Đã sắp vào mùa
Giáng Sinh 2020, tín đồ Cao Đài trên toàn thế giới cùng toàn thể nhân loại vui
mừng chào đón một ngày lễ lớn. Nhân dịp này nhớ lại, cũng vào một đêm Giáng
Sinh cách đây chín mươi sáu năm, Thượng Đế Chí Tôn (tín đồ Thiên Chúa gọi là Đức
Chúa Trời) đã giáng cơ tại một đất nước nhỏ bé là Việt Nam để tuyên bố khởi đầu
một kỷ nguyên mới: Tam Kỳ Phổ Độ.
Nhân kỷ niệm
này, xin mời quí vị đồng đạo cùng đọc lại một vài lời dạy của chúa Jesus, bậc đại
giáo chủ đã giáng phàm truyền giảng lời của Đức Chí Tôn ở đất nước Israel, vốn
cách xa Việt Nam ngàn dặm nhưng cũng có một lịch sử đầy sóng gió tương tự.
Lời giảng của
chúa Jesus
Kể từ lúc Chúa
Jesus rời khỏi gia đình đi giảng đạo, Chúa đã thu mười hai môn đồ đầu tiên, làm
rất nhiều phép lạ, và chữa trị cho rất nhiều người bị bệnh nan y. Chính vì thế,
mà số tín đồ cũng như số người đi theo Ngài càng lúc càng đông. Nhưng chính những
lời giảng dạy của Ngài mới là nền tảng của một nền Tân Tôn Giáo so với thời bấy
giờ. Xin đương cử một số tiêu biểu.
* “Đừng chống cự kẻ hung dữ …”
“Đừng chống cự kẻ hung dữ ; nếu ai vả má bên
phải của ngươi, hãy đưa luôn má bên kia cho họ; nếu ai kiện ngươi muốn lấy chiếc
áo ngắn, hãy cho họ luôn chiếc áo dài; nếu ai muốn bắt ngươi đi bộ một dặm đường,
hãy đi hai dặm với họ …” (Tân Ước –
Matthew).
Về mặt Thể Pháp
Cao Đài, có thể hiểu đây là lời dạy về nguyên tắc bất bạo động, dùng tình
thương đối phó với hận thù. Trong lịch sử đầy sóng gió của quả địa cầu 68, con
người, vì cuộc sống, phải tranh dành liên tục nên xem trọng sức mạnh vật chất.
Bạo lực được đề cao là hệ quả tất yếu. Người ta sử dụng bạo lực hằng ngày. Kết
quả, nhân loại tạo ra một thế giới đầy bạo lực. Bạo lực không biết đến tình
thương và chỉ sinh ra đau khổ, mất mát.
Chúa Jesus dạy
nguyên tắc bất bạo động để lập lại sự cân bằng, để nhắc nhở con người điều họ vốn
đã biết nhưng không bao giờ thực hiện được. Cho đến nay, hơn hai ngàn năm qua
đi mà loài người vẫn chưa thực hiện được bài học bất bạo động, trừ một vài cá
nhân lẻ loi mà trong đó Thánh Mahatma Gandhi là một. Thậm chí có người còn biến
bạo lực thành một “học thuyết” nhằm cổ vũ cho tính hung bạo của mình. Đại khái
như là : Cần phải dùng bạo lực để trấn áp cái ác, khi diệt hết cái ác rồi thì
điều còn lại sẽ là cái thiện. Lý thuyết
nghe rất hay, nhưng suy cho cùng thì họ chỉ mặc một chiếc áo đẹp đẽ cho
tính hung hăng của họ mà thôi. Rõ ràng, họ đã mắc sai lầm nghiêm trọng! Bởi vì
lịch sử loài người đã chứng minh rằng bạo lực không thể tiêu diệt được cái ác,
mà chỉ nuôi dưỡng thêm một cái ác mới – đó là cái-ác-diệt-cái-ác. Chỉ khi nào số
người làm điều thiện nhiều hơn số người làm điều ác (chứ không phải người thiện
diệt hết người ác!) thì điều ác mới không còn đất để phát sinh. Vì thế, nghe và
làm theo lời dạy của chúa Jesus là nuôi dưỡng, bổ sung điều tốt đẹp, tạo ra
càng ngày càng nhiều điều thiện trong xã hội.
Đối với Bí Pháp
Cao Đài, đưa má bên trái cho kẻ đã tát tôi vào má bên phải là một hành động phi
nhị nguyên. Hành động nhị nguyên thông thường là: trả đủa kẻ đã tát mình bằng một
hành động nào đó; tát lại hắn, chẳng hạn. Hành động phi nhị nguyên là một hành
động rất khó thực hiện. Bởi vì nếu tôi thật sự đưa má bên trái cho kẻ đã tát
tôi vào má bên phải; thì đó cũng lại là một hành động nhị nguyên khác. Thực hiện
lời Chúa dạy sát theo từng câu chữ chỉ mới làm trọn phần Thể Pháp trong Cao
Đài. Hiểu rõ lời dạy của Chúa để có được hành động phi nhị nguyên mới trọn phần
Bí Pháp trong Cao Đài. Thể Pháp và Bí Pháp sóng đôi thì hành động mới tròn đầy,
và sự tròn đầy sẽ tự thân hóa giải mọi niềm đau nhân thế, đưa con người trở về
vườn Eden hạnh phúc (thuật ngữ Cao Đài gọi là Cực Lạc Thế Giới) .
Thế nào là hành
động phi nhị nguyên? Xin kể lại một câu chuyện đượm màu Thiền học trong những
ngày mở đạo. Lúc bấy giờ, ngoài các vị tiền bối được thiêng liêng chỉ định phò
loan ra thì nhiều người khác cũng lén cầu cơ, chấp bút. Điều đáng nói là cũng
có các đấng giáng, thậm chí có cả Đức Chí Tôn giáng cơ. Ngày 7/11/1933 trong một đàn cơ ở Phạm Nghiệp, Đức Hộ Pháp hỏi
Đức Chí Tôn:
“Dạ thưa Thầy,con
không biết tại sao các nơi đều có cơ bút, mà mỗi lần đều xưng danh Thầy, không
lẽ Thầy đến với cơ bút ấy?”
Đức Chí Tôn trả
lời:
“Thầy đã nói rằng
duy có ngôi của Thầy chúng nó không dám dựa, chớ danh Thầy nó được phép dùng.
Nên Thầy đã dặn rằng đừng nghe Cao Đài nơi này, Cao Đài nơi khác, rồi tin theo mà thất thệ. ….”
Đức Hộ Pháp bạch:
“Dạ thưa Thầy,
nói vậy Thầy không có đến với cơ bút ấy?”
Đức Chí Tôn trả
lời:
“Tắc, con tối
trí quá!”
(Xin phép được
biên tập phần trích dẫn trên vài chỗ cho dễ hiểu – Nguyên văn trong Thánh Ngôn
Sưu Tập của Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng)
Xin lưu ý câu trả
lời cuối cùng của Đức Chí Tôn. Tại sao Đức Chí Tôn không khẳng định hoặc phủ định
mà lại trả lời bằng một câu chệch đi chỗ khác, thậm chí làm tối nghĩa thêm? Tuyệt
đối không có chuyện tránh né ở đây, bởi vì ở vị trí của Đức Chí Tôn thì Ngài chẳng
có việc gì phải tránh né. Nhưng khẳng định hay phủ định là một trong hai mặt của
nhị nguyên. Câu trả lời của Ngài đã đi ra ngoài vòng nhị nguyên đối đãi: đó là
một hành động phi nhị nguyên!
Dù thí dụ như thế,
nhưng hành động phi nhị nguyên không có công thức, không thể na ná, giông giống
với thí dụ đã nêu. Mỗi một hành động phi
nhị nguyên là cả một thế giới mới mẽ chưa từng có. Hành động phi nhị nguyên chỉ
phát sinh ở người nào đạt được sự thông suốt trong tư tưởng và hiểu rõ ràng đôi
đường thiện ác. Trong Cao Đài, một người học đạo muốn đạt được sự thông suốt
trong tư tưởng thì phải thể hiện đầy đủ Thể Pháp, nghĩa là phải rèn luyện tam bửu
không ngừng nghỉ trong cuộc sống. Có như thế
thì Bí Pháp mới vận hành. Có như thế mới mong có được hành động phi nhị
nguyên - nói theo ngôn ngữ của người xưa là đắc đạo, hay nói theo ngôn ngữ Cao
Đài là hiệp một cùng Đức Chí Tôn.
* “ … hãy yêu kẻ thù
nghịch …”
“Ta nói cùng các ngươi rằng: hãy yêu kẻ thù
nghịch, và cầu nguyện cho kẻ bắt bớ các ngươi …” (Tân Ước – Matthew).
Về mặt Thể Pháp
Cao Đài, đây là một lời dạy rất khó thực hiện. Bởi tình yêu là một tình cảm rất
đặc biệt. Không thể cưỡng ép bất cứ một ai yêu mến một người khác. Nếu tôi yêu
mến một người nào đó bởi vì Chúa đã dạy như thế, thì tình yêu mến kia chẳng có
giá trị gì! Đó chỉ là lừa dối chính mình và cả Chúa nữa! Yêu mến một người đã
khó, Chúa Jesus lại dạy rằng nên yêu thương kẻ thù nghịch của mình. Đây là điều
còn khó khăn hơn nữa!!
Có thể lý giải rằng
Chúa dạy như vậy là để bắt tôi suy nghĩ lại những tình cảm của mình vốn vẫn
phóng túng theo bản năng. Tôi chỉ yêu mến những gì đem lại lợi ích, và ghét bỏ
những gì gây tổn hại cho mình. Tình cảm này vô cùng tự nhiên và không có gì
đáng trách. Nhưng rồi lợi ích của người này lại là tổn hại của người khác và cứ
như thế nhân rộng ra mà thế giới trở nên xung khắc hằn thù. Phải chăng còn một
cách khác ngược lại với thói quen của tôi - ấy là làm theo lời Chúa Jesus: yêu
mến kẻ thù nghịch của mình - để làm cho
thế giới này bớt thù hận, thêm thương yêu, giúp nhân loại sống hoà đồng hơn, có
ý nghĩa hơn?
Yêu mến kẻ thù
nghịch của mình có vẻ rất khó thực hiện. May thay, vẫn có thể có hành động này
nếu xét lời dạy này dưới cái nhìn của Bí Pháp Cao Đài. Đối với Bí Pháp Cao Đài,
đây là một động tác tuyệt vời để từ thế giới nhị nguyên bước vào thế giới nhất
nguyên kỳ ảo. Muốn yêu mến kẻ thù nghịch với mình thì phải hiểu rõ tình cảm thù
hận và yêu thương chỉ là một. Tại Đền Thánh Tây Ninh, đã có lời dạy của Đức Chí
Tôn về điều này: hai bên cửa vào Đền có tạc tượng Ông Thiện và Ông Ác, và chính
giữa hai tượng này là Cân Công Bình. Muốn bước vào Đền Thánh, tức là bước vào Bạch
Ngọc Kinh tại thế phải biết “cân” Thiện Ác cho bằng nhau. Hay nói khác đi, phải
hiểu Thiện Ác vốn không khác.
Tưởng cũng nên
nhắc lại chuyện Ông Thiện, Ông Ác để tiện tham khảo. Ông Thiện và Ông Ác vốn là
hai hoàng tử (Tỳ Văn và Tỳ Võ), con của một vị vua Ấn Độ. Ông Thiện tính tình
hiền lành hay thương yêu giúp đỡ mọi người; trái lại Ông Ác tính tình nóng nảy
rất dễ nổi giận. Cũng chính vì thế nên khi vua cha băng hà, vua cha nhường ngôi
lại cho Ông Thiện. Ông Ác biết được liền nổi giận vì cho rằng, với tính tình hiền
lành như thế, Ông Thiện sẽ không thể cai trị được dân trong nước. Thế nên Ông
Ác đi tìm Ông Thiện để bảo ông nhường
ngôi lại cho mình. Sợ nhường ngôi cho Ông Ác là trái với ý nguyện của cha, hơn
nữa sợ Ông Ác sẽ cai trị người dân quá hà khắc nên Ông Thiện bỏ trốn. Thấy thế,
Ông Ác bèn đuổi theo để giải thích. Đến một ghềnh đá cao, Ông Thiện sơ ý nên té
xuống vực chết. Ông Ác đến nơi, vô cùng hối hận nên cuối cùng cũng xuống tóc đi
tu theo cha.
Câu chuyện trên
là một dẫn đạo cơ bản để người học đạo có cái nhìn chính xác về Thiện Ác, Đúng
Sai. Nếu Ông Thiện, Ông Ác là hai anh em ruột, thì Đúng Sai cũng xuất phát từ một
gốc là nhận thức của từng cá nhân. Ông Thiện có lý do để không nhường ngôi lại
cho em. Ông Ác cũng có lý do khi muốn dành lấy ngôi vua. Không thể nói rằng ai
đúng hơn ai. Nói rộng ra toàn thế gian này, thì Đúng Sai; Thiện Ác cũng như thế.
Cân Công Bình nằm giữa cửa vào Đền Thánh không có nghĩa là phải đong đếm Thiện
và Ác cho bằng nhau mà ngụ ý tư tưởng của mỗi con người gồm có hai thành phần
như thế. Không thể xóa bỏ bất cứ một thành phần nào vì chúng vốn là anh em ruột.
Từ cái nhìn đó người học đạo Cao Đài sẽ
quen dần với khái niệm Thiện là Ác hay Đúng là Sai . Thế rồi trong một tích tắc phù du nào đó trong đời, người tu học
sẽ bừng ngộ chân lý trong câu truyện Ông Thiện, Ông Ác kia; lúc đó mới có thể
yêu mến được kẻ thù nghịch một cách tự nhiên bằng tình cảm nồng nàn của mình chứ
không phải yêu vì Chúa Jesus đã dạy như thế. Có như vậy thì mới đúng là làm
theo lời Chúa Jesus dạy.
* “Ai trong các ngươi là người vô tội …
“Bấy giờ, các thầy
thông giáo và người Pharisee dẫn lại cho chúa Jesus một người đàn bà đã bị bắt
đang khi phạm tội tà dâm; họ nói cùng Chúa rằng: Thưa Thầy, luật Moses dạy rằng
chúng ta phải ném đá những hạng người như vậy. Còn Thầy, Thầy nghĩ sao? Chúa
Jesus phán rằng: Ai trong các ngươi là người vô tội, hãy ném đá trước. Sau khi
nghe lời này, mọi người lần lượt bỏ đi.” (Tân Ước – Jean).
Phải xét bối cảnh
lịch sử lúc bấy giờ thì mới thấy hết ý nghĩa của câu truyện nói trên. Thời nào
cũng vậy, khi có một đấng cao trọng giáng thế thì loài người luôn luôn gây ra đủ
thứ thử thách khó khăn. Chuyện xưa vẫn kể rằng Phật Thích Ca bị các giáo sĩ Bà
La Môn vặn vẹo bắt bẻ không biết bao nhiêu lần. Chúa Jesus cũng vậy. Cụ thể là
người Pharisee. Đây là một hệ phái của người Do Thái xưa chủ trương thực hành
theo sát từng câu chữ trong cổ luật, cụ thể là luật Moses (Xin đọc Cựu Ước).
Nên biết rằng lúc bấy giờ số người tin tưởng Chúa Jesus rất đông và mọi người đều
xưng tụng Chúa Jesus là đấng Christ giáng sanh. Thế nên người Pharisee lợi dụng
câu truyện của người phụ nữ kia để tìm cách bắt bí Chúa Jesus. Nếu Chúa Jesus đồng
ý để họ ném đá người phụ nữ đến chết, thì Chúa cũng chỉ là người bình thường
như họ, không phải là đấng Christ. Nếu ngược lại thì Chúa chống lại luật Moses,
nghĩa là chống lại Đức Chúa Trời về mặt Đạo; về mặt Đời là chống lại dân tộc Do
Thái, đàng nào họ cũng có thể qui tội phạm luật cho Chúa.
Câu trả lời của
Chúa Jesus vừa cứu được người phụ nữ đáng thương kia vừa làm cho người Pharisee
thất bại thảm hại trong âm mưu hãm hại Chúa. Cũng giống như câu truyện kể ở phần
trên, câu trả lời của Chúa không phải chỉ đơn giản là một cách đối phó khéo
léo; đó chính là một bài học về đạo pháp rất quí giá mà Chúa Jesus muốn để lại
cho loài người.
Dựa vào triết lý
Cao Đài, chúng ta có thể hiểu rõ bài học này hơn. Theo Cao Đài , phần ý thức của
con người là phần bán hữu hình (hai phần kia là phần xác thịt và linh hồn). Ý
thức hoạt động theo nguyên tắc của vũ trụ; ấy là: Vô cực sanh Thái Cực, Thái Cực
sanh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng sanh Bát Quái … Lưỡng Nghi
chính là hai cực chấp nhận và phủ nhận của ý thức. Trong tình trạng phân hai,
nghĩa là chấp nhận và phủ nhận khác nhau, đối chọi nhau, thì đó là cuộc đời với
toàn thể những yếu tố sanh diệt, đau khổ, chết chóc …Nếu phủ nhận và chấp nhận
là một – nói theo ngôn ngữ thiền học cho chính xác hơn là “ Nếu phủ nhận và chấp
nhận chẳng phải hai mà cũng chẳng phải một,” thì đó là trạng thái người tu học
Cao Đài gọi là hiệp một với Đức Chí Tôn. Trong trạng thái này, con người có những
suy nghĩ, phán đoán thông suốt phi thường mà người xưa gọi là đoạt Đạo, ngộ đạo,
trí huệ đáo bỉ ngạn, thành Phật …vv.
Đức Chúa Jesus
đã dạy một bài học về Thái Cực. Lời Chúa phán khi ấy xuất phát từ trạng thái
Thái Cực, do đó đã thoát ra khỏi hai trạng thái phủ nhận và chấp nhận của Lưỡng
Nghi. Không chấp nhận mà cũng không phủ nhận luật Moses, lời Chúa đã ra ngoài
quĩ đạo của những hành vi tầm thường thế tục, nằm ngoài suy luận thông thường của
loài người.
Thế nhưng, cần
phải xác định rõ một điều để tránh ngộ nhận. Xin đừng cho rằng trạng thái không
phân hai (Thái Cực) là tốt hơn rồi phủ nhận trạng thái phân hai (Lưỡng Nghi), bởi
vì hành vi phủ nhận đó cũng chính là ý thức phân hai!! Ý thức phân hai thuộc về
đời, cho nên rất cần thiết trong đời sống thường nhật. Con người cần ý thức
phân hai để bảo vệ xác thân của mình. Ví dụ như tôi cần phải phân biệt rõ ràng
điều nào là nguy hiểm cho bản thân để tránh xa và ngược lại. Khi một xe tải
đang tiến thẳng đến chỗ tôi thì không cần thiết phải “dùng ý thức không phân
hai”. Hay khi bị tiêu chảy vì thức ăn nhiễm khuẩn thì một viên thuốc bao giờ
cũng hay hơn là “lý với lẽ”. Chỉ khi nào suy nghĩ đi vào chỗ cùng lý, thì Thái
Cực mới là cứu tinh đích thực.
* “Các
ngươi đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị
đoán xét. Vì các ngươi đoán xét người ta thể nào thì họ cũng đoán xét lại thể ấy…
Sao ngươi dòm thấy cái rác trong mắt anh em ngươi, mà chẳng thấy cây đà trong mắt mình?
Hỡi kẻ giả hình! Trước hết phải lấy
cây đà khỏi mắt mình đi, rồi mới thấy rõ mà lấy cái rác ra khỏi mắt anh
em mình được.” (Mathew)
Đây là lời dạy thuộc về tâm pháp (hay Bí Pháp nếu dùng ngôn
ngữ Cao Đài) của Chúa Jesus. Trước khi
bàn tiếp, thiển nghĩ nên định nghĩa lại danh từ Bí Pháp trong Cao Đài để làm nền
tảng cho những lý lẽ tiếp theo.
Bí Pháp, theo nghĩa thường dùng từ trước đến nay, là những phương pháp đặc biệt trong một tôn
giáo nào đó, chỉ truyền riêng cho một số người nhất định nhằm đạt mục đích của
việc tu hành. Chẳng hạn như những phương pháp ngồi thiền, tịnh tâm của các hệ
phái Phật Giáo ở Tây Tạng hầu như chỉ truyền cho một số đệ tử đặc biệt.
Nếu hiểu Bí Pháp
theo nghĩa này, thì trong đạo Cao Đài không có “Bí Pháp”. Đức Hộ Pháp nhiều lần
nói rằng Đức Chí Tôn đã bày bửu pháp tại thế gian cho con cái của Ngài tự do chọn
lựa. Vấn đề chỉ là con cái của Ngài muốn nhìn thấy hay không mà thôi. Trong những
bài thuyết đạo của mình lúc còn tại thế, Đức Hộ Pháp đã chỉ dạy rất cẩn thận về
danh từ Bí Pháp. Ngài dạy rằng đây là điều quan trọng trong kiếp tu hành và các
tín đồ Cao Đài phải tìm tòi để hiểu rõ những ẩn ý trong lời dạy của Ngài.
Danh từ Bí Pháp
trong Cao Đài không thể xác định bằng nghĩa đen của tự điển. Đây là một cách
dùng chữ đặc trưng của triết lý Cao Đài. Trước hết, Bí Pháp không tự thể hiện
mà thiếu Thể Pháp; nói cho rõ là khi và
chỉ khi Thể Pháp tồn tại thì mới có Bí Pháp. Bí Pháp và Thể Pháp vốn là một-mà-
hai-và-hai-mà-một. Vậy phải hiểu Thể Pháp trước khi muốn hiểu Bí Pháp. Thể Pháp
Cao Đài chính là những nghi thức tôn giáo có thể nhìn thấy và thực hiện được.
Nghi thức thờ phượng, kinh sách, giáo luật … tất cả đều là Thể Pháp. Ngoài ra,
Bí Pháp còn có ý nghĩa là nội dung của một hình thức bất kỳ. Theo nghĩa này thì
tất cả các lời dạy đạo của các đấng thiêng liêng đều có nội dung - nghĩa là Bí
Pháp. Bí Pháp có thể dễ hiểu; có thể khó hiểu. Có thể nhìn thấy ngay; có thể cả
đời cũng không nhìn thấy.
Khi một tín đồ
Cao Đài thực hiện bất kỳ một nghi lễ tôn giáo hằng ngày nào (nghĩa là Thể Pháp)
cũng là lúc Bí Pháp vận hành. Vì thế, quan niệm cho rằng khi nào thực hiện xong
phần Thể Pháp rồi mới vào Tịnh Thất để luyện Bí Pháp là không đúng. Thực sự mà
nói, vào Tịnh Thất thì điều kiện thể hiện Thể Pháp dễ dàng hơn lúc ở bên ngoài.
Trong Tịnh Thất người ta thu xếp sao cho môi trường yên tĩnh hơn, hạn chế những
ảnh hưởng của đời sống vật chất bên ngoài. Người học đạo chỉ còn tập trung vào
một chỗ duy nhất là vun bồi đời sống tâm linh.
Tuy nhiên, những
phương pháp các tín đồ thực hiện trong Tịnh Thất, nói cho cùng, cũng là vẫn là
Thể Pháp. Những phương pháp ấy vẫn còn liên quan đến phần nhục thân, nghĩa là
phần hữu hình có thể sờ mó ngắm nhìn … Bí Pháp là phần nằm ngoài suy luận bàng
bạc quyện theo Thể Pháp. Khi Thể Pháp được thực hiện đúng mức thì Bí Pháp vận
hành bên trong người học đạo và chỉ có duy nhất bản thân người ấy nhận biết điều
này.
Bây giờ xin trở
lại lời Chúa Jesus dạy: đừng phán đoán người; mà hãy phán đoán bản thân mình
trước. Đây chính là một pháp môn (cách tu tập) mà triết lý Đông Phương gọi là
“quán tâm”. Thông thường, tâm lý con người là thích nhận xét về người khác. Những
nhận xét ấy đa số là nói về khuyết điểm; nếu có nói về ưu điểm đi nữa thì cũng
chỉ là gượng ép. Đây là bản chất tự nhiên của loài người. Để tự vệ, ý thức con
người luôn luôn phóng ngoại, truy tìm những yếu tố tiềm ẩn sự nguy hiểm cho bản
thân mình. Nếu phát hiện điều gì có thể ảnh hưởng xấu đến bản thân, ý thức sẽ
tìm phương né tránh, chống đỡ hoặc tấn công đối tượng. Có thể thấy rõ điều này
qua các mối giao tiếp của con người trong xã hội hoặc một phóng ảnh của xã hội
là thế giới hiện nay. Người ta lo sợ một ngày kia, ngoại bang sẽ xâm chiếm nước
mình, chiếm đoạt tất cả những của cải tài nguyên của dân tộc mình, do đó người
ta lập ra quân đội. Và theo “cái-gọi-là-binh-pháp” thì: tấn công là cách phòng
thủ hay nhất(!).Cho nên, người ta đem
bom đạn ném xuống đất nước của người khác; không đợi đến khi bị tấn công! Thử
tưởng tượng một chút, nếu tất cả các quốc gia trên thế giới này đều có khả năng
tấn công quân sự như nhau và đồng loạt áp dụng cái tư tưởng binh pháp quái đản
kia, thì quả địa cầu 68 này sẽ ra sao?
Chúa Jesus dạy
phải làm ngược lại điều đó; nghĩa là phải tự nhìn lại bản thân, tự nhận xét bản
thân thay vì bươi móc những khuyết điểm của người khác. Khi nhìn ra mình cũng
có những khuyết tật tâm hồn như bao người thì cõi lòng sẽ mở rộng, dễ tha thứ.
Những tình cảm tích cực, đẹp đẽ tích lũy trong tâm hồn ngày một nhiều sẽ giúp
cho con người sống có ý nghĩa. Thế giới sẽ bớt phần bạo tàn, địa cầu 68 sẽ chuyển
hóa thành một thế giới khác đáng sống hơn nhiều. Vậy, hãy nghe lời chúa Jesus
“lấy cây đà trong mắt mình để thấy rõ
hơn trước khi lấy rác trong mắt anh em mình”.
Thúc
Những lời dạy của chúa Jesus, cũng như các vị giáo chủ khác như Đức Phật Thích Ca, Đức
Lão Tử vv … luôn chứa đựng những ý nghĩa sâu xa. Nếu dùng thuật ngữ của
Cao Đài thì: lời của các bậc giáo chủ dạy luôn hàm chứa Bí Pháp. Vấn đề của tín
đồ Cao Đài hiện nay, thiết nghĩ, nên tập trung tìm học những ý nghĩa của triết
lý mênh mông trong Cao Đài Giáo, rồi đem ra thực hành trong đời sống thường
ngày. Mong sao qua đó Đức Chí Tôn thương tình ban ân cho trí não được phát triển
phần nào. Tóm lại, hãy lo lấy cây đà trong mắt mình, đừng bận tâm đến “ông này
tu thiệt, bà kia tu giả, tôi tu đúng, anh tu sai nữa”. Bởi vì một kiếp người suy ra vô cùng ngắn ngủi, có khi chưa
kịp làm được chút gì thì đã phải phủi tay!
* TỪ CHƠN
Sài gòn, Giáng Sinh 2007
Bản
revised Giáng Sinh 2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét