hai mặc
áo vàng, hai mặc áo xanh, hai mặc áo đỏ, đi mão lễ, cầm lồng đèn (màu theo sắc
áo của mình) đi từ phía trên lầu Hiệp Thiên Đài xuống trước ngai Hộ Pháp rồi đi
theo đường nội tâm Chánh Điện lên phía Bát Quái Đài. Theo sau là một Giáo Sư
phái Ngọc mang một cái hộp đựng Tam Bửu (hoa, rượu, trà), sáu Lễ Sĩ và một vị
Giáo Sư đi tới ngang phẩm Phối Sư thì dừng lại đây, phân ra hai bên cho tới khi
dâng tam bửu xong sẽ trở về vị trí cũ.
Khi nhạc tấu huân thiên dứt có một
vị chức sắc Hiệp Thiên Đài lên thỉnh hương tại Bát Quái Đài đem xuống ngoại
nghi (ngang Phẩm Phối Sư), Lễ Sĩ điện hương.
Khi Lễ Sĩ điện hoa lên nội nghi (tại
cung Đạo) thì vị chánh Phối Sư phái Ngọc tiếp lấy bình hoa lên đứng phía sau
ngai của Ngọc Chưởng Pháp ngó ra phía Hiệp Thiên Đài đưa cao ngay trán trình
cho chức sắc và tín đồ biết để dâng lời cầu nguyện. Khi dâng rượu thì Chánh
Phối Sư phái Thượng tiếp lấy chung rượu lên như Ngọc Chánh Phối Sư, nhưng đứng
sau ngai Giáo Tông.
Khi dâng trà thì Chánh Phối Sư phái
Thái tiếp lấy chung trà lên trình như Ngọc và Thượng Chánh Phối Sư, nhưng đứng
phía sau ngai Thái Chưởng Pháp.
III . SỰ KHÁC BIỆT VỀ NGHI TIẾT CÚNG TIỂU ĐÀN VÀ ĐẠI ĐÀN
a) Tại Tòa Thánh: Tiểu đàn khác Đại đàn ở những điểm sau:
* Nhạc đờn ba bài (thay vì 7 bài hoặc 5 bài như
trong Đại đàn).
* Lễ Sĩ không đăng điện.
* Không lập ngoại nghi.
* Không đi hoán đàn.
b) Tại Thánh Thất: Tiểu đàn tại Thánh Thất khác Đại đàn ở những điểm sau:
* Nhạc đờn ba bài (thay vì 7 bài hoặc 5 bài như trong Đại đàn).
* Lễ Sĩ không đăng điện.
* Không lập ngoại nghi.
IV . CÚNG ĐÀN TẠI ĐIỆN THỜ PHẬT MẪU
Khi vào chầu Lễ Đức Phật Mẫu và các
Đấng thiêng liêng tại điện thờ Phật Mẫu tất cả mọi người đều mặc áo dài trắng,
khăn đống đen đối với nam phái, nữ phái mặc áo dài trắng thường, dầu cho chức
sắc cũng vậy. Về phương diện hình thức, nơi đây không còn phân biệt phẩm tước,
mọi người đều bình đẳng, ai đền trước quỳ trước, đến sau quỳ sau.
a) Cách Nhập Đàn: Đúng giờ cúng, Lễ Viên đổ ba tiếng đại hồng chung và đọc kệ lần thứ
nhứt như sau:
" Văn chung khấu hướng huệ trưởng Càn khôn" (dọng một tiếng chuông).
" Pháp giái chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn" (dọng một tiếng chuông).
" Án dà ra đế dạ ta bà ha" (dọng một tiếng chuông). Kệ chuông dứt chư
thiện nam tín nữ sắp đặt chỉnh tề, nam thì sắp hàng hai bên bàn thờ
chư Chơn linh nam phái, nữ thì sắp hai bên bàn thờ đức Phật Mẫu và chư Chơn
linh nữ phái.
Chuông đổ lần thứ hai, cũng ba tiếng
với các câu kệ như sau:
" Nhứt vi vu ám tất giai văn,"
" Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác,"
" Án dà ra đế dạ ta bà ha."
Dứt mỗi câu
dọng một tiếng đại hồng chung. Khi tiếng chuông cuối cùng dứt, tất cả xá đàn
một xá, bước vào trong sắp thành hàng ngó lên bàn thờ.
b) Nhạc tấu Huân Thiên: Nhạc đờn năm
bài dứt, Lễ Viện khắc chuông mọi người kỉnh ba xá, quỳ xuống.
c) Mật niệm Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng: (nhớ là không
có lấy dấu Phật, Pháp, Tăng). Niệm như sau:
" Nam Mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực
Thiên Tôn" (xá một xá) .
" Nam mô Cửu Vị Tiên Nương"
(xá một xá)
" Nam mô Bạch Vân Động Chư Thánh"
(xá một xá) .
d) Đọc các bài kinh sau đây:
- Niệm Hương: "Đạo gốc bởi lòng tín hiệp..." .
Khi dứt lạy
chín lạy, nghĩa là 3 lần cúi xuống, mỗi lần 3 gật, mỗi lần gật đầu niệm "Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên
Tôn".
- Khai Kinh: "Biển trần khổ vơi vơi trời nước...".
Khi dứt cúi
đầu chớ không có lạỵ
Phật Mẫu Chơn Kinh: "Tạo Hóa Thiên huyền vi Thiên
Hậu..." Khi dứt Lạy chín lạy nghĩa là 3 lần cúi xuống mỗi lần 3 gật.
Niệm chú tại mỗi gật: "Nam mô Diêu
Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn".
Dâng Tam Bửu: (Hoa, Rượu, Trà) Chú ý:
Bài dâng hoa câu thứ tư phải đọc "Cúi
mong Phật Mẫu rưới ân thiên." thay vì đọc: "Cúi mong Thượng Đế rưới ân thiên."
Dứt mỗi bài
thài lạy chín lạy nghĩa là 3 lần cúi xuống mỗi lần 3 gật. Niệm chú tại mỗi gật:
"Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực
Thiên Tôn".
d) Sớ văn Thượng tấu: Đọc sớ và đốt
xong, lạy chín lạy nghĩa là lạy ba lần mỗi lần ba gật, Niệm chú tại mỗi gật: "Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên
Tôn".
e) Ngũ Nguyện:
"Nam mô nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai
Nhì nguyện phổ độ chúng sanh
Tam nguyện xá ti đệ tử
Tứ nguyện thiên hạ thái bình
Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh".
Đọc ngũ nguyện xong lạy chín lạy
nghĩa là lạy ba lần mỗi lần ba gật, Niệm chú tại mỗi gật: "Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn".
Đứng lên xá ba xá trở ra sắp hàng
thành tam ban, nam theo nam, nữ theo nữ.
f ) Kệ chuông Bãi Đàn: (Y như câu kệ tại đền Thánh và Thánh Thất, cách dọng chuông cũng y như
vậy) Xong mỗi người xá đàn từ từ trở ra.
V – NGHI TIẾT CÚNG TỨ THỜI TẠI TÒA THÁNH, THÁNH THẤT VÀ ĐềN THỜ PHẬT
MẪU.
a) Tại Tòa Thánh và các Thánh Thất.
Ngoài các buổi cúng đại đàn và tiểu
đàn nhằm vào các ngày đại lễ và tiểu lễ (ngày vía, ngày kỷ niệm các chức sắc
tiền bối có công lớn với Đạo, ngày mồng một, ngày Rằm tháng tính theo âm lịch),
tại Tòa Thánh và các Thánh Thất luôn luôn có các buổi cúng hàng ngày vào các
giờ: Tý (0 giờ khuya) – Mẽo (6 giờ sáng) – Ngọ (12 giờ trưa) – Dậu (18 giờ
chiều), gọi là cúng tứ thời.
Cúng tứ thời giản dị hơn cúng đại
đàn và tiểu đàn, nghi tiết được tóm lược như sau:
Đến giờ cúng, lễ vụ kệ ba câu chú
đánh ba tiếng đại hồng chung lần thứ nhất [1],
chức sắc, chức việc, đạo hữu tuần tự đi vào chánh điện (nam bên tả, nữ bên hữu,
hướng từ trong ra ngoài), cũng đứng hai bên quay mặt vào nhau, sắp theo thứ tự
phẩm trật. Xong, lễ vụ tiếp tục kệ ba câu chú đáng ba tiếng đại hồng chung.
[1] Văn chung khấu hướng huệ trưởng càn khôn: (đánh 1 tiếng chuông).
Pháp giải chúng sanh đồng dăng bỉ ngạn: (đánh 1 tiếng chuông) .
Án dà ra đế dạ ta bà ha: (đánh 1 tiếng chuông).
Lần thứ hai [2],
mọi người tiếp tục hành lễ.
Với những động tác giống như phần
trình bày ở đoạn trước. Tuy nhiên, các phần nghi lễ sau đây không có trong các
buổi cúng tứ thời:
Hoán đàn.
Nhạc tấu huân thiên.
Dâng tam bửu (chỉ dâng một trong ba
món và đọc một bài thài tùy theo thời cúng: thời Tý, và Ngọ dâng rượu – thời
Mẽo, và Dậu dâng trà).
Chỉnh sát cúng phẩm.
Thuyết Đạo.
Trong lúc đồng nhi đọc kinh, có hòa tấu nhạc đệm theo. Cúng xong, lễ vụ kệ ba
câu chú [3] khắc ba tiếng đại hồng chung và bãi
đàn.
b) Tại Đền Thờ Phật Mẫu. Cũng như tại Tòa Thánh và các Thánh Thất, ngoài các kỳ cúng đàn,
thường nhật cũng luôn luôn cúng tứ thời vào các giờ qui định như trên. Thể thức
hành lễ cũng giống như như phần trình bày ở mục IV.
[2] Nhứt vi u ám tất giai văn: (đánh 1
tiếng chuông)
Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác: (đánh 1 tiếng chuông)
Án dà ra đế dạ ta bà ha: (đánh 1 tiếng chuông)
[2] Đàn tràng viên mãn chức sắc quy nguyên:
(đánh 1 tiếng chuông)
Vĩnh mộc từ ân phong điều vô thuận: (đánh 1 tiếng chuông)
Thiên phong hải chúng quốc thới dân an hồi hướng đàn
đường tận thâu pháp giái: (đánh 1 tiếng chuông).
Tuy nhiên các phần sau đây được giảm
chế:
Nhạc tấu huân thiên.
Dâng tam bửu (chỉ dâng một trong ba
món giống như ở Tòa Thánh).
Sớ văn thượng tấu.
Trong khi đồng nhi đọc kinh có nhạc
đệm theo.
VI – THỜ CÚNG TẠI TƯ GIA
Đọc giả nên tham khảo thêm những
quyển sách hữu ích sau đây:
1 . Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo (Hội Thánh xuất bản)
2 . Thiên bàn thờ tại tư gia (Giáo Hữu Thượng Lý Thanh)
3 . Ý nghĩa thờThiên Nhãn (H.T. Nguyễn Kim Anh).
VII – TẠI SAO PHẢI THỜ CÚNG
Điểm khó khăn hơn hết trong vấn đề
thờ cúng; không phải là những nghi lễ tế tự phức tạp; hay các lời kinh bằng chữ
Hán khó hiểu, khó nhớ... Thoạt nhìn người ta có thể cảm nghĩ như vậy, nhưng
nghi lễ dù phức tạp đến đâu vẫn có thể quen được như một tập tục, lời kinh dù
có khó đến đâu; đọc mãi cũng thuộc. Đó là hình tượng bên ngoài; ai ai cũng làm
được. Chính nội dung, tác dụng của lời kinh tiếng kệ, những giây phút trầm tư
mặc tưởng ấy, có ích gì cho bản thân ta; khiến người tín đồ phải thực hành
những nghi lễ ấy, đó mới là trọng hệ. Đây là điểm đệ nhứt khó khăn; trong đời
sống của người tín đồ; vì nó thuộc về mặt tâm pháp bí truyền. Trong một đàn
cúng có đông người tham dự, thường chỉ có một số rất ít người; có thể cảm
nghiệm được một nguồn năng lượng sinh động, một cái gì lung linh huyền diệu
trong “cõi sống thật” đang phủ trùm lấy họ từ bên ngoài cả đến bên trong thân
xác.
Một khi cả xác thân lẫn tâm hồn; đã
đắm mình trong dòng sinh lực ấy, người tín đồ đã thực sự đứng trước ngưỡng cửa
của một thế giới không còn thuộc về “cõi người ta” nữa. Nguồn năng lực vô biên
ấy, không thể tả được, nhưng chỉ cần một chút xíu thôi, cũng đủ làm cho những
kẻ bướng bỉnh nhất trên thế gian này thay đổi cuộc sống của họ một cách trọn
vẹn – Nhưng không phải ai ai cũng dễ dàng khám phá được.
Một khi đã thực sự sống trong thế
giới Thần Tiên, ngay bên cạnh "cõi
người ta" này, thì người tín đồ không còn tâm trạng sợ hãi nữa, trái
hẳn với sự tưởng tượng của những kẻ mà đời sống đắm chìm trong tục lụy, ngồi ở
đây tưởng tượng vẽ vời ra "thế giới
bên kia", mà thực sự họ chưa từng sống ở đó, một phút giây nào cả.
Chúng tôi xin nhắc lại lời nói của
Thánh Giăng cách đây gần hai ngàn năm: "Người
nào đã cảm giác được cái tinh thần thiêng liêng của Đức Chí Tôn không thể lầm
lẫn, nghi ngờ, hay phủ nhận nó. Ôi! Thế gian, ví như các người có đồng thanh
phủ nhận Ngài, ta thà từ bỏ thế gian và giữ vững đức tin của ta".
(Chơn sư và Thánh Đạo. Leadbeater. Nguyễn Hữu Kiệt dịch) Các bậc chơn tu xưa
nay đã nói rất nhiều về đời sống Thần Thánh này, nhưng khốn nỗi chính các Ngài
cũng không có quyền muốn đem cho ai thì cho "nguồn
sống vạn năng" ấy dù chỉ một chút xíu thôi.
Đó là một định luật tất yếu, trong
Càn khôn vũ trụ. Các ngài sẵn sàng cho khối gia tài thiêng liêng ấy, đến tất cả
mọi người, nhưng mà nắm lấy được hay không là do tự ở chính mình. Thành thử kết
quả sau cùng là các Ngài không trọn quyền ban cho ai tùy thích được. Đó là một
định luật công bình, của báu không bán nài và cũng chẳng riêng ai được quyền
nắm giữ dù họ là giáo chủ đi nữa.
Thờ cúng là một trong những cách làm
cho thần trí của người tín đồ quen chủ định để dắt thần xác đến gần thế giới
của thần linh. Rồi đến một lúc nào đó cả hành vi, tư tưởng, lời nói của người
tín đồ đã hiển hiện là những "người
Thần", "người Thánh" trước mắt mọi người thì tự nhiên cánh
cửa "thế giới vô hình" sẽ
mở hoát ra như một định luật của hữu vô đồng nhất, mà người đạo giáo thường gọi
là thế pháp và bí pháp tương liên mật thiết với nhau.
Thần, Thánh, Tiên, Phật không phải
là những vị mà con người có thể cầu khẩn, van xin hay đút lót của hối lộ theo
kiểu thường làm ở thế gian.
Nghi lễ thờ cúng chỉ là những hình
tượng biểu lộ bên ngoài của một nội tâm kính trọng, và ý muốn cầu thân cùng các
Đấng thiêng liêng. Dấu hiệu tỏ lộ bên ngoài có thể bắt chước được.
Hình tướng bên ngoài ấy dùng để dắt
dẫn tâm linh, nên nó phải thay đổi cho phù hợp với phong tục tập quán, và trình
độ tấn hóa của con người. Nghi lễ các đạo giáo, vì vậy phải khác nhau, mới
thích ứng được với mọi người, chớ còn bên trong, cái khổ, cái sướng, hay niềm
an lạc trong tâm hồn của con người, thì từ cổ chí kim ai cũng như ai. Thực hành
những nghi lễ thờ cúng là để tìm về chỗ thuần nhất ấy, và khi đạt đến rồi, thì
người không còn phân cách với người nữa, người cũng không còn phân cách với
Trời, Phật hay Thần, Thánh nữa. Đó là lý do sau cùng, khiến người tín đồ phải
để tâm đến việc thờ cúng. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát có giáng cơ chỉ dạy như sau:
"Các em phải lo cúng kiến thường,
– Một là tập cho Chơn thần gần gủi Đấng thiên liêng đặng sáng lạn.
– Hai là cầu khẩn với Đức Đại Từ Bi tha thứ ti tình cho các em và cả chúng
sanh.
– Ba là có tế lễ thì tâm phải có cảm, cảm rồi mới có ứng, ứng là lẽ tự
nhiên.
– Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng, mà nhứt là khiếu lương
tri, lương năng của các em, cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ."
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Quyển II, 1969
- trang 87.
Sự ngộ nhận của chữ nghĩa trong kinh
điển, và lời cầu khẩn, vái van, xin tha thứ tội tình, đã làm cho người ta,
tưởng chừng như các Đấng thiêng liêng cũng có nhân cách, biết thương yêu, ghét,
giận như phàm nhân vậy. Sự thật không phải thế. Chẳng phải vì lời cầu khẩn,
những tiếng nói xin xỏ ấy mà các Đấng thương tình tha thứ, nhưng chính vì tâm
hồn của con người trong giây phút ấy, đã mở rộng cửa đón nhận các Đấng thiêng
liêng, mà các Đấng thì hằng có mặt khắp nơi, nên khi mở cửa tâm hồn thi đương
nhiên gặp, tức là cảm ứng được. Cũng ví như bầu sương lam, đang phủ trùm cả núi
rừng, bác tiều phu mở cửa lều thì tự nhiên sương tràn vào. Tại hành động mở
cánh cửa ra, chớ không phải tại lời nói của bác tiều rằng "tôi mở cửa", tại cái khoảng trống không còn ngăn cách
phần trong nhà và bên ngoài mà sương tràn vào và cái nhà đầy sương. Sương và
nhà lúc bấy giờ là một. Sương ở trong nhà và nhà ở trong sương.
Ấy vậy thờ cúng không phải là việc
mê tín hay dấu hiệu của những tâm hồn yếu hèn mà mê tín, yếu hèn là tại mình
hiểu sai và làm sai vậy. Cho nên sự thành tâm và trúng cách, nghĩa là đúng
pháp, rất cần thiết, trong việc thờ cúng, bằng chẳng vậy thì dầu có cúng lạy
suốt đời cũng chỉ làm mọi cho khói nhang, cũng hoài công vô ích.
LÀM CÔNG QUẢ
I - ÐỊNH NGHĨA
Thế thường người ta vẫn quen gọi đi
làm công quả là đi làm công việc cho nhà Chùa, Thánh Thất hay một cơ quan từ
thiện và không nhận lương bổng hay thù lao gì sau khi làm công việc đó.
Phân tách hiện tượng nầy chúng ta
thấy hai tiếng công quả bao hàm những tính chất sau đây:
– Công việc làm có tính cách tự nguyện:
Đi làm việc cho nhà Chùa hay cơ quan
từ thiện, hành động đó hoàn toàn do ý muốn của mình, khác hẳn với công tác đi
làm xâu mà nhà nước cai trị trước đây thời Pháp thuộc thường hay bắt dân làng
đi công tác đắp đồn lũy, đốn cây phá rừng, mở đường... cũng không nhận thù lao,
nhưng do sự cưỡng bách của quyền lực nghĩa là không làm sẽ bị một hình phạt nào
đó.
– Không vì tư lợi cá nhân:
Ý nghĩa rõ rệt nhứttiêu biểu trong
hành động người làm công việc không hưởng một khoản lương bổng hay thù lao nào
sau khi hoàn tất công việc. Chẳng những người làm công quả không nhằm đến mục
đích thu lợi cho cá nhân mình mà họ còn muốn công việc làm của họ không bị kẻ
khác lợi dụng. Họ muốn rằng hành động của họ phải là sự hy sinh đúng nghĩa,
đúng chỗ, nghĩa là nhơn sanh phải hưởng nhờ tiện ích do công việc làm của họ
tạo nên.
So sánh hành động làm công quả cho
nhà Chùa với công việc làm của một người lao công cho một ông chủ hãng buôn
không nhận thù lao, chúng ta thấy có sự khác biệt rõ rệt, một đàng nhắm tới lợi
tức của một người là ông chủ hãng, một đàng nhắm tới lợi ích của nhiều người
tức là nhơn sanh nói chung.
Nhà Chùa, Thánh Thất, Đình, Miễu,
Nhà Thờ hay các cơ quan từ thiện xã hội là những tổ chức mà mục đích là phụng
sự cho nhơn sanh chớ không phụng sự cho quyền lợi tư riêng của người đang cầm
quyền làm chủ. Dù cho trên thực tế, những tổ chức nầy có bị lợi dụng vào mục
đích tư lợi cho cá nhân đi nữa, việc ấy xảy ra trong bóng tối chớ ý nghĩa của
những tổ chức nầy vẫn là không vì tư lợi cho cá nhân.
Do đó người ta mới tìm đến các tổ
chức tôn giáo, từ thiện để làm công quả, ý nghĩa của sự tìm tới nầy là muốn
rằng hành động của họ không bị lợi dụng.
– Ý hướng tu hành: Người làm công quả mang ý hướng tu hành trong tâm tư của họ, đôi khi
chính họ không nhận thức được rõ rệt ý hướng nầy, nhưng bao giờ cũng cảm thấy
tính chất thiêng liêng cao thượng trong hành động đó. Họ làm việc với tất cả
tâm thành, ý vẹn trong niềm tin rằng hành động của họ sẽ được thần linh chứng
giám hoặc nếu không rõ rệt như vậy cũng tin tưởng rằng sẽ được đền bù tương
xứng theo đúng định luật công bình, khách quan, vô tư và tự nhiên. Lẽ dĩ nhiên
luật công bình thiêng liêng ấy phải khá hơn luật công bình của tòa án và cảnh
sát do các nhà cai trị tạo nên. Do đó tâm trạng của người làm công quả tìm đến
nhà Chùa thường ở trong những trường hợp sau đây:
* Hoặc để sám hối ăn năn về một việc lỗi lầm nào đó và họ muốn lập công
chuộc tội.
* Hoặc dể tìm sự yên ổn trong tâm hồn, tránh sự buồn chán tuyệt vọng vì
một sự thất bại nào đó.
* Hoặc để tạo những nguyên nhân tốt hầu ngày sau được đền bù bằng những
phần thưởng xứng đáng mà họ may mắn gặp trong cuộc sống, tức là có ý hướng cầu
phước.
* Hoặc hơn cả các trường hợp trên đây, họ làm việc vì đã ý thức được
thiên chức của mình, vì sự thức tỉnh hay giác ngộ thì chung quy cũng do niềm
tin vào định luật tấn hóa tự nhiên của trời đất. Ý hướng tu hành trong trường
hợp nầy mới là siêu đẳng.
II - TẠI SAO PHẢI LÀM CÔNG QUẢ.
Ngay từ buổi khai Đạo có nhiều người
khi vừa thức tỉnh giấc mộng trần ai, tâm hồn liền hóa ra chán ngán cảnh thế
tình, muốn bỏ hết chuyện nhơn sự tìm chỗ yên thân tu luyện những mong thành
Tiên, hóa Phật cho cá nhân mình. Đức Chí Tôn liền ngăn cản và dạy phải làm công
quả trước tiên: "Trong các con có
nhiều đứa lầm tưởng hễ vào Đạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm
mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện Đạo.
Thầy nói cho các con biết nếu công quả chưa đủ, nhơn sự chưa xong thì không thể
nào các con luyện thành đặng đâu mà mong. Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều
phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế nầy thì tìm cách khác mà làm
âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao.
Các con phải hiểu Thánh ý Thầy mà trao giồi chí lớn. Dầu đi lối nào cũng phải
cần cái đèn thiêng liêng chiếu rõ mới đặng vững bước. Làm Vua, làm thầy, làm
công nghệ, làm đạo sĩ cũng cần phải có cái chí lớn mới mong thành tựu đặng. Các
nghề dưới thế không có nghề nào là vô dụng, mà vô dụng là tại người không
chuyên vậy." (TNHT Q1, 1969
trg. 101 – 102).
Đức Chí Tôn lại còn xác nhận rằng
lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, Ngài đã mở một trường thi công quả cho nhơn sanh đến mà
tranh thủ địa vị, Ngài dạy: "Thầy
hằng nói cùng các con rằng một trường thi công quả các con muốn đến đặng nơi
Cực Lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi" (TNHT Q1., 1969 trg. 34).
Rồi Ngài lại chỉ cho cách làm công
quả là phải độ rỗi chúng sanh: "Thầy
đã đến chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc Đạo, phải đoái lại bá
thiên vạn ức nhơn sanh còn phải trầm luân nơi khổ hải chưa thoát khỏi luân hồi,
để lòng từ bi mà độ rỗi". (TNHT
Q1. 1969 trg. 34).
Ngài lại dạy rõ: Ít nữa mỗi tín đồ
phải độ đặng 12 người: "Hễ bao nhiều
môn đệ độ rỗi của mỗi đứa thì là họ hàng của mỗi đứa. Hiểu à! Chừng ấy về đến
Bạch Ngọc Kinh thì gia tộc mỗi đứa đều phân biệt, nếu chẳng độ rỗi thì về với
hai tay không. Còn chư môn đệ đã lập Minh thệ rồi ngày sau tùy âm chất mỗi đứa
mà thăng hay là tội lỗi mà giáng, song buộc mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa là
12 người". (TNHT Q1., 1969 trg. 42).
Tuy vậy nhiều tín đồ vẫn sụt sè chưa
dám dấn thân tích cực. Đức Chí Tôn lại dạy về sự công bình của Tạo Hóa buộc
rằng nếu không lập được công quả tại thế gian nầy thì địa vị Thần, Thánh, Tiên,
Phật dầu có thương cũng không ban cho được. "Thầy
đã nói cho các con hay trước rằng: nếu các con không tự lập ở cõi thế nầy là
cái đời tạm của các con thì Thầy cũng không bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng.
Ấy vậy cái vấn đề tự lập là vấn đề các con phải lo đó" (TNHT. Q1, 1969 trg. 105).
Về sau Đức Phạm Hộ Pháp có giảng rõ
về vấn đề tự lập nầy là phải lập công, lập ngôn, lập đức và coi đó như là ý
nghĩa của đời sống con người. Mỗi người đều phải có đủ tam lập ấy mới tròn
thiên chức làm người, khi chết linh hồn sẽ trở về cảnh Thiêng liêng hằng sống.
Ấy là gia tài, là sự nghiệp thiêng liêng của mỗi người phải biết tạo ra mới có
được. Bởi vì: "Người ở thế nầy muốn
giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh,
Tiên, Phật muốn cho đắc Đạo phải có công quả". (TNHT. Q1, 1969 trg.
27).
KINH THẾ ÐẠO
I - GIỚI THIỆU CÁC BÀI KINH
Ngoài các bài kinh Thiên Đạo đọc trong các
thời cúng tại Thánh Thất hay tư gia mà nội dung ca ngợi công đức của các Đấng
Trọn Lành hay kêu gọi đến năng lực thần bí của thế giới Thần linh, để hổ trợ
cho các pháp bửu bí truyền được ứng hiện linh diệu, người ta nhận thấy còn có
rất nhiều bài kinh gọi là Kinh Thế Đạo, dùng để đọc trong những dịp sau đây:
– Tang tế:
thí dụ bài kinh dùng để tỏ cái tình, cái nghĩa của người còn sống với kẻ quá
cố. Thuộc loại nầy, nghi lễ Cao Đài đã có những bài kinh sau đây:
- Kinh tụng khi Vua thăng hà,
- Kinh tụng khi Thầy qui vị,
-
Kinh cầu Tổ Phụ qui liễu,
-
Kinh tụng Cha Mẹ qui liễu,
-
Kinh cầu Bà Con cố hữu qui liễu,
-
Kinh tụng Huynh Đệ mãn phần,
-
Kinh tụng khi Chồng qui vị,
-
Kinh tụng khi Vợ qui liễu. Lời lẽ trong bài kinh khác nhau tùy theo mối liên hệ
giữa người quá cố và kẻ sanh tiền, nhưng nội dung có điểm tương đồng là ca ngợi
công ơn của người đã chết, nhắc nhỡ vong linh luôn luôn nhớ đến Đức Chí Tôn, và
sau cùng là lời cầu khẩn cùng Đức Ngài từ bi cứu độ.
– Hôn phối: Chỉ có một bài kinh duy
nhứt gọi là kinh Hôn Phối đọc tại Thánh Thất khi đám cưới được Hội Thánh nhìn
nhận hợp pháp và có Chức Sắc làm phép Hôn Phối.
– Nhóm họp: trong các buổi hi họp đông
người, hoặc để thuyết pháp cũng có bài kinh như:
-
Kinh nhập hội đọc lúc khai mạc buổi họp.
-
Kinh xuất hội đọc vào lúc bế mạc buổi họp.
-
Kinh thuyết pháp đọc trước khi giảng Đạo, thuyết pháp.
– Các hoạt động thường ngày: xen vào
các hoạt động thường ngày như ăn ngủ, đi đứng có bài kinh sau đây:
-
Kinh khi thức dậy,
-
Kinh đi ra đường,
-
Kinh khi về,
-
Kinh vào ăn cơm,
-
Kinh khi ăn cơm rồi,
-
Kinh khi đi ngủ.
– Và sau cùng là
bài kinh cứu khổ dùng để đọc trong những dịp bất thường, khi người tín đồ cần
kêu gọi đến năng lực của Thần linh giúp họ vượt qua vài trở ngại nào đó trong
cuộc sống, mà xétra lời yêu cầu rất nên chánh đáng. Tất cả các bài kinh nầy đều
có trong quyển "Kinh Thiên Đạo và
Thế Đạo" do Hội Thánh ĐĐTKPĐ Tòa Thánh Tây Ninh xuất bản.
II - CÁCH ÁP DỤNG
Có một điều
lầm lẫn rất tai hại là người ta vẫn thường cho rằng các bài kinh Thế Đạo liên
quan đến các hoạt động thường ngày như ăn ngủ, đi đứng... chỉ áp dụng cho trẻ
con mà thôi, còn người lớn thì đã "hiểu đạo" rồi. Đành rằng khi người
ta đã thấm nhuần tư tưởng cao siêu trong các bài kinh ấy, và đã thật sự sống
với những điều mà tư tưởng ấy muốn diễn tả, thì hình thức đọc kinh có lẽ cũng
không còn cần thiết nữa. Kẻ đã qua sông thì cần gì phải mang theo chiếc bè trên
lưng, thế nhưng nhìn kỹ lại, trong hạng tín đồ có bao nhiêu người có được trình
độ tâm linh như vậy? Phải thành thật thú nhận rằng có rất ít người đạt đến mức
độ ấy sau nửa thế kỷ truyền giáo.
Cho nên sự áp
dụng một cách nghiêm chỉnh những bài kinh thế đạo vẫn cần thiết, và rất cần
thiết như cơm ăn, áo mặc hằng ngày vậy. Đọc kinh chỉ là làm thể pháp mà thôi,
cần đạt đến nội dung là cái tác dụng của lời kinh ấy giúp ích được gì cho tâm
hồn của chúng ta lắng đọng những tư tưởng trần tục và khơi dậy những tư tưởng
thanh cao thánh triết. Cho nên nếu người tín đồ chịu khó suy nghiệm sẽ thấy
cách áp dụng như sau:
– Đối với trẻ
con cần có sắc tướng âm thanh rõ rệt chúng mới hiểu được nên cần phải đọc ra
lời, lại nữa cũng là phương bắt chúng học thuộc lòng.
– Còn đối với
người lớn thì chỉ đọc trong trí mà thôi, nghĩa là tâm mình tưởng đến những lời
kinh trước khi ăn cơm, sau khi ăn xong, trước khi nhắm mắt ngủ, khi vừa tỉnh
giấc, khi đi ra đường, khi trở về nhà. Phương thức nầy áp dụng cho tất cả mọi
người, mọi nơi, mọi lúc... bên ngoài dường như không ai hay biết gì cả về thế
giới nội tâm sinh động của mình. Chỉ thoáng mấy giây đồng hồ chúng ta có thể
tưởng xong một bài kinh, nghĩ cũng chẳng khó gì, mà ít người làm được!
III - TÁC DỤNG TÂM LÝ VÀ THầN QUYỀN
Có lẽ nguyên
nhân chính của sự lười biếng nầy là người tín đồ không hiểu rõ, và cũng không
được chứng nghiệm về tác dụng hữu ích của lời kinh tiếng kệ, do đó không có đức
tin vững mạnh đối với Thần linh, những bậc chơn tu đều có một niềm thương xót
vô biên đối với chúng sanh, khi thấy họ không hiểu gì về thế giới Thần linh cả.
Muốn nắm tay dẫn đến tận nơi, vén bức màn Thiêng liêng chỉ cho ngó thấy tận
mắt, sợ e vì kinh hãi mà loạn thần hóa ra ngây dại, còn dùng lý lẽ mà nhủ
khuyên thì lý cãi lý già đời không hết.
Nếu biết rằng
người có xác và hồn, xác biết ăn còn hồn chẳng biết ăn sao? Xác biết lựa món ăn
ngon còn hồn chẳng biết món ăn sao? Chẳng lẽ xác biết lựa cao lương mỹ vị cho
béo bổ khỏe mạnh còn hồn thì cho nó ăn những tư tưởng, thấp hèn, oán ghét, thù
hận, đố kỵ, tham lam, ích kỷ hay sao? Vậy mà con người vẫn thường hay đắm mình
trong những tư tưởng hắc ám ấy.
Muốn xua đuổi
những tư tưởng oán thù, tham lam, ích kỷ... ra khỏi tâm thần người tín đồ, các
bậc Thánh hiền đã đặt ra các bài kinh thế đạo để ngày ngày áp dụng dường như có
một người nhắc nhở bên tai mình vậy. Không chịu áp dụng thì kể như không còn ai
nhắc hết. Nghĩ về điều tốt tức là không nghĩ về điều xấu, ít ra cũng trong
khoảnh khắc nào đó, rồi những tư tưởng thiện ấy sẽ từ từ hướng dẫn thể xác có
những hành động lành. Ấy là một cái phép của trời đất, phải tập cho con người
có suy nghĩ tốt trước đã, rồi ý nghĩ ấy sẽ dẫn dắt hành động trở nên tốt. Tác
dụng tâm lý rõ ràng như vậy, muốn cùng chẳng muốn là tại mình làm mà thôi.
Về phương diện
thần quyền chúng ta há chẳng thường thấy có những người mà tinh thần bạc nhược,
lờ đờ, uể oải, hiện rõ trên nét mặt... người đời há chẳng từng gọi họ là những
kẻ “không hồn” hay sao? Chẳng cần phải luận giải chi dài dòng về việc linh hồn
có hay không, vậy chớ thực thể sinh động nào làm cho cái xác của con người biết
cựa quậy và khôn ngoan, làm cho chúng ta phân biệt được giữa một tử thi và một
con người sống? Chúng ta coi đó là dấu hiệu, là chứng tích của một Chơn thần
đang ngự trị trong xác thân. Người đời vẫn thường gọi linh hồn là tất cả những
gì của con người khác hơn phần xác chết của họ. Phần linh hồn ấy sẽ rời khỏi
xác thân vào lúc mà người ta gọi là chết, và người sống có giao tiếp với nó
được. Thuật cầu cơ chấp bút trong Cao Đài được xây dựng trên nền tảng nầy,
người sống có thể thông công với vong linh người chết (dĩ nhiên với một số điều
kiện nào đó không mấy dễ dàng). Kết quả của sự thông công nầy là Đạo Cao Đài
được thành hình. Linh hồn của thi hào Lý Bạch, của Thái Tử Sĩ Đạt Ta, của Khổng
Tử, Lão Tử, của Jesus Christ, của Victor Hugo, của Tôn Dật Tiên, Trạng Trình,
và biết bao nhiêu người khác nữa mà danh tánh dường như xa lạ, đã đến để nói
chuyện với người tín đồ Cao Đài, làm chứng rằng thế giới vô hình có thật và
linh hồn bất tử. Tất cả những vị nầy đều kính nhường một Đấng mà người ta gọi
là Ông Trời, là Thượng Đế, là Đức Chí Tôn. Rồi chính mình Đức Chí Tôn cùng đến
nói chuyện với loài người nữa.
Bây giờ chỉ
còn vấn đề là con người có chịu đặt mình trong mối tương giao mật thiết với
Thượng Đế và Thần linh hay không. Tôi sẽ không bao giờ nói chuyện với bạn nếu
tôi nghĩ rằng bạn không có mặt ở trước tôi, hay ít ra sự hiện hữu của bạn không
có trong tầm giao tiếp của tôi. Đối với Thượng Đế và Thần linh cũng vậy, người
tín đồ sẽ không thể nào cảm ứng được nếu họ không tin rằng có các Đấng ấy trong
thế giới vô hình. Đức tin là đầu mối, là điều kiện tối quan hệ để thiết lập
tương giao giữa người và thần linh, ý nghĩa sau cùng của đạo giáo là đặt đời
sống con người trong sự hòa hợp với siêu nhiên, và quyền lực tối trọng kia được
mô tả bằng hai tiếng "Thượng
Đế". Thượng Đế và Thần linh sống động, luôn luôn ảnh hưởng trên đời
sống trần tục của con người, và nếu con người thiết lập được tương giao với các
Đấng ấy, đời sống của họ sẽ đi đúng trong Thiên cơ và sẽ bảo đảm cho họ chân
hạnh phúc. Vì vậy đức tin là điều cần phải củng cố trước tiên, vì người ta
không thể tin mà không có chứng nghiệm. Sự cầu nguyện và đức tin sẽ giúp người
ta có được những chứng nghiệm, một vài lần trong cả tháng hay đôi khi cả năm,
còn quá ít nếu không nói là không đủ để bắt gặp đời sống của các Đấng Thiêng
Liêng. Tỉ như chiếc radio bỏ túi với vài cục pin bé nhỏ làm sao có thể bắt được
những làn sóng điện của anh phi hành gia từ cung Trăng gởi về.
Phải có một
đức tin rất mạnh mới chứng nghiệm được thế giới vô hình, và một khi đặt mình
trong mối tương giao ấy, đời sống của người tín đồ trở nên phi phàm. Tác dụng
Thần quyền của những bàiKinh Thế Đạo là để buộc tâm thần người tín đồ luôn luôn
hướng về Đức Chí Tôn cao cả, lòng chân thành và tư tưởng của họ là những tín
hiệu gởi đến Thần linh lời cầu xin giúp đỡ. Mối tương giao thiếtlập được thì
haithực thể hữu vô sẽ là một. Người tín đồ sẽ trở thành người Thần, người
Thánh, ngườiTiên, người Phật trong tất cả mọi hành động của họ, lúc ăn, lúc
ngủ, lúc thức, lúc đi ra đường, lúc trở về... họ luôn luôn phối hợp với Thần
linh trong mọi hoạt động và những tín hiệu ấy phải được đánh đi đều đều thì hai
thực thể mới không tách rời nhau. Đó cũng là ý nghĩa của tiếng Phật Trời phò
hộ, hay ban ơn vậy.
ÐỜI SỐNG HÔN NHÂN
I - LUẬT VỀ HÔN PHỐI
Hôn Phối là
việc rất hệ trọng trong đời người, thiết nghĩ ai cũng biết điều đó, nhưng không
phải ai cũng có đủ khôn ngoan, sáng suốt khi quyết định về hôn nhân. Bởi vậy,
ngoài yếu tố tình yêu, tâm lý của gia đình, rất nhiều người còn tìm đến những
nhà bói toán để xem tuổi với hy vọng sẽ gặp được người phối ngẫu thích hợp với
mình. Sự việc bói toán đúng hay sai không bàn nơi đây, nhưng ghi nhận những ý nghĩa
trong hành động tìm đến bói toán như là một sự đắn đo trước khi quyết định vì
đã ý thức được sự quan trọng của hôn nhân.
Luật Cao Đài
buộc phải chọn người phối ngẫu cùng trong tôn giáo. "Việc hôn là việc rất quan trọng trong đời người. Phải chọn hôn trong
người đồng đạo, trừ ra khi nào người ngoài ưng thuận nhập môn thì mới kết làm
giai ngẫu" (Điều 6, chương Thế Luật, Bộ Tân Luật).
Vấn đề nầy vẫn
gây nhiều thắc mắc cho các thanh niên nam nữ. Tình yêu đâu phải như bài toán có
đáp số dễ dàng sau khi đã cộng, trừ, nhân, chia thì phải ra như vậy. Có biết
bao trường hợp cô hay cậu yêu người không phải đồng đạo mới tính sao đây?
Sự ràng buộc
của luật pháp có vẻ nghiêm khắc đã được nghiên cứu kỹ lưỡng về mặt tâm lý từ
nửa thế kỷ trước và tới nay vẫn còn hiệu dụng. Ý nghĩa của hôn nhân là sự hòa
hợp giữa người với người. Sự hòa hợp ấy đến tuyệt đỉnh khi hai thân xác hiệp
làm một, tình cảm cũng một, mà tinh thần cũng một. Còn có tai hại nào hơn khi
hai người phải sống chung với nhau suốt đời mà từng giây từng phút mỗi người là
một thế giới riêng? Ấy là một kiếp sống cô đơn, quạnh quẽ trong khi thân xác
vẫn bị buộc ràng. Xác thân có thể vì những định luật vật chất buộc nó phải phối
hợp với nhau, tình cảm cũng có thể vì những khêu gợi chung quanh nhất thời chia
xẻ cùng nhau được, nhưng niềm tin sâu thẳm trong tâm hồn con người thì không dễ
gì lay chuyển. Niềm tin về đạo giáo thuộc về loại nầy. Bởi vậy thái độ khôn
ngoan là thái độ của người thấy trước được điểm tâm lý khó khăn nầy. Đành rằng
triết lý Tam Kỳ Phổ Đ vẫn dạy rằng các đạo giáo vốn từ một gốc sinh ra, nhưng
sự hiểu biết lý lẽ thật của người tín đồ đâu phải ai cũng có trình độ như các
hiền triết cả để có thể thông cảm cùng nhau dễ dàng. Thế nên tốt hơn nên chọn
người đồng đạo với mình, hy vọng sẽ tránh được nhiều phiền toái hơn. Bậc chơn
tu khi đặt ra một điều luật cho tín đồ, hẳn đã nghiên cứu kỹ lưỡng rồi.
Còn việc chọn
người phối ngẫu với điều kiện ưng thuận nhập môn, xét về mặt chánh trị đạo, là
một phương thức dụng tình yêu đưa người vào cửa Đạo. Ý hướng dụ dỗ tín đồ ở các
đạo khác theo đạo Cao Đài bằng ngõ hôn nhân không cần thiết nơi đây. Điều kiện "ưng thuận nhập môn" nầy không
nhằm mục đích làm gia tăng số tín đồ, mà chính vì muốn bảo đảm hạnh phúc cho
hai người. Trong Cao Đài giáo, qua hôn nhân, con người không phải là công cụ để
củng cố chế độ chính trị đạo, cũng không phải là phương tiện tranh đấu để bành
trướng số tín đồ, hôn nhân có ý nghĩa thiêng liêng của nó, biểu lộ thân phận
làm người của người tín đồ
"Cơ sanh hóa Càn khôn đào tạo,
Do âm dương hiệp Đạo biến thiên.
Con người nắm vững chủ quyền.
Thay Trời tạo thế giữ giềng nhơn luân".
(Kinh
Hôn Phối)
Chính con người, hạnh phúc trong hôn
nhân, mới có ý nghĩa nơi đây chớ không phải chính trị hay chế độ. Sự ràng buộc
của luật đạo tuy có nghiêm khắc thật nhưng là phương thức hữu hiệu, là chỉ dẫn
cần thiết cho thanh niên nam nữ. Ngoài điều luật về sự lựa chọn người phối ngẫu
trên đây còn có các điều luật khác liên quan đến sự đề phòng gian dối, nghi lễ
hôn phối, cưới hầu thiếp, ly dị.
"Tám ngày trước lễ sính, chủ hôn trai phải dán bố cáo nơi Thánh
Thất sở tại cho trong bổn đạo hay sau khỏi điều trắc trở." (Điều 7. Thế Luật).
"Làm lễ sính rồi hai đàng trai và gái phải đến Thánh Thất mà cầu lễ
chứng hôn."
(Điều 8. Thế Luật)
"Cấm người trong Đạo kể từ ngày ban hành (1927) luật nầy về sau
không được cưới hầu thiếp.
Rủi có chích lẻ giữa đường thì được chấp nối. Thoảng như phụ nữ kia
không con nối hậu thì Thầy cũng rộng cho đặng phép cưới thiếp, song chính mình
chánh thê đứng cưới mới đặng." (Điều
9. Thế Luật)
"Trừ ra có ngoại tình hay là thất hiếu với công cô, vợ chồng người
đạo không được để bỏ nhau." (Điều 10. Thế Luật)
II - PHÉP HÔN PHỐI
Sau khi làm lễ sính hôn rồi, luật lệ
buộc hai đàng trai và gái phải đến Thánh Thất cầu lễ "chứng hôn". Cô dâu và chú rễ sẽ quỳ trước Thiên Bàn, bốn
tay nắm chéo lẫn nhau, vai kề vai, đầu chạm đầu trước sự chứng kiến của họ hàng
đôi bên. Cử chỉ nầy biểu lộ ý nghĩa tâm đồng ý hiệp và sự phối hợp hoạt động
chặt chẽ giữa hai người như một.
Một vị chức sắc chứng lễ đứng trước
mặt cặp vợ chồng hành pháp hôn phối trong khi đồng nhi đọc kinh. Bí pháp nầy có
tác dụng giải trừ bớt những mầm xung khắc đã có sẵn trong tâm hồn của hai người
do tiền khiên nghiệp chướng của họ gây ra, giờ đây sẽ có cơ hội vay trả lẫn nhau
trong đời sống vợ chồng. Những mầm mống xung khắc nầy có thể khó nhận thấy vì
trong buổi đầu của cuộc yêu đương sự bồng bột của tình yêu có thể lấn lướt và
làm lu mờ tất cả các yếu tố khác. Khi yêu nhau thắm thiết người ta tha thứ cho
nhau và chiều ý nhau một cách dễ dàng, sẵn sàng kềm chế những thói hư tật xấu
của chính mình để làm vừa lòng người yêu. Thế nhưng sau một thời gian chung
sống sự bồng bột trong buổi đầu không còn nữa khi sự thật đã hiện nguyên hình
thì những xung khắc có cơ hội nổi dậy làm thành một cuộc trả vay khóc cười lẫn
lộn ngay trong đời sống yêu đương.
Tác dụng giải trừ bớt nghiệp quả xấu
nầy gọi là ban ơn, là sự ân xá của Đức Chí Tôn trong Tam Kỳ Phổ Độ. Nhiều người
tín đồ không hiểu rõ về tác dụng Thần quyền nầy lại cũng không có đức tin vững
mạnh nên đã xem Phép Hôn phối là một nghi lễ thêm phiền phức, họ quan tâm đến
tiệc tùng, lời chúc tụng và sự vui thích trong ngày hôn lễ hơn. Đó là một sự
thiệt thòi rất lớn trong suốt kiếp sanh của họ mà họ không hề hay biết vì không
hiểu Đạo. Đức Chí Tôn đã ân xá cho tội tình của họ mà họ lại khước từ ân huệ ấy
qua hành động từ chối phép hôn phối và dễ gì có được cơ hội thứ hai khi dịp may
kia đã lỡ rồi.
Hành pháp xong, vị chức sắc sẽ dặn
dò vợ chồng mới cưới vài lời về cách ăn ở với nhau cho phải đạo làm người. Sau
khi bái lễ Đức Chí Tôn, vị chức sắc sẽ nắm tay cô dâu, chú rễ đưa ra Thánh
Thất, người đi giữa, cô dâu, chú rễ hai bên. Có nhiều trường hợp chẳng may
không gặp được vị chức sắc có đủ khả năng hành pháp hôn phối, hai đàng trai và
gái vẫn đến Thánh Thất cầu nguyện nhưng không có hành pháp. Dĩ nhiên nếu lời
cầu nguyện chân thành vẫn có sự cảm ứng của Thiêng liêng nhưng chắc chắn ân huệ
sẽ không được đủ đầy như trong trường hợp có hành pháp linh hiển.
III - VAI TRÒ CỦA NGƯỜI MẸ ĐỐI VỚI CÁC CHƠN LINH GIÁNG TRẦN
Vai trò nầy được ví như "bụng mang đầy quyền phép nắn đời"
bởi vì người mẹ có thể làm cho đời trở nên hiền lương nhưng ngược lại người
cũng có thể làm cho đời trở nên quỷ mị. Người mẹ giữ vai trò của cơ quan sản
xuất ra nhơn loại, phép uốn nắn trẻ thơ nơi tay người không ít. Người có thể
sản xuất ra hạng hiền nhân quân tử, tài trí thông minh, nhưng cũng có thể tạo
ra hạng đàng điếm lưu manh.
Nếu hiểu được Đạo là máy Trời vi
diệu, chúng ta cũng có thể nương theo đó mà thay đổi số kiếp của con người được
phần nào. Phép sanh hóa của người mẹ thật hệ trọng đối với các Chơn linh giáng
trần. Hễ cái máy xấu thì khó lòng sản xuất được vật tốt. Một người gọi là tốt
thì phải tốt cả hình hài lẫn tâm hồn, hai yếu tố ấy tương liên mật thiết với
nhau. Hồn tốt mà xác xấu sẽ không đủ sức làm nổi việc thế gian, xác tốt mà hồn
xấu thì chỉ vụ đường vui chơi. Cái phép sửa đời tệ hóa ra hay của Đạo Cao Đài
còn ngó đến tận chốn phòng the trong việc ăn ở với nhau giữa vợ chồng cho phải
phép của Đấng Hóa công thì mới mong gặp được hạng Thánh Thần giáng thế. Nếu như
tâm hồn của người mẹ thấp hèn nhơ nhớp quá, thể xác ô uế, tiều tụy quá làm sao
hy vọng có đủ điều kiện sản xuất được hình hài tốt đẹp cho các Chơn linh cao
trọng giáng ngự.
Ấy vậy vai trò của người mẹ đã thay
nửa quyền Tạo Hóa vẻ nên hình tướng của cuộc đời nầy
IV - ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỜI SỐNG TÌNH DỤC
Xin tóm tắt nơi đây những lời giảng
dạy của Đức Hộ Pháp về vấn đề nầy:
"Hồn và xác của con người tương liên mật thiết với nhau. Tinh thần
của người mẹ như thế nào trong khi mang thai thì đứa con sẽ chịu ảnh hưởng
giống như thế đó không ít. Ấy là một phép truyền thần, dầu chẳng linh hiển trọn
vẹn, nhưng rất quan hệ. Bởi vậy trong việc ăn ở của vợ chồng, ảnh hưởng tinh
thần của cha mẹ rất hệ trọng, cần phải tập đứa con trong tương lai được thông
minh bằng cách chính cha mẹ phải sống với tinh thần cao thượng, để tinh thần ấy
nhiểm vào bào thai từ từ.
Bần Ðạo đâu vọng ngữ nói chơi,
Dạy vợ chửa tức thời dạy trẻ.
Những trí thức tinh thần có lẽ,
Nhiểm vào tâm chửa đẻ trọn tinh thần.
Có tinh thần mới có xác thân,
Biến thân đủ tinh thần quán chúng.
Trí cao thượng nhiểm từ trong bụng,
Con đẻ ra chắc đúng bực thông minh,
Tỉ khác nào tấm kiếng chụp hình,
Có bóng chói đã in mọi vật.
Đầu mới tượng, óc còn thiếu chất,
Phần thông minh lật đật bỏ vào,
Cây hưởng phân, quý sẽ dường bao.
Thì cha đã thông minh mẫn đạt,
Con chắc là bác lãm quần thi,
Thần mẹ thêm cách vật trí tri,
Con ắt đặng quản tri thế sự.
Dầu vợ dốt hay là hay chữ,
Nghe điều hay cư xử gia đình,
Phép truyền thần dầu chẳng đặng linh,
Việc dạy dỗ vợ mình còn chế sữa.
Để ý thấy trẻ thơ nhiều đứa,
Tánh thông minh từ thuở mới lên ba,
Ấy là nhờ tính chất mẹ cha,
Gặp phải phép hiệp hòa sanh đặng vậy.
*
Phương Tu Ðại Ðạo. Phạm Công Tắc.
Ấy là tích
cực, còn tiêu cực thì vợ chồng nên tránh giao hoan trong lúc thể xác yếu đau và
tinh thần bất ổn như đang lúc say rượu hay là vừa khi nguôi cơn giận. Bởi vì
bào thai của đứa trẻ tượng hình do nơi tinh khí của cha mẹ là những chất liệu
đàu tiên tạo nên hình hài nhục thể nó.
Vậy nếu tinh
suy nhược, khí rối loạn thì cha mẹ làm sao tạo được hình hài hoàn hảo cho đứa
trẻ, vừa ý với những Chơn linh cao trọng giáng trần.
"Lúc vợ chồng giao tình tua để dạ,
Luyện trí thức thông minh hòa nhã,
Tứ đổ tường chớ khá nên gần,
Hễ thân mình thiếu khí, loạn thần,
Thọ khí bẩm nhâm thần, con dại dột.
Cử hoa nguyệt, bớt đi thì tốt,
Tinh khí đầy, hài cốt trẻ tráng cường,
Khi giao hoan có độ, có lường,
Vợ bịnh, yếu, chớ thường lân cận.
Đừng nhè lúc vợ chồng đương giận,
Mới vừa vui, vầy trận tam bành,
Cũng đừng quen theo phép dỗ dành,
Ép buộc vợ thỏa tình hoa nguyệt.
Khi thấy dáng nhụy hoa quả kết,
Thì phải toan dứt tuyệt đường ong,
Nghén ba trăng phải gắng gia công,
Dạy con trẻ còn trong bụng mẹ."
*
Phương Tu Ðại Ðạo. Phạm Công Tắc.
Ðành rằng sự tấn hóa của đứa trẻ còn
tùy thuộc nhiều yếu tố khác nữa như cách dinh dưỡng của người mẹ trong khi mang
thai, sự dinh dưỡng của đứa bé từ khi ra đời, sự giáo dục của gia đình trong
tuổi ấu thơ, sự giáo dục của học đường, ảnh hưởng của xã hi. Những yếu tố ấy
cấu kết với nhau làm thành một phần nào số phận của nó. Thế nhưng, một khi đã
hiểu lý đạo nhiệm mầu, con người vẫn có thể chủ định được phần nào tương lai
của chính mình bằng thái đ tích cực loại trừ bớt những mầm mống của đau khổ bất
kỳ lúc nào có thể làm được.
Đức Hộ Pháp đã nhắc nhở tín đồ cần
loại trừ bớt những mầm đau khổ ấy ngay từ trong việc ăn ở của vợ chồng với
nhau, tưởng cũng nên để ý lắm vậy.
LUẬT PHÁP ÐẠO
Căn bản về luật pháp của Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ có hai phần chính là Pháp và Luật.
– Pháp là Pháp Chánh Truyền, bất di
bất dịch, do Đức Chí Tôn chỉ dạy từ buổi mới mở Đạo. Đây là một văn kiện quy
định các phẩm vị, quyền hạn, bổn phận, đạo phục của chức sắc. Về sau Đức Hộ
Pháp có chú giải thêm nhiều chi tiết rõ ràng hơn, viết thành quyển "Pháp Chánh Truyền Chú Giải".
Lời chú giải nầy đã được Đức.
Lý Đại Tiên chỉnh lại.
– Luật là Tân
Luật và Đạo Luật. Tân Luật đã được Hội Thánh lập thành và Đức Chí Tôn phê chuẩn
từ năm 1927. Năm Mậu Dần (1938) quyền Vạn Linh có lập thêm bộ luật nữa gọi là
Đạo Luật ban hành ngày Rằm tháng Giêng năm ấy.
Ngoài ra Đức
Lý Giáo Tông và Đức Hộ Pháp còn ký ban hành sáu Đạo nghị định từ năm 1930, và
hai Đạo nghị định nữa vào năm 1934, cộng chung là tám Đạo nghị định thường gọi
là "Bát Đạo Nghị Định".
Bổn phận của
người tín đồ là phải tuân theo luật pháp Đạo và bảo vệ luật pháp ấy để cho đời
sống chung trong tôn giáo khỏi bị rối loạn. Chi tiết về các điều luật có đầy đủ
trong các quyển:
- Pháp Chánh
Truyền Chú Giải
- Tân Luật
- Bát Đạo Nghị
Định Đạo
- Luật Mậu Dần
(1938)
Chúng tôi chỉ
xin ghi lại nơi đây những điều luật căn bản mà bất kỳ người tín đồ nào cũng
phải gìn giữ.
NGŨ GIỚI CẤM
Là năm điều
cấm, nếu phạm vào tùy theo nặng nhẹ có thể bị phạt từ hình thức cảnh cáo quỳ
hương, sám hối, đến bị ngưng quyền chức từ một đến ba năm.
Chương IV. Tân Luật
Năm điều cấm ấy là:
1 . Nhứt bất
sát sanh là chẳng nên sát hại sanh vật.
2 . Nhì bất du
đạo là cấm trộm cướp, lấy ngang, lường gạt của người, hoặc mượn vay không trả,
hoặc chứa đồ gian, hoặc lượm lấy của rơi, hoặc sanh lòng tham của quấy, dể ý
hại người mà lợi cho mình, cờ bạc gian lận.
3 . Tam bất tà
dâm là cấm lấy vợ người, thả theo đàng điếm xúi giục người làm loạn luân
thường, hoặc thấy sắc dậy lòng tà, hoặc lấy lời gieo tình huê nguyệt (vợ chồng
không gọi là tà dâm).
4 . Tứ bất tửu
nhục là cấm say mê rượu thịt, ăn uống quá độ, rối loạn tâm thần, làm cho náo
động xóm làng, hoặc miệng ước rượu ngon, bụng mơ đồ mỹ vi .
5 . Ngũ bất
vọng ngữ là cấm xảo trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình, bày lỗi người,
chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai, nói
hành kẻ khác, xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng, thô
tục, chưởi rủa người, phỉ báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa.
Đức Qu. Giáo Tông
TỨ ĐẠI ĐIỀU QUY
TỨ ĐẠI ĐIỀU QUY
Là bốn quy
điều lớn buộc phải tuân theo.
1 . Phải tuân
lời dạy của bề trên, chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người.
Lỡ lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.
2 . Chớ khoe
tài,đừng cao ngạo, quên mình mà làm nên cho người. Giúp người nên Đạo. Đừng nhớ
cừu riêng, chớ che lấp người hiền.
3 . Bạc tiền
xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả. Đố với trên dưới đừng lờn dễ,
trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung.
4 . Trước mặt
sau lưng cũng đồng một bực, đừng kỉnh trước rồi khi sau. Đừng thấy đồng đạo
tranh đua ngồi mà xem không để lời hòa giải, đừng lấy chung làm riêng, đừng vụ
riêng mà bỏ việc chung. Pháp luật phải tuân, đừng lấy ý riêng mà trái trên dễ
dưới. Đừng cậy quyền mà yểm tài người.
Nếu phạm vào
một trong bốn điều quy nầy sẽ bị hình phạt thuyên bổ đi nơi khác chỗ mình đang
hành đạo.
Luật pháp Đạo
tuy có nghiêm khắc thật, nhưng đó là phương pháp để kềm chế, sửa trị phàm tâm
của chúng ta rất hữu hiệu. Chưa ai có thể bước chân vào lòng Thánh Điện mà
không mang theo những vết nhơ bẩn trên người. Ấy vậy phải thường xuyên xét mình
mới tránh khỏi lỗi lầm đáng tiếc.
Đức Cao Thượng Phẩm
KẾT LUẬN
Vài sinh hoạt
mô tả như trên đây không đủ để nói lên hết ý nghĩa của đời sống một người tín
đồ Cao Đài. Tuy nhiên nó cũng giúp cho đọc giả nhất là các bạn đạo mới bước
chân vào ngưỡng cửa tôn giáo hiểu được phần nào nhân sinh quan Cao Đài giáo.
Dù mang sắc
thái nào, vai trò của tôn giáo tại thế gian vẫn mưu cầu một đời sống công bằng,
ấm no, hạnh phúc, thanh bình cho mọi người. Khát vọng sâu xa ấy thể hiện rõ rệt
nhất trong những sinh hoạt thường nhật của người tín đồ. Thoạt tiên là những
lời cầu nguyện chân thành thường xuyên dâng lên Đức Chí Tôn mỗi khi cúng tế tại
Đền Thánh, Thánh Thất hay tư gia. Rồi đến những hành động cụ thể hơn từ việc giáo
dục đời sống hôn nhân cho thanh niên nam nữ, huấn luyện trẻ con, cho đến việc
hướng dẫn người lớn sống với nghĩa nhân, nuôi dưỡng tinh thần dân tộc, bảo vệ
giống nòi, phát triển tình giao hảo quốc tế trên căn bản đại đồng huynh đệ, lấy
tình thương thay cho thù hận, nhìn nhau là anh em ruột thịt cùng một gốc sinh
ra.
Nguồn gốc ấy
phải thật linh thiêng quyền phép đáng kính đáng trọng, đáng tôn sùng hơn hết
mọi sự nên gọi là "Chí Tôn".
Và một khi đã
đặt mình trong mối tương giao Trời người hiệp nhất thì đời sống con người sẽ
trở nên phong phú, sinh động vô cùng. Tâm trạng chán nản, bơ vơ, lạc lõng của
người luôn thấy cuộc đời vô nghĩa là dấu hiệu nghèo nàn của những tâm hồn đã
quên mất cội nguồn thiêng liêng ấy nên mới chuyên chú xây dựng một thứ hạnh phúc
trên bụi trần làm đảo điên thiên hạ.
Ước gì mọi
người đều rõ biết mọi lẽ ẩn vi trong các sinh hoạt thường nhật của đạo giáo,
năng thuyết năng hành thì đạo giáo sẽ là vị thuốc thần hiệu chữa bịnh cho loài
người vậy.
Tòa Thánh Tây Ninh,
Rừng Thiên Nhiên, Hạ 1973
* HT.
Huỳnh Tâm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét