Lời
Giới Thiệu
Hàn Nhân Thi Tập là một tư liệu sưu tầm các bài thơ
mà tác giả Thanh Tâm đã sáng tác
rải rác suốt dòng đời của mình vào những lúc tâm tư hứng khởi.
Ông không phải là một nhà
thơ chuyên nghiệp, ông là một nhà mô phạm hay đúng hơn là một thầy tu đúng
nghĩa. Đọc thơ ông chúng ta thấy hình ảnh một ông giáo đang giảng những giáo
điều,
có lúc lại thấy hình ảnh của một thầy tu tâm hồn đã thoát ra ngoài vòng
thế sự. Có lẽ ông sáng tác vì những hứng khởi tâm tư và tìm thấy nơi đó một thứ
hạnh phúc của tâm hồn để rồi qua giây phút ngắn ngủi ấy ông lại bỏ đi.
Tôi thấy vậy nên góp nhặt
những vần thơ ấy sắp xếp lại làm kỷ niệm của đời ông và không hoang phí tư duy
của một con người đã sống suốt đời không biết hưởng thụ thú vui vật chất gì của
thế gian ; không gia đình, không nhà cửa, không tài sản … tất cả đều tạm bợ đối với ông, tất cả đều
không … Và vì thế tôi muốn tặng ông một cái “có”
là tập thơ nầy, khi nhận được chắc ông cũng thấy vui vui.
Mục đích việc làm nho nhỏ
nầy của tôi cũng đơn giản như những vần thơ mà ông đã sáng tác rồi bỏ đi vậy .
H–T-M
NHỮNG
BÀI THƠ TẶNG TÁC GIẢ
Thuyền
Đạo giờ đây vắng bóng Thầy,
Đàn
em chức sắc phải buồn lây.
Đỡ
nâng nghiêng ngửa trong đôi lúc,
Dụng
đỡ Thành Long nhắc ý Thầy.
Hộ Pháp
Để
bước vân du đến cõi trần,
Đưa
tay dìu đỡ khắp thôn lân.
Đạo
mầu linh hiển nhờ tay chú,
Chớ
để phàm tâm lại đến gần.
Thánh Hiển
ĐƯỜNG VỀ THÁNH ĐỊA
Đường về Thánh Địa lắm chông gai,
Nhọc khách làng văn bước dặm dài.
Chí quyết đem thân nâng nghiệp cả,
Lòng đà phủi sạch mộng cân đai.
Cân đai phủi sạch đến rừng thiền,
Trực chỉ Thánh Tòa mộng thấy Tiên.
Ngoài ngõ xôn xao tuồng bợn tục,
Trong Đền rộn rã trống cùng chiên.
Trống chiên rộn rã khúc tiêu thiều,
Giục khách phàm trần cất tiếng kêu.
Thầy hỡi ! quỳ đây con đợi lịnh,
Chẳng hay Đạo sự ít hay nhiều ?
Ít nhiều con phải quyết làm xong,
Ngặt nỗi anh em chẳng một lòng.
Đứa trí hiếp ngu hiền chịu thiệt,
Đem thân phụng sự biết tròn không.
ĐẠO
Kinh Bạch Ngọc duy thần viết chủ,
Tượng khí hình tượng đủ căn sinh.
Năng
lai năng khứ khinh khinh,
Chuyển
xây võ trụ thay hình càn khôn.
Sanh
quang khí tạo hồn vạn loại,
Phép
âm dương hiệp lại biến sinh.
Ẩn
trong bát phẩm nguyên linh,
Gọi
danh chơn tánh thay hình Chí Tôn.
Máy
linh diệu phách hồn trọng trược,
Chuyển
tử sanh lần lượt thời gian.
Cung
KHÔN đổi lại cung CÀN,
Lành
thăng dữ đọa đôi đàng biệt phân.
Cơ
tấn hóa lọc lừa phàm ngã,
Chuyển
thánh tâm phép lạ chí linh.
Tuy
là Trời đất rộng thinh,
Mắt
dường sao nháy chiếu minh lòng người.
Phép
giáo hóa lấy lời chỉ dạy,
Dụng
điển kinh khôn ngại ngôn từ.
Ngũ
chi đã sẵn thiên thư,
Qui
nguyên Tam Giáo hồng từ chuyển xây.
Phép
mở trí đêm ngày học hỏi,
Năng
thực hành điều phải điều lành.
Công
phu lừa lọc Khí thanh,
Thần
an trí tịnh tâm lành ngoài trong.
Hễ
càng tĩnh thì lòng càng sáng,
Phép
huyền linh đâu lạ đâu xa.
Ba mươi sáu cõi là nhà,
Thong dong Bát Quái khi ra khi
vào.
THỜI GIAN
Một năm như thoáng qua mau,
Mười năm phút chốc vẫy chào bỏ
ta.
Không gian ngoảnh lại nhạt nhòa,
Thời gian trôi chảy tuổi già kề
bên.
Tượng
đồng bia đá đề tên,
Nắng
mưa loang lỗ bia bền đặng chăng ?
Ngồi
buồn ta ngắm ánh trăng,
Nhớ
câu trăng sáng sao bằng điển quang.
Canh
khuya thức giấc mơ màng,
Nhớ
câu siêu độ nhớ đàng hằng sanh.
Thời
gian luân chuyển quanh quanh,
Hồn
ta lên xuống tuổi xanh chào đời.
Hỏi
ai có biết ai ơi !
Trăm
năm là tuổi một đời là bao.
Từ
khi tiếng khóc đời chào,
Gọi
cha gọi mẹ rồi vào mồ hoang.
Năm
tàn tháng lụn riêng than,
Thời
gian mi hỡi thời gian vẫy chào.
ĐÔNG VỀ
Nghe
gió lạnh biết trời đã trở đông,
Mười
năm chẵn bụi hồng không dính gót.
Một
mảnh phàm thân kia đã trót,
Dấn
thân vào tận chốn không môn.
Hỏi
Tạo Hóa cõi hồn đâu cho biết,
Khí
phách đà anh linh tiết liệt.
Nương
thể hình mài miệt công phu,
Đã
quá hồi nguyệt khuyết trăng lu.
Thần
trí tĩnh đường tu vững bước,
Cuộc
thế sự bày trò mưu chước.
Bát
Nhã thuyền ngược gió ruỗi dong,
Lòng
những tưởng không không vi diệu.
Phép
nhiệm mầu tiết điệu hòa âm,
Cung
Tạo Hóa duy hòa viết chủ.
Nương
huyền linh sạch giũ thất tình,
Cho trí huệ thinh thinh rộng mở.
Học Đạo cả nghỉ yên một thuở,
Mặc thế tình tạm bợ rẻ khinh.
Tuy sự thế bất bình nhiều lẽ,
Ấy phép nhiệm vô hình dạy trẻ.
Phủ bụi hồng mờ nhạt phàm thân,
Cho khuất dấu chơn thần an tĩnh.
Nằm
yên nghỉ công phu dưỡng bệnh,
Lắng
tâm nghe phán lệnh Ngọc Hư.
Đường
Đạo cả từ từ vững bước.
TÔI BIẾT
Tôi
biết Trời cao vẫn rộng tình,
Thương
đàn con trẻ kiếp linh đinh.
Chèo
thuyền Bát Nhã chờ đưa khách,
Ngó
cảnh trùng dương thấy một mình.
Một
mình lững thững giữa trời cao,
Nhớ
cảnh trần gian luống nghẹn ngào.
Một
kiếp tranh đua trăm giọt thảm,
Thiên
thiều nhạc trỗi giục đi mau.
Mau
chơn thoát khỏi chín tầng mây,
Trở
lại ngôi xưa hội hiệp Thầy.
Mừng đặng an vui cùng các Thánh,
An nhàn tự tại cõi phương Tây.
Tôi
biết rằng tôi sống một mình,
Khi
buồn tôi lẳng lặng làm thinh.
Trong thiền tôi nói cùng tôi hiểu,
Rằng thực là tôi chẳng bóng hình.
TIẾNG THAN SƯ PHỤ
Con
nghe đặng tiếng than sư phụ,
Lóng
tâm yên vẹt ngút mây mù.
Đạo
Trời khai mở thiên thu,
Khai
cơ giải thoát mở tù phong đô.
Trường
ngôn luận tựa hồ đối chữ,
Dụng
ý tâm viết thử kinh luân.
Tuy
là Trời đất rộng thinh,
Mắt
dường sao nháy chiếu minh lòng người.
Trường
ngôn luận nửa cười nửa khóc,
Cười
khan mà khóc bởi thương bây.
Chia
năm xẻ bảy lạc bầy,
Bốn
mươi hai phái Đạo Thầy vậy sao ?
Tình
cốt nhục đồng bào đồng đạo,
Tiếng
nghĩa nhân gượng gạo nên lời.
Xem trong tâm trí lưng vơi,
Chơn
truyền luật pháp đổi dời thế ni !
Khuyên
con trẻ kịp kỳ ứng thí,
Lập
công đầu đất mới lưu danh.
Một
lòng trọn với cao xanh,
Muôn
câu nghìn chữ chỉ hành đạo thôi.
* * *
Nương
gió theo mây đến viếng con,
Những mong thấy được trí con còn.
Hào quang chiếu diệu tâm linh Thánh.
Đạo pháp truyền trao giữ sắc son,
Truân chuyên khổ não sóng ba đào,
Ấy phép Thần Tiên thử Đạo cao.
Bửu pháp tâm an thần trí sáng,
Là gươm trí huệ nhớ không nào
?
Nào
hay thế sự biến quyền ra,
Trăm
kế nghìn mưu dụng ý tà.
Phú
quí công danh thần trí tản,
Cái
linh kia mất khó về Ta.
Về Ta Ta sẽ đỡ nâng chơn,
“ Khuyên một điều con khá giảm
hờn.
Hễ ghét người thì Trời ghét lại,
Ghét người Trời ghét lẽ nào hơn”.
Hơn
thiệt chi sờn tiếng thị phi,
Trăm
năm một giấc ngẫm ra gì.
Trương
cờ cứu khổ dìu sanh chúng,
Bửu
pháp tâm truyền rán dự thi.
MỘNG RẰM ĐI LỄ
Rằm
tháng mười năm nay Quí Dậu,
Kỷ
niệm đầu niên Đạo bước qua.
Chuông
Bạch Ngọc ngân nga Tòa Thánh Điện,
Lớp
lớp người bỗng hiện giữa đêm khuya.
Nam
nữ có đỏ vàng xanh trắng,
Đứng
xếp hàng lẳng lặng dưới ánh trăng.
Như
trông đợi một quyền năng tối thượng,
Giải
oan khiên giải hết não phiền.
Cho
tâm trí đứng yên đừng vọng tưởng,
Vầng
trăng chếch nghiêng nghiêng lầu chuông trống.
Tiếng
lôi âm trỗi giọng ình ình,
Khách say ngủ giật mình tan giấc mộng.
Trước Thánh Điện rừng thiên
nhiên kiềng song sắt,
Trên
nền trời mây trắng vẫn hằng trôi.
Đứng
lặng nhìn nghe lạnh ngắt tim tôi,
Tại
sương khuya hay tại dạ bồi hồi.
Cho
tâm tưởng hồn tôi chia nửa miền Tiên tục,
Tưởng
tiền nhân mà ruột khúc ngậm ngùi.
Mười
ba vía anh hiền Trung Nhựt,
Người
Anh Cả suốt tám năm trường khổ cực.
Chí
những mong cho thiên hạ đại đồng,
Nơi
Tiên cảnh Anh trông đàn em dại.
Xủ
phồn hoa ngoảnh lại chốn Thiên cung,
Cho
vạn linh hội hiệp trùng phùng.
Nơi
cung Thánh ung dung lòng thoát
tục,
Cầm bút ngọc tay run ghi lại.
Một giấc mơ không ngại thơ đề,
Gởi
huynh tỷ rời quê mình từ dạo ấy.
SẮC KHÔNG
Sắc
tức thị không sắc sắc không,
Không
còn vương vấn ở nơi lòng.
Hình
danh sắc tướng đời trân trọng,
Bí pháp chơn truyền Đạo chỗ không.
Một
nẻo qui tâm tâm giác tánh,
Nghìn
câu thuyết pháp pháp về không.
Đường
đời ví biết vinh liền nhục,
Phước
lộc buồn vui cũng tự lòng.
Lòng
trần chưa dễ hiểu trần ai,
Có trí
có mưu họa sắp bày.
Học
phép tu chơn đời ẩn dạng,
Tùng
theo chánh giáo Đạo tâm khai.
Vầng
mây nhựt nguyệt thênh thang tỏa,
Ngày
tháng tiêu dao dạ cảm hoài.
Lý
nhiệm thâm sâu Trời mở lối,
Dìu
tâm thoát tục lánh trần nầy.
CỬU NIÊN DIỆN BÍCH
Chín
năm không tắm chỉ nằm chơi,
Ngoảnh
mặt nhìn đời thở mấy hơi.
Dài
tận thiên cung sâu địa phủ,
Nghe trong thiên hạ thật nhiều lời.
Lời lẽ thị phi thật tức cười,
Đạo
mầu khó hiểu lắm ai ơi.
Thậm
thâm vi diệu Thần Tinh Khí,
Thiệt
thiệt hư hư khó để lời.
Lời
lẽ chân thành để bút khuyên,
Khuyên
ai gắng giữ Đạo tâm hiền.
Đường
dài mới thắm đời muôn mặt,
Trau
chuốt đa ngôn dạ đảo điên.
TÀN CHIẾN CUỘC
Tàn
chiến cuộc giao tranh ngưng nghỉ,
Đắp
nấm mồ chiến sĩ vô danh.
Ai
người xứng mặt hùng anh,
Máu
xương sông núi giựt giành chi đây ?
Tàn
chiến cuộc đâu ngày hạnh phúc,
Tiếng
oán hờn ấp ủ mồ hoang.
Ai
người khí phách hiên ngang,
Nắm
cây huệ kiếm dẫn đàng siêu sanh.
Tàn
chiến cuộc tuổi xanh côi cút,
Miếng
áo cơm thúc giục đấu tranh.
Ai
người xứng mặt đàn anh,
Ra
tay tế độ giành phần cô nhi.
Tàn
chiến cuộc sử ghi dấu tích,
Triệu
triệu nhà thảm kịch ly tan.
Ai
người thân thích họ hàng,
Ai
vui sum họp ai than não nồng.
Tàn chiến cuộc non sông loang lỗ,
Đất phì nhiêu thiếu chỗ dân cày.
Ai người chước giỏi tài hay,
Định
tâm, trí, tánh đêm ngày canh tân ?
NHẮN BẠN
Nhắn
với đạo huynh một ít lời,
Thuyền
từ đương độ lúc chơi vơi.
Thìn
lòng gắng giữ bền Tân Pháp,
Dìu
dẫn nhơn sanh chẳng đổi dời.
Một
mình một gánh giữa trời tây,
Thấy
khó nên đây mới tỏ bày.
Xin
lịnh Ngọc Hư thần giáng ngự,
Linh
quang chiếu diệu hóa nên hay.
Tập
tánh không không chớ não phiền,
Điển
quang diêu động thấu cung Tiên.
Chèo
thuyền Bát Nhã chờ đưa khách,
Bão
tố phong ba có pháp quyền.
QUÊ HƯƠNG NGÀY TRỞ LẠI
Lướt
gió tuông mây vạn dặm trường,
Đến
nay nhìn tạng mặt quê hương.
Vườn
cây khóm trúc còn lưu dấu,
Sông
núi ao hồ vẫn mến thương.
Đạo
pháp trường lưu đây Thánh Điện,
Nhơn
tâm hờ hững cõi vô thường.
Rừng
thiền vắng sãi đông du khách,
Cảnh
cũ người xưa tóc điểm sương.
Họa
vận
Mừng
khách từ xa vạn dặm trường,
Ra
đi còn nhớ lại quê hương.
Nước
non đổi chủ chưa phai dấu,
Tình
cũ giữ bền vẫn mến thương.
Đời
Đạo oằn vai nơi đất khách,
Nghĩa
nhân gắng giữ chuyện cang thường.
Chuông
chùa vẳng tiếng bon chen sống,
Thăm
thẳm trời cao mấy giọt sương.
TẾ HỒN VĂN SĨ
Một
mảnh phàm thân sống bấy lâu,
Bao
nhiêu khổ não với ưu sầu.
Chén
cơm manh áo đường danh lợi,
Chữ
nghĩa văn tài tiếng giỏi hay.
Chợt
tỉnh cơn mê đầu bạc trắng,
Bừng
tâm thức giấc tấm thân gầy.
Hồn
linh phưởng phất u minh giới,
Đợi
tiếng chuông ngân bước trở đầu.
Đầu
kiếp Tam Kỳ gặp phước may,
Lập
công bồi đức mựa anh tài.
Trì
tâm niệm Phật tâm linh sáng,
Giữ
giới quy y giới luật mài.
Dũa
gọt trơn tru phàm hóa Thánh,
Chuyển
xây lừa lọc đức nên hay.
Nhớ
cầu Từ Phụ ơn ân xá,
Nương
bóng quang âm đợi tháng ngày.
NHỨT NHỰT LỤC THẬP CỬU
NIÊN
ĐỀ BÚT
Tuồng
xưa diễn lại khác chi đâu,
Vui
chẳng vui, sầu chẳng dám sầu.
Mình
biết phận mình mình cứ giữ,
Hiền
lương đạo đức có sao đâu.
Đâu
phải mình ta ở cõi đời,
Trên
cao dưới thấp lưới lộng khơi.
Mây
trời u ám hồi tan tụ,
Lòng
của thế nhân vốn đổi dời.
Dời đổi bon chen một kiếp sanh,
Nghe nói Đạo Cao xúm giựt giành.
Một chút hư danh lời huyễn ảo,
Tâm
tu rộng mở nhớ làm lành.
Làm
lành cho trọn Phật Trời thương,
Cái
nghĩa sơ giao dẫn dắt đường.
Minh
thệ nhập môn còn mấy chữ,
Tình
huynh nghĩa đệ lại xem thường.
Thường
thì lời thật hay mất lòng,
Cầm
cân Pháp Chánh lấy chi đong.
Nghĩa
nhân không trọn phần nhơn đạo,
Thì
phẩm Thần kia cũng khó mong.
Mong cho huynh đệ hiệp đại đồng,
Trọn phận làm con Phụ Mẫu trông.
Xanh kia thăm thẳm từng vi diệu,
Mà vẫn hằng soi tận cõi lòng.
VỊNH
THUYỀN BÁT NHÃ
Bụi hồng mờ nhạt không môn,
Con đò Tạo Hóa bước chồn bước
nghiêng.
Tay
chèo Bá Trạo ngủ yên,
Tổng
Thương, Lái, Mũi neo thuyền nếm bia.
Mưa
rơi lệ nhỏ đầm đìa,
Tử
sanh quán tục biết về đường mô !
Vườn
xưa ngạn uyển héo khô,
Âm
ba siêu độ ngũ hồ lặng trang.
Canh
khuya thức giấc mơ màng,
Nửa say nửa tỉnh hỏi đàng thượng thiên ?
Tiếc
thay ai đã sơn thuyền,
Con
đò phước bạc nơi miền trầm luân.
Đầu
thuyền chạm trổ Huyền Khung,
Mui
thuyền bánh lái lung tung bụi mờ.
GIÓ LẠNH
Đêm
nằm nghe gió thở than,
Gió
ơi là gió gió vào chi đây !
Mơ
màng giấc mộng canh chầy,
Nghe
thân giá buốt da gầy thịt xương.
Bao
đêm thức giấc miên trường,
Nghe
thân cô lẻ nghe đường dặm xa.
Chuông
chùa vẳng tiếng ngân nga,
Nghe
trong tâm tưởng như là gọi ai.
Tấm
thân bao quản đêm ngày,
Vào
sanh ra tử vì ai cõi trần ?
Hỏi
lòng lòng lại buâng khuâng,
Như
không muốn nói chỉ vầng trăng kia.
Hè
qua thu mãn đông về,
Một
mình một bóng cận kề cao xanh.
Rằng
sao cái bóng mây quanh,
Gương
nga vằng vặc năm canh tỏ tường.
Thương
người lữ thứ thương thương,
Thương
thân cô lẻ thương đường vĩnh sanh.
Đêm
về gió lạnh năm canh,
Gió
ơi là gió gió đành thổi sao !
CẠO GIÓ
Ngồi
buồn cạo gió lăn tăn,
Bảy
năm chóng mặt cũng bằng tù giam.
Thiên
thơ một gánh thi phàm,
Huyền
linh mấy độ không kham nghiệp trần.
Những
nhớ lúc để chân Bàu Cỏ,
Những
nhớ hồi ngục đỏ vùi thân.
Hồn
nghe tê tái bao lần,
Chừng
như thoát xác đặng gần cung Thiên !
Càng
ngoảnh lại vào miền âm cảnh,
Tiếng
cầu kinh như lánh dây oan.
Tẻ
vui lánh tục tìm nhàn,
Hay chi thế sự buộc ràng lòng con.
Ngặt một nỗi thân mòn kiếp sống,
Ngặt một mình chèo chống khôn qua.
Thuyền từ đương độ phong ba,
Năm mươi hai tuổi chưa già đã vơi.
Sánh
cánh nhạn đồng thời sức vóc,
Ánh
Đạo Trời mời mọc khách duyên.
Hay
chi thế sự não phiền,
Để tâm trống vắng ấy quyền Ngọc Hư.
ĐỢI CHỜ
Ngồi buồn ngắm áng mây bay,
Nghe con nhện thở tháng ngày giăng tơ.
Quanh năm kiếp sống đợi chờ,
Gió rung mạng lưới hững hờ màng treo.
Tâm tư nhện chất lưng đèo,
Sương
rơi vệt nước gió heo may về.
Năm
tàn nhện khóc tỉ tê,
Tơ
giăng bủa lưới nẻo về mồi không.
Tơ
rằng trong chốn hồng mông,
Nhện
ung dung thả đừng trông tháng ngày.
TỰ THÁN
Ba
mươi năm lẻ đến trần gian,
Đã
biết oan khiên lắm buộc ràng.
Trói
chặt phàm tâm cơn luyến ái,
Ngăn
dòng huệ trí lúc cao sang.
Tâm
thần chờ lúc tan lòng tục,
Tinh
Khí huờn nguyên nhập Niết Bàn.
Ngước
mắt ngơ trông lên chín bệ,
Tiên
Ông ẩn dạng dưới mây ngàn.
CHÂN NGÃ
Người
gọi tôi là một ánh linh,
Tôi
không tên tuổi cũng không hình.
Không
buồn lưu luyến đường thinh sắc,
Cũng
chẳng màng chi lẽ chấp kinh.
ĐẾN TÂY NINH
Tôi
đến Tây Ninh giữa nắng hè,
Bầu
trời oi bức cụm mây che.
Lưa
thưa cánh én chiều bay lạng,
Rần
rộ ven đường tiếng ngựa xe.
NỖI LÒNG TU SĨ
Tôi
viết lên đây cả nỗi lòng,
Của
người tu sĩ ở phương Đông.
Da
vàng máu đỏ chung nòi giống,
Sao
để lửa hồng ngập núi sông.
DÒNG ĐỜI
Dòng
đời đưa đẩy đến Tây Ninh,
Tôi
sống mươi năm vẫn một mình.
Thăm
thẳm trời cao ơn cảm hóa,
Hiu
hiu gió núi gợi tâm tình.
Nhớ
về quê cũ vui thiên cảnh,
Chạnh
nghĩ non xưa vắng Thánh linh.
Nhắn
khách tri âm nơi xứ xứ,
Tử
sanh, sanh tử chuyện thường tình.
NỖI LÒNG KHÓ TẢ
Mệt
mỏi thân phàm một kiếp sanh,
Oằn vai chi Đạo với quần sanh.
Nghiệp căn xưa trả xem chưa dứt,
Máu mủ vì thương phải đọa trần.
TỬ SINH
Bao
giờ hết chuyện gió sương,
Hết
câu mưa nắng dứt đường tử sanh ?
Bao
giờ hiểu được ngọn ngành,
Bảy
dây kết chặt sáu vòng chuyển luân.
Bao
giờ khí được huân chưng [1]
Tinh
ba bảo dưỡng thần minh hồi đầu.
Bao
giờ hiểu được lý sâu,
Máy
linh cơ tạo nhiệm mầu là thân.
Nắng
mưa sương gió phong trần,
Nương
thân đoạt pháp đặng gần cung Tiên.
HỒI NIỆM
Mù
mù một dãy tựa non sông,
Yêu
khí phủ trùm thật khó trông.
Gươm
linh thần quyết cho diêu động,
Thì
phải mất còn rõ đục trong.
Đục trong còn mất có ai hay,
Nơi cõi Hư
Linh đã sắp bày.
Quyền phép Ngọc Hư đương trị thế,
Để
xem đời tệ hóa ra hay.
MỪNG LỄ HỘI YẾN
Rảo
mắt nhìn quanh mặt địa cầu,
Ban
ơn sanh chúng khắp năm châu.
Diêu
Trì Kim Mẫu thành tâm niệm,
Nguồn
khí sanh quang phép nhiệm mầu.
CẢM TÁC CUỐI NĂM
Tết
đến xuân sang chẳng thiệp hồng,
Một
tờ giấy trắng với tâm không.
Năm
mươi ba tuổi chưa tròn phận,
Hai
tám năm dư vẫn một lòng.
Nhớ
thuở cung Tiên hồn để bước,
Nhìn
mây nuối tiếc dạ bâng khuâng.
Đường
trần nay đã sương pha tóc,
Một
kiếp phù sinh sắc sắc không.
Trèo
lên trên đảnh viếng chùa cao,
Thấy
khói hương thơm tỏa ngạt ngào.
Tượng
Phật mạ vàng nay sơn đỏ,
Nghe
trong chánh điện tiếng lao xao.
Đã
mấy năm qua Tết chẳng vui,
Tuổi
đời đã lớn thấy ngùi ngùi.
Người
đi đi mãi không quay lại,
Nghĩa
địa càng đông tiếng sụt sùi.
HÓA KIẾP
Cái
sống chơn tu phủ bụi mờ,
Giữa
đời ô trược tựa hồn thơ.
Linh
tâm tỏa chiếu vùi trong cát,
Hóa
kiếp trần gian đẹp ý thơ.
KHÔNG
Một
mình một bóng giữa đêm đông,
Khép
kín tư phòng để trống không.
Không
không tất cả đều không cả,
Không
cả cuộc đời Đạo Pháp thông.
BÁO TỬ
Báo
chí Úc Châu nhắc đến mình,
Kê
khai công nghiệp tử rồi sinh.
Nhơn
tình dù biết vì thương mến,
Tin
tức ra đi cũng giựt mình.
Thu
xếp hành trang về Thượng Giới,
Nhắn
lời hậu thế tạo căn sinh.
Đạo
đời xong phận thôi về sớm,
Nấn
ná chi đây chuyện thế tình.
Báo
Cao Đài ở Victoria báo tử tác giả.
Sau
đó đính chính còn sống ( Australia )
MƯA NẮNG
Mưa
ơi mưa !
Mưa
hãy ở trên trời,
Hay
mưa ở lưng khơi.
Mưa
đừng rơi xuống đất,
Tôi
sợ tiếng mưa rơi.
Nghe
khí trời lạnh buốt,
Lạnh
suốt cả tim gan.
Nắng
ơi nắng !
Nắng
đừng ngó đầu tôi.
Đừng
soi vào chân tóc,
Đừng
bới móc chân lông.
Cho
tôi khỏi bận lòng,
Chuyện
nắng mưa thế sự.
GIÓ SƯƠNG
Gió
ơi gió !
Gió
đừng hôn lưng tôi,
Cho
tim tôi bồi hồi.
Cho
tay chân tun rẩy,
Gió
lạnh buốt hồn tôi.
Sương
ơi sương !
Sương
đừng trèo qua tường.
Sương
đừng leo qua cửa,
Vào
tận chốn tư phòng.
Khi tôi đang say ngủ,
Sương đừng ấp yêu tôi.
Mũi ắt xịt liên hồi,
Sẽ đến chuyện lôi thôi.
MẸ VIỆT NAM
Tiễn bước con đi đến xứ người,
Mẹ mong con được phút vui tươi.
Quê nhà mẹ sống buồn hiu hắt,
Bởi thiếu tình con vắng tiếng cười.
Nghe
gió thoảng ngoài hiên,
Mẹ
tưởng chừng hơi con thở.
Thấy
dáng khách qua đường,
Mẹ
ngỡ bóng hình con.
Đường trường diệu viễn nước non,
Muốn thăm cháu ngoại chỉ còn trong mơ !
LÒNG MẸ
Chiều
chiều ra đứng trước sân,
Thấy hình con trẻ theo vầng mây bay.
Nhớ con nhớ cả tháng ngày,
Nhớ trong giấc mộng đêm dài khó quên.
Bao giờ con được tuổi tên,
Sáng danh sử Đạo xây đền tâm linh ?
Ngựa xe nhà cửa linh đình,
Chi chi cũng nhớ chút tình quê hương.
Mẹ
già tóc bạc điểm sương,
Chờ
con hội hiệp dặm trường còn xa.
Mảnh tâm kia mới là nhà,
Sống nên chí Thánh ấy Tòa Đài
Cao.
LÒNG MẸ
Ngồi buồn mẹ lóng gió tây,
Nghe trong tâm tưởng tợ rày chiêm
bao.
Vừa
qua phải độ ba đào,
Thuyền
từ nghiêng ngửa nghẹn ngào bâng khuâng.
Dìu
con với ngọn bút thần,
Đưa
tay nâng đỡ mấy lần truân chuyên.
Mừng nay con đặng nửa quyền,
Thay hình Thánh Thể nơi miền thôn lân.
Ngôi
thờ tạm lập Hiếu -Tân,
Thánh
linh chưa vẹn Trấn Thần nguyện thêm.
Nguyện
cùng Hộ Pháp ơn trên,
Ban
ơn sanh chúng cho bền tâm tu.
Thánh
ân vẹt ngút mây mù,
Tuy
không thấy bóng mà tu dễ dàng.
Trước
Đền con giữ khang trang,
Cắm
cây cờ Đạo khi Đàn Vía nghe.
Rì
rào những phái cùng phe,
Nghe con than thở lòng se thắt lòng !
Ngày ngày mẹ vẫn luống trông,
Tấc hơi con thở nơi lòng mẹ hay.
Dù con chưa vẹn đức tài,
Đức
tin con vững tháng ngày trôi qua.
Thánh
tâm gắng giữ sáng lòa,
Đôi
vầng nhật nguyệt tuy xa mà gần.
Này
lời mẹ gởi Hiếu-Tân.
NHỚ CON
Trời
đã trở đông tiết cuối năm,
Bao
nhiêu nhung nhớ gác tay nằm.
Thân
con viễn xứ hồn bên mẹ,
Có
biết cho lòng mẹ héo von.
TIỄN BẠN
Trước
giờ lên phi cơ,
Tăng
bạn mấy vần thơ.
Gọi
là duyên hạnh ngộ,
Tôi
không có bánh trà.
Cũng
không có nho khô,
Đời
tôi như chim hạc.
Bay
liệng giữa trời cao,
Xin
vẫy tay tiễn chào.
Bạn
trở lại Hiếu-Tân.
NHỚ BẠN HIỀN
Trời
buồn đất có vui không,
Tôi
buồn tôi nhớ tôi mong bạn hiền.
Nhìn
mây tôi nhớ non Tiên.
Nhớ người lạc bước Đào Nguyên thuở nào,
Trời
cao cao hỡi trời cao.
Sao
Trời lại bắt chàng vào trần gian,
Xa
xăm gió núi mây ngàn.
Càng
sâu lý nhiệm gian nan càng dày,
Hỡi
ai có thấu ai hay !
TẶNG ANH BA LONG AN
Đạo đức cao thâm ắt trọng quyền,
Giáo dân qui thiện giải tiền khiên.
Nương theo chánh pháp theo
thiên tánh,
Hành
thiện tu tâm ấy tọa thiền.
TẶNG CHỊ CHÁNH SỰ Ở
HOUSTON
Mừng
đặng Thánh ân đã gội nhuần,
Thâm
sâu vi diệu thấy huân chưng.
Dường
như chị được nguồn tâm hứng,
Mấp
máy phàm thân thấy nhiệm mầu.
TẶNG ANH PHONG
Tôi
nhớ anh Phong một thuở nào,
Dẫn
người bạn nhỏ phố BôNa.
Rẽ
sang Công Lý cho đeo kính,
Thấy
độ không năm bảo “ úy chà!”
Thành
đã cận rồi cũng nhẹ thôi,
Đeo
đi đừng để phải như tôi.
Thế
rồi hai đứa vui chơi tiếp,
Cùng lớp A2 lúc đứng ngồi.
Anh đến nhà tôi một buổi trưa,
Bên
sông Vĩnh Hội chợ Cầu Dừa.
Căn
nhà sàn nhỏ tanh hôi quá,
Bà
chị khen anh lịch sự thừa.
Ra
trường tôi chọn xứ Tây Ninh,
Khép
kín tâm tư sống một mình.
Lửa
khói mịt mù biên giới ấy,
Dòng
đời trôi chảy kiếp linh đinh.
HỘI NGỘ
Chị
đến thăm em tại đỉnh đầu,
Xuyên
qua khí phách đến sông mâu.
Tam
tiêu khí thể còn mờ nhạt,
Thần
khí tương giao bắt nhịp cầu.
Nhịp
cầu sanh chúng tại CaLi,
Bão
tố phong ba phải chịu lỳ.
Ví biết tâm tu là bửu pháp,
Đừng đem trấn thủ tại cung Ly.
Ly trần chưa phải tuổi qui thiên,
Dụng phép hóa dân giữ dạ hiền.
Gậy trúc nương thân dìu khách tục,
Sá chi tuổi hạc phận trò Tiên.
Tiên thiên khác hẳn với phàm
trần,
Vì nghĩa Thiêng Liêng đến giáo
dân.
Dụng nước MaHa trừ nghiệp chướng,
Lễ tâm thành khẩn giáng hồng ân.
NỖI LÒNG CÔ PHỤ
Hay Hậu Chinh Phụ Ngâm Khúc
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nổi truân
chuyên.
Lòng này biết ngỏ cùng ai,
Thiếp nơi quốc nội chàng ngoài đại dương.
Trong
cảnh nầy đoạn trường thân tiếp,
Ngoài
khơi kia chàng biết hay chăng.
Đêm
nằm mơ thấy bóng trăng,
Nhớ
câu hải thệ nhớ trăng chung tình.
Hồn
chàng đã khinh khinh cảnh trí,
Thân
thiếp còn giọt lụy chứa chan.
Những
là vọng tưởng cao sang,
Nào
hay kiếp sống đoạn tràng âm dương.
Thiếp
chẳng tưởng ra người cô phụ,
Chàng
đâu ngờ cõi phủ vân du.
Một
bầu trời đất thiên thu,
Trăm
năm vĩnh biệt mịt mù xa khơi.
Lau
giọt lụy nhắn lời con trẻ,
Vắng
phụ thân quạnh quẽ tiêu điều.
Mưa
buồn gió núi hắt hiu,
Thân
con phải chịu sớm chiều muối dưa.
Ngày
quạnh quẽ chân đưa bước lẽ,
Đêm
đèn tàn ngó trẻ thở than.
Mưa
dầm nắng trải lang thang,
Mái
tranh loang lỗ hai hàng phên thưa.
Sống
kiếp sống năm thừa tháng cạn,
Vắng
bóng chàng thiếp bạn ai đây !
Tuổi
đời bóng xế non tây,
Dễ
chi cải số định ngày hóa công.
Mượn
bút mực đôi dòng tâm sự,
Nhắn
hồn chàng sanh tử là đâu.
Khi
xưa ai ngỡ đeo sầu,
Xuống
thuyền vượt biển biển sâu khó dò.
Nhắn
với khách chung đò buổi trước,
Được
duyên may an bước trời tây.
Nỗi
lòng tâm sự giải bày,
Quê
người sang cả nhớ ngày tiễn đưa.
Tiết
xuân lập hương đưa khói quyện,
Khấn
hồn chàng linh hiển biển đông.
Một
vòng trời đất mênh mông,
Biết
ai chia xẻ nỗi lòng từ đây !
NHỮNG BÀI THƠ KHÔNG TÊN
BÀI I.
Biến
chuyển trời Tây cuộc đảo huyền,
Nghiêm
minh Tam Giáo phạt Thiêng Liêng.
Đạo
mầu chưa dễ chi canh cải,
Giữ
phận mình y thiệt chánh truyền.
BÀI II.
Sáng
hôm nay
Khi
vừa thức giấc
Tôi sẽ sống một ngày
Với nắng đẹp ban mai
Sáng hôm nay
Khi vừa tỉnh giấc
Nhớ các bạn phương Tây
Đang lao vào thế sự
Mái tóc bạc bay bay
Tôi đi giữa ban ngày
Dưới
ánh nắng chói chan
Mặt
địa cầu nóng bỏng
Sao
lòng người không hay
Tôi đã sống
Qua
một ngày địa cầu
Trong
tĩnh lặng thâm sâu
Những
giây phút tuyệt vời
Của lòng mình thảnh thơi
BÀI III.
Nhàn
thì ẩn non tòng cụm bá
Nước
nhành dương rửa dạ từ bi
Nhìn
con thỏ lặng đưa thì
Lợi
danh xạo xự ích gì cân đai
Nhành
dương rưới sạch sành sanh bụi
Tóc
bạc râm thay mái tóc xanh
Ngẩn
ngơ thế sự tan tành
Đoái
con đường cũ giựt giành mà đau
BÀI IV.
Để
bước vân du đến xứ nầy
Ngựa
xe nhà cửa góc trời Tây
Ồn
ào rộn rịp người đông đúc
Đạo
pháp truyền lưu chẳng thấy hay
Buồn
lòng lửng thửng giữa trời mây
Rảo
mắt xem qua kiếm các thầy
Cơ Đạo
qui nguyên bằng trí tục
Tuồng
xưa diễn lại chẳng gì hay
Đạo
pháp xem qua giống hí trường
Bề
ngoài nhơn nghĩa luật yêu thương
Nhưng
trong thiếu hẳn đèn tâm Thánh
BÀI V.
Tượng
đồng bia đá để mà chi ?
Ngoảnh
lại trăm năm có được gì ?
Kiếp
sống vương oai trăm họ khiếp
Thác
rồi nhắm mắt thảy đều khi
Tuần
hoàn võ trụ không ngừng nghỉ
Non
nước đổi dời thạnh lại suy
Hỏi
thử muôn dân dân sẽ tỏ
Rằng
tuồng hát ấy lắm ai bi
BÀI VI.
Ngọc
sắc Huỳnh Kim Tân Pháp diệu
Lung
linh mờ ảo trí tâm khai
Cảm
quang diêu động lâng lâng
Mừng
cho thị nữ chuyên cần lập công
BÀI VII.
Xin
gởi lại bạn hiền
Một
công trình sưu khảo
Góp
nhặt ý Thánh Ngôn
Gọi
là lời Thuyết Đạo
Tuy
ngắn gọn đơn sơ
Nhưng
trương hình chơn pháp
Mong
giúp cùng đồng đạo
Khỏi
nhọc công tra cứu
BÀI VIII.
Nơi
trần thế là miền khổ cực
Dầu
sang vinh đến mực công hầu
Cung
phi mỹ nữ chực chầu
Gẫm
ra cũng cảnh đeo sầu mà thôi
BÀI IX.
Việc
làm được hôm nay
Không
để lại ngày mai
Thời
gian đâu còn dài
Tuổi
xanh thoáng qua mau
Như
con tàu rời bến
Mất
hút trước đại dương
Và
tan vào biển lặng
Của
tâm thức bao la
Những
dấu vết nhạt nhòa
Kiếp
trần gian ô trược
BÀI X.
Tuổi
đời đã năm tư
Thôi
gác lại từ từ
Những
lý nhiệm thiên thai
Trần
gian nhiều đau khổ
Huyền
Khung Cao Thượng Đế
Xin
gội rửa oan khiên
Nhân
gian bớt não phiền
Cho
người được thiện duyên
Tôi
không có pháp quyền
Đưa
bạn lại Tiên Thiên
Trời
cao đâu phép lạ
Tại
bạn vốn hay quên
Nguồn
sống kia linh diệu
Vẫn
tuôn chảy dạt dào
Qua
các cõi thanh cao
Đến
trần gian ô trược.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét