Năm 1941 nền Đại
Đạo đang trên đà tiến triển một cách mạnh mẻ thì một tin sét đánh làm cả triệu
con tim dường như ngưng đập: “ĐỨC HỘ PHÁP BỊ BẮT”. Ngày mùng 4-6-Tân Tỵ
(28-6-1941).
Chánh quyền Pháp
nhận biết nền Quốc Đạo sẽ thực hiện cái mộng giành lại chủ quyền của Việt Nam
qua hình thức tôn giáo, dẫn dắt tâm linh dân tộc phục nguyên hoàng đồ đã mất
trong 80 năm.
Nên họ đã lên án vị Giáo Chủ đã xâm phạm nền an ninh Đông Pháp tại Viễn Đông, và đày Ngài cùng 5 vị Chức Sắc Đại Thiên Phong ra hải đảo Madagascar thuộc Phi Châu (Africa).
Nên họ đã lên án vị Giáo Chủ đã xâm phạm nền an ninh Đông Pháp tại Viễn Đông, và đày Ngài cùng 5 vị Chức Sắc Đại Thiên Phong ra hải đảo Madagascar thuộc Phi Châu (Africa).
Cuộc đời hành Đạo
đã gánh biết bao hy sinh, nay đức Ngài lại phải cảnh lưu đày ra phương trời xa
tít, cuộc sống đau thương của Đấng Thiêng Liêng Mạng ấy như thế nào? Ngài đã làm những gì nơi hải đảo ? Sự phiêu bạt
giang hồ ấy sẽ được trình bày rõ sau đây bởi một tín hữu trung kiên nhất của
Ngài thuật lại trong lúc lưu vong tại Campuchia năm 1956.
Ngài nằm trên
võng tường thuật mỗi ngày một vài chuyện, từ khi đến Madagascar đến khi được xuống
tàu IledeFrance trở về Việt Nam là 5 năm 2 tháng [ngày 2-8-Ất Dậu (27-9-1945)].
Sau phần diễn tả
các công tác trên Hải Đảo chúng tôi xin trình bày một số Thánh Giáo cầu tại
Madagascar có lẽ vì trước giờ không phổ biến được nên ít người có được diễm
phúc đọc được nó.
Đây cũng là một
đoạn sử trong Đạo sử Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà chúng tôi muốn giới thiệu với quí
đọc giả, có lẽ rất hữu ích cho kẻ tâm Đạo vì nó rất gợi cảm.
Nay kính
Khởi viết ngày 18-8-Ất Sửu
(2-10-1985)
Quang Minh
CHƯƠNG II
CẢNH SỐNG LƯU ĐÀY
Nhơn lễ đại tường
Ngài Trần Khai Pháp, Đức Hộ Pháp có đề cập đến cảnh sống lưu đày của Đức Ngài
cùng 5 vị Thiên Phong bị lưu đày gồm:
1 . Ông Trần Duy
Nghĩa-Khai Pháp Hiệp Thiên Đài.
2 . Ông Đỗ Quang Hiển-Sĩ
Tải.
3 . Ông Ngọc Trọng Thanh-Phối Sư
4 . Ông Thái Phấn Thanh-Giáo Sư
5 . Ông Thái Gấm Thanh-Giáo Sư
Chúng tôi xin
sao y nguyên văn bài thuyết Đạo tại Bửu Tháp của Ngài Khai Pháp ở Ao Hồ Tây
Ninh ngày 20-3-Ất Mùi (1955).
THƯA CÙNG CHƯ VIÊN QUAN CHỨC SẮC CÙNG MẤY
EM NAM NỮ.
Hôm nay ngày lễ
Đại Tường của Đức Khai Pháp Chơn Quân. Bần Đạo không cần minh tả, tưởng toàn thể
con cái Chí Tôn cũng mến tiếc Đức Ngài là một vị Chơn Linh nguyên nhân của Đền
Thánh đã định.
Nhắc lại công
nghiệp của Ngài Bần Đạo ngậm ngùi cảm giác vô cùng. Sự cảm giác của Bần Đạo đối
với Đức Ngài không giờ phút nào Bần Đạo quên được cái công cực khổ đáo để của
Ngài đối với Đạo. Bần Đạo chắc chắn rằng trong Chức Sắc Hiệp Thiên Đài Bần Đạo
chỉ nhờ Đức Khai Pháp nhiều hơn hết; đó là bằng chứng hiển nhiên. Ngày nay Ngài
đã qui thiên thì Bần Đạo sẽ bớt một cánh tay gánh vác sự nghiệp Thiêng Liêng vĩ
đại của Đức Chí Tôn tại mặt thế nầy. Bần Đạo thấy cái sống ở đời của Đức Trần
Khai Pháp trong buổi sanh tiền chưa có hưởng hạnh phúc hay thú vị gì cả; sự nghiệp
giàu sang vinh hiển cũng không màng, chỉ nguyện đem cái xác thân nầy hiến trọn
vẹn nơi cửa Đạo.
Đức Chí Tôn đã lựa
sẵn đâu hồi nào, mà chính mình Đức Chí Tôn lựa, thật là xứng đáng.
Trong buổi đầu Đức
Chí Tôn dạy: "Con muốn ra gánh vác sự nghiệp Thiêng Liêng lập nên nền Đạo, trước hết con
phải lập pháp cho xong thì Đạo mới vững bền được". Buổi nọ Bần Đạo để trọn vẹn Đức Chí Tôn lựa chọn
chớ không phải phàm lựa. Khi được lịnh cơ bút dạy đi tìm Khai Pháp thì chỉ dạy
Bần Đạo lên tỉnh Gò Công mà tìm tên Trần Duy Nghĩa. Đức Chí Tôn chỉ cho biết tỉnh
Gò Công mà thôi. Khi tìm đến biết đâu có phải chăng ? bởi vì nơi tỉnh Gò Công Bần
Đạo chưa từng đến, mà không có làm bạn với một người nào, nhưng mà cũng vâng lịnh
đến.
Đi tìm hỏi thăm
thì đã đúng nhà ông Trần Duy Nghĩa. Vừa gặp người đứng trước thềm nhà hỏi thăm
thì người nói: "Tôi là Trần Duy Nghĩa đây” rồi mời Bần Đạo vô nhà . Bần
Đạo không ngần ngại và để trọn đức tin nơi quyền năng Thiêng Liêng, bèn bỏ hết
công việc Đạo thì Đức Ngài hứa và nguyện một điều là hũy cái đời giàu sang vinh
hiển để nạp mình vào nơi cửa Đạo. Bần Đạo không tin còn hồ nghi sợ chúng gạt.
Khi về đến Sài Gòn Ngài chỉ xách theo một gói đồ trên tay và không trở lại gia
đình một lần nào.
Bần Đạo đưa
bài Thánh Giáo của Đức Chí Tôn dạy đi tìm Ngài thì Ngài nói với Bần Đạo 2 câu
làm cho Bần Đạo kính phục và cảm tưởng mãi nơi tâm, biết rằng ông nầy có thể
chung sức với mình gánh vác nổi sự nghiệp của Đức Chí Tôn đã giao phó. Ngài nói
rằng: “Tôi tưởng dòng dõi của dân tộc Việt Nam 4.000 năm đã chết, nào dè ngày
nay Đức Chí Tôn định lập quốc Đạo thì chắc hẳn rằng đất nước Việt Nam sẽ sống lại
được mà cứu chữa tổ quốc và giống nòi, dân tộc Việt Nam sẽ cởi ách nô lệ giữa
thời Pháp thuộc bạo hành".
Kể từ đó Ngài vẫn
cương quyết lo giúp đở Bần Đạo với sự kính nể đáo để, không giờ phút nào mà Đức
Ngài xa Bần Đạo. Không nhắc đến thì thôi mà nhắc đến làm cho giọt lệ Bần Đạo đã
chảy không ngừng. Chẳng phải riêng Bần Đạo đã mất một người ơn trọng nghĩa thâm
mà, mà tòan Đạo nam nữ thảy đều mất một người bạn yêu mến Thiêng Liêng đó vậy.
Lúc chánh quyền
Pháp đày ra hải đảo Madagascar trong đó có nhiều vị Chức Sắc Thiên Phong và
chung chịu ảnh hưởng, Bần Đạo chỉ thấy một Đức Ngài và em Thánh Hiển hết lòng
phụng sự giúp đỡ Bần Đạo. Còn bao nhiêu vì quyền lợi mà xua đuổi, hành hạ Bần Đạo
đáo để. Anh Trọng già rồi chẳng nói chi, nhứt là Thái Phấn và Gấm, dựa quyền lợi
theo thuyết cộng sản Nga Xô, dùng sức mạnh trở lại hành phạt khắc khổ Bần Đạo
mà chưa vừa lòng. Họ còn xúi giục đẩy Bần Đạo lên chỗ nguồn cao, nước độc để được
giết một cách gián tiếp. Nếu chẳng phải nhờ quyền năng Thiêng Liêng giúp sức
thì Bần Đạo không thể trở về Tổ Đình Thánh Địa nước Việt Nam ngày nay.
Tội nghiệp thay
em Thánh Hiển với Đức Ngài Khai Pháp thấy vậy cũng xin đi theo, đã bị chúng đánh
đuổi, vẫn tính kế đi theo nuôi dưỡng Bần Đạo cho được. Thánh Hiển đi theo Bần Đạo
bị uống nước độc mà bỏ mình nơi rừng sâu nước thẩm. Chỉ còn Bần Đạo Đức Ngài ôm
Bần Đạo mà khóc, chỉ vang vái một điều là cầu xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu đem
về đất Thánh Địa cổi xác mà thôi.
Thật quả nhiên lời
nguyện không sai !
Khi trở về Thánh
Địa Bần Đạo gượng làm vui, chớ kỳ thật riêng về Đức Ngài Khai Pháp và Bần Đạo
không giờ phút nào quên cảnh tù đày lao khổ.
Bần Đạo chỉ thấy
con cái Đức Chí Tôn rất chú ý về việc đó, nên Bần Đạo ôm lòng nén chịu căn dặn
Ngài dằn lòng không thốt ra lời nói nào cả, Bần Đạo sợ nói ra đây, gây oán chát
hờn thêm cho Đạo. Nếu Bần Đạo nói ra, không có bút mực nào tỏ cho hết, lại thêm
xung đột.
Kể từ ngày về
Thánh Đia, Đức Ngài Khai Pháp thường than thở với Bần Đạo vì e không khỏi gây cảnh
nồi da xáo thịt: bên ngoài thì Pháp, bên trong thì Việt Minh, ở giữa thì quân đội
Cao Đài. Ai vui sướng chớ riêng Đức Ngài không có ngày nào mà không lo sợ, sợ đổ
máu, giết chóc lẫn nhau, lần đến tương tàn cốt nhục của nòi giống Việt Nam đà nữa
mà chớ.
Sau ngày Trung
Tá Trấn (Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn) bị quân đội Thành ám sát, đức Ngài thường
đến Trí Huệ Cung ôm Bần Đạo vào lòng khóc và than rằng: "Thầy ôi ! cái
sợ của tôi ngày nay đã đến rồi, tôi hằng than thở với Thầy từ nơi hải đảo là chổ
chúng đày khổ thân thầy trò mình, tưởng là về đất Thánh Địa được yên vui, nào
dè có quân đội cho nên ra nỗi nầy".
Than rồi khóc,
khóc rồi Ngài vịnh níu Bần Đạo mà nói: " Thầy ôi ! vì lời khuyên xưa
kia, Thầy trò mình mới về để dìu dẫn con cái Đức Chí Tôn mà họ đâu thấu đáo tâm
trạng. Nay Trấn đã chết thì tôi thấy còn nhiều hiểm họa dẫy đầy, từ từ gây phản
bội mà làm ly tán thì bầy con dại của Đức Chí Tôn phải sống nơi nào cho an phận.
Thưa Thầy ! nếu mà tôi biết hậu quả và tình trạng ngày nay như thế nầy, thà Thầy
trò mình vùi thân ở lại nơi chốn tù đày hải đảo rừng xanh nước độc còn thú vị
hơn; Về đây thấy cảnh đổ máu không, lịch sử dòng dõi dân tộc Việt Nam sẽ ly tán, tiền đồ tổ quốc không dựng lại mà hầu
hết nhơn loại chịu trong cảnh sắp điệu tàn nền Đạo chinh nghiên bởi cảnh đó
".
Nghe qua những
tiếng than thảm thiết làm cho giọt lệ Bần Đạo phải chảy theo không ngừng. Nhưng
Bần Đạo cố gượng cho khây khỏa, hồi nghĩ lại Bần Đạo làm vui mượn cớ an ủi cho
Ngài bớt buồn sầu đau thảm…Không anh à ! Mấy em vì nó có óc thanh niên, không
phải như các anh lão thành vậy đâu ! vì máu nóng phải vậy. Còn đua tài chác quyền
trọng tham danh, chớ buộc cả thảy như chí của anh vậy sao được. Bần Đạo thấy
Ngài buồn kiếm chước cho vui đỡ và lần lược kiến tạo cái Trí Huệ Cung được
khuyên Ngài vào ở cho thanh tịnh, cho bớt thấy cảnh thảm họa trêu diễn trước mắt
hằng ngày.
Bần Đạo gẫm lại
đã lãnh cái sứ mạng, dầu khổ tâm Bần Đạo cố gắng dằn lòng để thi hành trách nhậm
là làm tròn phận sự của đại nghiệp Thiêng Liêng đó thôi, để gây dựng tương lai
hạnh phúc cho toàn cả nhơn loại chung hưởng hạnh phúc hòa bình đại đồng thế giới.
Trước Bần Đạo cũng chạy theo quyền lợi, chắc mót từng đồng lương cũng có thể an
thú lạc quan với gia đình, cả cuộc mộng ảo của tuồng đời là chỉ biết có quyền lợi
đó thôi, chớ họ đâu có biết được cái nghiệp sống Thiêng Liêng vĩnh cửu vô bờ vô
bến kia mà.
Ngày nay mấy em
muốn lấy quân đội mà chạy theo quyền lợi quá mức bạo hành mà quên lãng sự nghiệp
của đại gia đình là tấm đất Thánh Địa, là chổ miên viễn và tồn tại. Hầu hết họ
đều nhờ bóng từ bi của nhà lãnh Đạo đại Gia Đình nầy mà dựng nên sự nghiệp cá
nhân họ, có quyền thế vinh hiển với người ta mà lại còn đan tâm hũy hoại nó. Họ
không biết giá trị cao trọng đó họ phải nương nhờ nơi đâu ?
- Do Đại Nghiệp
gia đình nầy mà có.
Bần Đạo nói thiệt,
họ không nhờ Đại Gia Đình nầy ngoài ra mà họ đã bị người khinh rẻ mà phải bị
tiêu diệt một ngày gần đây mà chớ….
CHƯƠNG III
HÀNH ĐỘNG CỦA ĐỨC HỘ PHÁP TRÊN ĐẢO
MADAGASCAR
Vì lẽ Đạo, Đức Hộ
Pháp không muốn môn đệ Ngài thù hận ai, nên không hồi ký việc 5 năm lưu đày của
Ngài tại Madagascar. Những sự cực khổ, những cái ngược đãi của bọn thực dân
Pháp làm cho Ngài va chạm đến thực tế, tình đời ấm lạnh. Ngài chỉ kể những hành
động của Ngài đã làm gì ở trên hòn đảo kỷ niệm ấy, Ngài làm gì ra tiền để nuôi
5 vị Chức Sắc kẹt trong tù ? Ngài còn giúp đỡ anh em Cách Mạng Việt Nam bị đày
tại Madagascar như:
Nguyễn Thế Truyền
Nguyễn Thế Song
Trần Hữu Nam
Ngài không phân
biệt khuynh hướng chánh trị, chỉ biết giúp người yêu nước chưa gặp thời.
Chỉ có một mình
Ngài được tự do sớm, ra ở ngoài khám tìm phương sanh nhai để làm tròn nhiệm vụ
một công dân yêu nước.
Ngài làm Thợ Bạc,
đẽo cày bừa, xây lò gạch, lò vôi, làm thầu khóan cất nhà, xây đập nước. Ngài lại
làm Pháp Sư mở khiếu cho tu sĩ đoạt Đạo, thâu môn đệ trí thức để làm mầm gieo
giống lành của Chí Tôn nơi phương trời Phi Châu xa dịu dợi.
Rồi Ngài gặp lại
anh em chiến sĩ Pháp Hồi tại Madagascar và cùng với 13 người ấy đi chung một
chuyến tàu Ile de Trauce về Việt Nam.
Chúng tôi xin tường
thuật từng điểm một để chư đồng Đạo nhận thức những gian lao mà một vị Phật
giáng thế phải gánh vác.
1 - LÀM THỢ BẠC
Ngày 27-7-1941,
chánh quyền Pháp bắt Đức Ngài đày đi Madagasca (Phi Châu) cùng với 5 vị Đại
Thiên Phong. Pháp qui về tội làm quốc sự chống chế độ thuộc địa để đòi Việt Nam
độc lập. Trước hết Ngài bị giam vào khám lớn Sài Gòn 28-6-1941 rồi chúng đổi ra
Sơn La là nơi rừng thiên nước độc, được vài tháng chúng mới đưa ra đảo
Madagascar.
Đảo nầy thuộc
Châu Phi, diện tích 585.300km2, dân số lên đến 3.363 người, kinh đô là
Tananarive. Nước Pháp chiếm làm thuộc địa năm 1896. Dân thuộc địa có người
Malgaches nay kêu là Madécasses.
Pháp bắt đức
Ngài giam tại châu thành Nosilava, ngồi ngục 2 năm mới đưa ra ngoài.
Ngài để ý thấy
dân chúng địa phương thích đeo bông tai, kiền vàng, cà rá, bèn nghĩ rằng mình
phải học nghề thợ bạc đặng tạo ra tiền hầu nuôi sống bạn đồng môn và các nhà ái
quốc trong khám.
Thế là trong vài
tháng Ngài thành công. Ông thợ bạc bất đắc dĩ đã hốt bạc, vì đồ Ngài làm mỹ thuật
hơn đồ địa phương, lại có nhiều kiểu lạ nên bán đắc như tôm tươi. Ngài mướn
thêm thợ địa phương cộng tác thành một tiệm vàng lớn.
Quí ông trong
khám sống tương đối bớt vất vã, nhờ lương thực chiếu mền của Ngài gởi vào làm
mát lòng những kẻ thúc phược.
Lần lược Ngài được
một số vốn khá khá mà Ngài không dè.
2 - LÀM CÀY BỪA
Người Malgache rất
chất phát nghèo nàn, người Pháp muốn dễ trị nên không mở mang nông nghiệp để họ
tự do làm theo phương pháp cổ truyền.
Họ lùa trâu bò
đi quần cho cỏ rạp xuống rồi vạch đất mà cấy, không biết cày bừa chi hết.
Ngài mới đẻo một
cái cày và một cái bừa, kêu nông dân dẫn bò lại cho Ngài cày thử. Ngài làm ách,
cột cây rồi bắt người dẫn bò. Ban đầu đường cày cong queo; cày một buổi thấy đất
lật lên nhiều quá, họ mừng như con mừng mẹ mới về. Rồi họ hỏi: "Đất cục
lớn quá làm sao cho nhỏ lại ?"
Ngài tháo cày
ra, gắn bừa vào, rồi biểu dẫn bò, chính Ngài cầm vàm mà bừa.
Họ vỗ tay mừng rỡ,
coi Ngài như ông Thần Nông thời Thượng Cổ.
Từ đó cái kiểu
cày và bừa được dân địa phương phổ biến, trước gần sau xa, cả vùng làm ruộng
trúng mùa, họ tôn trọng Ngài đáo để.
3 - LÀM CỐI XAY
LÚA
Có lúa rồi mà họ
vọt lúa như người Miên lấy chày vọt lúa cho ra gạo, ngày nào ăn vọt đủ ngày nấy.
Thấy vậy Ngài biểu ông Ngọc Trọng (lúc nầy được thả ra khám) đóng một cái cối
xay. Ban đầu vì không chuyên môn lúa sống và cối nhẩy cà tưng khó xay, Ngài làm
răng lại cho xuôi rồi gạo ra đều, võ lúa tróc theo ý muốn. Còn chỉ cách vần quạt
gió, giê để lấy gạo trắng, phân biệt với thóc vàng. Sàng Ngài cũng phải làm mẫu
cho họ bắt chước. Kiểu cối xay được dân địa phương phổ biến tòan đảo, dân chúng
mến Ngài không tả.
Ngài còn đục một
cái cối giã gạo, chày giã gạo để làm mẫu; dạy cách vo cơm nấu nướng theo kiểu
Việt Nam.
4 - LÀM LÒ GẠCH
Ngài đi dạo thấy
dân chúng cất nhà bằng tranh hoặc lá, không có gạch ngói. Ngài mới nghĩ phải
xây một cái lò gạch. Ngài biểu dân chúng chỉ chổ có đất sét, Ngài đem về làm một lò nhỏ thử đun lửa. Vài hôm sau Ngài
thấy gạch rất tốt nên Ngài quyết định xây một miệng lò lớn, rồi chỉ cách in gạch,
ngói mà hầm.
Ban đầu lò bị nứt,
hơi không đều, nên chỗ sống, chỗ chín, sau Ngài biểu lấy bùn non tô mấy chổ nứt
thì gạch có chổ nóng quá phải bị da lu tức thành sành. Sau rốt Ngài làm lỗ hơi
cho điều hòa, gạch ra lò mới đạt được theo ý muốn.
Người Pháp ở
Madagascar muốn cất nhà, họ mua gạch chổ khác chở bằng tàu đến đảo thì giá đắc
gấp đôi. Lò gạch của Ngài bán rẻ, lời ôi quá lời. Kế Ngài biểu dân bản xứ coi
theo đó mà xây lò, in gạch, in ngói, học chụm lò…mà phát triển tự làm giàu.
Ngài không giữ độc quyền (monopole).
5 - LÀM LÒ VÔI
Ngài đi theo kẹt
núi lượm nhiều hòn đá về rồi bỏ vào lửa thí nghiệm, cục nào biến thành vôi thì
Ngài trở lại chỗ của nó mà tìm.
Ngài xây ban đầu
một lò vôi nhỏ, mỗi ngày sản xuất lối 2 tấn, sau có vốn xây nhiều lò với sự cộng
tác của dân địa phương. Thành công rồi thì Ngài cho phép ai cũng làm được,
không giữ độc quyền. Cách xây lò và cách đun vôi được chỉ dẫn tận tình. Dân
chúng có thêm nhiều công ăn việc làm, sống thoải mái hơn trước.
6 - TẠO CỐI XAY
CIMENT
Có gạch, có vôi
còn thiếu ciment, Ngài đi nghiên cứu chất đất, đào sâu tìm được đất Ngài mua một
moteur kéo máy xay ciment bột. Ngài cũng chỉ cho dân Magache phát triển làm
ciment. Dân chúng có công ăn việc làm bớt cảnh thất nghiệp, cũng có người trở
nên giàu sang.
7 - LÀM THẦU
KHOÁN XÂY CẤT
Ban đầu lãnh nhà
tư, sau lãnh cất dinh thự của chánh quyền Pháp trên đảo. Uy tín mỗi ngày một
lên, chẳng những dân chúng thương mà chánh quyền Pháp cũng tín nhiệm; thích đến
độ họa đồ nào mà không mang chữ ký của ông Phạm Công Tắc thì không được Công
Chánh chấp thuận cho phép.
Lúc làm thầu xây
cất, Ngài có lãnh xây cất một hàng rào của
một Đại Sứ Mỹ nơi đảo Madagascar. Ngài vẽ họa đồ rất đẹp, xây dựng chắc
chắn làm Đại Sứ Mỹ vừa ý. Ngày khánh thành hàng rào, Đại Sứ muốn tạ ơn Ngài bằng
một tiệc có sự tham dự của tất cả các Đại Sứ Quán ngoại quốc của các nước. Ông
dặn Đức Ngài hãy đến sau vài phút để làm danh dự cho Ngài.
Máy bay trực
thăng từ từ hạ cánh có mấy mươi chiếc, không biết xuất phát từ đâu, mỗi máy bay
là đại sứ của một nước, có cờ xí rợp trời. Họ đến trước làm hàng rào danh dự.
Ngài bước vào có trống kèn chào mừng. Cả thảy đều bắt tay chào vị "Giáo
Hoàng bị đày"
Nhờ sự giới thiệu
của Đại Sứ Mỹ (Le Pape essice)
Giữa tiệc các Đại
Sứ yêu cầu Ngài thuyết Đạo, nói mục đích của Cao Đài giáo.
Đức Chí Tôn nhập
thể, Ngài nói thao thao, các Đại Sứ vỗ tay tán thưởng. Ngài thuyết bằng Pháp ngữ.
Ông Đại Sứ Mỹ
đem một bản văn đánh máy sẵn nhờ đại diện các quốc gia ký vào. Đó là họ nhận bảo
vệ Đền Thánh Tây Ninh dầu Quốc Gia hay Cộng Sản không nước nào được quyền chiếm
đóng và quấy phá đền thờ của Thượng Đế.
Ấy vậy, thiên
trách bảo vệ tổ đình, dầu Ngài ở phương trời dịu vợi Ngài vẫn làm tròn.
Sau nầy khi Tổng
Thống Ngô Đình Diệm khủng bố Đạo, Ngài nói với mấy vị thân tín rằng: "Coi vậy nó không làm hại Tòa Thánh đâu các
con coi, vì luật quốc tế nó đã biết, nó không dám phạm, các con đừng lo".
8 - XÂY ĐẬP NƯỚC
Ngài quan sát thấy
dân chúng lấy nước rất vất vả, xa nhà, phải đội về nhà rất khó nhọc. Ngài lên
núi tìm hồ chứa nước đặng làm một cái đập “dẫn thủy nhập điền”. Ngài thấy có một
công trình dang dở, Ngài phăng hỏi thì ông Toàn Quyền trên đảo đáp: “Công trình
đã được thực hiện bởi kỹ sư Pháp, rồi kỹ sư Đức đều thất bại vì sức nước mạnh
quá làm vỡ hết, nhiều lần cất đập không được”. Ngài quan sát thấy nếu cất một hồ
nước lớn không thể chịu nổi vì sức nước đổ từ thác rất mạnh. Ngài đề nghị cất 4
cái hồ:
- Một hồ tấm cho trẻ em.
- Một hồ tấm cho đàn
bà.
- Một hồ tấm cho
đàn ông.
- Một hồ chứa nước
lớn.
Ngài mới làm đập
cản nước, nhờ vậy sức nước yếu đi không làm bể đập.
Vật liệu cũ vẫn
còn, chỉ thiếu hơn 1.000 mét ống cống. Ông Toàn Quyền ban đầu từ chối công
trình vì lúc ấy chánh quốc không ủng hộ tài chánh, trên đảo không đủ công quỉ tạo
tác. Đức Ngài nói: “Tôi xuất của tư tôi ra, cộng với tiền các mạnh thường quân
địa phương có thiện ý sẽ làm được”.
Được sự chấp thuận
của Toàn Quyền, Đức Ngài khởi xây cất ống cống rồi làm hồ tắm.
Một hồ cho
trẻ em.
Một hồ cho
đàn bà.
Một hồ cho
đàn ông.
Còn một hồ
chứa lớn, chứa nhiều khối nước.
Công thợ bắt đầu
đào đất, đặt ống cống dài dài theo họa đồ đã vẽ sẳn.
Cuối cùng công
việc cũng hoàn tất và định ngày khánh thành.
Dân chúng tề tựu
tại đập nước rất đông, có chính phủ Pháp tham dự. Quần chúng đứng dài dài theo
đường mà cống xuyên qua. Đông nhứt là tại miệng mà nước chảy ra. Đến giờ mở
vòi, nước chảy ào ào, phún tung tóe, dân chúng thích quá đồng loạt la lên:
“Vive monsieur TẮC; Vive monsieur TẮC” (Vạn tuế ông Tắc; vạn tuế ông tắc).
Lúc nầy đức Ngài
cảm thấy sung sướng, cảm động vì đã giúp được dân Malgache một đại công, chẳng
những họ có nước uống, họ còn trồng tỉa hoa màu, lúa thóc, nhờ cái đập nầy tháo
nước ra.
9 - MỞ TRƯỜNG
HỌC
Mỗi cơ sở mà Đức
Hộ Pháp đào tạo như lò gạch, lò vôi, đập nước…Ngài còn lập gần đó một trường tiểu
học dạy từ Enfantin đến Élementaire (Hồi xưa thời Pháp thuộc thì từ lớp 5 đến lớp
3 rồi lên lớp nhất là supercus, nay thì khác) để khai hóa dân trí Malgache.
Chương trình dạy tiếng địa phương và tiếng Pháp.
Mục đích của thực
dân Pháp để cho dân ngu dốt mới dễtrị, để cho dân nghèo khó họ mới câu nhữ những
kẻ thân họ mà phục vụ làm nô lệ lâu dài. Khi Đức Hộ Pháp đặt chân lên đảo, Ngài
nghĩ ngay đến người Việt Nam bị trị, lòng từ bi của Ngài xem người Malgache như
đồng chủng của mình, cần khai hóa họ, cần mở mang trí tuệ họ, họ cũng là con
cái Đức Chí Tôn, chung thọ điểm linh quang của Đấng cha lành cần giúp đỡ mọi mặt,
nâng cao đời sống vật chất lẫn tinh thần, cho họ được hấp thụ nền văn minh Đạo
đức, người tận thiện, vật tận mỹ. Vì thế nhân dân Malgache xem Ngài như một vị
cứu tinh, tín nhiệm Ngài như một cha lành, kính mến Ngài như một sư bửu.
10 - MỞ HUỆ
KHIẾU CHO ĐẠO SĨ
Có một Đạo Sĩ địa
phương học với một sư phụ về phép tu hành, nhưng sư phụ nói: “Nhà ngươi chờ có
một vị Phật đến sẽ truyền Pháp cho nhà ngươi đoạt Pháp, chớ ta chỉ dẫn đến đây
thôi”. Đạo Sĩ là một tư thức tốt nghiệp Cử Nhân Luật. Một hôm Ngài đi dạo, tay
cầm can, không hiểu sao đi tới đi lui trước nhà Đạo Sĩ ba bận. Đạo Sĩ ra chào
và mời vào nhà trà nước, rồi quì xuống xin truyền Pháp. Ngài hẹn 3 hôm nữa sẽ
trở lại. Ngài xuất Thần về Ngọc Hư Cung xin phép Đức Chí Tôn và Đức Lý được sự
chấp thuận nên đúng hẹn Ngài đến nhà Đạo Sĩ Cân Thần, mở huyền quan khiếu. Đạo
Sĩ đoạt Đạo, vân du thiên ngoại được, bái phục Ngài tột độ, tự xưng là đệ tử và
kiếu Ngài là Thầy.
Vậy về mặt Đạo đức
tinh thần Ngài vẫn làm chủ của đảo Madagascar vì nhờ vị Sư Tổ địa phương đã biết
giá trị của Ngài là một vị Phật sống.
11 - THÂU
THÊM ĐỆ TỬ TRÍ THỨC
Có một cô gái
nhà giàu du học ở Paris Pháp, đến năm thứ hai của trường đại học Luật Khoa, nằm
mộng thấy vị Thần bảo: "Phật ở xứ không thờ lại đi tìm đâu xa mà lập thân".
Đương không cô bỏ
học về, bị cha mẹ, anh em trích điểm. Cô không cải cứ đi tìm Phật, dường như có
căn nguyên nên khiến cô gặp được Đức Ngài và thọ giáo làm môn đệ Cao Đài đầu
tiên ở Madagascar. Nhờ vậy mà ông thầu khoán bất đắc dĩ lại có một cô thư ký
giúp việc đắc lực. (Rất tiếc người thuật lại không nhớ tên Đạo Sĩ cũng như người
tín đồ trí thức).
12 - GẶP LÍNH PHÁP
HỒI
Anh em tình nguyện
tùng chinh đi lính Pháp đánh Đức, có một tốp được đưa qua Madagascar. Đức Ngài
nhớ các tín đồ đi lính, họ cũng nhớ Đức Ngài mà đâu tưởng bao giờ có ngày hội
ngộ, nhưng trong số được đưa lên đảo, phần nhiều là người miền Trung, người Bắc,
còn người miền Nam chỉ có 13 người. Một người Trung Kỳ nói: "Ê tụi Sài
Gòn bây có quen với ông già chống gậy đằng kia không ? ông cũng người Nam phần,
đâu lại coi có nhìn bà con không ?" Anh 8 Quận lại gặp, Ngài hỏi thăm.
Ngài hỏi: "Em ở đâu? Đi lính hồi nào ? do Pháp bắt hay tình nguyện ?".
Anh Quận nói: "Tôi là tín đồ Cao Đài vâng lịnh Đức Giáo Chủ tình nguyện
đi đánh Đức.
- Ngài hỏi:
“Cao Đài nào ?"
- Cao Đài Tây Ninh.
- Tây Ninh thiệt không
?
- Dạ thật.
- Ngài hỏi: "Con biết Đức Giáo Chủ không?"
- Dạ con mới nhập môn
nên không biết mặt.
- Ngài ôm anh, vỗ ngực
mà nói rằng: Thầy đây con (rồi òa khóc) con đi mấy đứa? kêu chúng nó lại cho Thầy
thăm.
Anh Quận mùng
quá chạy về trại lính cho anh em hay lại chào Thầy.
Có ba người gặp
trước là quí anh Tám Quận, Chín Tháo và Mười Phụ; thấy dáng Thầy thì Tháo và Phụ
chạy riết lại không chào hỏi, mỗi người ôm một giò nhấc bổng Thầy lên cao; muốn
kêu Thầy mà kêu không ra tiếng, cảnh quấn quít thầy trò tương ngộ nó đậm đà
trong yên lặng, nó thâm trầm, nó thiêng liêng không bút mực nào tả cho cạn lý
được.
Bốn thầy trò quấn
quít nhau trong giây lâu, Thầy mới trấn tĩnh nói: "Con kêu hết mấy đứa
khác cho Thầy thăm, còn bao nhiêu nữa ?".
Tám Quận nói: "Chúng
con có 13 đứa Cao Đài ".
Thầy hối kêu lại,
sự mừng rỡ không kể xiết.
1 . CTS Tháo
2 . Thôi
3 . Phu
4 . Dương
5 . Quận
6 . Ái
7 . Lăng
8 . Lễ
9 . Hoài
10 . Lợi
11 . Lên
12 . Thông Sự Én
13 . Lân
Thầy dắt anh em
lại nhà Thầy ở, giới thiệu với bà Đầm chủ nhà là vợ ông Quan Tư Desange Thiếu
Tá có nhiệm vụ đưa Ngài về Việt Nam, bà cũng mừng. Anh em mời Thầy đãi một tiệc,
Thầy trò trút bầu tâm sự không bút mực nào tả cho hết.
Thầy mời các chiến
sĩ, đãi tại nhà Bà Đầm vì chính bà cũng có ý mời các anh em.
Hân hạnh thay !
Tưởng rằng kẻ hy sinh luôn luôn bị thiệt thòi vì chánh nghĩa, nhưng có những
phút an ủi tâm hồn mà không ai dự tính trước được nó đã diễn biến như vậy.
13 - GIỜ LY
BIỆT HAY GIỜ HẠNH PHÚC
Bị đày 5 năm 2
tháng. Ngài khổ tâm không biết nền Đạo ở nhà, có lẽ nó hư nát thì thiên trách của
Ngài không trọn vẹn.
Đùng một cái,
nghe đài phát thanh tuyên bố: Nhựt Bổn đảo chánh Pháp tại Việt Nam, Đại Biểu Trần
Quang Vinh Lập nội ứng nghĩa binh, giữ gìn trật tự tại thủ đô Sài Gòn.
Cao Đài được tự
do hành Đạo..v.v..Không có gì sung sướng bằng ngày 9-3-1945, Pháp đổi thái độ sắp
đem Ngài và các Chức Sắc tháp tùng về.
Ngài từ giả
chánh quyền Pháp, các trí thức Malgache, dân chúng Malgache họ đưa Ngài mà lệ đổ
chứa chan vì cảm tình sâu đậm. Tại nhà ga, hết người nầy vẫy tay, tới người kia
hôn mặt, hôn tay, hôn chân, kẻ liệng nón, người cởi áo liệng lên xe lửa để tỏ
tình triều mến. Còi sắp lê 1,2 rồi 3 mà dân chúng chưa chịu buông Ngài ra.
Cảnh sát phải đến
can thiệp mới mới giải tỏa được. Tàu hỏa từ từ lăng bánh, một tiếng hô vang : "Vive
Monsieur Tắc; Vive Monsieur Tắc" văng vẳng rồi nhỏ dần, nhỏ dần…
Xe lửa đến bến
tàu tại Post Tamatave Ngài gặp lại 13 chiến sĩ Pháp Hồi cùng về một chuyến tàu "Ile
de France".
Khi đến Vũng Tàu
Việt Nam ông Thiếu Tá Déjanges có nhiệm vụ đưa Ngài về nói: "Giá trị của
ông Tắc có thể định bằng số vàng mà thân hình ông cân được".
Thật là một lời
nói có ý nghĩa của một nhà trí thức Pháp.
14 - VỀ TÒA THÁNH
TÂY NINH
Ngày mùng
4-8-Bính Tuất (30-8-1946) Đức Hộ Pháp được tiếp rước long trọng tại Tòa Thánh
Tây Ninh. Ngài Giáo Sư Đại Biểu Trần Quang Vinh có đọc một bài diển văn như
sau:
Kính thưa Đức Hộ
Pháp
Sau khi năm năm
phiêu lưu nơi hải ngoại vì chủ nghĩa thương đời, ngày nay một ngày đáng kể vào
sử Đạo. Ngài đã để chơn về Tổ Đình, tiểu chức xin thay mặt cho Hội Thánh Cửu
Trùng Đài và toàn Đạo nam nữ để tỏ ít lời chúc tụng mừng rỡ Ngài. Luôn dịp để
dâng cho Ngài ý nguyện chung của toàn sanh chúng, nhứt là trong buổi mặt đời biến
đổi, tình thế phân vân do cuộc tang thương hiện tại.
Kính Ngài.
Tiếng nói của
tâm hồn nó có thật chăng là khi trí nảo nó kích thích một cách quá ư mạnh mẽ do
sự biến động của cơ hữu hình hay là nói trái lại khi xác thịt phải chịu nhọc nhằn quá lẽ trong cảnh điêu linh sầu khổ.
Về mặt Đạo, cái
khổ ấy lại là phần hơn, bởi thế từ khi vắng mặt Ngài, trong Đạo không một ai là
không buồn thảm. Bất luận già, trẻ, lớn, nhỏ, nam, nữ khi gặp nhau nhắc nhở đến
Ngài và các bạn xa quê thì trên khuôn mặt âu sầu đôi giòng lệ nhìn nhau từ từ
rơi xuống khóe miệng để thế cho lời nói…
Điểm tô thêm thảm
trạng ấy, cảnh Đạo điệu linh, kẻ còn, người mất.
Nhưng đó là ngày
đã qua. Chiếc thuyền từ của Đức Phật Thích Ca há chẳng phao tuông trên bể
khổ chứa đầy nước mắt mới độ đặng chúng sanh.
Nhìn đặng tận mặt Ngài nơi đây, tiểu chức tưởng tượng dường như thấy đặng chiếc bình Bát Du
của Đức Thích Ca trôi ngược dòng nước
Maha một cách huyền linh rực rỡ, khi người đã lập thành Đạo Phật.
Vậy tiểu chức xin dâng Ngài đóa hoa tươi nở nầy, nó là biểu
hiện cho cả triệu quả tim của con cái của Đức Chí Tôn cùng đang tuơi nở cõi
lòng để hiến cho Ngài mối tình thân ái yêu thương vô giá của Đức Chí Tôn đã đào tạo trong bao nhiêu năm khổ hạnh.
Kính Ngài.
Cái vui mừng của toàn Đạo đối với Ngài tràn trề. Nương dựa nơi sự mừng vui ấy là một tiếng
kêu đau thương tha thiết của tâm linh. Nó làm cho chúng tôi ái ngại, xốn xang.
Đó là tiếng kêu đau thảm của mặt đời vì hoàn cảnh hiện tại ấy, tiếng kêu đau
thương ấy có khi đã làm cho lay động lòng Ngài giữa trời Nam. Ước mong rằng chiếc
thuyền từ của Ngài sẽ vẹt lối nguy nan làm cho nhơn sanh bớt khổ thì Hội Thánh
Cửu Trùng Đài và cả nam nữ nguyện đồng tâm hiệp lực cùng Ngài, theo Ngài từng
bước một đặng đoạt mục đích cao thượng của Đạo là:
“Cởi thân làm mảnh áo tơi,
Che mưa đỡ nắng cho đời nguy nan”.
Thì dầu phải
quên vết thương lòng chúng tôi nguyện không hề thối bước.
Trần Quang Vinh.
15 - CỨU NHỮNG
NHÀ YÊU NƯỚC MALGACHE
Một hôm Ngài đọc
báo ngoại quốc thấy những nhà cách mạng Malgache bị chánh phủ Pháp xử tử hình.
Ngài viết thơ chính thức can thiệp với Tổng Thống Pháp yêu cầu khoan hồng cho họ.
Vụ nầy họ được
giảm án tử hình xuống chung thân khổ sai (về chánh trị nếu có một sự đổi thay
chế độ họ có thể được trả tự do dễ dàng).
Đó là tình cảm của
Đức Ngài đối với người Malgache ở bên trời Phi.
Chúng tôi tạm dừng
phiên hồi ký trên đây bằng bài thơ như vầy:
" Mến ông thợ Bạc gốc thầy tu,
Nuôi cả Môn Sanh bị nhốt tù.
Đẽo mẫu cày bừa thâu lắm thóc,
Xây lò vôi gạch hốt nhiều xu.
Dắt dìu kẻ khó thành vương khải,
Dẫn độ người lành ngự Ngọc Hư.
Thầy tớ gặp nhau trên đảo vắng,
Pháo đâu đì đạch dưới chân cù
".
*
Tử Quang
CHƯƠNG IV
THÁNH GIÁO
“Madagascar”
Phò Loan
Hộ Pháp
Sĩ Tải Hiển
TIÊU DIÊU ĐẠO
SĨ
Thi
"
Lược chiến từng quen đã bấy
lâu,
Thiên cơ đã rõ máy cao sâu.
Dằn lòng nhẫn nại chờ đôi lúc,
Sẽ thấy khuôn linh phép nhiệm mầu
".
Chào Thiên Tôn
và chư vị Đại Thiên Phong, có Đức Nhàn Âm Đạo đến để Bần Tăng đi triệu Thần
Hoàng Bổn Cảnh đến giữ cơ.
NHÀN ÂM ĐẠO
SĨ
Cười, Bần Tăng lấy
làm cảm xúc cho chư vị dường nầy, hận giống dã man tàn ác.
Đương nhiên
Trung Huê chia làm Tam Quốc, Trung Quân tức là Nam Kinh đó vậy, nơi ấy cả hang ổ
việt kiều, thời cuộc Á Đông sẽ kết cuộc do nơi đó.
Thi:
"
Quá hải đôi phen đến viếng
nhau,
Ngặt không cơ bút để lời giao.
An nhàn đôi thuở triều linh địa,
Chuyển thế gặp hồi phải múa đao.
Cỏi Á đã gầy thành chúng quốc.
Phương Âu kẻ diệt tận nô lao.
Lửa hương đất Việt dầu nhen nhúm,
Nhờ đám Trung Quân ở nước Tàu
".
NẶC DANH
Chào Thiên Tôn,
chào chư vị Đại Thiên Phong.
Trong cảnh buồn
nầy, có người quen đến viếng thường cũng nên cho là hậu tình đó chứ.
- Đức Hộ Pháp: Xin cho
biết tên.
- Chẳng cần biết tên
mà làm gì, thà để gần gủi nhau hay hơn.
Vậy trước khi từ
bút, thiếp xin để lại một bài thi làm của.
Thi:
Nô Si Lao tiếng đặt buồn cười ! (1)
Mi đã rước ai hỏi hỡi ngươi.
Lượng thảm bủa gành tình ột ạt,
Gió sầu xô đảnh ái tơi bời.
"Yêu phu điểu" gọi thương cành sớm (2)
Giọng Ngạn Uyên khêu nhớ buổi mơi (3)
Tổ quốc đon đường bao dặm thẳng ?
- Thưa ! xa thăm
thẳm một phương trời.
* Thăng
Xin giải thích:
(1) Nô Si Lao là
tên chổ Đức Ngài bị đày, tiếng Pháp gọi Nosilava, chữ Nô là nô lệ, chữ Lao là
lao tù; cái tên chỗ giam Ngài nó mĩa mai làm sao đâu. Ngươi có biết ngươi đã rước
một vị Phật chăng ?
(2) Sáng sớm có
con chim tiếng địa phương kêu là “Yêu Phu Điểu” nó kêu dường như : Trả chí
chàng, trả chí chàng. Còn trong buổi sớm mai có con quốc nó gọi hồn nước của kẻ
yêu giang san nhưng bị thất vận.
(3) Ngạn Uyên
hay Đỗ Vũ có tích là ông vua Thục Đế thất quốc, quá buồn nên chết làm con Quốc.
Ngài muốn biết Tổ Quốc chừng nào được thanh bình an lạc thì tôi xin thưa còn xa
xăm thăm thẳm, vì nghiệt oan của dân tộc Việt Nam quá nhiều, phải vay trả cho hết
rồi mới hưởng hồng ân của Chí Tôn được.
TIÊU DIÊU ĐẠO
SĨ
Chào Thiên Tôn
và chư vị Đại Thiên Phong.
Đức Lý Giáo Tông
nhận rằng: Trong hai tháng nữa người sẻ đến dạy việc Đạo…Có Đức Tôn Sơn đến. Cười…Nguyệt
Tâm Chơn Nhơn có nhắn lời rằng: Jersey Afrique cũng như Jersey Anglais vậy chớ.
Bần Tăng đố ai
đánh “cu di” nầy trúng thì Bần Tăng biểu Uông Tinh Vệ nhường Nam Kinh cho về đó mà ở.
- Đức Hộ Pháp hỏi:…………
- Đây lấy Tàu mà
noi Đạo. Tội nghiệp cho Tưởng Giới Thạch, khi đặng thống nhứt rồi để cho Nhựt Mỹ
đánh ghen mới có đồ mưu nội loạn theo kế hoạch đôi đàng, ai chiếm đặng tâm Tàu,
chừng ấycõi Đông Dương mới mong đoạt quyền vi chủ.
Ôi ! cảnh tượng ấy
ai lại chẳng ham, chẳng khác nào kẻ nghèo đi cưới vợ Phú Hộ.
- Đức Hộ Pháp và
chư vị Thiên phong hỏi:……………
- Nhưng Tàu là
thuyền quyên băng tuyết kia mới định phận lẽ nào nói thử ?
Bởi vậy hiền hữu
như một gái lấy 2 chồng nếu ở gần thì bị dụ dỗ, cũng nên xách gói mà ra đi, đợi
2 anh hùng tranh đấu, ai đoạt đặng phao cầu, chừng ấy mới định duyên tơ tóc.
Bởi vậy Chí Tôn
dắt chư hiền hữu đi đây cũng như dục gái trốn mau.
- Đức Hộ Pháp: ở
đâu mau ?
- Như bên trai
xong thì về mau, bằng không thì cứ ở thế mà !
TÁI CẦU:
Chatel sẽ có đảm
nhiệm lớn lao nơi Đông Dương không phải như lời của chư hiền hữu để hận, cốt yếu
Langsa, nhứt là Decoux đem chư vị đi nơi xa cầm sanh mạng đặng toàn Đạo chẳng
dám phản loạn rồi thừa kế đức (?) vào tay phái phục hoàng để làm nha hảo. Rồi
đây kế ấy tác thành vì Decoux đã cho tin
tức trong đảng phái ấy hay rồi.
Nhưng Thiên ý
Chí Tôn lại khác, xin chư vị cứ chờ đợi sẽ thấy.
* Thăng.
TIÊU DIÊU ĐẠO
SĨ
Từ ngày chư vị
mông trần nơi đây, Bần Tăng lấy nơi nầy làm căn cứ đặng dễ bề gần gũi. Bần Tăng
may duyên gặp đặng Tiếp Dẫn Đạo Nhơn Gabriel Gabron nơi Cung Lập Khuyết, người
có hứa đến hội hiệp cùng chư vị, nhưng mắc bận việc nên chẳng định ngày, đợi
đôi tháng nữa Bần Tăng sẽ đi rước.
* Thăng
NẶC DANH
Chào Thiên Tôn
và chư vị Đại Thiên Phong.
Thiếp vì có mạng
lịnh đến đây làm bạn bút nghiên trong lúc chư vị đặng mạng lịnh Chí Tôn cho ngồi
nghỉ nơi đây.
Chí Tôn than rằng:
Chức Sắc Thiên Phong bên Cửu Trùng Đài thiếu hùng biện văn tài đặng làm tay qui
phục sanh chúng, vì cớ ấy mà triết lý Đạo khó phổ thông cho toàn thiên hạ.
Nhưng Chí Tôn nhứt định trao chơn truyền cho mấy vị đây mà thôi.
Thiếp xin trích
thi văn đặng dìu bước chư vị Thiên Phong vào khuôn viên đoạt thành khẩu khí, rồi
lần lượt dẫn vào luật tân của Ngô Thường Quân là cháu hai đời của Ngôn Tôn Sách
sau cầu phong lên làm Phong Hầu, nên gọi là Tân Luật.
Tái Cầu:
Chào Thiên Tôn
và chư vị Đại Thiên Phong.
Vì có mạng lịnh
nên Thiếp xin phép cho Thiếp thổ lộ đôi điều. Khi Thầy Thiếp là Vương Thất
Nương về chầu và dâng sớ cho Đức Chí Tôn tỏ nổi sự khổ hạnh nhọc nhằn của chư vị
nơi đây. Đức Chí Tôn lấy làm đau đớn thương tâm, nhứt định chính mình người đến
nơi an ủi. Nhưng Lý Giáo Tông can gián, e rằng nhẹ Thiên nhan, để cho người cam
lảnh phận sự ấy.
Người mới cử kim
hài xuống âm quang nhủ giáo Thầy thiếp giúp sức. May thay nhờ chư vị thươmng
yêu triều mến, Thầy thiếp nay dạy thiếp
đến làm bạn bút nghiên hầu liệu phương an ủi, nên thiếp dạy thi văn, còn
về mặt thuyết minh thì để cho Thiên Tôn huấn luyện.
Thi:
"Đã phong trần thế chịu phong trần,
Có thân âu phải biết thương thân.
Nam xa ví chẳng về đường khó,
Việt đảnh mong chi đoạt lửa mừng.
Nặng gánh giang san là thượng trụ,
Nhẹ đai cung kiếm ấy thường quân.
Ngũ hồ tứ hải không lưu lạc,
Mặt địa cầu ta vốn định chừng
".
Nam xa: Tích là
Ngô Sĩ Liên đi sứ bên Tàu, nhơn Châu Công cho một cỗ xe có để địa bàn chỉ nam,
nương theo đó mà về nước. Ôi ! đường đi qua núi, xuống đèo trăm bề khó nhọc nhờ
vậy mà biết con đường bộ từ Nam chí Tàu, mới hành binh đuổi quân Tàu về nước.
Sau lấy đặng Hoàng Triều, lập nên Quốc Pháp, nên thi sĩ đời sau cho Nam xa là
việc tối khinh mà tối báu.
Việt Đảnh: là lư
đảnh để thờ Hoàng Tộc, ai thâu đặng bá tánh thì bá tánh là con của Hoàng Tộc
sau lập Tổ Miếu mà thờ, gọi là “Lư Hương Đảnh Việt"
Thi:
"
Hòn đảo nầy đây trước nhốt
tù,
Mà nay làm khám khảo thầy tu.
Quả như oan nghiệt vay rồi trả,
Thì lũ Tây man Nhựt Bổn trừ. "
Tiếp sau có 2
câu nho thích nôm:
"
Vân trọc đằng phong phi yểu yểu,
Triều tư tẩu bá khứ bôn bôn ".
Thích nôm:
"
Cuồn cuộn mây đưa theo ngọn
gió,
ồn ào sóng rượt chụp khuôn thuyền"
*
Thăng
Đến đây là hết
tài liệu về thơ văn Thánh Giáo Madagascar.
(Tài liệu Thánh
Giáo Madagascar do Giáo Hữu Thượng Bội Thanh tặng. Xin tri ân ông bạn có nhiều
nhiệt tình để chúng ta học Đạo).
TỔNG KẾT
Để kết luận
chung về Lưu Xứ Ký Sự chúng tôi xin mượn bài Thánh Giáo của Đức Quyền Giáo Tông
tỏ nổi niềm mình về sự thọ khổ của Đức Hộ Pháp và các Đại Thiên Phong nơi hải đảo.
Hộ Pháp Đường
đêm 16-11 Bính Tuất (18-11-1956)
Phò Loan
Hộ Pháp
Tiếp Đạo
Thượng Trung Nhựt
Mấy em Nữ Phái
Cười…hèn lâu
không gặp mấy em cũng nhớ quá !
Nè mấy em nên nhớ
rằng: Sống một đời đã nhiều đau thảm với tuồng đời, mà niên cao kỷ trưởng, hỏi
lại lập nghiệp tại thế có thú vị gì không ?
Trong nửa kiếp
sanh, đầu râu bạc trắng mà lắm thảm sầu, rốt cuộc chung hưởng điều gì nói thử ?
- Giáo Sư Hương
Nhiều bạch:…….
- Phải đó ! đã
làm tôi tớ cho đời, vô công nghiệp thì tự tin lấy tâm hồn mà tạo Thiêng Liêng vị
mới không uổng kiếp sanh. Vui chi, sướng chi mà mê mẫn theo đời cho thất phận.
Nghiệp vĩnh cửu
không tầm,
Lại ăn xin của vô
giá.
Mấy em nên trọn
hiếu cùng Chí Tôn, trọn trung cùng Hội Thánh thì ngày chung qui anh em đặng gặp.
Xin nhớ nghe !
* Thăng
Chuyến khảo Đạo
nầy có 2 vị thiệt mạng:
1 - Ông Sĩ Tải Đỗ Quang
Hiển.
2 - Ông Giáo Sư Thái Gấm
Thanh.
Trong một bài
thuyết Đạo Đức Hộ Pháp gọi sự đày ải nầy là “Cuộc Trấn Thánh Phi Châu”.
Viết xong ngày 20-8-Ất Sửu (1985)
Quang Minh
NHỚ THẦY
" Năm năm hai tháng chịu đồ lưu,
Thêm khổ ba năm chịu xứ người.
Thảm khổ thầy mang so bạc vạn,
Truân chuyên trò gánh sánh đồng xu.
Kiếp dầu bé bỏng tâm không nản,
Mạng có chông chênh chí chẳng lùi.
Thầy dẫn tới đâu trò tới đó,
Đon đường thánh vức lắm công phu."
(1979)
* Quang Minh
( Bài này Quang Minh làm trong khám
Hòa Thành, vì phản đối Bản Án Tố Thầy của chánh quyền XHCN nên bị giam hai tháng
rưỡi ).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét