Phần
thứ nhứt . CUỘC DU HÀNH QUA ĐÀI LOAN
Ngày mùng 1-8-Giáp Ngọ (dl 28-8-1954)
Sau 10 ngày ở Sài gòn, Văn phòng Chánh Trị Đạo,
kể từ ngày 20-7-Giáp Ngọ, để lo cả giấy tờ cho Phái đoàn sang Đài Loan, chỉ đến
ngày mùng 1-8-Giáp Ngọ mới lên máy bay.
Nhộn nhịp thay từ buổi chiều ngày 30-7-Giáp
Ngọ, Chức sắc Phước Thiện , vài vị Chức sắc Thiên phong Hành Chánh và Sĩ quan Quân đội đến
Sài gòn
để tiễn đưa Đức Ngài cùng cả Phái đoàn lên máy bay.
để tiễn đưa Đức Ngài cùng cả Phái đoàn lên máy bay.
Phái đoàn được chọn cử sang Đài Loan gồm có :
A. Phía Huê nhơn :
- 1. Ông Hứa văn Hiệp :
Cựu Đại Tá Quốc Dân Đảng, khi trước có ở Tòa Thánh làm Cố Vấn Đường Nhơn và Tùy Viên Tự Vệ V.N.P.Q.H. và hiện nay là
Cố Vấn Quân Sự cho Tỉnh Trưởng Châu Đốc.
- 2 . Ông Yu Kia Ling : Đạo Hữu Huê nhơn, học lực Thạc
sĩ ở Pháp về, liên lạc viên giữa Chánh phủ Đài Loan và Đức Hộ Pháp.
- 3 . Ông Hiền Tài Trương lê Đông ở Chợ Lớn.
- 4 . Ông Giáo Hữu Ngọc Trôi Thanh : Phái Đường nhơn ở
Hội Thánh Ngoại Giáo.
- 5 . Ông Ông-Dình : Một thương gia Huê kiều.
- 6 . Ông Lao trọng Thăng : Một Giáo viên Huê kiều ở
Chợ Lớn đi theo với phận sự Thơ Ký cho Phái đoàn.
B. Phía người Bổn quốc :
Gồm có :
- 7 . Cô Giáo Hữu Phạm Hương Tranh : góp phần ăn uống
cho Đức Ngài.
- 8 . Lễ Sanh Thượng Minh Thanh : Đại diện Cao Đài Giáo
ở Pháp quốc.
- 9 . Giáo Nhi Ngự : phụ sự cho Cô Tư (Giáo Hữu Phạm
Hương Tranh).
- 10 . Sĩ Tải Bùi quang Cao : là Thơ Ký, vừa là Nhiếp
ảnh viên cho Phái đoàn.
Sau bữa tiệc thân mật và
vui vẻ do Hội Thánh Huê nhơn tổ chức tại Văn phòng Chánh Trị Đạo 107 Trần Hưng
Đạo, để thết đãi tiễn đưa Đức Ngài cùng Phái đoàn và để mời đáp chư vị Lãnh Sự
Trung Hoa ở Sài gòn, vì nơi Lãnh Sự Quán vài hôm trước đã có thết tiệc đãi cả
Phái đoàn trước khi lên đường sang Đài Loan.
Tiệc vừa tan lúc 10 giờ
đêm. Vị Tổng Lãnh Sự Đài Loan cho tin rằng : Hiện nay không phận Đài Loan có
bão nên chưa thể định chắc giờ máy bay sang Đài Loan được, mặc dầu đã có một
chiếc máy bay 2 động cơ chực sẵn để rước Phái đoàn sang Đài Loan, đã đến phi
trường Tân Sơn Nhứt ngay chiều ngày 29-7-Giáp Ngọ.
Đúng 8 giờ sáng ngày mùng
1-8-Giáp Ngọ, Lãnh Sự Quán Đài Loan cho hay rằng bão đã yên, Đức Ngài có thể đi
lúc nào cũng được, từ 8 giờ đến 11 giờ mơi. Lập tức cả Phái đoàn sửa soạn để
lên phi trường.
Chức sắc Nam Nữ Hành
Chánh, Phước Thiện lối 20 vị cùng Sĩ quan ở Sài gòn đồng đến phi trường để tiễn
đưa và đoàn xe đến phi trường lúc 9 giờ 20, đình lại phi trường để chờ ghi giấy
tờ xuất ngoại và chờ Ông Yu Kia Ling đến trễ. Mãi đến 11 giờ 15, Đức Ngài cùng
Phái đoàn mới lên máy bay.
Đây là một chiếc máy bay 2
động cơ của Hàng Không C.A.T. (Civil Air Transport) do lịnh của Chánh phủ Đài
Loan để dành riêng chở Đức Ngài và Phái đoàn sang Đài Loan. Máy bay quay nhè
nhẹ và chạy đến đầu sân để rồ máy kiểm điểm lại máy móc trước khi cất cánh.
Song sau hơn 5 phút rồ máy, phi công lắc đầu tỏ vẻ thất vọng, nhìn giờ và nói
rằng : máy bay có chút trục trặc, không hoàn toàn êm thấm và hiện giờ đã trưa,
nên quanh lại chỗ đậu cũ và đề nghị để hôm sau sẽ đi sớm là tiện hơn và có đủ
thời giờ sửa chữa máy móc lại cho kỹ càng hơn.
Đức Ngài và Phái đoàn phải
trở xuống và đi xe hơi về Văn phòng 107 để chờ hôm sau.
Cảm động hơn hết là vị
Tổng Lãnh Sự Đài Loan , một người đã 60 tuổi, bị bịnh tê hết nửa thân người mà
vẫn chống gậy ráng sức đến phi trường để tiễn đưa Đức Hộ Pháp cũng vẫn ở lại
phi trường để chờ máy bay cất cánh xong mới chịu trở về. Ông vẫn đứng chống
nương nơi cây gậy để chờ mãi, chờ chẳng thấy máy bay cất cánh bay lên. Chức sắc
đi đưa thấy vậy bảo Ông nên ngồi nghỉ hay cứ về trước nghỉ ngơi kẻo đứng lâu
mệt nhọc. Ông đáp rằng Đức Hộ Pháp tuổi già hơn tôi mà còn lặn lội đi lo việc
nước, còn tôi có lẽ nào không ráng đợi để đưa Đức Ngài đi, và khi máy bay cất
cánh xong, tôi sẽ về, như vậy mới thật yên lòng.
Khi trở lại để ra xe, Đức
Ngài rất cảm động trước cử chỉ của vị Tổng Lãnh Sự và Đức Ngài cùng Phái đoàn
về đến 107 Trần Hưng Đạo đúng 12 g trưa và nghỉ đến
hôm sau.
Ngày 2-8-Giáp Ngọ (dl
29-8-1954)
Sáng sớm Đức Ngài và cả
Phái đoàn sắp sửa lên phi trường. Lần nầy cũng còn các vị Chức sắc Phước Thiện,
Hành Chánh và Sĩ quan Quân đội đến phi trường tiễn đưa.
Chiếc phi cơ 2 máy hôm qua
đã đến chực sẵn tại cửa vào sân. Sau vài phút ghi các giấy tờ, Đức Ngài lên máy
bay lúc 8 giờ 15. Máy bay chạy đến đầu sân, rồ máy và từ từ cất cánh. Sau vài vòng
đảo lộn quanh Sài gòn, phi cơ trực chỉ về phía đông bay thẳng. Đây là một phi
cơ hàng có băng bằng vải ngồi hai bên hông. Tuy không có ghế dựa và bàn thấp
hay hòm như các phi cơ 6 máy của hãng Air France sang Pháp, nhưng cũng có phần
giản tiện gọn ghẻ. Máy bay bay đều đều êm ái chở vỏn vẹn Phái đoàn, chẳng có
một hành khách lạ nào, mặc dầu có đến 35 chỗ ngồi, mà chỉ ngồi lơ thơ có 11
người thôi. Phi cơ lướt qua, dòm xuống thấy sông Sài gòn uốn khúc, nhóm chợ Lái
Thiêu, cầu xe lửa, nhà cửa quay tròn và từ từ mù mù đến không còn thấy rõ được
nữa khi máy bay đã lên cao.
Sau nửa giờ ngồi dựa vào
các tấm băng vải, Đức Ngài hơi mệt nên nằm xuống dãy băng, rồi lần lượt cả Phái
đoàn đều nằm dài theo băng để nghỉ.
Máy bay bay càng lúc càng
cao đến 9 ngàn thước, như lời của các phi công đã nói, bay ngang Quảng Ngãi,
rồi thẳng tới Đài Loan, chẳng ghé Hồng Kông. Vì gió xuôi, máy bay thêm tốc lực,
bay tránh xa đảo Hải Nam, lướt trên không phận biển Đại Thanh. Nơi đây dòm
xuống chỉ thấy mây trắng lơ thơ nổi trên biển màu xanh ngắt chấp chóa mịt mù.
Sau 4 giờ, máy bay vẫn bay
đều đều và bỗng gặp mưa lớn, máy bay tròng trành, nhảy lên nhảy xuống như tàu
nhảy sóng lớn, Cô Tư rất sợ sệt vì đi lần đầu tiên không quen bị nhảy nhồi như
thế và chỉ trong vài phút lướt qua khỏi chỗ mưa và mây dầy, máy bay trở lại êm
ái. Trời trong, mây thưa và dòm xuống chỉ thấy biển xanh mịt mờ vô tận.
11 giờ trưa, Phái đoàn ăn
sáng trên máy bay bằng bánh mì với fromage trái cây và uống nước suối đã đem
theo.
Đây rồi, hiện xa xa có đất
liền và một vài đảo xám đỏ nổi lên giữa biển xanh xanh ngát. Đây Trân Châu đảo,
kìa xa xa có vài cụm đảo, và đúng 3 giờ rưỡi, máy bay hạ dần thấp xuống và
quầng phi trường Đài Bắc. Vừa đáp xuống phi trường, một nhóm người chừng đôi
mươi có dựng một biểu ngữ đỏ viết chữ Việt màu trắng đón tại sân.
Máy bay ngừng, Đức Ngài từ
từ bước xuống.
Tôi đã lanh chân xuống
trước để quay phim. Các Đại diện Chánh phủ, Ngoại Giao Bộ và Việt kiều ở Đài
Loan đến đón tiếp Đức Ngài. Tấm biểu ngữ tiếng Việt " HOAN NGHINH ĐỨC GIÁO CHỦ ĐÀO CAO ĐÀI " phất phơ giữa
nhóm người lăng xăng bao chung quanh Đức Ngài. Sau khi đến nhà hàng tại phi
trường , các nhiếp ảnh viên theo chụp ảnh không ngớt và các phóng viên nhà báo
đến phỏng vấn. Đức Ngài tuyên bố mục đích của cuộc du hành bằng tiếng Pháp và
một vị trong Bộ Ngoại Giao thông ngôn lại bằng tiếng Tàu.
Ba chiếc xe đậu chực sẵn
tại cửa, rước Đức Ngài và Phái đoàn về chỗ nghỉ. Đoàn xe 4 chiếc chạy qua Kinh
thành Đài Bắc, qua một đồng ruộng đến một chợ nhỏ, rồi khởi đầu leo lên dốc núi
lối 30 phút sau, xe chạy quanh quẹo theo dốc núi rồi đậu lại trước một ngôi nhà
mát ẩn trong kẹt núi giữa rừng cây cối um tùm sát bóng nhà. Đây là nơi nhà trọ
của Phái đoàn , gọi là Chiêu Đãi Sở của Tổng Thống ở Dinh Bắc Đầu trong dãy núi
Dương Minh Sơn.
Đức Hộ Pháp vào phòng nghỉ
và các nhân viên trong Phái đoàn mỗi người đều có phòng riêng, lúc ấy đã 6 giờ
chiều. Sau khi đã để đồ đạt xong và tắm rửa nghỉ ngơi, Đức Ngài mới khởi đi dạo
chung quanh nhà trọ.
Đây là ngôi nhà nghỉ mát
của Tưởng Tổng Thống, kiến trúc theo lối Nhựt, mái thấp, sàn cây, song rất ngăn
nắp, mỹ thuật, để rước những người tri kỷ. Trước nhà là một khe suối nước chảy
róc rách ngày đêm. Một chiếc cầu cây xinh xắn bắc qua khe suối nước trong xanh,
rồi bước lên vài bực đá thiên nhiên lót lại để bước vào nhà.
Vào trong, các người trong
Phái đoàn phải cổi giày để mang dép lào đi trên sàn, đến phòng khách đèn điện
sáng trưng, ta đã thấy lối bày trí nửa Nhựt nửa Âu với bàn ghế và sàn cây, các
phòng có cửa đẩy lắp kiếng và mành mành để đón muỗi. Đức Ngài ở nơi phòng số 1
rộng rãi, bên hông là một ngọn suối lớn, nước đổ rì rào theo kẹt đá như tiếng
trời mưa, cây cối um tùm gần như che kín cả dãy nhà, de nhánh đến tận cửa, một
bầu không khí yên lặng vắng vẻ, ngoài ra chỉ còn tiếng suối chảy ồn ào, và nhạc
sành, ve kêu văng vẳng mà thôi.
Ra đường dòm lại quang
cảnh nhà ở giữa hai sườn núi cao dốc không thấy bóng nhà. Nhà trọ dường như ẩn
trong kẹt đá, bị cây rừng che khuất , thật là một nơi đẹp đẽ thiên nhiên, một
nơi khi bước vào có cảm giác rằng đã lọt vào một thạch động u tịch trang nghiêm
mà người tu hành vào đây để tịnh luyện.
Đêm đến, một bữa tiệc chay
tại nhà trọ do Viên Ty Trưởng và Lệ Ty Trưởng chiêu đãi. Viên và Lệ là 2 nhân
viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao, phụ trách về xã giao và chiêu đãi, cùng vài
nhân viên có phận sự thường trực với Phái đoàn.
Bữa tiệc xong, sau nửa giờ
đàm luận, Viên Ty Trưởng và Lệ Ty Trưởng cáo biệt, chỉ còn lại 2 nhân viên đặc
phái bên cạnh Phái đoàn. Ông Jou Tchen Kao (Nhuế Chánh Cao) thông ngôn tiếng
Pháp ra tiếng phổ thông , Ông Bành, chuyên viên lo xã giao với các cơ quan đoàn
thể bên ngoài khi Phái đoàn cần đến.
Đức Ngài vào nghỉ và cả
Phái đoàn đều ngủ ngon lành đến sáng, sau trọn ngày trên máy bay mệt nhọc, trừ
ra Cô Tư và em Ngự không quen đi máy bay nên có vẻ mệt nhiều.
Ngày 3-8-Giáp Ngọ (dl
30-8-1954)
Sáng ngày điểm tâm xong
tại nhà trọ, Đức Ngài và Phái đoàn khởi đầu từ 9 giờ 30 đến viếng Hành Chánh
Viện Trưởng Hồng Quân (Thủ Tướng) tại Tổng Thống Phủ. Đức Ngài được tiếp đón và
hầu chuyện rất niềm nở trong nửa giờ, xong Đức Ngài kiếu từ để viếng Ngoại Giao
Bộ.
10 giờ, Đức Ngài ra xe đến
Ngoại Giao Bộ, hội đàm cùng Bộ Trưởng Diệp Công Triệu trong 1 giờ.
11 giờ, Đức Ngài viếng Bộ
Nội Chánh, hầu chuyện cùng Bộ Trưởng Vương Đức Phổ.
12 giờ, Đức Ngài trở về Chiêu
Đãi Sở, dùng bữa trưa đúng 1 giờ .
4 giờ chiều, viếng Phó
Tổng Thống Trần Thành tại nhà tư. Ông Trần Thành tiếp đãi rất trọng hậu và có
mời dùng đồ ngọt.
5 giờ chiều, Đức Ngài trở
lại Tổng Thống Phủ viếng Tổng Tham Mưu Trưởng Bành Mạnh Tập chừng nửa giờ, có
chụp hình chung.
5 giờ 40, Đức Ngài đến
viếng Bí Thư Trưởng Trương Quân của Tổng Thống taiï Phủ Tổng Thống.
Đến 6 g 20, ra xe về nhà trọ. Đến mỗi nơi, cuộc tiếp rước
vẫn tỏ ra một cách long trọng kính nể và cuộc đàm luận rất tâm đầu ý hiệp, thật
là tương đắc.
Mặc dầu Đức Ngài không nói
được tiếng Tàu, chỉ nói tiếng Pháp và nhờ Ông Jou Tchen Kao (Nhuế Chánh Cao) ở
Bộ Ngoại Giao thông ngôn lại bằng tiếng phổ thông Trung Hoa, mỗi nơi đều có
quay phim ít nhiều để kỷ niệm.
Ngày 4-8-Giáp Ngọ (dl 31-8-1954)
Sáng dậy sớm, điểm tâm
xong tại nhà trọ, Đức Ngài và Phái đoàn đi viếng Trung Liệt Tự và Văn Miếu
Khổng Tử theo như chương trình của Bộ Ngoại Giao đã sắp đặt.
Ngộ nghĩnh một điều là từ
ngày Đức Ngài và Phái đoàn đến Đài Loan, Bộ Ngoại Giao Đài Loan rất lo lắng để
tiếp đãi Đức Ngài. Họ đã sắp đặt sẵn một chương trình đi thăm viếng các nơi, từ
ngày mới đến cho tới ngày 11-9-1954, trong 10 hôm. (Vì lúc mới sang Đài Loan,
Đức Hộ Pháp dự bị ở Đài Loan 10 ngày). Mỗi ngày, để có sắp đặt giờ và nơi đi
viếng, chương trình ấy được Bộ Ngoại Giao in ra nhiều bổn, phát lại cho các
nhân viên có phận sự chiêu đãi Phái đoàn và mỗi người trong Phái đoàn đều biết
cả.
Hôm nay, 9 giờ đến viếng
Trung Liệt Tự.
Khởi hành từ 8 giờ ở nơi
Chiêu Đãi Sở, Đức Hộ Pháp cùng Ông Jou Chuyên viên Ngoại giao Bộ và tôi (Sĩ Tải
Cao) đi trên chiếc xe Lincoln đen số 15-0001 (12 máy) có cắm cờ Đài Loan và cờ
Đạo Cao Đài gác tréo trước đầu xe, chiếc xe nầy mang số 0001 là chiếc xe mang
số đầu tiên ở đảo Đài Loan, số 15 là số đặc biệt của Tỉnh Đài Loan, Chánh phủ
Đài Loan dụng ý muốn chiêu đãi Phái đoàn một cách đặc biệt , nên dùng chiếc xe
mang số 0001 ấy dành riêng cho Đức Ngài đi, mặc dầu xe ấy có hơi cũ song máy
vẫn còn rất tốt, còn 2 chiếc xe Ford cho nhân viên đoàn tùy tùng thì là xe Location
do Chánh phủ mướn của hãng Phi Long, dành riêng cho Phái đoàn .
Xe mỗi lần đi là phải đến
Châu Thành Đài Bắc, từ nhà trọ đến Châu Thành phải mất hơn nửa giờ , vì phải
xuống một đoạn đường núi quanh quẹo nguy hiểm, như lên xuống đèo Blao ở Đà Lạt,
hai bên đường thỉnh thoảng cũng có xóm nhà ở vài nơi, người ta đào đất và đá
trong núi để lấy chất lưu huỳnh dùng làm thuốc súng, thật là một thổ sản dồi
dào, chất ấy lộn trong đất đá, có cả núi nho nhỏ đầy những chất ấy, đi ngang
qua đây có một mùi tanh tanh nặng mùi khó chịu xông lên từ các lò hầm ấy.
Hai bên triền núi, dân Đài
Loan ban đất ra thành ruộng ven từng cấp, ruộng ấy giữ nước lại được nên lúa
vẫn tốt, xanh mướt, mặc dầu ở triền núi cao có hơn 400 hoặc 500 thước. Xe xuống
hết dốc núi đến một chợ nho nhỏ, một Châu Thành ngoại ô kinh đô Đài Bắc "Bắc Đầu ", tiếng Tàu gọi là "Pế Thầu", chạy ngang qua một
đồng ruộng lúa xanh tươi vừa sức bén. Nơi đây, ruộng phần nhiều rất ít nước, bờ
đê ngay thẳng, lúa không cao lắm, nhưng mà lúa xanh rì đều đều, không chòm cao
chòm thấp. Xa xa có xóm nhà mái thấp lợp ngói âm dương hay ngói xi măng, là đà
ẩn trong chòm cây rậm hay trong lũy tre xanh. Phong cảnh nầy mường tựa bên ta,
như các cánh đồng ruộng miệt Phú Lâm, An Lạc (Chợ Lớn) vậy. Xa xa là dãy núi
không cao lắm, chạy dài bao bọc Đài Bắc, Kinh đô của Đài Loan, hay nói rõ hơn
là Kinh đô của Trung Hoa Dân Quốc Tự Do, lưu vong đến Đài Bắc, một Kinh thành
không lớn hơn Châu Thành Sài gòn Chợ Lớn, mà có phần kém hơn, đường sá có phần
chật hẹp, không trật tự, chỉ có số ít đại lộ có trồng cây da, xem ra phố xá
trệt có phần lộn xộn, một vài phố có đôi từng lầu như Chợ Lớn. Đi trong phố, ta
tưởng tượng như đi trong Chợ Lớn, ồn ào, rộn rịp, xe cộ lăng xăng, song ít hơn
Chợ Lớn nhiều. Xe hơi toàn hiệu Huê Kỳ và Nhựt Bổn, xe lôi đạp kiểu xưa, xe máy
kiểu Nhựt, một vài chiếc mô tô. Đài Bắc, Kinh đô của Đài Loan, trước kia bị
Nhựt lấy làm thuộc địa hơn 50 năm, sau khi đầu hàng Đồng Minh, mới trả lại cho
Trung Hoa, và Đài Loan là một Tỉnh của nước Tàu. Vì cớ, dân Đài Loan chịu ảnh
hưởng của Nhựt nhiều hơn Trung Hoa. Từ cách ăn mặc theo lối Âu Mỹ, sự kiến trúc
theo lối Nhựt, nhưng cách bày trí hỗn tạp vẫn còn giống theo người Tàu.
Đoàn xe đến Trung Liệt Tự,
là nơi làm Đền thờ và Đài Kỷ niệm Chiến sĩ Trận vong Trung Hoa Dân Quốc. Đài
nầy dựng ở dưới chơn núi, một chỗ thanh tịnh rộng rãi uy nghiêm. Một Đài dựng
cao vọi giữa sân rộng, có trồng cây kiểng lạ, hoa cỏ xanh tươi, ghi công ơn của
các Chiến sĩ Trận vong, và bên trong có một ngôi Đền nhỏ, sáng sủa, sơn son
phết vàng mỹ thuật, bày trí theo lối Tàu, thờ bài vị Chư Chiến Sĩ Trận vong.
Đức Ngài vào thay áo đạo trắng , đội mão Tam Quang trắng, bước lên đài đảnh lễ.
Dài theo sau có Phái đoàn. Làm lễ xong, Đức Ngài lui ra và đi vòng quanh xem
qua phong cảnh. Tôi quay phim xong quang cảnh đền đài, rồi Đức Ngài và Phái
đoàn ra xe chạy đến Văn Miếu Khổng Tử.
Xe chạy quanh quẹo trong
Châu Thành một đổi rồi ngừng trước một cửa ngõ cổ. Bên trong, xa xa có một tòa
Miếu cổ, các vòm mái uốn cong vẻ cổ kính. Đó là Văn Miếu Đức Khổng Tử.
Đức Ngài vào cửa ngõ, đi
qua một khoảng vườn, vào một cửa ngõ nữa, trong nền sân rộng có một Tòa Văn
Miếu rộng rãi cất theo lối xưa của Tàu, mái ngói âm dương uốn cong lên, các cây
cột chạm trổ sơn son phết vàng, xem rất uy nghi. Hai phía đều có Đông lang Tây
lang, Hậu Điện và nhà ngang bao vi, chính giữa là Điện Chánh.
Đức Ngài được rước vào Nhà
Khách, dùng trà và vài phút sau, Đức Ngài thay đồ Tiểu phục, mang Dây Sắc lịnh,
đội mão, lên làm lễ Đức Khổng Phu Tử. Ông Giáo Hữu Trôi mặc Đại phục đỏ đứng
tiếp theo sau, và trong những bàn thờ, bài vị bày trí lộng lẫy với đồ chạm trổ
sơn son phết vàng.
Đức Ngài làm lễ xong rồi
trở xuống Nhà Khách thay đồ và tiếp chuyện cùng Ban Quản trị nơi Miếu độ nửa
giờ. Xong Đức Ngài đi viếng chung quanh Văn Miếu, ra sau vườn, có hồ sen, một
chiếc cầu nhỏ bắc qua giữa hồ, vài cây đa cổ thụ buông rễ lơ thơ xem rất u nhàn
rộng rãi, mặc dầu ở trong châu thành chật hẹp. Xong Đức Ngài gởi cúng hành
hương 1000 đồng và ra xe đến Kiều Ủy Hội viếng Ông Ủy Viên Trưởng Trịnh nhan
Phân, kế tiếp đến Trung ương Đảng Bộ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng.
12 giờ, Trung Ương Đảng Bộ
thết tiệc chiêu đãi Đức Ngài cùng cả Phái đoàn.
Buổi chiều trở về nghỉ
trọn buổi ở Chiêu Đãi Sở, Dinh Bắc Đầu. Nơi Chiêu Đãi Sở đặc biệt có thứ nước
nóng tự nhiên, Tàu gọi là Lưu hoàng thủy, từ trong suối chảy ra gọi là Ôn
Tuyền, dẫn đến nhà nghỉ, cho chảy vào hồ để tắm. Nước nầy không nóng lắm, chảy
luôn ngày đêm, tắm rất khoan khoái và khỏe khoắn.
Ngày 5-8-Giáp Ngọ (dl
1-9-1954)
Hôm nay, sáng dậy sớm để
điểm tâm và đúng 8 giờ xe đến rước Đức Hộ Pháp và Phái đoàn đi viếng Xưởng Cơ
Khí số 44 của Quân đội Đài Loan. Xe chạy vòng quanh Đài Bắc và ra đến chân núi.
Một dãy Cơ xưởng nổi hiện lên giữa nhà dân chúng. Nơi đây có vị Tướng quan
chưởng quản và 2 vị Tá quan đến dẫn giải Lịch sử của Xưởng và các món khí giới
chế tạo tại Xưởng như súng bắn hỏa tiễn, bích kích pháo, súng liên thanh hạng
nặng, hạng nhẹ, súng trường nổ liên tiếp kiểu Carbine Mỹ, vv ... Vị Tướng quan
dẫn giải các vị trí của Xưởng xong, Ông đưa Phái đoàn đi xem từng dãy một, mỗi
nơi làm một bộ phận. Những loại súng đều do nơi đây chế tạo ra . Các hỏa tiễn
cũng do nơi đây làm ra. Máy móc tối tân do Mỹ viện trợ, nhơn công đều do thợ
chuyên môn Đài Loan. Sự sản xuất mau chóng, máy móc tối tân. Cả thảy đều chăm chỉ
vào công việc.
Trung Hoa Tự Do đã giác
ngộ rất nhiều trên đường kiến thiết để mưu đồ khôi phục Đại lục, đến nỗi Đức
Ngài xem rất chăm chú và không ngớt khen ngợi. Xem các nơi xong xả, các vị Sĩ
quan mời Đức Ngài xem bắn thử hỏa tiễn, Mortier và súng liên thanh. Cả thảy đều
nổ dòn, không lép một trái hay một viên nào cả.
Mãi gần đến 12 giờ , Đức
Ngài mới để lời cám ơn và từ giã Đệ tứ thập tứ Binh Công Xưởng để về Đài Bắc
dùng tiệc do các tôn giáo thết đãi, nơi đây có mặt các Đại diện các Tôn giáo
như : Phật giáo, Nho giáo, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo.
Mỗi vị Đại biểu đọc một
diễn văn chúc mừng sự có mặt của Phái đoàn Cao Đài sang Đài Loan trong buổi
nầy.
Khi đọc dứt các bài diễn
văn, Đức Ngài đứng lên đáp từ và để lời dẫn giải sự hiệp đồng tinh thần thống nhứt
các nền tôn giáo để đem lại sự thương yêu và hạnh phúc cho nhơn loại. Một tràng
pháo tay vang dậy sau lời đáp từ của Đức Ngài.
Bữa tiệc gồm cả chư vị
khách quí, vị Phật sống Tây Tạng, như Cụ Bạch Sùng Hy, các vị Bộ Trưởng có Đạo,
vv... kéo dài đến 2 giờ mới ra về Dinh Bắc Đầu.
Đến 3 giờ, Đức Ngài cùng
Ông Minh, Ông Hiệp, Ông Jou và tôi đến viếng Ông Trịnh giới Dân tại nhà tư.
6 giờ, Đại Tướng Lý Mi mời
Đức Ngài, Yu Kia Ling, Ngô khai Minh và Hứa văn Hiệp dùng cơm tại tư thất.
Ngày 6-8-Giáp Ngọ (dl 2-9-1954)
Hôm nay, theo chương trình
đi viếng ở Đài Nam. Cả Phái đoàn điểm tâm sớm và sắp soạn hành lý để ra phi
trường đáp máy bay xuống Đài Nam, chỉ trừ Cô Tư (Giáo Hữu Phạm Hương Tranh) và
em Ngự vì bịnh nóng lạnh từ hôm đến, nên phải ở lại Chiêu Đãi Sở.
Hai nhân viên Ngoại Giao
Bộ : Ông Jou và Ông Bành đều đến nhà trọ rước Phái đoàn đến phi trường Đài Bắc.
Đến nơi, có chiếc máy bay quân sự 2 máy đậu sẵn chực rước Phái đoàn. Sau khi
sắp đặt hành lý xong xả, đúng 10 giờ 15, máy bay khởi hành. Sau vài vòng lượn
trên châu thành Đài Bắc, máy bay trực tiến về phía Nam. Máy bay bay không cao
lắm, chỉ lối trung bình 1400 thước, bay dọc theo bờ biển của đảo, dòm xuống
thấy rõ rệt núi non trùng trùng một bên, còn một bên bờ biển quanh co, sóng
nhấp nhô đập vào bãi trắng xóa.
Đây là một chiếc phi cơ
nhà binh sơn màu xám đất, có vẽ cờ Trung Hoa Tự Do, dành riêng để đưa Phái đoàn
đi Đài Nam. Trong 50 phút bay êm thắm, dòm xuống đã thấy lố nhố chợ Đài Nam và
chợ Cao Hùng. Máy bay quầng sân một vòng rồi đáp xuống phi trường quân sự. Nơi
đây đã có rất nhiều vị Sĩ quan Hải, Không và Lục Quân đón rước. Một Tiểu đội
Phản Lực cơ bay 3 vòng chào mừng Đức Ngài và đưa Đức Ngài vào xem tổ chức huấn
luyện phi công của Không Quân Trung Hoa sử dụng phi cơ phản lực.
Ngó ra phi trường , xa xa
những chiếc phi cơ phản lực nhỏ đậu dài theo bìa sân. Các Sĩ quan đưa Đức Ngài
vào xem các phòng tổ chức huấn luyện Không Quân do các Cố Vấn Mỹ điều khiển,
vào nơi công xưởng lắp ráp và sửa chữa máy bay phản lực, các chuyên viên Trung
Hoa đã tự ráp và sửa lấy những máy móc tối tân do Mỹ viện trợ.
Viếng các nơi xong, 3
chiếc xe có số thứ tự sẵn chờ rước Đức Ngài và Phái đoàn đưa đến Tả Dinh, một
căn cứ Hải Quân Trung Hoa trụ tại Chiêu Đãi Sở "Tứ Hải Nhứt Gia"
Nơi đây một bữa tiệc trưa
thết đãi Đức Ngài do Tổng Tư Lệnh Hải Quân thết đãi, có các Sĩ quan cao cấp
tham dự.
Đêm đến, một bữa tiệc chay
tại nhà trọ do Viên Ty Trưởng và Lệ Ty Trưởng chiêu đãi. Viên và Lệ là 2 nhân
viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao, phụ trách về xã giao và chiêu đãi, cùng vài
nhân viên có phận sự thường trực với Phái đoàn.
Bữa tiệc xong, sau nửa giờ
đàm luận, Viên Ty Trưởng và Lệ Ty Trưởng cáo biệt, chỉ còn lại 2 nhân viên đặc
phái bên cạnh Phái đoàn. Ông Jou Tchen Kao (Nhuế Chánh Cao) thông ngôn tiếng
Pháp ra tiếng phổ thông , Ông Bành, chuyên viên lo xã giao với các cơ quan đoàn
thể bên ngoài khi Phái đoàn cần đến.
Đức Ngài vào nghỉ và cả
Phái đoàn đều ngủ ngon lành đến sáng, sau trọn ngày trên máy bay mệt nhọc, trừ
ra Cô Tư và em Ngự không quen đi máy bay nên có vẻ mệt nhiều.
Ngày 7-8-Giáp Ngọ (dl
3-9-1954)
Hôm nay là ngày đi viếng
Lục Quân Quan Học Hiệu.
Sáng 8 giờ, sau khi điểm
tâm ở Tả Dinh, cả Phái đoàn được xe đưa đến Phụng Sơn để viếng Trường Quân Bị
và Bộ binh. Từ Tả Dinh, đoàn xe chạy dài gần 15 cây số, giữa đồng bằng phẳng,
hai bên trồng mía tốt xanh rì. Đến Phụng Sơn, xe tiến vào đậu trước Trường Quan
Học Hiệu.
Ông Hiệu Trưởng Hinh tiếp
rước long trọng. Ông trình bày đây là một Trường Huấn luyện sinh viên sĩ quan ,
trước kia là Trường Hoàng Phố, đã có từ mấy mươi năm về trước , ở trong Đại
lục, sau khi Đại lục bị Trung Cộng chiếm cứ, Trường phải dời ra Đài Loan, lập
lại y như trước để tiếp tục . Sinh viên sĩ quan được huấn luyện đầy đủ về quân
sự đối với Bộ binh, đã đào tạo rất nhiều sĩ quan xứng đáng gương mẫu về hai mặt
thực dụng lẫn tinh thần.
Sau khi xem các nơi, một
bữa cơm chay được dọn ra ngay tại văn phòng của vị Hiệu Trưởng để thết đãi Đức
Ngài và Phái đoàn. Sau bữa trưa, Đức Ngài được đưa đi xem các tổ chức trong
trường, lối học tập và thực hành, nơi làm việc cùng nghỉ ngơi, cả thảy đều
trang hoàng trật tự.
Châu vi trường rộng lớn,
có đến 10 cây số.
Đến 3 giờ, đoàn xe đưa Đức
Ngài đến viếng Đệ lục thập Binh Công Xưởng ở Cao Hùng, cách trường vài cây số.
Nơi đây có đủ dụng cụ dạy về môn tập trận, những xưởng chế tạo vũ khí nặng nhẹ,
những lớp học thực hành, mỗi mỗi đều trang hoàng đầy đủ, cách trình bày mỹ
thuật khéo léo.
6 giờ, Phái đoàn từ giã
Phụng Sơn, trở về Cao Hùng. Đoàn xe trước khi đưa về Tả Dinh, lại chạy vòng
quanh chợ Cao Hùng, đến bến tàu, qua căn cứ quân sự, rồi đến chỗ yếu trọng để
phòng thủ mũi đảo, và sau rốt, xe đưa Đức Ngài về Tả Dinh.
Bữa cơm chiều đã dọn sẵn
và đồ chay nơi đây do một người đầu bếp chuyên môn rước từ Đài Bắc xuống để nấu
riêng cho Đức Ngài.
Và đêm nay, bữa hát đặc biệt
tổ chức do sinh viên Hải và Lục quân Quan Học Hiệu tại Câu Lạc Bộ Hải Quân. Đức
Ngài vừa đến, bước vào rạp hát thì một tràng pháo tay nhịp nhàng tiếp đón. Cả
sinh viên trên năm sáu trăm vị ngồi chật hết cả ghế nhỏ đều đứng dậy vỗ tay
chào mừng Đức Ngài và Phái đoàn có hơn 5 phút, và trên sân khấu, một tấm biểu
ngữ đỏ chữ vàng giăng ngang qua đề chữ: "HOAN
NGHINH TỔNG GIÁO CHỦ CAO ĐÀI GIÁO"
Đức Ngài, các Sĩ quan cao
cấp và Phái đoàn ngồi vào hàng ghế danh dự. Xong xả, vị Trưởng Ban Tổ chức đứng
ra giới thiệu tuồng hát và rất hân hạnh được Đức Ngài chẳng nại mệt nhọc đến dự
buổi hát.
Đức Ngài đứng dậy đáp từ
và ngỏ lời cám ơn thạnh tình của các Trường Quân Quan Hải và Lục quân Trung Hoa
đã khéo léo tổ chức để chiêu đãi Đức Ngài.
Tuồng hát khởi diễn, màn vừa
kéo lên, một con khỉ đột do người đội lốt nhảy ra trừng trợn, tay che mắt dòm
xa, tướng điệu láo liên, một tay gãi lông dường như ngứa ngái nóng nảy, nhảy
qua nhảy lại, nhào lộn tài tình. Ấy là Tôn Ngộ Không hay Tôn Hành Giả trong một
đoạn tuồng của Truyện Tây Du lúc trừ yêu cứu người con gái của một vị Viên
ngoại bị yêu quái hăm bắt để làm vợ.
Cả kép hát do sinh viên
các Trường Quân Quan chọn ra, hát rất tài tình, điệu bộ khéo léo gọn gàng, lối
múa nhảy, đánh võ rất ngoạn mục, nhứt là vai Tôn Hành Giả, nhảy nhót liến xáo
không khác nào khỉ đột. Nếu so sánh các tuồng Tàu hay hát bội bên ta thì buổi
hát hôm ấy có phần xuất sắc hơn mọi phương diện, khó thể bì kịp, mặc dầu đào
kép chỉ là những sinh viên của Trường Võ bị mà thôi.
Hết lớp Tây Du, tiếp sang một
đoạn tuồng về Trung Tiết Nghĩa. Cả vai đóng tuồng rất đáng khen tặng, những
tràng pháo tay vỡ rạp nổi lên từng hồi, Đức Ngài vẫn khen luôn miệng.
Đến 11 giờ, sau 1 giờ 15
phút hát, buổi hát tan. Đức Ngài ra về giữa tràng pháo tay không dứt trước 5
phút.
Đêm nay còn trọ ở Tả Dinh
như đêm vừa qua.
Ngày 8-8-Giáp Ngọ (dl
4-9-1954)
Sáng hôm nay, điểm tâm sớm
lúc 7 giờ và cả Phái đoàn sắp soạn để lên Đài Trung. Vì còn dư thì giờ , bởi
đến 10 giờ, phi cơ mới đưa Phái đoàn đi Đài Trung, nên Đức Ngài dự định đi xem
sơ Châu thành Đài Nam và các thắng cảnh, những nơi cổ tích.
Đoàn xe 3 chiếc chạy vòng
quanh Châu thành Đài Nam, đến Cao Hùng, đoàn xe dừng trước Miếu thờ vị đã tạo
dựng Tỉnh Đài Loan và Cổ miếu ngó thẳng ra phi trường Đài Nam, nơi phi cơ đã
đậu hôm đến.
Sau đó, xe đưa Phái đoàn
ra phi trường. Tới nơi, có rất đông Sĩ quan cao cấp Hải và Không quân đưa Đức
Ngài lên phi cơ, và cũng chiếc máy bay hôm đưa xuống đã trở lại đưa riêng Phái
đoàn lên Đài Trung.
Sau 35 phút bay êm tịnh,
phi cơ đã quầng sân Đài Trung và nơi đây có sẵn vị Thị Trưởng Đài Trung cùng
vài nhân vật khác đến rước về trọ nơi Thiết Lộ Điếm (Hotel de la Gare) ở trung
tâm Châu thành Đài Trung.
Đức Ngài lên phòng rửa
mặt, thay đồ nằm nghỉ.
12 giờ trưa, xe đến, chư
vị nhân viên Ngoại Giao Bộ lên mời Đức Ngài xuống Nhà hàng tại Khách sạn dùng
tiệc do Cụ Khổng Đức Thành, cháu 77 đời của Đức Khổng Tử, thết đãi.
Đây là phòng tiệc của
Khách sạn. Trước một cái bàn lớn hình hột xoài chưng hoa rực rỡ, Cụ Khổng Đức
Thành tuổi ngoài 40, tác người cao lớn, gương mặt chữ điền, da mặt hồng hào, đi
đứng khoan thai, thật là cổ nhân ta có nói rằng : "Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh", thật
không sai vậy.
Cụ ra chỗ cửa vào đón tiếp
Đức Ngài và Phái đoàn. Vị Ngoại giao Bộ giới thiệu từng người khách quan cho
Phái đoàn biết. Xong Cụ Khổng Đức Thành và Ông Thị Trưởng Đài Trung mời Đức
Ngài và cả quan khách ngồi vào bàn.
Cụ Khổng Đức Thành và Ông
Thị Trưởng đứng lên ngỏ lời chào mừng Đức Ngài đã chẳng nệ đường xa mệt nhọc,
đến viếng Đài Trung, và kế tiếp Cụ Khổng, bằng một giọng nghiêm nghị từ hòa,
tiếp lời chào mừng, được Đức Ngài đến Đài Trung là một dịp may mắn cho nơi đây,
và Cụ lấy làm vinh hạnh được hầu chuyện cùng Đức Ngài, một bực Giáo Chủ một nền
tôn giáo mà căn bản lại là Nho Tông.
Đức Ngài đứng lên đáp từ,
chẩm rãi để lời cảm tạ quan chức hữu quyền và Cụ Khổng đã chiếu cố rất nhiều
đến cuộc du hành của Đức Ngài ở Đài Trung và Đức Ngài giảng giải đến sự liên
quan mật thiết giữa Đạo Cao Đài và Đạo Nho của Đức Khổng Tử, để tạo lập hạnh phúc
thương yêu cho nhơn loại đại đồng.
Đức Ngài dứt lời, một
tràng pháo tay vang dậy nổi lên và Đức Ngài cùng các quan viên quí khách đồng
ngồi vào tiệc. Nơi đây dọn ăn theo lối Mỹ, mỗi người mỗi phần, riêng chỉ có 6
phần chay, còn lại đều dọn mặn.
Bữa tiệc kéo dài đến 2 giờ
rưỡi mới mãn và trước khi chia tay, Đức Ngài hứa sẽ còn gặp gỡ nữa trong buổi
chiều nầy.
Đức Ngài lên phòng thay đồ
rồi nghỉ.
Đến 4 giờ, nhân viên Ngoại
Giao Bộ đến rước Đức Ngài đi xem nơi Cổ Cung Bảo Vật Quan Cổ Vật. Đoàn xe 2
chiếc chạy ra khỏi Châu thành rồi rẽ vào một ngõ hẹp ngoằn ngoèo giữa đồng
ruộng và xóm nhà để đi đến một chơn đồi. Xe ngừng trước một ngôi nhà mát kiến
trúc theo lối Nhựt. Nơi đây đã có sẵn Cụ Khổng Đức Thành đón rước Đức Ngài để
đưa đến xem nhà chứa đồ cổ. Nơi đây, sự thật là những nhà nhỏ cất núp dưới đồi
lẫn trong tàn cây, hay đúng hơn là những kho chứa để cất giấu một kho tàng quí
báu, cả bảo vật của nước Trung Hoa gom góp hơn mấy ngàn năm, hôm nay vì thời
cuộc chiến tranh loạn lạc, nên từ trong Đại lục chuyển đi ra hải đảo Đài Loan
cất giấu, được tin Đức Ngài đến nên trong Hội mới mở cửa và bày trí một phần
nho nhỏ để cho Đức Ngài và Phái đoàn xem mà thôi.
Nơi nhà chứa đồ cổ, vào
trong ta thấy những đồ đồng, đồ kiểu quí giá vô ngằn, có tấm bình phong chạm bằng
ngọc thạch đáng giá bằng mấy chục ngàn Mỹ kim, đồ xưa nhiều món đã có từ năm
sáu ngàn năm về trước, nhưng cũng không kém mỹ thuật.
Đi vòng lên xem các kho
sách vở tài liệu, một ít đồ kiểu được bày ra cho Đức Ngài xem, nhiều bức họa
tuyệt mỹ, nhiều quyển sách và kinh bằng lụa chữ thêu nổi, nhiều tài liệu vô
giá. Kho chứa cất 2 dãy dài lợp ngói, vách tường đều sơn màu đất cho hợp với
màu cây đá để tránh dội bom. Toàn những thùng đóng kỹ lưỡng để chứa cổ vật,
chất chồng đến tận nóc, đầy ắp cả 2 dãy kho.
Vị Chưởng quản kho tàng
dẫn đường dẫn giải đồ cổ tích cho Đức Ngài và Phái đoàn nghe và Đức Ngài đã đi
xem hết cả mấy dãy kho, rồi trở xuống nhà mát, chỗ để xe đậu, dùng nước.
Nơi đây, Đức Ngài đàm luận
với Cụ Khổng Đức Thành, uống trà, ăn trưa. Bên ngoài trời mưa to và mãi đến 6
giờ rưỡi, mưa mới dứt. Đức Ngài và Phái đoàn ra xe để về khách sạn.
Bữa cơm chiều dọn tại
khách sạn, dùng cơm xong, Đức Ngài lên phòng nghỉ liền vì trọn ngày đi đứng mỏi
mệt.
Chúa nhựt, Ngày 9-8-Giáp
Ngọ (dl 5-9-1954)
Buổi sáng hôm nay, sau khi
điểm tâm, chư vị Ngoại Giao Bộ đưa đến viếng Phường Thổ địa cải cách ở Đài
Loan.
Đoàn xe ra ngoại ô Châu
thành Đài Trung để đến trụ sở của Ủy Ban Thổ địa cải cách, xa Châu thành lối
một ngàn thước. Nơi đây vị Trưởng Ban cùng vị Phó Thổ Trưởng đồng ra ngõ tiếp
đón Đức Ngài và Phái đoàn vào nơi văn phòng làm việc. Vị Trưởng mời Đức Ngài và
Phái đoàn dùng rượu và dẫn giải phương chước cải cách điền địa cùng kết quả đã
thu hoạch.
Xong, xe đưa đến viếng một
nhà nông dân của Phường cải cách thổ địa mới, giữa cánh đồng bằng, lúa xanh man
mác chạy đến chân đồi. Trong những lũy tre xanh, một chòm nhà ngói nhỏ nhỏ mái
thấp, đây là những gia đình nông nghiệp sống nhàn hạ giữa những thửa ruộng xanh
tươi, nguồn sống duy nhứt của gia đình họ, nhờ phương pháp cải cách điền địa,
nên mỗi người dân đều có ruộng cày đồng đều, không ai quá nhiều, mà cũng không
ai quá ít. Cả thảy đều vừa dư sống, huê lợi ít nhiều do sự chăm lo kỹ lưỡng
cùng không của người cày. Nhìn những nét mặt hân hoan mộc mạc của dân nhà nông,
ta cảm thấy đời họ vừa nhàn hạ, vừa no đủ. Đây cũng là một diễm phúc của người
dân đang sống trong thời loạn.
Ban cải cách lại chỉ cho
người cày cách thức chọn giống gieo mạ, cấy lúa, trừ sâu rầy, gặt lúa và cách
phơi lúa, giữ gìn theo phương pháp khoa học, thành ra nghề nông đã tiến triển
khá cao trong sự đổi mới nhờ cải cách.
Lẩn quẩn xem các kho lúa,
các trại nông nghiệp, thì đã đến 11 giờ rưỡi, cả Phái đoàn kiếu từ về nhà hàng.
Hôm nay, vị Thị Trưởng
thết tiệc chiêu đãi Đức Ngài và Phái đoàn cùng mấy vị quan khách hôm qua, nhưng
không có mặt Cụ Khổng Đức Thành, vì người bận dạy học, một nghề lưu truyền từ
mấy ngàn năm qua.
Đến 1 giờ rưỡi, tiệc mới
xong và Đức Ngài về phòng nghỉ an giấc. Đúng 3 giờ , nhân viên Ngoại Giao Bộ
đến rước Đức Ngài luôn Phái đoàn và cả hành lý để đến viếng Nhựt Nguyệt Đàm,
cách Châu thành Đài Trung 80 cây số.
Xe ra khỏi Châu thành chạy
giữa cánh đồng bằng, lúa xanh rì đến tận đàng xa, mờ mờ khuất chân đồi. Dân sự
ở rải rác khắp nơi trong các lũy tre xanh cao vút, nhà mái thấp và ngang, lợp
bằng ngói xi măng màu xám đất là đà trong các hàng rào tre, nhìn qua ta tưởng
tượng một cánh đồng nhà quê bên ta chẳng khác.
Đi một đổi trên 10 ngàn
thước thì đến chân đồi, và đoàn xe khởi đầu lên dốc, quanh co uốn khúc, mặc dầu
đã thuộc về rừng núi, song hai bên đường vẫn còn thấy ruộng lúa xanh tốt vô
cùng. Ở đây người ta phá sườn núi ra để làm thành những đám ruộng nhỏ, có bờ
vững chắc ngăn nước, những ống dẫn nước từ trên núi đổ róc rách vào các ruộng
cao, cheo leo và sắp thành từng nấc (Champs en gradins).
Xe đã bắt đầu leo núi theo
đường quanh co, lên đèo xuống ải, chạy cặp theo dòng nước đổ rầm rì, mùa có
phai phái sương mù bao phủ, làm cho cảnh rừng núi thêm vẻ âm u, mấy chòm tre
cao vút thẳng thắng nên thơ, làng mạc tản mác dựa bên đồi. Xe có lúc phải chun
qua đường hầm ba bốn lượt, rồi chạy dài theo đường cặp bên sườn núi, qua những
chiếc cầu treo nên thơ, bắc qua các dòng thác như Tiên Nhơn Kiều, Quan Âm Kiều.
Xe cộ đôi khi qua lại khiến các con đường, dầu ở giữa núi cao rừng sâu, nhưng
không đến nỗi vắng tanh, lạnh lẽo. Xe vẫn quanh lộn qua cầu và đôi khi gặp cảnh
nên thơ, xe bèn ngừng lại để ngắm và luôn dịp đợi xe sau. Xe bắt đầu lên đèo,
đường khúc ẩn khúc hiện, quanh lộn theo sườn núi, có xóm nhà lơ thơ của các sở
trà rậm rạp ở đỉnh đồi. Xe vẫn chạy trên đường đèo, và rồi đây, trên 800 thước
bề cao, một hồ nước mênh mông hiện ra, ấy là Nhựt Nguyệt Đàm.
Hồ Nhựt Nguyệt, một nơi
thắng cảnh nhứt ở đảo Đài Loan . Xe chạy dọc theo bờ hồ gần 1 ngàn thước, thấy
lô nhô xóm nhà hiện lên và chạy quanh lên một ngọn đồi, và một tòa nhà khá rộng
lớn hiện ra. Ấy là nhà hàng Hàm Bích Lâu, một nhà hàng xinh xắn cất theo lối
kiến trúc của Nhựt trên một ngọn đồi cao nhìn xuống hồ. Du khách dầu khó tánh
đến đâu, trước cảnh sơn thủy hữu tình, cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ, cũng cảm thấy
tâm hồn lâng lâng thơ thới.
Đức Ngài xuống xe và vào
nhà hàng nghỉ nơi phòng rộng lớn ở phía Đông và cả Phái đoàn đều tá túc nơi
đây.
Bây giờ đã 6 giờ chiều,
cảnh vật âm u quanh hồ lại càng lặng lẽ. Sương đã bắt đầu bao phủ rừng cây
chung quanh hồ, gió thổi lai rai mát lạnh.
Sau khi nghỉ và tắm rửa
xong xả, Đức Ngài, Ông Giáo Hữu Trôi và tôi, ở phòng phía Đông, dùng cơm chay
dọn tại phòng. Cơm nước xong, Đức Ngài nằm nơi một ghế dựa dài giống như cái
chỏng bên ta, ngó mong xuống hồ. Trước phong cảnh hữu tình gợi nguồn thơ, Đức
Ngài bèn biểu tôi lấy giấy lại chép bài thi của Đức Ngài sắp đọc.
Bài thi ấy như sau
:
Đây hồ Nhựt Nguyệt tại đầu non,
Một nửa vòng câu, một nửa tròn.
Xanh biếc điểm màu tòng lộn đảnh,
Trắng ngần lộng sắc nước soi gương.
Đầu gành lăng líu chim ca hát,
Kẹt đá ro re suối khảy đờn.
Những khách phong lưu, ai để bước ?
Cảnh nhàn như thế, cảnh nào hơn ?
Và một bài thi Tứ tuyệt bằng chữ Nho :
Sơn đầu hữu thượng thủy,
Vân vũ tạo tú khí.
Đài Trung Nhựt Nguyệt đàm,
Thắng cảnh nhứt vô nhị.
Đêm nay trời lạnh, Đức
Ngài vào giường ngủ một giấc ngon lành sau một ngày đi đứng mệt nhọc.
Ngày 10-8-Giáp Ngọ (dl
6-9-1954)
Sáng sớm, sau khi điểm tâm
xong, Phái đoàn sắp soạn để đi du hồ. Một chiếc ghe đã mướn sẵn nơi mé hồ. Đức
Ngài đi bộ xuống dốc để đến ghe. Đây là một chiếc ghe thuộc loại cho mướn đi du
hồ, chạy bằng máy nhỏ, trên có để băng ngồi hai bên. Xuống ghe máy xong, ghe
tách bến chạy cặp quanh hồ, rồi băng qua đến xóm Tù Trưởng họ Mao. Đến nơi, Đức
Ngài lên đi bộ, che dù, đi từ bãi hồ đến xóm chừng 200 thước.
Đây là vùng cao sơn, một
số dân tộc thiểu số, dân Thái trắng, dưới quyền dìu dẫn và bảo hộ của vị Tù
Trưởng họ Mao. Họ sống nơi đây với đủ nghề và phần đông đều buôn bán đồ thổ sản
như: Gậy, đủa, đồ kỷ niệm, các thứ hoa quí trong rừng núi. Vị Tù Trưởng hôm ấy
đi vắng, chỉ có mấy người con gái của vị Tù Trưởng ở lại nhà.
Đức Ngài đến nơi có ký tên
vào Sổ Kỷ Niệm nơi ấy. Hai người con gái của vị Tù Trưởng mời Đức Ngài vào chụp
hình kỷ niệm. Vừa sửa soạn thì vị Tù Trưởng vừa về tới. Đức Ngài bèn mời người
vào chụp hình chung. Lấy ảnh xong, Đức Ngài biếu lại một số tiền để đáp lại
thạnh tình tốt đẹp của các cô đón tiếp.
Hai cô gái ấy cùng cô khác
đồng ý tổ chức một buổi múa hát để chào mừng Đức Ngài và Phái đoàn. Vị Tù
Trưởng chấp thuận.
Rồi các cô gái Thái ấy
thay đổi y phục, quần áo sặc sỡ màu mè đỏ xanh, gọn gàng đồng kéo vào Ca Vũ
Thất (Nhà hát).
Đức Ngài và Phái đoàn đều
vào bên trong Ca Vũ Thất để xem múa hát. Từ trong buồng, 7 cô đều ra một lượt,
mỗi cô đều ăn mặc giống nhau, nhưng quần áo bông hoa rực rỡ, màu sắc khác nhau,
tay mỗi cô đều cầm chày, đang quây quần chung quanh thớt cối đá, nhịp trong cối
với các chày dọt gạo (như giã gạo) theo lối người Miên bên nước mình. Tiếng
chày nện vào cối đá rập ràng, hòa với tiếng hát trong trẻo thanh tao của các cô
sơn nữ, thành ra một âm điệu dòn tan. Rồi kế tiếp các điệu múa ca nhịp nhàng,
màu sắc quần áo sặc sỡ, miệng hát thêm duyên dáng dịu dàng, uyển chuyển nhẹ
nhàng, lối múa lộn đi lộn lại uốn co, nhưng mỗi mỗi đều ăn theo nhịp, làm cho
cả Phái đoàn dường như đang thưởng thức được sự chơn thật trong cảnh tự nhiên
của loài người, không tranh đua vật chất quyền lợi.
Sau hơn 10 điệu múa hát,
một vũ nữ ra để lời cảm tạ và xin cáo lỗi vì buổi múa hát đã dứt. Một tràng
pháo tay đáp lại để khen tặng các cô thiếu nữ vùng cao sơn.
Đức Ngài đi ra dạo chung
quanh, hai bên lộ từ bờ hồ chạy lên những túp lều nho nhỏ dọn hàng xinh xinh.
Các cô sơn nữ chào mời mua hàng. Họ buôn bán gần như giống nhau như : Gậy, đủa,
mâm cây, giỏ đan, sò ốc, hoa rừng, đồ kỷ niệm nơi ấy, vv... Mỗi món đều có vẻ
mỹ thuật riêng. Cả Phái đoàn ai ai cũng mua giúp chút ít đồ để làm kỷ niệm.
Mua xong, Đức Ngài và Phái
đoàn từ giã vị Tù Trưởng và các cô sơn nữ. Họ chào đáp lễ vẫy tay đưa đến bờ hồ
trong tình chơn thật quyến luyến.
Ghe đò mở máy chạy dọc
theo bờ hồ, rồi băng qua để đến một ngõ lên. Ghe tắt máy ngừng lại. Đức Ngài và
Phái đoàn xuống bực hồ và cùng nhau bước lên các cấp bực để đến Văn Võ Miếu.
Đức Ngài mặc dầu tuổi đã cao, sức đã yếu, song vẫn hăng hái bước từng cấp đi
lên. Hai nhân viên Ngoại Giao Bộ theo phò trợ và che dù cho Đức Ngài. Đường lên
toàn là cấp bực để bước, song đường rất dài, dốc rất cao, có đến sáu bảy trăm
cấp đứng. Ta chỉ thấy một ngõ hẹp nhỏ cấp thang cao vút giữa rừng cây rậm rạp
um tùm và mát mẻ. Đức Ngài phải nghỉ hơn bốn năm lần mới lên tới sân miếu.
Đây là một Cổ miếu đẹp đẽ
vô cùng. Miếu cất hơi thấp, mái uốn cong và cao hước lên. Từ ngoài vào trong,
mỗi nơi đều có chạm trổ. Bàn ghế, biển đều sơn son phết vàng lộng lẫy. Kèo cột
đều có chạm trổ xinh đẹp, mỹ thuật.
Đây là Văn Võ Miếu. Như tên Miếu nêu rõ, thờ Đức Khổng Phu Tử thuộc về Văn, và Đức
Quan Thánh Đế Quân thuộc về Võ. Đến nơi, Đức Ngài quá mệt, nên được Ông Từ tiếp
ngồi nghỉ dùng trà giải khát độ 15 phút. Đức Ngài đi rửa mặt đoạn vào làm lễ 2
vị Thánh. Làm lễ xong, thấy có sẵn ống Xăm ở trước , Đức Ngài liền cầu nguyện 2
vị Thánh để cho biết kết quả cuộc du hành thế nào ? Đức Ngài tiếp lấy ống xăm,
lắc độ vài lần. Một cây xăm vọt ra. Đức Ngài lấy lá xăm trở ra nhà trước ngồi nghỉ để
xem xăm.
Vị Thủ tự nơi miếu liền
lấy sách đoán và giải quẻ xăm đưa lại cho Đức Ngài xem. Lá xăm rất tốt, Quẻ
Thượng thượng. Nguyên văn Hán tự như sau :
Đệ cửu thập cửu sấm
Quí Nhâm thượng thượng.
- Quí nhân tao ngộ thủy
vân hương,
- Lãnh đạm giao tình tư vị
trường.
- Hoàng cáo khai thời diên
cố khách,
- Hoa lưu ứng đắc tụ khang
trang.
Sau khi bàn xăm rồi, Đức
Ngài bảo Phái đoàn cúng một số tiền hành hương, rồi cả Phái đoàn đi xuống ghe
máy trở về nhà hàng Hàm Bích Lâu. Về đến bến, có xe hơi đến rước lên nhà hàng
lúc 1 giờ trưa. Thay đồ và nghỉ mệt một lát, Đức Ngài dùng cơm trưa và vào
giường nằm nghỉ, vì đã đi xem quá nhiều buổi sáng.
Đến 3 giờ, hai nhân viên
Ngoại Giao Bộ mời Đức Ngài đi viếng Nhà máy Phát điện, cách hồ Nhựt Nguyệt 20
cây số. Đức Ngài không muốn đi, vì sợ đi bộ phải leo dốc, nên hỏi lại đường có
phải đi bằng cách leo dốc như buổi sáng nữa không ?
Ông Jou thưa : Đây đi đến
đó đi bằng xe hơi, nên Đức Ngài vui lòng đi và đoàn xe hơi 2 chiếc khởi hành.
Xe chạy khỏi nhà hàng thì thấy đường quanh quẹo lên dốc núi luôn. Đường đi đến
Nhà máy Thủy điện quanh co ngoằn ngoèo hiểm trở, lại phải chun qua các hang núi
đến năm sáu lần. Đường vắng, núi cao dốc đứng, hai bên hầm hố, xóm nhà ở lai
rai, chỉ có 20 ngàn thước, mặc dầu xe chạy khá nhanh, tài xế thật giỏi, mà hơn
1 giờ 45 mới đến nơi nhà máy chánh phát điện cho toàn cả tỉnh Đài Loan.
Nhà máy nầy ở vào một nơi
hoàn toàn kín đáo. Vào đây phải chạy qua 3 đường hầm xuyên qua núi mới đến ngọn
suối chảy xuống như thác đổ. Đến nơi, xe chạy thẳng lên Phòng làm việc của vị
Tổng Giám Đốc Nhà máy Phát điện. Vị Giám Đốc đón ở cửa, mời vào đãi trà. Ông
liền dẫn giải lịch sử của Nhà máy Thủy lực cơ, đã đào tạo ra khi còn Nhựt Bổn
chiếm Đài Loan làm thuộc địa. Sau trận chiến tranh Hoa Nhựt vừa qua, Nhà máy bị
oanh tạc hư hại quá nhiều và hôm nay sửa lại hoàn toàn mới, do máy móc tối tân
của Mỹ quốc viện trợ, và điện lực ở đây chạy khắp xứ Đài Loan, từ Bắc, Trung,
dĩ chí đến Nam đều do nơi bộ máy chánh nầy cả.
Vị Giám Đốc bèn mời Đức
Ngài đi xem Nhà máy Phát điện. Mỗi người trong Phái đoàn được lãnh mang nơi
ngực một tấm thẻ riêng để được vào xem Nhà máy.
Sau khi viếng Phòng liên
lạc các vùng điện, ta thấy máy móc tối tân do toàn chuyên viên Đài Loan điều
khiển, việc làm rất có trật tự và qui củ. Xem xong, vị Giám Đốc mời Đức Ngài
qua Văn phòng để dùng trà và mời Đức Ngài ký tên vào Sổ Kỷ Niệm.
Đức Ngài để lời khen tặng
Chánh phủ Đài Loan đã phát minh rất nhiều công trình vĩ đại có lợi ích chung
cho toàn thể nhân dân trong xứ, và tiếp theo, vị Kỹ sư chuyên môn mời Đức Ngài
đến xem máy phát điện dưới nhà hầm.
Đây là 5 giàn máy lớn y
kiểu nhau kéo 5 nồi phát điện to tướng. Lực đẩy của nước làm chạy máy móc, đã
dẫn nước từ trên núi cao có đến ba hoặc bốn trăm thước, trong những ống nước to
lớn có bề trực kính hơn 1 thước rưỡi.
Hồ chứa là Nhựt Nguyệt
Đàm, dẫn đến đây có hơn mười mấy ngàn thước. Các ngọn suối, dầu nhỏ dầu lớn,
đều bị chận lại và cho chảy vào các hồ gần đấy, có đoạn người ta phải đục đá
núi để cho nước chảy qua mau. Thật là một công trình vĩ đại. Người ta biết dùng
sức mạnh thiên nhiên, biết lợi dụng nước trên núi, thậm chí cho đến một khe
nước chảy nhỏ mà người ta vẫn không bỏ, gom góp vào hồ để đẩy máy phát điện. Từ
Châu thành lớn đến chợ nhỏ, cùng các nhà trong xóm đông đúc cũng như hẻo lánh,
đều có điện dùng trong nhà. Điện đã giúp cho sáng sủa, mát mẻ, sạch sẽ, tiện
lợi, thêm rẻ tiền, mà còn giúp cho tiểu công nghệ thêm phần phát đạt. Quang
cảnh ngày cũng như đêm đều có điện xài. Cột dây điện lớn nhỏ giăng cùng khắp
trong xứ, từ trên núi xuống đồng bằng.
Một túp lều tranh gọn
sạch, ta lại thấy có chấp chóa vài bóng đèn mà tiếng âm thanh văng vẳng của máy
phát thanh (Radio), thật là một cảnh nhàn hạ vô cùng. Nơi nước ta giàu nguồn
lợi thiên nhiên, đến chừng nào mới có được như thế ư ?
Đức Ngài không ngớt khen
ngợi. Thật là một cuộc đi quan sát lý thú, đã làm cho ta thấy thêm những cái vĩ
đại. Nơi xứ sở ta có thể làm được mà hiện giờ rất thiếu.
Đến 6 giờ Đức Ngài xin cáo
từ ra về. Ban Giám Đốc và các kỹ sư đưa ra tận xe. Đoàn xe chạy về một đổi thì
trời đã sẩm sẩm tối, sương mù đã bao phủ các ngọn núi cao, đường đã mờ sương
lạnh buốt lọt vào trong xe. Hai chiếc xe mở đèn sáng vẫn chạy trên đường vắng
vẻ quanh quẹo đèo dốc nguy hiểm.
Sau 1 giờ xe chạy không
ngừng mới về đến nhà hàng. Đức Ngài lên phòng nghỉ vì mệt mỏi, kế dùng cơm tối,
xong Đức Ngài và Phái đoàn đều lên phòng nghỉ.
*
* *
Phần
thứ 2
CUỘC
DU HÀNH SANG TRIỀU TIÊN
Ngày 26-8-Giáp Ngọ (dl 22-9-1954)
Cuộc khởi hành sang Triều Tiên (Nam Hàn), Đức
Ngài đã dự định đi từ hôm xin lá xăm tại Văn Võ Miếu ở Nhựt Nguyệt Đàm (Đài
Trung) vì quẻ xăm Thượng thượng của Đức Ngài rất tốt, đại ý cho biết sẽ đem lại
kết quả khả quan trong chuyến viễn hành, nên khi về Đài Bắc, Đức Ngài đã giao
cho Ngoại Giao Bộ và ông Jou Kia Linh cùng ông Minh lo sắp đặt, gởi thơ sang
Nam Hàn để tỏ ý định của phái đoàn muốn sang viếng Cao Ly và Nhựt Bổn.
Trong vòng một tuần lễ chờ đợi thơ mời của Nhựt
Bổn và Cao Ly trả lời, chỉ đến ngày 21-9-1954 mới được thơ trả lời của ông Matusita
ở Nhựt trả lời rằng : Việt kiều ở Nhựt Bổn muốn Đức Ngài lấy tro cốt hài của Cố
Kỳ Ngoại Hầu Cường Để về Việt Nam. Và liền sau đó, sứ quán Nam Hàn ở Đài Loan, đã được sự
chấp thuận của Chánh phủ, mời Đức Ngài sang viếng Nam Hàn.
Vì không muốn làm nhọc
lòng thêm Chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc, nên phái đoàn đi sang Tiều Tiên chỉ có
4 người : Đức Ngài, ông Minh, Cô Tư và tôi. Vì vậy, Đức Ngài định đi máy bay
hàng, chớ không muốn làm tốn thêm cho Chánh phủ Đài Loan bằng một chiếc máy bay
riêng dành để cho Đức Ngài và phái đoàn. Vả lại chuyện đi sang Triều Tiên của
phái đoàn dường như Chánh phủ Trung Hoa Dân Quốc không thật tâm muốn cho đi.
Vì Đức Ngài định sang Nhựt
Bổn trước khi qua Triều Tiên, nhưng khi thương lượng trở lại thì Đức Ngài mới
định lại là đi sang Cao Ly trước, khi trở về mới ghé Nhựt Bổn, nên ông Minh và
ông Jou mới đi mua vé máy bay của hãng hàng không C.A.T. (Civil Air Transport).
Giờ máy bay cất cánh đi
Nhựt và qua Nam Hàn là 10 giờ đêm ngày 22-9-1954. Hành lý đã sắp soạn sẵn từ
nhà trọ ở Dinh Pế-Thầu (Bắc Đầu). Đúng 9 giờ đêm khởi hành đến phi trường Đài
Bắc. Khi đi có ông Trung Tướng Lý Di và ba vị ở Ngoại Giao Bộ đến tận Chiêu Đãi
Sở để tiễn đưa.
Bốn chiếc xe nối đuôi chạy
xuống núi để đưa cả phái đoàn và người tiễn đưa đến phi trường Đài Bắc lúc 9
giờ rưỡi đêm. Đến nơi đã có sẵn Ông và Bà Sứ Thần Cao Ly đến đưa Đức Ngài lên
máy bay. Tất cả nhân viên trong phái đoàn Huê nhơn còn ở lại đều đi đưa đông đủ
tận nơi phi trường. Sau khi chờ đợi đem hành lý lên máy bay, Đức Ngài cùng Ông
Bà Sứ Thần đàm luận nơi nhà hàng phi trường.
Chuyến máy bay đi Cao Ly
là một máy bay 4 động cơ từ từ đến cửa ra sân và đúng 10 giờ rưỡi, khi phái
đoàn lên máy bay thì phi cơ cất cánh.
Đây là chiếc phi cơ 4 máy
chuyên chở hành khách từ Nữu Ước sang Đài Loan, đến Nhựt Bổn và sang Cao Ly.
Cách trình bày rất đẹp, có trổi hơn chiếc phi cơ của hảng Air France đi Pháp,
song ghế chỉ để dựa chớ không phải ghế dành để ngủ. Máy bay bay đều đều êm ái.
Từ giã Đài Loan với đèn lốm đốm chiếm lấy một khoảng rộng trong đêm đen mờ, và
một mạch bay thẳng trong đêm trời trong, sao chấp chóa. Đức Ngài nằm ghế dựa
ngã ra để ngủ và trong 1 giờ sau, tất cả người trên máy bay đều lim dim ngủ,
đèn chỉ rọi mờ mờ.
Máy bay bay rất êm, chỉ có
hơi lúc lắc một đôi nơi và mãi đến 5 giờ sáng, máy bay đã vào nội địa Nhựt Bổn.
Trời đã hừng sáng, sương mù đã bao bọc cả một lớp mây trắng dầy, che khuất vạn
vật. Trong 1 giờ sau, máy bay đáp xuống phi trường Đông Kinh, kinh đô Nhựt Bổn.
Ngày 27-8-Giáp Ngọ (dl
23-9-1954)
Nơi đây, vị Lãnh Sự Trung
Hoa đã chực sẵn đón rước Đức Ngài và Phái đoàn tại sân bay và đưa vào phòng
hành khách chờ đợi tại phi trường . Vừa bước vào trong, có Ông Matusita, Giám
Đốc hãng Đại Nam ở Nhựt và Ông Nikochi Oda đón tiếp Đức Ngài, vì Ông đã tiếp
được điện văn của Phái đoàn đã gởi sang cho biết giờ đến Nhựt.
Sau khi giới thiệu xong,
Ông Matusita rất cảm động và cùng Đức Ngài trò chuyện rất thân mật.
Hôm nay là ngày lễ
Egiunoxe ở Nhựt Bổn nên Ông Matusita có dắt 2 đứa con theo và có một người Nhựt
theo chụp ảnh, Ông nầy gốc là người Bắc Việt ở Việt Nam 25 năm, qua Pháp 9 năm,
và hiện nhập tịch vào dân Nhựt và ở luôn nơi nầy. Sau nửa giờ trò chuyện, cả
Phái đoàn phải đến dùng điểm tâm tại nhà hàng phi trường. Xong Đức Ngài ra
phòng chờ đợi, nói chuyện cùng Ông Matusita để chờ máy bay đi Séoul (Hán
Thành).
Đúng 8 giờ rưỡi, máy bay
sắp đi Hán Thành, cả Phái đoàn từ giã Ông Matusita để lên máy bay. Phen nầy Cô
Tư mệt vì phải xách thêm đồ do Ông Matusita tặng : Trái cây, bánh và hoa.
Máy bay cất cánh, bay băng
qua nước Nhựt, rồi ra biển, bay êm ái một mạch đến Nam Hàn. Nơi đây đã xa đường
xích đạo và ở trong vùng khí hậu lạnh, mây trắng bao phủ giống như từ Marseille
máy bay đến Paris. Bữa trưa dọn ăn trên máy bay, chỉ dùng qua loa với bánh mì,
đồ légumes, 1 cái bánh, 1 trái chuối. Bữa trưa xong đến 12 giờ rưỡi, máy bay
vào nội địa Nam Hàn, dòm xuống thấy trùng trùng điệp điệp núi non, chỉ rất ít
đồng bằng ruộng lúa xanh rì; núi, cây cối xơ rơ liên tiếp, xóm nhà chỉ gom lại
nơi các thung lũng có dòng nước, và chỉ hơn nửa giờ sau, máy bay quầng sân đáp
xuống phi trường. Máy bay đậu lại. Đã có sẵn vị Lãnh Sự Trung Hoa chờ đón Phái
đoàn. Đức Ngài xuống máy bay. Ông Minh trò chuyện bằng tiếng Anh với vị Lãnh Sự
vài phút, kế tiếp có Ông ở Hội Liên Minh Chống Cộng Nam Hàn cùng vợ, đi xe
riêng ra đón Đức Ngài, sau khi chào hỏi mừng rỡ. Đức Ngài và Phái đoàn lên xe
riêng của Ông Lý, Hội Trưởng Hội LMCC để về nhà trọ, riêng Ông Minh còn ở lại
để ghi giấy tờ và lấy hành lý về sau.
Một điều rất khổ cho cả
Phái đoàn, trừ Ông Minh ra, nơi nầy chỉ có tiếng bổn quốc và tiếng Anh ; tiếng
Pháp thì rất ít người biết. Vị Hội Trưởng Ngoại Giao chỉ nói tiếng Anh, thành
ra trên xe, cả Phái đoàn đều ngồi im vì không thể nào trao đổi một ý kiến gì
cả. Ra khỏi phi trường một đoạn đường thì thấy cảnh tàn phá sau một trận nội
chiến tàn khốc, nhà cửa hư sập chưa sửa chữa kịp, cầu kỳ đứt đoạn, đường sá hư
hao, dân chúng trên nét mặt còn vẻ lo âu khổ não, thành phố có vẻ đìu hiu vắng
vẻ.
Một điều bất ngờ là trong
lúc đi thì gặp cả dân chúng, các hạng thợ thầy, sinh viên Nam Nữ, lao công,
binh sĩ đang biểu tình đi trong các con đường của Thành phố Hán Thành một cách
rất có trật tự, những biểu ngữ bằng chữ Nam Hàn và chữ Anh, những xe có gắn máy
phóng thanh tung hô phản đối việc rút lui quân đội Mỹ và yêu cầu Quân đội Mỹ
đóng giữ trở lại.
Nguyên do, sau khi Liên
Hiệp Quốc đình chiến để đem lại sự an ninh cho Cao Ly, hai khối Liên Hiệp Quốc,
tức là Mỹ và Nga (Trung Cộng và Bắc Hàn) đã ký kết trong một thời hạn nhứt
định, Nga sẽ rút hết quân tình nguyện Trung Cộng ở Triều Tiên và về phía Mỹ sẽ
rút hết quân đội Mỹ về nước, sẽ có một Ban Kiểm soát đặc biệt để kiểm điểm sự
rút quân ấy. Hôm nay, ngày giờ rút quân đã cận, Nam Hàn lo âu nên biểu tình
phản đối.
Xe hơi đưa Đức Ngài, Cô Tư
và tôi chạy rất chậm, khó khăn để vô nhà hàng, vì xe cộ bị chận nghẹt đường ứ
đọng lại, đường sá bị đám biểu tình đi chật cả lối, xe cộ đều ngừng lại, còn xe
nầy phải len lỏi chạy đại để tìm ngõ đi, có lúc phải băng qua đám người biểu
tình làm họ bất bình. Vị Hội Trưởng có vẻ bực tức giận dữ và cho đến hơn nửa
giờ sau, xe mới đến nhà hàng Bando Hotel, một nhà hàng đặc biệt của người Mỹ
trước Toà Lãnh Sự Mỹ ở Hán Thành.
Xuống xe vào nhà hàng, nơi
đây chỉ nói rặt ròng tiếng Anh, thành ra lẩn quẩn trong 10 phút mới được biết
rằng có phòng trọ. Tại đây, Bộ Ngoại Giao Nam Hàn có sắp đặt vài người đón
tiếp, có tổ chức một cô gái Nam Hàn đến dâng hoa cho Đức Ngài.
Nhân viên nhà hàng dẫn đi
chỉ phòng trọ cho đến 3 lần mới đến phòng thiệt thọ, 3 lần dời đồ 3 nơi đã chỉ.
Bối rối, may ra gặp một người Mỹ trước kia có ở Đông Dương làm nơi Lãnh Sự Quán
Mỹ và hiện sang Hàn quốc để quan sát tình hình kinh tế, nhờ Ông thông ngôn dùm
và sau khi đến phòng, Đức Ngài vào ngồi salon, một cô gái đến dâng hoa và nhờ
người Mỹ ấy thông ngôn.
Mười phút sau, Ông Minh về
tới và cho biết rằng, ở phi trường, Lãnh sự Mỹ và các nhân vật trọng yếu có tổ
chức cuộc tiếp rước Đức Ngài, có Quân nhạc và binh sĩ chào danh dự tại phi
trường, song vì kẹt đường sá do cuộc biểu tình nên đến trễ, luôn cả vị Thị
Trưởng kinh đô Séoul.
Đức Ngài thay đồ ngồi nghỉ
ở một gian phòng riêng biệt rộng rãi, có phòng khách và phòng nghỉ. Nhà hàng
nầy cao đến 7 từng, kiến trúc theo lối Mỹ, bày trí mỹ thuãt, vẻ sang trọng. Cả
3 căn phòng đều ở lầu 4, đi lên xuống bằng thang máy như nhà hàng Georges ở
Pháp. Nơi đây hình như chỉ có toàn người Mỹ ở.
6 giờ, Bộ Ngoại Giao cho
hay rằng có vị Đô Trưởng Hán Thành đến viếng Đức Ngài, và Ông đến với 4 cô gái
nhỏ Nam Hàn, mặc quốc phục màu mè, đến dâng hoa, có nhiều nhiếp ảnh viên của
người Mỹ đến chụp ảnh. Bốn bó hoa tươi đẹp dâng cho 4 người: Đức Ngài, Ông
Minh, Cô Tư và tôi. Ông Thị Trưởng hầu chuyện cùng Đức Ngài và Phái đoàn trong
bầu không khí thân mật, do Ông Minh thông ngôn ra tiếng Anh, và vị Đô Trưởng
nói chuyện bằng Anh ngữ.
Ông nói rằng : Rất tiếc vì
Ông không đón kịp ở phi trường và nơi ấy không tổ chức kịp lễ rước. Sau đó Ông
phải ở lại phi trường chờ rước vài nhân vật Mỹ, nên phải về trễ và tiếp đến
mừng Đức Ngài. Trong nửa giờ hầu chuyện, Ông Thị Trưởng từ giã ra về. Đức Ngài
rất vui vẻ, mặc dầu rất mệt, sau một đêm mất ngủ trên máy bay.
Bữa cơm tối dùng nơi nhà
hàng Tàu, vì chỗ nầy biết nấu chay. Còn nhà hàng nầy chỉ dọn ăn theo lối Mỹ nên
không biết nấu chay.
Đức Ngài, Cô Tư và tôi
dùng cơm chay xong đến 8 giờ tối. Đức Ngài về phòng thay y phục nằm nghỉ vì quá
mệt mỏi.
Mặc dầu đêm nay tại nhà
hàng nầy có cuộc trình bày Quân nhạc Mỹ và ca xướng do những cô gái Nam Hàn,
Ông Cựu Lãnh Sự Mỹ ở đây có mời Đức Ngài và Phái đoàn đến dự, song Đức Ngài từ
khước vì quá mệt mỏi.
Nơi đây, không khí hơi
lạnh, gần như khí hậu ở Pháp, cửa lắp kính tất cả. Đức Ngài nghỉ, còn Cô Tư về
phòng riêng. Ông Minh và tôi về ở chung phòng, ra dạo phố một vòng và về nghỉ,
ngủ một giấc mê mệt đến sáng.
Ngày 28-8-Giáp Ngọ (dl
24-9-1954)
Sáng dậy, điểm tâm tại nhà
hàng, Đức Ngài có nói rằng : Vì đêm hôm Qua mệt nên không đi dự buổi dạ nhạc,
Anh Cao Thượng Phẩm về trách. Đức Ngài dòm xuống đường nhìn thấy dân chúng qua
lại và luận về cách ăn mặc, đi đứng của dân chúng Nam Hàn. Nơi đây, đa số đàn
ông thì mặc Âu phục thắc cravate đàng hoàng; phần phụ nữ đa số còn mặc quốc
phục, áo cổ trịt như lối áo tràng của ta, song rất ngắn, độ chừng 2 hoặc 3 tấc
tới chớn thủy, tay dài và rộng, mặc quần trắng cụt và choàng một cái củng lên
tới ngực, rộng thênh thang, một sợi dây cột ngang chớn thủy, giống như các nàng
Tiên theo hình vẽ. Cách ăn mặc rất kín đáo, rộng rãi, chỉ có một phần ít theo
Âu, mặc chemise và jupe, song theo xứ lạnh nên có áo choàng, da trắng, mặt trẹt
và vuông giống như phụ nữ Phù Tang, tiếng nói trong trẻo mường tượng giữa tiếng
Nhựt và tiếng Tàu.
Đứng trên lầu cao nhìn
xuống, số người ăn mặc lòe loẹt rộng thênh thang, kín đáo, ta có thể tưởng
tượng lại đời Thượng cổ Quần Tiên Dạ Hội, và ta nhớ lại nơi đây là Triều Tiên,
mà hình dung lại cái rực rỡ của thời xưa, vì xứ nầy là một nơi đã có rất nhiều
người tu Đạo Tiên đắc đạo mà truyện Tàu thường nhắc đến.
Lúc 10 giờ rưỡi, Bộ Ngoại
Giao cho người đến rước Đức Ngài và Ông Minh đi theo để thông ngôn, đến Tổng
Thống Phủ. Cuộc đàm luận trong vòng hơn nửa giờ, Đức Ngài trở về nhà hàng với
gương mặt vui vẻ và khen ngợi sự đàng hoàng củaTổng Thống Lý Thừa Vản. Tổng
Thống có mời Đức Ngài dùng cơm tối với Người tại Tổng Thống Phủ.
Dùng bữa trưa xong, Đức
Ngài nghỉ đến 4 giờ rưỡi, tiếp nói chuyện cùng Ông Cựu Lãnh Sự Mỹ ở Đông Dương.
Đến 6 giờ rưỡi, Bộ Ngoại Giao cho người đến rước Đức Ngài đi đến dùng tiệc tại
Tổng Thống Phủ, và về đến nhà 8 giờ rưỡi tối.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét