Xây
dựng một đại học trên vùng đất mới là đem đại học vào tầm tay người địa phương-đặc
biệt là giới thiếu phương tiện về học ở Sài Gòn. Đó cũng là góp thêm một bước cho việc đại chúng hóa Đại Học.
Tinh thần khai phá – the
pioneer spirit. Đó là tinh thần tiên phong, đi trước, như ông cha chúng ta khởi
xướng trong từng giai đoạn của cuộc Nam tiến. Đó cũng có thể là gương sáng của
quí vị khai đạo và tùy duyên đến vùng đất mới dẫn dắt chúng sanh.
Tuy nhiên, không hẳn in như vậy. Mỗi cảnh mỗi khác, mỗi thời mỗi khác.
Tôi không rõ tâm trạng của
người xưa trong những khó khăn trước mặt.
Khai phá là đi vào cái
mới, đất mới, lãnh vực mới…, ở đó, chưa một ai đến, chưa một ai khai, chưa một
ai phá, để xây dựng cái mới.
Cái mới là cái chưa biết. Cái chưa biết nào
cũng có những bất ngờ, không trù liệu trước được. Cho nên, tiến trình khai phá
là một tiến trình phiêu lưu. Cuộc phiêu lưu nào có những hiểm nguy của nó. Vì
vậy, người tiên phong phải có một tầm nhìn xa và rộng, và phải can đảm nhận
trách nhiệm về công trình khai phá.
Hơn nữa giáo dục, dù là
giáo dục Đại Học, vẫn bao hàm cái ý ổn định, vững chắc. Dạy học là chuyển giao
những giá trị qui định trong chương trình học. Những giá trị nầy, ít nhất là
cho đến 4 năm đầu Đai Học, phải là cổ điển, tức là được công nhận là vững bền.
Dân tộc, nhân bản và khai phóng là phương châm chỉ hướng cho nền giáo dục của
chúng ta thời bấy giờ.
Sinh Viên, Viện Đại Học Cao Đài tổ chức gây qủy thành lập chénh cơm Sinh Viên.
Nói khác hơn là trong một chừng mực nào đó, ta muốn cột giữ học sinh sinh viên ta trong lòng dân tộc, trong những giá trị ngàn đời của cha ông, mà ta thiết tha kính giữ. Con người mà chúng ta đào tạo cũng phải thấm nhuần tính người, tình người, nhưng không là một mẫu người trừu tượng hay là con người chung chung của muôn nơi muôn thuở, mà phải là con người của dân tộc nầy, trong thời khoảng lịch sử nầy trước đã.
Cho nên, dạy học là cột
con người hai lần: cột vào nhân bản, chưa đủ, cột thêm vào dân tộc, cho chắc. Ý
thức rõ như vậy, người dạy đương nhiên thấy có nhu cầu khai phóng: người cột
phải mở. Tùy lứa tuổi, tùy trình độ học viên, lối dạy phải khoáng đạt, nhiều
chiều, và trong mỗi chiều có thuận có nghịch.
Dầu vậy, nội dung, ngoại
trừ các đề tài luận án, đều phải cổ điển, được công nhận là những giá trị cơ
bản vững bền.
Người dạy, thường thường
không ai là người muốn mạo hiểm.
Tôi, một ông giáo, tôi
cũng không muốn mạo hiểm trong các công tác giáo dục của tôi. Vì vậy, mà tôi
phải cặn kẽ trao đổi những nghĩ suy và tính khả thi trong công tác hình thành
Viện Đại Học.
Người tôi tiếp cận đầu
tiên là Ông Viện Trưởng Nguyễn Văn Lộc, nguyên thủ tướng chính phủ. Ông rất
bình dị. Chúng tôi vẫn xưng hô là anh em, nhờ vậy mà mọi vấn đề được thẳng thắn
đặt ra và bàn luận.
Tiên quyết là sự an ninh
trên con đường Sàigòn Tây Ninh, chỉ 99 cây số, mà nghe đâu nó xuyên ngang chiến
khu của VC. Tôi được biết là Anh vẫn thường đi lên Toà Thánh bằng xe riêng hoặc
xe của Tòa Thánh. Tôi có sự xác nhận của nhiều người khác, nói riêng là của ông
Thừa Sự Tấn.Tôi cũng nghĩ: Những người sống về nghề móc túi, bấm dây chuyền,
nói chung là kẻ trộm cắp, luôn luôn hoàn lại cho khổ chủ nếu khổ chủ là người
trong khóm, nơi trú ngụ của mình. Trong cái suy nghĩ đó, thiết nghĩ VC, phải
giữ an ninh cho tuyến đường Sài gòn-Tây Ninh, bằng không cái ổ ẩn trú của họ sẽ
bị quậy nát, mà dân chúng không bao che cho họ.
Về viễn kiến về Viện Đại
Học: hình như quí vị trong Đại Đạo nghĩ rằng:
Tây Ninh nằm trên con
đường chánh đi Nam Vang:
Đức Hộ Pháp có nhiều năm
ngụ ở Nam Vang.
Ánh sáng Đại Học Cao Đài
sẽ mở rộng trong hướng Cambodia, và vùng cao nguyên bao quanh Thánh Địa.
Vả lại Đạo có huyền cơ.
Nghĩ cho cùng thì những
đại học xưa, khởi điểm rất khiêm nhường – Haward (Mỹ) bắt đầu chỉ có 9 sinh
viên [1], Notre Dame [2] (Mỹ) là một đại học Công Giáo mà phải 2 năm sau mới
được công nhận, Đai Học Sorbonne khởi đầu là một Viện Thần Học, và đến Cách
Mạng Pháp (1789) bị đóng cửa [3],..
Tôi không tổng quát hóa.
Tôi cũng không lấy tiêu chuẩn thời thượng mà đo lường đại học thời nay. Tôi
nghĩ tương lai của một đại học là do mức độ đóng góp của các thế hệ tốt nghiệp
đại học đó vào sự nghiệp chung của nhân loại. Tôi cũng nghĩ giáo dục là đầu tư
dài hạn. Giáo dục nhằm vào con người: trí tuệ, tình cảm, tính tình. Mà con người
chỉ có thể là một diễn trình chỉ chấm dứt khi con người ấy yên nghỉ dưới ba tấc
đất.
Sinh Viên đang thực tập trong phònh thí nghiệm
Cho nên chúng tôi thống
nhất trong cái nhìn huấn luyện nghề. Ở các trường kỹ thuật lúc bấy giờ, các
nghề mộc, tiện,.. đều được qui định huấn luyện bao nhiêu giờ. Một sinh viên vào
trường Võ Bị Thủ Đức, sau 11 tháng ra trường là một ông Thiếu Úy. Mục tiêu của
trường Nông Lâm Súc hay Sư Phạm là trang bị cho học viên một cái nghề: cán sự
hay kỹ sư Nông Lâm Súc hoặc giáo sư đệ nhất cấp hay đệ nhị cấp.
Nói chung, huấn luyện là
có lớp có lang, bài bản rõ ràng, hết bài bản là ra nghề, quen thuộc với một số
thao tác, hành vi, để từ đó không ngừng cải thiện tài khéo, tùy duyên mà đổi
mới cách nghĩ, cách làm, mở rộng và đi sâu vào nghề nghiệp.
Trang bị phòng thí nghiệm,
hay xưởng máy, hay nông trường, trại chàn nuôi thực tập cho sinh viên rất tốn
kém. Thiết nghĩ phải kết nghĩa với một đại học Mỹ hay Pháp, hay Canada, hay Úc.
Cũng nên ghi: Từ nghĩ đến thực hiện thường có một khoảng cách khá rộng.
Tôi còn muốn việc huấn
nghệ có những điểm đặc thù, thí dụ của Trường Nông Lâm Súc có tác động gì với
việc trồng trọt, chăn nuôi, và lâm sản địa phương. Chỉ bao nhiêu đó thôi, tôi
đã lung túng. Tôi cũng nghĩ bất cứ ai cũng lung túng như tôi. Lúng túng đó là
thách đố cho tôi. Tôi phải tìm học, không ở sách vở mà ở môi trường. Tôi phải
lên Tây Ninh, cùng với giáo sư và sinh viên tôi khảo sát môi trường, cách trồng
lạc, khoai sắn, hột điều (đào lộn hột), cách chăn nuôi, khai thác lâm sản, và
thị trường. Miệt ấy, người ta dung máy John Deere của Mỹ, máy Kubota của Nhật
không dùng được vì quá yếu,.. Nói chung, tôi phải biết nhu cầu của địa phương.
Tôi phải tìm cho ra những sắc thái đặc thù cho hai trường Nông Lâm Súc và Sư
Phạm Cao Đài của tôi.
Ngài Hiếp Pháp Trương Hữu Đức cùng Tổng Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục, Ngô Khắc Tỉnh viếng thăm Viện Đại Học Cao Đài.
Ngài Hiếp Pháp Trương Hữu Đức cùng Tổng Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục, Ngô Khắc Tỉnh viếng thăm Viện Đại Học Cao Đài.
Tôi nói khai phá là như
vậy đó: là đi vào những vấn đề, mà giờ đây chưa có một ai biết được. Khai phá
cũng có thể hiểu là tôi phải trang bị các phòng thí nghiệm, chỉ nói cho khoa
học căn bản mà thôi, từ A đến Z. Và không những chỉ có vậy, phải biến các phòng
ốc thành phòng thí nghiệm, có điện, có nước, có chỗ cho sinh viên thực nghiệm.
Và nếu người thợ thi công, hoặc ông thầu thi công làm công quả, làm chùa, thì
thúc hối cho hoàn tất, kịp thời thì quả là một điều rất tế nhị. Rồi đến nông
trường, trại chăn nuôi, chuyện làm không bao giờ dứt.
Tóm lại, tinh thần khai
phá nói ở đây là tinh thần chấp nhận thách đố, chấp nhận hiểm nguy. Trong khai
phá có phiêu lưu, có những sự việc mà đến bất ngờ không lường trước được, Nhưng
khai phá không trùng nghĩa với phiêu lưu. Có người nghĩ phiêu lưu là đùa giỡn
với số mạng, giao mình cho may rủi, được thua do thiên mạng.
Ở đây, khai mở một viện
đại học mới, một môi trường giáo dục mới, mà bao quanh tôi là những nhà tu
hành, phẩm hạnh cao. Cho nên khai phá trong bối cảnh nầy bao hàm ý thức trách
nhiệm. Riêng tôi, tối thiểu là tôi trách nhiệm đối với các đồng nghiệp, đồng sự
mà nhận lời mời, hay ‘rủ rê’ dấn thân vào công trình chung, và nhất là đối với
sinh viên của tôi. Vì vậy, mà có lắm điều, tôi vấn hỏi anh Lộc. Giờ, không nhớ
hết được, chỉ ghi lại đôi điều như trên đây. Nhờ vậy mà ý thức được cái biết
của mình thì giới hạn, mà cái dốt của mình thì vô cùng, Cũng nhờ vậy mà lăn xả
vào việc, không ngại khó, không ngại gian nan, không ngừng học hỏi, tôi luyện
khả năng, tài khéo (skills), trí tuệ và tính tình. Đó cũng là xem đổi thay là
đương nhiên, cuộc sống là một giòng chảy không ngừng đổi mới,
Thiết nghĩ, đông đảo bạn
bè tôi chia xớt quan điểm nầy.
Và nhìn lại, tôi có nhiều
may mắn.
Với tôi,
Vừa nhận việc ở Đại Học Sư
Phạm Sàigòn, với tôi, bây giờ là Mai Thanh Truyết, được giao ngay cho Ban Hóa.
Ngay trong những tuần lễ đầu, tôi đã phá sự an ổn, cái sức ỳ đã lậm trong một
số đồng nghiệp của tôi. Trong một cuộc sống an nhàn dài dài, không ai muốn đổi
thay. Tôi có sắp xếp lại. Và sau cùng là còn rủ rê mấy ông bà đại giáo sư của
tôi đi chùi rữa cầu tiêu cầu tiểu của trường. Tuy vậy, vẫn có nhiều người hưởng
ứng, có nhiều phản ảnh tốt, cũng có những người không hài lòng. Những người nầy
lại tế nhị, không phản ứng. Tôi chỉ cần có như vậy, chỉ mong tạo một vết dầu
loang.
Ở Pháp, tôi không khó khăn
có một chỗ làm, một công việc mà tôi thích. Thật không phải là thần tiên, nhưng
chắc chắn là ổn định và có thể thoái mái trong nhiều năm. Tôi không về xứ của
tôi để tìm một sự ổn định. Chọn vào Sư Phạm, là trong tiềm thức của tôi, tôi đã
chọn sự ổn định. Đó là cho vợ, cho con. Còn lại, tôi dành cho hoài bão của tôi.
Đất vừa ra khỏi thuộc địa, dân trí thấp, chiến tranh liên miên, liên tục, đêm
đêm có khi còn nghe tiếng súng, thì tôi, có an bình đi học ở Pháp, nay đến
lược, phải tận lòng đóng góp trong giới hạn khả năng của mình.
Và tôi đã lên Tòa Thánh,
tôi có đọc tìm hiểu Đai Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, tôi phải làm việc với quí vị chức
sắc trong Đạo. Nói riêng, Ông Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, Ông Viện Trưởng và
ông Tổng Ký Viện là người của Đạo. Đông đảo sinh viên của Viện là con em của
người trong Đạo.
Tôi không có nhân viên
giảng huấn tại chỗ. Chị Măng là người duy nhất tại chỗ và cũng là người trong
Đạo, nhiều khả năng và nhiều nhiệt thành, là trưởng phòng pthí nghiệm của chúng
tôi. Tuy nhiên, Chị quá hiền, quá khiêm tốn. Và điều nầy giới hạn khả năng đóng
góp của Chị rất nhiều. Dầu vậy, Chị vẫn là duyên may mắn cho tôi.
Bên cạnh Trường Đại Học Sư
Phạm, có hai trường Trung Học của Đạo là Trường Lê Văn Trung [4] và Đạo Đức Học
Đường. Ngoài thị xã Tây Ninh còn có Trường Trung Học Tây Ninh. Đó là những cái
nôi cho sinh viên Sư Phạm chúng tôi đi thực tập và cũng là lò để chúng tôi mời
và tuyển chọn giáo sư hướng dẫn.
Và tôi đến lúc tôi vừa
quen thuộc các địa danh, và biết chút ít về Tây Ninh và một ít địa danh nầy,
Bến, Bàu, Gò, Long, Trảng như Bến Cầu, Bến Ván, Bến Kéo, Bàu Gõ, Bàu Vừng, Bàu
Năn, Gò Chùa, Gò Dầu Hạ, Long Hoa, Long Giang,Trảng Bàng, Trảng Gùi, thì:
30/4/1975, Viện Đại Học bị đóng cửa.
Chúng tôi bị giải nhiệm.
Rồi,
Hồi ức.
42 năm qua đi, một dấu mốc
thời gian quá dài để ghi lại những hồi ức trên. Ghi lại không phải là một tiếc
nuối. Nhưng ghi lại để người sau biết thế hệ đi trước vẫn có có những người con
Việt tiên phong cho sự trường tồn của Đất và Nước.
Người “đời sau”, chúng tôi
muốn nói; đó là những người đang sống trong một chế độ bưng bít, khép kín với
thế giới bên ngoài, chế độ không hề biết đến danh từ “khai phóng” cho dân tộc
ngoài những danh từ sặc mùi chủ nghĩa không tưởng đang đầu độc các thế hệ tiếp
nối của Việt tộc.
Người con Việt vẫn còn đầy
rẫy khăp năm châu với một niềm tin vững chắc là sẽ có ngày xây dựng lại quê
hương Việt.
Xin cẩn bút.
* Nguyễn
Văn Trường. * Mai Thanh Truyết
Hiệu đính và bổ túc
12/2017
Phụ Chú:
[1] Harvard is the oldest
institution of higher education in the United States, established in 1636 by
vote of the Great and General Court of the Massachusetts Bay Colony. It was
named after the College’s first benefactor, the young minister John Harvard of
Charlestown, who upon his death in 1638 left his library and half his estate to
the institution. A statue of John Harvard stands today in front of University
Hall in Harvard Yard, and is perhaps the University’s best known landmark.
Harvard University has 12
degree-granting Schools in addition to the Radcliffe Institute for Advanced
Study. The University has grown from nine students with a single master to an
enrollment of more than 20,000 degree candidates including undergraduate,
graduate, and professional students. There are more than 360,000 living alumni
in the U.S. and over 190 other countries.
[2] The University of
Notre Dame began late on the bitterly cold afternoon of November 26, 1842, when
a 28-year-old French priest, Rev. Edward Sorin, C.S.C., and seven companions,
all of them members of the recently established Congregation of Holy Cross,
took possession of 524 snow-covered acres that the Bishop of Vincennes had
given them in the Indiana mission fields.
A man of lively
imagination, Father Sorin named his fledging school in honor of Our Lady, in
his native tongue, “L’Université de Notre Dame du Lac” (The University of Our
Lady of the Lake). On January 15, 1844, the University was thus officially
chartered by the Indiana legislature.
Father Sorin’s indomitable
will was best demonstrated in 1879 when a disastrous fire destroyed the Main
Building, which housed virtually the entire University. Father Sorin willed
Notre Dame to rebuild and continue its growth.”I came here as a young man and
dreamed of building a great university in honor of Our Lady,” he said. “But I
built it too small, and she had to burn it to the ground to make the point. So,
tomorrow, as soon as the bricks cool, we will rebuild it, bigger and better
than ever.”
[3] The Collège de
Sorbonne was a theological college of the University of Paris, founded in 1257
by Robert de Sorbon, after whom it is named.[1] With the rest of the Paris
colleges, it was suppressed during the French Revolution. It was restored in
1808 but finally closed in 1882. The name Sorbonne eventually became synonymous
with the Parisian Faculty of Theology. In more recent time, it came to be used
in reference to the entire University of Paris. It is now the name of the main
campus in the Ve arrondissement of Paris, which houses several universities
(heirs to the former University of Paris) as well as the Paris rectorate.
Wikipedia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét