Thay
Lời Tựa
Đạo Cao Đài đồng nghĩa với Tam đại: ĐẠI ĐẠO, ĐẠI ÂN XÁ tiến tới ĐẠI ĐỒNG.
Trong Tân Luật có ba đạo sư đồng hành: Đạo pháp, Thế luật và Tịnh Thất. Đạo pháp là tu theo cửu phẩm thần tiên.
Tịnh Thất là luyện đạo Trường Sanh, dành cho
tín đồ để trọn câu tận độ chúng sanh.
Đêm 8-4-1926, Đức Chí Tôn đã phán : “Muốn
trọn câu phổ độ phải làm thế nào ? Phải bày bửu pháp ra, chớ không đặng đâu
nữa”. Đức Chí Tôn lại nhắc nhở: “Con hiểu bổn nguyên Thánh chất Thầy … Tuỳ sức
mỗi đứa lo lập (cho mình một Tịnh Thất )” (Đàn 4-8-1926)
Đức Cao
Thượng Phẩm đã lập Tịnh Thất tại tư gia đầu tiên gọi là Thảo Xá Hiền Cung.
Đức Chí Tôn dạy về tu chơn:
"Cái xác vô hình huyền diệu Thiêng
Liêng này do nơi Tinh, Khí, Thần mà luyện thành…Nó phải có bổn nguyên Chí
Thánh, Chí Tiên, Chí Phật mới xuất ra Thánh, Tiên, Phật”. (Đàn 17-7-1926)
Đức Chí Tôn lại khẳng định:
“Nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về
cùng Thầy đặng”. (Đàn 19-12-1926).
Đức Chí Tôn lại nhấn mạnh:
“Dầu không Thiên phong, hễ gắng tâm thiện niệm thì địa vị cũng đạt hồi
đặng”. (Đàn 17-9-1927)
Sau đó Đức Chí Tôn thúc
hối Đức Hộ Pháp : “T. làm Tịnh Thất cho rồi đặng mấy anh con vào tịnh, các đài
LUYỆN KHÍ trật hướng …” (Đàn 5-1928)
Khí là đầu mỗi sự sống của
vạn vật. Luyện Khí là luyện Đạo Thần Tiên.
Sau khi Đức Phật Mẫu ban
cho Đức Hộ Pháp “vẹn toàn pháp môn“, trong lời thuyết đạo ngày 5-2-Mậu Tý, Đức
Ngài nói: “Tội nghiệp thay mấy anh lớn già yếu đã giải thoát không được hưởng
một đặc ân gì …
Nơi Hiệp Thiên Đài lấy bí pháp tạo HUYỀN LINH
ĐÀI (do Bảo Huyền Linh Quân giữ ) để tương liên với quyền năng vô hình, rước
các hành giả tu tịnh.
Trong con đường Thiêng
Liêng Hằng Sống, Đức Ngài cho biết : Nhiều linh hồn không qua được cửa Bát Quái
Đài vì nhiều người không tiếp tục tu. Bởi lẽ, tín đồ chỉ vào hàng Địa Thần làm
sao qua cổng Trời được, ít nhất phải bậc Thiên Thần (Chí Thần). Vì thế, hàng
tín đồ muốn đạt Chí Thần phải tiếp tục
tu tịnh.
Đức Chí Tôn đại xá cho
những người vào Đạo biết tu và thiện niệm, làm lành lánh dữ, cầu xin siêu độ,
thoát vòng nghiệt chướng.
BẠCH VÂN QUÁN
CHÚ GIẢI TỊNH THẤT
DẪN NHẬP
"Tịnh Thất" là
nhà thanh tịnh để cho các tín đồ vào mà tu luyện. Muốn vào nhà Tịnh Thất phải
tuân y những điều lệ như sau nầy:
Chú giải: Từ ngữ tín đồ , xác nhận rằng các chức sắc muốn
nhập tịnh phải bỏ chức phẩm, như Đức Hộ-Pháp nói khi nhập tịnh Trí Huệ Cung:
“giải chức Hộ-Pháp chỉ là bạn tu mà thôi” (Trí Huệ Cung, trang 13). Trong quyển
“Giáo Lý” đuợc lời phê của Đức Hộ Pháp có viết như vầy: “Hàng tín đồ này là bậc
thượng thừa xong xuôi tất cả bổn phận làm người, mới đặng nhập Tịnh thất”. Như
vậy, người tín đồ muốn vào nhà tịnh phải
tiệm tu qua Hạ thừa, Trung thừa rồi mới tới thượng thừa đuợc. Bậc Thượng thừa,
Thượng căn, Thượng trí đuợc nhập Tịnh thất vào ngày đại tịnh.
Điều Thứ Nhứt:
Trong hàng tín đồ, ai đã
xử tròn nhơn đạo và giữ trai giái từ sáu tháng sắp lên thì được xin vào Tịnh
Thất mà nhập định.
Chú giải:
Theo qui định trên hàng tín đồ đề
cập đó ở vào bậc Trung thừa tu luyện theo trung tịnh vì chỉ mới giữ trai giới 6
ngày trở lên. “Đã giữ nhơn đạo” tức phải giữ đúng thế luật.
Đọc lại chương II, điều thứ 13 của
Tân Luật – “Trong hàng hạ thừa ai giữ trai kỳ từ 10 ngày sắp lên đuợc thọ
truyền bửu pháp, vào Tịnh thất có người chỉ luyện đạo”
Điều Thứ Hai:
Phải có một người đạo đức
hơn mình tiến dẫn và một người đạo hữu bảo hộ.
Chú giải:
Hàng tín đồ Thượng thừa (Thượng căn
, Thượng trí) muốn vào nhập Tịnh thất phải có một tu sĩ tuổi thiền cao hơn mình
tiến dẫn và một người bảo trợ là anh, em hay con cháu bảo đảm cung cấp phẩm vật
và lo đời sống cho tịnh viện suốt thời kỳ tu tịnh. Thế nên buổi lễ nhập Tịnh
thất tuy đơn sơ nhưng phải tôn nghiêm có đủ mặt cả ba người: chủ tịnh, tu sĩ
tiến dẫn và người bảo trợ. Thiếu một trong ba người đó, buổi lễ phải đình lại.
Điều Thứ Ba:
Cấm không đặng thơ tín
vãng lai với người ngoài, trừ ra thân nhân, song phải có người "Tịnh
Chủ" xem trước.
Chú giải:
Tu sĩ tịnh luyện là tu chơn, phế
trần luyện đạo, nên tịnh chủ phải kiểm soát thơ tín, các bưu kiện gửi cho tu
sĩ, ngừa những đồ dùng xa xí trái với luật đạo. Vì theo điều thứ 21, phần Thế
Luật của bộ Tân Luật có ghi như vầy:
“Người bổn đạo ăn mặc phải cần
kiệm, tuỳ phận tuỳ duyên, nên dùng đồ vải áo bô và giảm bớt hàng tơ lụa”.
Điều Thứ Tư:
Cấm người ngoài không được
vào nhà Tịnh, chẳng luận là viên quan chức sắc cùng thân tộc tín đồ.
Chú giải:
Quyển “Giáo Lý” của Trương Tiếp Pháp
viết: “Tịnh Thất là một giáo đuờng thâm nghiêm. Tín đồ vào đó đặng an thần
dưỡng trí, tu luyện tánh mạng đến công viên qủa mãn”. Như vậy Tịnh Thất là nơi
dành riêng cho các tịnh viên phế trần luyện đạo. Do đó người ngoài không nên
bước vào đó tham quan như ở các Thánh Thất, Đền Thờ.
Điều Thứ Năm:
Cấm không được chuyện vãn
với người ngoài, trừ ra cha mẹ và con cháu đến thăm song cũng phải có phép
người "Tịnh Chủ" cho.
Chú giải:
Bên cạnh Tịnh thất còn có Tịnh xá
là nhà ở của các tịnh viên. Nơi đây con cháu đến thăm viếng và ủy lạo đuợc,
song phải xin phép trước để tránh trùng giờ tịnh luyện. “Cấm không được chuyện
vãn với người ngoài” vì sợ thấu lậu phương pháp tọa tịnh ra ngoài, kẻ hám vọng
luyện sai mà nguy hại. Tuyệt đối cấm truyền Tân Pháp ra ngoài.
Điều Thứ Sáu:
Nhập Tịnh Thất rồi phải
tuyệt trầu thuốc và không được ăn vật chi ngoài mấy bữa cơm.
Chú giải:
Tịnh viên không những kiêng trầu,
thuốc, rượu mà thôi, mà còn phải trường chay diệt dục, giữ ngũ giới cấm theo
chương bốn, điều thứ 21 của Tân Luật.
Điều Thứ Bảy:
Phải giữ cho chơn thần an
tịnh, đừng xao xuyến lương tâm. Phải thuận hòa không được tiếng lớn, phải siêng
năng giúp ích cho nhau và dìu dắt nhau trong đường đạo.
Chú giải:
Muốn “chơn thần an tịnh” phải “nhất
tâm bất loạn phá vọng tồn chơn” và luyện phép vô niệm. Đó là định của thiền.
Muốn “tâm không xao xuyến” thì
không xen, không nói chuyện về người khác. Tuyệt đối không bàn việc thời sự
chính trị vì trái với luật của người tu chơn.
“Không đuợc tiếng lớn” vì là nhà
tịnh (yên lặng), ít nói chừng nào tốt chừng ấy. Nói nhiều tâm xao xuyến nhiều,
chơn thần sẽ tản mạn. Tuyệt đối không nói chuyện trong Tịnh thất.
“Siêng năng giúp ích cho nhau”,
trồng hoa màu phụ, ngũ cốc và để nâng cao bữa ăn có nhiều rau xanh.
“Dìu dắt nhau trong đuờng đạo” theo
khẩu hiệu: khẩu khẩu tương truyền, tâm tâm tương thọ” chớ không viết thành văn
nên cần giúp đỡ nhau về cách luyện đạo.
Điều Thứ Tám:
Phải tuân mạng lịnh của
một "Tịnh Chủ" phải y theo giờ khắc sẽ định mà hành công tu luyện.
Chú giải:
Ban thường vụ Tịnh thất gồm có ba
người:
- Chủ tịnh: chủ toạ các
phiên họp, chịu trách nhiệm trước Hội Thánh. Khuyên nhủ và kiểm soát mọi sinh
hoạt của tịnh viên. Hướng dẫn các tịnh viện luyện đạo.
- Phó chủ tịnh: thay mặt
cho chủ tịnh khi vị này vắng mặt, kiêm thủ bổn.
- Từ Hàn: biên chép và giữ
sổ sách của Tịnh Thất kiêm lo đời sống.
CÔNG PHU TỊNH LUYỆN
- Sơ tịnh: Dành cho hàng
hạ thừa còn sống lẫn lộn với đời. Tịnh tập thể mỗi tháng 2 lần vào giờ dậu ngày
mùng một và ngày rằm nơi Điện Thờ Phật Mẫu. Kỳ dư tịnh ở nhà, Thầy dạy “mỗi đứa
lo lập một (tiểu) tịnh thất” là ý vậy.
- Trung tịnh: dành cho
hàng Trung thừa vẫn còn ở nhà, vào giờ dậu, mỗi ngày phải đến Điện Thờ Phật Mẫu
mà tịnh luyện trong 2 giờ. Tu sĩ làm ăn bình thường và làm nghĩa vụ công dân
như sơ thiền.
- Đại tịnh: Dành cho hàng
Thượng thừa, phế trần luyện đạo phải đủ tứ thời, nhập Tịnh Thất tu luyện cho
đến giải thoát.
ĐỨC CHÍ TÔN dạy :
“Dầu không Thiên phong, hễ
gắng tâm thiện niệm thì địa vị cũng đạt hồi đặng”. (Đàn đêm 17-9-1927).
1 - TINH KHÍ THẦN LÀ GÌ?
Đức Thanh sơn Đạo
sĩ dạy:
Tích khí tồn tinh cánh dưỡng thần,
Thiểu tư quả dục, vật lao thân.
(Giữ khí, gìn
tinh, lại dưỡng thần
Ít lo, ít muốn, ít
lao thân.)
Vậy tinh khí thần
là gì?
Trời có ba báu là: Nhựt, Nguyệt, Tinh.
Đất có
ba báu là: Thủy, Hỏa, Phong
Người có tam bửu là: Tinh, Khí, Thần.
Trời có ba báu ấy mà hoá
sanh vạn vật, dưỡng dục muôn loài, chuyển luân càn khôn thế giới, phân ranh
ngày đêm.
Đất nhờ ba báu ấy ma ømưa
gió điều hòa, cỏ cây tươi nhuận thời tiết có bốn mùa.
Người có tam bửu để nuôi
dưỡng thân thể, minh mẩn phát kiến khoa học giúp nhân loại.
Con người qui được tam bửu
ngũ hành thì đắc quả đạt đạo, còn chơi bời trác táng làm hư hoại tam bửu ngũ
hành thì thân bại , hình người mà dạ thú. Vậy phải giữ gìn tinh , khí , thần
như báu vật.
TINH
Tinh là chất dinh dưỡng
hấp thụ từ tinh hoa đồ ăn sau khi được chuyển hoá cấu tạo nên cơ thể và dinh
dưỡng cơ thể. Cái đem đến sự sống gọi là tinh . Tinh do thận tiết ra, mà thận
là chủ của thủy nhận lấy tinh hoa của ngũ tạng, lục phủ mà tích trữ, cho nên
ngu õtạng hưng thạnh thì tinh tràn đầy.
Tinh là nguồn gốc của thân
thể , nên giữ gìn được tinh thì không sợ bệnh hoạn. Nếu nguyên âm kém, thì
nguyên dương lấn áp, giao động (hay ngược lại) , làm sức đề kháng của cơ thể bị
giảm súc thì tà khí xâm nhập mà phát sanh bệnh.
KHÍ
Khí là chất li ti khó thấy
như tinh khí của thức ăn chất uống lưu hành trong thân thể.
Khí là sức hoạt động của
nội tạng như khí lục phủ, khí ngũ tạng…
Như vậy, khí bao hàm cả
hai loại trên
Theo nguồn gốc thì khí
trời hít thở vào phổi và khí hoá sinh ra trong thức ăn uống đều gọi là khí hậu
thiên.
Còn khí chứa ở thận gọi là
khí tiên thiên, vì nó bao gồm khí nguyên âm (thận âm) và khí nguyên dương (thận
dương) bẩm thụ ở tiên thiên , nên còn gọi là nguyên khí.
Hai khí tiên thiên và hậu
thiên bao trùm bốn thứ: nguyên khí, tôn khí, dinh khí và vệ khí. Tôn khí
(thượng tiêu) chưá ở Thượng khí hải tại giữa ngực . Đó là chỗ vừa qui tụ vừa
xuất phát vận hành trong toàn thân rồi lại trở về tại đó.Tôn khí và nguyên khí,
một chứa ở lồng ngực và một chứa ở thận kết hợp nhau mới nuôi dưỡng cả cơ thể.
Ta gọi chung cả hai là chân khí. Chân khí kết hợp với cốt khí làm cho cơ thể
khỏe mạnh.
Dinh khí (Trung tiêu) là
thứ khí của thức ăn uống thuộc âm. Âm tính nhu thuận cho nên dinh khí đi ở
trong mạch .
Vệ khí (hạ tiêu) là khí
mạnh trong đồ ăn uống nên thuộc dương đi ngoài mạch .Khi ta luyện khí thì âm
dương ức chế lẫn nhau. Nếu tôn khí, dinh khí, vệ khí bất hoà trở ngại, ta sẽ bị
bệnh.
THẦN
Thần là thái cực, là huyền
bí của đại não nơi cơ thể con người. Thần chủ đạo việc phối hợp khí hóa âm
dương.
Thần biểu hiện sức sống.
Cho nên thần còn thì sống, thần chết thì hết. Thần sung mãn thì ngươì khỏe mạnh,
thần suy kém thì người yếu đuối.
Quan hệ giữa tinh, khí,
thần trong mỗi cơ thể là mấu chốt chủ yếu để duy trì sự sống. Cái mạng con
người bắt đầu từ tinh, sống được là nhờ khí, mà chủ sinh mạng lại là thần. Để
cho pháp luân thường chuyển thì khí sinh tinh, tinh dưỡng khí, khí dưỡng thần,
rồi thần lại hoá khí.
Tam bửu hổ tương lẫn nhau.
Tinh là cơ sở của thần, khí từ tinh hoá ra. Thần là mặt biểu hiện của khí .
Sự thăng trầm của tinh,
khí, thần quan hệ đến mạnh yếu của thân thể, sự mất còn của sự sống. Vì thế cổ
nhân mới gọi tinh khí thần là tam bửu (ba món báu), tức là nguồn gốc sinh mạng
của con người. Các nhà đaọ học coi thần là Thái cực nơi cơ thể con người. Thần
chủ đaọ viêïc phối hợp khí hóa âm dương màta thường gọi là thần khí, thần sắc.
Nên thần mất tạng tuyệt, vì các tạng có nhiệm vụ: can tàng hồn , tâm tàng thần,
thận tàng tinh, phế tàng phách và tỳ tàng trí ý. Như thế, thần luân chuyển họat
động, biến hóa vô cùng, không có chúng sanh nào mà không có thần ngự trị.
2 -
MỤC ĐÍCH LUYỆN KỶ
TU CHƠN
Luyện kỷ là tự luyện mình
( kỷ là tự mình ) lập cái tâm cho dứt sự thương yêu (diệt dục ), trìu mến, và
mọi quyến rũ của thế gian (trường trai ) là tập làm chủ bản thân mình. Tu đơn,
tu chơn, thiền định, hay luyện kỷ là một trong các cách nói khác nhau .
Hườn hư là an tịnh cái tâm,
luyện cho khí hậu thiên tiếp vơí khí tiên thiên. Hễ hườn hư là đạt đạo.
Ngoài việc nâng cao chính
khí để cơ thể nhẹ nhàng thuần dương đắc quả, việc luyện tinh khí thần là tập
cho con người tính điềm đạm, vui tươi, lòng nhân ái, có những suy nghĩ tốt, bỏ
tư tưởng xấu xa, tăng cường hoạt động nội tạng mà còn sửa mình, trừ khử các bịnh
và diệt thất tình, lục dục nữa.
Vì giận thì hại can (can
thuộc mộc), mừng quá hại tâm (tâm thuộc hoả), lo nghĩ hại tỳ (tỳ thuộc thổ) buồn
quá hại phế (phế thuộc kim), sợ hãi hại thận (thận thuộc thủy).
Thế nên bỏ giận dữ để nuôi
dưỡng tinh, ít lo nghĩ để nuôi dưỡng thần, bớt nói để nuôi dưỡng khí, ngăn lòng
ham muốn để nuôi dưỡng tâm.
Muốn nuôi dưỡng tâm phải nuôi dưỡng thần trước.
Muốn nuôi dưỡng thần phải nuôi dưỡng khí trước.
Muốn nuôi dưỡng khí phải nuôi dưỡng tinh trước.
Muốn nuôi dưỡng tinh phải nuôi duỡng chí trước.
Muốn nuôi dưỡng chí phải nuôi dưỡng thần trước.
Việc luyện đaọ chỉ có một
mục đích, nhưng mỗi thời kỳ có tên khác nhau. Phật Giáo chú trọng “Hư vô tịch
diệt” nên dùng phép thiền định mà giữ lòng không cho xao động.
Đạo Tiên chú trọng “thanh
tịnh vô vi” để tùng thiên lý, quyết không để cái tâm lưu luyến hồng trần, tức
lánh trần.
Đạo Nho chú “tồn tâm dưỡng
tánh”, chỉ tĩnh toạ để tạo cái tính tiết độ cao siêu của bậc quân tử.
Đại Đạo thì chú trọng
luyện “tam bửu, ngũ hành” mỗi ngày công phu bốn lượt và tịnh luyện một lần để
nuôi dưỡng linh hồn, vì đó là mục đích trọng yếu của tu thân.
Luyện tinh khí thần, chủ
yếu là luyện khí. Khí vào buồng phổi rồi luân lưu khắp châu thân để nuôi dưỡng
cơ thể . Vậy luyện khí tức là luyện thở .
Con người có thể nhịn ăn
50 ngày, nhịn uống 5 ngày, nhưng chỉ nhịn thở vài phút thì sự sống không còn.
Khi còn bào thai trong
bụng mẹ thì bà mẹ đã thở cho thai nhi .Khi sanh ra, cuống rún bị cắt rời tách
khỏi nguồn thở của mẹ. Thán khí trong máu trẻ sơ sinh tăng cao khiến nó phải
khóc giúp cho hai lá phổi bung ra.
Thế là sự hô hấp của đứa
bé bắt đầu thở cho đến cuối cuộc đời của nó. Như vậy sợi nhau thai thay thế bởi
sợi sinh khí đem sự sống của khí trời vào cho con người. Sợi khí đó là hơi thở.
Hơi thở là sự sống, mà sống là phải thở. Nhưng thở cách nào cho sự sống khỏe
mạnh và sống lâu dài, đó là cả một nghệ thuật nên phải luyện khí vừa để nuôi cơ
thể, vừa để dưỡng thần chí.
3 -
LUYỆN KHÍ
Muốn tham thiền nhập định,
trước phải luyện khí. Thế nên luyện khí rất quan trọng.
Đức Chí Tôn dạy:
“ T… làm Tịnh thất cho rồi
đặng mấy anh em con vào tịnh; cái đài luyện khí trật hướng, phải xoay mặt qua
chánh đông” (Đàn 5- 1928).
Bởi lẽ luyện khí chưa
thành thuộc mà vào tham thiền, dinh khí và vệ khí phản khắc nhau (như trình bày
ở trước) thì tẩu hỏa nhập ma, do người tu luyện không biết thở cho đúng cách.
Muốn tịnh tâm (an tâm), ta
phải thở bằng bụng: phình bụng là hít vào, thót bụng là thở ra, thở như vậy để
trái tim được thong thả.
CỦA LUYỆN THỞ
1 - Thở sâu và thong thả:
Khi thở ra, khí dơ trong
các phế nang được thải ra hết. Khi hít vào, khí trong lành phải đi qua mũi đủ
thời gian điều hòa nhiệt độ của không khí và đủ thời gian khi đi vào tận phế
nang sâu nhất. Chính vì thế mà ta phải thở sâu và thong thả mới bảo đảm sự trao
đổi khí bên trong cơ thể được trọn vẹn.
2 -Thở
êm nhẹ:
Biểu hiện sự thoải mái
trong tâm hồn, hơi thở ra hoặc hít vào không có tiếng động, người ngồi bên cạnh
không nghe được hơi thở của ta. Hãy đặt một cái lông trước lỗ mũi, nếu hơi thở
lay động cái lông, tức hơi thở chưa êm nhẹ
3 -
Thở đều nhịp:
Vì các cơ quan trong thân
thể đều tuân theo một nhịp điệu nhất định để giữ thế cân bằng, ổn định sinh lý
và phụ thuộc vào nhịp thở và nhịp tim. Hai loại nhịp nầy quan hệ mật thiết với
nhau. Do đó thay đổi nhịp thở cơ thể ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý của tim,
tốt hay xấu tùy theo nhịp thở mau hay chậm.
Phải giữ đều nhịp thở từ
đầu đến cuối lúc luyện khí, 8 lần trong một phút là tốt.
THỞ BẰNG MŨI
Thở ra và hít vào đều bằng
mũi , vì mũi là bộ máy điều hòa không khí của thân người không khí hít vào được
những nếp gắp trong hốc mũi hấp nóng , cản bụi, tạo đủ điều kiện đề vào phổi
Nếu hít vào bằng mũi, thở
ra bằng miệng thì mạch nhâm mạch đốc bị rời ra và độ nóng không khí dần dần mất
nhiệt nên sẽ bị lạnh, gây ra sổ mũi hay sưng phổi. Còn thở ra bằng mũi thì
nhiệt độ được bảo toàn giúp cho mũi điều hoà được không khí hít vào.
Mũi còn có vai trò điều
tiết lưu lượng không khí hít vào và thở ra. Nếu thở bằng miệng thường làm thay
đổi tỉ lệ đó và làm mất cân bằng hoạt động hô hấp.
Thở bằng miệng chỉ nên
dùng trong trường hợp khẩn cấp do cơ thể đòi hỏi mà thôi.
Thở bằng mũi còn có lợi là
vì các đầu dây thần kinh khứu giác tập trung bên trong đó, giúp ta phân biệt
được mùi hương để khám phá mọi sự thay đổi ô nhiểm của không khí mà cơ thể có
phản ứng tự vệ tức thời.
Khi tập thở thì thả lỏng
các cơ bắp không tham gia vào động tác thở, như tay chân chẳng hạn. Hai mắt
phải lim dim hoặc nhắm hẳn lại để dễ dàng tập trung ý tưởng vào Hạ khí hải (tức
Đơn điền). Nhờ đó ta tưởng tượng khí lọt vào mũi nhẹ nhàng làm bụng phình lên,
xẹp xuống. Tới một lúc, ta cảm hấy hơi thở dương khí lôi cuốn mình đi…và ta sắp
bước sang trạng thái khoan khoái kỳ lạ phiêu diêu.
NHỮNG ĐIỂM CƠ BẢN VỀ THỞ BỤNG
Khi tập thở phải lưu ý
những điểm sau đây:
1 - Với tư thế nằm, ngồi gì cũng được,
thường là ngồi xếp hoa sen, để hai bàn tay ngữa phía dưới Đơn điền. Hai vai
không lay động , vì nếu nhúc nhích sẽ làm cản trở động tác hô hấp.
2 - Luôn luôn thể hiện trong tâm hình ảnh : phình bụng hít
vào, xẹp bụng thở ra cho hết thán khí Thở sâu, thong thả, nhẹ nhàng và đều nhịp.
Tập thở thuần thuộc đến độ
nào đó không cần tập nữa mà cơ thể phản xạ thở tự nhiên theo thói quen.
Thầy Mạnh Tử viết rằng:
“Thi tập nghĩa sở sanh, phi nghĩa tập nhi thủ chi”. Nghĩa là làm theo đạo pháp
thì khí sanh mà không dùng sức để cưỡng chế. Thầy cũng nói: “Tất hữu sự yên,
nhi vật chánh. Tâm vật động. Vật tư trưởng dả”. Aét có sự đến (khí sanh) nhưng
đừng dùng sức mạnh ép khí.Tâm không động mà chẳng lưu ý trợ trưởng nữa. Thầy
cho phép luyện thở như cách trồng lúa, muốn lúa mau lên thì phải năng chăm bón
chớ chẳng phải lấy tay nhóm gốc, chẳng khác gì thúc bách khí chóng đến mà không
biết pháp nuôi dưỡng khí thì không bao giờ đạt hiệu quả.
4 -
TỌA TỊNH
Ngay từ buổi đầu khai Đạo,
Đức Chí Tôn đã dạy các môn đệ cần phải tịnh luyện:
Thành tâm niệm Phật
Tịnh, tinh, tịnh, tỉnh, tỉnh.
Tịnh
là vô nhứt vật,
Thành
tâm hành đạo (pháp)
(Đàn
đêm 14-1-1926)
Muốn tọa tịnh, trước phải nhập định. Nhập
định là làm cho tâm thần yên ổn, không nghĩ suy điều chi, chỉ nuôi dưỡng duy
nhất tư tưởng thánh thiện trọn lành. Giờ nhập định tốt nhất là sau lễ thời mẹo,
dậu . Các tịnh viên sắp đàn, ngồi hoa sen như ngồi cúng ở Đền Thánh, lấy dấu
Thầy xong ,bắt đầu niệm các bài kinh, nghĩa là đọc thầm bằng tư tưởng mà không
phát ra thành tiếng để dứt tam nghiệp: khẩu , ý (tâm) thân mà diệt tam độc:
tham, sân, si.
Tịnh khẩu chú
Lời ăn nói là nơi lỗ miệng
Tiếng luận bàn liệu biện đề phòng.
Giữ cho miệng đặng sạch trong,
Gìn tâm minh chánh rèn lòng niệm kinh
(1 lạy )
Tịnh tâm chú
Lòng người
đặng tánh linh hơn vật
Biết kỉnh thành dè dặt khôn lanh
Khá tua lánh dữ làm lành
Những điều nghiệt ác hóa thành khói tan .
(1 lạy)
Tịnh thần chú
Ở trần thế bụi nhơ thân vấy
Khí trược xin bốc tẩy thành hơi
Đạo tâm giữ sạch chẳng dời
Lòng thành kỉnh lạy Phâït Trời chứng tri.
(1 lạy)
Ngay sau đó là tâm thiện
niệm. Thầy đã dạy: “Dầu không Thiên phong hễ gắng tâm thiện niệm thì ngôi vị
cũng đạt hồi đặng “ (Đàn đêm 17- 9 1927 ), rồi tiến vào tọa thiền.
Muốn tọa thiền phải tập
trung ý tưởng cao, xóa bỏ tư tưởng thiện ác lởn vởn trong tâm. Âm thanh đập vào
tai nghe như không nghe. Ánh sáng chói vọi vào mắt thấy mà như không thấy, tạo
cái tâm phá chấp
Muốn tĩnh tọa phải là một
cái bồ đoàn, hình tròn đường kính 2 tấc, cao 1 tấc, dồn gòn. Bồ đoàn để giữa
cái niệm hình vuông cạnh 6 tấc. Tu sĩ ngồi lên bồ đoàn xếp hoa sen như ngồi cúng
ở Tòa Thánh.
Xương cùn chiếu đúng giữa
bồ đoàn, nghiêng qua, nghiêng lại cho chính rồi chỉnh thân cho ngay thẳng, hai
ống chân kéo sát vào thân, sau đó nới lỏng dây lưng, cổ áo cho thoải mái. Lấy
mu bàn tay trái để lên lòng bàn tay phải (nữ thì làm ngược lại ). Hai ngón tay
cái tiếp xúc với nhau, cạnh ngón út bàn tay đặt nhẹ vào dưới đơn điền..lưng
thẳng, đầu hơi cuối xuống, mắt nhắm ¾. Gương mặt bình thản và bắt đầu thở bằng
bụng (thai tức). Nhớ ngậm miệng lại, răng khít răng, lưỡi kề răng làm như vậy giúp
cho mạch nhâm và mạch đốc giao nhau. Nước miếng sẽ chảy ra gọi là huỳnh tương
cam lộ, hãy nuốt từng ngụm một, gọi là ngọc dịch hườn đơn, nước miếng đó chính
là tinh, tinh hóa khí, khí hóa thần.Nhờ đó điển trong người không thất thoát
(trở lại trên) và luôn được pháp luân thường chuyển.
Nếu nằm ngữa thì buông
lỏng cơ thể, thở tự nhiên, nhắm mắt ngậm miệng. Đặt huyệt lao cung của hai lòng
bàn tay vào ngay huyệt Đơn điền.
Nếu nằm nghiêng bên trái
thì đặt huyệt lao cung tay trái vào dái tai , lóng ngón tay út đặt lên huyệt
Thái dương, chân trái duỗi thẳng, chân mặt hơi co, Huyệt Lao cung tay phải đặt
trên huyệt hoàn khiêu. Nằm nghiêng bên phải thì ngược lại.
Cứ thở đều đều cho huyền
khí bên ngoài hòa lẫn với nguyên khí bên trong người thành chơn nhứt khí để
nuôi cơ thể. Dẹp bỏ hết mọi ước muốn ở cõi trần gian , giữ cái tâm thanh tịnh,
một ngày nào đó mà takhông thể biết trước được , tự nhiên thần khí của ta sáng
bừng lên cảm thấy chân lý. Đó là lúc điểm sáng linh quang được bật cháy tỏa
quanh thân ta, ấn chứng ngộ đạo . (1)
Lục Tổ dạy: “Một khi đã
ngộ, thì chỗ nào cũng vậy. Muốn hồi hướng về Phật phải theo tự tánh mà hành chớ
cầu ở ngoài thân. Tâm giác ngộ sáng suốt là Phật, Tâm ấy phóng đại quang minh
phá hết lục dục chiếu vào tự tánh làm cho tam độc dứt liền, các tội đều tiêu
diệt, trong ngoài sáng tỏ chẳng khác gì cõi Tây phương”.
Tịnh từ 1 đến 2 giờ, muốn
xả tịnh thì hai bàn tay chà sát vào nhau cho nóng gọi là “âm dương ký tế” rồi
chà từ mặt lên trán ra sau ót , đoạn vuốt hai bên tai, hai cánh tay, hai ống
chân. Sau cùng, hai bàn chân tự chà vào nhau, rồi đứng lên đi lại bình thường.
ĐỨC THANH SƠN ĐAÏO
SĨ
Giáng cơ năm Giáp
Dần
Ngộ có ba bậc: khải ngộ và chứng ngộ.
Khải ngộ phải nhờ thiện
trí thức chỉ dẫn phép tu niệm đọc kinh đọc sách, gọi là trí hưũ sư Giải ngộ là
nhân nghe một câu kinh hay lời giảng đạo Thánh hiền, liền thấy được bản tánh
nhanh như chớp (sát na).
Chứng ngộ là công phu tịnh
luyện viên mãn, an trụ tánh giác trọn vẹn do tịnh luyện mà phát ra, không nhờ
sự giúp đỡ của ai, gọi là trí vô sư. Được chứng ngộ mới đạt bất sanh bất diệt
tức giải thoát sinh tử mà hằng sống.
5 -
TINH THẦN THÁNH THIỆN
Nếu tu luyện đúng mức ta
trở thành Thánh thiện , không những vậy vô hình trung, nhờ luyện khí cơ thể được
khoẻ mạnh. Phương ngôn có câu: “Tinh thần Thánh thiện trong xác thân khang
kiện” (Une Aâme sainte dans un corps sain). Nói cách khác, xác thân khỏe mạnh
mới có tinh thần Thánh Thiện
Thầy cũng dạy: "Tham
thiền nhập định là để tâm thần yên ổn hầu có sửa mình màtrừ khử các bịnh và
diệt thất tình lục dục".
Thật vậy luyện tam bưủ ngũ
hành theo cổ nhân là để điều hòa mọi hoạt động sinh lý nội tạng và thần kinh .
Trong sinh hoạt hằng ngày, cơ thể bị thay đổi luôn, hơi thở cũng phải thay đổi
cho thích ứng. Ngồi bàn làm việc, chân tay ít hoạt động, mệt mõi; thay vì hút
thuốc lá, hãy thở sâu 5 lần sẽ thấy khoan khoái. Khi lao động nặng nhọc, máu
chứa đầy urê và acid lactic, hãy cứ thở sâu như trên đây sẽ thấy kết quả tốt.
Khi giận dữ, cáu gắt, nhịp
tim đập dồn dập, hơi thở rối lên. Để nén cơn giận, ta hít vào thật sâu, đưa cơ
hoành nén hơi giữ khí lại rồi thả ra từ từ. Làm như thế 5 lần cơn giận sẽ hết.
Đêm nằm không ngũ được,
ngồi dậy xếp hai chân cho chặt làm động mạch đùi bị ép lại và thở như trên, rồi
nằm xuống. Máu động mạch dồn trở lại hai bàn chân , đồng thời lôi cả máu từ não
xuống, cơ thể chuyển sang trạng thái thiếp ngủ .
Thở bằng bụng có thể trị
được nhiều chứng bệnh. Nhờ thở bằng cơ hoành, coi như trái tim thứ hai
(deuxième coeur-veineux) giúp người bị suy tim thoải mái vì tim ít gắng sức. Khi
lên cơn hen suyển, ngồi thẳng thở ra một hơi dài sâu và tập trung ý xuống vùng
dưới bụng đang thót vào như để đẩy khí ra thật hết rồi tự động hít nhẹ nhàng
vào. Cố tập thời gian dài sẽ cắt đứt được cơn hen.
Khi thở bằng bụng, cơ
hoành coi như cây thụt xoa bóp nội tạng như dạ dày, gan , ruột ; nên có tác
dụng trị bón và loét dạ dày; đặc biệt kích thích tuần hoàn tĩnh mạch gan, làm
tiêu tan xung huyết để ổn định tiêu hóa và hạ bịnh cao huyết áp.
Tóm lại, luyện khí thở
bằng bụng tăng cường sức đề kháng và nâng cao sức khỏe cho cơ thể, tạo niềm tin
mình tự chửa bịnh cho mình. Thế mới hay luyện tam bưủ đồng nghĩa với luyện tập
dưỡng sinh cho thân khoẻ mạnh. Bởi lẽ, tinh thần Thánh Thiện chỉ có trong xác
thân khang kiện.
Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ đã
dạy:
DƯỠNG SINH THI
Tích khí tồn tinh, cánh dưõng thần
Thiểu tư quả dục, vật lao thân
Thực bôi bán bão vô kiêm vị
Ẩm chỉ tam phân mạc quá tầng
Mỗi bá hí ngôn, đa thú tiếu
Thường hàm lạc ý, mạc sinh sân
Nhiệt viêm biến trá, đô hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu giao quá bách xuân
Dịch nghĩa:
Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
Ít lo ít muốn, ít lao thân
Cơm nên vừa bụng đừng nhiều vị
Nước chỉ vài phân, chớ quá tầng
Môi cứ câu đùa vui miệng mãi
Dạ thường nghĩ tốt bụng lâng lâng
Nóng hờn, biến trá, thôi đừng hỏi
Để NGÃ tiêu giao đến tuổi trăm.
Đại ý bài thơ:
Luyện tinh khí thần mục
đích là để trường sinh, có sức khỏe để yêu đời, yêu người, không giận hờn, gian
trá, ham muốn, mưu toan. Cứu cánh của người tu là thanh đạm ít món ăn vừa đủ
no, uống từng ngụm nhỏ vì nước nhiều làm mệt tim.
Bởi lẽ bệnh tật phát sinh
do ăn uống quá độ, tích tụ nhiều năm làm cơ thể mất quân bình âm dương mà sinh
nhiều chất độc. Chỉ ăn khi đói, chỉ uống khi khát. Ăn những chất thuần dương,
như ngũ cốc xay lức và hoa quả. Tuyệt đối không ăn các thức có chất hóa học và
các loại cà, măng, nấm… Được như vậy sống sẽ đến trăm tuổi già (quá bách xuân).
TRƯỜNG DƯỠNG TINH KHÍ THẦN
THỰC HÀNH
ĐỨC CHÍ TÔN PHÁN TRUYỀN
MUỐN TRỌN CÂU PHỔ ĐỘ PHẢI LÀM THẾ NÀO ?
PHẢI BÀY BỬU PHÁP RA, CHỚ KHÔNG ĐẶNG DẤU NỮA.
Đàn đêm 08-04-1926
(TNHT. Quyển I, TN 1950, tr. 13)
NẾU BIẾT NGỘ KIẾP MỘT ĐỜI TU,
ĐỦ TRỞ VỀ CÙNG THẦY ĐẶNG.
Đàn đêm 19-12-1926
DẦU KHÔNG THIÊN PHONG,
HỄ GẮNG TÂM THIỆN NIỆM
THÌ ĐỊA VỊ CŨNG ĐẠT HỒI ĐẶNG.
Đàn đêm 17-9-1927.
I . SƠ
TỊNH (HẠ THỪA)
LUYỆN CHƠN KHÍ
Ngay từ năm đầu khai đạo,
Đức CHÍ TÔN chỉ dạy luyện KHÍ. Vì luyện KHÍ là luyện Đạo Trường Sanh Vạn vật
hiện hữu đều phát sinh từ Khí, tuỳ thuộc vào khí để có sự sống.
A .
Khởi đầu ta tập thở bằng bụng, có ba giai đoạn : hít vào, thở ra, nghỉ,
chiêu số 5-5-5, với nhịp độ bình thường là 12-15 lần mỗi phút.
Tư thế ngồi kiết già, tập
trung tư tưởng và lưỡi bịt kín 2 hàm răng.
Tập liền 3 tháng như vậy.
B .
Sau đó thở đếm hơi, hít vô và thở ra bằng nhau, đều 5 tiếng đếm nhịp điệu nhẹ
nhàng, gọi là sổ tức.
Mỗi tuần tăng số đếm lên
10 - 20. hơi thở phải nhẹ nhàng không ngắt quãng.
Mỗi ngày tập 4 lần vào giờ
Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Mỗi lần 30 phút
Tập liền trong 3 tháng.
C .
Tiếp theo, là Quán tức, tập thở có công án bằng cách tập trung tư tưởng. Hãy nói câu
này trong não :
“THẦY LÀ CÁC CON ĐÓ, CÁC CON LÀ THẦY VẬY”, đủ 10 tiếng.
Phương pháp này giúp tinh
thần quen dần việc tập trung tư tưởng.
Tập liền trong 3 tháng, (không tạp ý).
D . Rồi đến Chỉ tức, thở chia ba thời kỳ :
hít vào, nghỉ và thở ra (giai đoạn nghỉ dài gấp 4 lần hít vào và gấp 2 lần thở
ra, với chiêu số 5-20-10) với chiêu số ban đầu là 5-5-5.
Lúc ngưng thở giữ khí ở
đan điền 5 số đếm. Khi thở ra đếm nhẩm
từ 1-5 vừa lúc đưa hơi thở đến huyệt Aán đường.
Thời gian tập cũng 3 tháng.
E. Sau hết là Duyên tức, nương theo
hơi thở tự nhiên.
Có 3 thời kỳ : hít vào,
thở ra và nghỉ với chiêu số : 4-1-5, nghĩa là hít vào đếm được 4 tiếng là thở
ra ngay, rồi nghỉ là 5 tiếng tại huyệt Cưu vĩ (dưới ức). Trong Duyên tức, thở
lúc nào cũng nhẹ nhàng, trạng thái tự động, sẽ không còn chú ý đến luyện thở
nữa, dùng luyện giai đoạn Thượng thừa sau.
Phương pháp luyện Chân khí
có 48 thời kỳ hít vào, nghỉ, thở ra, nghỉ.
- Tập trung tư tưởng hít Thiên khí, Địa khí
vào khí hải.
- Vừa đếm 5 số vừa vận chuyển khí trước khi
sanh (Tiên thiên khí) ở Mệnh Môn và Khí sau sanh (Hậu thiên khí) ở Thần khuyết
tích tụ ở Đan điền rồi nghỉ.
- Đếm 20 số (để bụng âm) rồi thở ra cho tán
khí toàn thân (bụng thót vào thong thả, đoạn đưa khí về Khí hải.
- Đếm 10 số (để bụng im), rồi lại tiếp nhịp
2,3 …
Tập ngày 4 lần mỗi lần 30
phút trong 3 tháng.
II .
TRUNG TỊNH (TRUNG THỪA)
LUYỆN TINH, KHÍ, THẦN
A . LUYỆN TINH
Luyện Tinh thở theo chiêu
thức 1-4-2 tức 10-40-20 tiếng đếm, chia làm hai thời kỳ :
1 . Mượn
hơi thở :
- Hít vào: Hít vào từ từ
và tưởng tượng khí vào đầy bụng dưới (tại Quan Nguyên), đếm 10 tiếng.
- Ngưng thở: Khi khí đã
tích tụ tại vùng Hạ Đan điền QN, hãy tưởng tượng sức mạnh toàn thân tập trung
vào đây, đếm tới 40 tiếng thì buông lỏng cơ thể.
- Thở ra: Thở ra từ từ,
hãy tưởng tượng vùng Quan Nguyên lan toả ra cả vùng bụng, đếm đủ 20 là hết một
nhịp.
2 . Thở tự nhiên (Duyên tức)
Hãy tập trung tư tưởng và
quán tưởng một huờn đơn (viên thuốc) bằng hạt đậu đen ở Quan nguyên xoay vòng
tròn theo chiều ngược chiều kim đồng hồ 600 vòng và thuận chiều kim đồng hồ
(chiều âm) cũng xoay vòng tròn 600 là đạt.
- LUYỆN TINH MỖI
NGÀY 4 LẦN : TÝ, NGỌ, MẸO, DẬU
- MỖI LẦN
TRONG 30 PHÚT
B. LUYỆN KHÍ
Luyện Khí theo 4 thời kỳ với công
thức : 1-4-2-2.
Mỗi chu kỳ là 24 nhịp thở, gồm hai bước :
1. Mượn hơi thở :
- Hít vào: Dẫn khí từ Ấn
đường xuống Đan điền khí (vùng huyệt Thần khuyết (rốn) và Khí hải.
- Ngưng thở:
Tưởng tượng tập trung sức
mạnh toàn thân vào vùng này vừa đếm 40 tiếng, vừa để khí toả ra toàn vùng.
- Thở ra: Từ từ thở ra,
đồng thời tưởng tượng toả khí ra quanh rốn.
- Nghỉ thở :
Thời gian nghỉ thở bằng
thời gian thở ra là 20 tiếng đếm. Toàn thân nghỉ thoải mái, là dứt 1 nhịp thở,
rồi tiếp tục cho đủ 24 nhịp.
2 . Thở tự nhiên (Duyên tức)
Thở tự nhiên vừa tưởng
tượng một hột huờn đơn xoay quanh tại rốn theo chiều kim đồng hồ và ngược lại
thời gian chung là 1200 vòng.
Luyện Khí 1 ngày 4 lần,
mỗi lần 30 phút trong 3 tháng.
C .
LUYỆN THẦN
Phương pháp luyện Thần gần
giống như luyện Khí, theo công thức 1-4-2-2 , trải qua 2 thời kỳ:
Mượn hơi thở :
- Hít vào :Dẫn khí từ Nhân
trung lên Bá hội.
- Ngưng thở :Tưởng tượng
sức mạnh toàn thân đều tập trung ở Bá hội, đếm gần hết 40 tiếng rồi thả lỏng cơ
thể, dẫn khí xuống Nhân trung.
- Thở ra :Thư giãn, cho
khí thoát ra từ huyệt Nhân trung.
- Nghỉ thở toàn thân :
Tụ khí :
- Vận khí từ hai bên Thái
dương, sau gáy và trước phía trán tụ về Bá hội, chuyển vận hết sức mạnh gom vào
đây rồi buông lỏng cho khí toả ra khắp vùng đầu.
- Sau đó quán tưởng huờn
đơn xoay qua rồi xoay lại cho đủ 1200 vòng, như luyện khí.
MỖI NGÀY TẬP 4 LẦN, MỖI
LẦN 30 PHÚT, SUỐT TRONG 3 THÁNG.
Nên nhớ trong ngũ tạng đều
có thần lai vãng. Phải hợp nhất Tinh, Khí, Thần mới sống lâu được.
D .
QUY TAM BỬU
Qui Tam Bửu là gom Tinh,
Khí, Thần tụ tại Nê Hoàn Cung (Bá hội, Thiên Môn) theo công thức 1-4-2, thở tự
nhiên, nhẹ nhàng.
1 . Phương pháp công phu :
- Hít vào :Sâu và dài kéo
khí từ Ấn đường xuống Quan Nguyên.
- Ngưng thở: Tập trung sức
nén khí ở Quan nguyên (Tinh) rồi vận khí lên Khí hải (Khí) theo mạch Đới qua
Mệnh Môn lên Bá hội, nén khí tại đây rồi xuống Đan điền, vừa đếm đủ 40 tiếng.
Nhớ ngậm miệng lại, lưỡi
bịt kín 2 hàm răng làm như vậy giúp cho mạch Nhân và mạch Đốc giao nhau, tà khí
khỏi chen vào. Nước miếng sẽ chảy ra gọi là quỳnh tương cam lộ.
Hãy nuốt từng ngụm một, gọi là ngọc dịch hườn
đơn. Nước miếng đó chính là tinh, tinh hoá khí, khí hoá Thần. Nhờ đó, Khí trong
người không thất thoát ra ngoài mà luôn luôn được pháp luân thường chuyển.
- Thở ra :Từ từ êm nhẹ thở
ra và tưởng tượng khí lan ra ở vùng bụng dưới, rồi tiếp tục hít vào, công phu
tiếp …
2 . Ý nghĩa công phu :
- Công phu thành đạt thì
phát huệ, sáng suốt…
- Giúp hành giả có sức
khoẻ không ốm đau, có trí nhớ, có nghị lực, có trực giác và làm chủ bản thân.
- Dẹp bỏ hết mọi ước muốn,
giữ cái tâm thanh tịnh. Rồi một ngày nào đó mà ta không biết trước được, tự
nhiên thần khí của ta sáng bừng lên cảm thấy chân lý. Đó là lúc điểm sáng linh
quang bật cháy toả quanh thân ta, ân chứng ngộ Đạo.
- Nếu chưa thành thì tiếp
tục tu luyện. Mỗi ngày 4 lần : Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Mỗi lần 30 phút. Không cần
theo phương pháp nào khác.
III .
ĐẠI TỊNH (THƯỢNG THỪA)
LUYỆN THẦN HUỜN HƯ
A . LUYỆN TIỂU CHU THIÊN
Muốn luyện Thần Huờn Hư
trước hết phải thuần thuộc các phương pháp sau đây :
- Các cách luyện thở
- Phái thuộc Qui Tam Bửu
- Quân bình âm dương
(Luyện Tiểu chu thiên)
- Gom tụ Ngũ hành (Luyện
Đại chu thiên)
- Luyện Tam Hoa tụ đỉnh
Luyện Tiểu chu thiên là
luyện cho khí âm dương điều hoà. Ngồi kiết già làm sao 3 huyệt Bá hội, Khí hải
và Quan nguyên nằm cùng trên đường thẳng với trục Bá hội, Hội âm.
1 .
Giai đoạn 1 :
· Luyện mạch Nhâm :
. Hít vào : dẫn khí từ
huyệt Thừa tương xuống Hội âm
. Thở ra : Theo mạch Nhâm
dẫn khí ngược lại từ Hội âm vô Thừa tương.
· Luyện mạch Đốc:
. Hít vào : dẫn khí từ
Trường Cường theo mạch Đốc (cột sống) lên Bá hội tới Nhân trung.
. Thở ra : dẫn khí trở lại
từ Nhân trung xuống Trường cường.
2 . Giai đoạn 2 :
· Luyện vòng âm dương theo
chiều thuận.
Từ Thừa tương xuống Hội âm
lên Trường cường tới Nhân trung, phải tập trung tư tưởng cho khí chuyển thành
vòng. (10 -10).
· Luyện vòng âm dương theo
chiều nghịch.
. Hít vào: Vận khí từ Hội
âm đi ngược lên Thừa tương, đếm đủ 10.
. Thở ra: Vận khí từ Thừa
tương lên Bá hội xuống Trường cường qua Hội âm rồi về Đan điền. Vận khí xoay
vòng nơi rốn không cho thoát ra ngoài.
3 . Ý nghĩa :
Luyện vòng âm dương tác
động vào Tinh, Khí, Thần để Tinh biến thành Khí, Khí thành Thần.
Chỉ cần đặt lưỡi vào huyệt
Ngân giao là nối liền 2 luồng khí âm dương của 2 mạch Nhâm Đốc tự vận hành.
Tiểu chu thiên làm cho âm
dương thanh khiết, quân bình chống rối
loạn chức năng của tạng phủ.
B .
LUYỆN ĐẠI CHU THIÊN
Muốn luyện vòng Đại chu
thiên phải vận khí thành thuộc theo 2 nhóm kinh âm và kinh dương ở tay và chơn.
1 .
Giai đoạn 1:
- Vòng tay :
. Hít vào: dẫn khí theo
mặt ngoài của hai bàn tay lên 2 bả vai tới mặt qua đỉnh đầu xuống ngực, đã qua
các Thủ dương kinh.
. Thở ra: dẫn khí từ ngực
lan ra 2 nách xuống bên trong của 2 tay và 2 bàn tay.(Thủ âm kinh).
- Vòng chân :
. Hít vào : dẫn khí từ hai
bàn chân dọc theo mặt trong của 2 chân rồi lên bẹn, dọc 2 bên bụng lên ngực và
mặt, đã qua các Túc âm kinh. Thở ra dẫn khí từ đầu xuống cột sống theo mặt
ngoài của 2 chân và 2 bàn chân (Túc Dương kinh).
2. Giai đoạn 2 : Dẫn khí các kinh âm
dương theo một vòng kín.
- Hít vào theo vòng kinh
âm : Dẫn khí theo mặt trong của 2 bàn chân lên 2 bẹn, lên tiếp 2 bên đường vụng
tới ngực, rồi lan ra 2 nách dọc theo mặt trong của 2 tay và 2 bàn tay.
- Thở ra theo vòng kinh
dương: Dẫn khí theo mặt ngoài của 2 bàn tay lên mặt và đầu, tiếp xuống theo
hướng mạch Đốc dọc theo sống lưng rồi lan ra mặt ngoài của 2 chân tới 2 bàn
chân.
3 . Giai đoạn 3 :
- Hít vào: Thâu hút khí vô
hai bàn chân.
- Ngưng thở: Dẫn khí từ 2
bàn chân lên mặt trong của 2 chân tới huyệt Hôi âm thuộc Túc âm kinh. Rồi từ
Hội âm theo mạch Đốc lên Đại chuỳ. Tại đây lan ra 2 bên nách theo mặt trong của
2 tay xuống lòng bàn tay thuộc Thủ âm kinh.
. Đầu các ngón tay lên mu
bàn tay, theo mặt ngoài của 2 tay lên 2 bả vai đến huyệt Đại chuỳ thuộc Thủ
dương kinh. Từ đó theo mạch Đốc lên đầu qua mạch Nhâm xuống Hội âm. Từ đây lan
ra 2 bên phía sau đùi, theo mặt ngoài của 2 chân xuống 2 bàn chân tới các ngón
chân thuộc Túc dương kinh.
- Thở ra: Thâu khí từ chân
trở về Đan điền.
4 . Ý nghĩa :
- Luyện vòng Đại chu thiên
là vận khí lên toàn thể kinh mạch tác đông vào các tạng phủ, làm quân bình Ngũ
hành.
- Thâu hút Thiên Địa khí,
tăng cường chức năng các tạng phủ.
Đạo Tâm Tâm Đạo phát sanh,
TAM HOA tụ đỉnh, NGŨ HÀNH triều nguơn.
C . LUYỆN TAM HOA TỤ ĐỈNH :
Trong mỗi người, có ba vị
trí quan trọng trên mạch Đốc gọi là Tam Hoa :
· Vĩ lư (lư là cái chỏm, đỉnh) tại huyệt Trường
cường,
· Tỳ lư tại huyệt Đại chuỳ,
· Ngọc lư tại huyệt Phong phủ.
1 .
Cách luyện : Ngồi kiết già hai bàn tay ngửa chồng lên nhau. Thở nhẹ nhàng, theo công
thức 10-40-20.
- Hít vào: Thở sâu, nhẹ,
êm, đều và dài. Tưởng tượng dẫn khí từ Thừa tương xuống Đan điền.
- Ngưng thở: Đưa khí từ
Đan điền ở mạch Nhâm qua mạch Đới, đến Trường cường (mạch Đốc), nén khí tại
đây. Rồi đưa khí lên Đại chuỳ tức Tỳ lư, nén khí tại đây, đoạn đưa khí lên
Phong phủ tức Ngọc lư, cho tụ khí nén một thôi, rồi đưa khí lên Bá hội nén 1
thôi, đoạn dẫn khí theo mạch Nhâm về Đan điền, trong thời gian là 40 số điếm.
- Thở ra: Từ từ êm nhẹ,
chậm mà dài đều tưởng tượng khí lan ra từ Đan điền, với 20 số đếm. Chấm dứt 1
nhịp thở, liền hít vào ngay cho đủ 1 chu kỳ là 24 nhịp thở.
2 . Ý nghĩa :
Nếu Tam Hoa khai thì cơ
thể khoẻ mạnh, da hồng hào, trí tuệ sáng, có nhiều trực giác tốt .
Hai phương pháp này tập
khi nào đạt thì thôi
D .
LUYỆN THẦN HUỜN HƯ :
Luyện Thần huờn hư là Thần hoà vào hư vô thoát
khỏi mọi việc ràng buộc của trần thế.
1. Điều kiện công phu :
- Phải trường trai để
tránh tẩu hoả nhập ma.
- Phải đạt huệ Qui Tam Bửu
- Quán tưởng câu : “Thầy
là các con, các con là Thầy”.
- Có nội lực tốt và thuần
thuộc thở Duyên tức (thở tự nhiên theo thiền).
- Có Trí hữu sư chỉ dẫn.
2 .
Hai bước luyện Đạo :
Luyện Thần nhằm mở Nê Huờn
Cung (Bá hội) đối chiếu tuyến Tùng để mở con mắt thứ ba ở Aán đường. Tuyến Tùng
nằm ở mấu não trên giống như trái thông (tùng). Vị trí tuyến Tùng tương đồng
với vị trí Huệ Nhãn (Aán đường).
- Luyện nội đan : Tụ khí
toàn thân vào Bá hội, tưởng tượng Thiên khí vào Nê huờn cung nổi lên vòng Vô Vi
to bằng hạt đậu xoay tròn theo kim đồng hồ.
Đó là “Phản bổn huờn
nguyên “ (về nguồn). Nhớ lấy ý điều khiển cho vòng vô vi xoay 120 vòng rồi đạt
đến 1200 vòng.
Phép luyện nội đan nhằm
dưỡng khí tụ thần, vận nguyên khí thông suốt nội tạng.
- Luyện Thần huờn hư:
. Quán não hư không:
Biến tất cả suy nghĩ của
cảm tình thành hư vô, không còn điều chi ẩn chứa trong lòng, để vòng vô vi tự
chuyển động.
- Quán Thần vào hư vô:
Thần kinh trung ương ngưng
động, Thần trở nên vắng lặng hoàn toàn mà tự mở cát cửa Thiên môn, không còn
việc gì tác động vào được nữa vì hồn đã vân du Thiên ngoại.
Luyện đến khi nào đạt thì
thôi.
“Chơn Thần (nó) phải có
bổn nguyên Chí Thánh, Chí Tiên, Chí Phật mới xuất ra Thánh, Tiên, Phật ”
(Đàn đêm 17-7-1926).
3 . Danh hiệu chung cho tu tịnh ;
Đức Chí Tôn đã dạy : “Dầu
không Thiên Phong, hễ gắng tâm thiện niệm thì địa vị cũng đạt hồi đặng”. Đó là
địa vị mà Đức Chí Tôn đã dạy ở trên : Chí Thánh, Chí Tiên …
- Hành giả luyện Chơn Nhứt
Khí vì tuổi sức yếu, khi giải thoát được đạt Chí Thần.
- Hành giả luyện Tam Bửu
rủi mệnh một cũng đạt Chí Thánh, cho tròn câu tận độ.
- Hành giả luyện Thần huờn
hư, dù chưa vân du Thiên ngoại mà qui vị nửa đường cũng đạt vị Chí Tiên, “cho
trọn câu phổ độ” theo lời dạy của Chí Tôn.
IV . XẢ TỊNH
CHUNG CHO CÁC BUỔI TỊNH LUYỆN
Ngay sau khi tịnh luyện,
các hành giả phải làm các động tác sau đây :
Muốn xả tịnh thì hai bàn
tay phải chà sát vào nhau cho nóng gọi là âm dương ký tế, rồi chà từ mặt lên
trán ra sau ót, đoạn vuốt hai bên lỗ tai, hai cánh tay rồi hai bàn tay tập
trung trên rốn chà mạnh gom khí xuống huyệt Đan điền (ruộng thuốc), đoạn đưa
hai bàn tay xuống hai ống chân.
Sau cùng, hai bàn chân tự
chà sát vào nhau, rồi đứng lên đi lại bình thường.
PHỤ TRANG
CÁC HÀNH GIẢ TỊNH TÂM ĐẮC ĐẠO
Ngay từ những tháng đầu
khai đạo Tân Luật ghi có 3 phần : Đạo pháp, Thế luật và Tịnh Thất phát triển
đồng thời. Dù lúc đầu, Hội Thánh đã lập 4 loại Tịnh thất điển hình như dưới đây
mà không mở rộng
1 . THẢO XÁ HIỀN CUNG
Năm 1927, Đức Cao Thượng
Phẩm lập tại nhà riêng ở Thị xã một Nhà Tịnh, được Thất Nương Diêu Trì Cung ban
hiệu :
THẢO XÁ tuỳ nhơn ngu muội bần cùng nghinh nhập thất
HIỀN CUNG trạch khách thông minh phú quí cẩm lai môn.
Ngài tịnh luyện ở đây cho
đến ngày đắc vị Kim Tiên.
2 . TRÍ GIÁC CUNG
Năm 1948, Ngài Trần Khai
Pháp không muốn nhìn thấy cảnh náo động vì Ngài vốn là cơ Bí Pháp với Trương
Tiếp Pháp, nên Đức Hộ Pháp lập Trí Giác Cung cho Ngài vào đó tịnh luyện.
TRÍ linh quán chúng Thiên cơ đạt,
GIÁC ngộ siêu phàm Đạo pháp thông.
Vì đó, TRÍ GIÁC cung là
nơi phụ lão vào tịnh dưỡng
Ngài Trần Khai Pháp thoát
xác đắc vị Thiên Tiên.
3 . TRÍ HUỆ CUNG
Trí Huệ Cung toạ lạc ở
Trường Đông, Nhà tịnh của Nử phái.
TRÍ định thiên lương qui nhứt bổn,
HUỆ thông đạo pháp độ quần sanh
Năm 1950, Đức Hộ Pháp vào
Trí Huệ cung tịnh vì Ngài là nguơn linh của Phật Shiva mà Shiva là Phật Mẫu
theo lời thuyết đạo của Đức Hộ Pháp. Nhờ đó Đức Phật Mẫu ban cho Ngài “Vẹn toàn
pháp môn” tại Trí Huệ Cung (tức thế pháp lẫn bí pháp tịnh luyện).
Khi nhập tịnh, Đức Ngài nói: “Giải chức Hộ
Pháp chỉ còn bạn tu mà thôi”, vì Tịnh Thất thuộc Tín đồ. Đức Ngài xuất hồn diện
kiến Thiên cung, Thiên Thai… nhiều lần. Nhờ vậy, Ngài đã viết các quyển: Con
đường Thiêng liêng hằng sống, Bí pháp, Thiên Thai kiến diện v.v…
Và truyền cho các chức sắc
các phép : Bí tích, Giải oan, Phép xác, hôn phối …
Đạo hữu nào đến xin luyện
Đạo, Đức Ngài đã CÂN THẦN, đo mức độ khí trược trong người đó coi có đủ chịu
nỗi điển lực Thiêng Liêng, vì sợ kém sức sẽ sinh ra Tả đạo Bàng môn.
4 .
VẠN PHÁP CUNG :
Năm 1952, Đức Hộ Pháp biết
Chí Thiện Võ Văn Đợi có thiên khiếu tu tịnh. Ngài vời ông đến dạy lập Vạn Pháp
cung tại Sân Đình núi Bà để thu phục những ông muốn lên núi tu mà không người
dẫn dắt.
VẠN lý hoà tâm đồng nhứt mạch
PHÁP cao bình trí hội tam tông
Sau một thời gian tu luyện, Chí Thiện Đợi biết
được mọi việc từ xa. Đức Hộ Pháp biết ông đã đạt pháp nên ban cho đạo hiệu là
Linh Đoán. Nhờ đó, đạo hữu các nơi về tụ chơn ngày càng đông. Ông đắc đạo Chí
Thánh.
THIÊN TƯỢNG QUẺ LY
Của Hành giả Tu
Chơn
PHỤ LỤC
Phụ Lục 1: - THÁNH NGÔN DẠY VỀ CƠ GIẢI THOÁT
ĐỨC CHÍ TÔN DẠY:
1 . Thành tâm
niệm Phật.
Tịnh, tịnh, tịnh, tình, tỉnh.
Tịnh là VÔ NHỨT VẬT
Thành tâm hành Đạo Pháp.
(Đàn đêm 14 -1 –
1926)
2 . Một ngày thỏn mỏn một ngày qua
TIÊN PHẬT NƠI MÌNH CHẲNG Ở XA.
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.
(Đàn đêm 28 -1 –
1926)
3. Thời kỳ mạt Pháp này
mới khiến có Tam Kỳ Phổ Độ, các sự hữu hình phải phá huỷ tiêu diệt. Thầy đến
chuyển Đạo, lập lại VÔ VI, các con coi thử bên nào chánh lý; hữu hình thì bị
diệt, chớ VÔ VI chẳng thế nào diệt đặng.
Chẳng cần chi con lo lập
thánh Thất của Thầy và sùng tu tượng Phật chi hết. Con hiểu bổn nguyên THÁNH
CHẤT THẦY…Tuỳ sức mỗi đứa lo lập MỘT TỊNH THẤT. Còn chùa chiền thì ngày sau e
con không đủ sức cai quản cho hết. (Đàn đêm mùng 4/ 8/1926)
4 .
Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài
Hỉ chư môn đệ, chư chúng
sanh, nghe :
Thuyền khơi đợi gió lướt dòng ngân,
Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần.
Nhuộm áo nâu sòng về Cực Lạc,
Trau gương trí huệ phủi đai cân
Cơ Trời đến buổi đời thay đổi
Đạo Thánh nhằm khi khách gội nhuần
Khổ hạnh dầu ai thìn một kiếp,
Rừng tòng thoát tục sớm đưa chân.
Đạo Trời khai ba lượt,
khách tục lỗi muôn phần. Khách trần ai vẫn lấy sự vui vẻ vô vị chốn sông mê này
mà quên trọn các điều đạo đức của các đấng Thánh trước, Hiền xưa. Chung đỉnh
mãn tranh giành, lợi danh thường chác buộc. Kiếp phù sanh không mấy lát, đời
giả dối chẳng có là bao. Sanh đứng làm người, trót đã mang vào mình một vai
tuồng đặc biệt, đã chẳng lo bước hành đạo cho xong, lại chác lắm điều phiền não
tu sầu.
Lấy Thánh đức làm chơi,
mượn hành tàng vô nghĩa cho vừa lòng ái mộ bất lương. Đài nghiệt cảnh là nơi
rọi sáng các việc lỗi lầm, bước luân hồi sẽ dẫn vào nơi u khổ cùng sầu mà đoạ
đày đời đời kiếp kiếp. Aáy là buổi chung qui của khách trần đó. Nguồn Tiên, đạo
Thánh dìu bước nhơn sanh tránh tội lỗi, lìa nẽo vạy, bước đường ngay mà lần vào
nơi Cực Lạc an nhàn. Rừng tòng suối lặng, động thẳm non xanh, để mình vào bực
thanh cao, thoát khỏi chốn luân hồi.
Ai mau bước đặng nhờ thân,
ai luyến trần cam chịu khổ. Đạo trời mầu nhiệm, khá biết xét mình, sau khỏi
điều tự hối.
(Đàn đêm 26 -1-1927).
5 . Hễ bí pháp tịnh luyện
thì “khẩu khẩu tương truyền, tâm tâm tương thọ”, không được thấu lậu cho ai
biết đặng hoặc tỏ vẽ, giải phân trên giấy mực hay là dùng cơ bút mà truyền bí
pháp đặng.
(Đàn đêm 25 -9 – Bính Tý).
6 . Các con sanh ra tại thế này, ở tại thế này, chịu
khổ não tại thế này, rồi chết cũng tại thế này. Các con chết rồi, các con thế
nào ?
Thầy dặn các con : nếu kẻ
không tu, khi xuất hồn ra khỏi xác thì cứ theo cấp tội mà luân hồi, biết chừng
nào hội hiệp cùng Thầy; nên Thầy ban quyền rộng rãi cho nhơn loại trên Càn khôn
thế giới, nếu biết NGỘ KIẾP một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng.
(Đàn đêm 19 -12-1926)
Cảnh nhàn chẳng phải đâu
xa, chỉ ở nơi ĐỊA ĐÀNG lối thấp hèn mà quên đường cao thượng.
(Đàn đêm 21 -2 – 1927 )
7 . Mỗi kẻ phàm dưới thế này đều có hai xác thân: Một
thân phàm gọi là Corporel; còn một thiêng liêng gọi là Spirituel. Cái thiêng
liêng do nơi cái phàm mà ra, nên gọi nó là bán hữu hình vì có thể thấy đặng mà
có thể cũng không thấy đặng.
Cái xác vô hình huyền diệu
thiêng liêng này do nơi Tinh, Khí, Thần mà luyện thành. Nó nhẹ nhàng hơn không
khí. Do nơi xác phàm xuất ra, nên hình ảnh nó như khuôn in rập. Khi đắc đạo có
tinh, khí mà không có thần thì không thể nhập cõi Hằng sống. Vậy ba món ấy phải
hiệp mới đặng.
Nó vẫn là chất thể hiệp
với khí Tiên Thiên mà trong khí Tiên Thiên thì hằng có điển quang. Cái Chơn
thần buộc phải tinh tấn, trong sạch nhẹ hơn không khí mới ra khỏi ngoài Càn
khôn đặng. Nó phải có bổn nguyên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật mới xuất ra
Thánh, Tiên, Phật. Phải có một thân phàm tinh khiết mới xuất Chơn thần tinh
khiết. Nếu như các con ăn mặn mà luyện đạo rủi ro có ấn chứng làm sao giải tán
cho đặng. Vì vậy Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện Đạo.
(Đàn 17 -7-1926).
ĐỨC
DIÊU TRÌ KIM MẪU DẠY:
8 . Vâng Thiên sắc độ phàm thoát tục,
Đóng phong đô, giải ngục đoạ đày.
Máy linh cơ tạo nơi tay
GIÁC MÊ cứu đám lạc loài nguyên nhân.
(Đàn đêm mùng
7/1/Tân Mão)
DIÊU
TRÌ CUNG DẠY:
9. Vui nhơn, vui Đạo, lại vui THIỀN,
Vui bước đường tu một bước yên.
Vui bóng Cao Đài che khắp chốn.
Vui gương Ngọc Đế thấy như nhiên.
(Noel 1925 – Lục
Nương)
10. Bế ngũ quan khôn kiêng tục tánh
Diệt lục trần , xa lánh phàm tâm.
Mệnh thiên giữ vững tay cầm
Đoạt phương tự DIỆT, giải phần hữu SANH.
Linh linh hiển hiển khinh khinh khứ
Sắc sắc không không sự sự tiêu,
Chơn linh đẹp vẽ mỹ miều,
Xuất dương thế sớm đến triều NGỌC HƯ
(Tứ Nương – Nữ
Trung Tùng Phận)
ĐỨC
LÝ THÁI BẠCH DẠY:
11 . Ngọn ngành Chơn Đạo khá tường sâu
Dưỡng tánh tu tâm thấu lý mầu
Tiên Phật nơi lòng người chưởng tập
Tây Phương tại thế phải xa đâu.
Anh hùng chớ để sa non diệm,
Hào kiệt đừng cho vướng bể sầu
Tiên cảnh một màu bao thuở lợt
Đường ngay tua kíp lập công đầu.
Có công phải biết gắng nên công (phu)
Tu TÁNH cho xong ráng luyện lòng (Tâm).
Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục,
Đơn tâm khó (thiền) ĐỊNH, lấy chi mong.
(Đàn đêm 27 -1 -1926)
ĐỨC THANH SƠN TIÊN TRƯỞNG DẠY:
12 . Tích khí,
tồn tinh, cánh dưỡng thần
Thiểu tư quả dục, vật lao thân.
Thực bôi bán bảo vô kiêm vị.
Âm chỉ tam phân mạc quá tầng
Mỗi bá hí ngôn, đa thú tiểu,
Thường hàm lạc ý, mạc sinh xân
Nhiệt viêm biến trá, đô hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu dao quá bách Xuân.
Lo ngoài quên trong, che bề trong trau bề
ngoài, cũng như có xác không hồn, chuộng hữu hình mà quên các huyền bí chơn
truyền … Cái tâm là vật người không thấy, khá trau giồi nó trước. Nếu bỏ tâm
kia mà rèn hình thể thì chẳng khác chi quì đọc kinh mà thiếu bức Thiên Nhãn trên điện vậy. (Mậu Thìn 1928)
KINH CỬU
Đem mình nương bóng chí linh.
Định tâm chí Thánh mới gìn ngôi xưa
(Kinh Nhứt Cửu)
Khí trong trẻo dường như băng tuyết
Thần im lìm dường nét thiều quang
Xa chừng thế giới địa hoàn,
Cõi Thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng.
(Kinh Nhị Cửu)
HUYỀN DIỆU
Pháp môn tịnh luyện mở mau đi
Huyền diệu Thấy ban cho kịp kỳ
Hồng hạc trở về Cung Trí Huệ.
Rước người đạt Đạo đến Cung Vi.
H.P
Phụ lục 2: - PHƯƠNG PHÁP TRỊ TÂM
Ta đem
“Phương Pháp Trị Tâm” của Đức Hộ Pháp (ban hành số 209/HP ngày 14 -4 – Đinh
Hợi) so sánh thấy phù hợp với “Thập Mục Ngưu Đồ ” (mười bức tranh
chăn trâu). Những bức tranh này đã vẽ trong Chánh điện chùa Tam Tông Miếu (tức
chi Minh Lý trong Ngũ Chi Đại Đạo).
- “Thập Mục Ngưu Đồ” đánh
số La Mã (TMNĐ).
- “Phương pháp Trị Tâm
đánh số Á Rập (PPTT)”
Ta thấy cả hai đều có 10
câu, 10 đề tài, nhưng câu đầu PPTT là một câu bao hàm tổng quát:
“Đức tin và khôn ngoan là
KHO CHÍ BỬU, ngoài ra là của bỏ, là đồ vô giá trị”.
Kỳ dư lấy ý mà hiểu đều
thích hợp hoặc bổ túc cho nhau.
I . TMND : Tìm trâu
(tầm ngưu)
1 . PPTT: AI CỐ OÁN KẺ THÙ CỦA MÌNH LÀ KHÓ GIỮ THANH
TÂM CÔNG CHÁNH CHO ĐẶNG.
II . TMNĐ: Thấy
dấu trâu ( kiến tích)
2 . PPTT: AI CHẲNG OÁN HẬN
MỚI THẮNG ĐẶNG KẺ THÙ NGHỊCH CÙNG MÌNH.
III . TMNĐ: Thấy trâu (kiến ngưu)
3 . PPTT: SỰ CỪU HẬN NGƯỜI HIỀN KHÔNG BIẾT ĐẾN HAY LÀ
TỪ BỎ CỪU HẬN OÁN GHÉT.
IV . TMNĐ: Được
trâu (đắc ngưu)
4. PPTT: THẮNG ĐẶNG KHÍ NỘ
MINH, 5. THÌ KHÔNG ĐƯỢC CHỌC AI GIẬN DỮ.
V . TMNĐ: Chăn
trâu (mục ngưu)
6 . PPTT : LẤY
THIỆN MÀ TRỪ ÁC.
VI . TMNĐ: Cỡi
trâu về (kị ngưu qui gia).
7 . PPTT : LẤY NHƠN NGHĨA TRỪ BẠO TÀN.
VII . TMNĐ: Quên trâu còn người (Vong ngưu tồn nhơn).
VIII . TMNĐ: Người trâu đều quên (Nhơn ngưu cầu vong)
8 . PPTT : LẤY LÒNG QUÃNG ĐẠI ĐẶNG MỞ TÂM LÝ HẸP HÒI.
IX . TMNĐ: Phản bổn huờn nguyên
10. ẤY LÀ ĐƯỜNG
THƯƠNG HUỆ KIẾM
X . TMNĐ: Buông tay vào chợ (đảo ngược số thứ tự).
9. LẤY CHÁNH TRỪ
TÀ.
Tranh thiền vẽ trâu (chỉ
cái tâm) ý nói: “Bạch ngưu xa” tức Phật thừa, là cái đại giác viên mãn, chủ
trương đốn ngộ.
Bức hoạ 1 “Tầm ngưu” : vẽ
một mục đồng đi tìm trâu (trâu không có trong hình) và kết thúc bằng bức hoạ
“nhập triều thuỷ chủ” (buông tay vào chợ): vẽ một nhà Sư lẫn lộn trong đời.
Trâu đâu mà tìm? (Trâu chỉ
cái tâm). Vì trong phút giây khác thường nào đó, ta nghi ngờ những điều tai
nghe mắt thấy, tức nghi ngờ chính cái tâm ta.
Từ bức hoạ 1 đến 6, ta
thấy khoảng cách giữa người và trâu (cái tâm) thâu ngắn lại dần, đến lúc kẻ
chăn trâu ngồi hẳn lên lưng trâu (bức hoạ 6) : trâu với người làm một.
Khi ta hỏi tâm ở đâu,
chẳng khác nào ta hỏi trâu ở đâu. Trong khi chính ta đang cỡi trâu. Ta đi tìm
tâm rốt cuộc tâm ở nơi lòng ta. Ta chỉ cần DỪNG LẠI, nó hiện ngay trước mắt
trong ánh sáng muôn màu. Nếu loài người thỉnh thoảng biết dừng lại (định tâm
suy tưởng) trong vài phút thôi thì thế gian này không đến nỗi quá buồn thảm như
ngày nay.
Sau hai giai đoạn ngoại
cầu, đến giai đoạn tự trị tự giác. Khi
người và trâu đều quên (nhơn ngưu câu vong) thì nơi chân trời hiện lên mặt trời
huệ, tượng trưng bằng vòng tròn vô vi
viên giác (bức hoạ 8). Đó là TÂM KHÔNG,
đạt Đạo rồi.
Trở về ngôi vị cũ với bức
hoạ 9 nhan đề : phản bổn huờn nguyên : vẽ cảnh lá rụng về cội, nước chảy về
nguồn. Từ nguyên thỉ, con người vốn thanh tịnh, vốn là không, nên chỉ cần hiểu
thấu tánh mình là huờn nguyên.
Khi đạt thành chánh quả
phải nhập vào thế tục với cái tâm diệu dụng “cư trần bất nhiễm trần”. Tu sĩ
buông thỏng hai tay (nhập triền thuỳ thủ, bức tranh 10) đi vào chợ để độ đời.
Mười bức tranh trâu có thể
tóm gọn một câu : VÔ TÂM ĐẠO DỄ TẦM
* * *
THẬP MỤC NGƯU ĐỒ
Mười bài thơ dưới đây
là của Phổ Minh Thiền Sư, do Trần Đình
Sơn dịch
TÌM TRÂU
Đầu sừng dữ tợn rống hung hăng
Vượt suối xuyên ngàn mãi chuyển băng
Một đám mây đen giăng cửa động
Tranh 1 : CHƯA
CHĂN
THẤY DẤU TRÂU
Ta có dây thừng sỏ mũi trâu
Mỗi lần nó chạy, đánh roi đau
Xưa nay tánh xấu, khôn điều chế
Tranh 2 : MỚI DẮT
THẤY TRÂU
Trâu dần chịu phép thôi lung chạy
Vượt nước qua mây bén gót người
Trẻ nắm dây thừng quên nhọc mệt
Tranh 3 : CHỊU PHÉP
ĐƯỢC TRÂU
Lâu ngày chịu phép mới quay đầu
Tâm lực điên cuồng chuyển, chuyển nhu
Người dắt vẫn còn chưa chịu thả
Tranh 4 : QUAY ĐẦU
CHĂN TRÂU
Dưới bóng dương xanh khe nước sương
Buông buông, nắm nắm, mặc tình ta
Cỏ thơm, chiếu xuống, vừng mây biếc
Tranh 5 : NGOAN NGOÃN
CỠI TRÂU VỀ
Thích ý nằm yên giữa đất bằng
Cần chi roi đánh với dây ràng
Cội tùng mọc tử ngồi êm ả
Tranh 6
: VÔ NGẠI
QUÊN TRÂU
CÒN NGƯỜI
Sóng xuân lặng chiếu liễu bên bờ
Khói nhạt cỏ thơm xanh mởn mơ
Ngày tháng, đói ăn, cùng khát uống
Tranh 7
: THEO CUỘC
TÂM KHÔNG
Chẳng thấy người, trâu; dấu mịt mù
Ánh trăng trong suốt, thảy đều không
Muốn tìm ý chính bên trong ấy
Tranh 8 : CẢ HAI
ĐỀU VẮNG MẶT
PHẢN BỔN HUỜN
NGUYÊN
Trâu trắng thường trong mây trắng bay
Vô tâm, người ấy lẫn trâu này
Trăng xuyên mây trắng, hình mây trắng
Tranh 9 : QUÊN
NHAU
BUÔNG TAY VÀO CHỢ
Trâu kia đã vắng, mục đồng nhàn
Một đám mây đơn chốn núi xanh
Trăng sáng, vỗ tay cao tiếng hát
Tranh 10 : RIÊNG CHIẾU
Phụ lục 3: - TRƯỜNG DƯỠNG TINH KHÍ THẦN
YẾU CHỈ
Mục đích luyện Đạo là để
trường sanh bất tử, siêu xuất khỏi luân hồi về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống. Muốn
đạt được cảnh giới đó, phải có tinh thần minh mẫn hoà hợp nhân đạo và thuận
Thiên lý. Dưới đây xin lược ghi :
I . Những phương pháp của người xưa về thuật tu
luyện :
Lời kỳ bá đáp Hoàng Đế:
“Người Thượng Cổ hiều Đạo dưỡng sanh, tuân theo luật biến hoá của âm dương, ăn
uống có điều độ, làm việc có chừng mực, nên thân thể và tinh thần đều khoẻ
mạnh, nên hưởng thọ tuổi trời, vượt ngoài trăm tuổi… Họ làm việc nghỉ ngơi
không biết tiết chế cho nên mới 50 tuổi mà đã suy kiệt rồi ”.
Trong Nam Hoa Kinh, Trang
Tử viết: “ Nay ta nói thói đời cho ngươi nghe: mắt ưa nhìn nữ sắc, tai muốn
nghe âm nhạc, miệng thích nếm mỹ vị, chí khí muốn thoả mãn. Con người thượng
thọ là 100, trung thọ là 80, hạ thọ là 60.
Trời đất vô cùng, kiếp
người hữu hạn. Đem cái hữu hạn mà gởi gắm khoảng vô cùng, khác gì ngựa ký vút
qua khe cửa. Kẻ không biết giữ gìn cho trường thọ thì không phải là người thông
hiểu Đạo”.
Trong Bão Phác Tử nội
thiên, Cát Hồng viết: “Người giỏi bảo dưỡng thân thể có giờ đi ngủ và thức dậy
sớm trễ khác nhau tuỳ theo bốn mùa. Tiết chế lao động nghỉ ngơi. Dằn cơn giận
để bảo toàn âm khí, nén vui mừng để bảo dưỡng dương khí.
Trong Dưỡng Sinh Luận, Kê
Khang viết: “Kẻ ăn ở thái quá, ẩm thực không điều độ dễ sinh trăm bịnh, ham mê
sắc dục không biết mỏi đến mức cạn kiệt, khiến cho gió lạnh và trăm thứ độc tác
hại để cho chết yểu. Lâu ngày nhiều cái nhỏ nhoi dồn lại thành hao tổn, rồi suy
nhược. Từ suy nhược trở nên bạc đầu, già nua, từ già nua dẫn đến tử vong. Khi
gặp tai hoạ thì than thở, vì họ không biết cẩn thận trước mọi hiểm nguy báo
hiệu.”
Kê Khang cho rằng cần phải
luyện tâm. Oâng viết : “Tâm trống trải, yên tĩnh, thư thái bớt suy tư và ít ham
muốn. Danh lợi và địa vị làm hại đức không nên mưu cầu. Thức ăn bổ béo làm hại
tính nên bỏ không màng tới. Những gì làm luỵ đến tâm mà ngoài thân thì đừng lưu
giữ thì thần khí được nhẹ nhàng, thanh thản không lo sợ. yên lặng, không tư lự,
rồi lấy cái vui giả tạm để sau này được niềm vui tròn đầy, xả bỏ cái phù sinh
để thân còn mãi”.
II .
Thuật dưỡng sinh :
Muốn sống lâu phải đừng tự
làm hại mình (bất thương). Trong Đạo đức kinh, Lão tử nói : “Năm màu khiến
người ta mù mắt, năm giọng khiến người ta điếc tai, năm mùi khiến người ta tê
lưỡi. Của cải khó được khiến người bị tai hoạ ”.
Trong Nam Hoa Kinh, Trang
Tử nói : “Chỗ đáng sợ của con người là chuyện chăn gối và ẩm thực vô độ, thế mà
họ không biết răn mình thật là lầm lỗi lớn”.
Cát Hồng thì chỉ rõ hơn:
“Tài năng chưa tới mà mong tìm là tự làm hại, sức lực không đủ mà gượng làm là
hại, buồn rầu đến nỗi tiều tuỵ là làm hại. Bôn ba vì dục vọng là làm hại, cười
nói vui đùa lâu là làm hại, ngủ nghỉ không đúng giờ là làm hại. Say đến nôn mữa
là làm hại, ăn no đi nằm là làm hại… Tích luỹ các điều hại quá mức sẽ chết sớm,
chết sớm đâu phải là đạo dưỡng sinh”.
Để tránh bị tổn thương,
Cát Hồng khuyên “Không đi bộ nhanh, tai không ráng nghe, mắt không nhìn lâu,
không ngồi quá lâu, không nằm cho đến mệt mỏi, mặc thêm áo khi mùa lạnh đến,
cởi bớt áo khi mùa nóng đến, chớ để quá đói rồi mới ăn, chớ ăn no quá, chớ để
thật khát rồi mới uống, chớ uống quá nhiều. Chớ thức dậy muộn, chớ ngủ quá
nhiều, chớ ăn những món sinh lạnh bụng, chớ tắm nhiều lần trong ngày, chớ đi ra
ngoài lúc thời tiết xấu. Năm vị ăn vô miệng chớ dùng thái quá vì chua quá hay
hại tỳ, đắng quá hại phổi, cay quá hại gan, mặn quá hại tim, ngọt quá hại thận,
đó là lẽ tự nhiên của ngũ hành”.
Trong “Nhiếp dưỡng châm
trung phương chương “Tự thân”, Tôn Tự Mạc viết : “Oâi đạo trời đầy vơi, đạo
người truân chuyên. Cho nên hành giả nào chưa biết cách cẩn thận phòng tránh
thì chưa đủ trình độ để bàn về đạo dưỡng sinh”. Oâng gói ghém thuật dưỡng dinh
trong 12 chữ giảm thiểu : giảm nghĩ ngợi, giảm công việc, giảm ghi nhớ, giảm
ham muốn, giảm nói năng, giảm cười đùa, giảm âu sầu, giảm sung sướng, giảm vui
vẻ, giảm giận dữ, giảm ưa thích, giảm ghét bỏ. Ai thực hành được 12 chữ này mới
hợp với đạo tu dưỡng.”
III .
Thuận theo thời tiết :
Người, trời, đất và vạn
vật đồng nhất thế nên chương ‘Tứ khí điêu thần đại lu ân’ của Tô Vân viết :
“Aâm dương bốn mùa là căn bản của vạn vật. Vì thế Thánh nhân dưỡng dương vào
mùa Xuân, mùa hạ, dưỡng âm vào mùa thu, mùa đông cùng với vạn vật nổi chìm nơi
cửa sinh trưởng. Nghịch với bốn mùa tổn hại tới sinh mạng, còn thuận theo thì
không ốm đau, đó gọi là đắc đạo”.
Về mùa xuân, Tô Vân viết :
“Ba tháng mùa xuân là thời phô bày cái mới đầy sinh khí, vạn vật hớn hở, đêm ngủ
sáng nên dậy sớm, đi bộ trong sân, y phục rộng rãi, để cho tinh thần và ý chí
thuận sinh cùng thời tiết, đó là ứng với khí mát mẻ của mùa xuân ”.
Mùa xuân ăn uống nên bớt
vị chua mà tăng vị ngọt để nuôi cái khí của tỳ.
Về mùa hạ :Tô Vân nói :
“Ba tháng mùa hạ là thời cây cối sum suê xinh đẹp, khí âm dương của trời đất
giao nhau, vạn vật đươm hoa kết trái, đêm ngủ thời sáng dậy sớm, đừng sợ ánh
nắng mùa hạ, để cho dương khí trong thân thể tiết ra ngoài làm vậy sẽ thích ứng
với khí hậu mùa hạ ”.
Mùa hạ hoả vượng vị đắng,
hoả khắc kim (phổi), phổi chủ về cay, nên thức ăn cần giảm vị đắng mà tăng vị
cay để nuôi khí của tim và phổi.
Về mùa thu: Tô Vân viết:
“Ba tháng mùa thu là thời trạng thái của vạn vật đã ổn định, khí trời vội vã,
khí đất trong sáng, nên ngủ sớm dậy sớm, để cho thân chí được yên ổn mà giảm
bớt khí thu, đối với con người phải thu gom thần khí để khí của phổi được thanh
tịnh. Như vậy sẽ thích ứng với khí thu”.
Mùa thu khí ở phổi vượng,
vị cay, kim khắc mộc (gan), gan chủ chua, nên mùa thu giảm vị cay tăng vị chua để nuôi cái Khí của gan.
Về mùa đông, Tô Vân viết :
“Ba tháng mùa đông là lúc bể tàng, nên ngủ sớm dậy sớm. Trong sinh hoạt tránh
lạnh lẽo và tìm ấm áp, đừng để tiết mồ hôi dương khí hao tổn.” Mùa đông thận
thuỷ có vị mặn, sơ thuỷ khắc hoả tim sẽ bị bịnh, nên phải dưỡng tim ở phòng
kín, mặc ấm, ăn uống phải thích hợp, người già kiêng ra ngoài gió lạnh.
Tóm lại luyện theo mùa là
theo sự vận động tự nhiên: xuân sinh, hạ trưởng, thu liễu, đông tàng. Mùa xuân
nên ăn ngọt, mùa hạ nên ăn cay, mùa thu nên ăn chua, mùa đông nên ăn lạt, đắng.
Nhờ vậy bồi bổ ngũ tạng, ích khí huyết.
Thực hành các yếu chỉ trên
góp phần cho việc luyện đạo chóng thành. Mục tiêu của luyện đạo là để trường
sanh bất tử còn thực tế trước mắt là tăng cường sức khoẻ và phòng chống bịnh
tật.
Phụ lục 4: - TỊNH THẤT TẠI TƯ GIA
Đàn đêm ngày 4-8-1926, Đức
Chí Tôn dạy: “Con hiểu bổn nguyên Thánh chất Thầy … Tuỳ sức mỗi đứa lo lập (cho
mình) một TỊNH THẤT”.
Có Thiên Bàn tại tư gia,
thì cũng có Tịnh Thất tại tư gia. Thế nên, ngay từ năm 1927, Đức Cao Thượng
Phẩm đã lập tại nhà Ngài một Tịnh Thất, gọi là Thảo Xá Hiền Cung. Đơn giản,
phía trước Thiên bàn chỗ quì cúng để thêm một hoặc nhiều cái bồ đoàn (thay cho
gối). Bồ đoàn hình tròn đường kính 2 tấc, cao 1 tấc, dồn gòn, để giữa cái nệm
hình vuông cạnh 6 tấc. Vẽ chữ Khí để ở bàn Hộ Pháp.
Muốn toạ thiền phải tập
trung tư tưởng cao, xoá bỏ ý thiện ác lởn vởn trong tâm. Âm thanh đập vào tai
nghe như không nghe. Ánh sáng chọi vọi vào mắt thấy mà như không thấy, tạo cái
tâm phá chấp.
Sau khi cúng tứ thời : Tý,
Ngọ, Mẹo, Dậu tu sĩ ngồi lên bồ đoàn kiểu kiết già. Xương cùn chiếu đúng giữa
bồ đoàn (nghiêng qua nghiêng lại cho chính) rồi chỉnh thân ngay thẳng, hai ống
chân kéo sát vào thân, sau đó mới nới lỏng dây lưng, cổ áo rộng cho thoải mái.
Lấy mu bàn tay trái để lên lòng bàn tay phải
(nữ thì làm ngược lại). Hai ngón tay cái tiếp xúc với nhau, cạnh ngón út bàn
đặt nhẹ vào dưới Đan điền (ruộng thuốc). Lưng thẳng, đầu hơi cúi xuống, mắt
nhắm độ 3/4. Rồi tâm thiện niệm :
“Cúi xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu cho con vào
hàng tu chơn, đạt thành chánh quả ”.
Liền đó, ngậm miệng lại, răng khít răng, lưỡi
kề răng, làm như vậy cho mạch Nhâm, mạch Đốc giao nhau. Gương mặt bình thản và
bắt đầu thở bằng bụng như bài tập đã qui định.
Phụ lục 5: - YẾU LƯỢC CÁC CÁCH THỞ ĐỂ LUYỆN ĐẠO
I . THỞ HAI THÌ
1. Sổ tức :
- Hít vào thở ra với chiêu số 5-5
- Quân bình âm dương
- Luyện Chân Khí, Tiểu Chu Thiên
II. THỞ BA THÌ :
1. Thở tự nhiên :
Thở tự nhiên là thở làm ba
thì :hít vào, thở ra và nghỉ, một cách nhẹ nhàng.
Cho người mới tập thở
2 . Thở Duyên Tức :
- chiêu số 4-1-5
- thở tự nhiên để tập
trung tư tưởng cao độ
- luyện tinh, khí, thần
- luyện thần hườn hư
- trị huyết áp cao, giúp
máu về não nhiều
- Tác dụng như duyên tức
- Chiêu số : 5-5-5
- Vận khí tới 1 vùng, 1
huyệt và nén khí ở đó lúc ngưng thở
- Chiêu số :5-20-10
- Hít vào từ 2 – 3 hơi
Chiêu thức : 5-20-10-10
Luyện Khí tập trung tại
huyệt Khí Hải
Luyện Thần tập trung tư
tưởng tại huyệt Bá hội.
Khi thuần thuộc thì không
mượn thở nữa mà thở bằng Duyên tức hay Tịnh tức.
Phụ lục 6: - GIẢI THÍCH HÌNH LỄ TRUYỀN TÂM PHÁP
I . LỄ TRẤN THẦN TỊNH THẤT (TẠI TƯ GIA)
Sau thời cúng, người hành
pháp, tay mặt cầm 9 cây nhang, trụ thần rồi đưa nhang ngay Thiên Nhãn, cầu
nguyện Thầy Mẹ và tam vị Thiên Sứ hộ trì Tịnh Thất.
Đoạn xoay lưng nhìn chỗ bàn
Hộ Pháp có chữ Khí (chữ hán) vẽ bùa Tam Thanh Diệu Quang (xem hình).
Từ trái xỗ qua phải tượng
trưng Long Tu Phiến của Đức Cao Thượng Phẩm. Từ phải xổ qua trái tượng trưng
Phất Chủ của Đức Thượng Sanh. Từ trên xổ xuống là cây Kim Tiên của Đức Hộ Pháp nhá
điển khí xuống Nê Huờn Cung chạy qua Ấn đường mở Huệ Quang khiếu.
Kể tiếp khoanh ba vòng vô vi ngược chiều kim
đồng hồ tượng trưng pháp DIỆU QUANG TAM THANH điển lực của trời đất và kết thúc
bằng ba vòng nhỏ phía dưới tượng trưng cho Tinh, Khí, Thần.
II . LỄ
TRUYỀN TÂM PHÁP CHO HÀNH GIẢ TU CHƠN
Sau thời cúng, các hành
giả tái nhập đàn, quì cầu nguyện : “xin Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu cho con vào
hàng Tu chơn đạt thành chánh quả ”.
Vi hành pháp cũng cầu
nguyện Các Đấng xong, xoay lưng đối diện với các hành giả.
Tay trái bắt ấn tý để ngay
ngực. Tay phải bắt ẤN TÂM để trên đầu hành giả và thiện niệm.
Đoạn đeo biểu tượng THIÊN
TƯỢNG QUẺ LY cho các hành giả, lạy tạ ơn. Bãi đàn.
THIÊN TƯỢNG QUẺ LY
I . MÔ TẢ :
Thiên tượng Quẻ Ly được
Đức Hộ Pháp ban cho hành giả tu chơn.
Thiên tượng hình vuông, cạnh 12 ly, mỗi gạch
quẻ 2 ly. Chính giữa có gắn hạt chai, bi biểu trưng cho đồng tử. (con ngươi).
Gạch 2 ly
- Vật liệu : kim loại
- Khoen đeo ở trên chỉ
vòng vô vi
- Dây đeo : 6 tấc bằng kim
loại hay chỉ
II . Ý NGHĨA :
- Thiên Nhãn là Quẻ Ly
- Dây đeo 6 tấc ám chỉ lục
tự Cao Đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Chỉ đeo 5 màu tượng trưng cho Ngũ hành gọi là
dây Niệt do chữ Phạn Nirvana : Niệt va na tức Niết Bàn.
DÒNG THIỀN
PHỔ ĐỘ
I - Ý
NGHĨA THIỀN PHỔ ĐỘ.
Từ thế kỷ
XI, văn hoá Việt Nam vận động
theo tinh thần Tam giáo đồng nguyên. Tuy Nho giáo chủ đạo mà vẫn giao lưu với Lão giáo và
Phật giáo. Tinh thần Tam giáo là sự giao
hoà giữa xuất thế và nhập thế, dù xuất hay nhập vẫn với tinh thần vô tư, vô ngã, vượt trên dư luận
thị phi, lướt trên những điều tầm thường của thế tục, tổng hợp lòng nhân đạo
và tính nhân ái.
Trong truyền
thống đó, đầu thế kỹ XX xuất hiện Đạo Cao Đài với chủ trương Tam giáo quy nguyên,
suy tôn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là Sư Phó Bạch Vân Động chuyển
đạt tinh thần Tam giáo đồng nguyên vào Đạo Cao Đài.
Đạo Cao Đài phát sinh,
phát triển trên đất nước Việt Nam nên ảnh hưởng sâu đậm tinh thần Tam giáo và
truyền thống Thiền Việt nam. Tuy nhiên sự thừa kế có chọn lọc, có sáng tạo để
trở thành bản sắc văn hoá Cao Đài.
Dòng Thiền Phổ Độ không
mang rõ dấu ấn xuất thế hay nhập thế mà Phổ Độ. Các hàng giáo lãnh chứng ngộ
hướng thượng không an nhàn nơi Cõi Thiêng Liêng Hằng Sống mà hướng hạ trở lại
trần gian dìu dắt tín đồ đạt vị, cho trọn câu tận độ chúng sanh. Đức Quyền Giáo
Tông an cư từ tháng 3 đến tháng 6-1932.
Đức Phạm Hộ Pháp nhập Tịnh Thất từ 16-01 Tân Mão (1950) trong thời gian 3
tháng, rồi xuất tịnh giáo dân quy thiện. Mỗi tín đồ khi tịnh luyện đạt pháp
cũng phải phổ độ ít nhất mười hai người theo Đạo.
II - TIẾN TRÌNH HÌNH THÀNH DÒNG THIỀN PHỔ ĐỘ
Ngay năm đầu khai đạo, Đức
Chí Tôn đã phán truyền:
Muốn trọn câu Phổ Độ phải
làm thế nào? Phải bày bửu pháp ra, chớ không đặng dấu nữa. Đàn đêm
08-04-1962 (TNHT, quyển I, TN 1950, tr. 13)
Sau đó, Đức Chí Tôn lại
dạy:
Con hiểu bổn nguyên Thánh
chất của Thầy
Tuỳ sức mỗi đứa lo lập (cho mình) một Tịnh Thất.
(Đàn đêm 04-08-1926).
Vì đó, ngày 14-04-Đinh Hợi
(1948), Đức Phạm Hộ Pháp ban hành Phương pháp trị tâm, vì Tâm là hình ảnh thiên lương và Tâm thức là biển đạo mênh mông khó đạt,
khó trị. Năm đó, Khai Pháp Trần Duy Nghĩa vào nhà tịnh Trí Giác Cung (hiện còn
thờ Ngài ở đây); năm 1950 Đức Hộ Pháp vào tịnh thất Trí Huệ Cung trong 3 tháng;
năm 1952 Chí Thiện Võ Văn Đợi lập Vạn Pháp Cung, đạt thành chánh quả tại nơi
đó.
Năm Kỷ Mùi (1979) giải thể
hành chánh đạo về tu chơn tại gia, số hành giả tịnh luyện ngày càng đông, không
kể xiết.
Tháng 4 Giáp Tý (1984) VĐ
bịnh ngặt được đưa về Bệnh viện Nhiệt Đới thành phố. Một đêm, anh cảm thấy chơn
thần rời khỏi thể xác lên Bồng Đảo (xin xem Đại Đạo Bí Sử, tr, 107) gặp Đức
Thượng Sanh dạy: Đệ tử chưa tròn Thiên mạng, còn trọng trách ở trần
gian. Hãy thực hiện lời đã hứa với Bần đạo viết về Công Đức Phật Mẫu
và Cửu Vị Nữ Phật; Ngôi thờ Đức Chí Tôn và Bát Quái Cao Đài. Nhờ huyền diệu thiêng liêng hỗ trợ, một bịnh coi như chết mà được sống
lại. Vì vậy, anh nghỉ dạy, chấp bút viết sách và thiền định.
Vào tháng 3 năm quý Dậu,
cây mít trước nhà anh ra trái giống như quả hồ lô của Đức Lý Ngưng Vương. Nhà
thơ Thảo Anh cảm hứng vịnh thi, anh hoạ 4 câu cuối như vầy:
Sâm hoành Thiết Quả lưng bầu rượu
Đẩu chuyển Đồng Tân thổi sáo thơ.
Hương toả mít oằn lan khắp lối
Tưởng chừng hồn lẫn cõi Hư Vô.
(Trích lại trong
ĐĐBS, tr, 110)
Trong năm 1992, anh cùng đồng
đạo xây cất lại Thảo Xá Hiền Cung, nơi tịnh luyện của Đức Cao Thượng Phẩm lúc
còn sinh tiền. Tại Thánh Thất Thị Xã, vào ngày 15 tháng 4 Quý Dậu , trong lễ
Ngọ thời lúc Nhạc tấu quân thiên: Phật, Tiên, Thánh ngự đàn, anh thoáng thấy
Đức Hộ Pháp nhá Kim Tiên Khai Huệ Quang Khiếu, mắt anh đổ hào quang hiện ba
vòng Diệu Quang Tam Thanh. Văng vẳng nghe lời Sư Phụ dạy: Đó là lễ truyền Tự
pháp, hãy để cho mọi người khám phá sự CHỨNG NGỘ của môn đệ, trước khi môn đệ
cho họ biết.
Cả đàn cúng đều thấy anh
quị xuống và lê bước đến bàn Vi Hộ Pháp cúi lạy tạ ơn. Đến ngày 15-5-Quí Dậu,
Hiền Tài Ngô Văn Non gởi cho anh bức thơ có câu: Tiểu đệ rất tiếc
không đáp ứng được Thánh ý của Trưởng Huynh (kêu tịnh luyện) nhằm nâng cao đàn
em trên đường đạo đức (Xem ĐĐBS, tr, 111)
Được lịnh Đức Hộ Pháp dạy
chú giải Tịnh Thất và Trường Dưỡng Tinh Khí Thần. (Vì anh được Truyền Tự Pháp
tức nối pháp). Khi viết xong, anh đem đặt lên bàn thờ Đức Cao Thượng Phẩm xin
duyệt y. Đúng đêm đó 13-6-Quí Dậu, Sinh viên kiến trúc tên Hưng ở cửa số 7,
thấy huyền diệu hào quang hiện hướng Thảo Xá Hiền Cung. Sáng sớm, Hưng ra tận
nơi, gặp thủ tự Nghĩa hỏi về hiện tượng lạ đó (xem ĐĐBS, tr, 111)
Tóm lại, anh đã được Đức
Hộ Pháp Khai Huệ Quang Khiếu để chứng ngộ và truyền Tự Pháp. Chứng ngộ là điều
thông thường của hành giả tịnh luyện, có thể đạt được trong sinh hoạt đạo sự
hằng ngày, bất cứ ở nơi đâu, đạt Thiền là bỏ ngôi nhà giả tạo để vào ngôi nhà
mới tức là vô minh đến giác ngộ.
Người xưa, quan niệm xuất
gia hành đạo, tại gia luyện đạo như nhau. Dù là cư sĩ nhưng có hướng giải thoát
thì như xuất gia: cư trần bất nhiễm trần. Áo mão sắc tướng là hư vọng nên
chuyển vọng thành tâm tuệ bát nhã, vượt
khỏi hư danh. Vì thế, Tự pháp VĐ hoà nhập đời mình vào trong cuộc sống đại thể,
đi vào cuộc đời mà không bị lôi cuốn dập vùi, đem Đạo Tâm dung hợp mọi lẽ thị
phi mà lòng vẫn an nhiên tự tại, để làm sáng Dòng Thiền Phổ Độ. Anh đã tiếp
được hạt giống chánh pháp vớihoà quang đồng trần (khái niệm Lão giáo) quên mình
phụng sự Đạo pháp mà không câu chấp hình thức áo mão hay cầu mong chức vụ. Anh
phát lại ngọn gió lành, viết lại những thông linh lãnh hội, truyền đạt lại cho
đồng đạo vầng sáng trác việt. Bởi lẽ, tinh học giáo pháp là con đường trở về
Cõi Thiêng liêng Hằng Sống, bằng tự tâm, tự tánh của mình, chớ không phải chạy
theo đuổi bắt những hình ảnh huyền ảo xa lạ.
Vào tuổi tri thiên mạng,
Đức Hộ Pháp mới giao cho VĐ làm Tự pháp (nối pháp) với sự hộ trì của Tam Vị
Thiên Sứ mà lâp thành Dòng Thiền Phổ Độ, cứu nhân độ thế đem hạnh phúc đến cho
con người, vì
- Thiền là khoa học thực nghiệm về tâm linh.
- Thiền là thái độ sống giữa cộng
đồng.
- Thiền là phương pháp tự tâm (theo
ĐHP)
- Thiền là phép tu hành, một pháp môn
giải thoát, tự giác giác tha.
- Thiền là sự thức tỉnh con người
trước những ảo vọng trần thế.
- Thiền là sự trở về trạng thái nguyên
sơ.
Thiền là vòng tròn vô tận,
khó xác định được chu vi. Vì đó, có thể tìm thấy tâm điểm của vòng tròn Thiền
bất cứ ở đâu. Thế nên, Trường Dưỡng Tinh Khí Thần là hợp lý, gồm 3 phần: lý
thuyết, yếu chỉ và thực hành (dành riêng cho hành giả).
Biểu hiện tích cực về
Thiền định, Tự pháp VĐ đã biên soạn hơn 37 quyển sách đạo, vừa làm sáng tỏ giáo
lý Cao Đài, vừa rút ra những đặc điểm tịnh luyện. Vì đỉnh cao của Thơ là Đạo,
nên anh đã in nhiều tập: Đạo Đức Văn Đàn, Thơ Vân Đằng, Mây Trắng Bay (2 tập),
Thơ Thiền (2 tập), Trầm Hương.
Thơ Thiền của Tự pháp VĐ
bay bổng cùng đất trời vàhoà cùng tâm
hồn dân tộc phơi phới bay lên cao. Dù tả cảnh, tả tình, tả đạo sự cũng đượm màu
sắc suy tưởng thiền.
Thơ TPVĐ không cố chấp
lánh đời mà sống hoà mình vào cõi người, vui buồn tự nhiên cùng thế thái nhân
tình. Thơ TPVĐ là trí tuệ của anh và tâm hồn anh khao khát cống hiến cho đời,
cho đạo.
Thơ TPVĐ không nặng hình
thức mà chỉ ra hình ảnh tu chứng, bản thể thường trụ của vùng sâu thẳm tâm
linh. Mây trắng bay (2 tập), dòng sông vẫn chảy, ứng xử tuỳ duyên tự nhiên với
cõi lòng nhất tâm bất loạn, chỉ cần một tai sáng phóng thẳng vào tâm là minh
tâm kiến tánh, giác ngộ chớp nhoáng (Sát na).
Thơ TPVĐ là chiếc cầu nối
giữa con người và thiên nhiên, nối tâm hồn con người với cỏ cây hoa lá. Bằng
tiếng nói của hoa cỏ, thơ TPVĐ giúp con người yêu thiên nhiên, yêu đời hơn, gắn
bó với cuộc sống hơn. Tuy là nhà khoa bảng, thơ TPVĐ giản dị, dễ hiểu và gần
gũi với đại chúng, nhưng bên trong chứa đựng biết bao điều kỳ diệu của Thiền.
Thật là tấm gương soi cho
các hành giả, trong những đêm dài thời cuộc mà anh
được huyền khải vẽ nên con đường về nẻo chánh cho dòng Thiền Phổ Độ là một điều
cố gắng phi thường.
BĐ LẠC QUỲNH
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét