LỜI TỰA
Để đáp ứng nhu cầu tìm
hiểu thêm về lịch sử đạo Cao Đài của bổn đạo trong nước và khắp nơi trên thế
giới, Thừa Sử Lê Quang Tấn (Thánh Thất Sài Gòn) cho phép chúng tôi xuất bản bản
quyền Tiểu Sử Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc trên đất Mỹ này vào tháng 4 năm 1992
(Nhâm Thân).
Chúng tôi xin chân thành
cảm tạ Thừa sử Lê Quang Tấn, đã bỏ rất nhiều thì giờ để viết lên quyển tiểu sử
này.
Và đặc biệt cám ơn sự giúp
đỡ tận tình của anh Huỳnh Hiệp Hòa đả sửa chữa và bổ sung để quyển tiểu sử này được hoàn hảo hơn.
Tôi chân thành cám ơn sự
cộng tác, lòng nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm cao cả của vợ tôi (Huỳnh Thị
sắc), mẹ vợ tôi (Trần Thị Nga) và 2 ông anh vợ tôi ( Huỳnh Hiệp Hòa và Huỳnh
Chánh Minh).
Chúng tôi rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp và xây dựng của bổn đạo, để lần xuất bản sau này
được tốt đẹp hơn.
Đinh Tấn Thành
TIỂU SỬ ĐỨC HỘ
PHÁP PHẠM CÔNG TẮC
GIÁO CHỦ ĐẠO CAO
ĐÀI TÒA THÁNH TÂY NINH
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng, đã trọn hy sinh cả kiếp
nhân sanh cho nhơn loại, thể hiện một Thiên Chức của bậc vĩ nhân ở thế kỷ 20.
Cảnh giác dục vọng của con người trên thế gian này, hướng dẫn nhân loại hợp
nhất trong giống nòi, trong quốc gia, trong tôn giáo, đề xướng Chánh Sách Hòa
Bình Chung Sống, để hòa giải 2 Miền Nam-Bắc Việt Nam, tránh cuộc phân tranh do
ngoại bang áp đặt và dung hòa giữa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản từng thề không đội
trời chung, hãy sớm hiểu biết nhau, tương nhượng nhau, hầu có được Hòa Bình, Tự
Do và Dân Chủ.
THÂN THẾ ĐỨC HỘ
PHÁP
Ông Phạm Công Tắc sanh
ngày mùng 5 tháng 5 năm Canh Dần (dl.21-6-1890) tại làng Bình Lập, Quận Châu
Thành, Tỉnh Tân An (nay là Long An), là con thứ 8 của ông Phạm Công Thiện và bà
La Thị Đường, nguyên quán tại An Hòa, Quận Trảng-Bàng, Tỉnh Tây-Ninh.
Thuở thơ ấu, Ông rất siêng
năng học tập, chuyên cần cấp sách đến trường đúng giờ, được lòng yêu qúi của
Thầy và các bạn đồng lớp. Trong gia đình, ông được nổi tiếng là một đứa con
ngoan, hiếu thảo với cha mẹ, nhường nhịn và tôn kính anh, chị, em. Lớn lên
trong hoàn cảnh nước nhà bị lệ thuộc Pháp, ông đã sẵn có ý thức về nỗi thống
khổ của một dân tộc vong-quốc. Vào năm 17 tuổi, đang học tại Trường
Chasseloup-Loubat Sài Gòn, ông cùng với các nhà Cách Mạng Phan Bội Châu, Phan
Châu Trinh, Lương Khắc Ninh, Gibert Chiếu v.v. . . hoạt động bí mật đưa người
sang Nhật Bổn để mưu cầu phục quốc.
Cuộc xuất ngoại thành công
trong 3 chuyến đi Nhật, đến chuyến thứ 4 thì Sở Mật Thám Pháp khám phá biết
trong danh sách có tên ông, nên ông phải tạm lánh mặt trở về quê nhà Tây Ninh
một thời gian.
Năm 1920, ông tùng sự tại
sở Thương Chánh Sài Gòn và lập gia đình với cô Nguyễn Thị Nhiều, sanh được 2
người con gái là Phạm Thị Cầm và Phạm Tân Tranh. Sau đó được đổi đi Cái Nhum,
rồi Qui Nhơn, đến năm 1925 thì trở về lại SàiGòn.
Nhờ trí thông minh và đức
tánh liêm khiết, ông đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng, luôn luôn giúp đỡ dân
nghèo, không bao giờ lợi dụng chức quyền mưu đồ lợi ích riêng tư.
Đồng lương công chức lúc
bấy giờ có giới hạn, với tinh thần đạo đức sẵn có, một hôm có người bạn là ông
Trần Chơn Thành đến thăm và cho ông biết tại Khánh Hội, gần nhà ông có một gia
đình nghèo rất đáng thương hại, gia đình ấy có 2 hai người con gái là Nguyễn
Thị Cầm và Nguyễn Thị Hồng bị một mụ tú bà gạt gẫm bỏ nhà ra đi. Ông Thành gợi
ý cho ông để tìm phương giúp đỡ gia đình khốn khổ ấy. Ông không ngần ngại đưa
cho ông Thành một số tiền đã dành dụm từ lâu, với lời ân cần căn dặn là phải
trực tiếp điều đình với mụ tú bà ấy để giải thoát cho 2 cô gái đó khỏi chốn lầu
xanh, ông Phạm Công Tắc đã giúp đỡ 2 cô gái hoàn lương về sum hợp với gia đình,
làm ăn lương thiện trở lại. Với đức tánh hiền hòa của ông, ông luôn nhiệt tình
làm việc nghĩa, và cũng thường kêu gọi các bạn tri âm giúp đỡ tận tình, sẵn
sàng hỗ trợ cho những người khốn khổ, hoạn nạn.
Ý chí của ông là lo lắng
cho vận mạng non sông, cho nòi giống đang bị áp bức bởi những kẻ mua danh, bán
lợi. Ai sống chết mặc ai, họ chỉ biết vinh thân phì da, vợ ấm, con no mà thôi.
Đời kim tiền đã làm cho
thiên hạ chìm đắm trong ao tù vật chất. Chán chê cuộc sống phù du, ông bèn kêu
gọi các bạn tri âm của ông để luận bàn về cơ bút, mời các vong linh nhập bàn
họa thi và học hỏi nơi cỏi vô hình, hầu tìm quên lãng trong thú vui cao thượng,
khi cung đàn, khi ngâm phú, lúc họa thi.
ĐẤNG GIÁO CHỦ CỦA
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Ông Phạm Công Tắc muốn tìm
hiểu về huyền bí của cỏi vô hình nên mới xây bàn cầu cơ để học hỏi. Việc cầu cơ
đã có từ lâu trên thế giới, nhưng chỉ khác nhau về mặt sử dụng, tùy theo phong
tục, tập quán của mỗi dân tộc.
Cơ bút là giai đoạn cuối
cùng của sự thông công của tạo hóa và người trên phương diện tâm linh. Đây cũng
là phương tiện để các đấng vô hình giảng dạy, phổ biến chúng sanh, là ngọn đuốc
quang minh để dẫn dắt con người đến chổ cao siêu. Cơ bút là con dao 2 lưỡi rất
bén, phải biết sử dụng mới được, bằng ngược lại thật vô cùng nguy hiểm. Nếu
Đồng Tử phò cơ thiếu sự hướng dẫn, thiếu công luyện tập, thiếu sự tin tưởng
trong nhiệm vụ của mình hoặc lợi dụng trong một mưu đồ nào đó, thì sẽ sanh ra
lắm chuyện tổn thương, dị hại về mọi việc, mọi mặt.
Việc cầu cơ, chấp bút đã
xuất hiện vào thế kỷ thứ 18 bên Âu Mỹ và đã phát triển thành thuyết Duy Linh và
Thần Linh (Le Spiritisme).
Vào tháng 9 năm 1853, bà
Decibardin đến viếng thăm Nhà Đại Văn Hào Victor Hugo tại cù lao Jersey để cùng
xây bàn tiếp chuyện với vong linh người chết, hầu giải buồn, tìm thú vui trong
sự học hỏi nơi cỏi vô hình.
Đêm 13-9-1853, có một chơn
linh giáng đàn xưng danh đấng vô hình nói chuyện với ông Victor Hugo rất tâm
đắc, ban cho nhiều áng văn lưu loát và bảo rằng: "Hãy để đức tin
vào thái cực!". Đây là một khái niệm vô hình học, gây nên một thế giới
vô hình tại nước Pháp lúc bấy giờ (tài liệu trong quyển: Les tables tournantes
de Jersey Chez Victor Hugo, trang 99 -135).
Tại Mỹ Quốc năm 1856, luật
sư Edmond là người có danh tiếng, nhất là ông Napes, là một Giáo sư Đại Học Hàn
Lâm Hoa Kỳ cũng xây bàn tiếp xúc với đấng Vô Hình và viết ra sách, cũng công
nhận là có vong linh người chết nói chuyện với người sống, và đã đề cập trong
quyển sách Traité de Méthaphysiques, đồng thời nhấn mạnh rằng: "Từ
đây nền tảng khoa học mới nầy rất kỳ diệu mà ít ai thấu triệt được".
Lúc bấy giờ tại SàiGòn,
lại nổi lên phong trào xây bàn và lan tràn cùng khắp thành thị và thôn quê.
Nơi nào cũng có xây bàn, việc xây bàn rất huyền diệu vô cùng, như
đàn cơ ở Thủ Dầu Một, Miếu Nổi ở Gò Vấp, chùa Ngọc Hoàng ở Đa Kao, chùa Hiệp
Ninh ở cái Khế (Cần Thơ), Thạch Động ở Hà Tiên v.v...
Ông Phạm Công Tắc cùng với
các ông: Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức, Cao
Quỳnh Diêu, Võ Văn Nguyên hợp tại nhà ông Cao Hoài Sang đêm mùng 5 tháng 5 năm
Ất Sửu (23-7-1925) để xây bàn mời các đấng vô hình về họa thi phú theo phương
pháp Thông Linh Học của Tây Phương. Trong những buổi xây bàn có nhiều vong linh
nhập bàn xưng danh tánh rõ ràng, cho nhiều bài thi rất hay, nhưng các ông chưa
tin lắm, bởi còn hoài nghi lẫn nhau (nghi ngờ có người phá chơi). Song vì thích
họa thi, vui với gió mát, trăng thanh, non nhàn nước trí, nhất là các ông hướng
về mặt đạo đức, tu hành, làm lành, tránh dữ, nên mới hợp nhau cùng các bạn tri
âm xây bàn cầu cơ như thế.
Vào đêm mùng 6 tháng 6 năm
Ất Sửu (26-7-1925), có một vong linh nhập bàn tự xưng là Cao Quỳnh Lượng, gây
nỗi vui mừng vô hạn cho qúi ông hiện đang có mặt, nhất là ông Cao Quỳnh Cư (bởi
vì ông Cao Quỳnh Lượng gọi ông Cư bằng chú). Ông Cư liền hỏi thử: "Nếu
phải là Cao Quỳnh Lượng thì biết các vị có mặt nơi đây". Vậy cháu cứ
gọi tên mỗi người coi có đúng không? Ông Cư nói vừa dứt thì cơ liền gỏ trả lời:
Diêu, Tắc, Sang, Đức, Nguyên, Hậu, được nghe Cao Quỳnh Lượng gọi đúng tên từng
người (nhất là sự phân biệt lớn nhỏ thứ tự trong khi gọi tên), khiến cho ông Cư
càng vững niềm tin nơi thế giới vô hình hơn nữa, sau đó ông Cư liền nhờ ông
Lượng đi mời ông nội của cậu là Cao Quỳnh Tuân về nhập bàn (ông Cao Quỳnh Tuân
là thân phụ của ông Cư).
Sau một thời gian
nghỉ giải lao, quí ông tiếp tục xây bàn, ông Cao Quỳnh
Tuân liền nhập bàn, gây sự kinh sợ cho qúi ông không ít, ông Cư kính
cẩn đứng lên, khoanh tay thưa với vong linh rằng: Trong buổi thầy quá vãng, anh
em con còn nhỏ dại, cho đến nỗi anh của con cũng còn nhỏ, nếu có thể tiện
đây thầy cho chúng con một bài tự thuật hầu để lưu truyền về sau cho đàn con
cháu tôn thờ làm kỷ niệm. Không chần chờ do dự, bàn cơ liền chuyển động cho 1
bài thi như sau:
Ly trần tuổi đã
quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước
đặng mười.
Tổng mến lời
khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn
dặn lắm tâm đời.
Bên màn đôi lúc
trao hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen
đặng thảnh thơi.
Xét nổi vợ hiền
còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ
một đôi lời.
Thầy xin kiếu!
Bài thi tự thuật của ông
Cao Quỳnh Tuân, khiến cho các ông có mặt đều xúc động, riêng ông Cư
không cầm được giọt lệ, và kể từ hôm ấy các ông không còn xem thường
việc xây bàn nữa, không còn nghĩ là một trò tiêu khiển như trước, mà tất cả đều
nghiêm trang, tôn kính mỗi khi xây bàn.
Vào một đêm thứ bảy ngày
mùng 10 tháng 6 năm Ất Sửu (30-7-1925), qúi ông đến nhà ông Cao Hoài Sang để
tiếp tục xây bàn cầu các vong linh về họa thi, thì bàn cơ chuyển động một cách
nhẹ nhàng, nhanh chóng lạ thường, bàn cơ liền gỏ: "Thác vì tình",
nghe được 3 tiếng thác vì tình, các ông đều hốt hoảng chỉ có ông Cao Quỳnh Cư
trầm tĩnh hỏi: Đàn ông hay đàn bà? Vong linh liền đáp: "Đoàn Ngọc Quế,
con gái".
Cả tên và họ Đoàn Ngọc Quế
vừa xưng danh tánh đều đúng với tên họ một người bạn thân của ông Diêu, hiện
đang có mặt. Ông Cao Quỳnh Cư liền xin vong linh một bài thi tự thuật. Bàn cơ
chuyển động nhẹ nhàng cho một bài thi:
Nỗi niềm tâm sự tỏ
cùng ai,
Mạng bạc còn xuân
uổn sắc tài.
Những ngỡ trao
duyên vào ngọc các,
Nào ngờ phủi nợ
xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi
tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi
nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư
quần một gánh,
Nỗi niềm tâm sự tỏ
cùng ai.
Chính 2 bài thi của ông
Cao Quỳnh Tuân và cô Đoàn Ngọc Quế đã tự thuật, có một trọng lượng đả phá mọi
thành kiến nghi ngờ, phủ nhận của quí ông lúc bấy giờ, mà còn trợ lý giúp quí
ông có đầy đủ niềm tin sùng kính quyền mầu nhiệm của thế giới vô hình hơn nữa.
Vì là những thi văn nổi tiếng, các ông liền họa lại bài thi của cô Đoàn Ngọc
Quế thật vô cùng lý thú, là người sống họa thi cùng một vong linh với lối văn
chương vô cùng lưu loát, khiến cho các ông càng say mê xây bàn hàng đêm để học
hỏi thêm về huyền bí ở cỏi vô hình. Nhất là được họa thi với một nữ vong linh giỏi
về thi thơ như cô Đoàn Ngọc Quế, càng làm cho quí ông kính phục thêm.
Tuy nhiên qúi ông muốn tìm
cho ra tông tích của vong linh Đoàn Ngọc Quế, người con gái "thác vì
tình" này. Vong linh liền đáp: trước kia ở Chợ Lớn, học trường đầm.
Vào thượng tuần tháng 8
năm Ất Sửu (1925), quí ông xây đàn mời cô Đoàn Ngọc Quế giáng đàn để học hỏi
thêm về thế giới vô hình theo sự mong muốn của mấy ông từ lâu.
Cô Đoàn Ngọc Quế giáng cơ
chỉ dẫn cho mấy ông những bí ẩn về cỏi vô hình, đáp ứng nguyện vọng thiết tha
của mấy ông. Đồng thời, qúi ông đề nghị xin kết nghĩa anh em với nhau, cô Đoàn
Ngọc Quế bằng lòng và thân mật gọi:
Ông Cao Quỳnh Cư
là trưởng ca,
Ông Phạm Công Tắc
là nhị ca,
Ông Cao Hoài Sang
là tam ca,
Còn cô Đoàn Ngọc
Quế tự xưng là tứ muội.
Được cùng nhau kết nghĩa
huynh muội, ông Cao Quỳnh Cư không ngần ngại hỏi tên thật của cô Đoàn Ngọc Quế,
nhưng cô không cho biết. Sau cùng, vì các ông cứ nài nĩ mãi nên cô Đoàn Ngọc
Quế mới chiều lòng, bàn cơ liền gõ 3 chữ viết tắt: V.T.L.
Ông Cao Quỳnh Cư hỏi tiếp:
Hiện giờ mồ mã cô Quế nằm tại đâu?
Cô Đoàn Ngọc Quế đáp: ngôi
mộ hiện giờ nằm tại nghĩa trang Bà Lân (Bà Tổng Đốc Phương) tại ngã bảy Sàigòn.
Qúi ông nhất định phải
truy tìm cho ra tông tích cô Đoàn Ngọc Quế với cái tên họ Bằng 3 chữ
viết tắt V.T.L.
Để biết rõ thiệt hư, nhân
ngày chủ nhật 3 ông Cư, Tắc, Sang đồng hẹn nhau đến nghĩa trang bà Tống Đốc
Phương. Đúng 8 giờ sáng, ba ông giữ lời hứa đến nghĩa trang và đi thẳng vào thì
gặp ngôi mộ cô Vương Thị Lễ. Đáp ứng sự hiếu kỳ của 3 ông là nhìn thấy ngôi mộ
xây cất rất đẹp, trên mộ bia có ảnh của cô Vương Thị Lễ, trẻ đẹp, và dưới chân
dung còn ghi rõ họ tên.
Không còn hoài nghi gì
nữa, 3 ông đốt nhang khẩn nguyện vong linh cô Vương Thị Lễ xong rồi mới ra về,
nhưng vẫn còn thắc mắc, muốn biết xem ban ngày các vong linh có thể về giáng
đàn được không? Và cũng có vài điều thắc mắc cần hỏi cô Đoàn Ngọc Quế.
Trở về nhà thì các ông
liền xây bàn cầu cơ vào lúc 9 giờ sáng, cô Đoàn Ngọc Quế liền giáng cơ mách bảo
cho các ông biết rõ, ngôi mộ mà 3 ông đã đến viếng hồi sáng, đó là ngôi mộ của
cô. Điều này khiến cho ba ông càng thêm kinh ngạc, vì chưa được phỏng vấn mà đã
nghe cô Đoàn Ngọc Quế đáp ứng nguyện vọng của ba ông trong buổi cầu cơ này.
Một bằng chứng mà qúi ông
không thể phủ nhận là người và vô hình trực tiếp liên hệ, nghĩa là các ông đã
khám phá ra một việc mà ít người hiểu biết về huyền diệu của thế giới vô hình.
Để ung đức tinh thần và
cũng cố niềm tin cho 3 ông, một hôm cô Vương Thị Lễ giáng đàn chỉ bảo về mặt
đạo đức, tu hành và cố ý giới thiệu đến 3 ông 1 người bạn gái của cô rất giỏi
thi văn tên là Hôn Liên Bạch. Được giới thiệu thêm một nữ thi văn, ông Cao Hoài
Sang muốn thử tài của nữ thi sĩ này, nên liền xin phép đưa ra để thi "Tiễn
biệt tình lang", chẳng chậm trễ một giây phút nào, cô Hôn Liên Bạch
liền giáng cơ cho bài thi như sau:
Chia gương căn dặn
buổi trường đình,
Vàng đá trăm năm
tạc tấm tình.
Bước rẽ ngùi trông
cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ
lối trăng thanh.
Ngày chờ mây án
ngàn dâu khuất,
Đêm bặt đường
khuya một bóng hình.
Lần lứa cô phòng
xuân thỏn mỏn,
Xa xuôi ai thấu
buổi đinh ninh.
Đồng thời cô Hôn Liên Bạch
cho tiếp một bài thi tựa là: "Hoài Lang"
Đông đình nhớ buổi
tạm chia đường,
Đông đình nhớ buổi
tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau
lối rẽ cương.
Trời thảm mây
giăng bao cụm ủ,
Biển sầu nước
nhuộm một màu thương.
Cô thân chạnh nhớ
vầy đôi bạn,
Tiệc ngọc nào khi
hội nhất trường.
Mượn bạn lương
nhân xin nhắn nhủ,
Vườn xưa tiếng
nhạn luống kêu sương.
Hai bài thi của cô Hôn
Liên Bạch giáng cơ cho vào ngày mùng 5 tháng 8 năm Ất Sửu (22-8-1925), khiến
cho 3 ông vô cùng thích thú về thi thơ xướng họa giữa vô hình và thế tục, qúi
ông hết sức say mê, ngưỡng mộ tâm hồn thanh thoát ở nơi cỏi tục này.
Lại thêm một việc hi hữu
nữa là: tiếng đồn cô Vương Thị Lễ giáng cơ được loan truyền đi khắp nơi, khiến
cho gia đình thân nhân cô Vương Thị Lễ tìm đến tận nhà ông Cao Quỳnh Cư
để tìm hiểu sự thật về cô Lễ giáng đàn và yêu cầu được dự đàn
cơ, qúi ông không thể từ chối được, 2 vị khách lạ tự xưng là thân nhân của cô
Lễ xin được dự đàn cơ.
Khi cô Vương Thị Lễ giáng
cơ thì ông Cao Quỳnh Cư liền hỏi: tứ muội có biết 2 ông khách lạ này là ai
không? Cô liền nhanh nhẹn đáp:
"Đào Nguyên
lạc lối buổi vong Hưng".
Hai ông khách lạ tên
Nguyên và Hưng nghe đúng tên mình liền nhanh nhẹn đốt nhang khấn nguyện và đáp
lại lằng câu thơ:
"Đốt nén
hương xin tỏ Lễ mừng".
Cô Lễ tiếp nối bài thi:
"Tri kỷ còn
nhiều ngày gặp gỡ".
Ông Nguyên và Hưng tiếp
nối câu chót.
"Chạnh lòng
nhớ đến buổi thanh xuân".
Thiết tưởng nguồn thi cảm
rạt rào người phàm tục và vô hình được gặp nhau để sáng tác thành một bài thi
tuyệt bút:
Đào Nguyên lạc lối
buổi vong Hưng,
Đốt nén hương xin
tỏ Lễ mừng.
Tri kỷ còn nhiều
ngày gặp gỡ,
Chạnh lòng nhớ đến
buổi thanh xuân.
Một sự huyền diệu, hiển
linh như thế càng giúp cho quí ông Cư, Tắc, Sang thêm phần hứng chí về việc xây
bàn cầu cơ. Những huyền diệu linh ứng do chính bản thân qúi ông tiếp nhận trong
việc họa thi phú hàng đêm, khiến các ông không biết mệt mỏi, mà còn say sưa hâm
mộ nữa là khác.
Vào hạ tuần tháng 7 năm Ất
Sửu (1925), ông Phạm Công Tắc, cùng với các bạn tri âm của ông hợp lại để xây
bàn, thì có một vong linh về nhập đàn, không chịu xưng danh tánh nhưng cho một
bài thi như sau:
Ớt cay, cay ớt gẫm
mà cay,
Muối mặn ba năm
muối mặn dai,
Túng lúi đi chơi
nên tấp lại,
Ai bòn chẳng chịu
tấp theo ai.
Tiếp được bài thi, 3 ông
Cư, Tắc, Sang cố nài nĩ vong linh cho biết qúi danh, song Đấng Vô Hình khước từ
mà chỉ xưng danh là A.Ă.Â. mà thôi. Các ông vô cùng ngạc nhiên, cố tìm hiểu nơi
đấng vô hình A.Ă.Â. này, nhưng ông ta không chịu tiết lộ danh tánh của mình,
khiến cho 3 ông tự suy nghiệm, và cảm thấy là có điều gì kỳ lạ nơi Đấng vô hình
này và kể từ đó không ai dám tò mò hỏi thêm về lý lịch của ông ta nữa. Cho đến
thượng tuần tháng 8 năm Ất Sửu (1925), một lần nữa ông A.Ă.Ẩ. giáng cơ đến dạy
bảo 3 ông Cư, Tắc, Sang là: đừng nên hỏi đến lai lịch của ông nữa và càng không
nên hỏi đến chuyên quốc sự, thiên cơ, thì ông ta sẽ thường xuyên về họa thi phú
cùng các ông. Đồng thời, ông A.Ă.Â. còn bảo qúi ông thiết "tiệc chay"
vào đêm rằm tháng 8 năm Ất Sửu (1925), để thỉnh đức Diêu Trì Kim Mẫu và 9 vị
tiên cô, cũng như tổ chức đãi tiệc những người phàm vậy, nhưng phải cho thanh
tịnh và tinh khiết. Chẳng biết phải thiết tiệc theo nghi thức như thế nào, 3
ông Cư, Tắc, Sang hợp ý kiến xin thỉnh cô Vương Thị Lễ giáng cơ về hướng dẫn.
Cô Lễ giáng đàn, chỉ bảo cả mọi việc, cùng phương pháp chưng dọn bàn ghế cho
nghiêm trang, và còn cho 3 ông biết rõ cô là Thất Nương Diêu Trì Cung, là vị
Tiên thứ 7 trong 9 vị Tiên tại Cung Diêu Trì, do Cửu Thiên Huyền Nữ cai quản,
dưới quyền có 9 vị Tiên nương. Cô Lễ là 1 trong 9 vị Tiên cô đó.
Thất Nương giáng đàn hướng
dẫn 3 ông phải thành tâm cầu nguyện giữ trai giới trong 3 ngày, trang hoàng nhà
cửa, thịết lập buổi lễ cho khang trang để nghinh đón đức Diêu Trì Kim Mẫu.
Ngoài ra còn bắt buộc qúi ông mỗi người đều phải làm 1 bài thi, nhất là phải cố
gắng tìm cho được Đại Ngọc Cơ để thỉnh đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng đàn.
Nghe đến tiếng Đại Ngọc
Cơ, 3 ông còn chưa nhận định được hình dáng Đại Ngọc Cơ như thế nào, thất nương
liền vẽ hình Đại Ngọc cơ cho 3 ông xem, và cũng giải nghĩa rõ nguồn gốc xuất
hiện Đại Ngọc Cơ là trước kia lấy hình tượng ngôi sao Bắc Đẩu mà tạo thành,
cùng hướng dẫn việc sử dụng Đại Ngọc Cơ.
Được tiếp nhận sự hướng
dẫn chu đáo của Thất Nương, 3 ông rất nóng lòng trông đợi cho đến ngày rằm
tháng 8, hầu biết thêm những điều mới lạ ở cỏi vô hình.
May mắn
thay! Và cũng huyền diệu thay! Trong lúc 3 ông còn đang phân vân, chưa biết
chạy tìm nơi nào để có được Đại Ngọc cơ để kịp ngày ấn định, thì tình cờ gặp
được một người thố lộ cho các ông biết là ông Phan Văn Tỷ là người có Đại Ngọc
Cơ. Hơn nữa, ông Tỷ thường đến nhà ông Cao Quỳnh Cư chơi và được biết việc xây
bàn có phần chậm chạp hơn là cầu Ngọc Cơ, nhưng lúc đó ông Tỷ chưa dám có ý
kiến.
Hôm nay có người đến hỏi
mượn Ngọc Cơ, ông Phan Văn Tỷ vui vẻ chấp nhận, nhưng phải chờ ông đến nhà ông
Âu Kích để lấy lại Ngọc Cơ mà ông đã cho mượn từ lâu. Một việc lo lắng, thắc
mắc về Ngọc Cơ đã được ông Tỷ giải quyết một cách dễ dàng, và ông Tỷ đã đem
Ngọc Cơ đến nhà ông Cao Quỳnh Cư đúng hẹn.
Có phải chăng mọi việc đều
do quyền thiêng liêng đã an bày. Sau 3 ngày giữ trai giới tinh khiết, nhằm tiết
trung thu, trăng thanh gió mát, rằm tháng 8 năm Ất Sửu, căn nhà ông Cao Quỳnh
Cư được chưng dọn rất trang nghiêm.
Một cái bàn được trang
trọng đặt ra giữa căn nhà, trên mặt bàn phủ một tấm mặt bàn trắng, và bông hoa
đủ màu sắc xinh đẹp vô cùng. Chung quanh mặt bàn thì có 9 cái tách uống trà và
9 cái ly uống rượu trông rất lộng lẫy. Ngoài ra chung quanh bàn thì có 9 cái
ghế bằng mây được phủ bằng vải trắng trông rất sang trọng. Nếu khách lạ đến
nhìn thì cũng phải tự khen thầm là chủ gia tiếp đãi khách hết sức tươm tất, chớ
ai có ngờ chủ gia sắp sửa tiếp đãi 9 vị tiên cô.
Gần tới 12 gìơ khuya ông
Cao Quỳnh Cư, Phạm công Tắc, Cao Hoài Sang, Cao Quỳnh Diêu, Nguyễn Trung Hậu,
Trương Hữu Đức, Võ Văn Nguyên đều mặc áo dài đen, đầu bịt khăn đóng đen rất
nghiêm trang đến đốt hương lên đèn thật vô cùng trọng thể.
Sau khi khấn nguyện xong,
các ông bắt đầu đốt trầm hương và 2 ông Cư, Tắc ngồi xuống ghế để tiếp Ngọc Cơ.
Ngọc cơ chuyển động mạnh và nhanh nhẹn, đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng đàn, để lời
chào mừng qúi ông có mặt, chỉ dạy về đạo đức, phương cách tu hành và hứa hẹn sẽ
thường giáng đàn chi bảo thêm cho 3 ông Cư, Tắc, Sang.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu
nhường cơ lại cho 9 vị Tiên Nương, và 9 vị Tiên Cô lần lượt giáng cơ chào mừng
quí ông.
Đặc biệt là trước khi ngồi
nhập tiệc thì Thất Nương giáng đàn chi dẫn cho 3 ông phải đem đàn ra hòa nhạc
hiến lễ cho đức Diêu Trì Kim Mẫu và 9 vị Tiên Cô (bởi qúi ông đều giỏi về
nhạc), an tọa nghe hòa nhạc và kế tiếp 3 ông ngâm lên bài thi đã làm sẵn.
Bắt đầu nhập tiệc, Thất
Nương bảo 3 ông ngồi chung bàn để cùng dự tiệc với Tiên Nữ, nhưng 3 ông đều
thối thác, không dám ngồi chung bàn. Thất Nương mời nhiều lần, bắt buộc các ông
phải tuân theo và lấy thêm 3 cái ghế để sau 9 cái ghế đã có sẵn, rồi mới ngồi
vào ghế cùng chung dự tiệc với 9 vị Tiên Nương.
Yến tiệc rằm tháng 8 năm
Ất Sửu (1925), có thể nói là yến tiệc lần đầu tiên giữa người và 9 vị Tiên
Nương, được gọi là Hội Yến Diêu Trì Cung, và hiện giờ theo thông lệ hàng năm
đến ngày rằm tháng 8 thì Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh đều thiết đại lễ
Hội Yến Diêu Trì Cung tại Đền thờ Phật Mẫu vô cùng trọng thể, và cũng để tưởng
nhớ đến công ơn đức Diêu Trì Kim Mẫu và cửu vị tiên nương đã dày công dẫn dắt
chức sắc Hiệp Thiên Đài trong buổi đầu khi nền đại đạo mới phôi thai.
Một điều hi hữu là cả thế
giới, cùng các Tôn Giáo trước kia chưa có một buổi tiệc nào cùng vói đấng
thiêng liêng tham dự, duy nhất chi có Tôn Giáo Cao Đài mà thôi.
Đây cũng là một đặc ân của
dân tộc Việt Nam, được Đức Phật Mẫu, bà mẹ thiêng liêng dành riêng cho dân tộc
Việt Nam. Nếu sau này bất luận các dân tộc nào trên thế giới biết đạo Cao Đài,
nhập môn vào đạo Cao Đài rồi thì nhất định phải giữ ý nghĩa đại lễ Hội Yến Diêu
Trì, để tỏ lòng tôn kính công ơn đức Phật Mẫu.
Thông cảm ước vọng của 3
ông Cư, Tắc, Sang, ông A.Ă.Â. giáng cơ hé mở từ từ cho 3 ông biết thêm về huyền
bí màu nhiệm của thế giới vô hình, nhất là vận mạng tương lai của dân tộc Việt
Nam, để đáp ứng nguyện vọng thiết tha của qúi ông bằng một lời hứa vô cùng đanh
thép: "Sẽ dùng huyền diệu vô tận, vô biên để giải ách nô lệ cho dân tộc
Việt Nam..." một lời hứa đầy đủ ý nghĩa ghi vào tâm trí 3 ông lúc bấy
giờ
Những gì đến nhất định
phải đến, vào đêm 27 tháng 10 năm Ất Sửu, Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng cơ chi
dạy: 3 ông phải "Vọng Thiên Cầu Đạo", vào ngày 1-11-Ất Sửu
(18-12-1925) gây sự ngạc nhiên cho 3 ông, bởi trong thời gian qua 3 ông chỉ
biết thích thú say sưa trong cảnh người tiên thượng giới, kẻ phàm tục thế gian
được họa thi tiếp nối đêm này qua đêm khác để học hỏi về thế giới vô hình. Hôm
nay nghe đến danh từ "Vọng Thiên Cầu Đạo", cả 3 ông đều băn
khoăn, lo sợ vô cùng, bởi 3 ông chưa bao giờ nghĩ sau này sẽ có trách nhiệm đi
truyền đạo. Nhưng do sự hướng dẫn của ông A.Ă.Â.từ từ rèn luyện cho 3 ông thông
suốt đạo đức để hữu dụng sau này.
Đêm 1-11-Ất Sửu
(18-12-1925), tam vị mặc áp dài đen, khăn đóng đen, chỉnh tề trang nghiêm ra
đứng giữa sân, cầm 9 cây nhang nguyện rằng ba chúng tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm
Công Tắc và Cao Hoài Sang vọng bái đứcThượng Đế ban ân diễm phúc cho 3 anh em
tôi cải tà qui chánh, trước sự đông đảo đồng bào chung quanh đến xem. Khổ nổi
đến giờ phút lập thệ như thế mà ông vẫn còn phân vân chưa nhận định được ông
A.Ă.Â. là ai? Chỉ biết tuân theo lời phán dạy của ông A.Ă.Â. mà thi hành.
Đúng 12 giờ khuya, thời
tý, 3 ông xông trầm cho tinh khiết, ngồi vào bàn cơ, Ngọc cơ rung chuyển, thanh
thoát, rồi ông A.Ă.Â. giáng cơ phán dạy: "Ngọc Hoàng Thượng Đế Viết
Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát", muốn được ta truyền đạo kể
từ bây giờ phải gọi ta bằng "Thầy" cho tiện bề đối đãi, và ta gọi lại
các con.
"Thầy muốn dùng
các con mà hoằng khai nền đại đạo, các con dám lãnh trọng trách ấy
không?". Ông Phạm Công Tắc bạch: Thầy dạy bảo thì chúng con tuân
lịnh, nhưng trong các con từ bé chí trưởng chẳng ai thông đạo lý chi, duy nhờ
Thầy dạy bảo bấy lâu, thì sự hiểu biết chứa đặng trong muôn một, e chẳng xứng
đáng mà đảm nhận trọng trách lớn lao này.
Đức Cao Đài Thượng Đế
phán: chi chi có Thầy gần bên các con, miễn là các con khứng chịu để trọn tấm
lòng thành thì chẳng hề chi. Cả 3 ông đều vâng chịu và xin đức Cao Đài chỉ bảo
về phương thức thờ phượng.
Sau buổi lễ "Vọng
thiên cầu Đạo", 3 ông Cư, Tắc, Sang hết lòng tôn kính đức Cao Đài
Thượng Đế, lo dưỡng tánh tu tâm, chuyên bề đạo đức rất ân cần.
Tiếng đồn vang dội khắp
nơi là có đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng trần khai sáng nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ. Sự kiện này đã ghi thêm một bước tiến nới, hướng về Tôn Giáo Cao Đài được
khai sanh trên vùng đất Việt Nam, một vinh dự lớn lao cho dân tộc Việt Nam là
được nắm chủ quyền Tân Giáo Cao Đài, để thực hiện sự thương yêu và quyền công
chánh mà đức Cao Đài đã phán dạy:
Chẳng quản đồng
tông mới một nhà,
Cùng nhau một đạo
tức một cha.
Nghĩa nhân đành
gởi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn cho nhau
đặng chữ hòa.
Trước những huyền diệu mà
đức Cao Đài đã thể hiện, hướng dẫn ông Cư, Tắc, Sang trong thời gian qua, tạo
thành một niềm tin tuyệt đối, tôn kính đức Cao Đài.
Thắm thoát đến ngày lễ
Noel (24-12-1925), 3 ông thiết lập đàn cơ thì đức Cao Đài Thượng Đế về chỉ dạy:
Muôn kiếp có ta
nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm
hưởng ân thiên.
Đạo mầu rưới khắp
nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên
giữ trọn biên.
Hôm nay các con phải vui
mừng, vì là ngày Thầy đã xuống trần dạy đạo bên Thái Tây (Europe). Thầy cũng
rất vui mừng mà đặng thấy các chư đệ tử kính mến thầy như vậy. Nhà này sẽ đầy
ơn Thầy. Thầy sẽ làm cho các con thấy huyền diệu để các con kính mến Thầy hơn
nữa. Bấy lâu nay Thầy vẫn tá danh A.Ă.Â. là để dìu dắt các con vào đường đạo
đức, hầu chẳng bao lâu nữa đây, các con phải ra giúp Thầy mà khai đạo. Các con
thấy Thầy khiêm nhường đến dường nào chưa? Các con nên bắt chước Thầy.
Đêm 18-1-1926, đức Cao Đài
Thượng Đế giáng cơ phán dạy: ông Phạm Công Tắc và ông Cao Quỳnh Cư phải đem
Ngọc Cơ vào tận nhà ông Lê Văn Trung, (Hội Đồng thượng Nghị Viện nhà ở đường
Testard, Chợ Lớn) để phò cơ cho đức Cao Đài Thượng Đế về chỉ dạy cho ông Lê Văn
Trung. Đây là một việc khó khăn cho 2 ông Cư, Tắc, bởi vì từ trước đến giờ 2
ông chưa từng quen biết với ông Lê Văn Trung, hơn nữa ông Trung là một công
chức cao cấp, quyền thế mà đức Cao Đài bảo phải đem đàn cơ vào tận nhà ông
Trung. Đức tin mạnh, khiến 2 ông phải tuân mạng lệnh của đức Cao Đài. Hân hạnh
thay! 2 ông vừa bước vào nhà ông Trung thì được gia nhân vào phúc báo cho ông
Trung hay là có khách lạ đến viếng. Ông Trung liền ra tiếp, mời khách vào nhà
và an tọa. 2 ông Cư, Tắc bắt đầu thuật lại về việc đức Cao Đài Thượng Đế phán
dạy là đem đàn cơ đến tận nhà ông để chỉ bảo ông. Vừa được nghe 2 tiếng Cao
Đài, ông vô cùng hân hoan chăm chú nghe từng lời thuật một cách thích thú và
tôn kính, ông liền chấp thuận cho thiết lập đàn cơ tại nhà ông mà không chút do
dự.
Sau lần gặp gỡ và hội đàm
thân mật, cùng với sự ân cần của ông Lê văn Trung, khiến cho ông Phạm công Tắc
càng thêm tôn kính đức Cao Đài hơn. Thoạt đầu ông quá lo âu và hồi hộp trước
khi bước vào nhà ông Trung, nhưng sau khi tiếp chuyện mới thấy rõ là ông Trung
cũng rất sùng kính đức Cao Đài và còn rất thâm tình với 2 ông như tình huynh đệ
với nhau.
Sau đó, ông Lê văn Trung
liền trang trí nhà cửa, thiết lập bàn hương án, mua sắm nhang đèn, hoa, quả,
trà, rượu đầy đủ, để chờ ngày cung nghinh đức Cao Đài Thượng Đế giáng lâm. Đến
ngày rằm tháng chạp năm Ất Sửu (1925), đàn cơ được thiết lập tại nhà ông Trung
vô cùng trọng thể với sự tôn kính tuyệt đối của ông đã được ung đức từ bấy lâu,
nên đức Cao Đài Thượng Đế liền giáng cơ chỉ dạy: "Thầy đã cho Lý
Thái Bạch đến dìu dắt các con ở đàn cơ Chợ Gạo bao lâu nay. Trung nhất tâm nghe
con! Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy, con hãy lấy
sự sáng của con mà suy lấy..."
KỆ RẰNG
Một trời, một đất,
một nhà riêng,
Dẫn độ nhơn sanh
đặng dạ hiền.
Cầm mối thiên cơ
ra cứu chúng,
Đạo người vẹn vẻ
mói là tiên.
Những lời phán dạy của đức
Cao Đài Thượng Đế đã được ông Lê Văn Trung nghiêm chỉnh thi hành, và tạc dạ ghi
lòng, không bao giờ xao lãng phận sự. Nhất là sự huyền diệu của đức Cao Đài đã
ban cho ông Trung được sáng mắt. Nên nhớ đôi mắt của ông Trung bị mờ lòa từ
lâu; Các danh y, bác sĩ đều tận tình chữa trị nhưng không hết. Hôm nay được sự
huyền diệu đặc ân của đức Cao Đài cho được sáng lại như xưa. Đó là một huyền
diệu thiêng liêng, một khích lệ lớn lao mà suốt đời ông Trung hằng ghi nhớ, nên
đức Cao Đài Thượng Đế cũng đã để lời phán dạy: "Trung con hãy lấy
sự sáng của con mà suy lấy…". Tin tưởng vào huyền diệu thiêng liêng
của đức Cao Đài, ông Trung nhất định thu xếp việc nhà, đệ đơn xin từ chức hội
đồng thượng nghị viện, tình nguyện phế đời hành đạo, một việc làm ít có xảy ra
trong chốn quan trường, và cùng hợp tác với các ông: Phạm công Tắc, Cao Quỳnh
Cư, Cao Hoài Sang đi khắp các tỉnh để phổ độ chúng sanh, và lần hồi ông Trung
trở thành một chức sắc cao cấp đắc lực của Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây
Ninh. Đồng thời, đức Cao Đài Thượng Đế còn phán dạy thêm: "Trung con
phải xúc tiến việc khai mở đạo mới của Thầy giáng thế kỳ ba, mượn tên là Cao
Đài, dùng biểu tượng Thiên Nhãn tượng trưng Thượng Đế, danh xưng là Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ".
Tháng 2 năm 1926, ông Phạm
Công Tắc và qúi ông Trung, Cư, Sang, Hậu, Đức đến nhà số: 110 đường Boudais
SàiGòn để nhờ ông Ngô Minh Chiêu hướng dẫn thêm về cách thờ Thiên Nhãn mà đức
Thượng Đế đã mặc khải cho ông Chiêu được nhìn thấy con mắt (Thiên Nhãn), biểu
tượng đức Thượng Đế vào năm 1921 và đã họa thành bức tượng Thiên Nhãn để thờ và
tôn kính. Do cơ bút hướng dẫn mà 2 nhóm môn đệ của đức Thượng Đế có dịp được
gặp gỡ trong tình huynh đệ tại nhà ông Chiêu vô cùng thân mật, và cũng để phân
chia trách nhiệm phổ biến nền Đại Đạo, đây cũng là ngày lịch sử của 12 môn đệ
đầu tiên của đức Cao Đài Thượng Đế đã nhờ cơ bút hướng dẫn mới có dịp hội ngộ
với nhau, tay bắt mặt mừng còn hơn anh, em ruột thịt cùng chung một nhà, để lo
phương cách truyền bá nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đức Cao Đài Thượng Đế là
chúa tể càn khôn thế giới, yêu thương dân tộc Việt Nam là một dân tộc có đầy đủ
đức tin vững chắc biết kính Trời, thờ Phật, bất cứ tôn giáo nào, từ đâu du nhập
vào nước Việt Nam đều được dân tộc Việt Nam sùng kính thờ phượng. Do lòng hiếu
để và ngưỡng mộ vô bờ bến đó, đức Cao Đài mới ưu ái, chiếu cố, chọn dân tộc
Việt Nam mặc dù là một sắc dân nhỏ bé, hèn hạ, bị lệ thuộc ở hướng Á
Đông mà giao nền chánh giáo trong tay, tự làm chủ. Đức Cao Đài dùng huyền diệu
cơ bút giáng trần mà trực tiếp hoằng khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, còn được
gọi là Đại Ân Xá Kỳ Ba, tức là đạo Cao Đài trên đất nước Việt Nam vào năm 1926.
Điều cốt yếu là tạo cho giống nòi Việt Nam vãn hồi quốc vận lấy đạo đức nhơn
nghĩa làm chuẩn, để gieo trồng nơi cửa đạo Cao Đài hột giống trường sanh bất
tử, phục sanh hồn nước đã điêu tàn, sau 80 năm bị đô hộ, trong sự thương yêu và
công bằng của đức Thượng Đế là Qui Tam Giáo, Hiệp Ngũ Chi, hầu đưa nhân loại
đến đại đồng thế giới, sớm biết nhìn nhau là con một cha.
Nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
tức đạo Cao Đài được khai sáng trên đất nước Việt Nam không phải là một chuyện
ngẫu nhiên, mà do thiên cơ tiền định có một căn nguyên nhiệm mầu vô cùng bí ẩn,
trí phàm không thể xét đoán được, mà chính các Tôn Giáo trước kia đã có lời
tiên tri chứng minh là Thượng Đế chúa tể càn khôn vũ trụ sẽ sáng lập Tân Tôn
Giáo Cao Đài. Chỉ có lòng thương yêu vô biên của đức Cao Đài mới tạo được hoàn
cảnh tốt đẹp cho 2 nhóm Cao Đài, cùng chung một sự ung đức, rèn luyện từ lâu,
được dịp hoan hỉ ngồi chung lại và tuyệt đối tuân lời phán dạy của đức Cao Đài.
Đêm giao thừa Tết Nguyên
Đán năm Bính Dần (18-2-1926) tuân lịnh đức Cao Đài Thượng Đế phán dạy, ông Ngô
Minh Chiêu cùng 2 ông Cao Quỳnh Cư và ông Phạm Công Tắc phải mang Ngọc Cơ thân
hành đến từng nhà của các môn đệ đầu tiên để đức Cao Đài giáng cơ cho mỗi môn
đệ một bài thi chúc xuân, tiên đoán đức tánh hành đạo của mỗi người. Trước hết
là đến nhà ông Võ Văn Sang. Sau khi chủ gia thắp nhan đèn khẩn nguyện xong thì
ông Tắc và ông Cư phò loan, đức Cao Đài liền giáng cơ cho một bài thi:
Tân dân hỉ kiến
đắc tân niên,
Tam Kỳ Phổ Độ bá
thế hiền.
Nhứt định chủ tâm
chơn đạo lý,
Thăng thiên hoạt
địa chỉ như nhiên.
Sau khi đức Cao Đài Thượng
Đế giáng cơ cho bài thi xong thì ông Ngô Minh Chiêu ngõ lời chúc mừng năm mới
đến gia đình ông Võ Văn Sang, rồi từ giả ông Sang để đi đến nhà môn đệ khác. Cứ
thế 3 ông Chiêu, Cư, Tắc đến từng nhà các môn đệ để phò loan cho đức Cao Đài
giáng cơ chỉ dạy cùng chúc xuân cho mỗi gia đình. Qúi ông phải đi cho đù 12 gia
đình môn đệ của đức Cao Đài, mới được trở về nhà. Những gia đình môn đệ đều tiếp
nhận những lời vàng tiếng ngọc của đức Cao Đài Thượng Đế phán dạy, và tiên đoán
vận mạng tu hành của mỗi vị môn đệ ở buổi sau này, Bằng một bài thi ngắn gọn và
đầy đủ ý nghĩa cao xa, thâm thúy.
Ngày 11 tháng 3 năm Bính
Dần (24-4-1926), ông Phạm Công Tắc được đức Cao Đài Thượng Đế phong chức
"Hộ Giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ", cùng với qúi ông Cao Quỳnh Cư, Cao
Hoài Sang v.v... đều được thọ phong chức sắc. Cả qúi ông Cư, Tắc, Sang, Diêu,
Hậu, Đức v.v... đều phải tôn kính ông Lê Văn Trung là anh và phải tôn kính ông
Ngô Minh Chiêu là anh cả. Và đức Cao Đài Thượng Đế có phán dạy:
"Chư đệ
tử nghe!
Chiêu hôm trước
hứa truyền đạo, cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ, dẫn dắt các môn
đệ Ta vào đường đạo đức, đến buổi chúng nó lập thành. Chẳng nên thối thác! Thay
mặt Ta mà dạy dỗ chúng nó, nghe và tuân lịnh.
Trung, Kỳ, Hoài 3
con phải thay mặt cho Chiêu mà đi độ người, nghe và tuân lịnh!
Bảng, Sang, Giảng,
Quý lo dọn mình đạo đức để truyền bá cho chúng sanh, nghe và tuân lịnh!
Đáo con phải họp
mặt vào đây để giúp đỡ Trung, nghe và tuân lịnh!
Ông Đáo bạch: bạch
Thầy, con mắc lo vun tròn hội Minh Lý.
Đức Cao Đài Thượng
Đế phán: cũng một gốc, tùy ý con định, sau chớ có trách Thầy!
Đức tập cơ, Hậu
tập cơ, sau theo mấy anh đặng độ người, nghe và tuân lịnh!"
Phải chăng những lời phán
dạy của đức Cao Đài Thượng Đế là một thiên lệnh bổ nhiệm những vị
đầu tiên, phân công cho từng môn đệ, 2 đoàn thể Cao Đài được đức Thượng Đế đào
tạo từ lâu, hiệp nhứt lại để cùng chung một trách nhiệm, truyền bá nền Đại Đạo
hầu làm sáng tỏ thanh danh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Thật là một thiên lệnh thuyên
bổ hi hữu của đức Cao Đài Thượng Đế. Các môn đệ đầu tiên không một lời thối
thác, suy bì, mà chỉ biết tuyệt đối tuân hành theo huyền diệu thiêng liêng ban
bố. Số người vào đạo Cao Đài lên gấp mấy lần, gây nhiều lo âu cho qúi ông vì
chưa có nơi thờ phượng, và cũng cần phải được hợp pháp trong việc truyền đạo ở
các tỉnh cho được dễ dàng. Do đó qúi ông mới thiết lập đàn cơ cầu xin sự chi
giáo của đức Cao Đài Thượng Đế. Đức Cao Đài Thượng Đế phán dạy: "Các
con vào chùa Giác Hải gặp hòa thượng Như Nhãn thì sẽ toại nguyện".
Tiếp nhận lời dạy của đức Cao Đài, một phái đoàn Chức sắc Cao Đài được đề cử
đến kiến diện Hòa Thượng Như Nhãn và được tiếp đón rất nồng hậu. Sau khi được
trình bày cặn kẽ, Hoà Thượng Như Nhãn đồng ý chấp thuận cho nượn ngôi chùa Gò
Kén (Từ Lâm Tự tại tỉnh Tây Ninh đang xây cất gần xong, chỉ còn tô vách, lót
gạch, và sơn phết là sử dụng được). Trưởng huynh Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh
đứng ra đảm nhiệm trọng trách tu bổ ngôi chùa Gò Kén do Hòa Thượng Như Nhãn cho
tạm mượn để làm ngôi Thánh Thất Cao Đài. Đồng thời, các môn đệ đầu tiên của đức
Cao Đài hợp nhau thảo luận viết đơn xin khai đạo để trình lên đức Cao Đài xem
xét trước. Đức Cao Đài có phán dạy: "Thầy là chúa tể Càn Khôn thi
còn đi xin phép ai? Nhưng vì các con quá sợ nên Thầy phải chiều lòng".
Ngày 29-9-1926, ông Phạm
Công Tắc cùng các môn đệ đầu tiên gồm 27 vị đồng ký tên (thay mặt cho 247 vị
hiện diện trong buổi họp) trong tờ khai Đại Đạo gởi lên ông Le Foy, Phó Soái Nam
Kỳ. Thật ra thì tờ khai đạo đã được ông Lê Văn Trung và ông Lê Văn Lịch soạn
thảo trước rồi, và đức Cao Đài đã duyệt lãm.
Thiết tưởng nền Đại Đạo
lúc bấy giờ đang bị chánh quyền Pháp nghi kỵ. Mọi sự di chuyển của các chức
sắc, khó lọt qua mắt của mật thám bủa vây khắp nơi. Ông Lê Văn Trung dám đương
đầu, đứng mủi chịu sào đệ đơn xin khai đạo lên chính phủ Pháp là một việc làm
không đơn giản và không kém phần nguy hiểm. Nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tuy mới
phôi thai, nhưng 2 tiếng Cao Đài luôn luôn được đồng bào nhắc nhở tôn kính, nên
mỗi khi có thiết lập bàn cơ bất luận nơi nào, dù xa xôi cách trở mấy đi nữa,
đồng bào cũng nhiệt tình kéo đến tham dự rất đông đảo. Trước là tiếp thu, ghi
nhận những chi dẫn về đạo đức, tu hành của các đấng thiêng liêng, sau là xin
toa thuốc trị bệnh và xin nhập môn cầu đạo.
Chùa Gò Kén (Tây Ninh),
bổn đạo ngày đêm lo tu sửa, sơn phết rất trang nghiêm cho kịp ngày lễ Khánh
Thành Thánh Thất Cao Đài vào ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần (16-11-1926). Kể từ
ngày mùng 1 tháng 10 năm Bính Dần, Hội Thánh Cao Đài ban lịnh cho tất cả Chức
Sắc ở các tỉnh tạm ngưng việc truyền bá để qui tụ về Thánh Thất Cao Đài Gò Kén
(Tây Ninh) để chung lo cho ngày đại lễ khánh thành Thánh Thất và kỷ niệm ngày
hoằng khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Về việc kỷ niệm này đức Cao Đài Thượng Đế
Giáng Cơ phán dạy:
"Các con! Thầy đã
lập thành Thánh Thất, nơi ấy là nhà chung của các con! Hiểu à!
Thầy lại qui tam
giáo, lập tân luật, trong rằm tháng 10 có đại hội cả Tam Giáo Thánh Thất! Các
con hay à!
Sự tế tự sửa theo
Tam Kỳ Phổ Độ, cũng nơi ấy xuất hiện mà ra! Rõ à!
Thầy nhập 5 Chi
lại làm một là có ý qui tụ các con trong Đạo Thầy lại một nhà, Thầy là cha
chưởng quản! Hiểu à!
Từ đây trong nước
Nam duy có một Đạo nhà chân thật là đạo Thầy, Thầy đã đến lập cho các con gọi
là Quốc Đạo! Hiểu à!
Thầy phải buộc các
con hiệp chung trí mà lo việc đó! Nghe à! Từ đây các con sẽ cực nhọc hơn, vi
Thầy phan phát phận sự cho mỗi đứa, chẳng vì vậy mà các con sanh nạnh nhau, tựa
hồ chia phe, phân phái là đại tội trước mặt Thầy! Nghe à!
Các con phải ngưng
mọi việc mà chung lo cho đại hội"
Tiếp được những lời vàng,
tiếng ngọc của đức Cao Đài Thượng Đế dạy và hướng dẫn từng sự việc, người tín
hữu Cao Đài muôn người như một, đồng nhận thức tầm quan trọng của ngày rằm
tháng 10 năm Bính Dần là ngày đại lễ kỷ niệm Đệ Nhất Chu Niên Hoằng Khai Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trên quê hương việt Nam. Đây là một danh dự lớn lao cho dân
tộc Việt Nam ta, chánh thức có được mối đạo nhà, và cũng là ngày đại
hội tôn giáo đầu tiên trên đất nước Việt Nam. Thật ra, trước nguồn dư luận
của bàn quan thiên hạ bán tin, bán nghi đủ mọi mặt về những biến cố đã xảy ra
trong ngày đại lễ, sự mầu nhiệm thiêng liêng của đức Cao Đài vẫn tỏ rạng trong
việc giáng cơ thành lập xong bộ Pháp Chánh Truyền và bộ Tân Luật làm giềng mối
căn bản cho tôn giáo Cao Đài. Cũng vì vậy mà hằng ngày tại Thánh Thất Gò Kén có
trên 200 vị nhập môn cầu đạo.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
thường nhắc nhở với bổn đạo: đạo Cao Đài được khai mở cho dân tộc
Việt Nam, cho đất nước Việt Nam, tức là ách nạn của đất nước ta được
mãn. Phải giữ lòng trong sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm gương, hướng dẫn nhơn loại
đến đại đồng, trong tình thương yêu công bằng, giúp đỡ lẫn nhau như con một
nhà. Một dân tộc như thế, lẽ dĩ nhiên phải có đủ đạo hạnh, đủ năng lực để đảm
nhiệm việc hướng dẫn nền văn minh của nhơn loại sau này. Đức Cao Đài Thượng Đế
đã phán dạy:, "Từ đây trong nước Nam duy có một đạo nhà
chân thật là đạo Thầy, Thầy đã đến lập cho các con gọi là Quốc Đạo! Hiểu
à!". Cũng vì danh xứng "Quốc Đạo" mà đức Hộ Pháp đã
long trọng xác nhận: "Nghe tới 2 chữ Quốc Đạo, thật là vô giá, mà
bần đạo tiềm tàng rồi mới hiểu. Khởi điểm biết thương nòi giống, biết thương tổ
quốc, đeo đuổi mất còn với cái điều khao khát từ buổi thanh xuân đó vậy. Bần
đạo tưởng đâu Phạm Công Tắc đã chết đi hồi 35 tuổi, tức là lúc bần đạo tự
nguyện hiến cả thể xác cho Đức Chí Tôn, túc Đức Cao Đài Thượng Đế, làm con tế
vật phụng sự cho nhân loại sau này". Huyền diệu thay! Lời thệ
nguyện đã ứng nghiệm rõ rệt cho cuộc đời hành đạo của đức hộ pháp Phạm công
Tắc. Ngày 17-5-1959, đức Ngài qui thiên trên giường bệnh tại bệnh viện Ca1mette
Phnom Pênh, trong lúc đang lưu vong trên đất nước Cao Miên. Một tuần lễ trước
khi rời khỏi cỏi đời, đức Ngài di ngôn: "xin tạm gởi thi hài (thể
xác) tại nước Cao Miên, để cùng chung chịu cảnh chia đôi của đồng bào 2 miền
Nam-Bắc Việt Nam".
Đức Hộ pháp đã trả lời một
câu hỏi của đức Cao Đài Thượng Đế: "Thầy bảo con làm Lão Tử, hay
Jesus con làm cũng không đặng, làm Thích Ca Mâu Ni cũng không đặng, con chỉ làm
đặng Phạm Công Tắc mà thôi. Con nghĩ rằng bất tài vô đạo đức này, chỉ quyết
theo Thầy không bỏ, những tưởng cũng chẳng ích chi cho Thầy".
Đức Cao Đài Thượng Đế phán
dạy: "Tắc, thoảng như Thầy lấy tính đức Phạm Công Tắc lập giáo, con
nghĩ sao?"
Đức Hộ Pháp bạch: "Nếu
đặng vậy…"
Đức Cao Đài Thượng Đế phán
dạy tiếp: "Thầy đến lập cho nước Việt Nam một nền Quốc
Đạo".
Nghe xong, tâm tư Đức Hộ
Pháp như phiêu lưu lên giữa không trung, nghe nói điều mà mình từng ước mong,
đức Ngài không thể từ chối đặng, bởi 2 chữ Quốc Đạo có nhiều mãnh lực là tôn
giáo Cao Đài thật sự của dân tộc việt Nam và chính người Việt Nam làm chủ. Đồng
thời đức Cao Đài Thượng Đế có ban cho một bài thi:
Từ đây nòi
giống chằng chia ba,
Thầy hiệp các con
lại một nhà.
Nam, Bắc cũng rồi
ra ngoại quốc,
Chủ quyền chơn đạo
một mình Ta.
(1) - Chẳng phải chia nước
Việt Nam: Nam, Trung, Bắc mà chia 3 đạo là: Nho Giáo, Lão Giáo và
Phật Giáo.
(2) - Thầy nắm chủ quyền,
hiệp Tam Giáo tức nhiên nền Chơn Giáo Quốc Đạo, chẳng những của Việt Nam mà
thôi, mà cả nhân loại thế giới.
(3) - Nền đại đạo được
truyền bá Nam, Trung, Bắc thành tướng rồi mới truyền ra ngoại quốc.
(4) - Đức Cao Đài Thượng
Đế vi chủ Đại Đạo, tín ngưỡng qui nhất.
Hội Thánh Cao Đài dự trù
khánh thành Thánh Thất Gò Kén trong vòng 3 ngày, vì khả năng tài chánh có hạn,
không dám mời nhiều khách. Hơn nữa, thực dân Pháp theo dõi cản ngăn lắm chuyện,
nhưng Đại Lễ Khánh Thành mặc nhiên kéo dài trên 3 tháng. Đồng bào, nhân sĩ, trí
thức, báo chí, đủ mọi giai cấp, mọi tín ngưỡng, mọi quan niệm lần hồi kéo về
Thánh Thất Gò Kén để chiêm ngưởng lễ bái đức Cao Đài Thượng Đế, cùng chào mừng
nền tân tôn giáo vừa được khai sáng trên đất nước Việt Nam. Giới nhân sĩ trí
thức nhập môn trên 100.000 người, đã lôi cuốn một số đông đảo đồng bào ở các
tỉnh qui tụ về làm công quả khiến cho thực dân Pháp đâm ra lo sợ vế sự phát
triển quá nhanh chóng của đạo Cao Đài. Do đó vị Chánh Tham Biên Tỉnh Tây Ninh
tìm cách gây áp lực bắt buộc Hòa Thượng Như Nhãn phải đòi chùa Gò Kén lại.
Đồng thời, thực dân Pháp
xúi giục Phật Tử đệ đơn xin cấp bách trục xuất Hội Thánh Cao Đài ra khỏi chùa
Gò Kén, cố tình đẩy số tín đồ này vô tận rừng sâu nước độc, đầy sơn lam chướng
khí, tiêu hao lần hồi với ý đồ thâm độc, triệt hạ các mầm phản loạn có thể xảy
ra sau này. Trước áp lực trục xuất khỏi chùa Gò Kén, Hội Thánh Cao Đài còn đang
băng khoăng, không biết phải dời đi đâu thì đức Cao Đài Thượng Đế và đức Lý
Thái Bạch giáng cơ phán dạy: "Hội Thánh đến Bàu Cà Na, xã Long
Thành (Tây Ninh) tìm mua một vùng đất để xây cất Đền Thánh Cao Đài".
Được sự hướng dẫn quá rõ ràng của Quyền Thiêng Liêng, đức Hộ Pháp cùng Trưởng
Huynh Chánh Phối sư Thái Thơ Thanh và một số chức sắc ngồi xe đến thẳng Bàu Cà
Na, thì được hướng-dẫn để mua phần đất 96 mẫu rừng cấm hoang vu của ông Aspar
bán lại với gía 25.000 đồng.
Đức Lý Thái Bạch giáng cơ
phán dạy: "Ngày nay Lão nhứt định bỏ chùa Gò Kén, vậy thì các con
phải trả lại chùa này, song trước khi trả phải cất Thánh Thất cho xong y như
lời dạy. Chư Đạo Hữu phải hiệp nhau lập cho thành Tòa Thánh. Chi chi
cùng tại Tây Ninh này mà thôi, bởi vì nơi đây rộng rãi, đó là nơi tiếp giao với
ngoại quốc". Hội Thánh liền đề cử Đại Huynh Cao Thượng Phẩm đứng ra
huy động số công thợ và công qủa, tình nguyện chung tâm hiệp trí để cất chòi,
đốn cây, bứng gốc khu rừng cấm 96 mẫu ngày đêm không nghỉ. Với 2 bàn tay trắng,
không một cơ giới, chỉ một quyết tâm cùng nhiệt tình, vỏn vẹn trong vòng 3
tháng, người Tín Hữu Cao Đài đã san bằng khu rừng cấm 96 mẩu hoang vu, nhường
cho ngôi Tòa Thánh tạm từ từ mọc lên. Tuy bằng gỗ, tranh, lá, nhưng ngôi Đền
Thánh có đủ lầu chuông, lầu trống, có Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, có Bát
Quái Đài cao vòi vọi gần bên khu rừng thiên nhiên với lối kiến trúc phi thường
và rất thẩm mỹ, làm cho khách viễn du kinh ngạc trước những công trình do Quyền
Thiêng Liêng hướng dẫn cho đến ngày hoàn thành. Ngôi Đền Thánh Cao Đài tạm được
kiến tạo khang trang cho nhân sanh thờ phượng đức Ngọc Hoàng Thượng Đế trong
một thời gian ngắn ngủi. Đó là do công lao của đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư,
cùng các công thợ, công qủa nhiệt tình, ngày đêm dầm sương, trãi nắng để hoàn
thành đáp ứng nguyện vọng thiết tha của toàn thể Bổn đạo.
Nền Đại Đạo vẫn tiếp tục
truyền bá ở các Tỉnh, và đức Hộ Pháp hướng dẫn, giáo hóa thêm một số chức sắc
có đủ khả năng và tài đức để đi hành đạo các Quận, Tỉnh, luôn cả ở Lào và Cao
Miên. Hân hạnh thay cho dân tộc Việt Nam, vào đêm 16 tháng 10 năm Mậu Thìn
(27-11-1928), Bát Nương Diêu Trì Cung giáng đàn cho đức Hộ Pháp biết là: vào
năm 1914, Trung Quốc có cho Thầy Địa Lý Lỗ Ban, người Triều Châu bí mật đột
nhập vào nước Việt Nam mang theo cây Long Tuyền Kiếm đến tận núi Lan để dùng
phép trù ếm dân tộc Việt Nam, làm cho Nhân Tài Việt Nam không xuất hiện được.
Vì Trung Quốc lo ngại hòn núi Lan nổi lên thì có Trạng, Tướng, Nhân Tài sẽ xuất
hiện ở nước Việt Nam. Đồng thời, Bát Nương Diêu Trì cung hướng dẫn và chỉ
bảo cho đức Hộ Pháp biết rõ phương cách "Hóa giải phép trù
ếm" của Trạng Trung Quốc. Cho đến ngày 27-2-Kỷ Tỵ (26-4-1929),
đức Hộ Pháp và một số chức sắc gồm có: Đại Huynh Khai Pháp Trần Duy Nghĩa,
Trịnh Phong Cương ngồi xe xuống tận Thánh Thất Khổ Hiền Trang, xã Phú Mỹ, quận
Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay là Tỉnh Tiền Giang), hiệp với chức sắc và bổn đạo
tại Khổ Hiền Trang để đi tìm Long Tuyền Kiếm.
Buổi hội thảo về phương
thức đi tìm Long Tuyền Kiếm do sự chỉ dẫn của Bát Nương Diêu Trì Cung, đi đến
kết luận là: thành lập một phái đoàn gồm 36 vị chức sắc, chức việc và bổn đạo
khỏe mạnh, tình nguyện sử dụng 12 chiếc xuồng ba lá. Đoàn tùy tùng có nhị vị
Hiền Huynh Lê Văn Trung và Nguyễn Văn Chưởng (sau này là trưởng ban kinh tài
châu đạo Mỹ Tho, còn ông Lê Văn Trung là Chưởng Quản Phước Thiện nam phái).
Đúng 6 giờ sáng đức Hộ Pháp hướng dẫn cả phái đoàn vào Thánh Thất Khổ Hiền
Trang, bái lễ đức Chí Tôn để trọn tâm khẩn nguyện sự ra đi tìm Long Tuyền Kiếm
được kết quả tốt đẹp. Sau khi dùng điểm tâm xong, đúng 8 giờ sáng ngày 28-2-Kỷ
Tỵ(27-4-1929), đức Hộ Pháp và phái đoàn xuống 12 chiếc xuồng ba lá trực chỉ
theo con sông đi thẳng xuống chợ Thầy Yến rồi đến Láng Cát mới dừng lại. Cả
phái đoàn cùng lên bờ, tự vạch các cây lau, cây sậy, cây bàng tạo thành một con
đường để tiến tới hòn núi Lan vừa mới nổi lên khỏi mặt đất. Người hướng dẫn đi
trước phải cầm một sợi dây luộc dài, để đoàn người đi sau bám lấy lần mò bước
theo chân người đi trước, vì cỏ năng, bàng mọc khỏi đầu người nên không thấy nhau
được. với một khoảng đường độ 700 thước (đường chim bay), mà phái đoàn phải vất
vả vượt qua rất chậm chạp, phải lội qua một con bưng sình lầy, nước phèn trong
vắt, mất cả tiếng đồng hồ phái đoàn mới đi đến gò đất hòn núi Lan. Đức Hộ Pháp
ra lịnh tạm dừng chân nghỉ dưỡng sức, rồi bắt đầu chấp bút, còn cả phái đoàn
thì thành tâm cầu nguyện Thần Linh phò trợ cho phái đoàn sớm tìm được nơi chôn
dấu Long Tuyền Kiếm. Suốt cả giờ đồng hồ, đoàn tùy tùng vô cùng vất vả, tận lực
đào sâu xuống đất, cho đến khi đụng phải phần đá cứng, vẫn quyết tâm đào thủng
đá thì thu lượm được một cái Ghè, như cái bình vôi của mấy người ăn trầu, một
lưỡi dao phai rĩ sét, 6 con cờ tướng làm bằng ngà, và 6 đồng tiền kẻm thuộc đời
vua Minh Mạng, cả phái đoàn hết sức hân hoan phấn khởi, nhất định sẽ tìm cho
được Long Tuyền Kiếm, nên không ai bảo ai, mọi người đều nổ lực đào sâu xuống
thêm, sau cùng thì đụng phải một cái hòm bao chì, bề dài độ 9 tấc. Nỗi vui mừng
không kể xiết, khi cái hòm được đem lên khỏi mặt đất, lau chùi sạch sẽ và đức
Hộ Pháp phán dạy: Long Tuyền Kiếm trong đó, đức Hộ Pháp ra lịnh gói kỹ lại Bằng
vải đỏ để đưa về Tòa Thánh. Đồng thời, đức Hộ Pháp chỉ định cho đoàn tùy tùng
phải cố gắng đào một con kinh từ ngọn Tràm Sập băng ngang chót mũi Long Tuyền
Kiếm cho bứt, đặng trừ tuyệt phép ếm của Thầy Lổ Ban Trung Quốc. Trong lúc đoàn
tùy tùng đang đào kinh, đức Hộ Pháp phán dạy: "Nay là kỷ niệm nước Việt
Nam, dòng giống Lạc Hồng được hữu phước nhờ đạo trời khai mở, gở nạn ách cho
nhân loại và từ từ sẽ gở ách nô lệ cho dân tộc Việt Nam ta. Dòng dõi ta sẽ phục
nghiệp, dân tộc sẽ xuất hiện nhân tài, phá tan xiềng xích chẳng còn bị lệ thuộc
nữa, nếu chậm trễ là do nhân dân Việt Nam ta không biết tôn thờ đức Chí Tôn,
không đủ thương yêu nhau, cứ tranh giành quyền lợi cá nhân. Lại nữa, tổ phụ ta
đã gây ra nợ máu là Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, nay vẫn còn dính dòng máu ấy,
khi nào nợ máu ấy trả dứt rồi thì mới vãn hồi hoà bình, độc lập thật sự được".
(Trích bài hóa giải Long Tuyền Kiếm của chơn nhơn Lê Văn Trung).
Thiết nghĩ trong vòng lệ
thuộc Pháp năm 1929, mà đức Hộ Pháp đã làm một việc phi thường, thế gian hi
hữu, là hướng dẫn một phái đoàn Cao Đài đi tìm Long Tuyền Kiếm tại núi Lan và
long trọng cho biết trước rằng: Dân tộc Việt Nam sẽ có nhiều nhân tài xuất
hiện, từ từ sẽ gỡ ách nô lệ, phá tan xiềng xích, chẳng còn bị lệ thuộc nữa. Lời
tuyên bố của đức Hộ Pháp lúc bấy giờ đã bộc lộ tinh thần ái quốc nồng nàn trước
mũi thực dân Pháp mà không ngần ngại hiểm nguy.
Tháng 6 năm 1927, đức Hộ
Pháp lên đường sang Phnom penh để trợ lực cho hiền huynh Thượng Bảy
Thanh thành lập văn phòng Hội Thánh Ngoại Giao trên đường Lalande De Callan Thủ
Đô Phnom Penh. Chỉ trong vòng 7 tháng hành đạo tại Phnom Penh, đức Hộ Pháp
đã nhiều lần phò loan cho ông Victor Hugo tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn. Sau
này Hội Thánh Ngoại Giao được dẫn dắt dưới quyền điều khiển của đức Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn, và chính Ngài đã độ dẫn đươc một số trí thức tên tuổi trên đất nước
Cao Miên nhập môn vào đạo Cao Đài, gây nhiều sự chú ý của chính phủ Cao Miên
hiện hữu.
Ngày 6-6-1928 tờ nhật báo
Pháp ngữ Les Annales Coloniales có đăng bài của nghị sĩ Edward Neron, hạt
Nauteloire nói về những biến chuyển như sau:"gần đây các Chức sắc Cao
Đài Tòa Thánh Tây Ninh loan tin rằng: sẽ có một ông vua mới cho người Cao Miên
xuất hiện tại Tây Ninh". Tin theo lời đồn đãi, người Cao Miên kéo đến
Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh rất đông đảo, trên 10.000 người.
Ông De La Brosse, Thống
Đốc Nam Kỳ và ông đại diện cho vua Monivong nước Cao Miên, cùng các viên chức
chỉ huy ngành an ninh Nam Kỳ và ngành công an phối hợp đến tận Tòa Thánh Tây
Ninh , ông Thống Đốc mời vị Chức sắc cao cấp nhất là đức Quyền Giáo Tông Thượng
Trung Nhật (Lê văn Trung), buộc Ngài phải đính chánh tin đồn về việc một nhà
vua Cao Miên mới sẽ xuất hiện tại Tây Ninh, và Ngài phải chịu trách nhiệm về
những việc lộn xộn có thể xảy ra. Lịnh truyền được thi hành và không có việc gì
đáng tiếc xảy ra làm rối trật tự.
Đây là thủ đoạn của thực
dân Pháp tại Cao Miên, được biết đức Hộ Pháp mới tới hành đạo, Phổ biến nền đại
đạo chỉ trong một thời gian ngắn mà đã được một số đông trí thức, nhân sĩ tại
thủ đô Phnom Pênh nhập môn vào đạo Cao Đài trên lãnh thổ Cao Miên.
Ngày 1-7-1931, tờ báo Midi
Colonial loan tin: Một nỗi nguy cơ thật sự cho nền trị an ở cõi Đông Dương (Un Véritable danger pour la sécurité de
L'Indochine). Sau đó, ông Emey Oustrey Nghị Sĩ (nguyên Thống Đốc Nam Kỳ), đã
viết bài đăng trên báo Midi Colonial ngày 18-7-1931 như sau: "Không
ưa thích gì đạo Cao Đài, tôi đã để nghị đủ mọi cách, nhưng đến hôm nay thì tôi
có thể nói rằng: Những tài liệu sai lạc cũng qúa đáng cho họ... đó là điều
khiến tôi có thái độ khoan hồng để Tôn Giáo Cao Đài được tự do tín ngưỡng" (nguyên
văn Pháp Ngừ: C'est ce qui m'a determine à leur declarer que j'étais décidé à
reclaimer en leur faveur un régime de liberté pour la Religion qu'ils
pratiquent). Một vị Nghị Sĩ Nam Kỳ của thực dân Pháp lúc bấy giờ như ông Emey
Oustrey mà còn đủ can đảm nhìn nhận việc làm sai lầm của mình trong buổi ban
đầu gây nhiều khó khăn cho Tôn Giáo Cao Đài.
Ngày 25-2-1932, đức Hộ Pháp
để cử một phái đoàn Chức Sắc Cao Đài lên gặp ông Emey Oustrey nhờ can thiệp với
chính phủ Pháp cho đạo Cao Đài được tự do tín ngưỡng đúng theo bài viết của ông
đăng trên báo Midi Colonial ngày 18-7-1931.
Thậm chí lúc bấy giờ thực
dân Pháp còn mưu đồ dàn dựng lên các chi phái khác như: Thông Thiên Đài, Thánh
Thất Đồng Sen, Hòa Đông Thượng, Tỉnh Gò Công gồm những vị: Nguyễn Trung Thăng,
Lê Quang Hộ, Quách văn Nghĩa, Nguyễn Văn Nhã v.v...Họ đã được thực dân Pháp
ngấm ngầm yểm trợ đem về chiếm Tòa Thánh Tây Ninh, cố tình thay thế một ít Chức
sắc Hiệp Thiên Đài, nhưng âm mưu bị chận đứng, kế hoạch bất thành trước sự phản
ứng của Bổn Đạo trong vùng Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh. Hơn nữa, đức Hộ Pháp
có đủ quyền năng bảo thủ Chơn Truyền Luật Pháp của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, không
để cho tà quyền lấn áp, xâm nhập Tòa Thánh Tây Ninh được; bởi có bàn tay thiêng
liêng ngăn chận, những kẻ tham quyền cố vị, và thù hận đều ra ngoài hết. Đức Hộ
Pháp có đủ can đảm san bằng sự thù hận đặng bảo tồn hình thể đức Chí Tôn cho trọn
thương yêu và đủ uy quyền phá tan mọi mưu đồ đưa chi phái về chiếm Tòa Thánh để
phá rối, gây hoang man trong hàng Chức Sắc vùng Thánh Địa Tây Ninh. Ngoài ra,
thực dân Pháp còn ngấm ngầm yểm trợ cho Giáo Sư Nguyễn Phan Long lãnh đạo chi
phái Liên Hòa Tổng Hội về Tòa Thánh Tây Ninh liên hệ với một số chức sắc có
thẩm quyền để triệu tập Hội Vạn Linh vào ngày 11-6-1933 chất vấn và hỏi tội đức
Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhật và đức Hộ Pháp Phạm công Tắc trước sự hiện
diện của những vị:
- Ông Bonvicini, báo Opinion.
- Ông Vabols , báo
Courrier De Saigon.
- Phóng viên báo Đuốc Nhà
Nam.
- Ông Trạng Sư Diệp Văn Kỳ
và Nguyễn Thế Phương.
Những mưu đồ đen tối ấy
chưa kịp xung đột đến chánh giáo của đức Cao Đài Thượng Đế, thì nó đã bị bại
trận bởi Thánh Thể của Ngài có người cầm luật oai nghiêm như đức Hộ Pháp gìn
giữ nên hình được.
Ngày 9-10-Qúy Dậu
(26-11-1933), lại thêm một màn màn kịch xuất hiện, được sự yểm trợ từ bên
ngoài, giáo hữu Thượng Bộ Thanh tiếp tay vận động cho 800 đại biểu "ma" lập
thành Đại Hội Nhân Sinh Bất Thường, với mưu đồ xin vào Đền Thánh lễ bái đức Chí
Tôn để gây rối. Bổn Đạo đã ngăn chận không cho vào Đền Thánh, nên 800 vị đại
biểu "ma" này đành cam chịu qùi ngoài sân lễ bái,
mặc dù nhị vị Lễ Sanh Thượng Thích Thanh và Chánh Trị Sự Nguyễn Văn Hội hết sức
nhiệt tình giúp đỡ mà cánh cửa Đền Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh vẫn khép
kín, không cho "ma hồn" xâm nhập vào có phải chăng
do Thánh Lịnh đề ngày 28-7-1933 của Hội Thánh Cạo Đài Tòa Thánh Tây Ninh ban
hành ngưng quyền chức nhị vị Đầu Sư Thượng Tương Thanh và Ngọc Trang Thanh nên
mới có mưu đồ nẩy sanh ra việc khuấy động ngày 26-11-1933 của Giáo Hữu Thượng
Bộ Thanh. Lễ Sanh Thượng Thích Thanh và Chánh Trị Sự Nguyễn Văn Hội, là những
nạn nhân đáng thương hại, bị bàn tay phù thủy xúi giục mà toàn cả chức sắc và
bổn đạo nơi Thánh Địa Tây Ninh đều am hiểu sâu sắc và tường tận. Đồng thời, lại
thêm một ít chức sắc Hiệp Thiên Đài tự rút lui khỏi Tòa Thánh Tây Ninh trở về
Sàigòn, trong lúc nền Đại Đạo gặp hồi thử thách khó khăn với thực dân Pháp, và nội
bộ chức sắc đang bị phân tán. Nhưng đức Hộ Pháp vẫn điềm nhiên can đảm chịu
đựng, lèo lái thuyền đạo vượt qua sóng gió bão bùng. Đông xung, tây đột, bảo
thủ ngọn cờ Đại Đạo, uy quyền Hội Thánh không hề hấn gì trước mọi áp lực của
các chi phái và thực dân Pháp, đang thẳng tay tiêu trừ Tòa Thánh Tây Ninh bằng
mọi giá. Đức Hộ Pháp xem thường mọi thử thách, điềm nhiên như không có việc gì
xảy ra, trọn tuân hành lịnh của đức Cao Đài, lo kiến tạo ngôi Đền Thánh cho sớm
hoàn thành. Đền Thánh trước kia đã 3 lần tiếp nối xây cất, song đều bị đình trệ
công tác, và đây là lần thứ 4 đức Hộ Pháp tiếp tục kiến tạo.
Trước tiên, đức Hộ Pháp ra
lịnh kêu gọi 500 công thợ và công qủa tình nguyện, đặc biệt là gợi ý cho mọi vị
phải lập tờ "Hồng Thệ" dâng lên Hội Thánh, dù cho thợ mộc, thợ sơn,
thợ hồ và công quả, đồng tình nguyện không lập gia đình "thủ trinh” hầu
được tinh khiết suốt thời gian kiến tạo Đền Thánh. Đức Hộ Pháp cho lịnh khởi
công kiến tạo ngôi Đền Thánh trước sự vui mừng của Hội Thánh và toàn thể Bổn
Đạo Nam Nữ vào ngày 1-11-Bính Tý (14-12-1936). Điểm đáng lưu ý trong công tác
xây cất Đền Thánh là không có ngân khoản dự trù, không có sơ đồ thiết kế, không
kiến trúc sư mà chỉ nhờ đức Lý Thái Bạch giáng bút chỉ dẫn cho đức Hộ Pháp từng
bộ phận, rồi đức Hộ Pháp hướng dẫn lại cho số công Thợ và công Quả, lần hồi xây
cất cho đến ngày hoàn thành. Thật là một việc hi hữu trong công tác xây cất lớn
lao như thế mà chưa chuẩn bị tiền bạc trước, chưa có vật liệu, chỉ có khối đức
tin vững chắc nơi đức Cao Đài Thượng Đế, nên đức Hộ Pháp và Hội Thánh lúc bấy
giờ vấp phải nhiều khó khăn. Hội Thánh cho lịnh Hộ Viện mở tủ xem lại ngân qũy
của đạo còn được bao nhiêu để lo mua vật liệu. Tuân lịnh, Hộ Viện mở tủ ra kiểm
soát lại thì chỉ còn vỏn vẹn có một đồng sáu cắc bốn xu (lđ 64). Hội Thánh phải
làm sao đây với số tiền qúa nhỏ nhoi này? Chẳng còn biết phương cách nào hơn
đức Hộ Pháp phải thân hành đi xuống tận nhà đại tỷ Chánh Phối Sư Lâm Hương
Thanh ở quận Vũng Liêm, tỉnh vĩnh Long để nhờ giúp đỡ cho tạm mượn số tiền về
xây cất Đền Thánh. Đại tỷ Lâm Hương Thanh vui mừng niềm nở tiếp đón đức Hộ
Pháp, đức Hộ Pháp trình bày nguyên nhân việc đến thăm đột ngột này không ngoài
mục đích tạm mượn một số tiền về tiếp tục kiến tạo Đền Thánh. Đại tỷ hướng dẫn
đức Hộ Pháp đi xem những vựa lúa đầy ấp chưa bán được, vì bị khủng khoảng kinh
tế trầm trọng, gía lúa xuống qúa thấp, gía một giạ trước kia là hai đồng hai
(2đ 20), hiện giờ chi bán có hai cắc một giạ (0đ 20), thì làm sao bán được, nên
lúa vẫn còn đầy bồ. Đại Tỷ Lâm Hương Thanh nói với đức Hộ Pháp: "Qua
nói thiệt với em trong mình qua hiện giờ không còn gi hết!". Sau một
lúc suy nghĩ, Đại Tỷ đi thẳng vào phòng, mang ra một cái hòm sắt nhỏ, bên trong
hòm đựng đầy vàng và hột xoàn (đồ nữ trang từ bà cụ cho đến cả thân quyến để
chung trong hòm sắt đó), đưa cho đức Hộ Pháp với lời lẽ nhiệt tình: "Em
đem về cầm đỡ để lấy tiền kiến tạo ngôi Đền Thánh". Nếu đem số đồ nữ
trang vàng và hột xoàn đi cầm thế một nơi nào đó, thì nhất định sẽ có số tiền
một trăm ngàn đồng, đức Hộ Pháp suy nghĩ, đem số nữ trang này đi cầm thì được
rồi, nhưng đến khi chuộc thì biết lấy đâu ra tiền?. Biết có chuộc nổi hay
không?. Nói vậy rồi 2 người cười xòa với nhau, Đại Tỷ để lời khích lệ đức Hộ
Pháp: "Trên có huyền linh đức Chí Tôn, dưới có cả đức tin con cái
của Ngài, Nam cũng thế, Nữ cũng thế, đâu em về cất bường coi, không cần lấy số
đồ nữ trang này, cứ tin tưởng nơi đức Chí Tôn, em cứ tiếp tục xây cất coi có
được hay không?".
Đức Hộ Pháp đành từ giã ra
về với hai bàn tay trắng, song vẫn giữ vững niềm tin nơi đức Chí Tôn, tiếp tục
chỉ bảo công thợ kiến tạo từng bộ phận và không quên nhắc nhở cả Chức Sắc, công
Thợ phải chắt chiu từng đồng, từng cắt, tận dụng từng viên gạch. Nhờ sự cần
kiệm vật liệu, gây thêm niềm tin của Bổn đạo. Nhất là ở các địa phương nhiệt
tình hảo tâm đóng góp công, của, và đồng tâm hiệp trí chung lo kiến tạo ngôi
Đền Thánh, nói lên tinh thần đại đoàn kết, hy sinh tuyệt đối vì Thầy vì Đạo. Cả
Chức sắc và Công Thợ chẳng ngại gian lao, thiếu thốn, cơm chẳng đủ no, phải
cháo rau qua ngày, không một lời than trách, quyết tâm hoàn thành ngôi Đền
Thánh cho nhanh chóng, đáp ứng nguyện vọng thiết tha của nhân sanh đang chờ
đợi.
Thắm thoát 3 năm trôi qua,
công trình kiến tạo Đền Thánh gần xong, thì toàn quyền Pierre Pasquier ra lịnh
hạn chế mọi sự đi lại của người Tín Hữu Cao Đài, không cho cúng kiến, gây bế
tắc việc truyền giáo và khó khăn trong việc xây cất Đền Thánh. Trước những áp
bức bất công của nhà cầm quyền Pháp tại Đông Dương, đức Hộ Pháp và Hội Thánh
gởi đơn khiếu nại thẳng lên ông Georges Mandel, Tổng Trưởng bộ thuộc địa, trình
bày về vấn đề Tôn Giáo Cao Đài bị đàn áp, khủng bố, và yêu cầu ông Tổng Trưởng
quan tâm đến, cho phép đạo Cao Đài được tự do truyền bá, tự do xây cất Đền
Thánh, và tự do cúng kiến với danh hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đơn khiếu nại
của đức Hộ Pháp có trọng lượng đáng kể, được ông Tổng Trưởng Georges Mandel
chuẩn phê, chỉ thị cho Toàn Quyền Đông Dương tại Việt Nam cho Tôn Giáo Cao Đài
được tự do tín ngưỡng. Tuân lịnh của thượng cấp, Toàn Quyền Pierre
Pasquier buộc lòng phải để cho đạo Cao Đài được tự do tín ngưỡng. Song thâm tâm
sâu sắc rất nguy hiểm "thua keo này bày keo khác", cố tâm
diệt đạo Cao Đài cho thỏa lòng tự ái, vì đã bị Tổng Trưởng thuộc địa Georges
Mandel quở trách vì hành động áp chế đạo Cao Đài. Toàn quyền Pierre Pasquier đã
dùng thủ đoạn bí hiểm là tung tiền mua chuộc một ít Nhà Văn bán rẽ lương tâm,
chạy theo danh lợi, không ngần ngại viết láo, vu khống, mạ lỵ, nói xấu Tôn Giáo
Cao Đài, gây luồn dư luận hoàn toàn bất lợi cho Chức Sắc và Bổn Đạo trên toàn
quốc, cố tình làm xáo trộn nội bộ Hội Thánh Cao Đài Toà Thánh Tây Ninh. Ngoài
ra, Toàn Quyền còn bí mật ra lệnh cho thuộc hạ tung tin xuyên tạc, nhằm bôi lọ
thanh danh Chức Sắc Tòa Thánh Tây Ninh một cách quyết liệt, cùng mua chuộc một
ít Chức sắc non lòng nhẹ dạ, vì danh lợi riêng tư và muốn cầu an. Họ đã vu
khống một số Chức sắc làm chánh trị chống Pháp bằng hình thức gom góp một số
tài liệu gọi là liên hệ đến chánh trị, phóng đại lên làm hồ sơ hội kín, và kèm
theo bản phúc trình tố cáo là phản động, hầu xin chánh phủ Pháp Quốc triệt hạ
Tôn Giáo Cao Đài để tránh mọi hiểm họa sau này. Số tài liệu vu khống ấy đã được
Toàn Quyền Pierre Pasquier mang theo mình để đem về tâu trình với chính phủ
Pháp. Chẳng may, chiếc phi cơ chở vợ chồng Toàn Quyền chưa kịp đáp xuống phi trường
Pháp Quốc thì đã bị cháy trên không, cả 2 vợ chồng Toàn Quyền đều bị chết cháy
trên phi cơ cùng với số tài liệu đó. "Mưu sự tại nhân, thành sự
tại thiên" thật là một linh ứng nhãn tiền, hại người trời hại lẽ
nào hơn.
Thiết nghĩ, Tôn Giáo Cao
Đài làm gì nên tội, mà Toàn Quyền Pierre Pasquier lại cố tình trù dập, tiêu
diệt để gánh lấy thảm họa đau thương như thế. Âu cũng là định mệnh, gieo giống
nào nhất định phải gặt giống nấy. Định luật tự nhiên của tạo hóa đã an bày,
không tài nào tránh khỏi. Thực dân Pháp nhìn vào vụ chết của Toàn Quyền làm bài
học kinh nghiệm xử dụng uy quyền.
Ảnh hưởng của 2 thế lực,
bắt buộc người Tín Hữu Cao Đài xa lần Tôn Giáo để khỏi bị khó khăn trong cuộc
mưu sinh hằng ngày, còn Hội Thánh thì không được trọn vẹn liên hệ chặt chẽ với
Bổn Đạo như trước kia, đó là thâm ý của thực dân Pháp áp dụng để phân hóa nền
Đại Đạo, gây xáo trộn nội bộ Chức Sắc Toà Thánh Tây Ninh. Nhưng thực dân Pháp
đã lầm, lầm một cách chua cay. Người Tín Hữu Cao Đài cam chịu ẩn nhẩn sống yên
lặng, bởi họ thừa biết đạo Cao Đài là đạo do Thượng Đế đặt để ra, nhất định
không có một quyền lực nào tiêu diệt được. Nếu khôn ngoan sớm cởi mở những sai
lầm may ra chiếm lại được tình cảm của họ, bằng không thì việc gì đến thì định
sẽ đến.
Đức Hộ Pháp đã can đảm
gánh lấy cả thù hận đặng bảo thủ hình thể đức Chí Tôn tại thế này, thực hiện
trọn vẹn sự thương yêu. Ai lấp lửng chạm đến Ngự Mã Thiên Quân thì rước lấy hậu
qủa không sao tránh khỏi.
Ngày 19-12-1931, Nhật
báo "Progrès Civique" đã khôn khéo nêu lên trang thứ
nhất: "Sau nước Pháp là nước Đức đã tiếp đón đạo Cao Đài một cách
nồng hậu và vì những lý lẽ đó ta không nên đá động họ". Không
phải hành động như thế chỉ là theo nguyên tắc vì lòng nhân đạo và sự tôn trọng
luật pháp nước Pháp, mà cũng vì một lối chánh trị khôn ngoan, bởi vì sự tàn sát
giết hại họ chỉ làm nảy sanh ra một phong trào khác, không kém phần nguy hiểm
hơn.
Nguyên văn Pháp Ngữ: "Après
la France, L'Allemagne a été la premlère à faire un bon accueil au CAODAISME.
Par consequent, il faut les laisser tranquilles, non pas settlement pour le
principe par humanité et par le respect des lois frangaises mais aussi par
sagesse pilitique, parce que leur persécution ne pourrait que faire naitre un
autre mouvement qui, lui, risquerait d'etre dangereux".
Đức Hộ Pháp thường nhắc
nhở Bổn Đạo: "Tôn Giáo Cao Đài không thể làm công cụ, không làm con cờ của
bất cứ một ai. Cái thế của Tôn Giáo Cao Đài phải là cái thế trường tồn, trường
cửu, đứng trên và đứng trước để hưóng dẫn đời, hướng dẫn nhân sanh theo 3 tiêu
chuần: Từ Bi, Bác Ái và Công Bằng.
Biết trước nguy cơ sẽ đến
cho Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh TâyNinh một ngày gần đây, ngày 12-6-Canh Thìn
(16-7-1940), đức Hộ Pháp cho lệnh gọi Huynh Giáo sư Thái Khí Thanh (Lâm Tài
Khí) gốc người Trung Hoa đến tận văn phòng Hộ Pháp Đường để Ngài huấn giáo về
mặt đạo đức và thăng trầm tồn vong của nền Đại Đạo trong tương lai, nhất là
phải ghi nhớ những lời chỉ dẫn quan trọng: "nếu chẳng may Hội
Thánh gặp phải sự biến động, Hiền Đệ nhớ thượng cờ Đạo và cờ Trung Quốc lên các
văn phòng, cùng dinh thự trong nội ô Tòa Thánh. Trong lúc Bần Đạo vắng mặt tại
Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh, Hiền Đệ hãy thay mặt Bần Đạo mà gìn giữ, bảo thủ
sản nghiệp của đạo". Đồng thời, đức Hộ Pháp còn trao cho Hiền
Huynh Giáo Sư một Thánh Lệnh với lời ân cần phán dạy: "khi nào hữu
sự thì Hiền Đệ xuất trình Thánh Lệnh này". Vì biết trước Hội Thánh sẽ
phải gặp nhiều khó khăn, thử thách của nhà đương qụyền thực dân Pháp, nên Ngài
mới chọn Giáo sư Thái Khí Thanh là một chức sắc có đủ tánh nhẫn nhục, chịu đựng
được để vượt qua mọi thử thách, áp đặt của họ. Thật ra lúc bấy giờ Hội Thánh
còn nhiều Chức Sắc cao cấp Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, nhất là trong hàng
phẩm Giáo Sư còn nhiều vị có khả năng, đạo đức, nhưng đức Hộ Pháp lại chọn Hiền
Huynh Giáo Sư Thái Khí Thanh, một chức sắc gốc người Trung Quốc để bổ nhiệm làm
đại diện cho Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, và lại không nhìn nhận Giáo
sư Thượng Vinh Thanh. Âu cũng một sự “tiên đoán” biết trước
việc xảy trong nền Đại Đạo.
Ngày 16-6-1940, Toàn Quyền
Đông Dương Decoux chỉ thị cho thực dân Pháp đóng cửa Tòa Thánh Tây Ninh và các
Thánh Thất Cao Đài trên toàn quốc. Đồng thời tung tin là lính mật thám Pháp sẽ
bắt đức Hộ Pháp, dụng ý của họ lúc bấy giờ là: "dụ hổ ly
sơn", cố tình gây chấn động hoang man cho Bổn Đạo, để thỉnh cầu
đức Hộ Pháp lánh mặt khỏi Tòa Thánh, đi ẩn tránh nơi khác, làm mất đi hậu thuẩn
của Bổn Đạo để dễ dàng xuyên tạc. Vì cảm mến và tôn kính đức Hộ Pháp, có một số
thân hữu trước kia ỏ Sài Gòn và một số Chức sắc đến ngõ lời yêu cầu Ngài nên
tạm lánh mặt một thời gian cho qua cơn sóng gió. Đức Hộ Pháp vui vẻ đáp
lời: "Bần Đạo cám ơn các bạn lo lắng cho Bần Đạo, nhưng Bần Đạo
không thể lánh mặt được. Bần Đạo là kẻ đứng mũi chịu sào, lãnh đạo Hội Thánh
Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, Bần Đạo đủ can đảm chấp nhận và chờ đợi thái độ lẫn
hành động của cường quyền Pháp đối vói Bần Đạo như thế nào cho biết. Đức Chí
Tôn bảo Bần Đạo ngồi nơi đây, ở nơi đây, sống chết vẫn nơi đây, ôm chân Ngài
dầu cho mảnh thân này có phải bị tiêu diệt để bảo trọng nền Quốc Đạo, thì Bần
Đạo cũng không bước ra khỏi đây một bước". Cao qúi thay! với đức tin
vững chắc, tinh thần bất khuất, trong sáng, xem thường mọi hiểm nguy bất luận
từ đâu đến, đức Hộ Pháp vẫn bình tĩnh và thản nhiên như không có chuyện gì xảy
ra vậy.
Sau khi đức Quyền Giáo
Tông Thượng Trung Nhật qui thiên ngày 19-11-1934, biết bao nhiêu chuyện rối rấm
liên tiếp diễn ra trong nội bộ Hội Thánh. Các chi phái dưới sự yểm trợ của thực
dân Pháp, kéo về Toà Thánh áp đảo Hội Thánh đủ mọi mặt, song đức Hộ Pháp vẫn
bình tĩnh lèo lái con thuyền Đại Đạo vượt qua mọi thử thách cho đến ngày Hội
Thánh Cửu Trùng Đài và Hội Vạn Linh đồng yêu cầu đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nắm
quyền Chưỏng Quản Nhị Hữu Hình Đài, Hiệp Thiên và Cửu Trùng ngày mùng 6-11-Giáp
Tuất (12-12-1934), trong thời kỳ nền Đại Đạo đang gặp hồi khó khăn, chức sắc
Hội Thánh bị phân hoá trầm trọng do thực dân Pháp xúi giục và yểm trợ các chi
phái.
Ngày 14-5-Tân Tỵ
(4-6-1941) lính mật thám Pháp xâm nhập nội ô Tòa Thánh Tây Ninh bắt đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc đưa đi an tri tại Djiring. Ngày 17-6-Tân Tỵ (11-7-1941) lính mật
thám Pháp đột nhập nội ô Tòa Thánh lần thứ hai bắt thêm 5 vị Chức sắc cao cấp:
Đại Huynh Khai Pháp Trần Duy Nghĩa, Phối Sư Ngọc Trọng Thanh, Phối Sư Thái Phấn
Thanh, Giáo Sư Thái Gấm Thanh, và Sĩ Tải Đỗ Quang Hiển, cả 5 vị Chức Sắc đều bị
dẫn giải về giam tại SàiGòn. Cho đến ngày 27-7-1941, đức Hộ Pháp và 5 vị Chức
Sắc được đưa xuống tàu cùng 12 Chánh Trị Phạm tại bến cảng Nhà Rồng SàiGòn để
đày sang Madagascar (Phi Châu).
Sau bao ngày đêm trôi nổi
trên biển cả, 18 vị Chánh Trị Phạm Việt Nam được đưa thẳng tới trại giam Noay
Leva Comores thuộc miền bắc Madagascar, khi đến nơi thì gặp thêm 11 vị Chánh
Trị Phạm Việt Nam khác đã bị Pháp đưa đến đây trước một tháng, nâng tổng số tù
Chánh Trị Việt Nam tại Noay Leva Ccoores là 29 vị. Ngoài 6 vị Chức Sắc Cao Đài,
hầu hết thuộc Đảng Viên Cộng sản, trong đó có 2 vị thành phần đệ tứ quốc tế là
Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn Thế Song.
Vị Toàn Quyền Đông Dương
lúc bấy giờ hóng hách tuyên bố: "Chẳng 1ẽ tôi đưa họ vào hàng Thánh
Tử Đạo, thừa cơ hội có chuyến tàu sang Quân Cảng Diogo Saurez của nước
Madagascar, tôi gởi ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc cùng đoàn tùy tùng của ông ta qua
tạm nghỉ suốt đời tại đó". Lời biếm nhẻ ngạo nghễ của người cầm quyền
đã trắng trợn bộc lộ chân tướng chánh sách tiêu diệt những Chức Sắc Cao Đài quá
ư rõ rệt.
Cuộc sinh sống hàng ngày
của 29 vị Chánh Trị Phạm Việt Nam tại trại giam Noay Leva Comores thể hiện tình
người, không phân biệt Đảng Phái, Tôn Giáo, mà chỉ biết nhìn nhau là nạn nhân
của cường quyền Pháp. Tuy nhiên trong hoàn cảnh tù tội mất tự do, tinh thần bị
căng thẳng, nên không sao tránh khỏi những cuộc tranh luận lẫn nhau về Quốc Gia
và Cộng Sản, nhưng mọi sự đều được kết thúc trong tình tương nhượng hoà nhã với
nhau.
Đến cuối năm 1942, tình
hình thế giới biến chuyển, số tù Chánh Trị Việt Nam được lệnh di chuyển về miền
nam Madagascar. Ông Freydier, Trưởng Trại Noay Leva Comores truyền lịnh cho 27
vị Chánh Trị Phạm lên 2 chiếc xe vận tải, có lính hộ tống đưa thẳng về miền nam
Madagascar (tổng số 29 vị Chánh Trị Phạm, chết 2 vị, còn lại 27 vị). Cuộc di
chuyển 27 vị Chánh Trị Phạm từ trại miền bắc về miền nam Madagascar vô cùng vất
vả, ròng rã suốt 5 ngày đêm không nghĩ. Mãi đến ngày thứ 6, sau khi qua một con
phà, 2 chiếc xe chở 27 Chánh Trị Phạm và lính hộ tống mới tới một thung lũng
đồn điền trồng mía và cà phê của một người Pháp, và đoàn xe được dừng lại trước
trại giam Voutrouzou. Trại trưởng Freydier cho lệnh 27 Chánh Trị Phạm Việt Nam
vào trại giam sau bao ngày mệt nhọc di chuyển từ bắc chí nam Madagascar.
Tháng giêng năm 1943,
Trưởng Trại Freydier hướng dẫn đưa một phái đoàn sĩ quan Anh Quốc vào tận trại
giam , thăm hỏi các Chánh Trị Phạm, tiếp xúc với các đảng viên cộng sản rất
thân mật. Kế tiếp được tin một vị Tướng Pháp De Gaulie thành lập chánh phủ lưu
vong và chánh quyền Pháp tại Madagascar chuyển giao cho chánh quyền Anh Quốc
đến thay thế cai trị Madagascar. Ông Freydier Trưởng Trại Voutrouzou bàn giao
trách nhiệm cai quản trại giam cho một Sĩ Quan Anh Quốc, và sự sinh sống của 27
Chánh Trị Phạm Việt Nam được phần dễ dàng thoải mái hơn những năm về trước.
Sau khi nghe tin quân đội
Liên xô đánh bậc Đức Quốc Xã ra khỏi Leningrad, thi chỉ trong vòng 5 tuần lễ
sau, có phái đoàn quân đội đồng minh, do một Sĩ Quan Anh Quốc làm trưởng đoàn
vào trại giam Voutrouzou ân cần tiếp xúc với các Chánh Trị Phạm Việt Nam, Đảng
Viên Cộng Sản anh Lê Giang, Hoàng Hữu Nam, Nguyễn Văn Ngọc, Đinh Công Hoạt,
Hoàng Đình Rồng, và sau cuộc tiếp xúc thân mật này, 4 anh đảng viên cộng sản
được viên sĩ Quan Anh Quốc rước ra khỏi trại giam, để đi học khóa quân sự tại
Calcutta (Ấn Độ). Được nghe lại, sau khi tốt nghiệp khóa quân sự tại Calcutta,
4 anh Đảng viên cộng sản: Lê Giang, Hoàng Hữu Nam, Nguyễn Văn Ngọc và Đinh Công
Hoạt được quân đội đồng minh đưa về Đông Dương vào tháng 9 năm 1944, cả 4 anh
này được cho nhảy dù đột nhập xuống chiến khu thuộc tỉnh Cao Bằng (Miền Bắc
Việt Nam) để liên lạc với nhóm kháng chiến chống Phát Xít Nhật Bổn tại vùng Cao
Bằng để giải thoát số tù binh Pháp còn bị Nhật Bổn giam giữ trong rừng.
Sau này ông Lê Giang được
để cử làm Giám Đốc Công An Nhân Dân đầu tiên của chánh phủ nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa tại Hà Nội năm 1945, và nghe đâu đến năm 1980, ông Lê Giang được
vinh thăng lên tối cao Pháp Viện nước VNDCCH. Riêng phần số Chánh Trị Phạm Việt
Nam còn lại tại trại giam miền nam Madagascar, mãi đến năm 1945, nước
Madagascar được Anh Quốc trao trả chủ quyền độc lập tự do, chánh phủ Madagascar
thông cảm hoàn cảnh tù đày của số Chánh Trị Phạm Việt Nam, nên khoan hồng phóng
thích cho 23 người còn lại được tự do tạm trú sinh sống trên lãnh thổ
Madagascar để chờ ngày hồi hương về cố Quốc. Trong số Chánh Trị Phạm Việt Nam
còn tạm sống trên đất nước Madagascar, đức Hộ Pháp là người chánh quyền
Madagascar chiếu cố và ưu ái nhất, bởi vì trong thời gian còn bị giam tại trại
Voutrouzou, đức Hộ Pháp có sáng kiến giúp đỡ dân bản xứ ở chung quanh trại giam
biết sử dụng cối xay lúa và cối giã gạo, vì dân tộc Madagascar lúc bấy giờ còn
lạc hậu, chỉ biết giọt lúa, chớ chưa biết xay lúa theo phương pháp của người
Việt Nam đã sử dụng từ lâu. Được sự hướng dẫn sử dụng cối xay lúa, đồng bào
Madagascar vô cùng mừng rỡ, và cám ơn đức Hộ Pháp đã nhiệt tình giúp đỡ chỉ dẫn
cho họ biết sử dụng cối giả gạo, làm cho hạt gạo càng trắng thêm, và còn được
thêm một số cám nhuyễn để làm bánh in ăn hàng ngày. Hơn nữa, có một năm bị hạn
hán, các giếng nước đều bị khô cạn, đồng bào Madagascar đang lâm nguy lo lắng,
thì đức Hộ Pháp hướng dẫn lấy nước từ trong khe suối đưa về bằng những ống tre
nối tiếp từ sườn núi chạy về tận thung lũng cho đồng bào có nước dùng, như thế
đồng bào Madagascar được thoát qua cơn hạn hán.
Đồng bào Madagascar từng
sống dưới cảnh lệ thuộc Pháp, rồi Anh Quốc cai trị, nên rất thông cảm cho 23 vị
Chánh Trị Phạm Việt Nam đang tạm sống trên lãnh thổ Madagascar chờ ngày trở về
quê hương. Sau khi chánh phủ Pháp lập bang giao với Madagascar, ông Bộ Trưởng
Ngoại Giao Madagascar liền đề cập với ông Đại Sứ Pháp tại Madagascar về vấn đề
giao trả tự do cho 23 Chánh Trị Phạm Việt Nam mà chánh phủ Pháp đã đưa đến giam
cầm Madagascar vào năm 1941 về Việt Nam càng sớm càng tốt. Nhờ sự nhiệt tình
của ông Bộ Trưởng Ngoại Giao Madagascar, nên ông Đại Sứ Pháp tại đây phải phúc
trình về chánh phủ Pháp tại Paris lo phương tiện di chuyển 23 vị Chánh Trị Phạm
về Việt Nam. Mãi đến giữa năm 1946, mới có một chuyến tàu buôn của Pháp cập bến
Quân Cảng Diego Suarez để rước 23 chánh trị phạm do Đại Sứ Pháp đôn đốc sự
chuyển vận, cùng chào tạm biệt, 23 Chánh Trị Phạm đều xuống tàu trở về Việt Nam
bình yên. Nổi khổ tâm của đức Hộ Pháp lúc bấy giờ là trong 6 vị Chức sắc bị
thực dân Pháp bắt đày qua Madagascar, hôm nay được trở về quê huương xứ sở đoàn
tụ gia đình, mà lại vắng bóng 2 vị Chức sắc là Giáo Sư Thái Gấm Thanh và Sĩ Tải
Đỗ Quang Hiển, đã gởi nấm xương tàn trên lãnh thổ Madagascar, chỉ còn 4 vị Chức
Sắc già nua, ốm yếu, tóc bạc phơ. Khi chiếc tàu buôn vừa cập bến Cap Saint
Jacques Việt Nam (nay là vũng Tàu), thì chánh quyền Pháp tại tỉnh này cho lịnh
rước đức Hộ Pháp lên bờ, còn lại 22 Chánh Trị Phạm thì cho di chuyển qua một
chiếc tàu nhỏ hơn, rồi đưa thẳng vào bến Nhà Rồng Sàigòn.
Sau khi được đưa lên đất
liền, tỉnh lỵ Cap Saint Jacques, đức Hộ Pháp được nhà cầm quyền Pháp lưu giữ
lại 3 ngày, chờ có chuyến phi cơ để đưa về SàiGòn một cách âm thầm, không thông
báo cho Hội Thánh, hoặc người trong gia đình biết. Đến khi chiếc xe hơi chở đức
Hộ Pháp đến tận nhà ông Sĩ Tải Nguyễn Văn Hợi, đường Colonel GriMaud (nay là
đường Cống Quỳnh), đức Hộ Pháp đi thẳng vào nhà thì gặp Hiền Huynh Giáo Sư
Thượng Sách Thanh đang ngồi trong nhà, thình lình nhìn thấy đức Hộ Pháp bước
vào nhà, Giáo Sư Thượng Sách Thanh liền chạy đến ôm chồm lấy đức Hộ Pháp, xúc
động, nghẹn ngào, đổ lụy, không nói ra lời, sau 5 năm 3 tháng 2 ngày xa cách.
Được nghe có tiếng vang động ở nhà trên, ông Sĩ Tải Hợi cùng một số chức sắc ở
nhà dưới liền chạy lên thì gặp ngay đức Hộ Pháp, hết sức vui mừng không sao tả
xiết. Đức Hộ Pháp phải tạm ở lại nhà ông Sĩ Tải Hợi 3 ngày để lo thủ tục trình
báo tại SàiGòn, và sau đó được ông Sĩ Tải Hợi và Giáo sư Thượng Vinh Thanh
(Trần Quang Vinh) đưa về Tòa Thánh Tây Ninh. Đức Hộ Pháp ngồi trên xe của Giáo
sư Thượng Vinh Thanh, còn xe của ông Sĩ Tải Nguyễn Văn Hợi thì chở một số chức
sắc tháp tùng chạy theo đoàn xe hộ tống của quân đội Pháp vừa chạy mở đường, vì
lúc bấy giờ đường lưu thông SàiGòn-Tây Ninh rất khó khăn, thường bị Việt Minh
ngăn chận, nên bắt buộc các loại xe tư nhân phải chờ đến ngày có xe quân đội
Pháp chạy mở đường thì mới chạy theo. Một tuần lễ chỉ có 2 chuyến xe quân đội
Pháp mở đường hộ tống, nên mãi đến ngày 22-6-1946, đức Hộ Pháp mới được đưa về
tới Tòa Thánh Tây Ninh, trước hàng vạn Tín Hữu và Chức Sắc nam nữ, cùng binh sĩ
Cao Đài ngưỡng vọng nghinh tiếp vô cùng trọng thể. Vừa bước chân tới Tòa Thánh
thì đã có sẵn binh sĩ Cao Đài là nỗi bâng khuâng của đức Hộ Pháp trước làn tên
mũi đạn của Việt Minh kháng chiến và quân đội Pháp, và nhất là đồng bào, cũng
như Bổn Đạo Cao Đài đang sống bơ vơ không nơi nương tựa. Đức Hộ Pháp ngậm ngùi
than rằng: "Còn thiếu 1 năm 10 tháng mới may ra giải khổ nạn ách cho
dân tộc Việt Nam chấm dứt được, lẽ dĩ nhiên luật công bình thiêng liêng của tạo
hóa, ta dầu muốn cũng không thể sửa cải được".
Cả Hội Thánh, Chức sắc và
Bổn Đạo làm sao thấu rõ lời "tiên đoán" vận mạng của
nước nhà sau 5 năm 3 tháng 2 ngày bị tù đầy ở Madagascar (Phi Châu), mới trở về
cố quốc đã trở thành hiện thực buổi sau này. Có phải chăng đức Hộ Pháp đã "tiên
đoán báo hiệu" cho Hội Thánh, Chức Sắc và toàn thể Bổn Đạo nam nữ biết
trước rằng: đức Ngài còn phải chịu thêm một lần khổ hạnh nữa, phải lưu vong,
rồi bỏ xác nơi đất khách quê người, cũng như Văn Vương phải chịu thọ nạn khổ
hạnh 7 năm nơi Vũ Lý, đã gầy dựng sự nghiệp nhà Châu buổi nọ. Vào ngày
16-2-1956, đức Hộ Pháp một lần khổ hạnh nữa, tự nguyện lặng lẽ rời khỏi Tổ Đình
Tòa Thánh Tây Ninh cùng với một số Chức Sắc thân tín lưu vong qua nước Cao
Miên, nơi đây Ngài đã đề xướng Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống, dung hòa 2 khối
Cộng Sản và Tư Bản, cả hai đều là con cái của Thượng Đế, phải sớm biết nhau và
tương nhượng nhau trong tình huynh đệ, để rồi đức Hộ Pháp thoát xác qui thiên
ngày 17-5-1959 với lời di ngôn: "Bần đạo cùng chung chịu cảnh chia
đôi của đồng bào 2 miền Nam Bắc Việt Nam, Bần đạo đã tiên liệu rồi, việc phải
đến sẽ đến, nước nhà chưa thống nhất thì gấp gì mà hồi loan. Vậy phải bình tâm
chờ một thời gian nữa sẽ thấy thiên cơ xoay chuyển có lợi cho Việt Thường về
mặt tinh thần".
Đức Hộ Pháp thường nhắc
nhở và phán dạy Bổn Đạo: Ngày nay đức Chí Tôn, đức Thượng Đế tối cao, tối trọng
đến hoằng khai đạo Cao Đài. Nghĩa là đem đến đền thờ cao và đức tin lớn tại thế
này để gây dựng nên nền Đại Đạo, mượn một sắc dân hèn hạ, nhỏ bé ở hướng Á Đông
là Việt Nam cho lời tiên tri "Đạo Xuất Ư Đông", đúng với
Thánh ý chìu lụy, hạ mình của Thầy, lập thành Hội Thánh Cao Đài làm hình thể
của Thầy hầu cầm cho đặng dùi trống lôi âm dục vọng truy hồn, nắm cho chắc chày
chuông Bạch Ngọc đặng trổi hơi định tánh, làm cho con cái Ngài thức tỉnh nhìn
thấy nhau mà trở về quê cũ. Tuy Thầy hạ mình chìu lụy để làm gương cho Hội
Thánh, xét ra quả nhiên thấy rõ ràng Thầy tránh khỏi mang xác thân hèn hạ của
kiếp sanh làm người, đến thế với một thể thống vinh diệu thiêng liêng không
hình mà làm cho chúng ta thấy, không nói mà chúng ta nghe, giao cho chúng ta
giữ trọn quyền hành của Ngài nơi tay mà điều đình mối đạo. Cái oai quyền ấy có
ảnh hưởng cho nền đạo biết là bao, Thầy dùng phép lương tâm, quyền tình ái làm
cho cả nhân loại thấy rõ mặt Thầy, hầu nhìn lẫn nhau trong Thánh Đức của Thầy
mà cộng yêu hòa ái: "Cộng Hòa! Cộng Hòa!" ấy là hai
lời Châu Ngọc của Thầy để vào lòng của mọi người, mình biết cộng hòa
mới làm cho cả xã hội quốc dân cộng hòa, rồi làm gương cho rực rỡ quang
minh, mà truyền bá cả tư tưởng cao thượng ấy cho ra khắp toàn cầu, cho cả
nhân loại đặng cộng hòa đại đồng thế giới. Ấy là phận sự tối cao tối trọng
của Thầy đã phú thác cho chúng ta, nếu chúng ta không xem phận sự ấy trọng
hệ, lại vì công danh, quyền lợi mà thù nghịch lẫn nhau, từ
Thầy phản bạn, thì chúng ta có đáng làm con cái, tôi tớ của Thầy
chăng?
Thầy thì sợ phàm tâm,
tục tánh nên lập luật pháp rất nghiêm để buộc cả Hội Thánh kết hợp lại với
nhau thành một đại gia đình. Luật thì có tân luật, pháp thì có Pháp Chánh
Truyền, Quyền thì có Tòa Tam Giáo, ấy là cái còi, cây gậy, hàng rào thiêng
liêng đang lùa cả đàn chiên của Thầy hợp chung lại với nhau làm một. Nhưng tiếc
thay! Kẻ chăn chiên chẳng biết lóng tiếng còi, đoàn chiên không kiên ghê
cây gậy, hàng rào thưa rịch thưa rang, để đến nỗi bầy sói lũ hùm bắt chiên
Thầy phân thây xé thịt!
Tại Hội Thánh cũng chưa
nên Hội Thánh, chức sắc thiên phong có cũng như không, có bóng không hình, làm
cho thân Thầy không đủ quyền hành mà xoay chuyển thiên thơ (Plan
Divin) hầu đối địch quyết thắng tà mưu nhiều hại. Cả Thánh Ngôn của Thầy dạy dỗ
chúng ta từ buổi khai đạo đến chừ đã hiện thành chơn pháp, tân pháp, mà
ngày nay chúng sanh còn chưa hiểu thấu. Phần nhiều người lạm dụng vào bậc
thiên phong, lấy tà tâm bẻ bai biếm nhẻ, chớ chẳng chịu truyền bá lời lành
làm cho kẻ đạo tâm xiêu đường lạc ngỏ. Nếu cơ đạo dường này thì chúng ta mong
chi tận độ chúng sanh và thành lập thể đạo cho được. Đạo có thể pháp
làm ngoại dung, và bí pháp làm nội dung, mà thể pháp tác thành 10 điều
chẳng đặng 3, còn bí pháp thì chưa ai hiểu thấu. Điều này làm cho đạo
mất giá trị trước mặt chúng sanh, đức tin càng ngày càng khuyết giảm,
để cho các Tôn Giáo khác công kích chánh truyền mà hại cho người
hết lòng vì đạo phải ngại ngại lo lo về điều hư thiệt. Bởi cớ nên
biết bao Tiên, Phật đã giáng trần cùng khắp Thái Tây cho tiên tri về nền
chánh giáo, những người bền vững cần tu mới mong giữ vẹn đức tin nhập
vào cửa đạo. Cơ khảo đạo ngày nay xem quả vậy.
Bần đạo tưởng chúng ta đã
nặng mang trách nhiệm nơi mình, mà nếu chúng ta không có đởm tâm liệu mình
tự xử, thì mong minh đoán cùng ai? Bần đạo nói thẳng rằng, tại nơi lòng
thành yếu ớt của chúng ta không dụng cả công tâm mà điều đình chánh giáo, lại
để nể nể vì vì, làm gương xấu cho kẻ khác, tiếng bua danh, gây phe
đảng, lập tư riêng làm nên thế lực, ngày nay đã có độc lập tự quyền cũng do bởi
đó. Trong mình chúng ta có 2 người: một là Ta, hai là chức sắc thiên phong,
nghĩa là tôi tớ của Thầy, với chúng ta dầu cho tan xương, nát thịt với một
kiếp sống thừa này không chi rằng hại, duy hại là hại cho phận sự thiêng
liêng. Nếu chúng ta không biết cao trọng mà giữ tròn trách nhiệm đặng bảo
thủ cái cơ nghiệp chung của cả nhân sanh, là đạo ngày nay đây thì cái tội
tình trước mắt Thầy tính coi bao lớn?
Vậy thì chúng ta nên chung
công hiệp sức cùng nhau kể từ đây nhất định chẳng cho ai phạm quyền mình,
vì quyền mình là quyền Thầy, dầu cho còn một mặt tín đồ đi nữa thì Hội Thánh
cũng phải giữ quyền Hội Thánh, xúm xích nhau, mạnh yếu, tùy phương bảo thủ, cây
Cờ Đạo của Thầy là Tòa Thánh. Gắng tạc thành sừng sửng tại miền cực đông nơi
Nam Việt này một cái Cao Đài, đặng làm ngọn đèn soi sáng đến cảnh cộng hòa của
toàn thế giới.
Thiết nghĩ đã trên 50 năm
qua, đức Hộ Pháp đã để lời phán dạy: nhắc nhủ toàn cả chức sắc và bổn
đạo nam nữ phải đoàn kết thương yêu, công bằng đối xử lẫn
nhau để dành giữ bảo thủ cơ nghiệp Đại Đạo hôm nay trở thành hiện
thực, và lời tiên đoán của Ngài mãi mãi ghi sâu vào tâm não của mỗi Tín
Hữu đời đời kiếp kiếp ... Mục tiêu chánh yếu của đạo Cao Đài là lo cho
toàn thiên hạ được tự do, hạnh phúc, vì lý do cao cả ấy mà đức Hộ Pháp phải
trọn hy sinh. Vì lẽ bất công đương nhiên mà đức Chí Tôn đã giáng cơ phán
dạy: "Ngày nào còn tồn tại một lẻ bất công trên mặt thế này thì
đạo chưa thành".
Đức Hộ Pháp hằng hướng dẫn
và huấn giáo chức sắc cùng cả Bổn đạo:
I - PHƯƠNG
LUYỆN KỶ ĐẶNG VÀO CON ĐƯỜNG THỨ BA ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
- Phải biết thân
thích cùng cả nhân vật, tức là tìm nguyên do của vạn linh cùng chí linh.
- Phải ân hậu và
khoan hồng.
- Phải thanh nhàn
đừng vị kỷ.
- Phải bình tĩnh,
nghĩa là đừng chịu ảnh hưởng của họa phước buồn vui. Tập tánh không không, điềm
nhiên, vui cũng vui, buồn cũng buồn, nhưng đừng để nọc buồn vui xâm nhập vào
chơn tánh.
- Phải độ lượng khoan
dung tha thứ.
- Phải vui vẻ điều
hòa, tự chủ và quyết đoán.
- Phải giữ linh tâm
làm văn bổn, hiếu hạnh với Chí Tôn và Phật Mẫu.
II - PHƯƠNG PHÁP TRỊ
TÂM VÌ TÂM LÀ HÌNH ANH THIÊN LƯƠNG:
- Đức tin và khôn
ngoan là kho chí bửu.
- Ai đã cố oán kẻ thù
mình thì khó giữ thanh tâm công chánh cho đặng.
- Ai chẳng oán hận
mới thắng được kẻ thù nghịch cùng mình.
- Sự cừu hận là khối
thảm khổ đệ nhất của nhân sanh, nên người hiền thì không biết đến hay
là từ bỏ cừu hận oán ghét.
- Thắng đặng khí nộ
mình thì không chọc ai giận dữ.
- Lấy thiện mà trừ
ác.
- Lấy nhân nghĩa trừ
bạo tàn.
- Lấy lòng quảng đại
mà cởi mở tâm lý hẹp hòi.
- Lấy chánh trừ tà.
- Ấy là
đường thương huệ kiếm.
III - LUYỆN
THÂN LUYỆN TRÍ:
- Ẩm thực tinh khiết.
- Tư tưởng tinh
khiết.
- Tin tưởng mạnh mẽ
nơi Chí Tôn và Phật Mẫu.
- Thượng yêu vô tận.
- Ấy là chìa khóa mở
cửa Bát Quái Đài tại thế này.
Đức Hộ Pháp vì hạnh phúc
của nhân loại mà quyết tâm thực hiện cho kỳ được bác ái,
công bằng, vị tha và đại đồng thế giới. Người Tín Hữu Cao Đài đã trọn
hy sinh xương máu từ thuở khai sinh đạo cho đến bây giờ cũng
chỉ vìmục đích ấy. Muốn cho đạo Cao Đài có giá trị nơi mặt thế này mà đi
chưa tới mục tiêu ấy, tức là công trình cấy lúa trên đá vậy! Trước
hoàn cảnh hổn loạn của đất nước Việt Nam lúc bấy giờ, đồng bào đang tranh tối,
tranh sáng, người Tín Hữu Cao Đài đang sống dưới 2 làn tên mũi đạn của quân đội
Pháp và Việt Minh. Với trọng trách là Hộ Pháp, Chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng, đức Hộ Pháp triệu tập đại hội Nhân Sanh, hầu chấn hưng
nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ và phục quyền Vạn Linh.
Nhân ngày đại lễ vía Đức
Chí Tôn, mùng 9 tháng Giêng năm Đinh Hợi (1947) đức Hộ Pháp long trọng nhắc nhở
Chức sắc và phán dạy Bổn đạo: "Đừng để ngoại bang xâm nhập vào nội
quyền Việt Nam đưa đến cảnh tương tàn, tương sát, và làm một món hàng cho các
cường quốc đổi chác". Thể hiện tấm lòng ưu ái trước bao áp lực, đức Hộ
Pháp để lời phán dạy: "Hồ Chủ Tịch đánh, Bần đạo đòi, kẻ đánh người
đòi, nhất định nước Việt Nam sẽ độc lập, tự do", với chủ trương bất
bạo động "Bất chiến tự nhiên thành" đức Hộ Pháp hằng giải
thích cho Chức Sắc và Bổn Đạo biết rõ đường lối bất bạo động chủ trương có điểm
đặc biệt là không chọc tức một ai! (Đường lối bất bạo động của Thánh Gandhi
trước kia, đôi khi còn gây bực tức cho người Anh.) Người Tín Hữu Cao Đài mãi
ghi nhớ lời phán dạy của đức Hộ Pháp: "Bần đạo lúc nào cũng không
muốn giải quyết vận mạng nước nhà bằng quân lực, mà phải dùng phương pháp đạo
đức đặng đem hòa bình hạnh phúc lại cho giống nòi".
Xét thấy sơ ước 6-3-1946
ký kết giữa Hồ Chủ Tịch và Sainteny thì chánh phủ Pháp không thật tâm giải
quyết vấn đề Việt Nam trên bàn Hội Nghị, thay vì chánh phủ Pháp phải hội đàm
với phái đoàn chánh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Hồ Chí Minh dẫn đầu diễn
ra tại Paris, nhưng chánh phủ Pháp lại né tránh đưa Hội Nghị về Foutainebleau
để thảo luận, và hiệp định Foutainebleau được ký kết ngày 14-9-1946 giữa Tổng
Trưởng bộ ngoại giao M. Marius Noutet và Hồ Chí Minh Chánh Phủ Việt Nam Dân Chủ
cộng Hòa. Tiếp theo là chánh phủ Pháp chỉ thị cho quân đội Pháp tại Việt Nam
tấn công "đánh chiếm" Hải Phòng ngày 20-11-1946, gây cảnh tang
tóc cho đồng bào Việt Nam. Mãi đến ngày 19-12-1946, đúng 8 giờ sáng, tiếng súng
tổng tấn công của Việt Minh mới bắt đầu nổ trên toàn quốc. Bao thảm trạng
thương tâm đã đến với đồng bào và bổn đạo Cao Đài, gánh lấy sự trả quả vô cùng
tàn bạo của quân Pháp lúc bấy giờ, và lệnh "tiêu thổ kháng chiến"
đã ban hành.
Không thể ngồi yên trước
làn tên mũi đạn của Pháp và Việt Minh kháng chiến, đức Hộ Pháp có văn thư gởi
đến cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh xin cứu xét lại lệnh "tiêu thổ kháng
chiến" bởi bên Trung Quốc người đông đất rộng có thể áp dụng được, còn
nước Việt Nam quá nhỏ bé! Ngày 12-8-Đinh Hợi (1947) đức Hộ Pháp đến viếng thăm
trường Qui Thiện (Trí Giác Cung) do Hiền Huynh Đinh Công Trứ làm chủ trưởng,
nhìn thấy trường Qui Thiện thượng lá cờ trắng (bạch kỳ) đức Hộ Pháp liền giải
thích cho Hiền Huynh Đinh Công Trứ biết rõ ý nghĩa cà bạch kỳ "về ý
nghĩa của lá cờ trắng là biểu tượng cho Hòa Bình, nhưng lá cờ trắng chỉ dùng
khi nòi giống trong nước xô xác nhau, cốt nhục tương tàn khốc liệt, vô phương
cứu chửa, thì ngày ấy mới đúng ý nghĩa của nó".
Đức Hộ Pháp nhắc lại lịch
sử thuyết Nhan Hồi, tức ông Nhan Uyên, học trò của đức Khổng Phu Tử trước kia,
để cho Hiền Huynh chủ trưởng trường Qui Thiện hiểu rõ thêm giá trị của lá cờ
trắng, (và lá cờ trắng tại trường Qui Thiện được hạ xuống). Cầm bạch kỳ xông
pha ra giữa chiến trường để giải thích cho đôi bên nghe, và hiểu điều hơn lẽ
thiệt, giúp cho đôi bên thấu triệt đạo nghĩa, hầu lui binh, tránh cho nhân sanh
khỏi thảm họa tiêu diệt lẫn nhau. Đó là chủ thuyết của Thầy Nhan Hồi mà đức Hộ
Pháp vừa sơ lược "sử tích" để chỉ dẫn cho Hiền Huynh Đinh Công
Trứ, chủ trưởng trường Qui Thiện, và cũng là một sự tiên ứng sau này. Đó là sau
khi Hiệp Định Génève 20-7-1954 không được tôn trọng, đức Hộ Pháp đề xướng Bản
Cương Lĩnh Chính sách Hòa Bình Chung sống ngày 26-3-1956. Chỉ định cho Trung Tá
Lê Văn Thoại (nay là Hữu Phan Quân HTĐ) hướng đưa một phái đoàn mang bạch kỳ
(cờ trắng) ra tận nhịp cầu thứ 2 của cây cầu Hiền Lương (Bến Hải) thuộc vĩ
tuyến 17, là nơi ranh giới chia đôi Nam-Bắc Việt Nam, để thượng bạch Kỳ lên,
hầu kêu gọi chánh phủ 2 miền Nam-Bắc đừng "tuân lịnh" ngoại
bang xúi giục, mà gây cuộc tương tàn, nồi da xáo thịt, như thảm họa Chúa Nguyễn
- Trịnh phân tranh trước kia vậy. Ngày 17-1-1949, đức Hộ Pháp có văn thư số:
115/HP-TTVP. gởi cho Thượng Sứ Pháp tại Đông Dương và Đại Tướng Blaizot, Tổng
Tư Lịnh Quân Đội Pháp tại Viễn Đông biết rõ về đường lối trung lập của Tôn Giáo
Cao Đài. Nội dung văn thư viết ...... sự hiện diện những tổ chức Quân Bị Cao
Đài chúng tôi đã đến giai đoạn không cần thiết nữa, chúng tôi sẽ đứng Trung
Lập, và đó là lập trường sau này của chúng tôi. Chúng tôi để cho nhà binh Pháp
tự do định liệu ngày giờ chúng tôi giao hồi khí giới, ước mong được sớm ngày
nào tốt ngày nấy. Còn đối với Việt Minh kháng chiến thì thuộc về nội bộ người
Việt Nam chúng tôi tự giải quyết cùng nhau......
Vì lòng ái quốc thương
sanh, vì sự tồn vong của tổ quốc và giống nòi, đức Hộ Pháp không thể điềm nhiên
để cho ngoại bang mưu đồ áp đặt dày xéo đồng bào, nên sau khi nghe tin Pháp và
Việt Minh ký hiệp ước chia đôi Hoàng Đồ Việt Nam tại bàn hội nghị Génève 1954,
lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Đức Hộ Pháp liền gởi một bức thư không niêm cho
cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh, trình bày ý kiến và cho biết giống nòi Việt Nam không
thể chia đôi, toàn cả Quốc Dân không chịu cuộc nội chiến do Ngoại Bang áp đặt,
như nội chiến giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn thuở trước. Với trọng trách của
đức Cao Đài Thượng Đế giao phó, đức Hộ Pháp có sứ mạng đặc biệt là làm thế nào
giải ách lệ thuộc cho nòi giống, và bảo thủ Hoàng Đồ Việt Nam.
Đức Hộ Pháp biết trước mưu
đồ của Ngoại Bang muốn áp đặt chia đôi đất nước Việt Nam nên vào đêm rằm tháng
4 năm Giáp Ngọ (17-5-1954) đứng trước Giảng Đài Đền Thánh, đức Hộ Pháp can đảm
nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn cả Chức Sắc và Bổn Đạo làm một Giáo Sư hòa giải
2 khối Cộng sản và Tư Bản đang tranh giành quyền bá chủ, thề không đội trời
chung, kẻ mất người còn. Đức Hộ Pháp có điện văn "phản kháng" gởi
cho Tứ Cường tại Hội Nghị Génève đủ chứng tỏ lòng thiết tha yêu nước, yêu chủng
tộc của một vị lãnh đạo Tôn Giáo, một đấng cứu thế kỳ ba đầy lòng bác ái, nhiệt
tình lo phương cứu khổ cho nhân loại nói chung, cho nòi giống Việt Nam nói
riêng. Kể ra chủ thuyết Trung Lập Việt Nam lúc bấy giờ do Tôn Giáo Cao Đài đề
xướng không phải là một việc đơn giản đối với chánh quyền Pháp đang triệt để
chống Cộng Sản.
Thiết nghĩ vào đầu năm
1949, đức Hộ Pháp đã có văn thư chánh thức bày tỏ cho Thống Sứ Pháp và Đại
Tướng Blaizot biết rõ đường lối Trung Lập của đạo Cao Đài sau này, cùng giao
trả vũ khí của Binh Sĩ Cao Đài sớm ngày nào tốt ngày nấy. Chứng tỏ lập trường
Trung Lập cố hữu của Tôn Giáo Cao Đài, cũng là một hành động không kém phần
nguy hiểm.
Được tin Pháp và Việt Minh
bị áp lực phải tuân lệnh của Ngoại Bang chia đôi nước Việt Nam tại bàn hội nghị
Génève, đức Hộ Pháp liền gởi cho Tứ Cường tại hội nghị Génève 1954 một bức điện
văn "phản kháng" Ngoại Bang xâm nhập chủ quyền Việt
Nam, cố tình áp đặt chia đôi nước Việt Nam. Trước khi gởi bức điện văn "phản
kháng" tới Tứ Cường, đức Hộ Pháp có nhã ý yêu cầu Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm đồng ký tên trong bản điện văn, nhưng Thủ Tướng Ngô Đình Diệm hồi đáp
đức Hộ Pháp bằng một văn thư, là xin đức Hộ Pháp tự ký tên đặng gởi đi, chứ
người không thể ký tên chung vào một điện văn với đức Hộ Pháp được.
Người tín hữu Cao Đài làm
sao quên được lời tiên đoán phán dạy của đức Hộ Pháp. "Đức Chí Tôn
đến lập một nền Chánh Đạo này tại cõi Đông Dương là cốt làm cho kẻ bị hiếp đáp
được mạnh mẽ, kẻ hiền lương sẽ làm Thầy kẻ hung dữ, ấy là công bằng thiêng
liêng của tạo hóa. Phải giữ đạo đức cho bền, còn sự chi nghịch với chơn đạo là
mưu chước của Tà Quái. Hết phạt đến thưởng là thường lệ. Đức Chí Tôn đã cho họ
hưởng cái quả mà họ đã có công gieo trồng và vun xới, khi hiểu rồi thì phạt là
thưởng, thưởng là phạt. Tóm lại, chỉ là định luật, có công gieo cái gi thì được
hưởng cái nấy".
Xã hội đại đồng không phải
là ảo tưởng, chắc chắn phải được hình thành, được xây dựng nên bằng ý chí của
Thượng Đế, không phải bằng vũ khí, bạo lực, sắc máu, mà nhờ sự hiểu biết, nhờ
trình độ tiến hóa, đạo đức và tinh thần đại đồng của con người. Tất cả từ cội
nguồn Phật, Chúa, Lão, Khổng, hay các Giáo Chủ khác đều được Thượng Đế giao sứ
mạng xuống thế vào những thời kỳ khác nhau, ở những địa phương khác nhau để
hoằng hóa mối đạo, mở trí khai tâm cho các sắc dân trên mặt địa cầu biết điều
thiện lành, đạo đức, hầu tiến hóa trở về với Thượng Đế, bởi các đấng đã giáng trần
khắp cả hoàn cầu. Hơn nữa là vào năm 1926, đức Chí Tôn đã giáng cơ chỉ
dạy: "Chẳng những ngày hôm nay Thầy mới đến với các con, dân tộc
Việt Nam nhỏ bé, mà Thầy đã cho nhiều chơn linh xuống thế, ngày nào được nghe
tiếng còi thì các Chơn linh ấy sẽ về qui hiệp cùng Thầy".
Kỷ Nguyên Thánh Đức là
ngươn của thế giới đại đồng, xã hội này được dựng lên bởi con người biết yêu
thương kính trọng nhau, xem nhau như huynh đệ, không còn phân biệt màu da,
chủng tộc, tôn giáo, giai cấp. Con người của xã hội này phải có trình độ cao về
đạo đức tinh thần và lòng từ bi bác ái.
Với Tôn Giáo Cao Đài, hòa
là tôn chỉ, chiến là mục tiêu phải sang bằng, nên đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
thường nhắc nhở Chức Sắc và Bổn Đạo nam nữ phải nêu cao ngọn cờ cứu khổ "bất
chiến tự nhiên thành". Ngày nào Hội Thánh nam nữ còn tưởng nhớ
đến Bần Đạo, thì Bần Đạo chỉ xin một điều là hợp sức với nhau chung lo gìn giữ
tất cả các cơ quan chánh trị đạo để cùng nhau chuyển thế. Lời phán dạy đó phải
chăng là một sự tiên đoán vận mạng nền Đại Đạo sau này? Nhưng than ôi! Hội
Thánh không ra Hội Thánh! Vài chiếc áo Cửu Trùng làm sao cứu nỗi đại nạn này.
Ngày 18 tháng 4 năm Giáp
Ngọ (20-5-1954) đức Hộ Pháp hướng dẫn một phái đoàn chức sắc Hội Thánh Cao Đài
Tòa Thánh Tây Ninh rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhất (SàiGòn) vào lúc 9 giờ sáng
lên đường đi Paris để hội kiến với Tổng Thống Pháp René Coty tại điện Elysées.
Phái đoàn Hội Thánh Cao Đài đến Paris tạm nghĩ tại Hotel Georges V., nơi đây
đức Hộ Pháp đã tiếp kiến với nhiều chánh khách Việt, Pháp đến vấn an trong tình
thân mật thông cảm lẫn nhau. Vào lúc 14 giờ ngày 24-5-1954, Thủ Tướng Laniel
tiếp kiến và hội đàm thân mật với đức Hộ Pháp tại điện Matignon (Paris).
Vào lúc 15 giờ ngày
27-5-1954, ông Bộ Trưởng Mecheri thay mặt Tổng Thống Pháp Réne Coty đến tận Hotel
Georges V. chào mừng xã giao đức Hộ Pháp và chuyển đệ lời mời của Tổng Thống
là: đúng 18 giờ 30' ngày 28-5-1954 Tổng Thống Réne Coty sẽ tiếp kiến đức Hộ
Pháp tại điện Elysóes.
Chiều đến, đức Hộ Pháp và
phái đoàn tùy tùng rời Hotel Georges V., lên xe đến thẳng điện Elysées, được
ông Bộ Trưởng Mecheri tiếp đón (theo nghi lễ Quốc Khách) nồng hậu và mời đức Hộ
Pháp cùng phái đoàn vào sảnh đường điện Elysées.
Đồng hồ trên tường vừa
thánh thót đồ báo hiệu 18 giờ 30' thì Tổng Thống Réne Coty bước ra phòng khách
bắt tay chào mừng đức Hộ Pháp và phái đoàn tùy tùng. Đồng thời Tổng Thống cho
mời các cộng sự viên tại Tổng Thống Phủ đến chào mừng đức Hộ Pháp và tự giới
thiệu từng cộng sự viên với phái đoàn Chức Sắc.
Cuộc hội đàm rất thân mật,
Tổng Thống Réne Coty có hứa lời với đức Hộ Pháp là sẽ hội kiến với Thủ Tướng
Lanniel để sớm ký kết hiệp ước Pháp-Việt, trao trả chủ quyền Độc Lập cho Quốc
Gia Việt Nam.
Sau buổi hội kiến và đàm
đạo trong tình thân mật, Tổng Thống mời đức Hộ Pháp và phái đoàn bước sang
phòng tiệc tiếp tân dùng bửa cơm chay. Buổi cơm chay tại Tổng Thống Phủ rất đậm
đà thân thiết Pháp-Việt kéo dài trên một tiếng đồng hồ, và cũng là cơ hội duy
nhất để Tổng Thống Réne Coty biết rõ thêm về Tôn Giáo Cao Đài, một Tôn Giáo
được khai sáng trên đất nước Việt Nam vào năm 1926.
Mặc dầu đã được Tổng Thống
nhắc nhở, nhưng Thủ Tướng Laniel vô cùng tế nhị, khéo léo trì huởn, chờ cho đến
ngày mùng 5 tháng 5 năm giáp Ngọ (4-6-1954) là ngày sinh nhật đức Hộ Pháp, Thủ
Tưóng Laniel mới ký kết 2 hiệp ước trao trả chủ quyền độc lập cho quốc gia Việt
Nam với Thủ Tướng Bửu Lộc, chánh phủ Cộng Hòa Việt Nam.
Đúng 19 giờ đêm 4-6-1954,
các quan khách Pháp, Việt lần lượt đến dự lễ sinh nhật đức Hộ Pháp được tổ chức
tại Hotel Georges V. Thủ Tướng Laniel trình bày cho đức Hộ Pháp rõ là ông ta đã
ký kết xong 2 bản hiệp ước trao trả chủ quyền cho quốc gia Việt Nam, đúng như
lời Tổng Thống René Coty đã hứa hẹn với đức Hộ Pháp tại điện Elysées 28-5-1954.
Và bày tỏ với đức Hộ Pháp: sở dĩ việc ký hiệp ước trao trả chủ quyền cho quốc
gia Việt Nam có phần chậm trể đến hôm nay là vì chánh phủ Pháp muốn làm món
"quà kỷ niệm" chào mừng ngày sinh nhật của đức Hộ Pháp, một
phương cách ngoại giao của chánh phủ Pháp vô cùng tế nhị đối với vị lãnh đạo
Tôn Giáo Cao Đài, một đối tượng đáng ngại với chủ thuyết "Bất
chiến tự nhiên thành".
Trước bối cảnh chánh trị
của nước Việt Nam lúc bấy giờ vô cùng đen tối, ngoại bang định chia đôi nước
Việt Nam trên bàn hội nghị Génève, đức Hộ Pháp biết rõ là Mỹ sẽ thay chân Pháp
và đang còn thương lượng dàn xếp cho Ngô Đình Diệm thay thế Thủ Tướng Bửu Lộc,
mà Đại Tá Edward Lansdale (Mỹ sẽ là cố vấn cho Ngô Đình Diệm sau này) đã nhận
được chỉ thị mật, cần nhanh chóng chận đứng mọi ý đồ của Pháp tại Việt Nam, Ngô
Đình Diệm sẽ về SàiGòn ngày 25-6-1954. Còn đang viếng thăm các cung điện tại
Thủ Đô Paris, được tin ngoại bang định áp đặt chia đôi nước Việt Nam.trên bàn
hội nghị Génève 1954, đức Hộ Pháp lo âu về nỗi thống khổ của một dân tộc đã
từng bị chia đôi lãnh thổ Nam-Bắc giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, nên đức Hộ
Pháp và phái đoàn tùy tùng lên 2 chiếc xe Simca rời khỏi Paris, trực chỉ Génève
để biết rõ thiệt hư. Khi xe của phái đoàn vừa tới ranh giới địa phận nước Thụy
Sĩ, thì đã có sẵn anh Nguyễn An Mỹ (con trai cụ Nguyễn An Ninh) túc trực tiếp
đón đức Hộ Pháp và phái đoàn, cùng hướng dẫn đưa về Hotel Régina. Riêng anh
Nguyễn An Mỹ thì từ giả phái đoàn trở về trụ sở Versoix báo cáo.
Chỉ trong vòng một tiếng
đồng hồ thì anh Nguyễn An Mỳ hướng dẫn ông Trần Thanh Hà, Tổng Thư ký liên lạc
của phái đòan chánh phủ VNDCCH đến Hotel Régina chào mừng đức Hộ Pháp, và
chuyển lời kính mời đức Hộ Pháp và phái đoàn đến trụ sở Versoix.
Theo lời mời của ông Trần
Thanh Hà, Đại huynh Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa đến trụ sở Versoix được sự tiếp đón của
Thiếu Tướng Thanh sơn (tức Nguyễn Văn Tây, một thành viên quân sự trong phái
đoàn chánh phủ VNDCCH.) trước sự hiện diện của Luật Sư Phan Anh, Bác Sĩ Lê Văn
Chánh. Một cuộc gặp gỡ hi hữu của Thiếu Tướng Thanh Sơn và Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa
sau bao năm xa cách từ năm 1945 tại chiến khu Châu Đốc, Miền Tây Nam Bộ, hôm
nay tình cờ lại được hội ngộ với nhau trên đất khách quê người, Thiếu Tướng
Thanh Sơn và Đại Huynh Bảo Đạo vô cùng xúc động, ôm choàng lấy nhau thắm thiết
và không cầm được hai hàng giọt lệ tự nhiên lăng chảy...
Không phải ngẩu nhiên mà
đã có nhiều phiên họp thảo luận tiếp xúc giữa 2 phái đoàn: Chánh Phủ VNDCCH. và
phái đoàn Cao Đài từ đêm 28-6-1954, do Luật sư Phan Anh và Đại Huynh Bảo Đạo
làm trưởng phái đoàn, những phiên họp này do ông Trần Thanh Hà và Nguyễn An Mỹ
khéo léo cho xe trực đón phái đoàn Cao Đài tại công viên La Perle Du Lac để đưa
đến trụ sở Versoix dự các phiên họp, tránh sự theo dõi của Công An ngầm Thụy
sĩ.
Phái đoàn Cao Đài và phái
đoàn VNDCCH đã trải qua nhiều buổi họp sôi nổi kể từ ngày 28-6-1954 liên tiếp
cho đến ngày 5-7-1954, tuy nhiên vẫn chưa hé mở điểm then chốt là việc phái
đoàn VNDCCH, Hà Nội chỉ thảo luận với chủ nhân ông của Miền Nam lúc bấy giờ là
Pháp, chớ không biết tới sự hiện diện của Bác sĩ Trần Văn Độ, Trưởng phái đoàn
Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa, SàiGòn. vì thế mà suốt một tuần lễ liên tiếp "hội
đàm" giữa 2 phái đoàn VNDCCH và phái đoàn Cao Đài không đạt được
kết quả mong muốn. Đức Hộ Pháp chỉ định cho Luật sư Trần Văn Tuyến và Đại Tá
Phạm Xuân Thái tìm chọn một nhà hàng sang trọng, để mời phái đoàn VNDCCH dùng
một buổi cơm thân mật để đáp lễ lại phái đoàn Hà Nội trong những phiên họp vừa
qua tại trụ sở Versoix đã đài thọ cho phái đoàn Cao Đài.
Ông Trần Thanh Hà Tổng Thư
Ký liên lạc của phái đoàn VNDCCH đến Hotel Régina xin diện kiến đức Hộ Pháp,
trình bày cho biết là Thủ Tướng Phạm Văn Đồng và phái đoàn VNDCCH không thuận
tiện đến dự buổi cơm ngoài trụ sở Versoix xin đức Hộ Pháp thông cảm và xin
chuyển đệ lời của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng mời đức Hộ Pháp đến dự buổi cơm thân
mật với Thủ Tướng tại trụ sở Versoix. Đức Hộ Pháp tỏ lời cám ơn, và xin từ
khước dùng cơm, nhưng chấp nhận đến hội kiến với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng vào
lúc 19 giờ đêm 5-7-1954 tại trụ sà Versoix (Hotel Le cèdre, do chánh phủ Thụy
sĩ dành riêng cho phái đoàn Hà Nội).
Để tránh sự dòm ngó và
theo dõi của công An đặc biệt Thụy Sĩ, đức Hộ Pháp và đoàn tùy tùng lên xe song
mã tại Hotel Régina đến công viên La Perle Du Lac, thi đã sẵn có 2 chiếc xe du
lịch của anh Trần Thanh Hà và cậu Nguyễn An Mỹ túc trực đón tiếp lên xe trực
chỉ đến trụ sở Versoix. Hai chiếc xe vừa ngừng trước trụ sở Versoix vào lúc 21
giờ đêm 5-7-1954, thì mưa bắt đầu rơi hột, nhưng từ bên trong trụ sở Thủ Tướng
Phạm Văn Đồng và phái đoàn Chánh Phủ Hà Nội ra tận xe chào mừng thân mật. Thủ
Tướng Phạm Văn Đồng ôm choàng đức Hộ Pháp và hướng dẫn cả phái đoàn vào phòng
khách trụ sở Versoix. Thủ Tướng Phạm Văn Đồng ngồi chung với đức Hộ Pháp trên
một cái ghế dài, ngay bức chân dung của Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Ông luật sư Phan
Anh ngồi bên cạnh phía tay mặt của đức Hộ Pháp, ông Việt Phương ngồi lấy tốc ký
và biên bản sau lưng luật sư Phan Anh. Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước, ngồi bên
cạnh tay trái của Thủ Tướng Phạm Văn Đồng. Ngồi vòng quanh đối diện ghế của Thủ
Tướng và đức Hộ Pháp gồm có qúi ông: Trần Công Tường, Bộ Trưởng công thương,
Bác sĩ Lê Văn Chánh, Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa, ông Trần Thanh Hà, Nguyễn An Mỹ,
Đại Tá Phạm Xuân Thái, Luật Sư Trần Văn Tuyên (sau này là phó Thủ Tướng Miền
Nam).
Mở đầu buổi họp, đức Hộ
Pháp nói: "Đồng bào rất biết ơn công kháng chiến của Việt Minh,
nhưng vấn để giải phóng Việt Nam phải cho trọn vẹn, không thể đuổi Pháp đi, rồi
rước Tàu, Nga vào cũng như tháo bỏ cái gông, rồi mang cái cùm vào. Toàn dân sẽ
phán đoán!" Thủ Tướng Phạm văn Đồng đáp lời: "Chúng
tôi biết rất rõ điều ấy và không bao giờ có thể xảy ra được" và
Đức Hộ Pháp cũng trình bày rõ với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng rằng: "người
Pháp không thể ở mãi tại Việt Nam để thi hành hiệp định Génève được, người Mỹ
sẽ thay chân người Pháp, thì dù sao chánh phủ Miền Nam do Bác sĩ Trần Văn Độ
làm trưởng đoàn, cũng là một thực thể của chánh quyền Miền Nam lúc bấy giờ, vấn
đề Việt Nam phải do người Việt Nam quyết định. Hai chánh phủ Nam-Bắc Việt Nam
cần bàn bạc thào luận cùng nhau tốt hơn là trực tiếp hội đàm với phái đoàn
Pháp". Đó là lời đức Hộ Pháp ân cần trình bày lẽ thiệt hư, bất lợi cho
đồng bào, chủng tộc với Thủ Tướng Phạm Văn Đồng và phái đoàn chánh phủ Miền Bắc
tại Génève đêm 5-7-1954.
Buổi hội thảo tiếp diễn
trong bầu không khí cởi mở. Trước khi bế mạc, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng mời đức
Hộ Pháp và phái đoàn Hội Thánh Cao Đài sang phòng kế bên dùng tiệc cháo chay và
bánh ngọt. Trong buổi tiệc thân mật đức Hộ Pháp có nói với Thủ Tướng: "Bần
Đạo đã cho xây cất xong một phủ thờ Tông Đường họ Phạm ở Tòa Thánh Tây Ninh,
chừng yên rồi ông nhớ về đó!" Thủ Tướng tươi cười đáp lời: "dạ,
chừng đó tôi sẽ về".
Trước khi đức Hộ Pháp và
phái đoàn kiếu từ ra về, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng còn ôm hôn đức Hộ Pháp đầy
tình thân mật đậm đà. Phái đoàn chào từ biệt lên xe rời khỏi trụ sở Versoix về
tới Hotel Régina gần 24 giờ.
Đúng 9 giờ sáng ngày
6-7-1954, ông phó phái đoàn Pháp tại hội nghị Génève đến viếng thăm đức Hộ Pháp
tại Hotel Régina, suốt một tiếng đồng hồ đàm đạo, và chuyển lời của ông Chevaul
Trưởng phái đoàn Pháp kính mời đức Hộ Pháp và phái đoàn Cao Đài vào lúc 12 giờ
cùng ngày đến dùng buổi cơm chay. Theo lời mời, đức Hộ Pháp và phái đoàn được
ông Chevaul tiếp đón vô cùng thân mật, nên đức Hộ Pháp thố lộ cho ông Chevaul
biết: "Hồi đêm hôm tôi có hội kiến với Thủ Tướng Phạm văn Đồng
trong tinh thần hiểu biết và cởi mở tốt đẹp". Đồng thời, đức Hộ
Pháp còn khéo nhắc nhở ông Chevaul
một câu: "NE METTEZ PAS VOS DOIGIS DANS LE PANIER DES CRABES". Và chú giải
rất thâm thúy: "vấn đề Việt Nam chúng tôi rất khó khăn, tế nhị
lắm, người Pháp các ông không nên nhún tay vào nội bộ Việt Nam của chúng tôi.
Nếu các ông nhún tay vào, chẳng khác nào các ông thọc tay vào giỏ đựng cua,
nhất định sẽ bị cua kẹp, thì không thể nào rút tay ra được". Ông
Chevaul rất chú ý, và có lời cảm ơn đức Hộ Pháp, và hứa sẽ chuyển đệ những lời
khuyến cáo về chánh phủ Pháp (Paris) rút thêm kinh nghiệm về vấn đề Việt Nam.
Thêm một việc hi hữu xảy
ra tại buổi tái họp hội nghị Génève lúc 15 giờ ngày 6-7-1954, Ngài Bảo Thế Lê
Thiện Phước được đức Hộ Pháp chỉ định đến tham dự buổi họp để biết thêm về sự
diễn biến tại bàn hội nghị như thế nào. Thay vì đi dự họp theo thông lệ thường
thì Ngài Bảo Thế phải mặc đạo phục Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, như những buổi họp
thảo tại trụ sở Versoix, song đặc biệt hôm nay, đến tham dự hội nghị Génève đức
Hộ Pháp lại cho phép Ngài Bảo Thế mặc âu phục. Lần đầu tiên có một vị chức săc
Cao Đài đến tham dự hội nghị Génève với tư cách là tham dự viên, mà lại mặc âu
phục, nên ban tổ chức mới xấp xếp cho Ngài Bảo Thế ngồi bên cạnh phái đoàn
chánh phủ Miền Nam Việt Nam. Thiết nghĩ, từ ngày khai mạc hội nghị Génève, đã
trải qua nhiều buổi họp, mà cả hai phái đoàn chánh phủ Miền Bắc và Miền Nam
chưa bao giờ chào hỏi nhau, coi nhau như người xa lạ, chứa bao giờ quen biết
nhau. Hôm nay có Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước, một Chức sắc cao cấp của Đạo Cao
Đài đến tham dự buổi họp, ngồi cạnh bên Bác sĩ Trần Văn Đô, Trưởng phái đoàn
Chánh Phủ Miền Nam Việt Nam. Khi phái đoàn Miền Bắc do Thủ Tướng Phạm Văn Đồng
hướng dẫn đến hội trường Génève, Thủ Tướng Phạm Văn Đồng vừa bước vào phòng họp
thì nhìn thấy Ngài Bảo Thế Lê Thiện Phước mặc âu phục mà lại ngồi cạnh bên Bác
sĩ Trần Văn Đô. Ngài Bảo Thế nhìn thấy Thủ Tướng thì gật đầu chào, Thủ Tướng
gật đầu đáp lễ lại, cả phái đoàn Miền Nam nhìn thấy Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gật
đầu chào, liền gật đầu đáp lễ lại, và cả 2 phái đoàn Miền Nam, Miền Bắc đồng
vui vẻ Cười với nhau.
Liên tiếp bao nhiêu buổi
họp tại hội trường Génève, lần đầu tiên 2 phái đoàn Chánh Phủ Miền Nam-Bắc Việt
Nam vui vẻ chào hỏi nhau, gây xôn xao chấn động cho các phóng viên, ký giả quốc
tế hiện diện đang thi hành nhiệm vụ thông tin, bởi vì từ khi khai mạc hội nghị
Génève cho đến bây giờ mới được vinh hạnh chứng kiến được một việc hi hửu này
vào lúc 15 giờ ngày 6-7-1954. Đây cũng là một kỷ niệm khó quên được, do phái
đoàn Cao Đài làm mô giới cho 2 phái đoàn Miền Nam và Miền Bắc Việt Nam có cơ
hội tiếp xúc lẫn nhau sau này.
Luồng gió mát cởi mở chào
mừng của 2 phái đoàn Nam Bắc Việt Nam thổi vào phòng họp, xua tan bầu không khí
tẻ lạnh nặng nề của các buổi họp trước đây, gây ngạc nhiên cho toàn thể những
người hiện đang có mặt trong phòng họp. Nhất là ông Chevaul, trưởng phái đoàn
Pháp hết sức ngạc nhiên và chú ý, là vì vừa mới được nghe đức Hộ Pháp thuật cho
biết việc tiếp xúc thân mật với phái đoàn VNDCCH hồi đêm hôm mà hiện giờ 2 phái
đoàn Nam Bắc lại chào hỏi nhau.
Được biết ngoại bang mưu
đồ bán đứng Việt Nam trên bàn hội nghị Génève, đức Hộ Pháp liền mở cuộc họp báo
tại Génève vào lúc 17 giò ngày 18-7-1954 trước sự hiện diện của các phóng viên
ký giả quốc tế để báo động trước về việc ngoại bang áp đặt chia đôi lãnh thổ
Việt Nam. Tại buổi họp báo này, đức Hộ Pháp đã tuyên bố: "Nếu Việt
Minh và Pháp tuân lịnh Ngoại Bang chia nước Việt Nam làm hai mà không có sự
chấp thuận của toàn dân Việt Nam thì Bần Đạo chống cả hai hết". Lời
tuyên bố của đức Hộ Pháp có một trọng lượng nhất định, tỏ rõ tinh thần ái quốc,
yêu đồng bào vô bờ bến của đức Hộ Pháp đã bộc lộ trong lời tuyên bố, cương
quyết giải thoát cho dân tộc Việt Nam khỏi nạn phân chia lãnh thổ, một thảm họa
vô phương cứu chửa như thời Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn.
Sau khi phái đoàn Cao Đài
rời khòi Génève trở về Miền Nam Việt Nam, tại SàiGòn lúc bấy giờ Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm được cố vấn Mỹ là Đại Tá Lansdale hướng dẫn mưu lược triệt hạ các Tôn
Giáo, Đảng phái đã từng cộng tác với Pháp gây mất tình dân tộc và làm suy yếu
lực lương quổc gia.
Muốn cứu vãn tình thế nước
nhà khỏi bị áp đặt của ngoại bang, đức Hộ Pháp không ngần ngại đứng ra kêu gọi
các Tôn Giáo, Đảng phái thống nhất lại thành một khối, đủ trọn thẩm quyền trực
tiếp thương lượng thẳng với Chánh Phủ VNDCCH tại Hà Nội do hiệp định Génève tạo
thành 20-7-1954.
Biết rõ thảm họa đưa đến
cho dân tộc Việt Nam là Thủ Tướng Chu Ân Lai (Trung Quốc) và Thủ Tướng Pháp
Pierre Mendes (Pháp) bí mật hội kín với nhau, bán đứng nước Việt Nam trên bàn
hội nghị Génève, bất chấp lời khuyến cáo của Thủ Tướng Anh Ọuốc Churchill và
Tổng Thống Mỹ Quốc là Eisenhower đã họp nhau tại Tòa Bạch Ốc ngày 10-7-1954 kêu
gọi Pháp: "Đừng nên chấp nhận việc ngưng bắn ở Đông Dương với giá
quá cao".
Không thể khoanh tay ngồi
chờ nạn tương tàn, tương sát đưa đến, bắt buộc vị lãnh đạo Tôn Giáo Cao Đài,
đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc phải lên tiếng kêu gọi các Tôn Giáo và Đảng phái hiệp
nhất lại thành lập: "MẶT TRẬN THỐNG NHẤT TOÀN LỤC QUỐC GIA" được
gọi là mặt trận Cao Thiên Hòa Binh (Cao Đài, Thiên Chúa, Hòa Hảo, Bình Xuyên),
tạo thành một khối duy nhất, để trực tiếp thương lượng thẳng với chánh phủ
VNDCCH Hà Nội, hầu tránh mưu đồ áp đặt của ngoại bang đang xâm nhập nặng nề vào
nội quyền Việt Nam.
"Mưu sự tại nhân,
thành sự tại thiên" ngoại bang đã xúi giục Thủ Tướng Ngô Đình Diệm
thẳng tay phá vỡ Mặt Trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia, và thẳng tay triệt hạ
các Tôn Giáo, đảng phái, gây mất tình đoàn kết dân tộc trầm trọng.
PHẢI CHỌN MỘT CON
ĐƯỜNG
Gần bước sang năm Ất Mùi,
nhân danh đấng tạo hóa Cao Đài bất diệt Bần Đạo gởi cùng toàn thể nhân loại bức
thông điệp này để thiết tha kêu gọi những vị cầm quyền chánh phủ, lãnh đạo các
dân tộc, nhận định nhiệm vụ một cách khôn khéo hơn. Bao giờ cũng vây, nhân loại
cố kiếm một con đường để tạo một đời sống hòa bình, hạnh phúc, mà
không đạt được như ý muốn, chỉ vì không biết nghe theo mênh trời… Ngày nay nhân
loại đang trải qua môt cơn khủng hoảng tinh thần ghê gớm mà vẫn còn phải hỏi
đâu là con đường sống? Ở trên thế gian này không có chi là bất di
bất dịch cả. Theo luât trời mọi việc đều tiến triển. Lẽ dĩ nhiên xã hội loài
người cũng phải theo định luât ấy.
"Hai chủ
thuyết đang đối chọi nhau:"
Thuyết thứ nhất mệnh danh
là Dân Chủ thì tán dương sự Quốc Gia tương trợ và tôn trọng giá trị con người,
càng bảo tồn cái gì hay và đẹp. Thuyết ấy cao cả biết bao, nhưng lại thiếu
thành thật mà những điều khoản ghi trong tập nhân quyền đã được Liên Hiệp Quốc
tán dương gần đây vẫn chưa thực hiện.
Thuyết thứ hai mệnh danh
là Cộng Sản, xúi giục giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư bản, chủ trương
tiêu diệt, những việc bất công xã hội, và hứa hẹn quân phân lại tài sản, nhưng
vì có tính vô thần và độc tài, nên đã trở thành qúa khắc khe.
Nay 2 bên Cộng Sản và Tư
Bản đã thực hiện tranh chấp, vì 2 Chủ thuyết đều hứa hẹn tạo cho nhân loại một
đời sống tốt hơn xưa, có một điều mà chúng ta nhận xét thấy rõ rệt là cả hai
không đạt tới đích xác hòa bình và hạnh phúc. Trái lại nhân loại vẫn cứ bị phân
hóa, vì cuộc xung đột vẫn kéo dài không lối thoát, cả nhân loại đều lo lắng hỏi
rằng: Thế giới sẽ đi đến đâu. Khi cả hai khối đều chuẩn bị những chiến cụ có
sức phá hoại mãnh liệt, nếu không phải đi đến chỗ diệt vong? Sự cộng tồn được
đem ra thí nghiệm ở các nước Á Châu như Trung Hoa, Đại Hàn, Việt Nam không được
như ý muốn, mà chỉ tạo được một nền hoà bình phù phiếm làm cho tình hình thế
giới thêm căng thẳng, và các nước nói trên phải chịu gian khổ nhiều nhất. Do đó
tất cả trách nhiệm đều trút vào những ông cầm đầu các Chánh Phủ lãnh đạo quần
chúng nếu các ông cứ tiếp tục dẫn dắt nhân loại đến cảnh diệt vong, vậy thì mọi
người chúng ta phải nghe theo tiếng gọi của đấng thiêng liêng, ấp ủ ở bản thân
ta, và nên hiểu rằng: chỉ có lòng yêu thương trong bác ái, đoàn kết trong hòa
khí và công bằng mới có thể có hòa bình và hạnh phúc.
Bần đạo xin ngõ lời cùng
nhân dân Pháp và đồng bào Việt Nam vốn có những liên hệ trực tiếp với nhau. Đối
với người Pháp, Bần Đạo có thể nói và tuyên bố trước thế giới rằng: "Trong
80 năm chung sống, hai dân tộc Pháp và Việt Nam đã từng trải qua nhiều nỗi
thống khổ trong 2 cuộc chiến 1914-1918 và 1939-1945. Hỏi các người Pháp! Các
ông chắc cũng hiểu hơn ai hết, dân tộc Việt Nam với nền văn minh cố cựu cương
quyết theo đuổi nguyện vọng được độc lập của họ, các ông hẳn không lạ gì người
Việt Nam, có một đức tính không biết phụ bạc, và biết phân biệt bạn và thù. Các
ông không thể phủ nhận một đức tính sẵn có của nhân dân Việt Nam. Các ông có đủ
tư cách để chứng tỏ rằng trong giờ phút này, sau khi hủy bỏ nền thống trị của
các ông, nước Việt Nam cũng không công nhận một uy quyền nào khác thay thế.
Trước, sau như một, người dân Việt Nam luôn thiết tha một nguyện vọng là: được
quyền tự định đoạt lấy số phận mình. Đồng thời, các ông có thể tuyên bố với:
... Trước hết với dân tộc Mỹ vốn có thiện chí tỏ tình giúp đỡ Việt Nam, rằng
các dân tộc vẫn được coi như... nhưng phải coi chừng, đừng phạm vào những lầm
lỗi đã đi từ chánh sách thực dân đến chánh sách can thiệp, bất cứ dưới hình
thức nào trong công việc riêng của Việt Nam để tránh khỏi phải chịu hậu qủa về
cuộc thí nghiệm của họ.
Đối với nhân dân
Việt Nam và riêng đối với các vị lãnh đạo Miền Nam cũng như Miền Bắc, Bần đạo
xin các ông cống hiến cho nhân loại ở trong tình trạng nguy vong, một tấm gương
sáng lạng về sự đoàn kết vì mọi người đều biết rằng đoàn kết là sống. Trong những
giờ phút này trách nhiệm của các ông thật nặng nề, nếu các ông cứ cố chấp theo
đuổi một cuộc đấu tranh lý tưởng quốc tế đầy dẫy những dục vọng và phe đảng thì
các ông sẽ là những người có tội với tổ quốc và nhân dân Việt Nam.
Các ông không thể
quên rằng hạnh phúc của dân tộc Việt Nam là kết tinh của tình đoàn kết và tình
thương yêu, hoà khí và công bằng. Đó là lý tưởng quốc gia mà tổ tiên từ ngàn
xưa lưu truyền lại chớ không phải là sản phẩm của cuộc đấu tranh chánh trị và
bè phái. Phải nên mạnh bạo và thẳng thắng, như thế thì các ông sẽ được toàn dân
ủng hộ. Người Việt Nam phải đau khổ ê chề, vì sự chia rẽ nội bộ và cuộc tuyền
cử riêng rẽ do 2 chánh phủ đối lập tổ chức, không thể nào tránh khỏi được những
dục vọng bè phái.
Các ông cầm đầu
chánh phủ Miền Bắc và Miền Nam, các ông còn ngại gì mà không nêu gương đoàn
kết, thành lập một chánh phủ lâm thời duy nhất, thoát ly khỏi ảnh hưởng ngoại
quốc, với sự tham dự của các phần tử thuộc mọi khuynh hướng chánh trị, Tôn Giáo
hầu tiến tới cuộc tổng tuyền cử Toàn Quốc Việt Nam. Toàn dân sẽ ghi công các
ông. Do đó bằng tấm gương qúi báo ấy, các ông sẽ là những người được tiếng là
đã cứu vãn nước Việt Nam trước hết và sau là toàn cả thế giới.
Trước khi ngừng
bút, Bần Đạo xin thành khần cầu nguyện Chí Tôn Cao Đài của chúng ta, để cho
nhân loại sang năm mới sẽ thoát qua giấc triền miên, hướng thẳng vào ánh hào
quang chói lọi và chân lý của Thượng Đế đặng lựa chọn lấy con đường hạnh phúc.
Cuộc đấu tranh để sinh tồn sẽ đưa đến cuộc binh đao, gây nên khổ nảo, tàn phế
và chết chóc. Trái lại sự hổ tương để sinh tồn bằng cách thương yêu trong tình
huynh đệ, đoàn kết trước hòa khí và công bằng, đó là điều kiện tạo nên sự hợp
tác hòa bình, sáng tạo hạnh phúc và tự do. Mỗi người chúng ta đều có thể tự
do Chọn Lấy Một Con Đường"
Người tín hữu Cao Đài làm
sao quên được vụ án cựu Trung Tướng Trần Quang Vinh, nguyên Tổng Tư Lệnh quân
đội Cao Đài, nguyên Tổng Trưởng Quốc Phòng Chánh Phủ Miền Nam, đã bị quân đội
liên minh của Thiếu Tướng Trình Minh Thế chận đường bắt cóc, đốt xe, lên án tử
hình và bắt đưa về giam ở núi Bà Đen (Tây Ninh). Đức Hộ Pháp liền chỉ định Thừa
Sử Phan Hữu Phước và Sĩ Tải Lê Quang Tấn vào mật khu của Quân đội Liên Minh
trên núi Bà Đen để "phản điều tra" vụ án Trần Quang
Vinh (Cố vấn hành chánh đạo tại Tòa Thánh Tây Ninh). Được mật lịnh của đức Hộ
Pháp, Thánh Vệ Trưởng Tòa Thánh Tây Ninh chuẩn bị cho một phái đoàn Cơ Thánh Vệ
hộ tống đưa Thừa Sử Phan Hữu Phước và Sĩ Tải Lê Quang Tấn vào mật khu của quân
đội Liên Minh trên núi Bà Đen để phản điều tra vụ án Trần Quang Vinh, cùng đi
có Luật sư Phan Thanh Liêm (em ruột Thừa Sử Phước) lên đường tại Hòa Viện Tòa
Thánh Tây Ninh, trực chỉ vào chân núi Bà.
Thiếu Tướng Trình Minh Thế
cho lệnh Thiếu Tá Đòn hướng dẫn một tiểu đoàn Liên Minh túc trực tại chân núi
Bà tiếp đón phái đoàn chức sắc của Hội Thánh vào chiến khu để phản điều tra vụ
án ông Trần Quang Vinh. Đoàn hộ tống của Cơ Thánh Vệ thấy được khẩu hiệu của
quân đội Liên Minh ở chân núi Bà chờ đợi. Đôi bên giao lãnh cùng nhau, và Thiếu
Tá Đòn mời Thừa Sử Phan Hữu Phước và Sĩ Tải Lê Quang Tấn lên đường về tư lệnh
bộ hội kiến với Thiếu Tướng Trình Minh Thế. Mãi đến 16 giờ phái đoàn mới đến
chót núi Bà Đen thì được Thiếu Tướng Trình Minh Thế và các Sĩ Quan trong bộ
Tham Mưu ân cần tiếp đón, cùng trao đổi thân mật. Phái đoàn phản điều tra vụ án
phải tạm nghỉ nơi tư lệnh bộ 2 ngày đêm mới gặp ông Trần Quang Vinh, do Trung
Úy Trưởng, sĩ Quan bổn bộ áp giải đến một hang đá rất kiên cố và rộng rãi. Sau
này mới được biết là nơi trú ẩn đặt biệt của Thiếu Tướng Trình Minh Thế khi có
cuộc oanh tạc, hoặc biến động. Sĩ Tải Lê Quang Tấn bắt đầu thẩm vấn, lấy khẩu
cung ông Trần Quang Vinh, phản điều tra vụ án đã bị quân đội Liên Minh lên án
tử hình. Tiếp nhận được phúc trình kết quả cuộc phản điều tra vụ án ông Trần
Quang Vinh, đức Hộ Pháp chỉ thị cho Thiếu Tướng Trình Minh Thế phải đưa vụ án
ra xét xử lại (trong 6 tháng bị giam giữ mới đưa ra xét xử).
Tuân lịnh đức Hộ Pháp một
tòa án quân sự Liên Minh được thiết lập ngay tại chân núi Bà Đen, có mấy ngàn
đồng bào và Tín Hữu đến tham dự rất đông đảo. Dịp này Hội Thánh Cao Đài Tòa
Thánh Tây Ninh đề cử Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa đại diện cho Hội Thánh với tư
cách biện hộ trong phiên tòa án quân sự xét xử vụ án ông Trần Quang Vinh. Được
biết Ngài Bảo Đạo trước kia là một đốc phủ sứ thượng hạng, xuất thân trường
luật tại Hà Nội, và là cựu tỉnh trưởng tỉnh Châu Đốc. Thật là một việc hi hửu,
một chức sắc Hiệp Thiên Đài phải vào tận chân núi Bà để biện hộ cho một chức
sắc Cửu Trùng Đài là Phối Sư Thượng Vinh Thanh. Trước những lời biện hộ vững
chắc của Ngài Bảo Đạo suốt cả buổi sáng và buổi chiều, Tòa Án Quân Sự Liên Minh
tuyên án: miễn truy tố, nhưng bắt buộc ông Trần Quang Vinh không được tham gia
chánh trị nữa. Ông Phối Sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh) sau 2 ngày làm
thủ tục được tự do trở về Tòa Thánh Tây Ninh trình diện đức Hộ Pháp và trọng ân
đức Ngài đã kịp thời cứu giúp để tiếp tục lập công với Hội Thánh. Một thời gian
sau, Hội Thánh sắp xếp cho ông Thượng Vinh Thanh sang Pháp để điều trị bệnh sốt
rét rừng.
Sau ngày Hiệp Định Génève
kết 20-7-1954, lịnh ngưng bắn ban hành khắp cả Miền Nam Việt Nam, vào ngày
11-8-1954, quân đội Việt Minh tập họp vào 3 khu: Xuyên Mộc, Đồng Tháp Mười và
Cà Mau đúng theo kế hoạch của hội nghị trung giá và Génève bắt đầu trao đổi tù
binh tại Việt Trì, 3 sĩ quan Pháp được về trước nhất là: Trung Uý Boder, Jego
và Morin bị bắt tại Cao Bằng.
Đức Hộ Pháp phán dạy:
Thiếu Tướng Trình Minh Thế hãy hướng dẫn quân đội Liên Minh đến thay thế những
căn cứ quân đội Việt Minh đã rút đi tập kết. Tuân theo lời đức Hộ Pháp quân đội
Liên Minh đã đóng quân ở các tỉnh Miền Đông, đến Đồng Tháp Mười, và các tỉnh
Miền Tây Nam Bộ, thì gặp phải sự đụng chạm với lực lượng Phật Giáo Hòa Hảo của
Thiếu Tướng Lê Quang Vinh tức bộ đội của Ba Cụt tại tỉnh Châu Đốc, nhưng nhờ sự
khéo léo tương nhượng và dàn xếp, nên đôi bên tránh được nổ súng với nhau.
Sau đó, Đại Tá Lansdale,
cố vấn của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm thân hành vào tận tư lệnh bộ quân đội liên
minh tại núi bà Đen hội đàm cùng Thiếu Tướng Trình Minh Thế và thuyết phục ông
Trình Minh Thế đem quân ra cộng tác với ông Ngô Đình Diệm, lãnh đạo chánh phủ
Cộng Hòa Việt Nam. Đại tá Lansdale khôn khéo hứa hẹn, khiến ông Trình Minh Thế
chấp nhận tiếp đón Bác Sĩ Chương, Tổng Trưởng bộ y tế chánh phủ Miền Nam vào
thăm chiến khu Liên Minh để đặt điều kiện cho quân đội Liên Minh ra hợp tác với
chánh quyền Ngô Đình Diệm. Trước ngày ra hợp tác với Thủ Tướng Diệm, Thiếu
Tướng Trình Minh Thế hướng dẫn một số sĩ quan trong bộ tham mưu đến tận Trí Huệ
Cung xin diện kiến đức Hộ Pháp, với trọng tâm thỉnh cầu đức Hộ Pháp đi Sài Gòn
làm chủ tọa buổi lễ quân đội Liên Minh ra hợp tác với chánh phủ Việt Nam Cộng
Hòa. Đức Hộ Pháp phán dạy: "Bần Đạo không thể đi chứng kiến cái
chết của các con! Các con không nghe lời Bần Đạo thì tự các con lo liệu!"
Buổi lễ tiếp nhận quân đội
Liên Minh xáp nhập vào quân đội quốc gia được tổ chức tại SàiGòn rất trọng thể,
và ông Trình Minh Thế được Thủ Tướng Diệm chánh thức gắng quân hàm Thiếu Tướng
quân đội Quốc Gia Việt Nam trước sự hiện diện của Đại Sứ các nước, cùng các
Tổng Trưởng trong nội các Chánh Phủ Ngô Đình Diệm đều có mặt.
Còn nhớ rõ, một hôm đức Hộ
Pháp đến thăm các chức sắc thời quân tại văn phòng Hiệp Thiên Đài, đức Hộ Pháp
ân cần luận đàm vói Qúi Ngài: Bảo Thế Lê Thiện Phước, Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa, Hiến
Pháp Trương Hữu Đức, Khai Đạo Phạm Tấn Đãi, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng v.v...
và một số đông chức sắc Hiệp Thiên Đài gồm có Thừa sử, Truyền Trạng, Sĩ Tải,
Luật Sư (trên 30 vị). Đức Hộ Pháp nói: "Thiếu Tướng Trình Minh
Thế, nó lầm tưởng rằng nó đã đủ lông, đủ cánh rồi, nó có thể bay nhảy với đời,
nhưng chánh trị nó còn qúa non kém, nhất định sẽ bị người ta hại chết! Nếu
không các bạn cứ vanh 2 bàn tay của bần đạo". Đức Hộ Pháp vừa nói
vừa đưa 2 bàn tay lên trước mặt các chức sắc hiện diện. Một tháng sau được tin
Thiếu Tướng Trình Minh Thế bị chết trong lúc đang đi thị sát mặt trận tại cầu
Tân Thuận SàiGòn, một cái chết vô cùng oan uổng mà không thể ngăn chận được.
Hồi tưởng lại vào ngày
22-8-1946, vừa bước chân trở về đến Tòa Thánh Tây Ninh sau 5 năm 2 tháng bị lưu
đày ở hải đảo Madagascar, đức Hộ Pháp vô cùng băng khoăng về sự hiện diện của
quân đội Cao Đài trong nội ô Tòa Thánh. Trước một sự việc đã rồi, chẳng biết
phương cách nào hơn nữa, giũa lằn tên mũi đạn của Việt Minh kháng chiến và quân
đội Pháp, lại có thêm quân đội Cao Đài hiện đang đóng trong nội ô Tòa Thánh Tầy
Ninh. Đức Hộ Pháp từ từ đưa quân đội Cao Đài ra khỏi nội ô Tòa Thánh, là một
quyết định không đơn giản vì vận nước ngữa nghiêng tan tành trong khói lửa,
đảng phái phân tranh, cốt nhục tương tàn, huynh đệ phân chia, tình thế còn
nhiều gay cấn. Đức Hộ Pháp ngõ lời khuyến cáo các cấp chỉ huy quân đội tự vệ
Cao Đài rằng: "các con là lửa Tam Muội, lửa dữ trừ được bọn ma
vương, nhưng cũng có thể đốt thiêu luôn Tòa Thánh, nên Thầy không cho các con ở
trong nội ô Thánh Địa, hãy ra ngoại vi đồn trú". Vì thế mà quân
đội Cao Đài phải rời khỏi Giáo Tông Đường Nội ô Tòa Thánh, dời về đồn trú tại
Giang Tân, cách xa Đền Thánh độ 8 cây số. Có một vài vị chức sắc vì quá lo ngại
cho sự an ninh cùng tài sản của bổn đạo khi quân đội Cao Đài đã rút ra khỏi nội
ô Tòa Thánh, nên đến yêu cầu đức Hộ Pháp cho phép quân đội đóng trong Thánh Địa
để bảo vệ cơ sở hữu hiệu hơn, và an lòng chúng sanh. Đức Hộ Pháp tươi cười
đáp: "Bần Đạo đã đuổi chúng nó đi, ở đâu đó được rồi! Ở đây có Bần
Đạo, chúng nó là lửa dữ, chớ nên để gần".
Lời tiên đoán khuyến cáo
của đức Hộ Pháp được ứng nghiệm vào 8 năm sau, là vào năm 1955 quân đội Cao Đài
được Quốc Gia hóa vô quân đội Quốc Gia Việt Nam. Đức Hộ Pháp chỉnh đốn lại
guồng máy đạo, lo quảng bá chơn truyền bằng các buổi thuyết đạo, tại Giảng Đài
Đền Thánh, thuyết minh giáo lý Cao Đài cho toàn cả chức sắc và bổn đạo thấu rõ
bí pháp của đạo, nêu cao gương Thánh Đức, thắt chặt tình đồng đạo, làm sáng
danh Đại Đạo Kỳ Ba.
Đức Hộ Pháp biết rõ hoàn
cảnh của dân tộc Việt Nam, một nước nhược tiểu đang bị ngoại bang tranh giành
quyền lợi, đổi chác lẫn nhau trên bàn hội nghị Génève 1954, người Mỹ muốn thay
chân người Pháp, nên vị cố vấn Đại Tá Lansdale đưa ra kế hoạch thúc đẩy Thủ
Tướng Ngô Đình Diệm phải sớm thẳng tay triệt hạ các tôn giáo, đảng phái từng
cộng tác với Pháp trước kia, càng sám càng tốt. Chính Thiếu Tá Lucien Comein,
cùng 2 vị Trung Úy tin cậy là Joe Henrick và R. Philip có trọng trách thực hiện
cho kỳ được khẩu lịnh: "phân hóa các lực lượng võ trang Giáo Phái,
đạt hiệu qủa cao, có thể chuyển một phần ba (1/3) lực lượng của Pháp thành lực
lượng của Ngô Đinh Diệm". Mưu kế được thực hiện, Thủ Tướng Ngô
Đình Diệm mua chuộc và xúi giục Trung Tướng Nguyễn Thành Phương nguyên là Tổng
Tư Lệnh quân đội Cao Đài đem quân về bao vây Hộ Pháp Đường, thanh trừng nội bộ
gây khó khăn cho đức Hộ Pháp. Tiên đoán thủ đoạn của ông Diệm, đức Hộ Pháp liền
phán dạy một chức sắc Hiệp Thiên Đài đi SàiGòn gặp Trung Tướng Nguyễn Thành
Phương tại biệt thự số 13 đường Yên Đỗ, SàiGòn, báo cho ông Phương biết rõ
rằng: đừng nghe lời đốc xúi của ông Diệm mà đem quân đội về bao vây Tòa Thánh
Tây Ninh, gây việc khó xử trí cho đức Hộ Pháp, đó là mưu kế "trò
phản thầy". Bảo ông Diệm tự cho Quân đội Quốc Gia về chiếm Tòa
Thánh Cao Đài Tây Ninh đi, đức Hộ Pháp sẽ có biện pháp đối phó rất dễ dàng.
Đồng thời, đức Hộ Pháp còn bảo một vị chức sắc Hiệp Thiên Đài đến tận nhà Đại
Tá Nguyễn Văn Kiết nguyên là Thánh Vệ Trưởng Tòa Thánh Tây Ninh để thông báo
cho Đại Tá Kiết biết rằng: "Đại Tá phải thận trọng, đề phòng cho
chính bản thân mình, vì Trung Tướng Nguyễn Thành Phương định bắt Đại Tá trước
để tiện bề tiến quân vào chiếm nội ô Toà Thánh, đó là mưu đồ của Trung Tướng
Nguyễn Thành Phương được lệnh của ông Diệm đem quân về bao vây Tòa Thánh Tây
Ninh một ngày gần đây". (Và sau này Đại Tá Kiết vẫn bị Trung
Tướng Phương bắt), cùng đi đến nhà Đại Tá Kiết có ông Sĩ Tải Nguyễn Hữu Khoẻ là
người hướng đưa vị chức sắc Hiệp Thiên Đài đến tư gia Đại Tá Kiết.
Vào dịp tết nguyên đáng
năm Ất Mùi (1955), đức Hộ Pháp có lời nhắc nhở các chức sắc và toàn thể bổn đạo
nam nữ: "Đạo Cao Đài vốn là một Đại Đạo của những Tôn Giáo do đức
Chí Tôn sáng lập trên đất nước Việt Nam mấy chục năm nay để thống hợp các Tôn
Giáo, mà trước đây các bậc đại huynh, các bậc đại Thánh đã tùy thời, tùy thể
dựng lên rãi rác khắp các phương trời để phổ độ chúng sanh".
"Nói đến Tôn
Giáo là nói đến nhân nghĩa, đã là nhân nghĩa thì nhân nghĩa của nhà Phật Không
thể khác với nhân nghĩa của Cơ Đốc, mọi con đường nhân nghĩa đều giống nhau,
nhân nghĩa chỉ có kẻ thù là bất nhân, bất nghĩa và vô Tôn Giáo mà thôi.
Vậy thì các con
đừng nên hẹp hòi câu chấp ở cái "Ta" mà lấy làm lạk hi thấy bần đạo
ra lênh giúp đỡ đồng bào công Giáo xây dựng nhà thờ, hoặc khi thấy các tín đồ
công Giáo, Phật Giáo đi lễ ở Đền Thánh.
Đại Đạo bao
giờ cũng bao la như biển cả, sẵn sàng tiếp đón mọi dòng sông. Các con nên nhớ
rằng trong nhân loại ngày nay chỉ trừ những người vô đạo, tất cả mọi người đều
là anh, em của các con, tất cả đều có đạo Cao Đài, vì đạo Cao Đài gồm có Phật Giáo,
Công Giáo, Lão Giáo, Nho Giáo v.v... Sở dĩ đức Chí Tôn chọn đất nước Việt Nam
này làm Thánh Địa để phổ độ chúng sanh kỳ ba, chỉ vì Việt Nam là nơi kết hợp
được tinh hoa của tất cả các nguồn văn minh trên thế giới, Việt Nam là nơi tổng
hợp các ngành đạo đức: Nho, Lão, Thích và cũng là nơi gặp gỡ của hai nền văn
minh Đông Tây.
Dân tộc Việt Nam
với sức cần cù đã chịu đựng nổi mấy ngàn năm ngoại thuộc mà vẫn quật cường đấu
tranh để tồn tại, để đồng hóa cả tàn tích ngoại lai mà xây dựng cho mình một
nền văn minh, một ngôn ngữ riêng, một quan niệm sống riêng. Một dân tộc như thế
lẽ dĩ nhiên phải có đủ đạo hạnh, đủ năng lực để đảm nhiệm việc hướng dẫn văn
minh nhân loại sau này.
Các con hãy thành
kính tạ ơn đức Chí Tôn và vui vẻ nhận thấy thiên mạng bảo sanh, bằng con đường
nhân nghĩa để đưa nhân loại tới đại đồng vậy. Các con hãy luôn luôn gắng sức,
đức Chí Tôn bao giờ cũng phù hộ những kẻ có lòng đạo đức hiền lương. Nhưng muốn
làm tròn sứ mạng mà đức Chí Tôn giao phó, các con phải bảo vệ sự tồn vọng của
dân tộc Việt Nam, chống lại bọn Ma Vương, bọn Sa Tăng của thời đại, đang cố
tiêu diệt dân tộc Việt Nam để phá hoại nền Đại Đạo.
Bần đạo nhắc lại,
các con phải thương yêu giúp đỡ đồng bào miền bắc, cũng như đồng bào miền nam,
các con ở trong miền nam này được may mắn hơn họ, vì 8 năm qua Việt Minh ở đây
còn yếu, họ đối xử tử tế với các con. Còn ở ngoài Bắc chánh sách của Tàu (Trung
Quốc) đưa sang, Việt Minh đối xử gay gắt hơn. Dân một nước phải coi như anh em
ruột thịt một nhà. Các con phải lo việc an cư lạc nghiệp, nhường cơm xẻ áo cho
đồng bào, đùng chia rẻ Bắc Nam mà mắc mưu ly gián của Ngoại Bang.
Hiệp định Génève
1954 đã giúp cho nước Trung Cộng chiếm mất của các con gần một nửa nước. Họ
đang đồng hóa và cai trị những anh, em các con còn đang bị kẹt ngoài bắc.
Bần đạo hơi tiếc
cho ông Hồ Chí Minh vì sai lầm đường lối, muốn phụng sự dân tộc, mà thành ra
phụng sự Nga, Tàu.
Nếu Việt Minh cứ
mãi mãi là Việt Minh, đừng biến đổi thành Việt cộng hay Việt Tàu, thì chúng ta
được an hưởng độc lập từ lâu rồi!
Bần đạo ái ngại cho
ông Hồ Chí Minh, vì nếu cái đường lối sai lầm này cứ kéo dài mãi, thì dân chúng
Việt Nam phải nổi dậy hết để chống lại ông ta. Vì nếu không, cả dân tộc sẽ bị
tiêu diệt bởi chánh sách đồng hóa và thống trị của nước Tàu cộng kia!
Bổn phận của các
con chiến sĩ trong quân đội, lại càng nặng nề hơn, vì các con phải lo phục quốc
để giữ nước và giữ đạo. Bần đạo mong các con càng ngày càng bỏ được nhiều điều
dở, học thêm những điều hay, gắng chặc mối tình huynh đệ để cứu dân, cứu nước.
Ngày xưa tham vọng
xâm lăng của Hốt Tất Liệt, của Càn Long đã bị đại bại, vì những danh thần
Nguyễn Trải, Ngô Thời Nhiệm, những chiến tướng Trần Hưng Đạo, Quang Trung, bần
đạo tin rồi đây những tướng, tá Tàu cộng như Trần Canh, Chu Đức cũng sẽ biết
tay của các con, vì các con là con cháu của những kẻ chiến thắng, mà họ là con
cháu của những kẻ xâm lăng đã bị chiến bại.
Bần đạo cũng cần
nhắc lại cho các tín đồ trong đạo biết, các con sở dĩ được sống yên ổn làm ăn
là nhờ có sức chiến đấu của quân đội, những kẻ đã đem xương máu làm thành trì
bảo vệ các con. Các con có bổn phận biết ơn và cứu giúp họ, hãy coi họ là tình
ruột thịt "máu chảy ruột mềm, môi hở răng lạnh".
Bần đạo hứa sẽ tìm
mọi dịp để bày tỏ nguyện vọng của các con cho các dân tộc bạn như Pháp và Mỹ
biết rằng: các con chỉ muốn được các nước bạn giúp đỡ các con đương đầu với phe
Tàu Cộng để bảo vệ độc lập Việt Nam mà thôi, chứ các con không muốn bị các nước
bạn dùng các con chống cộng, để duy trì quyền lợi bất chánh đáng. Bần đạo sẽ
nói cho người Pháp và người Mỹ biết rằng: các nước bạn viện trợ cho nước Việt
Nam để chống cộng, tức là bỏ tiền ra để xây bức thành rào giữ ngôi vườn Đông
Nam Á, các nước bạn sẽ tìm lợi tức ở trong ngôi vườn sau này, chớ không phải
tìm lợi tức ở trong số tiền đã bỏ ra xây thành, nếu Việt Nam này mất thì Đông
Nam Á cũng phải mất, thế giới Âu Mỹ cũng không còn, khi kho người, kho lúa ở
đây bị rơi vào vòng kiểm soát của Nga, Tàu cộng."
Thiết nghĩ trong đêm giao
thùa 30 tháng chạp năm Giáp Ngọ (1955) chào mừng xuân Ất Mùi, đức Hộ Pháp đã để
lời huấn giáo căn dặn cả chức sắc và bổn đạo nam nữ trên toàn quốc vài vấn đề
đạo lý và thế sự, mà người tín hữu Cao Đài hằng ghi nhớ, những lời vàng tiếng
ngọc của đức Ngài. Nhất định lời vàng tiếng ngọc này mãi mãi in sâu trong tâm
trí của mồi tín đồ ngoan đạo, và lưu truyền cho hậu thế đời đời kiếp kiếp.
Công việc của đạo càng
ngày càng chồng chất chẳng hạn như lo cho đồng bào có nơi sinh cư, có cơm ăn áo
mặc, xúc tiến công tác huấn luyện: công dân, giáo dục, vệ sinh, nuôi cô nhi,
giúp quả phụ, an ủi kẻ già yếu, trợ giúp người khó khăn, cùng chăm lo việc xây
chợ, cất trường học, lập nhà dưỡng lão, bệnh viện, nhà bảo sanh cùng khắp vùng
thánh địa.
Đặc biệt một đại hội nhân
sanh, đại diện chức việc và bổn đạo trên toàn quốc được khai mạc với lời kêu
gọi thống thiết của đức Ngài; Con hạc đã hồi qui, nhìn không gian nhớ tổ, xem
nước hoa đổi vẻ thay màu, thảm thiết thay nổi lòng tuông châu, đổ ngọc, rấp kêu
cuối cùng một tiếng nỉ non, giục kẻ tri âm hồi đáp. Ôi! Bức tranh thê lương
này, ai là kẻ tri kỷ, tri âm củng bần đạo, ngoài chư hiền huynh, hiền muội đã
kiếm đặng ai.
Tuy nhiên đức Hộ Pháp
không hề lảng quên bổn phận một công dân yêu nước nồng nàn, với đường lối bất
di, bất dịch là thống nhất lãnh thổ Việt Nam, thu hồi trọn vẹn chủ quyền dân
tộc và cương quyết giải phóng quốc gia khỏi lệ thuộc trực tiếp hay gián tiếp
giữa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản, nên chế độ Ngô Đình Diệm thúc đẩy Trung Tướng
Nguyễn Thành Phương đem quân lính về thanh trừng Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh
Tây Ninh nhằm hạ uy thế đức Hộ Pháp. Nhưng ông Phương không dám trực tiếp xúc
phạm đến uy danh của đức Ngài. Ăn cơm chúa phải múa tối ngày, ông Phương tránh
né, bèn ủy nhiệm cho Thiếu Tướng Lê Văn Tất, phó Tổng Tư Lệnh, đem quân đội về
bao vây Hộ Pháp Đường, nội ô Tòa Thánh ngày 20 tháng 8 năm Ất Mùi (1955) gọi là
thanh trừng Hội Thánh.
Thiếu Tướng Lê Văn Tất
tuân lệnh Trung Tướng Nguyền Thành Phương đem quân lính thân chinh đến Hộ Pháp
Đường, đe dọa cho lính đặt địa lôi giựt xập Hộ Pháp Đường, đã bị Ngài Bảo Đạo
Hồ Tấn Khoa lên tiếng phản đối bằng một lời nói danh thép: "Hãy
bước qua xác chết tôi, rồi mới vào Hộ Pháp Đường được."
Một vết nhơ tủi nhục của
tình "Trò phản Thầy" nhưng đức Hộ Pháp bình thản "hóa
giải" cuộc khủng bố bao vây Hộ Pháp Đường và nội ô Tòa Thánh vô
cùng độc đáo tế nhị. Không một tiếng súng nổ, mà mưu đồ nhúng tay vào nội bộ
Hội Thánh Cao Đài của Ông Diệm hoàn toàn bị phá hỏng trước tinh thần cương
quyết phản đối của chức sắc và bổn đạo nam nữ vì Thầy, vì Đạo nơi vùng Thánh
Địa Tòa Thánh Tây Ninh, bắt buộc quân đội phải tự rút lui có trật tự khỏi khuôn
viên Tòa Thánh một cách êm thấm.
Tiếp theo, bao nhiêu trò
hề vu khống hết sức thâm độc bôi lọ thanh danh đức Hộ Pháp, đều bị bổn đạo vạch
trần phơi bày trước ánh sáng công lý Kẻ phản Thầy, phản Đạo đã hiện nguyên
hình, tạ tội cùng Hội Thánh. Thánh Địa Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh trở lại yên
ấm như không có việc gì xảy ra cả.
Hội Thánh tiếp tục mở thêm
khóa Hạnh Đường đào tạo chức sắc nam nữ đủ khả năng và đạo đức thuyên bổ đi các
tỉnh, quận, cùng rèn luyện một số chức sắc ưu tú hướng dẫn các phái đoàn Cao
Đài tham dự đại hội Tôn Giáo Quốc Tế khắp cả năm châu:
- 1928 - Đại Hội Quốc Tế
Thần Linh Học tại Londres (Anh Quốc) ngày 7/9/1928 - 11/9/1928 ( có 26 nước đến
tham dự Congrès Spirite International).
- 1934 - Đại Hội Thần Học
tại Tây Ban Nha (Barcelone).
- 1936 - Đại Hội Tôn Giáo
Quốc Tế tại Anh Quốc (Landres).
- 1937 - Đại Hội Thần
Ni Triết Học tại Đức Quốc (Eglise Gnostiques D Alemagne).
- 1937 - Đại Hội Tôn
Giáo Quốc Tế tại Anh Quốc (Londres).
- 1939 - Đại Hội Tôn
Giáo Quốc Tế tại Pháp Quốc (Paris).
- 1948 - Đại Hội Tôn
Giáo Quốc Tế tại Lausane.
- 1950 - Đại
Hội Thần Học tại Haywards Henth.
- 1951 - Đại Hội Tôn
Giáo Quốc Tế tại Thụy Điển (Stockholm)
- 1952 - Đại Hội Tôn
Giáo Quốc Tế tại Bỉ Quốc (Bruxelles).
- 1952 - Đại Hội Tôn Giáo
Quốc Tế tại Maroc (Casablanca).
- 1954 - Đại Hội Tôn Giáo
Quốc Tế tại Thụy sĩ (Montreux)
- 1955 - Đại Hội Tôn Giáo
Quốc Tế tại Nhật Bổn (Baguio)
- 1965 - Đại Hội Thần Linh
Học Thế Giới tại Bĩ (Bruxelles)
- 1966 - Đại Hội Đại Học
LosBanos tại Phi Luật Tân (Bagio)
- 1975 - Đại Hội Tôn Giáo
Quốc Tế tại Ấn Độ (New Delhi)
Hiệp định Génève ngày
20-7-1954 không được tôn trọng, hoàn cảnh nước Việt Nam lúc bây giờ rất đen
tối, cả hai chánh phủ Miền Nam và Miền Bắc Việt Nam đều do Ngoại Bang yểm trợ.
Chánh phủ Việt Nam Dân Chủ cộng Hòa Miền Bắc do cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh lãnh
đạo, được sự yểm trợ của khối cộng sản Quốc Tế mà Cường Quốc trực tiếp là Nga
và Trung Quốc. Chánh Phủ Việt Nam Cộng Hòa Miền Nam do Tổng Thống Ngô Đình Diệm
lãnh đạo, được sự yểm trợ của khối thế giới tự do mà Cường Quốc trực tiếp là Tư
Bản Mỹ.
Kể từ ngày Pháp và Việt
Minh ký kết hiệp định Génève 20-7-1954 tại Thụy sĩ có 9 Cường Quốc (9 nước) ký
tên tham dự chia đôi đất nước Việt Nan làm 2 miền Nam-Bắc chọn con sông Bến
Hải, vĩ tuyến 17 làm ranh giới, cũng như trước kia thời Trịnh - Nguyễn phân
tranh, lấy con sông Gianh làm ranh giới (vào thế kỷ thứ 17 - 1627).
Không thể khoanh tay ngồi
nhìn cảnh đồng bào bị Ngoại Bang áp đặt, gây cảnh nồi da, xáo thịt, nên đức Hộ
Pháp phải tìm phương gở rối cho thế cuộc phải tự lưu đày thể xác một lần nữa,
là tự nguyện qua sống lưu vong tại nước Cao Miên, một nước Trung Lập, và là
thành viên của 5 điểm SỐNG CHUNG HÒA BÌNH của Thủ Tướng Nneru (Ấn Độ) chủ
xướng.
Sáng ngày mùng 5 tết năm
Bính Thân (16-2-1956) đức Hộ Pháp và một chức sắc rời Tổ Đình Tòa Thánh Tây
Ninh lưu vong qua nước Cao Miên, âu cũng là Thượng Đế đã an bày, thực hiện theo
đúng ý nguyện của Thượng Đế bằng một chương trình đã tự định trước, một chuyến
đi lưu vong để bảo vệ lập trường Trung Lập, tránh áp lực của 2 khối Cộng Sản và
Tư Bản, đang tranh giành quyền bá chủ trên thế giới.
Tại Phnom-Pênh, thủ đô
nước Cao Miên, đức Hộ Pháp để xướng bản CƯƠNG LĨNH HOÀ BÌNH CHUNG SỐNG, cốt để
giác ngộ quốc dân Việt Nam sớm biết thực dụng quyền hành của dân, bởi cớ có 3
mục tiêu chánh yếu là: Do Dân, Phục Vụ Dân, Lập Quyền Dân. Chỉ có dân mới cứu
vãn được tình thế nguy hại cho tương lai Tổ quốc và giống nòi, chúng ta phải
bền giữ hòa bình, hạnh phúc, dù cho các nước Liệt Cường Quốc Tế biến thiên thế
nào, chúng ta cần phải khôn ngoan hợp sức, nhất tâm, nhát trí bảo vệ toàn vẹn
hòa bình quốc nội của ta.
Ngày 15-3-Bính Thân
(26-3-1956), đức Hộ Pháp có gởi 2 bức thư cho cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo
chánh phủ VNDCCH và Tổng Thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo chánh phủ VNCH. Kêu gọi cuộc
thi đua "Nhân Nghĩa" giữa 2 miền Nam, Bắc Việt Nam.
Tiếc thay! Lúc bấy giờ vì
ảnh hưởng của ngoại bang quá ư nặng nề, nên chánh phủ Miền Nam và Miền Bắc
không có thẩm quyền định đoạt đến vận mạng dân tộc mình, chưa dám ngồi gần lại
với nhau để thảo luận đề nghị của đức Hộ Pháp trình bày trong bản Cương Lĩnh
chánh sách Hoà Bình Chung Sống. Đồng thời, Đức Hộ Pháp có gởi văn thơ số:
138/HP/VPHP. ngày 3/11/1956 thân gởi đến các ông Đại Đức Tôn Giáo:
"Thời cuộc
hôm nay lại đến một giai đoạn khắc khe, rất nguy hiểm cho tương lai số phận của
Việt Nam là nước bị phân đôi, chia 2 chủng tộc dưới ảnh hưởng của 2 khối Cộng
Sản và Tư Bản, gây cuộc Nam-Bắc phân tranh, cốt nhục tương tàn, nồi da xáo
thịt.
Ngoại Bang mưu đồ
lợi dụng xương máu đồng bào Việt Nam đặng định quyền bá chủ của họ.
Hiển nhiên giờ
phút này, đồng bào Việt Nam ta đã bị lệ thuộc của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản,
chớ không có độc lập, tự do chi cả, chánh phủ Miền Nam, cũng như chánh phủ Miền
Bắc đều bị lệ thuộc như nhau.
Rồi đây, nội chiến
sẽ vì ngoại bang bùng nổ mà ta không thể đề phòng được. Chúng ta là người tu
hành, các Chư Đại Đức cũng thế, không thể khoanh tay ngồi đợi để thấy cái thảm
họa ấy. Bởi chiều theo thiên ý, chúng ta phải tìm một phương pháp hay để chấm
dứt cuộc tương tàn, tương sát do mưu đồ ngoại bang áp đặt tranh giành quyền lợi
với nhau.
Đương nhiên đồng
bào 2 miền Nam và Bắc đều là nạn nhân của 2 tư tưởng, của quyền lực Quốc Gia và
Cộng Sản mà cả đồng bào chúng ta từ Nam chí Bắc đồng bị tiêm nhiễm và xu thời
theo 2 chánh sách, dân tâm bất nhất".
Ngoài ra đức Hộ Pháp còn
gởi đến ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc một giải pháp hòa bình đại đồng thế
giới, hầu dung hoà 2 khối Cộng Sản và Tư Bản sớm hiểu biết nhau, tương nhượng
để tồn tại sống còn, phải thương yêu nhau như anh em ruột thịt, tất cả đều là
anh em trong một đại gia đình cùng nhau chung sống hòa bình.
Máu của người Việt Nam đã
đổ trên mảnh đất tổ tiên, chịu nạn ngoại quyền chi phối, là một điều bất hạnh
cho đồng bào Việt Nam phải gánh lấy thảm họa nợ máu tiền khiên từ đời Chúa Trịnh,
Chúa Nguyễn lưu lại.
Thiết nghĩ, nếu chánh phủ
2 miền Nam-Bắc Việt Nam do cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Tổng Thống Ngô Đình Diệm
lúc bấy giờ có chút thẩm quyền quyết định vận mạng non sông chủng tộc, cùng
nhiệt tình thực hiện chánh sách Hòa Bình Chung Sống "Thủy Tổ" của
chủ trương hòa giải, hòa hợp dân tộc, thì mảnh đất quê hương cẩm tú này đâu đến
nổi điêu linh, lầm than thống khổ. Nhất định đồng bào Việt Nam đã hưởng được
thanh bình, hạnh phúc từ lâu rồi. Một bằng chứng hiển nhiên là sau khi Việt
Minh đại thắng trận Điện Biên Phủ, khí thế đánh đuổi xâm lăng của toàn dân Việt
Nam từ Nam chí Bắc đang bùng lên sôi nồi, thừa sức tiến lên giải phóng cả Miền
Nam quá ư dễ dàng, để nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Nhưng chánh phủ miền bắc
lúc bấy giờ bị ảnh hướng nặng nề của ngoại bang là Trung Quốc, đã từng kinh
nghiệm đặc quyền, đặc lợi trên bàn hội nghị "Bàn Môn Điếm” năm
1953 chia đôi nước Triều Tiên, với 2 chánh phủ Nam Triều Tiên và Bắc Triều
Tiên.
Mặc dù giải pháp dung hòa
2 khối Cộng Sản và Tư Bản của đức Hộ Pháp chưa được các cường quốc nhiệt tình
hưởng ứng, nhưng có nhiều cường quốc rất lưu ý, chiếu cố, phúc đáp lại đức Ngài
với lời lẽ ân cần, tôn kính.
Đồng thời, nhiều biến
chuyển rất tốt đẹp và giải pháp hòa giải 2 khối Cộng Sản và Tư Bản từ từ lố
dạng không còn là tiếng gọi trong sa mạc như trước đây. Trái lại, nó trở thành
âm thanh vô cùng quen thuộc "Hòa Bình Chung Sống" danh
từ được thế giới thường nhắc nhở đến, nhất là trong những cuộc biểu tình khổng
lồ của các quốc gia yêu chuộng hòa bình, mà cả 2 khối Cộng Sản và Tư Bản đều
nhận định không có kẻ thắng người thua. Nếu nói giữa chủ nghĩa Cộng Sản và Tư
Bản không có vấn đề ai thắng ai thua, thì cũng có mặt đúng và mặt chưa đúng!
Đúng trên khía cạnh không
thể thanh toán nhau bằng vũ lực, nếu cả hai đồng đọ sức nhau bằng vũ khí hạt
nhân, sẽ dẫn tới thảm họa hủy diệt cả hai khối, cả nhân loại.
Không đúng ở chổ xóa nhòa
bản chất xã hội, không dám tin tưởng con đường mình đang đi. Giữa 2 hệ thống có
thể vì cần thiết để sống còn, phải hòa bình chung sống, phải tự điều khiển mình
để theo qui luật, tự toàn thiện mình để tiếp cận với chân lý.
Niềm phấn khởi cho nhân
loại trên thế giới là vào tháng 4 năm 1971, đại hội Đảng Cộng Sản Liên Xô lần
thứ 24 tại Mạc Tư Khoa đã long trọng quyết định hòa hoản với Trung Quốc và giao
hảo với Mỹ. Đó là triệu chứng biến chuyển Quốc Tế đáng mừng cho nhân loại. Kế
tiếp vị lãnh đạo tối cao Thiên Chúa Giáo, đức Giáo Hoàng Phao Lồ đệ lục tuyên
bố: xây dựng một xã hội anh em trên mặt đất này.
Rồi tiếp theo phái đoàn
thể thao bóng bàn Mỹ, và 3 ký giả Mỹ được Trung Quốc chánh thức mời viếng thăm
Bắc Kinh. Sau 20 năm tuyệt giao, Trung Quốc và Mỹ đã bắt đầu tiếp xúc lại. Cuộc
tiếp đón phái đoàn thể thao Mỹ rất nồng hậu, đủ chứng tỏ cho quốc tế hiểu ngầm
rằng: Cuộc ban giao hi hửu này nhất định sẽ mang lại một sự thỏa hiệp ngấm ngầm
và thay đổi bất ngờ của Mỹ đối với Đông Dương, mà Việt Nam là vai tuồng chánh
cần phải giải quyết nhanh chóng và êm đẹp trên bàn hội nghị thương lượng chớ
không cần đến vũ lực nữa.
Nhất là sự bắn tiếng vô
cùng sâu sắc của Thủ Tướng Chu Ân Lai trong buổi tiếp tân phái đoàn bóng bàn Mỹ
đã chứng tỏ dấu hiệu chuyển hướng sau bao cuộc thí nghiệm bằng xương máu "biển
người" trên mặt trận Điện Biên Phủ Việt Nam, rồi tiếp đến mặt
trận Triều Tiên 1955. Các nước nhược tiểu khác đã thoát khỏi nanh vuốt của tử
thần qua một câu tuyên bố ngắn gọn của Thủ Tướng Chu Ân Lai: "TỨ
HẢI GIAI HUYNH ĐỆ".
Ngày 26-3-1956, đức Hộ
Pháp Phạm Công Tắc nêu lên chánh sách Hoà Bình Chung Sống với quyết tâm cứu khổ
cho nhân loại. Chính bản thân của người tín hữu Cao Đài có lúc phải trả giá
bằng xương máu trong lao tù của Miền Nam Việt Nam để góp phần thực thi chánh
sách Hòa Bình Chung Sống, với kỳ vọng nước nhà độc lập, tự do, thống nhứt,
thoát ra ngoài cuộc xung đột của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản đã thề quyết không
sống chung bầu trời, kẻ mất người còn.
Một phái đoàn chức sắc và
tín hữu Cao Đài tình nguyện lấp bằng sông Bến Hải đã âm thầm đột nhập vĩ tuyến
17, vào ngày 17-4-Bính Thân (1956) để thượng lá cờ trắng tại nhịp cầu thứ hai,
cầu Hiền Lương, Bến Hải và được gọi là "Cờ Nhan Uyên" tượng
trưng hòa bình. Việc làm này nhằm kêu gọi chánh phủ 2 miền Nam-Bắc Việt Nam hãy
gạt bỏ những hiềm khích, ngồi lại với nhau tìm một giải pháp thích hợp cho đôi
bên dung hòa lẫn nhau. Do vị trưởng đoàn là Trung Tá Lê Văn Thoại đà hoàn thành
xuất sắc trách nhiệm, ngọn cờ trắng (bạch kỳ) được phất phới tung bay trên cầu
Hiền Lương, Bến Hải, làm chấn động khắp cả các tỉnh Miền Nam và Miền Bắc lúc
bấy giờ, gây nổi lo âu cho chánh phủ Miền Nam không ít.
Tại Miền Nam Việt Nam lúc
bấy giờ cả chức việc, chức sắc, bổn đạo nam nữ đồng quyết tâm hưởng ứng chánh
sách Hòa Bình Chung Sống, nên một số đông Sĩ Tải Hiệp Thiên Đài tình nguyện đảm
nhiệm trọng trách trong ban vận động CSHBSC Miền Nam, và thành viên được cử vào
ban vận động Miền Nam được đệ trình lên Trung Ương.
Ngày 20-3-Bính Thân
(30-4-1956) từ thủ đô Phnom-Pênh, đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc gởi chứng thư cho
từng thành viên trong ban vận động với lời ưu ái nồng nàn.
"Những ai đã
nhiệt tình ái quốc, ưu hương để cứu vãn tình thế nguy ngập của nước nhà, xin
đem cả năng lực hợp tác, cùng các đồng chí của Bần đạo thọ lãnh ủy nhiệm thư
này, hầu vì dân, phục vụ dân, và lập quyền dân, đặng cho toàn dân đủ thẩm quyền
cứu nước".
Các thành viên trong ban
vận động CSHBCS Miền Nam Việt Nam, thọ lãnh "chứng thư" gồm
có:
- Sĩ Tải Nguyễn Minh
Ngòi : - Trưởng ban
vận động CSHBCS. Miền Nam Việt Nam.
- Sĩ Tải Lê Quang
Tấn :
- Tổng Thư ký!
- Sĩ Tải Phạm Duy
Nhung :
- Tuyên Huấn.
- Sĩ Tải Huỳnh Văn Hương :
- Thông Tin.
- Sĩ Tải Nguyễn Văn
Tú :
- Tài Chánh.
- Sĩ Tải Trần Tấn
Hợi :
- Kiểm Soát.
- Sĩ Tải Nguyễn Ngọc
Trân : - Tổ Chức.
- Sĩ Tải Nguyễn Thành
Nguyên : - Tổ Chức.
- Sĩ Tải Nguyễn Ngọc
Tỷ :
- Tổ Chức.
- Sĩ Tải Nguyễn Hữu
Khỏe : - Liên
Lạc.
Kế tiếp ngày 23-6-1956,
đức Hộ Pháp chỉ thị cho đại huynh Hiến Pháp Trương Hữu Đức, đại diện Hội Thánh
Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh phải đến kiến diện Thủ Tướng Ngô Đình Diệm để biết
rõ thêm thái độ của chánh quyền Miền Nam lúc bấy giờ, đối với Chánh sách Hòa
Bình Chung sống do đức Ngài chủ trương.
Một phái đoàn Hội Thánh
được thành lập gồm có: Quyền Thượng Chánh Phối Sư Thượng Sáng Thanh, Thái Chánh
Phối Sư Thái Bộ Thanh, và Sĩ Tải Lê Quang Tấn (đại diện cho đại huynh Hiến
Pháp) đến kiến diện Thủ Tướng Ngô Đình Diệm.
Đồng thời các ban vận động
HBCS trực thuộc của tỉnh, quận, xã đều thành lập xong với tinh thần hy sinh cao
cả, bảo vệ giọt máu người Việt Nam không cho đổ một cách vô cớ. Điều
này khiến cho Chánh Quyền Miền Nam Việt Nam âu lo, và bực bội không ít, nên đã
xuất hiện một vài nơi bổn đạo bị chụp mủ là ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản, và
tiến tới chánh sách bắt bớ giam cầm một số bổn đạo ở các tỉnh.
Lòng tha thiết yêu chuộng
hòa bình của người tín hữu Cao Đài lại bị nghi ngờ là thân Cộng Sản, làm tay
sai cho Cộng Sản, để rồi bị đàn áp, bắt bớ, giam cầm. Chủ trương nêu cao ngọn
cờ cứu khổ của đạo Cao Đài là phải thương yêu nhau, công bình đối với nhau như
tình huynh đệ, anh em một nhà, không phân biệt là Cộng Sản hay Tư Bản, mà chỉ
biết nhìn nhau là con chung một cha.
Tại Trung phần Miền Nam
Việt Nam, công an mật vụ chế độ Ngô Đình Cẩn ráo riết truy tầm thủ phạm dám cả
gan đột nhập cầu Hiền Lương treo cờ trắng (bạch kỳ). Trở về tới ranh giới tỉnh
Quảng Trị, chẳng may cho Trung Tá Lê Văn Thoại bị mật vụ của Ngô Đình Cẩn chận
bắt. Còn 3 anh: Nguyễn Văn Kỳ, Nguyễn Quốc Đại và Nguyễn Văn Lợi thì cũng bị
công an mật vụ chận bắt tại bến xe tỉnh Quảng Trị. Cả 4 anh Thoại, Kỳ, Đại, Lợi
đều được công an dẫn giải về giam giữ tại Huế trên 3 năm mới được trả tự do trở
về Tòa Thánh Tây Ninh.
Thực hiện bổn phận người
công dân Việt Nam yêu tin tưởng nơi bài thánh giáo của đức Cao Thượng
Phẩm 23-4-1931
Long tu phiến quạt
bợn sơn hà,
Như gián ma xử
trấn quốc gia.
Rưới nước cam lồ
lau xã tắc,
Múa gươm thần huệ
dẹp can qua.
Niệm kinh Khổng
Thánh thâu Mao Tưởng,
Phất phướng Nhan
Uyên chận Mỹ Nga.
Thế giới hòa bình
ai chủ xướng,
Thì dân nước Việt
khải hoàn ca.
THĂNG
Bốn anh: Thoại, Kỳ, Đại,
Lợi đã hiên ngang, xem thường mọi hiểm nguy đột nhập cầu Hiền Lương (vĩ tuyến
17) treo bạch kỳ hoàn thành sứ mạng một tín hữu ngoan đạo với 3 năm tù gẫm ra
cũng có phần qúa đắt đối với người tu sĩ Cao Đài.
Còn hiền huynh Giáo sư
Thượng Cao Thanh (Ma Tăng Cao) Khâm Trấn Đạo Thừa Thiên phải bỏ mình trong ngục
thất Huế với tội tình nghi chứa chấp hướng dẫn 4 anh: Thoại, Kỳ, Đại, Lợi đột
nhập cầu Hiền Lương (Bến Hải) ngày 17-7-Bính Thân (22-8-1956).
Đoàn tình nguyện của Trung
Tá Lê Văn Thoại quyết tâm lấp bằng vĩ tuyến 17 đã hoàn thành trọng trách đối
với đồng bào 2 miền Nam-Bắc Việt Nam. Quan trọng nhất là ngọn bạch kỳ tượng
trưng cho hoà bình đã ngang nhiên tung bay trên cầu Hiền Lương, nhằm thức tỉnh
chánh quyền Nam-Bắc nhớ lại thảm họa phân tranh của chúa Trịnh - Nguyễn còn lưu
lại hầu ngồi lại với nhau bàn bạc và tìm một giải pháp dung hòa để bảo vệ giọt
máu người Việt Nam. Đừng vì ngoại bang mà đỗ máu một cách vô cớ và cần phải
khôn khéo tránh né mưu đồ áp đặt của họ.
Đức Hộ Pháp đã nhiều lần
dẫn giải cho chức sắc và bổn đạo biết rõ: dân tộc Việt Nam còn phải trả quả
kiếp nặng nề của tổ phụ trước kia là Chúa Trịnh Chúa Nguyễn cho xong rồi mới có
hòa bình thật sự được!
Tuy nhiên, chẳng lẽ khoanh
tay ngồi chờ thảm họa đến, đức Ngài mớ tự sửa đổi máy thiên cơ. Nhưng nào
haỵ "vạn sự do thiên định".
Tại thủ đô Phnom Penh (Cao
Miên) đức Hộ Pháp ban lệnh cho hiền huynh Giáo Hữu Thái Tây Thanh, một chức sắc
Cửu Trùng Đài, một liên lạc viên nổi tiếng của trấn đạo Tần Quốc vượt biên giới
từ Phnom Penh đến Bet-Chay, rồi Tân Châu tới Châu Đốc và đi thẳng về SàiGòn
suông sẻ nhanh chóng để kịp tiếp xúc với ban vận động Miền Nam chánh sách Hòa
Bình Chung Sống hầu chuyển mật thơ của đức Hộ Pháp vào lúc 14 giờ ngày
18-2-1957.
Trưởng ban vận động CSHBCS
Miền Nam Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời tiếp được mật lệnh của đức Hộ Pháp chỉ định
cho Sĩ Tải Lê Quang Tấn phải vượt biên giới lên Phnom Penh với vị chức sắc liên
lạc viên Giáo Hữu Thái Tây Thanh khẩn cấp.
Tuân hành mật lệnh của đức
Hộ Pháp, Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời liền triệu tập một buổi họp "khẩn"
bất thường của ban vận động Miền Nam. Sĩ Tải Lê Quang Tấn tạm bàn giao trách vụ
Tổng Thư Ký cho sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời kiêm nhiệm đảm nhận tạm thời cho Sĩ Tải
Tấn kịp "lên đường vượt biên" lên Phnom Penh theo kế
hoạch của vị chức sắc liên lạc viên đã dự thảo.
Sĩ Tải Lê Quang Tấn chuẩn
bị lên đường với Giáo Hữu Thái Tây Thanh. Chỉ trong 3 tiếng đồng hồ thì mọi
việc đều thu xếp xong. Các vị Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời, sĩ Tải Bùi Văn Tiếp và
Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân đại diện ban vận động Miền Nam đồng tiễn đưa đến tận
bến xe SàiGòn - Châu Đốc (đường Kitchener, gần cầu ông Lãnh SàiGòn). Sự tiễn
biệt lúc bấy giờ hết sức cấp bách, kẻ ở lại người ra đi vô cùng quyến luyến,
thắm đượm tình huynh đệ gắng bó từ lâu, với những cái khoát tay chia ly chào
mừng thượng lộ bình an hết sức cảm động bùi ngùi, khi chiếc xe đò SàiGòn - Châu
Đốc bắt đầu lăn bánh vào lúc 18 giờ ngày 18-2-1957.
Mãi lo chuyển giao phận sự
Tổng Thư Ký ban vận động Miền Nam cho Sĩ Tải Nguyễn Minh Ngời tạm thời đảm nhận
để kịp lên xe vào lúc 18 giờ, sĩ Tải Tấn phải nhờ sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân vui
lòng đến báo tin cho gia đình biết là Sĩ Tải Tấn đã lên đường đi Châu Đốc vượt
biên sang Phnom Penh với Giáo Hữu Thái Tây Thanh theo lệnh đức Hộ Pháp đã phán
dạy.
Rời khỏi tỉnh Châu Đốc với
nhiều kinh nghiệm vượt biên giới, liên lạc viên Thái Tây Thanh đã trải qua
nhiều chặn đuờng không kém phầm nguy hiểm. Nhất là phải qua một con sông lớn
chia hai địa phận Cao Miên và Việt Nam. Chiếc xuồng chèo lắc lư vượt qua sông
Bet-Chay để sang phần đất Cao Miên là một mưu trí sáng tạo của Giáo Hữu Thái
Tây Thanh.
Khi tới địa phận Cao Miên,
cả hai người còn phải thay đổi nhiều chuyến xe đò, họ đã chuẩn bị sẵn giấy tờ
hợp lệ lưu thông trên đất Cao Miên để vượt qua các trạm gác dọc đường. Liên lạc
viên Thái Tây Thanh đã khéo léo đề phòng mọi sự bất trắc, hầu đến Phnom Penh
thông suốt an toàn, tới Thánh Thất Cao Đài kịp giờ qui định cho Sĩ Tải Lê Quang
Tấn trình diện Đức Hộ Pháp
Sĩ Tải Lê Quang Tấn đến
kiến diện Đức Hộ Pháp và trình bày các diễn biến vừa qua của Đạo tại Tòa Thánh
Tây Ninh và sự phổ biến sâu rộng chánh Sách Hòa Bình Chung Sống thành công tốt
đẹp khắp cả Miền Nam Việt Nam do quyết tâm của tòan thể chức sắc, chức việc và
bổn đạo nam nữ trên toàn quốc nhiệt tình hưởng ứng và hoạt động hữu hiệu của
các tỉnh, quận, xã. Sau khi trình diện đức Hộ Pháp xong, sĩ Tải Lê Quang Tấn
nghiêm túc thực hiện lời phán dạy: Cần ra trình diện chánh phủ Hoàng Gia Cao
Miên để xin tỵ nạn chánh trị tại Phnom Penh, chờ qụyết định mới. Sĩ Tải liền
đến trình diện phòng cảnh sát đặc biệt. (Police Spécial) và làm đúng thủ tục
xin tỵ nạn chánh trị tại thủ đô Phnom Penh.
Lúc bấy giờ, tại SàiGòn và
các tỉnh miền tây đang gặp nhiều khó khăn với chánh quyền Miền Nam. Trưởng
huynh chơn nhơn Trịnh Phong Cương chưởng Quản Hội Thánh Phước Thiện, Thừa Sử
Phan Hữu Phước trưởng phòng Bộ Pháp Chánh, Sĩ Tải Trần Tấn Hợi liên lạc viên
ban vận đông CSHBCS. Miền Nam, Giáo Hữu Thượng Liên Thanh khâm châu đạo Chợ
Lớn, Giáo Sư Thượng Cao Thanh khâm trấn đạo Thừa Thiên, Luật Sư Nguyễn Thị Nhãn
Bộ Pháp Chánh Tòa Thánh Tây Ninh v.v… đã hy sinh bỏ mình trong ngục thất, và có
trên hai ngàn chức sắc, chức việc, bổn đạo nam nữ cùng bị băt bớ giam cầm để tô
điểm them Chính Sách Hòa Bình Chung Sống bằng một tội danh vô cùng đơn giản:
Cao Đài ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản.
Thiết nghĩ, chánh quyền
Miền Nam đã gay gắt: lên án hiệp định Génève 20-7-1954 là do Việt Minh ký kết
với Pháp chia đôi đất nước Việt Nam, và xem ngày 20-7-1954 là
ngày "Quốc Hận" của dân tộc Việt Nam, những người
Tín Hữu Cao Đào lại phổ biến sâu rộng, cùng thành lập ban vận động CSHBCS khắp
các tỉnh, quận, xã trên toàn quốc.Trong khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm chủ trương
triệt để chống Cộng Sản, còn tín hữu Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh lại đòi chung
sống hòa bình. Có phải chăng là muốn hòa bình chung sống với Cộng Sản nên mới
bị chế độ Ngô Đình Diệm khủng bố, đàn áp, bắt bớ, giam cầm. Trái lại số các bộ
Việt Minh nằm vùng (không đi tập kết ra bắc) thì lại im hơi lặng tiếng, mặc
tình cho hiệp định Génève không được tôn trọng khi mà người tín hữu
Cao Đài lại tình nguyện lấp bằng vĩ tuyến 17, ngang nhiên đột nhập khu phi quân
sự, thượng bạch kỳ tại cầu Hiền Lương (Bến Hải) không ngần ngại hiểm nguy!
Đang lưu vong tại Cao
Miên, tiếp nhận nhiều phúc báo và tường trình của Hội Thánh và ban vận động
CSHBCS Miền Nam cho biết rõ về chế độ Ngô Đình Diệm thẳng tay đàn áp Cao Đài,
đức Hộ Pháp liền có văn thư số 238/HP-VPHN ngày 28-2-1957 cho ông chủ
tịch Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến tại Việt Nam (Président De
Commission Internationale De Contrôle Au Vietnam)
Xin tạm dịch một đoạn:
…………………… Tôi yêu cầu ông Chủ Tịch mở cuộc điều tra tại chỗ và xin can thiệp trả
tự do cho những vị đã bị giam giữ.
Sĩ Tải Lê Quang Tấn tự
Trường, một chức sắc Cao Đài hiện ở Tòa Thánh Tây Ninh (Miền Nam Việt Nam) là
người đại diện chánh thức của tôi có thể cung cấp cho Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát
tại Việt Nam, những chi tiết cần thiết trong việc tiến hành cuộc điều tra được
dễ dàng xác thực ……
Nguyên vin Pháp Ngữ:
……………Je vaus serai, en conséquence torès reccjnnaissant de vouloir bien faire
ouvrir des enquêtes sur place et faire libérer le plutôt possible tous ces
détenues.
Le Si Tai Lê Quang Tấn dit
Trường, Diguitaire Caodaiste damicilié actuellement au Saint-Siège Caodaique de
Tây Ninh (Sud Vietnam) est désigné comme notre Représentant officiel auprès de
la c.I.e. au Vietnam pour lui apporter toutes precisians nécessaires et
facilliter les enquêtes prescrites.……………………………………)
Tiếp theo, ngày 23-6-1956,
đức Hộ Pháp tiếp được điện văn của cụ Hồ Chí Minh, Chủ Tịch Chánh Phủ Việt Nam
Dân Chủ cộng Hòa từ Hà Nội gởi đến Phnom Penh với nội dung:
"Tôi trân
trọng cám ơn bức điện văn cụ gởi tôi ngày 26-4-1956 và thành thật cám ơn cụ đã
tỏ ý mong muốn nước Việt Nam ta được hòa bình thống nhắt. Chánh Phủ Việt Nam
Dân Chủ cộng Hòa tòan dân ta từ Bắc chí Nam trong nước và ngoài nước đều đang
cương quyết và bền bỉ đấu tranh để thực hiện nguyện vọng tha thiết của dân tộc
là làm cho nước Việt Nam ta được hòa bình thống nhất độc lập dân chủ và giàu
mạnh.
Cuộc đấu tranh
hiện nay của nhân dân ta tuy phải khó khăn và phức tạp, song toàn dân đoàn kết
một lòng cương quyết phấn đấu cho nên nhất định sẽ thắng lợi.
Tôi xin gởi
cụ lời chào trân trọng.
Hà Nội, ngày 21
tháng 6 năm 1956
Hồ Chí Minh
Chủ Tịch nước Việt
Nam Dân Chủ Cộng Hòa"
Đồng thời đức Hộ Pháp cũng
nhận được thư của ông Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc hoan nghinh đường lối Hòa Bình
Chung sống và giải pháp dung hòa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản sớm thực hiện hòa
bình đại đồng thế giới.
Đức Hộ Pháp Phạm công Tắc
và phái đoàn Cao Đài lưu vong tại Cao Miên cũng gặp nhiều trở ngại. Vì quyền
lợi, vận mạng của số đông kiều bào Cao Miên còn đang sống rải rác ở các tỉnh:
Trà Vinh, Sóc Trăng, Cần Thơ, Bạc Liêu, Châu Đốc thuộc Miền Nam Việt Nam, bắt
buộc chánh phủ Hoàng Gia Cao Miên phải làm vui lòng chế độ Ngô Đinh Diệm trong
sự ngoại giao của 2 nước Việt-Miên. Lúc bấy giờ Quốc Trưởng Norodom Sihanouk
rất tế nhị, không trực tiếp hội đàm với đức Hộ Pháp như những lần tiếp kiến đức
Ngài trong năm 1950 và 1952 vô cùng tôn kính, mà lại ủy nhiệm cho Thủ Tướng Pen
Nouth Chánh Phủ Hoàng Gia tiếp kiến phái đoàn Cao Đài. Do đó đức Ngài chỉ định
cho Đại Huynh Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa hội đàm với Thủ Tướng Pen Nouth.
Thấu rõ thân phận của
người lưu vong và từng kinh nghiệm 5 năm 2 tháng bị tù đày ở Phi Châu
Madagascar vào những năm 1941 - 1946, đức Hộ Pháp thông cảm hoàn cảnh của Quốc
Trưởng Norodon Sihanouk lúc bấy giờ không thể trực tiếp nghinh đón đức Ngài một
cách tưng bừng trọng thể như trước kia.
Tình đời là thế! Nhưng vì
sứ mạng của đức Chí Tôn giao phó, đức Ngài không ngần ngại lìa xa
Tổ Đình Tòa Thánh Tây Ninh để lưu vong qua Cao Miên, một nước Trung
Lập hầu tránh áp lực của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản để đề xướng Chánh sách Hòa
Bình Chung Sống, bất chấp hiểm nguy đe dọa, và chấp nhận mọi khổ đau tủi nhục
của dân tộc bị ngoại bang áp đặt chia đôi lãnh thổ….
Nỗi khổ tâm nhất của đức
Hộ Pháp lúc bấy giờ là thỉnh thoảng tiếp nhận được điện tín hoặc phúc trình của
Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh và ban vận động CSHBCS Miền Nam báo cáo
bổn đạo nơi tỉnh này, tỉnh nọ bị đàn áp, bắt bớ giam cầm, và bỏ mình trong ngục
thất. Lòng ưu ái của đức Hộ Pháp đối với số chức sắc, chức việc và bổn đạo vô
cùng sâu sắc, nhất là khi được tin đồng đạo bị bắt bớ giam cầm. Cũng như ở tại
thủ đô Phnom Penh, Sĩ Tải Lê Quang Tấn phải bị 3 tháng tù với tội danh: Đột
nhập vào nước Cao Miên bất hợp pháp. Vừa ra khỏi khám đường, đức Ngài đã an ủi
Sĩ Tải Tấn với lời phán dạy hết sức xúc động: "Nếu bần đạo không
bị bệnh con không bị kêu án 3 tháng tù đâu". Lời phán dạy của đức
Ngài chưa chấm dứt thì hai dòng lệ từ từ chảy trên đôi má, khiến cho cả phái
đoàn lưu vong hiện diện không cầm được giọt lệ tự nhiên tuông trào. Đức Ngài
tiếp: "Bần đạo đã lớn tuổi rồi, không thể lột da sống đời để lo
cho các con mãi được. Tương lai của đạo, của đất nước Việt Nam đều do ở các
con, các con là đàn hậu tấn có trách nhiệm phải nối tiếp, Bần đạo chỉ là người
tiền phong lo khai sáng nền đại đạo, đó chỉ là bước đầu hy sinh lót đường mà
thôi.
Tương lai của Đạo
sau này sẽ thuộc thẩm quyền của đàn hậu tấn chăm lo tô điểm cho thiên hạ! Sứ
mạng của đàn hậu tấn là như vậy.
Ngày giờ nào có kẻ
thất thế yếu cô, rách rưới lang thang, đói cơm khát nước, khổ não tâm hồn,
không ai che chở bênh vực, chừng ấy nhiệm vụ trọng yếu của các con là phải ra
tay gánh vác. Đó là cơ cứu khổ thực hiện…"
Đồng thời, đức Hộ Pháp
liền bảo vị Hành Thiện Nguyễn Văn Hiệu, một ủy viên trung tín trong phái đoàn
lưu vong: "Hiệu! Con vào lấy áo trường y của Bần đạo đưa cho anh con,
Sĩ Tải Lê Quang Tấn để mặc vào đi trình diện bộ an ninh chánh phủ Hoàng
Gia." Vị Hành Thiện Nguyễn Văn Hiệu tuân lời và đem áo trường y
đến, đức Ngài liền bảo: Sĩ Tải, Bần đạo ban cho con bộ thiết giáp, con hãy mặc
vào và cùng đi với Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa đến trình diện với ông Kou Roun, Bộ
Trưởng an ninh chánh phủ Hoàng Gia Cao Miên để xin tỵ nạn chánh trị tại Phnom
Penh. Sĩ Tải Tấn cung kính tiếp nhận cái áo của đức Hộ Pháp vừa ban cho, mặc
vào xong thì đại huynh Bảo Đạo Khoa cùng Sĩ Tải Tấn lên xe đi thẳng đến bộ an
ninh được ông Benkabo Đổng Lý Văn Phòng Bộ An Ninh niềm nở tiếp đón, và sẵn
sàng ký giấy phép cho ty nạn chánh trị tại Thủ Đô Phnom Penh (mỗi 3 tháng phải
đến trình diện xin gia hạn tiếp).
Ngày 6-5-Đinh Dậu
(3-6-1957) đức Hộ Pháp nhận được điện tín từ Tòa Thánh Tây Ninh phúc báo hiền
huynh Thừa Sử Phan Hữu Phước đã bỏ xác tại trại giam Thủ Đức (Miền Nam Việt
Nam) vào lúc 23 giờ đêm 5-5-Đinh Dậu do hiền huynh Giáo Sư Thượng Giải Thanh
báo trình.
Đức Hộ Pháp cho mời Trưởng
Huynh Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh, khâm trấn đạo Tần quốc lo thiết lễ
truy điệu cho cố Thừa Sử Phan Hữu Phước, vả đức Ngài liền chỉ định cho hiền
huynh Đốc Nhạc Trần Thiện Niệm lo buổi lễ Chèo Thuyền tại khách đình lúc 20 giờ
đêm 6-5-Đinh Dậu (3-6-1957) rất long trọng. Trong thời gian lưu vong tại Cao
Miên, đây là lần đầu tiên đức Hộ Pháp Đến chủ tọa buổi lễ Chèo Thuyền Cố Thừa Sử
Phan Hữu Phước đượm tình ưu ái đối với một chức sắc Hiệp Thiên Đài đã trọn hiến
thân khổ hạnh cùng nền Đại Đạo.
Bổn đạo nơi trấn đạo Tần
Quốc (Cao Miên) còn nhớ rõ, sau buổi lễ chèo thuyền cố Thừa Sử Phan Hữu Phước,
đức Ngài cùng cả chức sắc trong phái đoàn lưu vong và Hội Thánh Trấn Đạo cùng
bổn đạo nam nữ đồng đến Văn Phòng Khâm Trấn Đạo dùng trà. Đức Ngài ngậm ngùi
phán rằng: "Thêm một đúa con trọn trung, trọn hiếu đã trở về với
Thầy Mẹ". Thừa sử Phan Hữu Phước từng chịu khổ hạnh, gian lao thử
thách, bị tù đày ở Sơn La (Bắc Việt) trong thời kỳ Pháp thuộc, rồi hôm nay vì
đường lối Hòa Bình Chung Sống, cố Thừa Sử Phan Hữu Phước đã trọn hy sinh cả
kiếp sống bỏ mình trong ngục thất Miền Nam Việt Nam là một sự mất mát lớn lao
của Hội Thánh. Đồng thời, đức Ngài liền nhìn qua số chức sắc trong phái đoàn
lưu vong tại Phnom Penh phán dạy tiếp: "Rồi đây cả chức sắc, các
con phải chịu thúc phược dưới quyền Cộng Sản một thời gian nữa."
Hiền huynh Tổng Giám Võ
Văn Khuê (một chức sắc trong phái đoàn lưu vong liền đứng lên bạch đức
Ngài: "Chúng con phải chịu thúc phược dưới quyền Cộng sản một thời
gian bao lâu?"
Đức Hộ Pháp đáp: "Bần
đạo cho hiền đệ một cái Mandat một triệu đồng, mả chư hiền đệ xài mạnh tay quá
thì một triệu đồng sẽ hết sớm! Còn đức Chí Tôn cho họ hưởng, mà họ không đạo
đức, lại còn tàn bạo quá thì đức Chí Tôn lấy lại sớm!
Chắc các chư hiền
đệ và các con còn nhớ bài Ngụ Đời của đức Lý Thái Bạch đã giáng cơ chỉ dạy cho
các con từ lâu rồi! Tại sao các con không chịu đọc lại "Ngụ Đời" của
đức Lý Đại Tiên?
Những lời phán dạy
của đức Lý Thái Bạch đã "tiên đoán" ứng hiện đúng thế cuộc của dân
tộc việt Nam trong tương lai."
Thiết tưởng vào đêm
6-5-Đinh Dậu (7-6-1957) đức Hộ Pháp đã tiên đoán trước là dân tộc Việt Nam phải
sống thúc phược trong vòng Cộng Sản một thời gian.
Đức Ngài biết rõ luật
Thiên Điều đã định vậy, không sao tránh khỏi được. Chẳng lẽ khoanh tay ngồi chờ
thế sự xảy đến, nên đức Hộ Pháp tự nguyện nhập Trí Huệ Cung (nhập vào tịnh
thất) ngày 16-1-Tân Mão (21-2- 1951), kêu gọi con cái đức Chí Tôn, nhất là Cửu
Nhị-Ức Nguyên Nhân hãy tỉnh mộng, mà nhìn lại nơi Trí Huệ Cung. Phải vào nơi
cửa này mới đạt đặng cơ giải thoát. Sau đó mới nhập vào cửa Thiêng Liêng Hằng
Sống, mà đức Chí Tôn đã tạo dựng riêng biệt dành để cho mọi người.
Thử hỏi đức Hộ Pháp nhập
tịnh để làm gì? Nghĩa lý gì mà ngày 21-2- 1951 phải nhập Trí Huệ Cung trong 3
tháng? Trí Huệ Cung là một cơ quan tận độ chúng sanh như các bạn đã biết. Quyền
tận độ đã xuất hiện nơi cửa đạo Cao Đài này. Nó không phải của tư, của đặc biệt
chúng ta, mà nó là của cả thể nhân loại trên mặt địa càu này vậy!
Đức Chí Tôn đã đến lập nền
Đạo Cao Đài này do nơi chân lý tối cao. Chính đức Chí Tôn đến để diệt mê tín dị
đoan và truyền bá một nền đạo chân chính mà thôi. Nhân loại mê tín dị đoan đã
nhiều rồi, tinh thần loài người đã bị gạt gầm nhiều rồi, bởi thế nên không thể
bị gạt được nữa.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
nhập vào Trí Huệ Cung, tịnh luyện trong 3 tháng. Qùi dưới chân đức Chí Tôn
thỉnh cầu nơi Ngài cứu độ sanh mạng loài người, vì lẽ nhân loại phạm Thiên
Điều, bởi loài người quá dữ gây oan nghiệt nơi mặt địa cầu này đầy dẫy.
Nếu Chí Tôn không có đến
hội hiệp con cái của Ngài, lập cơ giải thoát độ tận thì không phương cứu rỗi.
Bằng cớ hiển nhiên chúng ta đã thấy, vạn quốc xô nhau đến con đường tử lộ. Bởi
quả kiếp, họ chỉ biết cái sống của họ mà chẳng hiểu đến cái sống của người
khác, nhất là bạn đồng sanh của chúng ta, để mắt coi họ giết không biết bao
nhiêu, giết đặng ăn, ăn đặng sống, sống đặng bao nhiêu tuổi? Giỏi cho lắm kiếp
sống của họ cũng không quá 80 tuổi rồi chết, thử hỏi như thế làm sao không gây
oan nghiệt tội tình.
Các Tôn Giáo hiện hữu cũng
tìm phương cứu rỗi, với rất nhiều hình thức. Cả toàn cầu vạn quốc cũng bày ra
vạn quốc thống nhất để tìm giải pháp duy trì hòa bình, tránh cho khỏi nạn tàn
sát lẫn nhau.
Ôi! ỷ tài ỷ tận! Lấy trí
khôn ngoan để tim cái chết!!! Cả quyền năng cái sống thiêng liêng kia đã ban
cho họ, họ lại làm món lợi khí tàn diệt lấy họ đó là "bom nguyên
tử". Họ lấy trí khôn tìm ra cái chết chớ không phải tìm lấy cái
sống, coi mạng sống của người không ra gì hết, không kể trời đất, đạo lý, luân
thường gì hết, không còn kể quả kiếp tội ác, như thế chết cũng vừa! Rồi họ lại
tìm đủ cách để tránh tội, nhưng không qua mặt được luật Thiên Điều. Thiên Điều
kia, họ không thể di chủ nó được, vi nó cầm sinh mạng của họ, chết hay sống đều
do luật Thiên Điều mà thôi, họ không thể tìm bất cứ phương pháp nào để giải
quyết được.
Để giải rõ hành tàng trong
3 tháng của đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã nhập Trí Huệ Cung ngày 21-2-1951. Cái
hành tàng đó đã quá cũ kỷ chớ không mới lạ gì, hành tàng đó có từ thời thượng
cổ! Về mặt đạo, giống như 40 ngày đức chúa Jesus ra ngoài sa mạc khẩn cầu đức
Chí Tôn ban bổ hồng ân cho toàn nhân loại đặng đem cơ quan cứu thế của Ngài
gieo cho khắp xã hội nhân quần được hưởng. Cũng giống như đức Phật Thích Ca vào
vườn Bồ Đề ngồi thiền tịnh đặng xin giải thoát cho chúng sanh.
Về mặt thế, giống như vua
David, vì tội tình của nhân loại mà buổi nọ ra đồng sa mạc cầu đạo, xin giải
pháp cứu khổ cho dân Israel, và giống như vua Hạ Võ mang hài gai, đội nón lá,
chịu phong trần đặng cầu đảo cho quốc dân khỏi tội.
Cần nói rõ hành tàng cho
vận mạng của toàn thể nhân loại nói chung, và quốc dân việt Nam nói riêng là
nguyên nhân làm cho đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nhập vào Trí Huê Cung 3 tháng.
Nơi chốn tịch mịch, Ngài đã cầu khẩn với đức Chí Tôn ban hồng ân đặc biệt đặng
cứu rỗi lấy họ, là đem cơ quan cứu khổ của Ngài để thực hiện cho toàn thể nhân
loại, nhất là sắc dân Việt Nam yêu quí đồng chủng tộc cùng ông Phạm công Tắc.
Thiết nghĩ, một người
tượng trưng cho tinh thần đạo đức của dân tộc Việt Nam như đức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc đã có sứ mạng đem tinh thần đạo đức ấy cứu khổ cho thiên hạ, sửa cải
hành tàng hung ác của đời cho thành giọt nước thiêng liêng của đức Chí Tôn.
Nước thiêng liêng đạo đức của Ngài, dọn con đường thánh đức sạch sẽ, ấy là nước
chí thánh của Ngài, cầm giọt cam lồ đem rưới khắp toàn thể con cái của Ngài tức
là cả chúng sanh nơi mặt địa cầu này.
Cái định mạng của nhân
loại cũng như định mạng của toàn thể quốc dân Việt Nam, trong giờ phút này ở
trong tay đức Chí Tôn. Luật nhân quả của nhân loại chưa hết thì chưa tạo hạnh
phúc hòa bình được!
Nền chân giáo của đức Chí
Tôn vẫn là đường ngay chánh, nhất định về thể pháp chân truyền không hề mê hoặc
ai cả. Những phương pháp mê hoặc của thiên hạ về đạo lý sẽ bị chân truyền của
đức Chí Tôn từ từ tiêu diệt hết.
Không có quyền năng thiêng
liêng của đức Chí Tôn, không ai cứu chửa tội tình của nhân loại được! Cái mơ
vọng của thiên hạ chỉ đạt được khi mà khối chánh đức của họ cao hơn phàm tâm
của họ. Đến lúc ấy hạnh phúc của họ mới có và cơ quan cứu khổ của đức Chí Tôn
mới thực hiện được.
Đức Hộ Pháp nhập Trí Huệ
Cung "thiền định" trong 3 tháng cũng như đức Lý Thái Bạch đã phán dạy
trong đàn cơ tại Tòa Thánh Tây Ninh ngày 5-2-1927 (năm Đinh Mão):
THÁI BẠCH
Hỉ chư đạo hữu,
chư đạo muội, chư chúng sanh, hảo hội hiệp.
Thảm cho nhân
loại, khổ cho nhân loại!
Đời quá dữ, tội
tình ấy, hình phạt kia, cũng đáng đó chút. Lão vì thương yêu nhân sanh, hội 10
ngày nơi Bạch Ngọc Kinh cải cho qua nạn nhân loại, nhưng luật Thiên Điều chẳng
dễ chi sửa đặng. Nạn tiêu diệt hầu gần, hết chém giết lẫn nhau, tới buổi bệnh
chướng sát hại.
Lão thấy hình phạt
phải châu mày, nhưng ôm lòng ráng chịu, lạy lục khẩn cầu, chư đạo hữu đâu rõ
thấu, ngơ ngơ ngáo ngáo như kẻ không hồn thấy càng thảm thiết. Lão tưởng chằng
cần phải nói chi một nước nhỏ nhoi, đã đặng danh Thánh Địa là nước Nam này, mà
Lão xin không đặng tội cho thành SàiGòn, Chợ Lớn, Gia Định, Huế, Hải Phòng, Hà
Nội thay. Thảm! Thảm! Thảm!
Đức Hộ Pháp đã nêu gương
trong sáng, suốt cả kiếp sanh đủ can đảm chấp nhận mọi sự thử thách gian lao,
bất luận từ đâu đến, không một lời than van oán trách, thừa sức chịu đựng mọi
biến cố để cứu vãn tình thế nguy hại cho tương lai tổ quốc và giống nòi
Việt Nam.
Kế tiếp đức Ngài còn nhận
được nhiều văn thơ của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, Hội Nhân Quyền Quốc Tế,
và lãnh đạo các cường quốc nhiệt tình hoan nghinh Chánh sách Hòa Bình Chung
Sống đại đồng thế giới dung hòa 2 khối Cộng Sản và Tư Bản:
- 21-04-1956. International
Comission for Supervisionand Control in Combodia.
(Chủ Tịch ủy Hội Quốc Tế
Kiềm Soát Đình Chiến tại Cao Miên).
- 24-04-1956. Sir
Winston Churchill Thủ Tướng Anh Quốc, S.W.7
- 24-04-1956. Norodom Sihanouk Upayuvareach du
Cambođge (Quốc Trưởng Norodom Sihanouk Cao Miên).
- 24-04-1956. President
Guy Mollet (Tổng Thống Pháp Quốc).
- 26-04-1956. Ministre D'etat Pierre Mendes France.(Quốc Vụ
Khanh Pháp Quốc ấn ký).
- 27-04-1956. Felipe Polo Martinex Valdés Tây Ban Nha
- 02-05-1956. Chef De Section Departement Des Affaires Polique Et Du Conseil De sécurité United Nations. (Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc ấn ký).
- 03-05-1956. Haut Commissariat Republique Francaise Au Cambodge. (Đại sứ Pháp tại Cao Miên ấn ký).
- 14-05-1956. Division Des Droits De L'homme United Nation.
(Hội Nhân Quyền Liên Hiệp
Quốc ấn ký).
- 16-05-1956. Samdech Norodom Sihanouk Upayuvareach. (Quốc Trưởng Cao
Miên Norodom Sihanouk ấn ký).
- 19-05-1956. Office of
The President of The Philippines . (Tổng Thống Phi
Luật Tân ấn ký).
- 05-01-1957. Sa Majeste Preah Bat Samdech Preah Norodom Surmarit
Roi Du Cambodge.
(Hoàng Đế Cao Miên ấn ký).
Ngày 4-1-1958, cụ Tôn Đức
Thắng, ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Hà Nội gởi văn thơ mời đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc và phái đoàn Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh ra viếng thăm
đồng bào và bổn đạo Cao Đài tại Hà Nội trong dịp tết Nguyên Đán Mậu Tuất.
Phải chăng chánh sách Hòa
Bình Chung Sống do đức Hộ Pháp để xướng ngày 26-3-1956 đến nay đã đượm bông trổ
trái dung hòa được 2 khối Cộng Sản và Tư Bản gần gủi với nhau, tương nhượng
nhau để tồn tại, ngõ hầu góp phần tháo gỡ nguy cơ tiêu diệt.
Một điểm mừng cho cả nhân
loại là tiếng súng chiến tranh im bặt và cường quốc trên thế giới đã
bắt tay làm "sứ đồ" thay vì đánh nhau khốc liệt,
nhất là các lực lượng đối đầu nhau, kình chống nhau, đã bắt đằu thảo luận chấm
dứt sự xung đột.
Những lời tuyên truyền,
những luận điệu công kích thóa mạ nhau không còn xuất hiện, thay vào đó là
những lời lẽ đầy thân ái chúc tụng, những đề nghị hợp tác song phương và đơn
phương liên tiếp được ký kết.
Qủa thật là một biến
chuyển hi hửu, ngoài sức tưởng tượng của nhân loại. Chỉ mới vài năm trước đây
thôi, còn dãy đày những lò lửa, những hầm thuốc nổ, sẵn sàng nổ tung bất kỳ lúc
nào, mà gần đây nhiều cuộc chiến tranh đang bước vào giai đoạn kết thúc thật
sự. Một bằng chứng hiển nhiên là nhiều tên lửa chực chờ giết người đã bắt đầu
bị tháo gở và phá hủy. Đây là một việc vui mừng cho cả nhân loại.
Một việc hi hửu nữa là 2
nhà lãnh đạo tối cao: Nikhain Gorbachov Tổng bí thư Liên xô và Ronald Reagan
Tổng Thống Mỹ cơ hồ như bế tắc trong cuộc gặp gỡ hội đàm đầu tiên vào tháng 11
năm 1985. Trong vòng 40 năm qua 1945-1985, 2 nhà lãnh đạo tối cao Liên xô và Mỹ
trước đây chỉ có 12 lần tiếp xúc hội đàm với nhau mà thôi. Hôm nay vì sứ mạng
sống còn của nhân loại trên thế giới, họ đã ý thức trách nhiệm chung của họ nên
chỉ trong 30 tháng qua 1985 - 1988 đã có 26 lần bộ trưởng ngoại giao của 2 nước
Mỹ và Liên Xô gặp gỡ nhau thảo luận nhiều vấn đề quan hệ giữa đôi bên, đưa đến
cuộc gặp gỡ đầu tiên tại Génève tháng 11, 1985, mà lại gặp khó khăn, cơ hồ muốn
bế tắc. Do đó Tổng Thống R. Reagan mới đề nghị với Tổng Bí Thư M. Gorbachov:
Thôi chúng ta bắt tay làm Sứ Đồ tìm một giải pháp thích hợp dung hòa đôi bên!
Huyền diệu thay! Nhờ quyết
tâm tin tưởng và chấp nhận làm Sứ Đồ để tìm một giải pháp dung hòa, nên Tổng
Thống Reagan và Tổng Bí Thư Gorbachov mới ký kết được hiệp ước đầu tiên vào
tháng 11, 1985, khai thông cho các đàm phán kế tiếp trong những năm sau này:
- Hội đàm lần thứ nhất tại
Génève tháng 11 năm 1985.
- "hai Reykjavid 10
n ăm 1986
- "ba Washington 12 năm
1987
- "tư Moscow 05 năm 1988
Đặc điềm của cuộc hội đàm
lần thứ tư tại Mạc Tư Khoa, lần này lại xảy ra sự bất đồng giữa Tổng Bí Thư
Gorbachov và Tổng Thống Reagan cơ hồ như muốn bế tắc, chẳng khác nào như buổi
gặp gỡ hội đàm lần đầu tiên tại Génève năm 1985. Buổi họp đang căng thẳng thi
Tổng Bí Thư M. Gorbachov liền lên tiếng đề nghị với Tổng Thống R. Reagan: Chúng
ta nắm tay nhau làm "Sứ Đồ” lần thứ 2, hầu tìm phương
pháp dung hòa, giải quyết vấn đề cho được thỏa hiệp cùng nhau, và được sự đồng
tình chấp nhận của Tổng Thống R. Reagan. Nhờ vậy mà cuộc hội đàm lần thứ tư tại
Mạc Tư Khoa 1988 mới thoát khỏi sự bế tắc, và đã đạt được kết qủa tốt đẹp đúng
theo sự mong muốn của đôi bên vào ngày 29-5-1988 tại Moscow.
Chính Tổng Bí Thư M.
Gorbachov không ngần ngại tự thuật cho cả phóng viên báo chí quốc tế biết rõ
tại cuộc hội đàm lần thứ tư 29-4-1988, là đã 2 lần tự nguyện làm "Sứ
Đồ" nên bản thông cáo chung hôm nay mới có dịp ký kết trong bầu
không khí vui tươi, cởi mở của 2 phái đoàn Cộng Sản và Tư Bản đã nắm tay nhau
làm Sứ Đồ trong 2 lần hội đàm tại Génève 1985 và 1988 vượt qua mọi khó khăn cơ
hồ như bế tắc. Nếu Tổng Bí Thư M. Gorbachov không tự thuật những giao kết của 2
nhà lãnh đạo tối cao nắm tay làm sứ đồ để tìm giải pháp tương nhượng nhau, thì
cả thế giới chẳng một ai làm gì hiểu biết sự việc hi hửu tình nguyện làm sứ đồ
của Tổng Bí Thư M. Gorbachov và Tổng Thống R. Reagan, để đưa nhân loại thoát
khỏi hiểm họa diệt vong do chiến tranh nguyên tử đang đe dọa.
Ngộ nghĩnh thay! Nhà lãnh
đạo tối cao khối Cộng Sản M. Gorbachov đã ý thức trách nhiệm đối với nhân loại
trên thế giới, nên sẵn sàng tự nguyện làm "Sứ Đồ" với
Tổng Thống R. Reagan để dung hòa tìm giải pháp hòa bình đại đồng-thế giới. Đây
là một diễm phúc lớn lao cho cả nhân loại trên mặt địa cầu này, mà người tín
hữu Cao Đài có quyền tin tưởng rằng Thượng Đế đã xoay chuyển thức tỉnh Tổng Bí
Thư M. Gorbachov và Tổng Thống R. Reagan để đưa lần nhân loại đến sự thương yêu
và công bằng trong tình huynh đệ đại đồng.
Định nghĩa 2 tiếng Sứ Đồ
vô cùng thâm thúy đến vận mạng tương lai cho các nước nhược tiểu và cả nhân
loại đang phập phồng lo sợ chiến tranh nguyên tử sắp xảy ra trong mai hậu đã
bắt đầu tin tưởng 2 khối Cộng Sản và Tư Bản dung hòa tương nhượng nhau trong
tình thương của Thượng Đế.
Kế tiếp, tình hình quốc tế
biến chuyển theo chiều hướng tốt đẹp của những lời tuyên bố Tổng Bí Thư M.
Gorbachov: Biến gươm đao thành lưỡi cày. Thiết lập một khu vực không có khí
giới hạt nhân, khu vực Hòa Bình ở Châu Á Thái Bình Dương.
Một thế giới không có vũ
khí và bạo lực, một thế giới mà mỗi dân tộc đều được tự do lựa chọn con đường
phát triển lối sống của mình.
Người tín hữu Cao Đài rất
hãnh diện là có một vị lãnh đạo là cố Hộ Pháp Phạm Công Tắc, trước đây 30 năm,
không một ai ngờ được là 26-3-1956, đức Ngài đã đề xướng chánh sách Hòa Bình
Chung Sống, ý thức 2 khối Cộng Sản và Tư Bản đang đối nhau kịch liệt, thề không
đội trời chung, kẻ mất người còn, thì làm sao tránh khỏi những lời phê phán
nông cạn, hẹp hòi, ích kỷ: "Làm gì dung hòa được 2 khối Cộng Sản
và Tư Bản, rất uổn công mò kim đáy giếng", nhưng đã vô tình quên đi
bài học lịch sử trước kia, cũng vì quá nông cạn, vội vàng phán đoán, phủ nhận
sáng kiến của Bác Sĩ Kopemic ở thế kỷ thứ 17, minh chứng quả đất xoay quanh mặt
trời.
Hân hạnh thay! Trên 30 năm
qua, đức Hộ Pháp đã tiên đoán 2 khối Cộng Sản và Tư Bản nhất định phải dung hòa
nhau để tồn tại sống còn, và hôm nay đã trở thành hiện thực, mà cả nhân loại
trên hành tinh này không thể chối cải được. Chính Tổng Bí Thư M. Gorbachov và
Tổng Thống R. Reagan đã 2 lần đóng vai tuồng "Sứ Đồ" để
hoàn thành tốt đẹp 4 lần hội đàm, tháo gở ít nhiều sự hiềm khích trước kia, để
đi đến sự hiểu biết nhau, tương nhượng nhau, đỡ phần âu lo cho nhân loại về
chiến tranh hạt nhân.
Với trọng trách của đức
Thượng Đế đã giao phó, đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài
Hiệp Thiên và Cửu Trùng của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh, đức
Ngài hết Âu du rồi Á du. Ngài đã từng hướng dẫn phái đoàn Chức sắc Cao Đài Tòa Thánh
Tây Ninh viếng thăm Tổng Thống nước Triều Tiên, cùng như thăm Tổng Thống Tưởng
Giới Thạch để phổ biến nền Đại Đạo ở Á Châu, gây tình huynh đệ mật thiết với
Nam Triều Tiên và Đài Loan.
Để tưởng niệm công đức
những bậc anh hùng dân tộc đã trọn hy sinh vì dân vì Tổ Quốc, đức Hộ Pháp đáp
ứng đúng lời di ngôn cuối cùng của Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để điện hạ. Ngày
12-10-1954, đức Ngài hướng đứa một phái đoàn chức sắc sang Tokyo (Nhật Bổn)
rước tro đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để từ Đông Kinh về SàiGòn và quàng tại đền thờ
Đức Tổ Hùng Vương SàiGòn trong 3 ngày đêm liên tiếp cho thân hào nhân sĩ, dân
chúng, cùng ngoại giao đoàn đến tưởng niệm công ơn bậc anh hùng đã hy sinh thể
xác nơi đất khách quê người. Sau khi đồng bào đến tưởng niệm xong rồi, Hội
Thánh Cao Đài mới rướt tro đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để Điện Hạ về Tổ Đình Tòa
Thánh Tây Ninh lo phần hương khói.
Thừa cơ hội đức Hộ Pháp đã
lưu vong qua nước Cao Miên, ngày 16-2-1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm chỉ thị
cho phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ hướng dẫn Tráng Củ và Tráng Liệt (2 người
con trai của đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để ở tại Huế) cùng đi lên Tây Ninh hiệp với
ông Tỉnh Trưởng Tây Ninh là Nguyễn Văn Vàng làm áp lực cưởng chế Hội Thánh Cao
Đài, bức bách buộc phải giao "tro đức Cường Để" cho Tráng Củ và Tráng
Liệt mang tro về Huế để thờ phượng và lo phần hương khói.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm
lại quá quan tâm lo ngại đến chánh sách Hòa Bình Chung Sống đang phát triển
nhanh chóng trên khắp các tỉnh, quận, xã Miền Nam Việt Nam, do chức sắc Hiệp
Thiên Đài như: Phạm Duy Nhung, Nguyễn Minh Ngòi, Huỳnh Văn Hương, Nguyễn Thành
Nguyên, Nguyễn văn Tú, Nguyễn Ngọc Trân, Nguyễn Hữu Khỏe, Trần Tấn Hợi, Bùi Văn
Tiếp, Đồ Hoàng Giảm v.v. ., thuộc ban vận động CSHBCS Miền Nam là một chướng
ngại lớn lao cho chế độ Ngô Đình Diệm lúc bấy giờ. Do đó chánh quyền Miền Nam
Việt Nam mới ra tay trấn áp Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh bằng biện pháp
khống chế Hội Thánh phải giao phần tro cốt đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để mà Hội
Thánh đã lo phần hương khói suốt một năm qua tại Báo Ân Từ cho Tráng Củ và
Tráng Liệt thỉnh đem về gia đình ở Huế để thờ phượng, với mưu đồ đào tận rễ, là
không còn lưu lại chút di tích chánh trị của Đức Cường Để Điện Hạ còn sót lại
tại vùng Thánh Địa Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh.
Sau khi tỉnh trưởng Tây
Ninh Nguyễn Văn Vàng và Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ trấn áp Hội Thánh trong
buổi họp kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ, Đại Huynh Hiến Pháp Trương Hữu Đức bực
mình. Trên cương vị Đại Diện Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh mà bị trấn
áp, Ngài Hiến Pháp liền cáo từ rời khỏi phòng họp với lý do kém sức khỏe,
nhường cho Hội Thánh thảo luận vối phái đoàn Chánh Phủ do Phó Tổng Thống Nguyễn
Ngọc Thơ hướng dẫn.
Biết rõ sự rút lui
của Ngài Hiến Pháp, Tỉnh Trưởng tỉnh Tây Ninh Nguyễn Văn Vàng mới chấp
nhận danh từ Biên Nhận do Sĩ Tải Lê Quang Tấn đã đề nghị buổi ban đầu, không
còn bảo thủ danh từ Giao Lãnh như trước nửa mà phải ghi rõ là tờ "Biên
Nhận".
Việc tranh luận danh từ
Giao Lãnh và Biên Nhận được ngã ngũ là tờ Biên Nhận, và Hội Thánh nhượng bộ cho
phái đoàn Chánh Phủ lấy tro của đức Cường Để đang được lo phần hương khói tại
Báo Ân Từ.
Sau khi Phái Đoàn Phó Tổng
Thống Nguyễn Ngọc Thơ làm áp lực Hội Thánh lấy tro đức Cường Để tại Báo Ân Từ
xong, thì đến Đền Thánh vào bái lễ đức Chí Tôn. Khi Phái Đoàn vừa ra khỏi Đền
Thánh bước xuống tam cấp (các nấc thang trước Đền Thánh) thì bị Sĩ Tải Lê Quang
Tấn chận lại với sự trợ lực của Sĩ Tải Nguyễn Ngọc Trân không cho Phó Tổng
Thống Nguyễn Ngọc Thơ bước lên xe. Bị bắt buộc, Phó Tổng Thống Thơ phải ra lịnh
cho Tỉnh Trưởng Vàng phải trao cho một tờ Biên Nhận (theo đề nghị của sĩ Tải
Tấn) cầm làm bằng mới được bước lên xe trở về SàiGòn. Thình lình bị sĩ Tải
Tấn ngăn chận, Phó Tổng Thống Thơ rất bực bội, tự ái, lớn tiếng truyền
lịnh: "Anh Vàng đưa cho họ một tờ biên nhận đi."
Trước tình thế bắt buộc
chẳng đặng đừng, Tỉnh Trưởng Nguyễn Văn Vàng phải trao cho sĩ Tải Lê Quang Tấn
một bản Biên Nhận ấn ký đã nhận phần tro của đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để để làm
bằng. Đồng thời, Phó Tổng Thống Thơ liền gọi Trung úy Trưởng Ty Công An Tây
Ninh đến bến cạnh vả chỉ thị cho Trung úy Phước "Tôi gởỉ 2 vị này
cho anh" sự diễn tiến đã gây nhiều dư luận xôn xao cho số chức
sắc và bổn đạo đứng chung quanh, nhất là lời chỉ thị ngắn gọn của Phó Tổng
Thống Thơ bao gồm sự đe dọa sâu sắc cho số phận của nhị vị Sĩ Tải Lê Quang Tấn
và Nguyễn Ngọc Trân.
Việc gì đến nhất định phải
đến, chỉ vì bảo thủ sỉ diện trước chỗ đông người, Phó T.T.Thơ mới gởi Sĩ Tải
Tấn và Trân cho Trưởng Ty Công An Tây Ninh như thế. Cả chức sắc hiện diện tin
chắc rằng tai họa sẽ ập đến cho nhị vị Sĩ Tải Tấn và Trân.
Quả thật không sai,
chỉ 3 ngày sau thi Tỉnh Trưởng Tây Ninh Nguyễn Văn Vàng có thơ mời nhị vị
Sĩ Tải Lê Quang Tấn và Nguyễn Ngọc Trân đến Tòa Hành Chánh Tỉnh Tây Ninh
để thẩm vấn nhiều việc gay gắt, nhưng uy quyềnHội Thánh
vẫn còn, nên mọi việc đều được xếp lại êm ấm.
Thiết nghĩ vào năm 1926
dân số Tỉnh Tây Ninh chưa được 40.000 người. Nhưng kể từ khi đức Ngọc Hoàng
Thượng Đế hoằng khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trên nước Việt Nam, lại chọn
Tỉnh Tây Ninh để kiến tạo ngôi Đền Thánh Cao Đài thì đồng bào ở các Tỉnh ồ ạt
qui tụ về Tòa Thánh Tây Ninh càng thêm đông đảo, và dân số Tây Ninh tăng lên
trên 400.000 trong năm 1956.
Hồi tưởng lại, với 2 bàn
tay trắng, đức Hộ Pháp và một số Chức sắc, Bổn Đạo "Tiền Bối" đã
vững niềm tin nơi đức Cao Đài Thượng Đế, chẳng ngại gian lao khổ cực, đã dày
công khai sơn phá thạch, đốn gốc phá chồi, biến 96 mẫu rừng hoang vu đầy hùm
beo ác thú trở thành một vùng Thánh Địa trù phú. Nơi đây có một ngôi Đền Thánh
khang trang lộng lẫy, có thể sánh vai cùng các kỳ quan thế giới, có nhiều dinh
thự, văn phòng, cơ sở, trung tiểu học, viện đại học, dưỡng lão đường, cô nhi
viện, bệnh viện, Trí Huệ Cung, Trí Giác Cung, Vạn Pháp Cung và
lại thêm có một phi trường nằm cạnh bốn Trí Huệ Cung, nhất nhất đều do sáng
kiến, hướng dẫn, đôn đốc sáng tạo của Đức Hộ Pháp.
Du khách thập phương mỗi
khi đến viếng Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh, không một ai nghĩ rằng trước đây là
một khu rừng cấm hoang vu, không một ai lui tới khi mặt trời bắt đầu xế bóng,
mà hôm nay trở thành một đô thị khách vãng lai tấp nập.
Một bằng chứng còn lưu lại
đối với các du khách và phái đoàn các Tôn Giáo, là chỉ nhìn vào hàng cây cổ thụ
trước Đền Thánh mà từ trước đến giờ thưòng gọi là “rừng thiên nhiên”, một
di tích lịch sử, khối đức tin mãnh liệt của Bổn đạo Cao Đài. Không cơ khí, chỉ
2 bàn tay trắng, đã biến khu rừng cấm 96 mẫu hoang vu trong thời gian kỷ
lục là 3 tháng đã trở thành phồn thịnh, với những đại lộ thênh thang như Bình
Dương Đạo v.v... Dọc ngang những con đường thẳng tấp, những cây cầu như Đoạn
Trần Kiều, Giải Khổ Kiều v.v... bao bọc vùng Thánh Địa vói 20 Phận Đạo, nhà cửa
được xây cất ngay hàng thẳng lối dọc theo các Phận Đạo thuộc ngoại ô Tòa Thánh
xuyên thẳng vào các cửa ra và vào Nội Ô Tòa Thánh. Ngoài ra đức Hộ Pháp có sáng
kiến tạo thành Đại Lộ Chánh Môn, mà bổn đạo thường gọi là Đại Lộ Xuyên Á, tức
là Đại Lộ này sẽ nối liền với các nước Châu Á trong tương lai.
Điểm đặc biệt là các du
khách đến viếng Tòa Thánh Tây Ninh, một nơi không thể quên được là "Chợ
Long Hoa" hay Long Hoa Thị chuyên bán đồ ăn chay quanh năm suốt
tháng. Nổi bậc nhất là sự mua bán rất phải chẳng, không thách giá, và cân đo
lường sòng phẳng, nhã nhặn, vui vẻ và rất mến chuộng khách hàng, bất luận từ
đâu đến, đó là niềm tự hào của tín hữu Cao Đài tự bảo vệ thanh danh cho Long
Hoa Thị mà các phái đoàn du khách thường nhắc nhở khen
ngợi: Chợ Long Hoa rất thanh lịch, mẫu mực. Tiếng đồn vang dội
về Long Hoa Thị vẫn còn ghi đậm vào ký ức các du khách vãng lai. Các tín hữu
Cao Đài thuộc nhiều thế hệ sanh ra lớn lên trong vùng Thánh Địa hào hùng, đạo
đức, không bao giờ xao lảng công ơn đức Hộ Pháp đã dày công huấn giáo, rèn
luyện đi vào nề nếp và rất xứng danh Long Hoa Thị, gương mẫu về thái độ lịch
sự, niềm nở, ân cần, nhiệt tình và trách nhiệm trong việc giao tế với khách
hàng. Đó là nét đặc trưng nổi bật của Long Hoa Thị lúc bấy giờ.
Đức Hộ Pháp thường nhắc
nhở và chỉ dẫn các Chức Sắc, Chức Việc, Bổn Đạo về việc lập công bồi đức trong
nền Đại Đạo. Chẳng những dành riêng cho hàng Chức Sắc Thiên Phong, mà đức Chí
Tôn còn chiếu cố cho cả môn đệ, bất luận nam nữ mỗi người đều có đức tin vững
chắc nơi Thầy, Mẹ cùng nhiệt tâm trọn hiến mảnh thân phàm vun bồi công quả,
nhất định sê đạt được phẩm vị thiêng liêng của Chí Tôn đã dành sẵn. Những gương
trong sáng của Phối Thánh Màng Và Bùi Ái Thoại mà toàn cả Bổn Đạo đều biết rõ,
chỉ là một "tín hữu công quả" thợ hồ, thợ đấp vẽ, đã
dày công qủa kiến tạo ngôi Đền Thánh mà vẫn đạt được Phẩm Phối Thánh, một phẩm
vị thiêng liêng cao trọng mà đức Chí Tôn đã dành sẵn cho cả môn đệ hiếu thảo,
khi thoát xác phàm.
Một truyền thống đặc biệt
của Tỉnh Tây Ninh mãi còn lưu lại là "trò nhớ ơn thầy" mà
đức Hộ Pháp hằng quan tâm gìn giữ, bảo vệ với tinh thần "Tôn sư
trọng đạo", đức Hộ Pháp đã nêu cao gương trong sáng mẫu mực của
người học trò, lúc nào cũng nhớ đến công ơn ông thầy dày công huấn giáo, rèn
luyện và đào tạo mình trong lúc còn niên thiếu cho đến khi trở thành người hữu
dụng cho xã hội sau này.
Theo thông lệ hàng năm,
mỗi độ xuân về, Tết Nguyên Đán, đúng ngày mùng 3 Tết, mặc dù là một chức sắc
lãnh đạo Tôn Giáo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, đức Phạm Công Tắc không quên bổn
phận đối với ông Thầy đã dạy minh học trước kia. Đức Ngài mặc Quốc Phục, áo dài
đen, chích khăn đóng đen đúng theo phong tục tập quán cổ truyền Việt Nam, thân
hành đến tận nhà ông Thầy dạy học trước kia là ông Đốc Học Giảng để mừng tuổi
ông Thầy cũ, tỏ lời tôn kính và chúc mừng năm mới. Chính vì điều này, đức Hộ
Pháp đã lưu lại tấm gương trong sáng cao đẹp cho 3 triệu tín đồ hằng ghi
nhớ "tôn sư trọng đạo", và cho đồng bào Tỉnh Tây
Ninh "Trò nhớ ơn thầy".
Vì lý tưởng sống cho muôn
dân, cho cả nhân loại bằng chủ thuyết Hòa Bình Đại Đồng Thế Giới,
nhất là thảm cảnh lầm than thống khỗ của đồng bào 2 miền Nam-Bắc Việt Nam, cũng
như bao nỗi thăng trầm của đất nước, nên đức Hộ Pháp mới có văn thư số:
21/HP-VPHN ngày 26-3-1956 gởi đến cụ Hồ Chí Minh, Chủ Tịch nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa, và gởi đến cụ Ngô Đình Diệm Tổng Thống nước Việt Nam Cộng Hòa một
chương trình thống nhất đất nước Việt Nam. Văn thư này đề cho 2 cụ trọn tâm
nghiên cứu và tìm phương pháp hay khéo bổ cứu vào mọi khuyết điểm, hầu chánh
phủ 2 miền Nam - Bắc có thể thực hiện được. Để đáp ứng đúng nguyện vọng của
đồng bào trên toàn quốc, nhất là kêu gọi lòng ái quốc nồng nàn của 2 cụ, bản
văn thư kêu gọi hãy cương quyết gạt bỏ mọi tư hiềm, thành kiến, không để ngoại
bang xâm nhập vào nội quyền Việt Nam và tìm phương cứu nước.
Đức Hộ
Pháp đã tự nguyện hiến mảnh thân phàm làm con tế vật phụng sự nhân loại, từng
lãnh cái khổ của muôn người làm cái khổ của chính mình, để thắng khổ rồi giải
khổ. Vì thế mà đức Ngài thường nhắc nhở, giáo huấn cả Chức Sắc và Bổn
Đạo: "Quyền luật nào lập ra tại mặt địa cầu này mà không trái với
tâm lý của nhân loại thì nó sẽ tiến triển theo sự tấn
hóa của nhân loại,
đặng bảo tồn sanh mạng của nhân loại cho được vĩnh viễn và hạnh phúc. Ấy thế
đạo của đời chân chánh đó vậy!". Đức Ngài cũng thường huấn
giáo: "Đức Chí Tôn đến hoằng khai nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ trên
đất nước Việt Nam, đức Chí Tôn không bắt buộc môn đệ của Ngài làm gì quá sức mà
chỉ bắt buộc môn đệ của Ngài phải thực hiện cho ra thiệt tướng sự thương yêu và
quyền công chánh nơi mặt thế này thì đạo Cao Đài mới ra thiệt tưởng".
Niên kỷ càng cao sức phàm
càng yếu lại thêm chồng chất nỗi lo âu của đồng bào 2 miền Nam - Bắc đang chia
đôi, ngoại quyền chi phối, bao nhiêu thảm cảnh của đồng bào và Bổn đạo dồn dập,
đức Hộ Pháp qúa suy tư lo nghĩ nên thọ bệnh áp huyết cao, phải vào nằm điều trị
tại bệnh viện Foundation Calmette Thủ Đô Phnom Penh.
Đang nằm trên giường bệnh,
đức Ngài cho mời một số Chức Sắc Trấn Đạo Tần Quốc tại Phnom Penh đến tận
giường bệnh để nghe những lời phán dạy sau cùng: Bần Đạo qui thiên, tạm gởi thể
xác nơi đất Cao Miên một thời gian, ngày nào nước nhà độc lập, thống nhất, hoặc
thực hiện đúng theo chánh sách hòa bình, trung lập, mục phiêu đời sống của bần
đạo, thì mới đưa Liên Đài về Tòa Thánh Tây Ninh.
Đại huynh Chánh Phối sư
Thái Khí Thanh, khâm trấn đạo Tần Quốc, đại diện cho cả chức sắc nam nữ hiện
diện tôn kính đáp: đệ tử xin trọn tuân lệnh đức Ngài. Đức Hộ Pháp tiếp: "Bần
đạo tạm gởi thể xác lại đất Cao Miên là bần đạo cùng muốn chung chịu cảnh chia
đôi của đồng bào 2 miền Nam-Bắc. Bần đạo đã tiên liệu rồi, việc phải đến sẽ
đến, nước nhà chưa thống nhất thì không gấp gì hồi hương. Vậy phải bình tâm chờ
một thời gian nữa sẽ thấy thiên cơ xoay chuyển có lợi cho Việt
thường về mặt tinh thần".
Đồng thời, đức Hộ Pháp còn
gởi cho quốc trưởng Norodom Sihanouk bức di ngôn, và kính gởi đến Hoàng Thượng
Norodom Surmarit (Vua cha thái tử Sihanouk) hết sức thâm thúy thân tình (cả hai
bức thơ đều viết bằng Pháp Ngữ).
Xin tạm dịch bức di ngôn
gởi cho Quốc Trưởng Norodom Sihanouk ra Việt Ngữ:
Hộ Pháp Phạm Công
Tắc
Kính gởi Hoàng
Thân Norodom Sihanouk
Thưa Điện Hạ
Bần đạo gởi những
dòng chữ này đến Điện Hạ trên giường bệnh của bần đạo (bệnh viện
Calmette). Sức khỏe của bần đạo càng ngày càng suy giảm và bần đạo nghĩ không
còn sống bao lâu nữa.
Vậy bần đạo gởi
những dòng chữ này để cám ơn Điện Hạ và Chánh Phủ Hoàng Gia đã dành cho bần đạo
với đoàn tùy tùng và cho tất cả tín đồ Cao Đài của bần đạo sự khoản đãi rộng
rãi và sự dễ dãi.
Bần đạo thành tâm
cầu nguyện Thượng Đế Cao Đài và Phật Tổ ban hồng ân che chở cho Vương Quốc Cao
Miên và Điện Hạ để chóng thực hiện và nhất là thành công vẻ vang Chánh Sách Hòa
Bình, Trung Lập và Chung Sống. Chánh sách đặc biệt và ưu ái của bần đạo, mà
chưa thể thực được.
Bần đạo thành tâm
ước mong rằng tổ quốc thân yêu của chúng tôi, nước Việt Nam, có thể đeo đuổi
Chánh Sách ấy trong một ngày gần đây. Tay bắt tay cùng đi với nước Cao Miên
trong đường lối thương yêu và cộng đồng giữa hai dân tộc Miên - việt.
Bần đạo sẽ hoàn
toàn sung sướng được yết kiến lần cuối cùng với Điện Hạ, để tỏ bày tất cả những
lời cám ơn của bần đạo, nhưng bần đạo không biết sức khỏe của bần đạo còn chờ
được hay không ngày trở về của Điện Hạ.
Dù sao tình thân
hữu thâm niên của chúng ta, nhân danh lòng thương yêu và tình huynh đệ giữa hai
dân tộc Miên Việt, và nhất là nhân danh tương lai bất khả phân ly của 2 nước
chúng ta Cao Miên và Việt Nam.
Bần đạo cung kính
xin Điện Hạ như một ân huệ cuối cùng đặc biệt cho Thánh Thất Cao Đài chúng tôi
khỏi phải chịu dưới lệnh phá hủy, để giữ kỷ niệm độc nhất của bần đạo trên đất
Cao Miên.
Để giúp Điện Hạ có
một ý tưởng đúng đắn về tình hình qua, bần đạo trân trọng gởi đến Điện Hạ bản
sao đơn thỉnh nguyện của bần đạo vừa chuyển đệ đến Hoàng Thượng.
Bần đạo phải thoát
kiếp nơi đây. Bần đạo xin yêu cầu Điện Hạ cho phép bần đạo tạm gởi thi hài ở
nơi đất Cao Miên, dưới sự bảo vệ tối cao của
Hoàng Gia Cao Miên. Ngày nào tổ quốc thân yêu của chúng tôi là nước Việt Nam
được thống nhất và theo Chánh sách Hòa Bình Trung Lập mục phiêu đời sống của
bần đạo, tín đồ của chúng tôi sẽ di thi hài về Tòa Thánh Tây Ninh.
Bần đạo khẩn cầu
Điện Hạ và Chánh Phủ Hoàng Gia, sau khi bần đạo thoát xác, dành cho đoàn tùy tùng
và cả thiện nam tín nữ của bần đạo sự khoản đãi rộng rãi, và sự dễ dãi như
trước để tu hành theo Tôn Giáo của chúng tôi.
Biết rằng Điện Hạ
sẽ chiếu cố đến đơn thỉnh cầu này, bần đạo sẽ thanh thản nhắm mắt đem theo cái
kỷ niệm dịu dàng nhất trong đời của bần đạo.
Cung kính xin Điện
Hạ chấp thuận lòng tri ân vĩnh Viễn của bần đạo.
Phnom Penh, ngày
14 tháng 5 năm 1959.
HỘ - PHÁP
( Ẩn Ký )
PHẠM CÔNG TẮC
226, Phlauv Preah
Bat Norodom à Phnom Penh.
Di ngôn của đức Hộ Pháp
biểu lộ khí phách hào hùng, sống phụng sự cho nòi giống, cho nhân loại, thác-kỳ
vọng ngày thanh bình cho đất nước Việt Nam.
Mặc dù đang, nằm trên
giường bệnh, đức Ngài gọi từng chức sắc đến căn dặn từng chi tiết, trách nhiệm
của mỗi chức sắc, nhất là hướng dẫn những chức sắc tùy tùng trong đoàn lưu vong
nhiều điều cần thiết trong mai hậu.
Lại thêm một việc thận
trọng chưa từng có, là sau khi gởi bức thơ di ngôn chuyển đệ lên Quốc Trưởng
Norodom Sihanouk vào ngày 14-5-1959, do Sĩ Tải Lê Quang Tấn ghi vào "sổ
chuyển giao" và chính tay Sĩ Tải Tấn đã đem vào Hoàng
Cung nhận lãnh, ký tên vào sổ chuyển giao hẳn hòi, song đức
Ngài còn bảo mời Trưởng Huynh Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh khâm trấn Đạo
Tần Quốc đến tận giường phán dạy: "ngày thứ bảy là ngày Hoàng
Thượng Norodom Surmarit tiếp kiến thần dân Cao Miên theo thông lệ vào thứ bảy
hàng tuần, Hiền Đệ và Giáo Hữu Thái Đồng Thanh hãy vào Hoàng cung bái kiến
Hoàng Thượng Surmarit dâng bức di ngôn của bần đạo đến tận tay Hoàng
Thượng tường lãm".
Tuân lịnh đức Ngài, Trưởng
Huynh Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh và Giáo Hữu Thái Đồng Thanh đã đến
Hoàng Cung vào sáng ngày thứ bảy, được ban tổ chức
sắp xếp nhị vị qùi vào hàng thứ 3 trong số người Cao Miên đang qùi chờ vua
Surmarit giá lâm tiếp kiến thần dân trong nước.
Đặc biệt thay! Đức vua
Norodom Surmarit vừa đến sân chầu, thấy thần dân đang qùi chờ đợi mà lại có 2
vị chức sắc Cao Đài mặc sắc phục trắng, nên đức Hoàng Thượng Surmarit liền đi
thẳng đến nhị vị Thái Khí Thanh và Thái Đổng Thanh tiếp nhận bức di ngôn, và
liền mở ra xem và phán dạy: "về thưa lại với đức Hộ Pháp, Hoàng
Thượng đã nhận được bức di ngôn và chấp nhận hết những lời yêu cầu."
Trưởng Huynh Chánh Phối Sư
Thái Khí Thanh và Giáo Hữu Thái Đổng Thanh bái lễ Hoàng Thượng kiếu từ ra khỏi
Hoàng Cung đi thẳng đến bệnh viện Calmette kính trình với đức Hộ Pháp là nhị vị
đã làm xong sứ mạng của đức Ngài đã giao phó.
Sau khi phán dạy cả chức
sắc nam nữ suốt những ngày sau cùng tại bệnh viện Calmette, đức Hộ Pháp Phạm
Công Tắc qui thiên tại bệnh viện thủ đô Phnom Penh vào lúc 13 giờ 30 chiều nhằm
ngày Ĩ7-5-1959, nhất là 50 ngàn tín hữu Cao Đài tại Cao Miên vô cùng
xúc động khi được tin đức Ngài đã thoát xác, và thể xác được đưa về
Thánh Thất Cao Đài, thuộc Trấn Đạo Tần Quốc (Toul Sway Prey) Quận 5, Thủ Đô
Phnom Penh để lo phần tang lễ, hưởng thọ 70 tuổi.
Đức Hộ Pháp qui thiên để
lại trong lòng nhân thế một niềm thương tiếc vô cùng tuyệt đối. Ba triệu con
tim cùng chung nhịp đập đều hướng về Thủ Đô Phnom Pênh, tưởng niệm công ơn bậc
tối cao đã trọn hiến mảnh thân phàm phục vụ cho nhân loại. May mắn thay 50
ngàn tín hữu Cao Đài tại Cao Miên có diễm phúc tề tựu về Thánh Thất Phnom
Penh "thọ tang" suốt 10 ngày đêm túc trực bên cạnh
Liên Đài của đức Ngài niệm kinh cầu nguyện, mỏ chuông không dứt tiếng.
Ngoài ra đại diện các Tôn
Giáo từ các tỉnh xa xôi Siemriep, Kompongthom, Kopong Cham, Soayrieng, Pursat,
Takeo, Kampot, Mimot, Kratié, Battambang v.v... đồng đến chia buồn Hội Thánh và
bái lễ chào vĩnh biệt đức Ngài với những tràng hoa lưu niệm vô cùng sâu sắc
thắm đượm tình đoàn kết Tôn Giáo. Đồng thời các ngoại giao đoàn tại Thủ Đô
Phnom Penh, nhất là các đại sứ của 2 khối Cộng Sản và Tư Bản đã tiếp nhận được
bản cương Lĩnh Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống của đức Ngài đã đề xướng vào ngày
26-3-1956 đều có nhiệt tình cao đẹp chiếu cố đến đặt tràng hoa tưởng niệm trước
Liên Đài, chào vĩnh biệt bậc vĩ nhân thế kỷ 20, đã trọn hy sinh phục vụ hòa
bình cho nhân loại.
Điểm nổi bật trong tang lễ
là sự hiện diện của Thủ Tướng Pen Nouth, đại diện Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Hiên
hướng dẫn một phái đoàn đến phân ưu cùng Hội Thánh, đặt vòng hoa tưởng niệm và
bái lễ trước Liên Đài đức Ngài rất trân trọng.
Một phái đoàn Phật Giáo,
đại diện cho đức Sải Cả, đến trì kinh, đặt vòng hoa phân ưu, và tiễn đưa Liên
Đài đức Ngài nhập Bửu Tháp để đáp lại tình luyến tiếc vói đức Hộ Pháp trong 2
chuyến từ Toà Thánh Tây Ninh đến tham dự những buổi lễ Phật Giáo tại Phnom Penh
trước kia, cùng đàm đạo thân mật. Nên nhớ vào những năm 1950 - 1952 đức Sải Cả
Phật Giáo Cao Miên đã 2 lần mời đức Hộ Pháp đến hội kiến.
Còn tại miền Bắc Việt Nam,
nữ Giáo sư Hương Dư, đại diện Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tại Thánh
Thất Cao Đài Hà Nội thiết lễ "tưởng niệm'' rất trọng thể
có đại diện Chánh Phủ Miền Bắc VNDCCH đến dự.
Cao qúi thay! Sau một thời
gian đi công du ở Hải Ngoại vừa mới trở về tới Thủ Đô Phnom Penh, đức Quốc
Trưởng Norodom Sihanouk, chủ tọa một buổi họp báo trước sự hiện diện của các
phóng viên, ký giả quốc tế và ông Tổng Trưởng Bộ Thông Tin Chánh Phủ Hoàng Gia
Cao Miên. Quốc Trưởng Norodom Sihanouk có trả lời một câu phỏng vấn của ông
Giang Kim, chủ nhiệm nhật báo Hữu Nghị phát hành tại Thủ Đô Phnom Penh như sau:
"Tôi rất tiếc
ngày trở về nước, không được hội kiến với đức Hộ Pháp lần chót. Khi trở về thì
đức Ngài đã mất. Tôi sẽ hoàn toàn chấp nhận những lời đề nghị của đức Hộ Pháp,
và xin nhờ nhà báo chuyển tới bổn đạo Cao Đài là tôi đã ra lệnh cho Chánh Phủ
thi hành đúng theo lời yêu cầu của đức Hộ Pháp."
Riêng phần Chức Sắc và bổn
đạo tại Miền Nam còn bị chế độ khắc khe, không cho Hội Thánh và bổn đạo cử hành
tang lễ. Giọt nước mắt của người tín đồ ngoan đạo đã bị bạo quyền cấm chảy,
càng làm nứt nỡ bao con tim của những tín hữu đã trọn hiếu thảo trung thành với
đức Hộ Pháp.
Tuy nhiên với lòng trung
kiên, nhẫn nhục tuyệt vời của Chức Sắc và Bổn Đạo nam nữ vẫn âm thầm lặng lẽ,
bất chấp hiểm nguy cử hành tang lễ đức Hộ Pháp vô cùng trọng thể. Mãi đến cuối
năm 1963, sau khi luật đào thải tự nhiên chấm dứt một chế độ, kỷ niệm qui thiên
của đức Hộ Pháp được Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh chánh thức ban hành
cho các Thánh Thất trên toàn quốc đồng thiết lễ "Qui Thiên" để
tưởng nhớ công đức đức Ngài hết sức long trọng vào ngày mùng 10 tháng 4 âm lịch
hàng năm.
Đức Hộ Pháp đã vì mục đích
cứu đời, cứu vớt chúng sanh mà đã xem thường mạng sống cá nhân, trọn hy sinh cả
kiếp sanh, bỏ xác nơi đất khách quê người, để cùng chung chịu cảnh chia đôi của
đồng bào 2 miền Nam - Bắc Việt Nam. Thật đúng là một bậc vĩ nhân của thế kỷ 20,
làm hồi chuông cảnh tỉnh, giác ngộ dục vọng con người trên mặt thế này. Đức
Ngài đã lưu lại tấm gương trong sáng, khiêm tốn, đạo đức cao đẹp tuyệt đối để
phụng sự nhân loại tiến đến hòa bình và đại đồng thế giới, tức là soi đường dẫn
lốỉ cho nhân loại tiến bước trên đường tận thiện, tận mỹ trong tình huynh đệ
nhìn nhau một cha chung.
Tổ phụ ta thường bảo: sống
có cái nhà, thác có cái mồ. Song, đức Hộ Pháp tôn kính của chúng ta qui thiên
nơi đất lạ quê người chỉ có cái Liên Đài trơ trọi với gió sương mứa nắng! Âu
cũng là do thiên ý đã an bày!!!
Lại thêm một huyền diệu
thiêng liêng làm chấn động cả thế giới về cuộc qui thiên của đức Hộ Pháp xuất
hiện tại Pháp Quốc, do nữ đồng tử Sarah Bartel tiếp nhận và ghi chú những lời
trên không trung về việc thoát xác của vị giáo chủ toàn cầu của đạo Cao Đài là
đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc (Báo Le Lien số: 4, tháng Juin năm 1959, trang 30),
đã giáng cơ mà nữ đồng tử
Sarah Bartel ghi chép:
" Để thống
nhất tất cả đệ tử thần linh trên toàn quốc.
Rền
than nhưng vẫn hy vọng!
Cùng chư vị
thần linh ở phương tây;
Chúng ta có một
bổn phận đối với anh, chị chúng ta ở Phương Đông và Cực Đông, là bổn phận hợp
tinh thần trong việc hợp tác huynh đệ đề tìm biết rõ về vô hình."
Một tiếng nói trên không
trung nói với chúng ta như vầy:
Nếu đạo đức đem
lại một đời sống hạnh phúc là vì đạo đức là một tình thương yêu cao cả, thì
tình thương yêu chỉ là một với tình thương yêu cả nhân loại và cả hư vô.
"Tiếng nói đó là
tiếng nói nào mà người ta càng nghe tỏ rõ khi lỗ tai phàm không thể nghe rõ?
Tiếng nói đó là tiếng nói nào mà nó ở ngoài vật thể, và ở ngàn nơi trên thế
giới địa hoàn, mà những tấm lòng yên lặng và mở rộng dẫu ở Phương Đông cũng như
ở Phương Tây, hoặc như ở Phương Bắc như ở Phương Nam, để chờ tiếp nhận những
lời Thánh Giáo giống nhau đề cạn tỏ sự hòa hợp của tầm hồn.
"Đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc vừa mới thoát xác ngày 17-5-1959 hồi 13 giờ 30 phút (giờ Cao
Miên) tại bệnh viện Calmette, Thủ Đô Phnom Penh. Đúng giờ định thì những
Thiên Thần cầm lộng vàng đến tiếp rước Ngài, còn các hung thần
thi bị đuổi đi xa tịt mù, đóng thành một lằn đen xa thẳm, như đóng khuôn cho
một cảnh giới Thiên Đàn mở rộng thêm mãi.
Nhiều đấng vô hình
mặc thiên phục đỏ, tốp khác thì mặc thiên phục xanh, còn tốp khác thì mặc thiên
phục vàng, và cũng còn hàng ngàn những vị mặc thiên phục trắng.
Những vị mặc sắc
phục trắng nói rằng: độ lượng là mối tình thương yêu đặt mình chúng ta trọn vẹn
để phục vụ tình bác ái.
Sau rốt những vị
mặc sắc phục đỏ tuyên bố: sức lực mới là tình thương yêu giúp chúng ta gánh
chịu tất cả mọi khó khăn cho cái gì mà ta yêu mến.
Bốn tốp ấy đã nói
rồi thì ''tiếng nói" của tất cả các tiếng nói ở trong tâm của
mỗi người, dầu ở nơi thiên giới hay ở địa giới, hoặc ở trung giới. Tiếng nói ấy
đã nói: Trong bốn màu hợp lại thành một.
Người đã hạ mình
xuống nơi hạ giới làm một Giáo Chủ tốt Hộ Pháp Phạm Công Tắc Hãy trở về lòng
của ta là tiếng nói của tất cả tiếng nói.
Từ ngày 27-5-1959,
hồi 7 giờ thì trong cả mặt thế, trong các giới tất cả những
người ở trong đại cơ quan đồng tử đều được nhận thấy, và nghe rõ tất cả
những việc mà tôi đã ghi chép y như trên
Chứng chắc thật!
Bà Sarah Bartel Đồng tử
Nhà số: 20, đường Alibert
Paris 10ème
ĐI ĐỂN BÁT QUÁI
ĐÀI
(La tour à 8 faces)
''Tin tức vừa mới tiếp
nhận về vụ Thoát xác của đức Giáo Chủ Cao Đài” mà trung tâm hiện giờ ở Kim
Biên.
Tôi xin ghi chép y nguyên
văn cho tất cả độc gỉa tạp chí Le Lien.
TIẾNG NÓI.
''- Đúng ngày mùng
5 tháng 5, nhằm ngày 10-6-1959 là đúng 70 năm tôi ở trong một thi phàm xác
thịt. Đúng ngày đó thì tôi đã ngồi trong một cái hòm hình bát giác (Liên Đài),
và từ trong đó tôi nhìn thấy hàng ngàn và hàng ngàn những tín đồ diễn ngang,
tất cả từ chục ngàn người khác, mỗi người đều được biết "dấu hiệu" để
về sau nhìn biết được họ khi ngày giờ đã đến."
Tiếng nói tiếp theo với
một giọng buồn trong một lúc
''Có những người
có thể đến được nhưng lại không đến, có những người rất muốn đến mà lại không
đến được. Những người sau này (tức là những người muốn mà không thể đến được),
tôi cũng ban cho một "dấu hiệu” từ trong Liên Đài bát giác của tôi."
Tiếng nói tiếp,-
"Đức Hoàng
Thượng và Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên đã làm những gì phải làm, để chứng tỏ
lòng khoan hồng hiểu biết và tình huynh đệ cao với cử chỉ cao thượng ấy, đức
Hoàng Thượng đáp lời một bức thơ mà tôi rất cung kính viết và gởi đến Hoàng
Thượng 3 ngày trước khi linh hồn tôi rời thể xác. Nhưng cõi vô vi tôi vẫn thấy
và nghe được."
Đến đây
tiếng nói lặng thinh, và tôi chờ mãi coi có tiếp theo không mà chẳng
thấy. Vậy, đây có phải là một tin "thông công" hay
không?
Tôi có chiêm bao hay
không? Trong đó có những chi tiết mà tôi rất vui vẻ để kiềm soát lại:
- Cái hòm bát giác?
- Hình thể người quá vãng
liệm để ngồi?
- Bức thơ gởi trước 3 ngày
khỉ thóat xác?
Tờ tạp chí Le Lien này
dược phát hành, gởi đi khắp hoàn cầu, có lẽ nó cũng đến xứ Cao Miên. Nếu bên xứ
ấy, hoặc nơi nào khác, có vị nào được, xin viết thơ cho tôi biết thêm việc này,
để bác bỏ hay công nhận những điều mà tôi thiệt thà ghi chép nơi đây. Tôỉ đề
lời cám ơn trước!
Bà Sarah Bartel
20, Rue Alibert
Paris 10ème.
LẠI THÊM MỘT BÀI
BÁO NGỌAI QUỐC
(Sau khi nghiên cứu huyền
diệu thiêng liêng đăng như sau)
"Sự kinh
nghiệm và xét đoán của đài Thiên Văn và Thông Thiên Học bên Pháp. Theo thơ
của ông Olion và Thánh Giáo của bà Sarah Bartel cho biết: ngày rước Thánh có đủ
chư: Phật, Thánh, Tiên ngự, thì có ông mặc áo đẹp, sắc phục có khôi giáp về
đồng ngự, và có cả chư Phật, Tiên, Thánh, Thần đến chầu chực đón rước chào mừng
chơn linh ấy về "đến"
Nữ đồng tử Sarah Bartel
ghi đúng sự thật, vì trước khi đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc qui thiên, trước 3
ngày đức Ngài còn nằm trên giường bệnh tại bệnh viện Calmette. Đức Ngài còn ký
tên trong bức di ngôn gởi đến Hoàng Thượng Norodom Sumarit (Đức vua cha, thân
phụ của thái tử Norodom Sihanouk) mà hai vị Thái Chánh Phối Sư Thái Khí Thanh
và Giáo Hữu Thái Đổng Thanh thân hành vào Hoàng cung chuyển đệ lên Hoàng
Thượng.
Vì sao trước giờ phút qui
thiên, thoát xác nơi đất Cao Miên mà đức Hộ Pháp vẫn còn ghi nhớ ngôi Thánh
Thất bị Tòa Án Thượng Thẩm Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên chuẩn phê y án Tòa Sở
Thẩm phán định: Phá hủy ngôi Thánh Thất Cao Đài, (do ấn lịnh xét xử ngày
13-3-1957 của Tòa Sơ Thẩm).
Cần ghi nhớ trước kia ngôi
Thánh Thất Cao Đài tại Phnom Penh được xây cất trên phần đất tọa lạc tại số 37
Đại Lộ Pierre Pasquier (Phnom penh) vào năm 1930. Mãi đến năm 1954 Chánh Phủ
Hoàng Gia Cao Miên trưng dụng phần đất này để kiến tạo Nhà Thú Y Quân Đội Hoàng
Gia.
Vì lợi ích
qui hoạch, Chánh Phủ Cao Miên đã đến thương lượng với Hội Thánh, nên
Hội Thánh Cao Đài tại Phnom Penh đồng ý chuyển nhượng để đổi lấy 3 phần đất tại
Toul Sway Prey, thuộc quận 5, Thủ Đô Phnom Penh do công văn số: 4882/BA ấn ký
ngày 20-10-1954.
Đến ngày 21-2-1955 Hội
Thánh Trấn Đạo Tần Quốc tại Phnom Penh đệ đơn xin phép Chánh Phủ Hoàng Gia kiến
tạo ngôi Thánh Thất Cao Đài trên phần đất vừa được Chánh Phủ chuyển nhượng, để
có nơi thờ phượng với đồ án kiến trúc bằng cây ván, lợp ngói và đã
được Đốc Lý Thành Phố Phnom Penh phê chuẩn chấp nhận giấy phép số: 557/GV đề
ngày 17-6-1955.
Công tác xây cất ngôi
Thánh Thất bắt đầu khởi hành đúng theo giấy phép số 557/GV đế ngày 17-6-1955
thì ngày 16-2-1956 đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và phái đoàn Chức Sắc tùy tùng lưu
vong tới Cao Miên (Phnom Penh). Đức Ngài liền hướng dẫn Hội Thánh Cao Đài Trấn
Đạo Tần Quốc phải đệ trình lên Chánh Phủ Hoàng Gia đồ án xây cất ngôi Thánh
Thất bầng béton cốt sắt. Hiền Huynh Giám Đạo Huỳnh Hữu Lợi phụ trách
lo xin phép đệ trình đồ án lên Chánh Phủ.
Được biết thâm ý của Luật
sư Blaquierre muốn bảo vệ quyền lợi cho Chánh Phủ Hoàng Gia, nên Luật sư Khing
See liền bước ra hành lang Tòa Án nói nhỏ với Sĩ Tải Lê Quang Tấn biết rõ lời
tố cáo của Luật Sư Blaquierre, và Sĩ Tải Tấn liền rỉ tai cho Chức Việc
và Bổn Đạo từ từ rút lui khỏi Tòa Án lên 2 chiếc xe Bus đề trở về Thánh
Thất, chỉ còn 20 vị chức sắc và chức việc nam nữ tượng trưng tham dự phiên xử
mà thôi.
Đến khi Ông Luật sư
Blaquierre hướng đứa ông Chánh Án Tòa Thượng Thẩm bước ra bên ngoài Tòa Án để
quan sát, thì chỉ còn thấy có 20 vị Cao Đài mặc sắc phục trắng, gây ngạc nhiên,
lúng túng cho Luật-sư Blaquierre đã tố cáo không đứng sự thật.
Phiên xử của Tòa Án Thượng
Thẩm cũng phán định: "chuẩn phê y án Tòa Sơ Thẩm, Hội Thánh phải
triệt hạ ngôi Thánh Thất Cao Đài".
Hội Thánh đã đệ đơn thỉnh
nguyện lên Chánh Phủ Hoàng Gia xin nhờ cứu xét khoan hồng, song chưa có kết
quả. Cho mãi đến ngày 14-5-1959, đang nằm trên giường bệnh tại bệnh viện
Calmette, đức Hộ Pháp mới có bức di ngôn gởi đến Quốc Trưởng Norodom Sihanouk
và Hoàng Thượng Surmarit. Đồng thời, Đại Huynh Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa đã gởi một
tối hậu thư cho Chánh Phủ Hoàng Gia Cao Miên, một bức thư đã ghi vào sử Đạo Cao
Đài vào năm 1958 vói đại ý: nếu Thánh Thất Cao Đài bị triệt hạ theo án
lệnh, thi Đại Huynh Bảo Đạo tự nguyện tuyệt thực tử tiết theo ngôi Thánh Thất.
Điều này đã gây nhiều dư luận sôi nổi trong Chánh Phủ Hoàng Gia một thời.
Cao quý thay, đức Hộ Pháp
biết trước phải thoát xác nơi đất Cao Miên, mà đức Ngài vẫn lo cho ngôi Thánh
Thất Cao Đài tại Phnom Penh khỏi phải thi hành án lệnh là triệt hạ ngôi Thánh
Thất. Sau ngày 17-5-1959 đức Ngài qui thiên thì Hoàng Thượng Norodom Surmarit
có văn thư mời Hội Thánh Cao Đài Tần Quốc và phái đoàn chức sắc lưu vong vào
Hoàng Cung.
Vua Norodom Surmarit tiếp
đón phái đoàn Hội Thánh trên lầu Hoàng Cung hết sức nồng hậu, Hoàng Thượng đến
bắt tay từng người, hỏi thăm sức khỏe và mời an tọa trên bộ Salon (bốn ghế đối
diện nhau). Hoàng Thượng Surmarit liền hỏi thăm Đại Huynh Thái Chánh Phối sư
Thái Khí Thanh khâm trấn đạo Tần Quốc trước (vì Đại Huynh Thái Khí Thanh rất
giỏi Miên Ngữ) và chỉ dẫn Đại Huynh dâng đơn thỉnh cầu lên Hoàng
Thượng xin cứu xét lại án lệnh, để Hoàng Thượng phán lệnh cho Tòa Án Thương
Thẩm: Tạm ngưng thi hành án lệnh của Tòa Thượng Thẩm.
Kế tiếp, Hoàng Thượng hỏi
thăm Đại Huynh Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa (bằng tiếng Pháp) và cuộc sinh sống của số
chức sắc trong phái đoàn lưu vong còn tạm trú nơi đất Cao Miên.
Tiếp theo Hoàng Thượng
Surmarit hỏi Sĩ Tải Lê Quang Tấn đi tu hồi nào mà còn trẻ quá vậy? Thừa dịp đáp
lời xong, Sĩ Tải Tấn trình bày khẩn cầu Hoàng Thượng khoan hồng đặc ân; xóa bỏ
án lệnh trong hồ sơ của Tòa Sơ Thầm Phnom Penh về vụ đã phạt Sĩ Tải Lê Quang
Tấn 3 tháng tù vào năm 1957 về tội xâm nhập nước Cao Miên bất hợp pháp, bởi một
tu sĩ mà phải bị mang án 3 tháng tù trong hồ sơ thì thật khổ tâm chua xót cho
người tu sĩ mỗi khi có việc cần. Phải sao lục án tòa. Hoàng Thượng phán dạy:
Làm đơn chuyển đệ lên Hoàng Thượng xin ân xá xóa bỏ bản án 3 tháng tù, để Hoàng
Thượng chuyển đến Tòa Thượng Thẩm ra lệnh cho Tòa Án sơ Thẩm xét xử lại.
Vinh hạnh thay! Sau 3
tháng chuyền đơn thỉnh cầu lên Hoàng Thượng, thì cuối năm 1959 tiếp được lệnh
Tòa Án Sơ Thẩm mời đến dự phiên xử án, và được Tòa Sơ Thẩm hủy bỏ án phạt 3
tháng tù vào năm 1957 (mặc dù Sĩ Tải Tấn đã thụ án 3 tháng tù rồi, nhưng đến
khi sao lục hồ sơ Tòa Án thì được ghi là "không án tiết").
Một huyền diệu thiêng
liêng xuất hiện ở Pháp Quốc sau khi đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc qui thiên ngày
17-5-1959 tại Phnom Penh thì nữ đồng tử Sarah Bartel ghi nhận: Tiếng Nói Trên
Không Trung đã được báo Le Lien ấn hành vào tháng 6-1959 tường thuật rõ ràng,
khắp thế giới đều biết rõ ràng đức Ngài được liệm ngồi trong Liên Đài (tức là
được liệm ngồi trong 1 cái hòm bát giác, 8 góc vào lúc 22 giờ đêm ngày 17-5-1959
trước sự hiện diện của vị cảnh sát trưởng quận 5, Thủ Đô Phnom Penh, và chức
sắc nam nữ tại Trấn Đạo Tần Quốc.
Điểm đặc biệt không kém
phần băng khoăng lo lắng cho chức sắc và bổn đạo, vì đức Hộ Pháp đã qui thiên
mà cả Hội Thánh không một ai được biết nghi tiết lễ an táng đức Ngài như thế
nào?
Đại Huynh Bảo Đạo Hồ Tấn
Khoa và Sĩ Tải Bùi Quang Cao liền phò loan thính đức Ngài giáng cơ chỉ dẫn nghi
tiết "lễ tế điện" trong khi thể xác chưa tẩm liệm,
đức Ngài giáng cơ chỉ dẫn từng chi tiết lễ an táng và cho một bài thi để tế
điện:
"Trót đã bao
năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy
phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do
thiên định,
Tuổi đã bảy mươi
cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm
thừa chống chỏi,
Buồn nhìn cội đạo
lắm chơi vơi
Rồi đây ai đến cầm
chân pháp,
Tô điểm non sông
đạo lẫn đời."
Nhờ tiếp nhận được sự chỉ
dẫn về nghi tiết và bài thi trên, đồng nhi và lễ sĩ mới biết để "thài" và
đăng điện trong buổi tang lễ. Ngoài ra Sĩ Tải Bùi Quang Cao (thơ ký đặc biệt
của đức Ngài) một chức sắc Hiệp Thiên Đài trong phái đoàn lưu vong, và cũng là
một chuyên viên quay phim và chụp ảnh của phái đoàn lưa vong, đã lưu lại nhiều
hình ảnh trong buổi tang lễ của Đức Ngài. Cuốn phim do Sĩ Tải quay trong khi
các Tôn Giáo bạn, Ngoại Giao đoàn tại Thủ Đô Phnom Penh, và phái đoàn Phật Giáo
Cao Miên đến đặt tràng hoa vĩnh biệt cùng tiễn đưa Liên Đài nhập Bửu Tháp, là
một kỷ niệm vô giá lưu lại cho bổn đạo ở Thánh Địa Tòa Thánh Tây Ninh không
được vinh hạnh góp phần chung lo buổi tang lễ của đức Ngài tại Phnom Penh.
Với trách nhiệm Hộ Pháp,
chưởng quản nhị hữu hình đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng, đức Ngài chẳng quản tuổi
cao sức yếu, nhiệt tình rèn luyện đào tạo một số chức sắc nam nữ ưu tú, đầy đủ
khả năng và tinh thần để góp mặt trong mọi công tác xã hội từ thiện cùng các
Tôn Giáo bạn. Nhất là giữ vững niềm tin trước mọi thử thách phong ba bão táp
vẫn một lòng tuyệt đối trung thành với Hội Thánh, chí hiếu với Chí Tôn và Phật
Mẫu, để tiếp nối con đường đạo đức do "Tôn Sư Hộ Pháp" và
các bậc chức sắc đàn anh đã hy sinh vạch sẵn Từ Bi, Bác Ái, Công Bình rạng danh
Đại Đạo.
Đức Ngài qui thiên ngày
17-5-1959 và Liên Đài đức Ngài vẫn còn lưu lại trên nước Cao Miên cho đến ngày
hôm nay do Hội Thánh Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh, chức sắc, bổn đạo đồng tuyệt
đối tôn kính lời di ngôn đã gởi cho Hoàng Thân Norodom Sihanouk ngày 14-5-1959.
Thương tiếc thay! Một danh
nhân lịch sử đã rời khỏi cỏi trần. Một bậc vĩ nhân hết sức nhiệt
tình tận tụy với nhân loại bằng Chánh Sách Hòa Bình Chung Sống, bác ái đại đồng
với chủ tương "bất bạo động" của Đức Hộ Pháp đã làm
cho người không đồng quan điểm đem lòng kính mộ, mặc dù lòng hy sinh tuyệt đối
của đức Ngài chưa trọn vẹn tiếp đón ngày vinh quang của đất nước Việt Nam,
nhưng hàng triệu con tim cùng chung nhịp đập đều tưởng niệm đến công ơn của đức
Ngài.
Tôn kính thay! Đức Hộ
Pháp là một cứu tinh, bậc thông suốt huyền vi màu nhiệm của Thượng Đế, nên
đã mạnh dạng đề xướng Chánh Sách Hòa Bình Chung sống vào ngày 26-3-1956 để
cứu vãng nhân loại tránh cuộc tự sát, khỏi nạn diệt vong. Đức Hộ Pháp còn biết
rõ 2 khối Cộng Sản và Tư Bản hiện diện trên mặt thế này là do thiên
cơ tiền định, không tránh khỏi được sự tranh chấp quyền bá chủ thế giới,
huynh đệ tương tàn, nhân loại phải lầm than thống khổ.
Nỗi khổ tâm của đức
Ngài, một vị lãnh đạo Tôn Giáo Cao Đài, được biết trước cuộc
nội chiến sắp khởi diễn mà chẳng biết cách nàosửa được máy thiên cơ. Đức Ngài
phải nhập "Tịnh Thất" vào Trí Huệ Cung thiền tịnh
ngày 16-1-Tân Mão (1951) để khẩn nguyện Thượng Đế ban đặc ân cho dân tộc việt
Nam thoát khỏi cảnh áp đặt của ngoại bang, cũng như đã nhiều lần, đức Ngài cầu
khẩn cụ Chủ Tịch Hồ Chí Minh và Tổng Thống Ngô Đình Diệm dẹp bỏ mọi tị hiềm,
nhưng cũng không hoán cải được thời thế, bởi số đã định.
Suốt 3 tháng đức Ngài khép
mình trong Tịnh Thất Trí Huệ Cung khẩn nguyện Thượng Đế ban huyền diệu thiêng
liêng cảm hoá 2 khối Cộng Sản và Tư Bản sớm hiểu biết nhau là con chung của
Thượng Đế.
Những lời phán dạy của đức
Ngài đã cảm hóa trên 3 triện tín hữu Cao Đài, để lại cảm tình chan chứa cho
nhân loại, một "danh" thiên niên vạn cổ, đây là danh
của đấng "cứu thế”.
Đức Ngài không ngần ngại
chịu khổ nhục đã chỉ dẫn cho đời biết những điều lầm lạc về sự chia rẽ. Nhân
loại đừng phân biệt màu da sắc tóc mà hãy nên tương thân, tương ái.
Ngày 17-5-1959 là một ngày
u buồn, ảm đạm cho Bổn đạo Cao Đài ở Quốc Nội cũng như ở Hải Ngoại, và cũng là
ngày long trọng ghi vào lịch sử Đông Phương, một kỷ niệm sâu sạc của Quốc Dân
Việt Nam đã nêu cao "gương trong sáng không chút bụi trần tượng
trưng cho Quốc Hồn Quốc Túy, một phương thức bất bạo động, một nhà lãnh đạo Tôn
Giáo suốt đời tận tụy với Quốc Đạo" công bằng, từ bi,
bác ái, cùng ung đúc lòng ái quốc trong trái tim người Việt Nam.
Đức Hộ Pháp biết rõ mọi
biến cố "trận chiến" trên thế giới là lẽ dĩ nhiên,
tiền định không sao tránh khỏi, nhưng đức Ngài có phận sự thiêng liêng là chỉ
đường dẫn lối cho kẻ bị áp chế từ chỗ bất hoà, bất bình đến chỗ hợp quần, đoàn
kết.
Đáng tôn kính thay! Đáng
sùng bái thay! Một vĩ nhân trọn hy sinh cả kiếp sanh cho Chánh Sách Hòa Bình
Chung sống mà đức Ngài đã long trọng xác nhận với Quốc Trưởng Norodom
Sihanouk: mục phiêu đời sống của bần đạo.
Thiết nghĩ ngày qui thiên
của đức Hộ Pháp 17-5-1959, trùng hợp ngày lễ chư Thánh giáng linh của Công Giáo
(Pentecôte) mà đức Ngài đã dùng huyền diệu thiêng liêng ứng linh cho nữ Đồng Tử
Sarah Bartel tại Pháp Quốc tiếp nhận ghi chép TIẾNG NÓI TRÊN KHÔNG TRUNG như
thế!
Sự trở về của đức Hộ Pháp
Phạm Công Tắc không lặng lẽ như bao sự trở về của chúng sanh, sự trở về của đức
Ngài là một biến cố cho nhân loại, sự tang chế của thời kỳ mạt Pháp.
Chính đức Hộ Pháp đã chia
xẻ phần đau khổ của đồng bào 2 Miền Nam - Bắc Việt Nam bằng chủ trương "Hòa
Bình Chung Sống", và đem đến cho toàn thể nhân loại sự dịu mát trong
lành của nền hòa bình đại đồng thế giới lần lần trở thành hiện thực.
Niềm vinh hạnh vô biên cho
người tín hữu Cạo Đài có quyền hãnh diện là 35 năm về trước, tức là ngày
26-3-1956 đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, lãnh đạo Tôn Giáo Cao Đài đã có sáng kiến
đề xướng Chánh Sách Hòa Bình Chung sống, vạch đường chỉ lối cho 2 khối Cộng Sản
và Tư Bản phải tương nhượng nhau, vì tất cả đều là con chung của Thương Đế.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc,
chưởng quản Nhị Hữu Hình Đài, Hiệp Thiên và Cửu Trùng đã thoát xác qui thiên
ngày 17-5-1959 tại Phnom Penh đã để lại cho bao sự mến tiếc, tôn kính, phụng
thờ của 3 triệu tín đồ Cao Đài hằng ghi nhớ lời huấn giáo của đức Ngài:
"Bần đạo chỉ
sợ toàn thể thanh thiếu niên sau này sẽ khinh khi các bậc đàng anh không đáng
mặt.
Nếu chẳng đi đến
trường thầy mà đạt thủ địa vị mình thì chẳng ai đi đến nơi nào khác mà đắc
đạo bao giờ!
Mặc ai sang trọng
ở trường đời, ta cứ theo Chí Tôn thì đại nghiệp không mất, quả quyết đứa con
nào của Người, trọn trung, trọn hiếu với người và Hội Thánh là hình thể của
Người tại thế gian này, thì không bao giờ thất nghiệp và thất phận."
Mãn Thu, 19 tháng
09 năm Kỷ Tỵ
(DL. Ngày 18 tháng
10 năm 1989)
Thừa Sử:
LÊ QUANG TẤN
Thánh Thất Cao Đài
SàiGòn
891 Trần Hung Đạo,
Quận 5
Thành Phố Hồ Chi Minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét