Tài liệu
giảng huấn do một số học sinh đệ ngủ ghi chú trong khóa học đặc biệt về giáo lý
tại Tây Ninh 1968.
TIỂU
DẪN
Vào những ngày cuối cùng của niên khóa
1967-1968, do lời yêu cầu của một số học sinh hiếu học, chúng tôi đã dành trọn
những buổi sáng chúa nhật trong ba tháng liền để hướng dẫn cho tám mươi học
sinh trình độ đệ ngũ theo một chương trình đặc biệt gồm hai phần chính: Đạo lý và Toán học. Hầu hết các em là những con
nhà Đạo trước kia theo học bậc tiểu học tại hai trường Đạo Đức Học Đường và Lê
Văn Trung, các em đã biểu lộ tinh thần hiếu học thật đáng khích lệ.
Bài vở trong những trang sau đây do chính các
em học sinh ghi lại trực tiếp những lời giảng trong lớp, chúng tôi đã xem xét
lại và được Hội-Thánh cho phổ biến.
Mong rằng tập tài liệu mỏng nầy sẽ giúp ích một
phần nhỏ cho các em học sinh mới bắt đầu tìm hiểu về Đạo.
Tây Ninh,
ngày 15/4/1970 .
Nguyễn Long
Thành - Đỗ Quang Minh
LỜI DẶN ĐẦU TIÊN
Hôm nay Thầy
bắt đầu hướng dẫn mấy em tìm hiểu đời sống tinh thần Đạo giáo, tiếp nối điều mà
ba năm về trước Thầy Cô mấy em tại các trường trong vùng Tòa-Thánh đã hướng dẫn mấy
em.Khóa học nầy thật là ngắn ngủi trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn về mặt
tâm lý, Thầy chỉ lấy tình của người anh lo lắng tinh thần đạo đức của mấy em mà đến
đây chớ không có một tổ chức nào hỗ trợ hết. Mấy em hiểu chứ ?
Việc Đạo thì mênh mông chữ
Đạo thì vô cùng tận, nói hoài không hết Thầy tùy theo sức mấy em mà lựa lời,
lựa lý, nói cho mấy em dễ hiểu. Thoảng như về nhà có ai chỉ dẫn thêm mấy em cần
phải lắng nghe, có ai phản đối cũng cần phải nghe, rồi lấy trí khôn ngoan của
riêng mỗi em mà phán đoán xem tại sao như vậy. Hiểu được thì tốt hiểu không
được đem vào đây hỏi Thầy, Thầy sẽ giải thích thêm cho. Mấy em cố nhớ điều
nầy:vì con người thường hay tự cao tự đại với mớ kiến thức của mình, đừng bao
giờ nói rằng những gì mà Thầy giảng trong lớp là đúng hơn tất cả mọi người. Mai
kia mấy em sẽ giỏi hơn Thầy và sẽ nói những điều cao xa hơn nữa kìa.
NHỮNG VẤN ĐỀ TỔNG QUÁT
KHÁI NIỆM VỀ CON NGƯỜI
Trên dòng
thời gian vô định, không bắt đầu và cũng không cùng tận con người chỉ xuất hiện
trong những khoảng thời gian ngắn rồi mất đi. Thế gian thường lầm tưởng sau cái
chết là hết nhưng kỳ thật cái phần khôn ngoan của con người vẫn lưu tồn mãi mãi
trong vũ-trụ bao la mà mỗi lần phần khôn ấy xuất hiện trong con người trên mặt
địa cầu gọi là tái kiếp, khoảng thời gian hiện hữu trên mặt đất gọi là kiếp
sanh. Nhiều kiếp sanh xuất hiện xen kẻ nhiều lần chết đi gọi là sự luân hồi
triền miên.
Mỗi cơ thể con người chúng
ta đây có ba phần:
- Xác thân là khối tế bào
kết hợp lại.
- Đệ nhị xác thân thuộc về
thể khí, giống y hệt xác thân chúng ta.
- Điểm linh quang còn gọi
là chơn linh hay linh hồn, không thấy được nhưng tác dụng có thể chứng kiến
được là trí khôn.
Ba thể ấy hiệp lại làm một
thì chúng ta sống, khi thể thứ hai và thứ ba rời khỏi xác thân thì chúng ta
chết.
Đệ nhị xác thân là trung
gian giữa chơn linh và xác thân nên nó thường không có lập trường vững chắc,
khi hướng theo chơn linh thích làm điều thiện, khi hướng theo xác thịt muốn
toại hưởng những dục vọng thấp hèn. Vì biết nó có tánh lưng chừng như vậy nên
người học đạo phải tìm phương thế nào để buộc nó hướng về phía chơn linh.
Ý
NGHĨA CỦA SỰ TU THÂN
Muốn cho đệ nhị xác thân hướng thiện phải có
hai việc làm :
Một là sự học hỏi mở mang trí tuệ tìm hiểu
nguồn gốc của con người và vũ-trụ, con đường tiến hóa mà mỗi người đều
phải đi trong khi sống và sau khi chết, tìm hiểu vị trí hiện tại của mình hiện ở đâu trên con đường tiến hóa đó.
Công tác thứ hai là phải thực hành một số quy
luật nào đó về đạo đức để buộc xác thân phải tùng theo ý chí của tinh thần và
tạo cho tâm linh một nền móng vững chắc. Hai công việc nầy về lý thuyết và thực
hành phải đi song song mới thành công.
LỊCH
SỬ XUẤT HIỆN CÁC TÔN GIÁO TRÊN HOÀN CẦU
Từ khi loài người mới xuất hiện trên mặt
địa cầu cho đến bây giờ, lịch sử nhơn loại có ba thời kỳ chính gọi là ba nguơn
: thượng nguơn, trung nguơn và hạ nguơn. Trong mỗi thời kỳ như vậy có nhiều
hình thức tôn giáo xuất hiện.
Nay chúng ta đang ở vào
thời kỳ hạ nguơn, sự xuất hiện của Đạo Cao Đài gọi là Tam Kỳ Phổ Độ.
Đặc tính loài người xuyên
qua các thời kỳ ấy như sau :
- Thượng nguơn : còn thuần
đức thiện lương.
- Trung nguơn :ưa dùng sức
mạnh để tranh đấu.
- Hạ nguơn :chế sức mạnh,
dùng não cân, bày ra nhiều chước Quỷ mưu tà.
GIÁ TRỊ CỦA TÔN GIÁO
1/ - Đối với con người :
Mọi người chúng ta ai ai cũng nhận thấy trong suốt cuộc đời mình sự đau khổ
nhiều hơn sung sướng. Tôn giáo ra đời là để giúp cho con người thoát được cảnh
khổ đó, giúp cho linh hồn đi mãi trên con đường tấn hóa đạt đến phẩm vị có đủ
quyền năng bằng ông Trời và không bị dừng lại từng chặng ở những nơi dừng chân
gọi là phong đô hay địa ngục.
2/- Đối với xã hội : Tôn
giáo là tổ chức giúp cho nhiều người có phương tiện dìu dắt lẫn nhau, cùng đi
cùng tiến còn sự đoạt thành sở nguyện hay là chứng quả cùng không thì hoàn toàn
do ở cá nhân mình. Đối với xã hội Tôn giáo còn có tác dụng làm quân bình cuộc
sống tinh thần và vật chất, ngăn cản sự tàn sát lẫn nhau.
KIỂM ĐIỂM HIỆU NĂNG CỦA TÔN GIÁO
Trong cõi hữu hình nầy mọi
việc chi chi cũng đều tương đối. Các Tôn giáo ra đời sau một thời gian hoạt
động theo đúng tôn chỉ thì thường bị các môn đồ làm sai lạc chơn truyền, tôn
giáo lúc đó đã bị quy phàm. Thời kỳ còn thực hiện đúng tôn chỉ gọi là hưng pháp
hay thạnh pháp, thời kỳ làm sai tôn chỉ gọi là mạt pháp.
KHÁI NIỆM VỀ
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
1/ -
LỊCH SỬ LẬP GIÁO
Vào khoảng 1924-1925 một
số người Việt-Nam là công chức cho chánh phủ Pháp tại Sài-Gòn tập hợp nhau đêm
đêm xây bàn cầu cơ để thỉnh các vong linh về họa thi và học hỏi trong cõi vô
hình. Thoạt đầu có nhiều chơn linh đến chuyện trò vui vẻ và cho nhiều bài thi
tuyệt bút. Trong số các chơn linh giáng hạ có một vị đến với một điển lực phi
thường không chịu xưng danh mà chỉ xưng là ông A Ă Â. Mãi đến Noel 1925 Ông A Ă
 mới cho biết chính Ngài là Đức CHÍ TÔN NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ tức là Ông Trời,
Ngài đến để lập Đạo Cao Đài. Bài thi giáng cho trong đàn cơ đêm đó như sau :
"NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI
BỒ TÁT MA HA TÁT GIÁO ÐẠO NAM PHƯƠNG".
Muôn kiếp có Ta nắm chủ
quyền.
Vui lòng tu niệm hưởng ân
Thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần
thế.
Ngàn tuổi muôn tên giữ
trọn biên."
Từ đó Đức Chí Tôn thường
giáng dạy về đạo lý chỉ biểu cách thành lập Hội-Thánh và phong tước phẩm cho
những Chức Sắc buổi ban sơ.
Những môn đồ đầu tiên của
Đức Chí Tôn chính là những vị công chức đã nói ở trên gồm có các ông CAO-QUỲNH-CƯ,
CAO-HOÀI SANG, PHẠM CÔNG TẮC, cùng một số bạn bè của những ông ấy và những vị
khác nữa do Thiêng Liêng chỉ đường đi tìm liên lạc.
2/ - SỨ
MẠNG THIÊNG LIÊNG
CỦA ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Từ trước đến giờ đã có
nhiều tôn giáo xuất hiện trên mặt địa cầu... sau một thời gian hoạt động thì bị quy phàm. Dù
trước dù sau tất cả các tôn giáo đó đều do Đức Chí Tôn là chúa tể của muôn loài
lập nên. Nguồn gốc tuy vẫn một nhưng vì phong tục tập quán của mỗi địa phương
mỗi khác và vì trình độ dân trí không đồng nên các tôn giáo có màu sắc khác
biệt đôi chút. Nay đến thời kỳ nhơn loại ở khắp năm châu có thể liên lạc với
nhau một cách dễ dàng thì phần nào cũng vì sự khác biệt đôi chút đó mà khiến
cho nhơn tâm bất nhứt nên Đức Chí Tôn phải giáng trần lập Đạo qui hiệp tất cả
các hình thức tôn giáo từ trước đến giờ tạo thành một khối duy nhứt. Sứ mạng
thiêng liêng của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là: Qui Tam Giáo ( Phật giáo, Tiên giáo,
Nho giáo) hiệp ngũ chi ( Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên đạo, Phật Đạo).
3/ - VẤN ĐỀ CƠ BÚT VÀ ĐỨC TIN
Đạo Cao Đài do cơ bút lập
nên, vậy cơ bút là nền tảng của Đạo. Cơ bút là phương tiện để người hữu hình thông
công cùng cõi vô hình học hỏi đạo lý. Đạo Cao Đài nên hình được là do đức tin
đặt trọn vẹn vào những lời chỉ dạy của Đức Chí Tôn và Các Đấng Trọn Lành qua
trung gian của người cầu cơ chấp bút gọi là đồng tử. Nếu vì một lẽ gì đức tin
nầy bị lung lay thì việc Đạo ắt sẽ gặp khó khăn. Vì vậy chúng ta cần phải có
đức tin mãnh liệt nơi quyền năng của Thượng Đế và các Đấng Thiêng Liêng.
TỔ CHỨC
ÐẠI ÐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
I/ - PHÁP-CHÁNH-TRUYỀN LÀ GÌ
Trong tổ
chức chánh trị đời có hiến pháp làm căn bản quy định cơ cấu tổ chức quốc gia và
quyền hạn của nhà nước, trong tổ chức chánh trị đạo có Pháp chánh truyền làm nền tảng để dựa
vào đó lập nên hình tướng của Hội Thánh và phân định quyền hạn của chức
sắc. Vậy Pháp chánh truyền tương đương với bản hiến pháp của đời nhưng điểm đặc
biệt là pháp chánh truyền không do người phàm lập nên mà do chính Đức Chí Tôn
giáng cơ dạy phải tuân theo và không được sửa cãi. Đó là những bài Thánh giáo
trong buổi sơ khai dạy về các phẩm vị, quyền hạn. bổn phận, đạo phục của chức
sắc Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài. Về sau Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc chú giải
thêm cho rỏ nghĩa từng câu từng chữ viết thành quyển "Pháp Chánh Truyền chú giải".Lời chú giải nầy đã được Đức Lý
Đại Tiên chỉnh lại.
II/ - HỘI-THÁNH HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Hội Thánh Hiệp Thiên Đài
là cơ quan có phận sự làm trung gian liên lạc giữa Bát Quái Đài và Cửu Trùng
Đài bằng phương pháp thông công. Ngoài ra Hiệp Thiên Đài còn nắm quyền tư pháp
xử đoán chức sắc và đạo hữu. Về tổ chức có ba chi là: Chi Pháp, Chi Đạo, Chi
Thế. Điều khiển Chi Pháp có Hộ Pháp, điều khiển Chi Đạo có Thượng Phẩm, điều
khiển Chi Thế có Thượng Sanh, Hộ Pháp còn cóphận sự điều khiển toàn diện Hiệp
Thiên Đài. Mỗi Chi có bốn vị chức sắc cầm đầu gọi là Thời Quân. Tổng cộng ba
chi có 12 vị gọi là Thập Nhị Thời Quân.
CHI ÐẠO
THƯỢNG-PHẨM
Bảo-Đạo
Hiến-Đạo
Khai-Đạo
Tiếp-Đạo
CHI PHÁP
HỘ- PHÁP
Bảo-pháp
Hiến-Pháp
Khai-Pháp
Tiếp-Pháp
CHI THẾ
THƯỢNG SANH
Bảo-Thế
Hiến-Thế
Khai-Thế
Tiếp-Thế
Ngoài ra còn có các phẩm
vị như :Bảo Văn Pháp Quân, Bảo Sanh Quân và nhiều phẩm vị khác nữa mà Đức Chí
Tôn chưa phong. Dưới những vị nầy có tám cấp nhân viên kể từ dưới lên trên là :
- Luật sự.
- Sĩ tải
- Truyền-Trạng
- Thừa Sử.
- Giám Đạo.
- Cải Trạng.
- Chưởng Ấn.
- Tiếp Dẫn Đạo Nhơn.
III/ - HỘI-THÁNH CỬU-TRÙNG ĐÀI.
Hội-Thánh Cửu Trùng Đài là
cơ quan có phận sự giáo hóa toàn thể nhơn sanh và bảo dưỡng sự sống về phần
đời.
1/ -
TRUNG ƯƠNG :
Về tổ chức tại trung ương
có 9 viện, mỗi phái có ba viện :
- Phái Thái (vàng)
- Hộ Viện : coi về tài
chánh.
- Lương Viện : coi về thực
phẩm.
- Công Viện : coi về đường
sá, cầu cống, dinh thự.
- Phái Thượng (xanh)
- Học Viện : coi về giáo
dục.
- Y Viện : coi về y tế (đông và tây y)
- Nông Viện : coi về canh
nông .
- Phái Ngọc (đỏ)
- Hòa Viện : coi về an ninh trật tự.
- Lại Viện : coi về nội
vụ.
- Lễ Viện : coi về nghi
lễ, giao tế.
Hộ, Lương, Công thuộc Phái
Thái.
Học, Y, Nông thuộc Phái
Thượng.
Hòa, Lại, Lễ thuộc Phái
Ngọc.
2/ - TẠI ĐỊA PHƯƠNG
Tại địa phương có tổ chức
Bàn Tri Sự là đơn vị hành chánh thuộc cấp xã.
So sánh với sự phân chia
ranh giới hành chánh ngoài đời ta thấy :
Cấp Vùng tương
đương Trấn Đạo.
Cấp Tỉnh tương
đương Châu Đạo hoặc Khâm Thành.
Cấp Quận tương
đương Tộc Đạo hoặc Phận Đạo.
Cấp Xã tương đương
Hương Đạo.
IV/ CƠ QUAN PHƯỚC THIỆN
1/- PHẬN SỰ :
Phước Thiện là cơ quan có
phận sự gầy dựng những cơ sở kinh tế để lấy lợi làm châu cấp (lương bổng) cho
chức sắc hiến thân hành đạo và giúp đỡ những kẻ nghèo khó. Ngoài ra nó còn có
phận sự tạo công ăn việc làm cho nhơn sanh.
2/ - TỔ CHỨC :
Về tổ chức đơn vị hành đạo
của Phước Thiện là nhà "Sở Phước Thiện Chánh" ở cấp quận do bàn cai
quản điều khiển gồm có :
a/ - 1 Chủ Trưởng.
b/ - 1 Phó Chủ
Trưởng.
c/ - 1 Thủ Bổn.
d/ - 1 Phó Thủ
Bổn.
e/ - 1 Từ Hàn.
f/ - 1 Phó Từ Hàn.
g/ - 6 Nghị Viên.
Mỗi nhà sở Chánh Phước
Thiện phải lập cho đủ nhưng cơ quan thiết dụng như Bảo Sanh Viện, Y Viện, Ấu
Trĩ Viện, Dưỡng Lão Đường, Học Viện, để giải quyết vấn đề sanh, lão, bịnh, tử
là bốn cái khổ chánh của con người
Những chức sắc làm việc
trong Hội Thánh Phước Thiện có thể được đắc phong vào những chức phẩm sau đây :
1/ - Minh Đức.
2 /- Tân Dân.
3/ - Thính Thiện.
4/ - Hành Thiện.
5/ - Giáo Thiện.
6/ - Chí Thiện.
7/ - Đạo Nhơn.
8/ - Chơn Nhơn.
9/ - Hiền Nhơn.
10/ - Thánh Nhơn.
11/ - Tiên Tử.
12/ - Phật Tử
(tương đương với Giáo Tông và Hộ Pháp)
3 / - SỰ THÀNH LẬP
Buổi đầu tiên Đức Hộ Pháp
vâng lịnh thiêng liêng lập ra Minh Thiện Đàn là hình thức đầu tiên của Phước
Thiện. Về sau Minh Thiện Đàn được tiếp nối bằng cơ quan Phước Thiện và nay có
cả một Hội Thánh Phước Thiện hoạt động mạnh mẽ từ địa phương đến trung ương.
V/ - NỮ
PHÁI CỬU TRÙNG ĐÀI
Đó là cơ quan có phận sự
giáo hóa về đạo đức cho phái nữ.
Về tổ chức Hội Thánh Nữ
Phái Cửu Trùng Đài có đầy đủ các phẩm vị như bên nam Phái từ Lễ Sanh đến Đầu Sư.
Còn hai phẩm Chưởng Pháp và Giáo Tông thì bên Nữ phái không có.
Nữ Phái Cửu Trùng Đài do
Đức Lý Giáo Tông lập ra.
VI/ - TÂN LUẬT
Luật lệ của Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ tìm thấy trong quyển Tân Luật là bộ luật mới. Nói là mới khi so sánh với
cái gì cũ hay cựu luật là những quy điều của các Tôn giáo trong Nhứt Kỳ và Nhị
Kỳ Phổ Độ.
Tân Luật của Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ do quyền vạn linh lập nên được Chí Tôn phê chuẩn và vì thế gọi là "Thiên Điều" tại thế, nội dung
có khoản nói về Đạo Pháp, điều luật nói về Thế Đạo, điều luật nói về Tịnh
Thất..
VII/ -
CHƠN TRUYỀN LUẬT PHÁP
Chơn Truyền luật pháp của
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gồm có :
- Pháp Chánh Truyền chú
giải.
- Tân Luật.
- Đạo Luật Năm Mậu
Dần.(1938)
- Bát Đạo Nghị Định của
Đức Lý Giáo Tông và Hộ Pháp.(Hai văn kiện sau nầy bổ khuyết những điều khoản
trong Tân Luật).
VIII/- HỘI THÁNH EM
1/- BÀN TRI SỰ :
Tại mỗi Hương Đạo có tổ
chức Bàn Tri Sự là đơn vị Hành Chánh ở cấp Xã thuộc Cửu Trùng Đài. Đó là một
Hội Thánh Em nho nhỏ nắm trọn quyền hành chánh và pháp luật tại địa phương.
Về tổ chức có ba chức vụ
chính là :
- Chánh Trị Sự nắm quyền
hành chánh và tư pháp.
- Phó Trị Sự nắm quyền
hành chánh.
- Thông Sự nắm quyền tư
pháp và một số chức vụ khác như Tuần Đạo (ủy viên an ninh ), thư tín (ủy viên
liên lạc ), thư ký...v..v
Tổ chức Bàn Trị Sự có một
tầm quan trọng vô cùng vì nhơn sanh trong Hương Đạo hiền hay dữ phần lớn là do
sự giáo hóa của các Chức Việc. Về hành chánh Bàn trị Sự còn phải đảm đương công
việc thuộc Cửu Viện tại trung ương.
2/- BÀN CAI QUẢN
Song song với hành chánh,
bên Phước Thiện cũng có đơn vị nhỏ nhất là Bàn Cai Quản cũng có tầm quan trọng
đáng kể như bên hành chánh nhưng nặng hơn về phần kinh tế.
SỰ TU HÀNH ĐỐI VỚI HỌC SINH
Tu là sửa mình cho nên chí
Thánh, phàm con người dươí thế gian ai là không có lỗi nếu tự mình xét lại hành
vi của mình thì dầu lớn dầu nhỏ ai ai cũng đều thấy không ít thì nhiều mình đã
làm hại đến sự sống của người khác. Mạng sanh là quý trọng hễ phạm vào sự sống
ấy ắt là có tội. Tu là tìm phương giải thoát mình khỏi vòng lẩn quẩn vì miếng
ăn chỗ ở mà tàn hại lẫn nhau dưới hình thức này hay hình thức nọ. Sự tu hành
đối với tuổi trẻ là điều tối cần vì nếu không giác ngộ kịp thời khi tuổi còn
xanh thì rồi trong suốt một kiếp sanh không khéo mình sẽ gây nên bao điều tội
lỗi.
Muốn vậy, trước tiên mình
phải tự trau giồi lấy cái linh tâm cho sáng suốt để phân định được đâu là phải
đâu là trái. Sự trau giồi nầy gọi là học Đạo. Việc học Đạo chẳng phải cầu thuộc
lòng những quy điều giáo lý để làm món hàng trang điểm cho lời nói thêm tốt
thêm xinh mà trái lại cốt để lòng từ bi, công chánh nhập tâm mình mà điều khiển
mọi hành động thường nhựt. Người tu hành tỉ như chiếc xe, chiếc xe cũng như xác
thân phàm tục của mình đây, còn người tài xế như chơn linh của mình. Muốn lái
xe tài xế phải thuộc đường tức là mình phải hiểu lý Đạo trước đã. Hiểu được lý
Đạo là nhờ học mà biết, nhờ dạy mà nên, hiểu được lý Đạo rồi mình dễ dàng phân
biệt điều nào nên tránh điều nào nên làm.
Đối với mấy em hiện giờ
ngoài việc trau giồi trí tuệ hàng ngày bằng cách cấp sách đến trường, mấy em
còn phải năng trau luyện linh tâm hay là lòng hiếu thiện, Phật tánh hằng có sẵn
trong mỗi người nhưng vì bị cuộc sống tranh đua vật chất làm khuất đi. Đó là tu
tâm sửa tánh, loại bỏ dần những thói hư tật xấu của chính mình mà không cần ai
nhắc nhở trừng phạt.
Đời sống của mấy em bị
quay cuồng trong những dục vọng nào là tiền tài danh vọng, địa vị xã hội trong
tương lai, tình cảm của bạn bè..v..v..Những dục vọng ấy làm mấy em quên mất
những điều mà một người tín đồ phải nhớ và thực hành từng bữa. Mấy em may duyên
được Thầy nhắc nhở thì phải nhớ những điều căn bản sau đây :
1/ - Phải năng học Đạo
nghĩa là tìm hiểu kinh điển cho thông suốt, bất cứ của tôn giáo nào cũng được
nhưng trước hết cần tìm hiểu tôn giáo của mình cho rõ ràng để làm căn bản rồi
sau hãy mở rộng tầm so sánh với các tôn giáo khác.
2/ - Phải trau giồi linh
tâm tức phải sửa những thói hư tật xấu của mình. Đó là lý thuyết, còn thực hành
mấy em giữ đúng phận sự của một tín đồ bằng cách tuân y những điều mà Hội Thánh
buộc là được. Một khuyết điểm trầm trọng làm cho tâm linh không sáng suốt là
mấy em thường không chịu cúng kiến. Trong những giờ phút trầm tư mặc tưởng
trước Thiên Bàn, chơn thần của mấy em quên dần được những tư tưởng trần tục
hàng ngày và nhờ điển linh của Thượng Đế ban cho mấy em cảm thấy tinh thần nhẹ
nhàng thơi thới...Từ đó những tư tưởng thiện, hành động lành mới dễ phát xuất.
Phải thực hành mới thấy
được sự huyền vi mầu nhiệm, phải đủ tin tưởng nơi Chí Tôn, Phật Mẫu và các Đấng
Thiêng Liêng mới hiểu được thế giới vô hình. Thầy khuyên mấy em và nhắc nhở mấy
em phải chú trọng đến sự hành Đạo nghĩa là thực hành những điều đã học hỏi được
về chữ Đạo đến mức nào thì làm theo mức nấy. Phải sửa đổi tánh hạnh, phải xét
mình một cách vô tư, phải cầu nguyện hằng ngày cho chính mấy em được thức tỉnh,
phải giữ chay lạt đủ 10 ngày trở lên.
Thầy cũng không buộc mấy
em có một đời sống thượng thừa xuất thế mà phải thực tế làm những điều ích lợi
trước mắt cho bản thân và gia đình mấy em trước đã. Đó là phận sự của người tu
đối với tuổi học trò mấy em.
KHÁI NIỆM VỀ CÕI VÔ HÌNH
I/ - KHÁI NIỆM VỀ THIÊN ĐÀNG VÀ ĐỊA NGỤC
Con đường
Thiêng Liêng Hằng Sống là đường đi của chơn thần sau khi rời khỏi thể xác trở
về Thượng Đế để rồi sẽ còn tiếp tục luân hồi nhiều kiếp nữa trên đường tấn hóa.
Muốn hiểu
được lộ trình nầy cần phải hiểu thế nào là Thiên Đàng, thế nào là Địa Ngục,
Thượng Đế là ai?
Cõi trần
chúng ta ở đây là một lữ quán, chỗ trọ tạm thời của các đẳng (hạng) chơn linh.
Quê hương thật sự của chúng ta là Niết Bàn hay xứ Thiên Đàng, chúng ta đến đây
như một người khách lạ dừng chân nơi quán trọ nên gọi là khách trần.
Bây giờ hãy bắt đầu từ vị
trí hiện tại của chúng ta trên mặt địa cầu 68 nầy, thử tìm hiểu chúng ta sẽ đi
về đâu sẽ làm gì trong cuộc sống và sau khi chết.
Con người sinh ra trên mặt
đất lớn lên già rồi chết, đó là định luật chung của Tạo Hóa, những tài sản, của
cải, gia tài đều phải bỏ lại cho thế gian và cái chết người đời thường nhầm lẫn
là hết. Sự thật không phải vậy. Nơi con người chúng ta có ba phần :xác thịt, đệ
nhị xác thân và chơn linh, con người gọi là chết khi đệ nhị xác thân và chơn
linh cùng một lúc rời khỏi xác thịt mang theo những tư tưởng lành dữ trong suốt
kiếp sanh của mình. Từ đây đệ nhị xác thân và chơn linh vẫn còn tiếp tục hoạt
động dù không có xác thịt hữu hình, nó vẫn hoạt động, nó vẫn sống dưới hình
thức tư tưởng và những tư tưởng nầy tiếp nối tư tưởng hàng ngày của chúng ta
khi còn ở thế. Nó vẫn biết đi, đứng, ăn, nói, cười nhưng chỉ toàn là ảo giác,
những sinh hoạt ấy mường tượng như trong giấc chiêm bao vậy.
Thường thường sau khi rời
khỏi thể xác thì cái phần còn lại thường gọi là chơn thần của chúng ta có hai
con đường phải theo :
- Một là nhập vào cỏi
Niết-Bàn tức là trở về nơi quê hương thật sự của chơn linh của chúng ta, trở về
với Thượng Đế mà không bị một trở ngại nào. Đó là trường hợp của những kẻ đắc
Đạo.
- Hai là phải dừng chơn ở
một nơi trung gian trên con đường về tới Thiên Đàng, gọi là phong đô hay âm
quang địa phủ, địa ngục, diêm đình. Chơn thần dừng chân nơi đây lâu hay mau tùy
theo tội tình quả kiếp của mình để giải thần định trí nghĩa là chờ cho đến lúc
quên hết những tư tưởng và hình ảnh xấu xa của tội lỗi mà mình đã nghĩ đến hoặc
đã làm khi còn sanh tiền. Những sự đau khổ, sợ hãi, hối hận triền miên đến với
chơn thần, kèm theo những hình ảnh đau thương mà mình đã gây ra cho kẻ khác khi
còn sống từ từ hiện ra trước mắt y như một cuồn phim của kẻ vô hình nào đó đã
lén quay tất cả hành vi, tư tưởng dù thầm lén của chúng ta trong suốt cuộc
sống. Đại khái nó giống như hình phạt của lương tâm khi chúng ta làm điều lỗi
và biết ăn năn khi còn ở thế, nhưng cường độ đau khổ mạnh hơn gấp trăm ngàn lần
.
Cho đến khi thần an trí
định nghĩa là "phạt xong"
thì chơn thần mới được phép ruổi dong trên con đường thiêng liêng hằng sống để
trở về cùng Thượng Đế và định cho mình lộ trình sắp tới phải đi về đâu để học
hỏi thêm trong vũ trụ nầy, thường thường phải chuyển kiếp đầu thai.
Bây giờ giả sử chơn linh
của chúng ta nương náo trong đệ nhị xác thân đã về tới cõi Niết bàn là nơi
chúng ta vui hưởng thanh nhàn an lạc đời đời, đó là một nơi trong càn khôn vũ
trụ mà cũng là một trạng thái tâm linh sẽ đạt đến khi đắc Đạo.
Riêng đối với mấy em, đời
sống hãy còn gắn liền với những cảm xúc buồn, vui, ghét, giận thì Thầy phải nói
rằng đây là một nơi vui sướng vô ngần. Sự vui sướng nơi đây không thể nào diển
tả được bằng ngôn ngữ hằng ngày của chúng ta.
Những người có tư tưởng
cao thượng khi làm được một điều lành, một hành vi tốt đẹp như giúp đở người
khác được toại nguyện theo đường lành thì liền trong tâm tư có một sự vui sướng
trào dâng đến cực độ, đại khái nó giống như sự vui sướng mà mấy em sẽ bắt gặp
trên con đường hướng về Thượng Đế nhưng cường độ sự vui sướng trong cõi hư linh
kia mạnh hơn rất nhiều.
Thiên Đàng hay Niết Bàn là
cõi hư vô tịch-diệt, chơn linh nhập được vào cõi đó phải có đồng bản tính nghĩa
là yên tĩnh hoàn toàn. Mấy em khó mà tưởng tượng ra nổi cảnh không không ấy như
thế nào, chỉ khi nào mấy em tu hành đạt đến mức ấy mới biết rõ, ngay cả các bậc
chơn tu đắc đạo cũng phải nhìn nhận rằng tất cả các tiếng nói, chữ viết của
loài người hiện không đủ để diển tả những kinh nghiệm mà các Ngài đã sống qua
trong cõi ấy. Tuy nhiên, Thầy muốn nêu ra đây để mấy em có khái niệm về một cõi
Thiên Đàng nho nhỏ tại tâm của mỗi người và có một đức tin vững mạnh rằng
Niết-Bàn là điều có thật trong vũ trụ chớ không phải là điều huyển hoặc do
người đời bày vẽ ra để dối gạt mấy em.
Tóm lại trên đây là khái
niệm rất sơ lược và thiếu sót về hai cõi Thiên Đàng và Địa Ngục. Cái quyền năng
làm chủ tất cả những cõi Trời những hoạt động vô hình hay hữu hình của tất cả
mọi đẳng cấp chơn linh, mọi vì tinh tú, là quyền năng của Thượng Đế. Đó là Đấng
vô hình toàn năng, toàn tri, Chí Tôn, Chí Đại, thiên biến vạn hóa, có mặt luôn
luôn và không bao giờ mất. Người đời tôn sùng Thượng Đế với nhiều danh hiệu
khác nhau như :
- Đấng Giê-Hô-Va của Đạo
Do Thái.
- Đức Chúa Trời của Thiên
Chúa Giáo.
- Đức Chí Tôn của Cao Đài
Giáo.
Nhưng tựu trung chỉ có một
Đấng duy nhất mà thôi đó là Đấng Tạo Hóa tức là Ông Trời.
II/ -
ĐỜI SỐNG DUY TÂM VÀ DUY VẬT
Đời sống duy tâm là đời
sống của người chấp nhận có Thượng-Đế có Thần, Thánh, Tiên, Phật, có linh hồn,
có thưởng phạt, có quyền năng vô hình điều khiển hữu hình và biết hướng về
Thượng-Đế để điều khiển những hoạt động hàng ngày của mình cho phù hợp với
Thiên ý dù có theo một hình thức tôn giáo nào hay không.
Còn duy vật là hướng về
vật chất lấy cuộc sống hữu hình làm căn bản, cho rằng chết là hết không có linh
hồn, không có Thượng-Đế chỉ có con người là chủ của muôn loài, tinh thần là sản
phẩm của vật chất.
Nói tóm lại người duy vật
cho rằng đời sống của thể xác, chén cơm manh áo là điều quan hệ, còn sự tu hành
linh hồn thăng hay đọa đều là viễn vong không có.
Triết lý Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ là nhằm dung hòa tư tưởng của đôi bên, chén cơm manh áo vẫn cần mà sự
thăng hay đọa của linh hồn cũng có.
III/ -
THỂ PHÁP VÀ BÍ PHÁP
Thể pháp là cái hình thức
biểu lộ bên ngòai mà mọi người đều thấy được để chứa đựng cái năng lực vô hình
bên trong gọi là Bí Pháp.
Thí dụ :Hội-Thánh là cái
hình thức thuộc về thể pháp, chứa đựng tình thương công lý là cái năng lực vô
hình thuộc về bí pháp. Hành động của Hội Thánh là thể pháp mà cái tác dụng của
hành động ấy đem lại cho nhơn sanh niềm an ủi thuộc về bí pháp.
Nói tóm lại chi chi thuộc
về thế giới hữu hình nghe, thấy được thuộc về thể pháp, còn cái ý nghĩa, quyền
lực tinh thần tuy không nghe thấy được nhưng hằng có ẩn tàng bên trong cái thể
ấy thì gọi là bí pháp.
Vậy lời kinh tiếng kệ,
chuông mõ. lễ nhạc là thể pháp chứa đựng quyền lực vô hình bên trong là sự giải
thoát cho con người. Thể pháp và bí pháp phải nương nhau như hình với bóng và
muốn đạt được cái quyền lực vô hình đó nghĩa là đoạt pháp thì bắt buộc chúng ta
phải dựa vào hình thức bên ngoài gọi là thể pháp. Phải thực hiện nó trước để
dần dần nương nhờ vào đó mà đi đến nội dung bên trong. Điều nhầm lẫn là chúng
ta coi rẻ thể pháp nên dù có công lao bao nhiêu cũng không mong gì đoạt pháp
được.
IV/ -
VẤN ĐỀ ĐỨC TIN
Con người sống được là nhờ
đức tin. Thuở nhỏ chúng ta tin nơi cha mẹ, ông bà, những người thân thích lân
cận chúng ta. Chúng ta tin nơi những lời chỉ dẫn của các vị ấy là đúng. Lớn lên
đi học chúng ta tin nơi ông thầy của chúng ta, rồi đến khi ra đời chúng ta tin
nơi tổ chức, tập đoàn mà chúng ta gia nhập vàsau cùng khi bắt đầu khắc khoải
trong tâm tư về một cái gì cao xa hơn thế giới nầy, chúng ta bắt đầu tin nơi
Thượng đế, các đấng Thiêng Liêng . Cái đức tin ấy theo thời gian mà lớn mạnh,
từ phạm vi nhỏ hẹp đến rộng lớn và ngoài những người mà chúng ta nhờ tới như
cha mẹ, ông bà, thầy, cô, đoàn thể xã hội, Trời Phật v.v... luôn luôn còn có
đức tin nơi chính mình làm chủ, đó là lòng tự tin.
Bây giờ giả sử chúng ta để
mất đức tin ấy, thì khi nhận xét một điều gì chúng ta sẽ dựa vào đâu để nói là
phải hay trái. Nếu chúng ta tự tin thì cái kết luận do trí khôn mình đem lại là
điều phải làm, phải theo, nếu chúng ta tin nơi cha mẹ thì điều gì do trí khôn
của cha mẹ chỉ lại cho chúng ta là phải, nếu chúng ta tin nơi Tôn Giáo, Thượng
Đế thì những lời dạy dỗ của Trời, Phật là phải. Bỏ mất đức tin ấy là phủ nhận
tất cả những gì phải trái trên đời nầy, cấm đoán quyền tự do tư tưởng, tự do
tín ngưỡng là ngăn cản đường tiến của nhơn sanh.
Vậy sống được là nhờ tin
tưởng ở một cái gì, nếu không có được lòng tin mãnh liệt ở Thượng Đế, ít nữa ta
phải tin ở chính mình, ở trí khôn của mình, mà cái trí khôn của mình là hình
ảnh của chơn linh hay linh hồn hay điểm linh quang nhỏ phát xuất từ Thượng Đế
vốn là Đại linh quang chớ chẳng phải ngẫu nhiên mà có.
Tóm lại theo Đạo thì phải
có đầy đủ đức tin nơi CHÍ TÔN PHẬT MẪU và các Đấng trọn lành, lại còn cần phải
có óc nhận xét để tránh điều mê tín, dị đoan, mới không hoài công vô ích.
Kết Luận
NHỮNG ĐIỀU CẦN THIẾT VỀ
PHƯƠNG PHÁP TU THÂN VÀ LẬP VỊ
ĐỐI VỚI HỌC SINH
Trong phần
nầy Thầy chỉ rút ra những điều thiết thực khuyên mấy em phải thực hành sau khi tìm hiểu giáo lý nhiệm mầu của Tôn Giáo từ cổ
chí kim.
THỨ NHẤT: Cần phải thực hành
thể pháp của Đạo trong đời sống thường nhật để trau dồi tâm linh mấy em bằng
cách :
1) - Cố gắng
giữ chay lạt từ 10 ngày trở lên.
2) - Phải
cúng Chí Tôn ít nữa mỗi ngày một lần.
3) - Phải
nguyện kinh Thế Đạo luôn luôn (Nguyện trong tâm cũng được) gồm có :
- Kinh đi
đường.
- Kinh khi
về.
- Kinh nhập
học.
- Kinh ăn
cơm.
- Kinh đi
ngủ.
- Kinh khi
thức.
4) - Phải
cầu nguyện cho chính bản thân mấy em hồi tâm hướng thiện và lập lại lời cầu
nguyện ấy hằng ngày.
5) - Phải
tụng kinh và cầu nguyện cho nhơn sanh, cho các chơn hồn bị đọa
THỨ HAI : Phải chú tâm đến việc học hằng ngày để mở mang
trí tuệ, nuôi hy vọng là mình sẽ đem sự hiểu biết ấy, lấy cái khôn ngoan trí
não của mình mà tìm phương giúp đở cho người khác ngay từ bây giờ và về sau.
THỨ BA : Phải luyện tập thể xác cho cường tráng bằng
những hoạt động chân tay hoặc làm việc lao động để tăng thêm mức sản xuất cho
những nhu cầu hằng ngày trong gia đình.
Làm được ba điều Thầy vừa
kể trên đây chính là mấy em đang tu thân và lập vị mình vậy ./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét