Lời Trình Dâng.
19/02/1975: Mùa
Xuân vinh danh Chí Tôn, Toàn Ðạo khắp nơi về Tòa Thánh chúc mừng lễ dâng hiến
công nghiệp hằng năm và tham dự Ðại Hội Nhơn Sanh. Mùa vinh danh Chí Tôn năm ấy
cũng nhân dịp dòng chảy giao lưu hướng về đại lộ yêu thương và lập công bồi đức
nền Ðạo.
Những hội viên
Ðại Ðạo Thanh Niên Hội cũng từ khởi động nhịp tim ấy để lên chương trình,
đề án
thực hiệnCông Nghiệp Ðạo cho ngày tương lai, rồi dòng lịch sử đến "30/04/1975" chương trình Ðạo
sự chưa thực hiện phải cuộn theo vận nước Việt Nam thăng trầm.
Tòa Thánh Tây Ninh [1]
[1] - Nguồn tài
liệu Hiệp Thiên Đài, lưu trữ tại Thư viện Cao Đài Paris, Pháp quốc, và Viện bảo
tàng của Nhân Loại France ( musée de l’homme France).
Mốc lịch sử
30/04/1975 đưa Ðức tin Cao Ðài vào những hệ luỵ đóng tảng dòng Nghiệp Ðạo hun
hút, không lời ước mơ và dư âm giục giã, bởi hoàn cảnh xã hội nối tiếp nghiệt
ngã và dồn dập thử thách Ðức tin Cao Ðài. Toàn Ðạo phải nhận khổ cùng kiệt sự
sống, không còn lời ước nguyện cho đời mình dâng cao và tự tin vào lẽ sống, Ðạo
đời đã trôi qua hai thập niên im lìm và nay vẫn còn tiếp tục trên dòng thác bi
đát cuộc đời .
Nhưng dưới ánh
sáng mặt Trời lúc nào cũng rực rỡ và báo hiệu niềm tin mới, cho phép những cưu
mang mở ra cánh cửa cũ nhằm thực hiện những ước vọng mới, để cho Ðức tin vươn
ngôi vào mọi tinh thể và soi rọi tận chân trời Nhân bản loàn người .
Nay chúng tôi
viết Tiểu Sử Tổng Giám Lê Văn Bàng lại nhớ nơi chôn nhau cắt rốn, tất cả những
gì trên quê hương cũng nhớ, nhớ Ðền Thánh một Ðức tin Dân tộc Việt Nam yêu dấu
và ngôi nhà Ðại Ðạo Thanh Niên Hội, đã cùng chúng tôi năm xưa dâng ý nguyện,
người Anh Chị Em ấy vẫn còn đó những cưu mang phụng sự Ðạo như Huynh Trưởng
Khiêm, Phước, Ðộ, Côn, Cải, Tài, Tống và đôi hiền nhân biền biệt xa trần thế
như Huynh Trưởng Bạch và Kịp.
Từ những
thương nhớ ấy cho phép chúng tôi hy vọng tiếp nhận thể cách và linh đan của
Ðạo, qua sự mặc khải của Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đêm 15/7/1994 Paris, đã soi
sáng và dạy bảo những gì trong tầm tay nắm được hiện hữu.
Ngày này, 19
tháng 5 năm 2018, chúng tôi cập nhật hóa lần cuối với những dữ liệu phong phú
vào cuốn sách Tiểu Sử Tổng Giám Lê Văn Bàng cho hoàn chỉnh tương ứng văn hóa,
lịch sử Đạo Cao Đài, trên mọi thực hiện biên khảo Tiểu Sử Tổng Giám Lê Văn Bàng
qua những cấu trúc chân dung tiêu biểu vì Ðạo để vinh danh một đức hạnh phi
thường và chúng tôi đặt Khoa học Xã hội Nhân Văn trong cuốn sách nhỏ nầy bởi
những trung thực nào cũng được trong sáng.
Chúng tôi biết
ơn quý sở Đạo, và quý vị: Cao Đài Hải Ngoại, Ban Thế Đạo, Quốc Sĩ Nguyễn Ngọc
Dũ, Ðại Huynh Hồ Văn Quới Ban Kiến Trúc Tòa Thánh Tây Ninh, Hội Thánh Ngoại
Giáo Cao Ðài Âu Châu, Thư Viện Cao Ðài Pháp, Ban Ðạo Sử Cao Ðài Âu Châu, Nhị vị
HH HTỷ Hiền tài Võ Hà Quyến. Anh Chị Em Ðại Ðạo Thanh Niên Hội Trung Ương Tòa
Thánh Tây Ninh, Quý Hiền Huynh Giáo sư Thần học Cao Ðài, Viện Khoa học Xã hội
Nhân văn Paris, Giáo sư Xuân Vũ, Ðại huynh Nguyễn Thái Sương, HT Nguyễn Thị
Xuân Mai, gia đình Ngài Tổng Giám Lê Văn Bàng (HT Lê Thị Huệ Hường đại diện),
cung cấp, và tiếp cận nguồn dữ liệu tạo điều kiện để hoàn tất biên khảo nầy.
Mặc Khải:
Ngoài ra có những mặc khải của Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc chỉ dạy và thôi thúc
chúng tôi: " - Các con nên đi tìm
gia phả của Tổng Giám Lê Văn Bàng mà viết tiểu sử, bởi công nghiệp Ðạo của Tổng
Giám xứng đáng lưu truyền. Thầy nhắc nhở các con nơi lưu trữ tài liệu của Tổng
Giám là Bạch Vân Ðộng, trong thư phòng của Giáo sư Gustave Meillon, riêng phần
bổ túc tiểu sử Thầy sẽ tạo điều kiện sau. Các con không nên để mất cơ hội nầy
vì mỗi công nghiệp Ðạo đều có giá trị thăng hoa và truyền giáo.
Các con phải hiểu Ðức Chí Tôn đã hạ mình
nuôi dưỡng nhơn sanh, để rồi NGƯỜI nhận chịu trước các con khi bị căng da thử
thách, NGƯỜI là hiện thân của yêu thương và bao dung, NGƯỜI sẽ ban phép lạ nuôi
các con trên ngôi ánh sáng kỳ diệu. Các con sẽ nhận gương ấy để soi chung, lấy
tinh thần ấy mà học và giữ biên Ðạo được lưu truyền mãi mãi.
Thầy vì thương Nhơn sanh mà để mắt lo Ðạo
từng ấy việc. " Nhơn sanh cùng biết thương nhau là thương Ðức Chí Tôn,
thương Ðức Từ Mẫu, thương Ðạo như thương Thầy và cả các Ðấng Thiêng Liêng
".
Chúng tôi nhận
được thị hiện của Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc dạy bảo, từ cơ duyên ấy không bao
lâu có đủ tài liệu của Tổng Giám Lê Văn Bàng như một nhân duyên chắt bóp công
quả, được tiếp xúc Ðại Huynh Nguyễn Thái Sương, Chủ Trưởng Phước Thiện Sài Gòn
qua các cuộc phỏng vấn tại Pháp quốc nguyên là gia quyến Ngài Tổng Giám Lê Văn
Bàng.
Thi sĩ Hà Châu
Lý, " Hiền Huynh, Hiền Tỷ Hiền Tài
Võ Hà Quyến " từ Canada đến Pháp Quốc thăm viếng chúng tôi và tặng tài
liệu Bàn Giao Ðền Thánh. Ðại Huynh Hồ Văn Quới thay mặt Ban Kiến Trúc Tòa Thánh
gửi tài liệu bổ túc đến Ban Ðạo Sử Cao Ðài Âu Châu và Thư Viện Cao Ðài tại
Pháp.
Nhờ vậy chúng
tôi vui mừng và đối chiếu những tài liệu trung thực nhứt, nhận rằng những gì
Ðức Hộ Pháp thị hiện dạy bảo, cho đến nay cuốn sách Tiểu Sử Tổng Giám Lê Văn
Bàng được thành hình đều do sự mặc khải kỳ diệu của Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
Chúng con kính
ngưỡng mộ NGƯỜI, và cầu nguyện mọi hiện hữu đời đời bình an.
Hiệu đính ngày 19-5-2018 .
Biên Khảo Hiền Tài / Huỳnh Tâm
Tiểu
sử Tổng Giám Lê Văn Bàng
(1902-1987)
Tiểu Sử Tổng Giám Lê
Văn Bàng (1902-1987) [2]
Cội nguồn phát tích.
Ngày thứ Ba
12/01/1902 : Tại Tổng Hòa Hiệp, quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho (Tiền Giang) miền Nam
Việt Nam, vào tuần thứ hai đầu mùa Xuân, gia đình ông bà Lê Văn Luận và Nguyễn
Thị Diệu, sinh hạ được một hài nhi đặt tên Lê Văn Bàng. Sự tăng trưởng của Lê Văn
Bàng cũng ở độ bình thường như mọi đồng sinh khác, thời thơ ấu sống trong gia
đình bình lặng và trôi theo văn hoá sông nước lưu vực lục tỉnh Miền Tây.
Năm 1920: Ngài
Lê Văn Bàng vươn vai vào đời và đặt mình trên mọi tự tin ở tương lai, với tất
cả mỹ thuật trong ký ức ấu thơ mang nặng khối tình quê hương thiên phú, đã cho
phép tuổi thơ của Người đầy ập nguồn sáng tạo nhận từ miền phì nhiêu sông rạch
hiền hòa bằng kinh nghiệm sống vì tha nhân, qua sự ẩn hiện kiến trúc và xây
dựng thiên nhiên theo năm tháng trở thành văn hóa xã hội mang dấu ấn đặc thù
đồng nội lục tỉnh của Người từ ấy. Cảnh thanh bình lục tỉnh đã quyện ở thân
Người và tạo thành một kiến thức căn nguyên đạo đức kỳ diệu.
[2] - Nguồn: Gia
tộc Tổng Giám Lê văn Bàng.
Năm 1921: Ngài
Lê Văn Bàng vào tuổi thanh niên đã phải dừng chân bồng bềnh để lập gia thất với
Bà Nguyễn Thị Chữ, gia đạo hạnh phúc không được bao lâu mắc phải hoàn cảnh ly
hôn, đã sinh hạ được một (1) trai, ba (3) gái. Ngày sau ba người con gái của
Ngài Lê Văn Bàng tiếp nối hành trình cha ông tạo lập Đạo nghiệp tại Tòa Thánh
Tây Ninh.
- Lê Văn Sĩ,
chỉ được hưởng dương dưới «đáo tuế».
- Lê Thị Ba,
lập công bồi đức tại Tòa Thánh Tây Ninh.
- Lê Hồng Nga,
Giáo Nhi được Đức Hộ Pháp chọn ngồi «Cộ Tiên».
- Lê Thị Ngọc,
chức sắc Phó Tổng Giám Ban Kiến Trúc Tòa Thánh Tây Ninh.
Vào năm 1941.
Ngài kết hôn lần thứ nhì với Bà Nguyễn Thị Nỉ, thân phụ là Nguyễn Văn Lạc và
thân mẫu là Nguyễn Thị Mùi quê ở Quận Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc, miền Nam Việt Nam.
Gia đình Người hạnh phúc dù lam lũ, cực nhọc và đặt trọn niềm tin vào cuộc sống
đầy sinh lực mới, từ ấy gia đình được khởi sắc và đồng sinh hạ được hai (2)
trai, ba (3) gái. Ðiều kiện sống phong phú, và khởi sắc trên hai mặt Ðạo và
Ðời.
Những người
con của Ngài cùng đồng hành tiếp nối sự nghiệp cha ông hướng về Tòa Thánh tạo
lập Đạo nghiệp bồi Đức.
- Lê Thu Hà,
Luật Sự tại Bộ Pháp Chánh, Hiệp Thiên Đài.
- Lê Văn Sua,
chỉ được hưởng dương dưới «đáo tuế».
- Lê Thị Huệ
Hường, Hiền Tài Ban Thế Đạo.
- Lê Thị Huệ
Dung, lập công bồi đức tại Bá Huê Viên Tòa Thánh Tây Ninh.
- Lê Thành
Tân, thừa tự họ Lê, và lập công bồi đức tại địa phương Tây Ninh. Ngài Lê Văn
Bàng vào tuổi thượng thọ, thỉnh thoảng khơi dậy ký ức kể chuyện cũ cho con cháu
cùng nghe, quan trọng nhất những sự kiện trong đời người không ngờ có thể thực
hiện được qua khoảnh khắc kỳ diệu, thấy một cách phảng phất trong giấc ngủ.
Ngài Tổng Giám
Lê Văn Bàng, kể lại chuyện khởi nguyên hành Đạo. " - Ngày xưa năm ấy (20-10-1935). Trong cơn bạo bệnh, nằm thiêm
thiếp có thể là nửa thực, nửa mơ thấy một ông già đức độ, đầu tóc bạc
phơ."
Có Đấng Bạch Ông
đến bên giường nói:
" - Con không thể nào ở đây để sống một
cuộc sống bình thường. Trách nhiệm của con là phải xây cất Tòa Thánh ở Tây
Ninh."
Ông Lê Văn
Bàng. Kính cẩn thưa với Ngài rằng:
" - Bạch Ông, con không biết Tây Ninh
là ở đâu, xây cất Tòa Thánh ra làm sao ? Gia đình con thì nghèo, các cháu còn
non dại. Ông nói thì con vâng lời nhưng con chưa biết phải làm sao ?"
Đấng Bạch Ông
nói: " - Chuyện đó để ta lo, ba (3)
hôm sau con hãy ở nhà sẽ có người đem đến trao cho con một trăm (100) đồng bạc
hình Bộ lư. Con để lại một ít cho vợ con, rồi con lập tức tìm đường về Tây
Ninh. "
Ông Bàng. Kính
cẩn thưa với Đấng rằng: " - Thưa
Bạch Ông, tiền của ai đưa cho con xin Ngài cho biết danh tính đặng ngày sau con
hoàn trả lại."
Đấng ấy đáp: " - Tiền của Ông Cả trong làng giúp con
làm lộ phí. Con không cần phải trả lại."
Ông Bàng,
thành thật nói lên nỗi lòng âu lo của mình: "
- Bạch Ông, con xin nghe theo lời Ông nhưng khi về Tây Ninh con không biết ai,
và ai cũng không biết con. "
Đấng ấy ung
dung đáp: " - Con về Tây Ninh, tìm
đến nơi đang xây cất Tòa Thánh, nói với Bảo Thể là con muốn xin diện kiến Đức
Ông, lúc đó con sẽ biết con gặp ai ? "
Quả nhiên sáng
hôm sau có người nhà của Ông Cả đem đến một trăm (100) đồng bạc hình Bộ lư,
chuyện trong đêm lại hiện thực giữa ban ngày. Tôi, liền hỏi: " - Sao Ông biết nhà tôi mà đến đưa
tiền và của ai ? "
Ông Cả từ tốn
một cách tự nhiên đáp: " - Tôi nằm
chiêm bao thấy Ông đầu tóc bạc phơ, bảo đem số tiền này đến trao cho Ngài, và
Ngài lo thu dọn đồ đạc mướn ghe chở gia đình về Tây Ninh."
Lúc ấy, Ông Bàng
cảm nhận được sức mạnh của sự kỳ diệu mở rộng những hiện thực mà Cha là người
đang tiến hàng. Từ ngày nhập môn cầu Ðạo cho đến nay, cũng vừa lúc 5 năm thừa
theo chu kỳ thăng hoa của một tín đồ Cao Ðài thuần khiết, tuy Cha (Lê Văn Bàng)
đau ốm nhưng vẫn vì tiếng gọi Thiêng Liêng mà tạm từ giã gia đình cũng như quê
hương, tiến bước lên đường đến Tây Ninh.
Ông Lê Văn
Bàng về đến Tòa Thánh ngưỡng mặt lên nhìn thấy trên cao có một chân dung tinh
khiết Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung) chính là Đấng Bạch Ông
đức độ tóc bạc phơ của đêm thị hiện 20/10/1935, và 100 đồng bạc Bộ lư cũng
trong chiêm bao ấy, mở ra một lộ trình mới cho Cha tôi về Tòa Thánh Tây Ninh
hành đạo.
Tiến trình hành Đạo.
Ngày
20/12/1935. Ngài Lê Văn Bàng về đến Thánh Địa, mọi tiến trình diễn biến như in
lời Đấng Bạch Ông căn dặn. Ngài Lê Văn Bàng gặp Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, đàm
đạo trao đổi một lúc.
Ðức Hộ Pháp
cho biết: " - Thầy đang chuẩn bị
chọn ngày giờ vào tháng sau tổ chức Đại hội Nhơn sanh tham khảo mọi ý kiến
thành lập kế hoạch tạo tác Ðền Thánh, khi ấy Thầy đề cử con làm Tổng Giám tạo
tác Ðền thờ Chí Tôn." Dạ con
tuân lịnh Thầy.
Ngày
10/01/1936. Sau Đại hội Nhơn sanh, Văn Phòng Công Viện Phước Thiện, chính thức
lập Tờ Bổ Dụng số 01 cho Tổng Giám Lê Văn Bàng, Hội Thánh Phước Thiện mời cựu
Đốc công Cương người phụ trách xây dựng Đền Thánh của những lần trước để tham
khảo, và giới thiệu Ông Lê Văn Bàng chính thức được Hội Thánh ủy nhiệm. Văn
Phòng Công Viện Phước Thiện, cựu Đốc công Cương với tân Đốc công Lê Văn Bàng
cùng nhau tham khảo những công trình xây dựng lúc trước, rồi mới lấy quyết định
tạo tác Ðền Thánh theo thời gian ấn định hoàn thành trong 6 năm.
Tổng Giám Lê
Văn Bàng muốn tìm hiểu những trải nghiệm của quý đấng đã thực hiện nhưng chưa
hoàn thành như ý của Đức Chí Tôn, do đó có những điều biết đâu mà nói trước về
xây dựng lần này, cho nên Văn phòng Công Viện Phước Thiện, và cựu Đốc công
Cương trình bày tiến trình kiến thiết Tòa Thánh như sau:
- Trong tuần
thời điểm thứ Năm, ngày 17 tháng 2 năm 1927, (Ngày 16 tháng Giêng Đinh Mão).
Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông dạy mọi chi tiết, xây dựng Tòa Thánh, nhưng lúc
bấy giờ Đạo còn nghèo, số tín đồ chưa đông, nên việc xây dựng Tòa Thánh bằng
vật liệu nặng, bê tông cốt sắt chưa thực hiện được ở lúc này, và còn tùy thuộc
vào thời gian, tài chánh, nhân lực, v.v...
Chùa Gò Kén là
nơi Khai Đại Đạo nhưng không đủ vững chắc cho sự ổn định truyền giáo và mở rộng
Đạo. Đức Chí Tôn truyền dạy tìm miền đất mới lập Thánh địa trả chùa lại cho Hòa
Thượng Như Nhãn. Từ đó Đao Cao Đài thành hình Thánh Địa tại làng Long Thành,
quận Thái Bình, tổng Hàm Ninh. Sau đổi thành địa danh mới quận Phú Khương,
huyện Hòa Thành, thị trấn Hòa Thành, cách tỉnh lỵ Tây Ninh khoảng 5 cây số về
hướng Đông Nam.
Lịch sử xây
dựng Đền Thánh.
I - Xây dựng lần thứ nhất.
Khởi công vào
ngày 25-12-1927 (Đinh Mão). Tạo tác gấp rút Tòa Thánh tạm bằng vật liệu thô sơ,
mái tranh, tre và vách ván, cùng lúc xây dựng tạm những cơ quan hành chánh đạo
bằng mái tranh, vách đất có nơi cho chức sắc làm việc. Hy vọng sau khi công
việc xây dựng tạm được ổn định, sẽ bắt đầu khởi công xây dựng Tòa Thánh bằng
vật liệu nặng với quy mô lớn theo mô hình của Đức Lý Giáo Tông và Đức Chí Tôn
đã dạy
Tòa
Thánh tạm lúc mới xây [3]
II - Xây dựng lần thứ hai, khởi công vào
năm 1931 (tháng 10 năm Tân Mùi).
Toàn lực Nhơn
sanh tiến hành thực hiện kiến thiết và tiếp tục xây dựng Tòa Thánh. Ngài Chánh
Phối Sư Thái Thơ Thanh ( ngày sau Đầu Sư ) vận động toàn đạo và chăm sóc xây
dựng, tạo tác Ðền thờ Chí Tôn với ý nguyện mở rộng Đạo vào Đời. Khởi động đào
móng làm nền, đào hầm Bát Quái. Công việc tiến hành tạo tác Đền Thánh
không được tiến triển như ý, do thiếu chuẩn bị vật chất và phương tiện,
đành phải tạm ngưng kiến thiết Tòa Thánh.
[3] - Vào ngày
25-12-1927, quý đấng tiền khai lấy quyết định tạo tác Tòa Thánh tạm, do Đức Cao
Thượng Phẩm (Cao Quỳnh Cư ) đứng ra tạo lập.
Chư chức sắc
Thiên phong Hiệp Thiên Đài và Cửu Trung Đài chụp hình lưu niệm, sau khi hoàn
thành điện thờ Đức Chí Tôn. [4]
Hầm
Bát Quái Đài. [5]
Nền
Bát Quái Đài và Phần Hiệp Thiên Đài năm 1931 [6]
III - Xây dựng lần thứ ba, khởi công vào
năm 1933 (Quý Dậu).
(Trước Bửu
Tháp của Đức Cao Quỳnh Cư, đang đổ đà xây nền móng, phần hầm của Đền Thánh được
xây dựng sát với cổng chánh môn ngày nay, tức là từ ba Bửu Tháp trở vô sân Đại
đồng xã, Cột Phướng và trước mặt Hiệp Thiên Đài của Tòa Thánh ngày nay).
[4] - Nguồn tài liệu Hiệp Thiên Đài, lưu trữ tại Thư viện Cao
Đài Paris, Pháp quốc, và Viện bảo tàng của Nhân Loại France ( musée de l’homme
France). 5- Nguồn tài liệu Hiệp Thiên Đài, lưu trữ tại Thư viện Cao Đài Paris,
Pháp quốc, và Viện bảo tàng của Nhân Loại France ( musée de l’homme France).
[5] - Nguồn tài
liệu Hiệp Thiên Đài, lưu trữ tại Thư viện Cao Đài Paris, Pháp quốc, và Viện bảo
tàng của Nhân Loại France ( musée de l’homme France).
Toàn Đạo khởi
động công nghiệp, tạo tác Ðền thờ Chí Tôn, do Ðức Quyền Giáo Tông Thượng Trung
Nhựt (Lê Văn Trung), cùng Nữ Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh, và ba (3) vị Chánh
Phối Sư Cửu Trùng Ðài, tiếp nối công trình xây dựng, rồi cũng chỉ đào được hầm
tàng Bửu Khánh và đổ bê tông. Công việc chưa thành thì Đức Quyền Giáo Tông
lâm bịnh và đăng Tiên ngày 13-10 Giáp Tuất (1934).
IV .
Xây dựng lần thứ tư, khởi công vào năm 1935 (Ất Hợi).
Thành lập Hội
đồng tạo tác Ðền thờ Chí Tôn, Chức sắc Hiệp Thiên Ðài và Cửu Trùng Ðài cùng
hiệp thành đại nguyện, do Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh chấp chưởng vận động công
nghiệp Ðạo; bước công quả nầy xây dựng được lầu Hiệp Thiên Đài, đúc 4 trụ
cột, đổ plafond một khoản nhỏ từ vị trí của Hiệp Thiên Ðài. Ngài Tiếp Thế
Lê Thế Vĩnh dốc hết tâm lực vận động tài chánh, và nhờ Bác Vật Phan
Hiếu Kinh từ Sài Gòn lên làm cố vấn, rồi cũng phải ngưng lại, mọi
xây dựng dở dang.
Sau khi Ðức
Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt quy Tiên, Ðại Hội Nhơn Sanh yêu cầu và ủy
nhiệm Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc thống nhứt Nhị Hữu Hình Ðài cầm giềng mối Ðạo,
tiếp tục khởi công tạo tác Ðền thờ Chí Tôn lần thứ tư. Ðức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc ban truyền tái tạo tác Ðền thờ Chí Tôn trên nền tảng một khối đức tin mãnh
liệt, Nhơn sanh và toàn đạo đồng nhứt khẩn nguyện Thiêng liêng trợ lực. [7]
[6] - Nguồn tài
liệu Hiệp Thiên Đài, lưu trữ tại Thư viện Cao Đài Paris, Pháp quốc, và Viện bảo
tàng của Nhân Loại France ( musée de l’homme France).
Những năm
tháng đã qua, tuy quá trình xây dựng Đền Thánh chưa thành tựu, nhưng Đại Đạo
vẫn khai mở rộng, mỗi ngày Nhơn sanh nhập môn cầu Đạo càng đông, đến với đức
tin ai cũng bắt tay vào sự nghiệp Ðạo, tạo thành sức mạnh như Thiêng liêng tại
thế, toàn đạo lạc quan công quả, hy vọng sẽ thắng mọi trở ngại khó khăn dù ngày
đêm khắc khoải, ăn uống không đủ chỉ khoai củ là chính, đôi bữa cháo trắng thay
cơm, tương chao thay bằng nước muối pha mặn, áo rách tả tơi khâu vá trăm mảnh,
chân trần đạp đất pha sương giá, đổi thụ hưởng trần đời thay vào ngôi cao đức
tin làm hạnh phúc
[7] -Nguồn tài liệu
Hiệp Thiên Đài, lưu trữ tại Thư viện Cao Đài Paris, Pháp quốc, và Viện bảo tàng
của Nhân Loại France ( musée de l’homme France).
cho kiếp sinh,
lấy Bạch thủy, Rượu, Hoa, Trà, Quả dâng lên Đức Chí Tôn và kinh nhật tụng kinh
tứ thời, biến thành «Tinh, Khí, Thần» thay cho liều thuốc Tiên trị liệu bá
bịnh, từ những tự tin ấy phép lạ ban ra khắp cùng toàn đạo, bởi phù trì tuyệt
đối của Đức Chí Tôn, Phật Mẫu và các Ðấng Thiêng liêng. Nhờ vậy sức mạnh Đức
tin vượt trội của con người không còn trọng lượng nào khác làm đổi thay, chất
Đạo và tình người của mỗi tín đồ có thừa mới gánh vác trách nhiệm với Thiêng
Liêng. Sức mạnh của Nhơn sanh như đôi bàn tay nguồn lực vạn năng, một trữ lượng
toàn khối đồng thuận quy nhứt lý Cao Ðài, và thương yêu từ đây cho đến 700.000
năm sau.
Tòa Thánh Tây Ninh năm 1930 [8]
Tòa Thánh Tây
Ninh năm 1930, 4 năm sau khi khai Đạo Cao Đài. Tòa Thánh đầu tiên của Đạo Cao
Đài ở Tây Ninh vào năm 1947 đã trở thành một trong những công trình tôn giáo đầu tiên tại Việt Nam. [8]
Toàn thể chức
sắc chức việc chụp hình lưu niệm tại nền Đất đang khởi công xây Đền Thánh năm
1930 nhân ngày lễ Kỷ Niệm Hạ nguơn Khai đạo. [9 - 10]
[9] - Nguồn tài
liệu Hiệp Thiên Đài, lưu trữ tại Thư viện Cao Đài Paris, Pháp quốc, và Viện bảo
tàng của Nhân Loại France ( musée de l’homme France).
[10] - Nguồn như
trên.
Thiên Nhãn –
biểu tượng của Đạo Cao Đài được đặt trên Cửu trùng đài ở khuôn viên Tòa Thánh.
[11]
V - Xây dựng lần thứ năm, khởi công vào
ngày 14-2-1936 (1-11 Bính Tý)
Sau khi Đức
Quyền Giáo Tông đăng Tiên, Đức Hộ Pháp được giao hành quyền Hội
Thánh, Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài (Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng
Đài) Đức Ngài dự trù kế hoạch liên tục xây dựng Tòa Thánh cho đến
lúc hoàn thành.
Khởi công
xây dựng Tòa Thánh lần này với vật liệu nặng và kiên cố, có thể duy trì
trong thời gian hữu hạn nào đó, theo lời dạy chi tiết của Đức Chí Tôn và Đức Lý
Giáo Tông vào ngày 17 tháng 2 năm 1927, (Ngày 16 tháng Giêng Đinh Mão). Tuy còn
nhiều khó khăn về tài chánh, và khả năng đức hạnh xây dựng Đền Thánh có
hạn.
[11] - Nguồn: ibid
Ngày
27/01/1936. Ngài Tổng Giám Lê Văn Bàng dâng ý kiến lên Ðức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc:
" - Con nghe Thầy dạy bảo Ðạo mình còn
nghèo, trường thi đua công quả của Nhơn sanh cũng có giới hạn, cho nên toàn Ðạo
phải để ý nhờ vào quý Ðấng chí lành trợ lực và các trí lự nhơn sanh xây chuyển
mới mong tạo tác Ðền Thánh Chí Tôn đến ngày thành quả. Bởi thế con xin dâng lên
Ðức Thầy 9 ý kiến của Ban Kiến Trúc nhằm phân bổ công thợ và công quả cho hợp
lý như sau:
1 - Sở Nung Gạch, cung cấp gạch nhiều loại.
2 - Sở Các, từ sông Tây Ninh cung cấp.
3 - Sở Sạn, khai thác hầm sạn để đổ Bê-tông.
4 - Sở In Gạch Bông.
5 - Sở Ghe, chuyên chở vôi bột từ Hà Tiên về
Tòa Thánh.
6 - Sở Lò Rèn, cung cấp đinh vuông và các
linh kiện thợ hồ.
7 - Sở Củi, cung cấp chất đốt cho lò Gạch,
lò Rèn.
8 - Sở Cây, cung cấp gỗ làm cốp pha
(coffarge), cho phần bê tông cốt tre, cốt sắt, và giàn giáo.
9 - Hội Thánh cung cấp Ciment, Sắt và bổ
sung nhân lực công quả. "
Hội Thánh và
Ðức Hộ Pháp đồng thuận đề nghị phải của Ban Kiến Trúc do Ngài Tổng Giám Lê Văn
Bàng đứng ký tên. Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc cho biết đã huy động trên 500 đạo
hữu tại Phạm Môn làm lực lượng nòng cốt hiến dâng công quả, đang lập
Hồng thệ suốt thời gian xây cất Tòa Thánh không được lập gia đình đặng có đủ
tinh khiết cho đến ngày hoàn thành, và trường chay.
Ðức Hộ Pháp để
tâm chú ý sức khoẻ của toàn đạo, Người phê rằng : " - Không thấy những đề nghị của Nhơn sanh và Ban Kiến trúc, nhằm
chăm sóc sức khỏe như thuốc men để trị liệu khi dầm mưa dãi nắng, và lương thực
để ăn uống trong lúc tạo tác Ðền Thờ Chí Tôn ".
Sau lời phê
của Ðức Hộ Pháp toàn đạo chú ý đến sức khoẻ nhiều hơn, hầu lập công nghiệp Ðạo
bền bỉ cho đến ngày hoàn thành Ðền Thờ Chí Tôn.
Ngày 11/08/1936 (Bính Tý). Vào lúc 09
giờ sáng. Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc tiếp đón Tổng Giám Lê Văn Bàng trong tinh
thần nhà xây dựng, lời khuyến Đạo của Đức Hộ Pháp trải rộng tình cảm và nồng
hậu, khen ngợi ý chí cao quý vì Ðạo của Tổng Giám.
Đức Hộ Pháp
ban ân sủng: " - Từ nay trong mỗi
giấc ngủ của con, tri giác luôn hoạt động với những cảm nhận đồng liên hệ với
hiện hữu do những tín hiệu xúc tác cấu tạo đưa đến đối diện sự thương yêu như
hôm nay và mai sau, bởi bình dị đức hạnh kỳ diệu đó mà Thầy trải lòng ban ân
sủng cho con những ước nguyện sẽ thành hiện thực ".
Ngài Lê Văn
Bàng thưa rằng:
" - Con tự tin mọi sự tạo tác Ðền Thờ
Chí Tôn được hoàn thành, nhưng công nghiệp vì Ðạo của con không được bền lâu để
thấy ngày khánh thành Ðền Thờ, với hoàn cảnh chính thân không được bình an theo
ý, bởi sự đau ốm đã đến lúc mục rã không biết ngày nào xa bỏ Ðời nầy, riêng về
gia cảnh con an tâm sống gởi nơi Ðạo . "
Ðức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc dạy rằng:
" - Những gì hiện diện ở đây là nơi chí
thành vì Ðạo, Thầy thấu hiểu hoàn cảnh và thân con trước khi có thư mời về Tòa
Thánh, bởi Thầy cùng con và nhơn sanh có một liên hệ đồng sinh kiếp nầy, đã một
lần cùng ước hẹn tạo tác Ðền Thờ Chí Tôn, một Bạch Ngọc Kinh tại thế. Những chí
thành vì Ðạo của con nay lớn hơn thân phận hiện hữu ở cõi tạm đó mà, các đấng
Thiêng Liêng sẽ chở che những ai công dày đức hạnh, và nhân đây Thầy ban cho
Bàng ba (3) phép lành để bình an lập nghiệp Ðạo:
1 - Gia tộc từ đây hưởng theo âm đức.
2 - Ðau ốm đổi thành bình phục.
3 - Phế hưởng dương đổi thành hưởng thọ".
Ngài Lê Văn
Bàng nhận từ phép lành của Ðức Hộ Pháp, ngay lúc ấy chuỗi ánh sáng Thiêng liêng
mở rộng toàn diện thay đổi một kiếp sinh, từ ấy gia đạo bình an con cái thành
nhân chi mỹ, không bận tâm vào đời sống riêng tư, cơn thịnh nộ đau ốm nan trị
ấy đã biến mất để nhường chỗ cho công nghiệp Ðạo từ đây cao vòi vọi. Ngài Lê
Văn Bàng thổ lộ riêng trong tâm tư:
" - Lần đầu tiên đàm đạo với Ðức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc, như đang đứng trước Ðấng trí tuệ toàn năng, Người phản ảnh
tâm tình rất bình dị và thiết thực, nhưng đến lúc Người ban cho mình 3 phép lạ,
thì mới nhận ra uy quyền của Người vì Ðạo Ðộ Thế, và ngay thân tôi nhận hoàn
toàn hạnh phúc từ lúc ấy."
Hôm nay tôi tự
hỏi trong thâm tâm không thành lời. Mình đáng trách đứng trước Ðức Hộ Pháp
không biết hiện thân của Người là ai mà có sức Phổ Ðộ huyền diệu đến thế ? và
NGƯỜI thông thả trả lời những điều suy nghĩ trong tôi, như đã nghe và hiểu sự
thầm kín ấy:
"
- Từ đây, Thầy dìu dẫn Ðạo cho con, và con hãy tu học thật tốt qua các
bộ Kinh Thiên và Thế Ðạo, Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Ðạo Luật và Thánh Ngôn
Hiệp Tuyển. Con sẽ thấu hiểu được lời chỉ dạy của Ðức Chí Tôn, rồi con sẽ biết
Thầy là ai, đó mới chỉ là hiện thân cá tính của Thầy trong 12 Tông đồ đầu tiên
do Ðức Chí Tôn chọn lựa để khai Ðạo Cao Ðài ngày nay. Sau nầy ngày Thầy quy
Tiên sẽ có 1/12 Tông đồ của Chí Tôn công bố hiện thân của Thầy, từ ấy Nhơn sanh
biết thương yêu Thầy nhiều hơn, nay Thầy chỉ biết lấy thân dìu dắt Nhơn sanh
đến cùng với Ðức Chí Tôn và Ðức Từ Mẫu mà không công bố hiện thân nhỏ bé nầy.
Riêng ngày nay chỉ còn 1/2 tổng số Tông đồ đầu tiên do Ðức Chí Tôn lựa chọn, đó
là những Chức Sắc Ðại Thiên phong xây nền tảng của Ðạo, và Thầy lấy lòng kính trọng
nhơn sanh thuần khiết vì Ðạo ".
Lúc Tổng Giám
Lê Văn Bàng về Tòa Thánh đúng 34 tuổi, vận số chỉ hưởng Dương được 36 tuổi, Ðức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc hoán đổi vận số cho Tổng Giám Lê Văn Bàng hưởng thọ được
85 tuổi. Việc phế hưởng dương đổi thành hưởng thọ của Tổng Giám, hiện thời vẫn
còn trong ẩn số phải qua 36 tuổi mới hé lộ thiên cơ.
Năm 1936. Khởi công xây dựng Đền Thánh
lần thứ năm (5) bằng vật liệu kiên cố thay cho trước kia Tòa Thánh tạm làm bằng
vách ván, cột gỗ, phên tre, mái tranh. Ngày nay, xây dựng Tòa Thánh với công
trình quy mô, bằng vật liệu nặng. Thế nhưng trong quỹ tài chánh của Đạo, theo
báo cáo chỉ còn 01 đồng 46 xu (01đ46). Lúc này, giá lúa 0đ20 một giạ (40 lít).
Thời điểm này kinh tế Việt Nam bắt đầu suy thoái, và đệ nhị thế chiến (1939-1945)
đã lan rộng đến Việt Nam.
Tòa Thánh được
xây dựng từ đức tin, trái tim và trí óc của tín đồ Cao Đài mà thành. Những tín
đồ công quả chính thức xây dựng Tòa Thánh phải lập thệ, trường trai và thủ
trinh trong thời gian công quả. Từ tinh thần đó tín đồ tấp nập công quả lập
đức, tạo ra vật chất không phải là nan giải.
Những cơ sở
Phước Thiện, và Phạm Môn huy động nhân lực, tổ chức kinh tế làm ruộng, trồng
trĩa sản xuất lương thực, và những sản phẩm khác. Ngoài ra còn có tín đồ làm
đồn điền cao su độ nhật, cũng tranh thủ kiếm mớ rau rừng đem về dâng hiến công
quả cho Đạo. Sau những buổi cơm chiều Hội Thánh kêu gọi làm công quả 02 giờ
(120 phút) hay 03 giờ (180 phút) được ghi một ngày công quả.
Từ khi phát
khởi xây dựng Tòa Thánh lần thứ năm (5) có những phép lạ cho thấy tri thức đức
tin Cao Đài mạnh mẽ vô biên. Chính nhân bản của Đại Đạo qua tinh thần bài thơ
«Đức tin một khối tạo nên hình» miêu tả cảnh xây dựng Đền Thánh. Đức tin nằm ở
một bình diện khác hẳn so với khoa học. Đức tin không dựa trên cơ sở xác minh
của thí nghiệm trong phòng xúc tác hóa học, không phát nguyên từ những tự biện
lý tính, và cũng không phải là một chuỗi luận đề giản lược theo kinh thi. Trước
tiên đức tin là thái độ gắn bó đối với Đấng Tối Cao, là tâm tình phó thác với chức
sắc đại thiên phong, là cuộc dấn thân của chính cá nhân dâng hiến lên Đức Chí
Tôn.
Tối thượng của
đức tin chính là Đức Chí Tôn, Đấng đã mặc khải sinh vạn loại. Cho nên mỗi tín
đồ Cao Đài đồng mở rộng lòng tin, thì sẽ đón nhận được sứ điệp của Đấng ấy, với
niềm hy vọng trong sứ điệp ấy nhất định mọi người sẽ tìm gặp được ý nghĩa cho
đời của mình và Đại Đạo. Nếu biết dấn bước vào con đường mà Đấng ấy đã vạch
cho, cùng sống kinh nghiệm trong đức tin, người có lòng tin sẽ xác tín cảm
nghiệm được là mình đang sống trong chân lý của Cao Đài.
Từ đâu mà có
được niềm xác tín thâm sâu ấy ? Từ uy tín của Đấng mặc khải. Chính Đức Chí Tôn
đã nói với con người những gì con người tin được như Pháp Chánh Truyền, Tân
Luật đã minh định. Đó chính là một thể dạng của xác thực tín ngưỡng khác với
xác thực tính khoa học.
Bởi lẽ đối
tượng của đức tin là chính Đấng Toàn Năng, là chúa tể của muôn loài, và vô biên
vô tận không sao trí tuệ con người hiểu cho đầy đủ được, thế nên, người tin cần
am tường và biết chấp nhận đặt trọn niềm tín ký thác vào trong tay của Đấng
Toàn Năng, tuy Đấng Tối Thượng vô hình, bất lộ hay hiển hiện bên ngoài theo
cách thức của thực tại hữu hình, nhìn thấy được, sờ mó được, nắm lấy được. Tuy
nhiên, nếu con người đón nhận và sống thật, thì đức tin đáp lại và soi sáng trí
tuệ, điều đó tất yếu phải có trải nghiệm đời sống Cao Đài đích thực. Cho nên
toàn thể tín đồ Cao Đài cộng lực tài năng, trí tuệ thực hiện một Đền Thờ Đức
Chí Tôn tại thế để chứng minh sức mạnh nguyên khối tín đồ Cao Đài như thể toàn năng,
nhất định hoàn thành công trình kiến thiết Đền Thánh.
Ngày
10/10/1936. Tiếp theo lần trước, Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, mời toàn đạo đại
hội nhơn sanh, tham khảo chi tiết đề án xây dựng Tòa Thánh. Toàn Đạo đồng ý,
lấy quyết định trước khi tạo tác Ðền Thờ Chí Tôn, nhân dịp trong buổi hội Tổng
Giám Lê Văn Bàng phát tâm công nghiệp Ðạo. Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và toàn
đạo ủy nhiệm cho Ngài Lê Văn Bàng cùng với Tá lý nam nữ thực hiện Thánh thể Chí
Tôn tại thế, như qua văn kiện công quả đã được đúc kết trong Đại Hội Nhơn Sanh
lần trước.
Trong Đại Hội
Nhơn Sanh mỗi tín hữu Cao Đài thể hiện tinh thần nhân văn cứu độ lần thứ ba của
Thượng Đế vĩ đại tột cùng. Tinh thần Đại Hội Nhơn Sanh đồng khát vọng Tòa Thánh
hoàn thành, dâng hiến lên Đức Chí Tôn, những đại công bồi đức vào lúc cơ đạo
đang nguyên sơ cần mở rộng kiến thiết trên kế hoạch truyền giáo theo mục đích
Đại Đồng, hình thành một chỉnh thể Cao Đài tại thế, phục vụ nhân sinh, xã hội,
phát huy văn hoá Cao Đài theo phương hướng công trình kiến trúc nội dung Đền
Thánh.
Đức Hộ Pháp
cho biết: " - Kiến trúc và xây dựng
Đền Thánh lần này thực hiện theo hướng dẫn cơ bút của Ðức Chí Tôn và Ðức Lý
Thái Bạch. Bần Đạo tiếp bút nhiều bản vẽ như thiết kế đồ họa v.v...chủ tâm về
mỹ thuật phải được hiển thị trên một mặt phẳng đa chất liệu, mỗi chi tiết bao
hàm ý nghĩa phù hợp với triết lý Đại Đạo. Trong tương lai nhân loại có thể hiểu
mô hình Đền Thánh của Đấng Chí Tôn."
Sau khi Đức Hộ
Pháp cho biếtsự huyền diệu của Đền Thánh, mới hiểu biết mỗi nét chấm phá đều có
sáng tạo theo đức tin, chi tiết của thiết kế đồ họa sẽ toát ra từ triết lý mạnh
mẽ Đại Đạo. Lần này kiến tạo Đền Thánh như một mô hình Cửu Trùng tại thế. Tất
nhiên bề mặt Đền Thánh cần nhiều chất liệu tạo ra cảm hứng cho lòng người bằng
hình ảnh trang trí mỹ thuật, mục đích chuyên chở triết lý Đại Đạo phục vụ tâm
linh của con người.
Cho nên mới có
sự " Thiên khiển Nhơn tạo "
vào thời điểm ấy rất chu toàn, Đại Đạo đã thể hiện những bí ẩn kỳ diệu khấp
khởi tâm hồn tín đồ theo dấu bản vẽ kiến trúc hình thể hiện thực của Đại Đạo,
một biểu tượng đức tin Đại Đồng, thắp sáng triết lý Cao Đài, mở rộng không gian
chói lọi Phổ Độ đến mọi đường, cũng như chuyển mối "Đạo bao dung vào Đời."
Trong khi kiến
tạo Tòa Thánh, qua bản vẽ kiến trúc vô hình, thực hiện từng ngày theo bản vẽ
kiến trúc trên cát để cho Tổng Giám, Tá Lý theo mà thực hiện, cứ thế cho đến
hoàn thành Đền Thánh. Đức Hộ Pháp còn phát họa mỹ thuật đắp phù điêu. Phần Tổng
Giám Lê Văn Bàng chyên lo về kỹ thuật xây dựng và điều phối Tá lý, công thợ chu
toàn công quả.
Ngày mở đất
xây dựng đầu tiên, nói lên văn kiện lịch sử công nghiệp toàn Ðạo được ký lời
cam kết trước Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Hội Thánh. Ngài Tổng Giám Lê Văn
Bàng chính thức điều động xây dựng Tòa Thánh cùng với 28 Tá lý, 500 thợ hồ, và hơn
1.200.000 tín đồ công quả. Cuộc phát tâm công nghiệp Ðạo thành hình, thể hiện
khối đức tin của nhơn sanh mãnh liệt, nhận lãnh những khởi đầu tạo tác Ðền thờ
mà bốn lần trước để lại còn dở dang.
Lòng nhiệt thành hùng tráng mạnh mẽ của từng
tín đồ trổi dậy, mỗi người mỗi việc dầm sương, giải nắng;
ăn cháo rau qua bữa, ngày tháng, nơi chốn rừng hoang vắng,
bên những cội cây già, hoặc
trong cánh rừng tịch mịch âm u. Hằng ngày tiếng cưa cây, đẽo cột, đào đất, đắp
nền, lửa bập bùng trong lò gạch, những xe cút kít một bánh gỗ chuyên chở vật liệu
nặng, tiếng búa đập của lò rèn, những âm thanh liên tiếp thôi thúc dồn dập
trong ngày qua đêm, theo dòng người hối hả nhưng âm thầm thời gian trôi qua,
mọi hoạt động cứ thế diễn biến triền miên theo thời gian chuyển dịch. Tất cả
đồng hòa vào công quả, đôi khi từ xa có giọng thơ ngâm của tín đồ vọng lại :
" Dù vất vả, hy sinh vì Đại Đạo!
Sớm cháo, rau, chiều dưa muối qua ngày.
Mặc thế nhân còn rộn rực chốn trần ai
Bao lạc thú, chừ đây vui cửa Ðạo!
Thế cuộc đã chuyển vần xoay máy Tạo
Bến trầm luân điên đảo chốn phồn hoa
Kiếp trần gian sanh, sống, bịnh rồi già!
Ai ôi! thấu đời ta đâu mấy chốc!
Thân tôi mọi cho sinh tồn vật chất
Sống thì buồn đau, thác lại gì đâu!
Ðời triền miên trong những nỗi ưu sầu!
Thôi gắng bước, đường tu toan lập đức
Khai Ðại Ðạo, mê trần nay tỉnh giấc
Trở về đây kinh kệ sớm, chiều vui
Ôi! Thế nhân còn lắm cảnh ngậm ngùi!
Ðời bao nã! Chừ đây ôi bao nã! ".
Tổng Giám còn cho biết
thiếu sắt thì lấy tre thật già hay tầm vông thật già chen vào
cốt sắt. Xi măng rất ít nên lấy vỏ cây ô dước đập mềm, xay nhuyễn, mật rĩ,
vôi... trộn vào... xây cả tuần hay mười ngày sau mới cứng. Đặc biệt cây ô dước
có nhiều tên gọi khác nhau theo từng vùng như (Thiên thai ô dược, Bàng tỵ,
Bàng kỳ, Nuy chướng, Nuy cước chướng, Đài ma, Phòng hoa, Thai ô dược, Thổ mộc
hương, Tức ngư khương, Kê cốt hương, Bạch diệp sài, cây dầu đắng, ô dược nam).
Trí óc, bàn tay tín đồ tạo nên từng viên gạch, góp
nhóp từng hòn đá... những nhà buôn cũng sẵn lòng công quả. Tài chánh trở nên
phần thứ yếu, đại công quả của toàn đạo mới là hình thành Đền Thánh.
Cho nên người đời nói không sai "Thiên khiển Nhơn tạo" một sự mới mẻ của thế gian mà Đạo Cao Đài
đang thực hiện, như bản vẽ kiến trúc Đền Thánh trên cát không có bản thảo, cứ
thế mỗi ngày tiến hành xây lên, người trong đại cuộc công quả Đền Thánh mới cảm
nhận được hết sự tuyệt xảo kiến trúc, có cả bao hàm những bí ẩn vô vi. Ngoài ra
sự tạo tác thì công quả của mỗi tín đồ chung họp sức mạnh cùng nhau lo xây dựng
công trình vĩ đại, xây dựng Ðền Thánh do sức mạnh đồng Đạo mà thành tựu.
Ngày 29/10/1936. Tổng
Giám Lê Văn Bàng tổng kết công nghiệp của toàn đạo xây dựng Đền Thánh lần thứ
nhứt, Tổng Giám mời Ðức Hộ Pháp Phạm ký tên làm Tá lý thợ hồ danh dự, Ngài đồng
ý để khởi động mạnh mẽ tạo tác Ðền thờ Chí Tôn.
Tổng Giám cho biết:
"
- Tuy sức mạnh Ðạo có thừa nhưng vẫn đứng trước tình thế vô sản không kho đụn
dự trữ vật liệu xây
cất thì rút đâu ra phương án để thực hiện Ðền thờ Chí Tôn, được xem như Hội
Thánh không có những điều kiện tối thiểu và cần thiết đặt nền tảng hoàn thành,
Nhơn sanh thấu hiểu cảnh chạy cơm cháo từng ngày của Trai Ðường. Nhưng Thiên Cơ
đã định, thử thách lòng trung hiếu con cái của Người, Ðức Chí Tôn đã ban phép
lành hồng ân chan rưới nhơn sanh đồng quyền đối phẩm Thiêng liêng. Tôi hy vọng
phép lạ Ðấng Tối Cao vận dụng chuyển thế thành ý của nhơn sanh để đạt mọi thành
tựu trên tay và tận lòng vươn tới thành công."
Ngày 01/11/1936. Bất ngờ không hẹn mà trào dâng,
vào buổi sáng tinh sương trăng còn soi những hạt sương ngái ngủ, chưa chịu
nhường khoảng không cho tia nắng sưởi ấm một ngày rực rỡ, đặc biệt hôm nay
Trăng dự phần mừng vui với mặt Trời, phá lệ Thiên nhiên từng giao ước, để đón
nhận một ngày báo hiệu thành hình tại thế một Thánh Thể Chí Tôn vinh diệu. Mặt
Trời hiện dần lên cao, ánh sáng rực rỡ khắp nẻo chan vào trái đất, Nhân loại
trở lại sinh hoạt một ngày mới. Riêng trên miền Thánh Ðịa là một ngày hoàn bị
của Thiên nhơn ký Hòa ước, có những con thuyền đang thả neo ở Bến kéo, Cẩm
Giang và Giang Tân, cùng những xe đủ loại từ Sài Gòn, miền Ðông, miền Tây và cả
miền Trung dự phần công nghiệp Ðạo, nào chở sắt thép, ciment, lúa gạo, ngô,
khoai, bắp, rau cải, đang nằm trên các con lộ hướng về Tòa Thánh Tây Ninh, và 8
sở cung cấp vật liệu đồng nhịp tim thi nhau thành một bộ máy tạo tác Ðền thờ
Chí Tôn đánh dấu sự nghiệp Ðạo của Tín đồ bằng những tấm lòng trùng điệp nối
tiếp nhau trên dòng chảy vào ca khúc vinh danh Ðức Chí Tôn. Khối Ðức tin Ðại
Ðạo là hiện thân từ thông điệp của Ðức Cao Ðài, Người truyền loan cùng đến ngự
trị ở với nhơn sanh, sự hiện hữu của Ðức Cao Ðài là mối cộng sinh cứu rỗi lần
thứ ba được trải rộng đến khắp cùng. Nhờ Đức Hộ Pháp vận dụng hành quyền
Đạo lịnh gửi đến Hành Chánh Lưỡng Đài Nam-Nữ, Phước Thiện, Phạm Môn, Miền đạo,
Châu đạo và Tộc đạo, kêu gọi toàn đạo nỗ lực công quả hiện kim, hiện vật, lương
thực, liên tục gởi về Tòa Thánh làm phương tiện xây dựng Tòa Thánh không bị
gián đoạn.
Ngày
15/01/1938. Tổng Giám Lê Văn Bàng báo trình công quả lần thứ hai trước Hội
Thánh, Đại Hội Nhơn Sanh, về tạo tác Ðền thờ Chí Tôn, về công trình, kỹ thuật
xây dựng, mỹ thuật Nội và Ngoại tâm cùng những công quả của toàn đạo trong hai
năm qua. Tổng giám Lê Văn Bàng và Tá lý, tạo tác Ðền thờ Chí Tôn theo sơ đồ
kiến trúc của Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, bởi sự thị hiện của Thiêng Liêng chỉ
dẫn từng phần. Các Ðấng Thiêng Liêng ủy nhiệm cho Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc,
thay quyền Thiêng Liêng kiến trúc Ðền thờ Chí Tôn tại Thế, làm cố vấn mỹ thuật
và đích thân làm một tá lý thợ hồ danh dự, công cuộc tạo tác Ðền thờ Chí Tôn
theo sơ đồ Bạch Ngọc Kinh thu nhỏ đúng với Chân truyền bí pháp của Ðức Chí Tôn
đã truyền .
Ðức Hộ Pháp
tham vấn kiến trúc, Tổng giám Lê Văn Bàng phần việc kỹ thuật xây dựng, Ðức Hộ
Pháp giao phần việc thực hiện mỹ thuật đắp phù điêu, họa phẩm do Phối thánh
Phạm Văn Màng và Bùi Ái Thoại. Tất cả công cuộc tạo tác căn bản đặc thù tinh
hoa nền Đại Ðạo thể hiện chân lý Cao Ðài, Quy Nguyên Tam Giáo, Ngũ Chi Hiệp
Nhứt. Kiến trúc và mỹ thuật Ðền thờ trên Ngôi hữu hình của Ðức Chí Tôn tại Thế,
bởi Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ truyền giáo thông qua hình thể ba Ngôi: Bát Quái Ðài,
Cửu Trùng Ðài và Hiệp Thiên Ðài, là một cơ chế đồng nhứt thể. Ý chí của Nhơn
sanh đồng nhứt mở ra trang sử Nhứt Giáo và lập đại công nghiệp hướng về Ðấng
tối lành, sự phát nguyện nầy đã đánh tản đi những ngại ngùng và được chứng minh
qua trường thi Ðạo đức, để thắng mọi nhọc nhằn, từ thiếu ăn, thiếu mặc, thuốc
men, màn trời chiếu đất nắng mưa không thể làm sờn lòng tín đồ Cao Ðài, lịch sử
Ðạo hẳn nhiên mang dấu ấn truyền lưu công nghiệp Ðạo của Tín đồ Tần Nhơn, Ðường
Nhơn... 28 Tá lý, 500 công thợ và Toàn Ðạo ở thời điểm tạo tác Ðền thờ Chí Tôn
.
Xuyên qua
thời cuộc khảo đảo.
Ngày 28
tháng 6 năm 1941 (4-6- Tân Tỵ).
Đức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc [11]
Xây dựng Đền
Thánh được phần thô. Xuyên qua thời cuộc, Đạo Cao Đài bị khảo đảo, chính quyền
thực dân Pháp lo ngại trước các hoạt động của đạo Cao Đài, nên đã cho bắt Đức
Hộ pháp Phạm Công Tắc, cùng Đức ngài Khai pháp Trần Duy Nghĩa, và một số chức
sắc cao cấp khác giam vào khám lớn Sài Gòn, không bao lâu đày ra miền Tây Bắc
nhà tù Sơn La, nơi rừng thiêng nước độc, vài tháng sau đưa đến nhà tù Nosilava
thuộc đảo Madagascar ở Phi Châu.
[11] - Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc. Nguồn tài liệu Hiệp Thiên
Đài, lưu trữ tại Thư viện Cao Đài Paris, Pháp quốc, và Viện bảo tàng của Nhân
Loại France ( musée de l’homme France).
Đức Hộ Pháp
khéo léo tổ chức, và vận động tinh thần tín đồ công quả, cho nên công việc tạo
tác xây dựng Tòa Thánh tiến hành liên tục 4 năm. Đến nay, xây dựng hoàn thành
phần thô, được xem căn bản nhất của kiến trúc, chỉ còn phần hoàn thiện Tòa
Thánh như đắp phù điêu, vẽ, sơn và trang trí. Không may chánh quyền Pháp đã bắt
Đức Phạm Hộ Pháp, cho nên tất cả đều phải ngưng lại. Mặt khác Pháp khủng bố
toàn Đạo, quân đội Pháp chiếm đóng Tòa Thánh làm trại lính, nhà xe, đuổi tất cả
Chức sắc, Chức việc, tín đồ, và công thợ ra khỏi Thánh địa. Quân đội Pháp còn
âm mưu chôn dưới nền Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh một trái mìn 1000 kg chất nổ, ý đồ cho nổ giựt sập
Tòa Thánh trước khi chúng rút đi vì đầu hàng quân đội Nhựt. Nhưng ý đồ phá Đền
Thánh không thành. Pháp còn thâm hiểm hơn cấm Đạo, hầu hết Thánh thất Cao Đài
đều buộc phải đóng cửa.
Ngày 30-8-1946 (4-8-Bính Tuất). Tình
thế thay đổi, Đức Phạm Hộ Pháp được chánh quyền Pháp đưa trở về Tòa Thánh, sau
sáu năm (6) lưu đày nơi hải ngoại. Đức Hộ Pháp hồi loan chưa đầy một (1) tháng,
huy động Phạm Môn, và những công thợ tiếp tục công quả sửa chữa những chỗ hư
hỏng trong Tòa Thánh do lính Pháp gây ra, tập trung nhân lực trong năm Bính
Tuất thực hiện đắp vẽ, sơn phết, trang trí, công việc nào cũng gấp rút vì không
thể để lâu toàn đạo lấy quyết định hoàn thành vào dịp trước Tết Đinh Hợi.
Ngày 01/10/1946. Ðức Hộ Pháp được Chính
phủ Pháp thuộc trả tự do, toàn đạo vui mừng đón rước Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
sau 6 năm lưu đày nơi hải ngoại, nay qui hồi cố quốc. Về đến Tòa Thánh Ðức Hộ
Pháp không an dưỡng, lập tức triệu tập toàn đạo và mời Tổng Giám Lê Văn Bàng
cùng tất cả Tá lý tạo tác Ðền thờ lấy quyết định ngày khởi sắc mới cho công
nghiệp Ðạo.
Ðức Hộ Pháp
tiếp nhận những báo trình của toàn đạo trải qua 5 năm Ðạo Ðời thăng trầm và
Người dạy rằng: " - Thuyền Ðạo nay
tạm ổn chinh nghiêng, Thầy và mấy Em cùng lái cùng chèo để nhanh đến bến
". Tổng kết công nghiệp của toàn Ðạo chỉ còn 50 %, bởi hoàn cảnh Ðạo
trải qua một khúc quanh thử thách. Cơn khảo Ðảo nay chấm dứt nhường chỗ cho
thời kỳ tăng tiến thuận lòng người. Ðức Hộ Pháp một lần nữa vận dụng phép lành,
cộng khổ, kiên nhẫn, tự tin vào ý chí của Chức sắc, Chức việc và Nhơn sanh
lưỡng phái, khởi động tái tạo tác Ðền thờ Chí Tôn để vượt qua thời cuộc chuyển
biến chắt lọc vô lường.
Ngày 30/12/1946. Tổng giám Lê Văn Bàng
cùng 600 Tín đồ ra sức chắt bóp công quả tái tạo tác Ðền thờ Chí Tôn, để đánh
dấu sự thăng trầm của Ðạo và kỷ niệm ngày Ðức Hộ Pháp hồi loan, ý chí toàn đạo
dâng cao quyết định vì sự nghiệp Ðạo cuối cùng, chỉ ngoài 4 tháng sau viên mãn
tạo tác hoàn thành Ðền thờ Chí Tôn. Tổng giám Lê Văn Bàng xin đệ trình lên Ðức
Hộ Pháp Phạm Công Tắc, và Hội Thánh chuẩn nhận thủ tục bàn giao Ðền thờ Chí Tôn
cho Hội Thánh. Lễ Bàn giao Tòa Thánh cho Hội Thánh.
Ngày 24-1-1947. (mùng 3 tháng Giêng năm
Đinh Hợi).
Trong buổi Lễ
Bàn giao Tòa Thánh cho Hội Thánh. Tổng Giám Lê văn Bàng có viết một bài diễn
văn trình bày các giai đoạn tạo tác Tòa Thánh, văn từ ngôn ngữ súc tích và khá
chi tiết.
Chúng tôi xin
chép lại toàn bộ nguyên văn của bản gốc "Lễ Bàn Giao Đền Thánh cho Hội
Thánh, do Ban Kiến Trúc Tòa Thánh Tây Ninh ấn hành, vào năm Tân Hợi 1971".
Và nguồn tài liệu này của gia tộc Tổng Giám Lê Văn Bàng lưu trữ và Hiền Tài Lê
Huệ Hường kính tặng Ban Thế Đạo Hải Ngoại ngày mùng 5 tháng giêng Giáp Ngọ.
Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
Tòa
Thánh Tây Ninh
Lễ
Giao Lãnh Đền Thờ Đức Chí Tôn Giữa nhân công tạo tác và Hội Thánh Cao Đài
Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(
Nhị thập nhị niên )
Tòa
Thánh Tây Ninh
Hình
bìa quyển: "Lễ Giao Lãnh Đền Thờ Đức
Chí Tôn"
Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
(
Nhị thập nhị niên )
Tòa
Thánh Tây Ninh
Tờ Bàn Giao
Đền Thờ Đức Chí Tôn Cho Hội Thánh
Chúng tôi đồng
đứng tên dưới đây là: Tổng Giám, Tá lý và nam nữ nhân công xin dâng ba bổn này
lên Hội Thánh.
Nguyên năm
Bính Tý là năm 1936, các con có làm tờ tình nguyện làm Đền thờ Đức Chí Tôn, nay
các con đã làm hoàn thành nên xin giao lại cho Hội Thánh, xin chư Thiên phong
nhớ đến công trình khổ nhọc của các con tạo cho nên nguy nga, đẹp đẽ, các con
xin yêu cầu Hội Thánh giữ gìn Đền thờ cho sạch sẽ y nguyên như ngày các con
giao lại. Xin Hội Thánh nhận lãnh.
Nay
tờ Lập tại Tòa Thánh
ngày
3 tháng giêng Đinh Hợi (dl 24-1-1948)
"Đức
Hộ Pháp chung đứng ký tên"
Hộ
Pháp
Ký
tên
Tá Lý Nam Phái:
Tổng Giám Lê
Văn Bàng
Phụ quyền Tổng
Giám Lễ Sanh Thái Đối Thanh, Thừa quyền Phụ Thống Công Viện Huỳnh Văn Liên,
Huỳnh Văn Quận, Nguyễn Văn Yến .
Tá Lý:
Tá lý Võ Văn Khuê, Tá lý Lê ngọc Lời, Nguyễn Văn
Sỏi, Võ Văn Thành, Nguyễn Văn Út, Võ Văn Hỏi, Ðoàn Văn Biểu, Ðặng Văn Lang tự
Ron, Hà Văn Thơm, Nguyễn Văn Mừng, Nguyễn Thành Xuân, Lâm Thành Kía, Phan Công
Thì, Nguyễn Văn Quyện, Ðoàn Hạnh Thông, Trà Văn Phiên, Trần Văn Lành, Nguyễn
Văn Huê, Trần Trung Thị, Nguyễn Văn Tịch, Trần Phú Qúi, Trần Văn Biện.
Tá lý nữ phái:
Nguyễn Thị Sen, Nguyễn Thị Chữ, Ðặng Thị Trọng,
Phan Thị Mây, Nguyễn Thị Mười, Tạ Thị Thế, Nguyễn Thị Bia.
Chức sắc ký tên nhận lãnh:
Hiệp Thiên Đài.
Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
Cửu Trùng Đài:
Ngọc Chánh Phối Sư Phạm Tấn Đãi, Thái Chánh Phối
Sư Thái Tu Thanh, Thượng Chánh Phối Sư Giáo Sư Thượng Vinh Thanh,
Thượng Thống Lại Viện Giáo Sư Thượng Tước Thanh,
Thượng Thống Lễ Viện Giáo Sư Ngọc Ninh Thanh, Thượng Thống Hòa Viện Giáo Sư
Thượng Trí Thanh, Thượng Thống Công Viện Giáo Sư Thái Khí Thanh, Thượng Thống
Nông Viện Giáo Sư Ngọc Non Thanh, Thượng Thống Y Viện Giáo Sư Thượng Nứa Thanh,
Thượng Thống Học Viện Giáo Hữu Thái Đến Thanh, Thượng Thống Hộ Viện Giáo Hữu
Thái Bộ Thanh, Thượng Thống Lương Viện Giáo Hữu Thái Hào Thanh.
Chức Sắc Nữ Phái:
Phối Sư Hương
Lự, Phối Sư Hương Hiếu, Giáo Sư Hương Nhiều, Giáo Hữu Hương Tán, Lễ Sanh Hương
Nhâm, Lễ Sanh Hương Phùng Ngọc, Lễ Sanh Hương Tranh, Lễ Sanh Hương Cúc.
Vi chứng Hiệp Thiên Đài: Thừa Sử Huỳnh
Hữu Lợi, Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn, Truyền Trạng Võ Thành Quốc, Truyền Trạng
Phạm Hữu Phước, Truyền Trạng Võ Văn Nhơn, Truyền Trạng Phạm Văn Ngọ, Luật Sự
Nguyễn Văn Hoa.
Chứng kiến
Giáo
Sư Đại Biểu Tổng Tư Lịnh
Quân
Đội Cao Đài
Trần
Quang Vinh
Tòa
Thánh Tây Ninh Ngày
mùng
3 tháng giêng Đinh Hợi ( dl 24 - 1- 0947 )
Vi Bằng giao lãnh Tòa Thánh.
Nhơn công thợ
hồ, thợ đúc, thợ mộc, thợ sơn, có thết một bữa tiệc tại Tòa Thánh (Bửu Điện Cửu
Trùng Đài) mừng ngày thành công trong sự tạo tác Tòa Thánh.
Có mặt Chức Sắc Hiệp Thiện Đài:
Đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc, Thừa Sử Huỳnh Hữu Lợi, Truyền Trạng Phạm Văn Ngọ, Truyền Trạng
Võ Thành Quốc, Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn, Truyền Trạng Phạm Hữu Phước, Truyền
Trạng Võ Văn Nhơn, Luật Sự Nguyễn Văn Hoa.
Chức Sắc Cửu Trùng Đài Nam phái:
Ngọc Chánh
Phối Sư Phạm Tấn Đãi (K.Đ), Thái Chánh Phối Sư Thái Tu Thanh, Thượng Chánh Phối
Sư Giáo Sư Thượng Vinh Thanh, Thượng Thống Lại Viện Giáo Sư Thượng Tước Thanh,
Thượng Thống Lễ Viện Giáo Sư Ngọc Ninh Thanh, Hòa Viện Giáo Sư Thượng Trí
Thanh, Công Viện Giáo Sư Thái Khí Thanh, Nông Viện Giáo Sư Ngọc Non Thanh, Y
Viện Giáo Sư Thượng Nứa Thanh, Học Viện Giáo Hữu Thái Đến Thanh, Hộ Viện Giáo
Hữu Thái Bộ Thanh, Thượng Viện Giáo Hữu Thái Hào Thanh.
Nữ Phái: Phối Sư Hương Lự, Phối Sư
Hương Hiếu, Giáo Sư Hương Nhiều, Giáo Hữu Hương Tán, Lễ Sanh Hương Nhâm, Lễ
Sanh Hương Cúc, Lễ Sanh Hương Tranh, Lễ Sanh Hương Phùng Ngọc. Lễ Sanh Hương
Quyên.
Cơ Quan Quân Đội Cao Đài Tự Vệ:
Tổng Tư Lịnh
Trần Quang Vinh, Thiếu Tướng Nguyễn Văn Thành, Cố Vấn Lễ Sanh Thượng Tý Thanh.
Đúng 8 giờ ban
mai, Đức Hộ Pháp đến Bửu điện. Chức sắc Thiên phong Nam Nữ, và một số Chức
việc, Đạo hữu, đã tề tựu trên 300 vị đủ mặt.
Vị Tổng Giám
Lê Văn Bàng xin phép Đức Hộ Pháp cho toàn thể nhơn công Nam Nữ làm lễ ra mắt
những vị tiền vãng. Đoạn Đức Hộ Pháp mời cả Chức sắc Nam Nữ vào lạy Chí Tôn xin
ban ơn huệ cho cả gia quyến các công thợ và những thiện tâm công quả tạo tác
Tòa Thánh.
Khi hành lễ
xong, Đức Hộ Pháp nhơn danh Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài, để lời
cảm tạ tấm lòng thiết thạch của những môn đệ chí hiếu và tận trung, kẻ công
người của, mà đã trải qua biết bao thời gian nguy biến, và gian lao gìn giữ đức
tin, mới lần hồi kiến tạo nên một Đền Thờ vĩ đại oai nghiêm, tráng lệ dường
này.
Vị Tá Lý Lê
Ngọc Lời, thay mặt Tổng Giám Lê Văn Bàng, đọc lời chúc mừng Đức Hộ Pháp:
" - Tòa Thánh là cái hồn của Đạo hoặc
là khối đức tin lớn, xuất hiện tại vùng Á Đông, cuối thời kỳ Hạ nguơn hầu mãn,
nhờ nơi huyền diệu thiêng liêng mà Đạo đặng phổ thông mau chóng, biết bao nhiêu
tín đồ đã tùng giáo. Đạo phải có một Thánh thể của Chí Tôn thiệt hiện tại thế,
là khối đức tin của toàn nhơn loại, để chú trọng và tín ngưỡng. Bởi lẽ ấy mà
nguyện vọng thiết tha của bao nhiêu tín đồ đòi hỏi ở chỗ phải cất Tòa Thánh, và
biết bao người Đạo ở các nơi cứ trông ngóng hỏi Tòa Thánh cất rồi chưa ?
- Vì lẽ đó mà Đức Quyền Giáo Tông, ba vị
Chánh Phối Sư, thi hành theo tiếng gọi của chúng sanh để làm Tòa Thánh, thì
biết bao nhiêu hăng hái vui mừng của người Đạo chung hợp cùng nhau để làm Tòa
Thánh cho mau đến ngày kết quả.
Tháng 10 năm Tân Mùi (1931) thì khởi công
tạo tác, nào đào hầm Bát Quái đổ bê-tông, rồi không hiểu tại sao phải ngưng
làm, thì cái hầm ấy cũng là một di tích, hay là một cái mầm móng của bước đầu
tiên đã sáng tạo nên, đành chấm một dấu hỏi để sau nầy ? Từ ấy, Đức Quyền Giáo
Tông cứ ung dung lo phổ thông nền Chơn giáo.
- Qua kỳ thứ hai thì lo tiếp tục lại để làm
Tòa Thánh nữa. Hội đồng cả Chức sắc HTĐ và CTĐ lại để chung trí đặng tạo thành.
Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh chấp chưởng vận
động, mướn Bác vật Phan Hiếu Kinh, người lãnh la-tách, khởi làm lầu HTĐ, đúc
cột và đổ la-phong đặng chút ít, lại cũng ngưng công việc, đành chịu một chấm
hỏi thứ hai nữa ? Lúc ấy nhằm lúc khó khăn, cơ đời biến đổi, làm cho thuyền Đạo
lắm lúc ngửa nghiêng, cũng bởi nhân tình thế thái kích bác chê bai, vu cáo Đức
Quyền Giáo Tông đủ lẽ, nhân nơi lẽ ấy mà Ngài chán nãn cõi đời vô vị, chỉ đem
lại cho Ngài những mỉa mai của miệng thế, vì lẽ ấy mà Ngài sớm lìa cõi trần,
hồi về cựu vị.
Ôi thôi ! Cũng do nơi cái Tâm của nhơn loại
đãi Ngài, từ đó mất hết một tay rường cột của nền Đại Đạo. Khi ấy, Sư phụ ( Đức
Phạm Hộ Pháp) phải thay thế gánh vác cả nhiệm vụ mà chính Chí Tôn phú thác,
thống nhứt Nhị Hữu hình Đài, thực hiện mối Đạo nhơn nghĩa, mới trúng theo Thiên
ý mà Đức Chí Tôn gọi là Phổ độ chúng sanh. Sư phụ thi hành triệt để theo ý của
Đại Từ Phụ, phổ thông Chơn giáo cho cả Chức sắc Nam Nữ CTĐ đi hành đạo các
tỉnh.
Đạo phổ thông mau chóng, hàng triệu tín đồ
tùng giáo. Sư phụ đinh ninh rằng: Công cuộc tạo tác Tòa Thánh chắc chắn sẽ tiếp
tục làm lại ở sau nầy. Còn một mặt, Sư phụ sắp đặt cho những người ở bên Phạm
Môn, chính hai chữ Phạm Môn ở trong phạm vi eo hẹp về kinh tế, làm cho lắm
người ngờ vực mà các con không thể nói đặng.
Hại thay ! Chánh trị bên ngoài lại còn nghi
kỵ hơn nữa, bắt buộc phải giải tán hai chữ Phạm Môn, treo bảng cấm nhặt các cơ
sở Phạm Môn.
Do nơi ấy mà Sư phụ mới day trở, cái cớ để
lập ra Cơ Quan Phước Thiện, dạy những người Phạm Môn cứ đi các tỉnh Nam Kỳ để
khai mở Cơ Quan Phước Thiện và Lương Điền Công Nghệ, v.v…
Những người lãnh cả sứ mạng ấy thật là dốt
nát, chơn chất thật thà, có người không biết chữ quốc âm nữa là khác, nhưng
cũng nhờ tánh chất ấy mà Cơ Quan Phước Thiện mở mang một cách mau chóng, biết
bao người mang cả sự nghiệp, đồn điền để hiến làm một cái nhà chung, trong khi
ấy, Đạo có đến 3 triệu người tùng giáo. Sư phụ nhận thấy chắc chắn làm Tòa Thánh
đặng, không thất bại nữa. Trong Ba (3) triệu người, mỗi người chung hiệp 1 đồng
bạc cũng làm được, nên Sư phụ không ngần ngại gì cả mà không tạo tác Tòa Thánh,
để đáp lại cái nguyện vọng của chúng sanh mong đợi.
1 -
Giai đoạn thứ nhứt:
Đến ngày mùng 1 tháng 11 năm Bính Tý (dl
14-12-1936), Sư phụ khởi công làm Tòa Thánh.
Ngày mà khởi mua đồ thì trong tủ Hộ Viện
không tiền, lại còn lưu lại nợ ăn trước nữa là khác. Song le, nhờ sự tổ chức
của Sư phụ rất biệt tài, nào xe bò, xe camion vận tải đồ đạc, trong các Châu,
các Tộc, các Làng, kẻ của người công, đủ dùng không thiếu.
Trên thì có Sư phụ làm hướng đạo, dưới thì
các con đồng tâm hiệp lực, bao quản nhọc nhằn, nắng mưa bao ngại, cơm còn phải
thiếu ăn, hẩm hút cháo rau từ bữa. Nhưng các con cứ phấn tâm nung chí, rán sức
bền lòng lo tô điểm nhà thờ chung cho mau chóng. Đó là 2 năm đầu.
2 -
Qua giai đoạn thứ nhì:
Trải qua 3 năm sau, biết bao lần đau khổ,
ngoài thì nghịch Đạo phá rối đủ điều, còn trong thì thiếu thốn, tình thế khó
khăn, các vật liệu bị Chánh phủ hạn chế. Lúc ấy, Sư phụ sợ Tòa Thánh làm không
rồi, mà nếu Tòa Thánh biếng trễ một ngày là một hại cho nhơn sanh vậy.
Vì thương Thầy mến Đạo, nên lúc ấy các con
tình nguyện lãnh làm Tòa Thánh và có dâng Tờ Cam Kết với Sư phụ và Hội Thánh
rằng : Các con vì Đạo, vì nhơn sanh, nên mới làm Đền Thờ Đức Chí Tôn, sau khi
hoàn thành thì các con không đòi hỏi điều chi với Hội Thánh cả.
Khi Tờ Cam Kết đã nạp rồi thì các con lại
càng hăng hái làm việc thêm nữa, nhưng mà lẽ Thiên cơ dĩ định, sức phàm khó
thắng với sức thiêng liêng, nên sự tạo tác đành cam ngưng trệ.
Lệnh Chánh phủ bắt buộc Tòa Thánh phải đình
công. Tin đó đưa ra như đất bằng sóng dậy, sét đánh vào tai, toàn Đạo nghe qua
rất nên não nuột, đã vậy mà còn bắt Sư phụ lưu đày sang hải ngoại.
Giai đoạn nầy, các con lấy làm thảm đạm, là
Thầy xa trò, thì có mong chi Tòa Thánh đoạt thành.
Nơi Tòa Thánh từ đó Quân đội Pháp đã đóng
binh, các Chức sắc còn lại lo trù hoạch, tìm phương lo Đạo.
Lúc ấy, các con như gà mất mẹ, như chim lạc
đàn, bơ vơ chiu chít, không còn phải lắng nghe tiếng còi đặng trở về chuồng,
rồi kẻ một nơi, người một ngã, lăn lóc với cuộc đời sầu khổ.
Ôi ! Các con tưởng rằng không còn trở lại
Tòa Thánh lần thứ hai nữa, nhưng các con còn nhớ lời tiên tri của Thầy rằng :
Sau đây các con còn trở lại làm Tòa Thánh nữa. Lời tiên tri ấy, các con vẫn
đinh ninh để an ủi lấy lương tâm chờ đợi.
May thay ! Tin Hội Thánh cho hay rằng : Ông
Giáo Sư Đại biểu (Trần quang Vinh) lo tổ chức cơ phục quốc, trước là lo cho
nước đặng tự do, sau là đòi Sư phụ trở về Tòa Thánh. Từ đó, các con cũng hăng
hái lo hiệp tác với anh em, trải qua mấy năm, các con cũng giữ tròn nhiệm vụ.
3 -
Qua giai đoạn thứ ba:
Rất may mắn thay, nhơn nguyện Thiên tùng, lẽ
Thiên cơ biến chuyển thình lình, tới ngày 24 tháng Giêng năm Ất Dậu (dl
8-3-1945), Việt Nam được nắm chánh quyền thì nền Đại Đạo được phục hồi, Tòa
Thánh mở cửa.
Lúc nầy Ông Giáo Sư Khí thay mặt cho Hội
Thánh lo kiến thiết lại. Kế Ông thì có Thừa Sử Huỳnh hữu Lợi tận tâm sát cạnh
với Ông Lâm tài Khí rất hoạt động, vận tải đồ đạc đặng làm Tòa Thánh, thì các
con chung tâm hiệp trí lo làm theo di tích của Sư phụ còn lưu lại nơi Đền
Thánh.
Nhưng mà vận Đạo còn ở trong đám mây mờ, nên
sự tạo tác chỉ lây lất cho qua ngày đặng đợi Thầy về. Tùy theo thời thế xây trở
theo chiều, nào là tiền bạc, nào quyền thế, mà còn chỗ phân tâm, nên dân thợ
làm Tòa Thánh đình công một ngày. Ông rất ôn tồn hòa nhã mà nhẫn nại khuyên nhủ
anh em làm Tòa Thánh, và có nhắc lời tiên tri của Thầy để lại rằng còn nhiều
nỗi khó khăn nữa, mấy em phải rán nhẫn nại mà nghe lời Qua thì sau sẽ gặp Thầy.
Ngày Chánh phủ Pháp sắp đến, Ông truyền lịnh
cả chu vi Tòa Thánh phải treo cờ Tàu, thì các con lấy làm ngạc nhiên, nhìn thấy
lá cờ Tàu bay phất phới theo chiều gió. Đó là do nơi lời tiên đoán của Thầy để
lại, nên gió Thánh đã xủ phất lá cờ hộ mạng che phủ cho Tòa Thánh. Trường hợp
nầy rất nên mắc mỏ, một đàng trì một đàng kéo, ông ở giữa phải giao thiệp cả
hai bên, nào là ruồng rừng lấp lộ, nào làm cống đào mương, đã vậy mà Ông Lâm
tài Khý còn phải bị nạn trong 3 tiếng đồng hồ nơi khám Tây Ninh.
Ôi ! Biết bao nỗi khổ, Ông là người Tàu mà
dám hy sinh với Đạo và một phần Chức sắc cùng đàn em theo tùng sự với Ông nên
rất đau đớn. Ấy chẳng qua là Thiên cơ tiền định, nhờ sự ủng hộ của thiêng
liêng, dầu việc dữ cũng hóa ra hiền, sự rủi hoá may, nhiều điều rất kinh tâm
tán đởm, mà rồi cũng đặng dung hòa.
4 -
Qua giai đoạn thứ tư:
Cơ Chuyển thế xây vần, lẽ Thiên cơ biến
tướng, nên Ông Giáo Sư Đại biểu và cả Chức sắc Thiên phong ở Sài gòn phải thọ
khổ, cũng nhờ thọ khổ mới toan giải khổ, Ông sẽ đòi sự tự do của Đạo lại và đem
Sư phụ trả về Tòa Thánh. Ngày mà đặng tin Sư phụ khải hoàn thì toàn Đạo ai cũng
đều hớn hở vui mừng. Hội Thánh thì lo sắp đặt sửa soạn huy hoàng đặng rước Đức
Giáo Chủ qui hồi cố quốc.
Thế nên Đạo đã đến kỳ tăng tiến, nhơn sanh
đổi họa ra phước từ đây. Đã trên 10 năm, thuyền Đạo bị truân chuyên trắc trở,
biết bao bão táp mưa sa, nay Trời êm sóng lặng, Sư phụ đã qui hồi thì sự hy
vọng của toàn Đạo nay đã mãn nguyện.
5 -
Qua giai đoạn thứ năm:
Ngày Sư phụ về Tòa Thánh đến nay, Ôi ! Thân
già sức yếu, gối mỏi da dùn, phần thì 5 năm xông pha trên bước lao trường, lẽ
thì phải an dưỡng một thời gian mới phải, nhưng mà Đền Thánh còn lưu lại sự tô
điểm sờ sờ nơi góc Trời Nam kia, nhơn sanh đã trông ngóng từ lâu, nên Sư phụ
cho lịnh đòi cả anh em, chị em tạo tác Tòa Thánh ban sơ mau trở lại, sự đoàn
kết khi xưa đã qui hợp, nhưng mà cái số 500 dân thợ khi trước, nay chỉ còn
không đặng phân nửa cái số ấy, kẻ thì mắc phải gia đình ràng buộc, người thì lo
việc khác, người thì qui liễu, nghĩ có đáng buồn chẳng ?
Nhưng mà các con cũng cố gắng theo Thầy lo
tô điểm đã ngoài 4 tháng, nhằm ngày 30 tháng Chạp mới hoàn tất. Vậy ngày nay,
các con xin giao Tòa Thánh lại cho Hội Thánh.
6 -
Qua giai đoạn thứ sáu:
Chúng con xin dâng những nguyện vọng của các
con sau nầy. Từ buổi ban sơ đến nay, các con được hấp thụ những lời giáo hóa
của Sư phụ thì Đền Thờ Đấng Cha Lành là của chung toàn nhơn sanh, nay mà làm
đặng trong xứ Nam nầy tức là nguồn cội của dân Nam. Các con đây, tuy là phận
ngu hèn dốt nát mặc dầu, cũng hiểu biết ít nhiều Đạo lý.
Đền Thờ là của chung, các con đây là con của
Đức Chí Tôn, nên các con phải nhịn ăn nhịn mặc, sự làm dầu khó khăn nhọc nhằn
đến mấy thì các con cũng cương quyết.
Ngày nay, Đền Thờ đã kết liễu, thì sự vui
mừng của các con đã mãn nguyện, nên các con đây cũng không vì công làm bấy lâu
mà nài xin với Hội Thánh điều chi hết. Các con có một điều hy vọng là ngày nào
đời đặng thái bình, dân Nam đều biết Đạo, thì các con chí hướng đi tu mà thôi.
Hiện nay Sư phụ đã già, mà sự tạo tác cũng
còn, thì các con cũng tình nguyện theo chơn Thầy mà làm việc. Ngày nào Sư phụ
giao việc lại cho Hội Thánh thì các con cũng xin thôi, hầu có lo cơ bảo tồn. Đó
là nguyện vọng của các con như thế.
Nhân dịp ngày Xuân, các con đồng chúc Sư phụ
muôn tuổi. Chức sắc HTĐ, Chức sắc CTĐ, Chức sắc Phước Thiện, đều đặng trường
cửu, Thượng Hạ Sĩ quan Quân đội vạn sự hòa bình, Tòa Thánh mới đặng thất ức
niên.
HỰU
BÚT:
Theo lời vừa mới đọc qua, đó là nguyện vọng
chung, còn phần riêng của anh chị em nào muốn cầu xin Hội Thánh điều chi thì
làm, nạp cho Tá Lý và Tổng Giám xét công dâng lên Hội Thánh định đoạt.
" Tòa Thánh, ngày 24-1-1947
(mùng 3 tháng Giêng năm Đinh Hợi)
Tổng Giám
Lê Văn Bàng
Tá Lý Lê Ngọc
Lời đọc xong, Đức Hộ Pháp rất cảm động, và vui mừng, Người đáp rằng:
" - Những công trình kiến tạo nầy, nếu
không phải có Thiên cơ tiền định thì chưa mấy ai tạo đặng, bằng cớ là khi Đạo
đặng thạnh hành, nhơn sanh hằng triệu, Ông Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh đảm
đương khởi tạo, rốt cuộc cũng thất bại.
Sau, Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
hiệp cùng bà Nữ Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh kế tạo cũng không thành. Sau nữa,
Ngài Tiếp Thế Lê Thế Vĩnh cũng hăng hái nông trang, lại cũng không kết quả.
Sau bao lần bất thành, Bần đạo đứng ra hiệp
cùng những môn đệ trung thành còn sót lại mà lần hồi tạo tác cho đến ngày nay
được kết quả với một kỳ công xứng đáng.
Khi khởi công, trong tủ không có một đồng,
phải chăng Đức Chí Tôn đã thử thách tấm lòng son sắt của chúng ta.
Ấy vậy, tên tuổi của mấy em và mấy con trong
lúc kiến tạo nầy, sử Đạo sẽ lưu truyền nêu danh hậu thế."
Cô thợ hồ Nguyễn Thị Sen đọc bài chúc mừng
Đức Hộ Pháp:
" - Bạch Đức Hộ Pháp,
Thưa cùng chư Chức sắc Thiên phong Nam Nữ,
Chúng con là thợ hồ phái Nữ, xin kính lễ
chào Quí Ngài, và có mấy lời biện bạch, cúi xin Quí Ngài niệm tình tha lỗi.
Trong thời kỳ tạo tác Tòa Thánh, chúng con không ngờ rằng một dịp may cho Nữ
phái chung công hiệp sức cùng Nam phái để tạo Đền thờ Đại Từ Phụ. Nếu được các
Ngài nhìn nhận, chúng con cũng dám tự nói rằng, trong sự đua tranh về hành vi
giúp đời tạo thế, chúng con dù phận liễu yếu đào thơ, cũng không đến nỗi thẹn
cùng bạn mày râu Nam tử.
Hồi nhớ lại khi hẩm hút tương rau, khi áo
quần không đủ ấm, chúng con nhờ nương nơi chí thanh cao của Đức Giáo chủ dắt
dìu, chúng con lòng không sờn, chí chẳng đổi, dầu phải trải qua bao phen khổ
não về tinh thần lẫn vật chất,
Ôi ! thời kỳ tạo tác Tòa Thánh, nếu chúng
con không đủ đức tính hy sinh, không đủ lòng kiên nhẫn, không đủ sức thắng nổi
phàm tâm, thì ngày nay, chúng con không còn đứng trước mặt Quí Ngài mà tự hào
công trạng.
Ấy vậy, Tòa Thánh ngày nay được hoàn thành,
chúng con rất vui mừng không xiết. Và ngày nay, tháng Giêng năm Đinh Hợi, Bính
Tuất đã dứt, Đinh Hợi vừa sang, chúng con cúi đầu chúc Sư phụ năm mới được vạn
sự an lành; nhân dịp, chúng con cúi đầu chúc chư Chức sắc HTĐ và CTĐ được Đức
Chí Tôn ban bố hồng ân hầu đủ phương thế cứu vớt nhơn sanh thoát vòng khổ hải.
Sau đây, chúng con cầu chúc quí vị Sĩ quan sang năm mới được nhiều may mắn.
Xuân đi Xuân đến, đối với các con đã gây
biết bao mối cảm tình, hòa lẫn những dòng lệ ưu hoài cuộc thế vần xoay, ngày
nay chúng con cảm thấy bao nhiêu chuyện mới mẻ tươi cười, mà cũng bao nhiêu
điều cũ kỹ bi ai, các con hồi tưởng lại 5 năm vừa qua, trong lúc vắng mặt Sư
phụ, các con đây chẳng khác chim nọ lạc bầy, chiu chít nơi mây bạc đầu non,
chân trời góc bể, các con trên đường đời như cánh nhạn trời cao, mỗi người một
ngã, các con chỉ sống với một cái sống tạm thời, cũng như sương sa gió thoảng,
tìm đủ phương dẹp mối thê lương, song cũng không thể nào quên hết những nỗi đau
khổ của một ông cha hiền lành và rất kính mến, vì nhơn loại, vì các con mà phải
chịu cực khổ mấy năm trường, các con ở nơi nhà, hằng để tâm cầu khẩn cùng Đức
Chí Tôn, xin cho Sư phụ được trở về nơi Tổ quốc.
May mắn thay, Thiên ý chiều người, Sư phụ đã
trở về. Ngày nay, các con đặng gặp và tụ hội nơi đây để chúc mừng Sư phụ trong
ba ngày Xuân nhựt. Trong ba ngày, các con dọn cái bàn trong tâm giới, đốt sáng
ngọn đèn huệ minh, lau chùi sạch sẽ cái trí, lọc lừa trong nước hằng sống của
linh hồn, đặng đến trước Đền Thờ cầu nguyện cùng Đấng Chí Tôn, cầu xin cả thế
giới đặng hòa bình, khỏi nạn chiến tranh, và nền Đại Đạo được mau chóng hoằng
hóa. Các con đồng kính. "
Khi đọc xong, Đức Phạm Hộ Pháp đáp lời rằng:
" - Bần đạo không ngờ mấy em phái Nữ mà
đạt được một kỳ công đáng giá dường nầy. Hồi nhớ lại, khi mới khởi công, Bần
đạo đã chọn bên phái Nam tạo tác mà thôi, sau vì nhơn công không đủ làm việc,
nên mới lập cho mấy em, ban đầu trộn hồ gánh gạch, lần hồi xây đắp vách tường,
công việc của mấy em làm càng ngày càng tiến bộ, cũng như phần đông Nam phái.
Có phải mọi việc chi cũng có đủ Nam Nữ (Âm Dương) mới tạo thành lý Đạo, ấy là
định ý của Đức Chí Tôn đó vậy.
Khi ấy, vì lòng dè dặt của Bần đạo, nên mới
buộc mấy em và mấy con phải hồng thệ thủ trinh, đặng đủ tinh khiết mà tạo nên
Đền Thánh.
Ngày nay đặng hoàn thành rồi, Bần đạo sẽ lần
lượt giải thệ cho mấy em và mấy con nào muốn ra lập gia đình tùy thích ."
Đức Hộ Pháp
mời Tổng Giám Lê Văn Bàng đem Tờ Giao Lãnh mà khi xưa mấy vị nầy đã ký giao ước
với Ngài lại với Hội Thánh, chư Chức sắc Cửu Trùng Đài Nam-Nữ đồng ký tên nhận
lãnh, có các Chức sắc Hiệp Thiên Đài chứng kiến, và Đức Hộ Pháp lại ký tên với
danh vị một người thợ hồ.
Ông Ngọc Chánh
Phối Sư thay mặt Hội Thánh Cửu Trùng Đài để lời cám ơn Đức Hộ Pháp và chư Đạo
hữu Nam Nữ đã dày công kiến tạo Tòa Thánh. Ông xin nhơn danh Hội Thánh Cửu
Trùng Đài mà nhận lãnh Tòa Thánh gìn giữ muôn đời.
Lập tại Tòa
Thánh Tây Ninh, ngày mùng 3-Giêng-Đinh Hợi.
(dl
24-01-1947)
Sao
y bản Chánh
Tòa
Thánh Tây Ninh
Ngày
27 tháng 8 năm Tân Hợi
(
dl 15-10-1971)
Cựu
Tổng Giám
Lê
Văn Bàng
Ngày 27-1-1947 (mùng 6-Giêng-Đinh Hợi).
Đức Phạm Hộ Pháp chính thức Trấn Thần Đền Thánh. Lịch sử xây dựng Đền Thánh đã
hoàn thành sứ mạng. Hội Thánh tổ chức thết đãi Tổng Giám Lê Văn Bàng, các Phó
Tổng Giám, Tá Lý, đại diện Nam Nữ công thợ, tại Hạnh Đường, chúc mừng thành
công, Hội Thánh vô cùng hoan hỷ, tỏ hết lòng quý trọng toàn đạo lập công bồi
đức.
Ngày 29-1-1947. (mùng 8-Giêng-Đinh
Hợi), Đức Phạm Hộ Pháp làm Lễ rước Quả Càn Khôn về thờ nơi Đền Thánh, (trước
đây gởi tại Báo Ân Từ khi tạo tác Tòa Thánh). Khuya hôm ấy vào giờ Tý cúng Đại
Lễ Vía Đức Chí Tôn.
Nhưng mãi đến
8 năm sau, Đức Phạm Hộ Pháp mới tổ chức Đại lễ Khánh Thành Tòa Thánh vào dịp
Vía Đức Chí Tôn, ngày mùng 9-Giêng-Ất Mùi (dl 01-02-1955). Đây là một tuần lễ
vĩ đại nhứt của Đạo Cao Đài kể từ trước tới nay.
Mô hình kiến trúc và công trình xây dựng
Tòa Thánh
Người Tín đồ
Cao Đài rất hãnh diện có được một ngôi Tòa Thánh đồ sộ, nguy nga, tráng lệ, do
Thiên ý hợp cùng nhơn lực tạo nên, xứng đáng là Bạch Ngọc Kinh tại thế, tiêu
biểu cho một nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với tôn chỉ : Qui nguyên Tam giáo và
Phục nhứt Ngũ Chi.
Tòa Thánh Tây Ninh. [12]
[12] - Nguồn tài
liệu Hiệp Thiên Đài, lưu trữ tại Thư viện Cao Đài Paris, Pháp quốc, và Viện bảo
tàng của Nhân Loại France ( musée de l’homme France).
Theo lời giáng
cơ dạy bảo của Đức Lý Giáo Tông thì họa đồ xây cất Tòa Thánh do Đức Lý Giáo
Tông vẽ theo kiểu của Thiên đình, có kích thước là:
- Bề ngang
Chánh điện là: 27 mét.
- Bề dài Tòa
Thánh 135 mét, phân đoạn cho ba (3) Đài chính trung tâm: Hiệp Thiên Đài 27 mét,
Cửu Trùng Đài 81 mét, Bát Quái Đài 27 mét.
- Nền BQĐ cao
9 mét, nhưng Đức Chí Tôn sửa bớt lại cho đỡ tốn kém: Nền cấp thứ 1 của CTĐ cao
5 tấc, mỗi cấp CTĐ cao 3 tấc, 9 cấp thì cao 2,70 mét, cộng lại cao 3,20 mét.
- Bề cao Lầu
chuông và Lầu Trống là: 36 mét.
- Bề cao của
Nghinh Phong Đài là: 24 mét.
- Bề cao của
Bát Quái Đài: 30 mét. Nhưng sau đó, Đức Chí Tôn có giáng cơ dặn Ngài Đầu Sư
Thái Thơ Thanh rằng : " Thơ ! Thái
Bạch muốn lập Thánh Thất coi cho tốt đẹp, chẳng tưởng sự khó nhọc các con, Thầy
chẳng đành. Thoảng như tốn kém nhiều, các con coi theo họa đồ, tính làm theo
thước mộc, nghe à !"
Do đó kích
thước thật sự của Tòa Thánh nhỏ hơn kích thước theo họa đồ của Đức Lý Giáo
Tông.
Kích thước
thật sự của Tòa Thánh hiện nay, đo được với độ chính xác (sai số tương đối) từ
5 phần ngàn đến 10 phần ngàn, kể ra như sau đây:
- Bề ngang Tòa
Thánh kể cả 2 hành lang là: 22 mét.
- Bề ngang
Chánh điện, đo lọt lòng là: 15, 40 mét. - Bề ngang của hành lang đo lọt lòng
là: 2, 40 mét.
Bề dài Tòa
Thánh: - Cuối BQĐ đến mặt tiền Lầu chuông là: 93 m - Cuối BQĐ đến hết bực 5 cấp dưới
bao lơn là: 97, 50 m
- Bề ngang của
Lầu trống hay Lầu chuông đo được: 4,30
m
- Cửu Trùng
Đài có 9 cấp, bề rộng mỗi cấp là: 7 mét.
- Bề rộng của
gian giữa (Chánh điện) đo được: 7 mét.
- Bề rộng của
mỗi gian ở 2 bên là: 4, 20 mét.
- Bề rộng của
Tịnh Tâm Điện là: 5, 60 mét.
- Bề rộng của
Cung Đạo là: 2, 80 mét. Bề cao của Lầu chuông bằng bề cao của Lầu trống:
- Từ mặt đất
lên đến nóc là: 27 mét.
- Từ mặt đất
lên đến miệng hồ lô là: 28, 20 mét.
- Bề cao của
Phi Tưởng Đài tính tới nóc là: 14 mét.
- Bề cao
Nghinh Phong Đài tới đỉnh Địa cầu là: 17 mét.
- Bề cao Bát
Quái Đài tính tới nóc là: 19 mét.
- 5 cấp dưới
bao lơn, bước lên cửa chánh Tòa Thánh, mỗi cấp có bề cao là 16 phân (16 cm ).
- 4 cấp dành
cho Thập nhị Thời Quân đứng chầu lễ Đức Chí Tôn, mỗi cấp có bề cao là 19 phân (19 cm ).
- 9 cấp của
Cửu Trùng Đài, mỗi cấp cao 18 phân.
- 12 cấp nơi
Bát Quái Đài, mỗi cấp cao 10 phân.
- Chung quanh
Tòa Thánh có tất cả 112 cây cột tròn để chống đỡ mái hiên nơi hành lang.
- Mặt tiền Tòa
Thánh, dưới bao lơn đài có 6 cây cột : 2 cây quấn rồng đỏ và 4 cây quấn bông
sen.
- Tịnh Tâm
Điện có 10 cây cột sơn trắng sọc xanh.
- Cửu Trùng
Đài có 18 cây cột rồng xanh (Long trụ), chia làm 2 hàng, mỗi hàng 9 cây.
- Cung Đạo có
2 cây cột rồng vàng.
- Bát Quái Đài
có 8 cây cột rồng vàng đứng theo 8 góc của hình Bát Quái. Tổng cộng, ở từng
trệt của Tòa Thánh, bên trong và bên ngoài, có tất cả 156 cây cột lớn và nhỏ.
Ngài Tổng Giám
cho biết, từ Bao Lơn Đài, vào Nội điện đến Bát Quái Đài của Đền Thánh có tất cả
44 cột, đặc biệt có 28 cột lớn chạm rồng, đều được đổ bê tông cốt sắt rất kiên
cố, vì là trụ cột xương sống đỡ toàn bộ sức nặng cả Đền Thánh, còn lại 16 cột
khác đổ bê tông cốt sắt có chèn lẫn cây, trái lại hai hành lang chung quanh Đền
Thánh có tất cả 112 cột tròn nhỏ để chống đỡ mái hiên của Đền Thánh, đều thực
hiện bằng cốt cây, bởi lúc bấy giờ Đạo còn nghèo, cũng để ngày sau dễ bề tiện
lợi thay đổi lại cốt sắt. Trong Điện và hành lang có 156 cột. Tuy nhiên cũng có
những nơi cần thiết phải đổ bê tông cốt sắt như dầm, sàn, mái và cầu thang, bởi
trực tiếp với sức nặng của đồng Đạo di chuyển thường xuyên trong Đền Thánh, mà
nhà Kiến trúc và Đốc công nào cũng phải biết cách xây dựng để đạt chuẩn chất
lượng cho công trình.
Những công trình kiến trúc và xây dựng Nội
Ô Tòa Thánh.
Sau khi xây
cất xong và bàn giao Tòa Thánh Tây Ninh, con đường công quả của Ngài Tổng Giám
vẫn tiếp tục. Năm 1948. Ngài Tổng Giám cùng Ban Kiến Trúc sửa chữa lại Báo Ân
Từ ( Đền thờ Phật Mẫu ), xây cất những cơ quan Hành Chánh Đạo như Hộ Pháp
Đường, Giáo Tông Đường, Nữ Đầu Sư Đường, v.v...
Đền
thờ Phật Mẫu. [13]
Giáo
Tông Đường [14]
[13] - Nguồn tài
liệu Hiệp Thiên Đài, lưu trữ tại Thư viện Cao Đài Paris, Pháp quốc, và Viện bảo
tàng của Nhân Loại France ( musée de l’homme France).
[14] - Như 14.
Hộ
Pháp Đường [15]
Nữ
Đầu Sư Đường [16]
[15] - Nguồn tài
liệu Hiệp Thiên Đài, lưu trữ tại Thư viện Cao Đài Paris, Pháp quốc, và Viện bảo
tàng của Nhân Loại France ( musée de l’homme France).
[16] - Nguồn tài
liệu Hiệp Thiên Đài, lưu trữ tại Thư viện Cao Đài Paris, Pháp quốc, và Viện bảo
tàng của Nhân Loại France ( musée de l’homme France).
Ngày 01/02/1949, "15/01/1949 Kỷ Sửu
".
Vào dịp Ðại lễ
Chí Tôn, Cửu Trùng Ðài, Hiệp Thiên Ðài, Hội Thánh Phước Thiện và Ðức Hộ Pháp
chiếu theo Tờ Bổ Dụng số 1, ngày 10/1/1936, và Tờ Cam Ðoan của Ban Kiến Trúc
Tòa Thánh, nay chính thức trao tặng cho Tổng Giám Lê Văn Bàng.
Năm 1971 Ngài
Tổng Giám cũng là Đốc Công Lê Văn Bàng đã xây dựng Văn Phòng Ban Kiến Trúc và
một nhà hàng cơm chay trước cửa Hòa Viện. Ở đây có nhiều dãy phòng để nuôi
dưỡng những công thợ có công tạo tác Đền Thánh nay lâm vào cảnh tuổi già không
người nuôi dưỡng.
Thỉnh Nguyện gửi Hội Thánh.
Ngày 14-11- 1974
Ngài Tổng Giám
đã dâng Tờ Thỉnh Nguyện lên Hội Thánh và Đại hội Nhân Sanh đệ trình xin 3 điều:
1 - Xây dựng
Đền Thờ Đức Phật Mẫu.
2 - Lưu giữ
ngày Giáng sinh của Đức Hộ Pháp (mùng 5 tháng 5 âm lịch mỗi năm).
3 - Đặt lại
phù điêu danh sách công quả thợ hồ dưới quả Càn Khôn của Bát Quái Đài, theo lời
dạy của Đức Hộ Pháp. Đã trình nhiều lần «Tờ Thỉnh Nguyện» nhưng không hiểu
nguyên do từ đâu, thất lạc Thông qui nầy? Cho đến mùa Xuân năm 1975, Ngài vẫn
chưa nhận được hồi âm ba (3) điều mà Tờ Thỉnh Nguyên dâng lên, cứ thế ngày
tháng trôi qua Ngài không còn cơ hội thực hiện theo ước nguyện trên.
Nhân dịp,
chúng tôi đính kèm bản chính của Tờ Thỉnh Nguyện:
Nguồn:
Gia tộc Tổng Giám Lê văn Bàng [17].
Sau ngày 30-4-1975
Nhà cầm quyền
lấy Văn Phòng Ban Kiến Trúc để phân phát cho gia đình Liệt Sĩ. Ngài Tổng Giám
cùng Ban Kiến Trúc phải dời về xóm Tà Mun 18 để cùng nhau gắn bó như một đại
gia đình của Đời và Đạo, tuy sống đơn sơ nhưng ở đây phản ảnh tình đồng Đạo
tuyệt vời, cảm thấy được an ủi rất nhiều về mặt tinh thần. Những ngày tháng này,
Ngài khích lệ tinh thần đệ tử Nguyễn Văn Lung (Sáu Lung) tạm xa gia đình. Hiền
Huynh Sáu Lung mở lòng phấn khởi lên Campuchia gìn giữ Liên Đài của Đức Hộ Pháp
cho đến khi qua đời, một dâng hiến lớn vì Đại Đạo. Cùng năm, Ngài bị bắt giam
tại nhà giam Hòa Thành, Tây Ninh vì tâm quyết bảo vệ sự nghiệp của Sư phụ Đức
Hộ Pháp. Nhà cầm quyền chế độ Cộng Sản có những xúc phạm với Sư phụ quá đáng
như trong "Bản Án Cao Đài"
đã nêu ra những điều phi lý và hoàn toàn vô căn cứ, vì lý do đảng Cộng sản muốn
tiêu diệt Đạo Cao Đài.
Năm 1983 Ngài
Tổng Giám Lê Văn Bàng phát hiện trên cây Bồ Đề (Ficus Religiosa) tại Hội Đồng
Xã trước Tòa Thánh xuất hiện cây Đa lá tròn nhiều rễ (Ficus Benghlensi) ăn bám
vào chung quanh thân cây Bồ Đề, cho thấy có dấu hiện không an lành. Ngài cùng
một số huynh đệ trong Ban Kiến Trúc thi nhau cắt lìa cành, rễ, đốn hạ thân cây
Đa, ra khỏi cây Bồ Đề. Ngài luôn quan tâm sửa chữa lại quần thể kiết trúc trong
Nội Ô Tòa Thánh, nếu nơi nào bị xuống cấp, nhất là Đền Thánh ưu tiên hàng đầu.
[17] - Sau nầy VP
Ban Kiến Trúc ở Tà Mun cũng bị lấy nên VP Ban Kiến Trúc phải dời vô Nội Ô Tòa
Thánh (chỗ Đài Phát Thanh trước kia.)
Năm 1985 (2-4 Ất Sửu)
Khởi công tu
bổ lần thứ nhất đầu, sửa sang chỗ hư hỏng từ cột trên lầu Bát Quái với vài mái
Đền bên trong còn chừa lại với những cây đà bên trên từ đầu tường mái Đền Thánh
ngang qua la phong 19 dù. Hoàn tất ngày 19 tháng 5-1985.
Hành trình yên tĩnh của một tín đồ Cao Đài.
[18]
Vào lúc 7.00
giờ sáng, ngày 30 tháng 5 năm 1987. Ngài Tổng Giám Lê Văn Bàng qui vị hưởng thọ
85 tuổi. Ngài được thiêng liêng ân phong đối phẩm Giáo Sư. Ngài là một nhân văn
thiên tài luôn có nụ cười nở trên môi lạc quan, thích trao đổi khi có dịp gặp
gỡ và chia sẻ với đồng Đạo, tinh thần trách nhiệm cao với những kỳ công chói
lọi trước một quần thể (population) kiến trúc Tòa Thánh Tây Ninh, còn gọi là
Đền Thánh.
Người sinh ra
để tận tụy phụng sự vì Đại Đạo, mỗi hình ảnh xây dựng mang theo ẩn dụ với ý
nghĩa đặc thù tinh hoa giáo lý Cao Đài, một công trình xây dựng tâm linh, thích
hợp cho tất cả mọi văn hóa của mỗi dân tộc và nhân loại. Người để lại cho Đại
Đạo hơn một trăm (100) công trình kiến trúc khác nhau. Một nhân phẩm nổi trội
trong hằng triệu tín đồ Đạo Cao Đài dâng hiến cả đời sinh, một nhân cách sống
cao cả ngự trị trong lòng ân sủng của Đức Chí Tôn.
Và hôm nay,
cũng như mai sau những công quả lập đức của Ngài vẫn còn ghi mãi muôn đời.
Hiệu đính ngày 19-5-2018
Biên khảo
* Hiền Tài / Huỳnh Tâm
[18] -
plafond (Pháp ngữ)
Tham Khảo.
- Phỏng vấn Nguyễn Thái Sương.
- Kiến trúc Đền Thánh (HT. Nguyễn Hà Quyến)
- Thư viện Cao Đài Paris Pháp.
- Tài liệu gia tộc Tổng Giám Lê Văn Bàng. (HT
Lê Thị Huệ Hường đại diện).
- Ban Thế Đạo Hải Ngoại: http://www.banthedao.net/
- Cao Đài Hải Ngoại (Cao Đài International): http://www. caodai.international/
- Cơ quan Đại Diện Cao Đài Hải Ngoại: http://www. coquandaidiencaodai.org/
Mục Lục.
- Lời Trình Dâng Trang 05
- Cội nguồn phát tích Trang 10
- Kể chuyện khởi nguyên hành Đạo Trang 12
- Tiến trình hành Đạo Trang 14
- Lịch sử xây dựng Đền Thánh Trang 15
- Xuyên qua thời cuộc khảo đảo Trang 36
- Lễ Bàn giao Tòa Thánh cho Hội Thánh Trang 38
- Mô hình kiến trúc và công trình xây dựng Tòa Trang 58
- Những công trình kiến trúc và xây dựng Nội Ô Tòa Thánh Trang 61
- Thỉnh Nguyện gửi Hội Thánh Trang 64
- Hành trình yên tĩnh của một tín đồ Cao Đài Trang 68
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét