T ý-Thời, đêm 22, tháng 6, năm Kỷ-Sửu (1949).
THI:
Thủy
hỏa cộng hiệp đắc trường tồn,
Doãn
khẩu tương giao ý-vị ngôn,
Thổ
phúc liên hoa vô dụng tận,
Thả
hành thị sự kiến Huy-tôn.
Đại-Tôn hoan hỉ; các tử-đệ
tọa thoàn, nghe Đại-Tôn dạy đây (về Bá-nhựt trúc-cơ và hàm-dưỡng)
THI:
ĐẠO-đời hai lẽ khác nhau xa,
CAO-Đại Chí-Tôn dụng chữ hòa.
ĐÀI huệ quang-minh thông Vũ-Trụ,
CHUYỂN xây Cơ-Pháp tránh trần-sa.
THẦN an định-tịnh thăng Thiên-cảnh,
TIÊN diệu linh-tâm hội Phật-Đà,
PHỤC thỉ hồi-đầu, vô tướng-pháp,
HƯỜN qui bát-nhứt hóa Liên-Hoa.
HỰU:
Hồi-quang nội-chiếu, thấy huyền-thâm,
Thâm-diệu, diệu-thâm chẳng lạc lầm.
Tâm-tức tương hòa, tâm hóa tức,
Tức-tâm, tâm-tức định NAM-CHÂM.
HỰU:
Bước đầu: Tịnh-Tọa lắm gay-go,
Ráng chí giồi trau, đáng phận trò,
Nhiều bữa, nhiều ngày, xem thấy lạ;
Tịnh đừng: Tịnh giả, ý còn lo.
Động-tâm khó nỗi thâu dương-khí,
Tư-tưởng xịu-xằng, phải phát Ho,
Ho rồi, Dương xuất, Âm vào phế,
Khó nỗi thành Đơn, gắng chí mò !.
HỰU:
Thực mễ vô-căn, hóa khí đằng,
Dụng chi phàm-mễ, gọi là ăn?
Ăn hoài chẳng chết, nên là bổ,
Chánh-Khí Tiên-Thiên, tạng-phủ bằng.
THI-BÀI:
Tạng-phủ bằng, tỳ-teo mới dễ,
Tịnh tinh-thần, cải chế phách tan,
Đó là tính tịnh Thiên ban,
Trò ôi: Khá rõ, Khí hoàn Đạo-Tâm. .1
Có Đạo-Tâm, mới tầm Hạo-Khí,
Mất Đạo-Tâm, chánh-kỷ khó nhiều,
Nhơn-tâm: rất khó tán tiêu,
Vì chưng vọng-Ý, tại nhiều mễ-căn !. .2
Về Mộc-Dục: áp Âm, Dương tựu,
Là tồn-vô, diệu-hữu huân-chưng,
Trúc-Cơ: Bá-Nhựt Dương thuần,
Linh-căn Đại-Tịnh, Khí-Thần hư-vô! .3
Dụng Hậu-Thiên, hấp-hô Võ-Hỏa,
Thâu liễm vào Đạo-cả Chơn-Ngươn,
Bao-la:
thân-nội cư hườn,
Thánh-thai
tự kết, Chơn-Nhơn tâm thành !. .4
Có Chơn-Nhơn chứa sanh Diên-Hống,
Khí đủ đầy Dương thống bảo-tồn,
Tài-bồi xác thịt, thân ôn,
Nhẹ nhàng thân-thể, vong-tồn do tha. .5
Vô vọng-niệm, đó là chánh-nghĩa,
Khí Thần hầu, diệu-hữu dụng thâu,
Hư-Vô tịnh, dứt thúc câu,
Bá-Nhựt, Thái-Cực Linh-Châu đủ đầy. .6
Đãi Thái-Cực tự xây độ-số,
Tam-Bá Châu-Thiên độ hỏa-hầu,
Thánh-Thai
qui tựu Linh-Châu,
Hiện
tường ấn chứng, Đạo-mầu khí mô. .7
Đây là
phép: tồn-vô thủ hữu,
Mới
kết thành: diệu hữu Thánh-Thai,
Khí-Thần
tương hựu hiệp-hoài,
Tương-quan, tương ứng, giồi mài Ý-chơn. .8
Chơn-Ý định điều ơn giả-ý,
Vọng-tình đều phải hủy diệt căn,
Đại-định, Chơn-Ý phi đằng,
Lấy ai chủ-sử, bảo hằng trợ tâm? .9
Thì hơ-hỏng, cờ cầm thoàn định,
Uổng công-phanh, chưa chính định-tâm,
Học theo: Hành-Giả huyền-thâm,
Ngộ-Không ắt gặp Chơn-Tâm Đạo-huyền. .10
Về thập-ngoạt, tam-niên nhũ bộ,
Hàm-dưỡng-thai, đổi-số trập-tàng,
Chơn-thần, huyền pháp bảo-an;
Khí-thai đã kết, còn sang Chơn-Thần. .11
Dụng Võ-Hỏa, huân-chưng Mộc-Dục,
Cho Thần xung ấm-áp thêm xinh,
Lực-lượng: sanh điển Đạo-Huỳnh,
Thần-Quang mãnh-lực, lộ hình lạ thay ! .12
Thêm ánh-sáng, là hoài diệu-hữu,
Là Ngũ-sanh, Mồ-Thổ hiệp thành,
Kỷ-Thổ: nhị-ngũ tá danh,
Đao-Khuê hiệp-nhứt, Thập-Thành phối giao. .13
Về dụng-thể, ngoài hào gom-góp,
Là Vô-Vi, thanh-pháp biểu-dương,
Đem vào Chủ-sử dẫn đường,
Siêu-hình Thượng-Học, tinh tường lớp-lang. .14
Mà thanh-tịnh, tầm phang khẩu-khuyết,
Khỏi sai lầm, mài-miệt công-phu.
Chơn-Ngôn: chỉ rõ Trò tu,
Vạn-duyên đốn-tuyệt, tạc thù nội-công! .15
Đây là: dụng huyền-công bí-khuyết,
Rõ can-chi, thời-tiết, độ-hào,
Ấn chứng biến hóa ra sao,
Hành trụ, tọa, ngọa, phòng vào đơn-sai .16
Nếu đơn-sai phải hoài uổng phí,
Tâm-động sanh, là hủy Đạo-Chơn,
Pháp, tài, lữ, địa: trọng ơn.
Toàn bằng nội-ngoại, lưỡng tương hộ phò. .17
Khi đắc pháp: thì trò ấn chứng,
Huỳnh-Quang xuất, lộ ứng điển-thâm,
Ân-đường xung thấu Đạo-Tâm,
Mùi-cung chiếu-diệu, là mầm luyện-phanh! .18
Thượng-Tôn tiếp:
Nhựt-sanh, Nguyệt-chuyển,
Sơ Tam, là Hào-cửu khắc sanh,
Sơ-cửu, tại Tý, thập, thành,
Can-Long, thập-nhứt-ngoạt, sanh; khởi hành. .19
Tại Huyền-công, Đạo danh: “Bá-Nhựt
Trúc-Cơ”, hành, dưỡng-dục
linh-căn.
Khởi sự: tập-quán chuẩn-thằng,
HƯ-VÔ-Đại-Định, liễm hằng khí-ngươn. .20
Vận nội-công, Chơn-Nhơn sẽ đắc,
Tại Hà-Đồ, qui-tắc sanh Dương
Vi-sơ: pháy pháy, hiện tường,
Âm-cực bất-mãn, sanh-dương dẫn đường! .21
Bắt đầu khởi: Nhứt-Dương Sơ-động,
Do âm-tịnh, mới phóng Dương-sanh,
Nho-Gia: “Phương-Thảo-Quí” hành,
Lạc-thơ: “Phục-Đoạn”; Cao-danh: “Hà-Đồ”, .22
Địa-lôi-phục, phục tô linh-chưởng,
Đoạn lục-âm, động biến tối cao,
Nhứt-Dương sơ-sanh: độ hào,
Bát-cung cửu-nhị, Sửu đào: Kiến-Long. .23
Thể qui dược-hồ: công “huyền-võ”,
Đem thuốc vào lò: rọ “huyền-quang”,
Vận-khí, cư-trụ
an-nhàn,
Luyện-đơn nấu thuốc, lập đàng Khí-Thai. .24
Tại Hà-Đồ, Thủy-khai sanh Mộc,
Thận hóa Can, lừa-lọc Đạo-Tâm,
Thủy khắc Hỏa, Thận khắc Tâm,
Tịch-dương, thập-ngũ, cửu-tam, Tỵ thời. .25
Càn hãm Khôn, chiều mơi, tấn bộ,
Là Tam-Dương vi-số Thượng-Huyền,
Đó là đúng lượng Hống-Diên,
Tam-thiên độ-số Châu-thiên Cực-đồ. .26
Xuất Bạch-Quang, hữu-vô diệu dụng,
Sang Huỳnh-Hà, cho trúng Côn-Lôn,
Hậu-bối, Đốc-Mạch điều ôn,
Huỳnh-Đình phục-thực, nuốt Đơn Trùng lầu. .27
Tại Hà-Đồ, lý mầu sanh dưỡng,
Thổ sanh Kim, trưng-tượng tiên-cơ,
Mộc khắc Thổ, tại Lạc-Thơ,
Ngọ ngoạt, thập-bát, cửu-tư, Hạ-Huyền. .28
Nơi Huyền-công, Đào viên phanh luyện,
Tại Hà-Đồ, Hỏa biến Thổ sanh,
Tâm thông Dương, Tý qui hành,
Lạc-Thơ Kim khắc Mộc danh Phế-Đoài. .29
Phế diệt Can, Cao-Đài Tân-Pháp,
Nhị-thập-tam, cửu-bát, Phi-Long,
Âm trung Dương, tại Huyền-Công,
Hà-Đồ biến thước, Kiến-Long tại Điền. .30
Thổ sanh Kim, Tỳ yên bổ Phế,
Thổ khắc Thổ, cải chế Lạc-Thơ,
Tỳ khắc Vị, Đoạn hồi Sơ,
Tam-thập, Thượng-Cửu, là nhờ Can-Long. .31
Thập-ngoạt, Hợi, Chủ-Ông là đó,
Tý tuyết-mãn, tại Ngọ Huyền-Công,
Khôn tùy Càn, tiên thủ không,
Dương sanh Âm cực, Huyền Công mà hành. .32
Tinh hóa Khí, mà phanh thể luyện,
Khí hóa Thần, mà chuyển CAO-MINH,
Thủy sanh Kim, Thận hóa Tinh,
Lạc-Thơ chuyển biến, Hỏa-Tình khắc Kim. .33
Thận khắc Tâm, âm-tinh tận tuyệt,
Dương Hàn hãm, âm-huyết tán tiêu,
Tương sanh, tương khắc qui điều,
Nội-Công Đại-Đạo, phục-triều Linh-Nguyên .34
Đây Y-Bát Chơn-Truyền thoàn-huệ,
Là Thủy-Hỏa ký-tế Cao ban,
Kim-Mộc hiệp nhứt: huy-hoàng,
Thủy mà khắc Hỏa, rọi đàng phanh-tu. .35
Đó là PHẬT-TÔN dạy về
bá-nhựt trúc-cơ, thập-ngoạt hoài-thai và tam-niên nhũ-bộ, khá ráng lập-tâm mà kiếm hiểu.
THI:
Trường-sanh trò hiểu sẽ gần Thiên,
Tịnh-tọa hằng ngày gặp Thánh-Tiên,
Đốt lửa xông trầm lò ấm áp,
Đem về nấu thuốc giữa đơn-điền.
Bao nhiêu tục-lụy đều tiêu-tán,
Chẳng chuộng phong-trần của nghiệp-duyên.
Lập-đảnh cho xong ngồi quán-tưởng,
An-lư sung sướng nếm mùi-thiền.
HỰU:
Mùi-thiền tâm-niệm tốn nhiều công,
Lưng-thẳng, đầu
nghiêng, lòng hỡi lòng.
Nhắm mắt soi vào nơi yển-nguyệt,
Vần-lân hô-hấp trợ tàn-đồng.
Lưỡi hơi cong ngược ngăn cam-lộ
Đặt diện cho ngay ấn ở trong.
Chạy đến hai kiều: thượng hạ thước,
Đem về chỗ cũ khà nằm không.
HỰU:
Nằm không xuân, hạ đến đông, thu,
Chơn bước tay khua lướt hóa cù.
Phải định, phải rành, hồn mới thoát,
Phải siêng, phải học, phải công-phu.
Phải nghe lời dạy, đừng gieo đảng,
Yểu-tử thác oan, hết dựa mù.
Bí-khuyết ban-truyền, đời khá-chuộng,
Chơn-ngôn diệu-lý, rán tầm tu . tu
Liên
Thanh Sưu Tập.
THỂ ĐẠI DƯỢC THIÊN CƠ: QUÁ QUAN PHỤC THỰC
Tý thời, đêm 15
tháng 4 năm Giáp Dần - Đại Đạo 48 (06.5.1974).
THI
QUAN cố u huyền tại bổn tâm,
ÂM truyền dẫn nhập ẩn cơ thâm.
BỒ đài Phật Tử chân nhân xuất,
TÁT hiệp Thiên trình dương phụ âm.
Bần Đạo chào chư phận sự và miễn lễ, an tọa.
Hôm nay tiếp dạy đề tài: "Thể đại dược" tức là "Quá Quan Phục Thực".
Thiên cơ bí diệu, Chư Hiền
nên thận trọng, nếu tiết lộ sai lầm ắt phạm Thiên điều khiển trách.
Đại dược có nhiều tên gọi:
Chân Chủng Tử, Thánh Thai, Xá Lợi... là một chân bửu vật, sơ chứng sau thời Bá
Nhựt Trúc Cơ.
Vì Chơn Dương Khí nội động
nội sanh nơi khí huyệt chẳng xuất nên gọi Chơn duyên nội dược hay Kim đơn đại
dược.
Thể đại dược cần phải nhập
định. Cái hỏa hô hấp tự nhiên xoay vần bên trong, không trước ý đến mà chỉ dùng
cái công song mâu quang. Ban ngày dùng cái sáng của song mâu chuyên nhìn soi
vào Đơn Điền, vào Thánh Thai chẳng gián đoạn. Ban đêm dùng cái sáng của song
mâu giữ cầm chẳng trể thì Đại dược tự viên thành, tự xuất lư nên gọi Cơ tại mục
dã (cái máy nhiệm ở hai con mắt).
Thánh Thai có đặc tính
thượng xung nên khi được hình thành có sự chuyển động thông hượt tự hướng thẳng
lên tâm vị. Nhưng tâm vị không phải là nơi tạm trú của Chân Chủng Tử, nên phải
trở về vị trí cũ rồi tìm con đường khác mà đi.
Bởi vậy tu sĩ phải chuẩn
bị trước hai mộc tọa yểm Cốc đạo và Tỷ khiếu, là hai nơi mà Chân Chủng Tử
thường bị thoát lậu. Lại còn phải đóng chặt các của ải quan để hỗ trợ cho pháp "Quá quan" viên mãn.
- Dùng tọa cụ lót trụ Cốc
Đạo cho thận căn vô lậu.
- Tai, mắt đều quy trung,
tức soi chiếu và lắng nghe vào trong cho nhãn căn, nhĩ căn vô lậu.
- Miệng, răng ngậm kín,
lưỡi chống ổ gà cho thiệt căn khỏi lậu.
- Một niệm chẳng sanh, một
ý chẳng động cho ý căn chẳng lậu.
Như vậy sự chuẩn bị trong
ngoài đã đủ.
Chân Chủng sau khi đã trở
về Thần thất rồi theo đường dương quang mà ra. Nhưng cửa dương quang đã được
đóng chặt, nên tự chuyển ra Tam Kỳ lộ mà ra Cốc đạo. Cốc đạo cũng đã có mộc tọa
bít kín nên xung qua Vỹ Lư quan.
Vỹ Lư quan nếu còn bị Tỷ
bít, Chân Chủng liền hạ bôn Cốc đạo trở lại mà xuất ngoại.
Cốc đạo nhờ có yểm bế
nghiêm mật nên trở lên lại ải Vỹ Lư và bất động.
Lúc bấy giờ nếu dùng Chân
ý mà đạo dẫn liền, tức có sự tác hại là bị hỏa bức, khó qua ải quan. Cho nên
phải dùng Chánh công để thiện dẫn. Tức là vừa thấy Chân Chủng Tử bị trở bất
động, Tu sĩ lúc bấy giờ một ý chẳng sanh, ngưng thần bất động, chờ cho Chân
chủng động mới nhập Chơn ý vào, nhè nhẹ dẫn qua Vỹ Lư theo Đốc mạch, đi lên qua
lần ba ải: Vỹ Lư, Giáp Tích, Ngọc Chẩm, gọi là "quá quan".
Nếu ải Giáp Tích chưa
thông như hiện tượng trước, cũng dùng Chánh công mà thiện dẫn. Ngọc Chẩm quan
cũng vậy.
Chân Chủng Tử khi về đến
Thiên Môn rồi xuống Ấn Đường. Nếu Ấn Đường chưa thông mà Thượng thước kiều,
không yểm bế trước tức bị ngoại lậu.
Chân Chủng Tử qua được ải
Ấn Đường xem như pháp công phu "quá quan" gần viên mãn.
Qua Ấn Đường hạ qua Thập
nhị Trùng lầu và Phục thực về Trung đơn điền để thực hiện công phu Thuần dương
hóa Thánh Thai. Qua mười tháng dùng Tiên Thiên Chân Khí để nuôi dưỡng.
Lúc bấy giờ Trung và Hạ
điền hiệp một thành một hư cảnh thì mười tháng dưỡng thai mới vẹn toàn.
Khi đã Phục thực được Chân
Chủng Tử, ba quan, chín khiếu đều khai thông, nên từ đấy về sau Chân Chủng Tử
tự nhiên chuyển động lên xuống, xoay vần theo đường cũ đã đi qua.
Nuôi nấng do hai Khí nơi
hư cảnh của nhị điền bồi dưỡng cho Nguơn Thần. Lúc này chẳng nương ý theo tướng
Hỏa mà là cái Văn hỏa chẳng có chẳng không của Đại Châu Thiên, như trong cơ
nhập định nuôi Thánh Thai vậy.
Nghiệm cảnh theo 10 tháng
nơi Quan Khiếu:
Từ lúc sơ nhập định đến 3
tháng nơi hư cảnh tê luân hơi máy động nhẹ.
Giữ định đến 4-5 tháng thì
hai Khí nương cơ tịch chiếu của Nguơn Thần mà sự uống ăn cũng không còn.
Nguơn Thần nhơn hai Khí
bồi dưỡng nên được dương minh bất muội mà đắc chứng Chân Không.
Lúc này hai Khí đều định,
thực tịnh đã dứt, chỉ còn có một cơ tịch chiếu của Nguyên Thần và làm chủ Tiên
Thai.
Giữ tịnh được 7 tháng tức
hôn trầm cùng ma ngủ toàn vô.
Chủ tịnh được 8-9 tháng
tịch chiếu đã lâu nên trăm mạch đều trụ.
Đến 10 tháng thì đã Thuần
Dương, Thần quy Đại Định.
Định thì sanh Huệ, tự có
hiệu nghiệm Lục Thông.
Lục Thông: là Lậu Tận
thông (phần sơ chứng), Thiên Nhãn thông, Thiên Nhĩ thông, Túc Mạng thông, Tha
Tâm thông, Thần Cảnh thông.
Trong Lục thông có Thần
Cảnh thông là dụng sự của Thức thần. Nếu tâm không sáng suốt bảo trì, sẽ bị
Thức thần chuyển dụng từ chổ năng tu năng chứng mà hoan hỷ theo cơ đắc diệu:
mừng, vui, nói phúc, nói họa, nói quá khứ, vị lai... tâm trở lại động là rước
họa vào mình. Duy chỉ có Huệ mà cũng chẳng dùng mới chuyển Thức thành Trí, mới
trọn chứng thành Chánh quả.
THI
Thuần chơn nhập định thể dương minh,
Tịch chiếu Đạo Thai thoát hóa sinh.
Chuyển hướng Thiên môn ly khổ hải,
Đơn thành dẫn hiệp ý khinh khinh.
THI
Khinh khinh vì ý dẫn Đơn hành,
Xung xuất u đồ thoát tử sanh.
Cửu Khiếu, Tam Quan thăng thượng đạt,
Di Lư hoán Đãnh phục Nguyên hanh.
THI
Thập ngoại thai viên nội ngoại minh,
Hôn trầm niệm động tuyệt vô sinh.
Thuần dương chiếu hiện Thần chân định,
Hư bạch thất trung thể diệu linh.
Bần Đạo ban ân chung.
Thăng...
BÁ
NHỰT TRÚC CƠ
Khi luyện trúc cơ cần nhứt là thôi tưởng niệm.
Khi nhập định thì lần lần phải bớt hơi thở. Ðó
là công pháp. Lổ miệng và lổ mũi thì phải thở ra nhẹ nhẹ tự nhiên, chớ chẳng
nên chú ý thở nhẹ, nếu chú ý, thì tâm ý lại lo thở nơi miệng, mũi, cho nên chơn
khí chẳng định được. Hễ không định thì thuốc không hiệu nghiệm. Cho nên bế tức
(không thở) mà cũng như không bế lại, tự nhiên hơi thở nó nhẹ nhẹ.
Chữ trúc cơ là bồi đấp cái linh căn, nghĩa là
đem tam bửu (tinh, khí, thần) thâu về nơi trong lư. Phản quang vô trong, chẳng
cho nó chạy ra ngoài. Ấy là ngưng thần nhập khí huyệt. Lửa trong quẻ ly lần lần
giáng xuống nơi quẻ khôn. Nghĩa là lửa trong tâm mình nó đi lần xuống nơi hạ
đơn điền. Phúc nhiên, yểu minh đại định. Một mảy tư niệm chẳng lừng lên, một
mảy hồng trần chẳng nhuốm. Ðịnh tại khảm vị (là hạ đơn điền). Như mất, như còn.
Ngoài thì chẳng biết hình thể trời đất, nhơn ngã, trong thì không có dấu tích thân
tâm chi hết. Làm được vậy, lần lần mới được an. An đây nghĩa là hòa. Ấy vậy,
cái lý xung hòa đã đặng rồi. Công tu luyện đến đó, như đài cao 100 thước, mà
bước được đến chót, mà vẫn còn phải lần lên nữa.
Hễ ở dưới đáy nồi, có hơi
lửa nóng, thì hơi nước phải lừng lên, như nấu nước vậy. Ðó thiệt là hỏa bức kim
hành.
Lại nói khi trúc cơ, ngoài
thì lổ tai đừng cho nghe, con mắt đừng cho thấy, còn trong thì tâm đừng cho
biết lo lường, chẳng biết đến, chẳng hay đến việc chi hết. Cái tâm phải cho
trong sạch như khí thái hư vậy. Ðến đối tưởng cái thân của mình cũng như không
có. Lúc đó thì yểu yểu, minh minh, hoảng hoảng hốt hốt, lâu lâu sẽ thấy những
cảnh không tưởng mà thấy .
THỂ TIỂU DƯỢC LUẬN
Hễ thuốc chín thì thần của
mình nó biết tự nhiên. Nếu thần không biết thì đã có lầm lỗi điều chi trong
việc luyện thuốc đó rồi vậy.
Lúc tiểu dược sanh ra, thì
hai con mắt có hào quang phóng ra, hai lổ tai có hơi gió thổi ù ù, đàng sau ót
có động tiếng lớn, ở trong huyệt khí thì nóng cũng như nước sôi, cái khí nóng
ra nơi đường dương quang, chạy vòng vòng lại nơi đơn điền, rồi đi thẳng đến vĩ
lư. Lúc đó cái dạ dưới (bas-ventre) và hai cái bắp đùi nó làm như muốn đi. Phải
dùng thần công mà giáng phục nó, đặng biện phân già non. Lấy thuốc mà nấu
luyện, rồi vận một châu thiên, động rồi lại động thêm, tịnh rồi lại tịnh nữa,
vận châu thiên rồi vận thêm nữa.
Nếu thuốc già quá thì khí
tán, ắt kim đơn chẳng kiết, còn non quá khí ít, cũng không thành đơn đặng. Phải
cho đừng già, đừng non. Khí nóng phải ấm ấm hoài, như hồi mới tắm vậy. Lúc đó
không già quá, mà cũng không non quá, thiệt là lúc phải thời lấy thuốc mà vận
hành, thì kiết kim đơn chẳng sai.Phàm khi nào tại trong đơn điền có chơn khí
phát động,
thì phải luyện vận một
châu thiên. Luyện thuốc mà chẳng vận một châu thiên thì lửa tắt chẳng đủ.
Lời xưa có nói: "Vận
rồi cái máy hà sa, ngươi sẽ đi ngủ lại. Rồi mai sẽ làm y theo cái đó mà tiếp
thiên căn. Luyện cho đến ngươn tinh chẳng động nữa, cái dâm căn (ngoại thận)
thụt vô như đầu con rùa vậy, thì ngoại thận chắc thành rồi.
Phải thổi điều hậu thiên
võ hỏa, mà giữ văn hỏa như cũ, đặng ôn dưỡng tịnh định mà đợi cho dương quang
(lằn khí sáng) phát ra lần thứ hai nơi trước mặt, thổi khí ấy nó chạy đến cây
cột cờ trước cửa ngõ (sóng mũi) thì kim đơn thành rồi vậy.
Ðây là nói sự nguy hiểm
trong giờ công phu tu luyện.
Thuốc sanh ra mà chẳng
biết thời, là chẳng biết già non, là nguy hiểm. Thể thu thái quá hay là bất cập
cũng là nguy hiểm. Thể vận mất chừng đổi là nguy hiểm. Vận hành chẳng thấy trở
lại chỗ ban đầu là nguy hiểm. Tấn dương hỏa chẳng biết chỗ tắt lửa, là nguy
hiểm. Thổi ấm phù chẳng biết chỗ qui căn là nguy hiểm. Lửa đủ chẳng biết chỗ
tắt là nguy hiểm. Nơi khí phải xoi mấy quang khiếu, mà xoi chẳng thiệt thông là
nguy hiểm. Lúc quá quang phải tụ, mà lại tán là nguy hiểm.
Lúc quá quang chỗ thước
kiều là nơi nguy hiểm. Lúc phục thực nơi huỳnh đình phải làm như hư không, nếu
có trứ ý chi một mảy thì là nguy hiểm rất lớn. Chẳng mất dương thần đặng, thì
là nguy hiểm. Lúc nhập định, xuất định cũng nguy hiểm lắm. Mà khi đạo thành rồi,
biết đặng thiên biến vạn hóa, thì các sự nguy hiểm đều dứt hết.
Lúc vận hành châu thiên
thì phải chủ nhơn ý nơi đơn điền. Phát ý cho gió tốn phong thổi động chuyển càn
khôn. Lúc lấy thuốc phải dùng ý đặng giữ thuốc nơi đơn điền. Phải giữ cho thiệt
cẩn thận, rồi mới nên vận chuyển.
THỂ DƯỢC QUI
LƯ LUẬN
Lấy thuốc mà đem vào lò,
ấy là ngưng thần đem vào khí huyệt. Phải mượn hơi hít vô thở ra của khí hậu
thiên mà tìm hô hấp (hơi thở) của chơn nhơn. Mỗi hơi thở đều qui căn, thì tự
nhiên khí nó kêu, nó động, nó hít vô, nó thở ra, lại đi ngược trở về.Nói rằng
thở ra,
thì khí về nơi khiếu, nên
hơi khí thở trong cái ống tiêu khổng lồ ở trong mình ta (cái họng thở). Thường
biết bởi cái khí ấy nó qui căn.
Nói rằng: Cái hơi thở đó
nó sâu lắm. Khí hậu thiên hô hấp hay lưu luyến thần khí. Khí hậu thiên hít vô
thở ra nhẹ nhẹ mà chẳng dứt, cứ đi về chỗ gốc nó chẳng khi nào thôi. Chơn khí
đã đặng sức mạnh thần lực của khí, vậy thì khí đó tự nhiên trở về gốc nó.
Nói rằng: Phải dùng ý
nhiệm mầu mà vận động hơi khí ở trong, đặng chiêu nhiếp cái khí động ấy cho nó
qui căn. Lại nói: Hễ khí nó chạy nơi ngoài, thì thần cũng ở nơi ngoài. Còn thần
trở về nơi gốc (qui căn) thì khí nó cũng trở về nơi cung. Thần mà trở lại nơi
mình rồi, thì tự nhiên khí cũng trở về rồi.
Nói rằng: Lúc ấy tâm ý
chẳng nên hôn trầm, tán loạn (tối tâm lộn xộn), phải chuyên tâm thành ý, một
việc trần thế chi cũng đừng biết tới, một mảy chi việc nhơn dục không biết đến.
Phải lo lấy thuốc mà đem về lò, rồi sau sẽ gói gấm gìn giữ thuốc ấy theo phép.
PHONG CỐ LUẬN
Khi đem thuốc vào lò rồi
thì phải lo phong cố (niêm cất) chớ chẳng nên để nó chạy ra ngoài.
Phải ngưng thở khí tốn
phong, ngưng thần nhập định. Liểu tâm liểu ý. Ðịnh tâm nơi không vị, đợi cho
thuốc đúng (là không già, không non) đặng có phát ý mà khởi hỏa, vận hành châu
thiên. Cái tâm và hơi thở phải nương nhau. Chẳng nên mau quá, mà cũng chẳng nên
chậm quá. Phải giữ xung hòa mà vận hành cho đến cung càn. Khí âm, khí dương
giao cấu với nhau rồi, thì lại trở xuống khôn cung mà qui căn, huân chưng, mà đợi
khí dương sanh ra, ấy là vận châu thiên đặng giáp vòng rồi.Nói rằng: Lúc trúc
cơ
đặng yểu minh là huyền
diệu. Khí dương mới động lần thứ nhứt mà cái tâm mình nó biết, ấy là huyền
diệu. Ðiều ngoại dược, phải ráng sức mà nấu luyện mới có huyền diệu. Lúc thuốc
sanh ra ngưng thần mà chiêu nhiếp thuốc ấy là huyền diệu. Lúc phong cố bỏ dứt
được các niệm tưởng không sanh, không diệt là huyền diệu. Dưỡng thai mà việc
niệm tưởng không sanh, không diệt là huyền diệu. Thánh thai đã viên thành rồi,
mà chẳng xuất thần là huyền diệu. Chiêu thần lên thượng đơn điền đặng ôn dưỡng,
mà thần không xuất là huyền diệu. Ðiều thần , xuất xác mà cẩn thận chiếu cố
được là huyền diệu. Diện bích mà tịch diệt đại định được ấy là huyền diệu.
THỦY NGUYÊN THANH CHƠN LUẬN
Thủy là dược, nguyên là đơn điền. Thể dược thì
phải tịnh, đặng đợi cho khí phát động thì dược yểu yểu minh minh mà đại định.
Việc lo lường vọng tưởng một mảy chẳng biết đến, chẳng hay chẳng biết việc chi
hết, một việc trần thế chi nhỏ mọn hết sức cũng không đến lòng. Khi ấy thủy
động mới là thiệt chơn thủy. Dược miêu lấy hồi đó mới là chơn thanh dược miêu.
Như vậy thì lúc tịnh định cho dược miêu sanh
ra, nếu trong lòng còn lo lường việc chi, vọng tưởng điều gì, làm cho trần
duyên tạp nhiễm, cho nên còn biết, còn thấy, còn nghe, thì thủy nguyên chẳng
đặng thanh chơn, nếu lấy dược miêu ấy mà dùng thì không thành chơn đặng.
Bởi dược miêu theo nơi nguồn trong mà phát
sanh, nếu lấy dùng thứ đó mới thành đơn dược. Còn tại nơi trược nguyên (nguồn
đục) mà sanh ra thì phải bỏ đi, không nên lấy mà dùng.
Lại như dâm niệm phát sanh, thì không nên lấy
thuốc lúc đó mà dùng. Hễ mà dùng thì chẳng thấy khỏi thành huyễn đơn, chớ chẳng
thành chơn đơn bao giờ.
HƯỢT TÝ THỜI LUẬN
Hượt tý thời có nhiều thế. Lúc trúc cơ trong
mình có chơn khí rọ rạy là lúc hượt tý thời. Hồi dương khí động lần đầu tiên,
sanh chơn chưởng là hượt tý thời. Khi ngươn tinh ra quang khiếu là hượt tý
thời. Tiểu dược sản sanh là hượt tý thời. Dược khí nó chạy ra ngoài lúc hành
động là hượt tý thời. Khí nóng ấm ấm là hượt tý thời. Chơn khí lên xuống là
hượt tý thời. Ðơn dược phóng hào quang chói rỡ là lúc hượt tý thời.
Hễ hào quang phóng ra 3 lần thì phải lấy
thuốc, mà khi đại dược phát sanh là hượt tý thời. Khi đại dược quá quang hành
động là hượt tý thời. Chơn khí chẳng chuyển mà tự nhiên động là lúc hượt tý
thời. Khi thánh thai đầy đủ, có hiện ra như bông tuyết phiêu phiêu phưởng
phưởng là lúc hượt tý thời. Ðiều thần ra khỏi xác cũng là lúc hượt tý thời.
Nói rằng: huyền quang cũng là hượt tý thời.
Mỗi món công phu chi chi có huyền diệu, cơ quan đều là hượt tý thời. Người tu
luyện km đơn mà chẳng rõ hượt tý thời thì chung cuộc khó luyện nên đơn dược
đặng.
Lại nói rằng: Ði, đứng, nằm, ngồi mà khi không
ngoại thận cử động là lúc hượt tý thời.
Ðức Lữ Tổ nói: Ngoại thận cử động thì phải ra
công luyện vận, còn người thận tịnh thì nghỉ. Hễ ngoạ thận mới động, tức khắc
phải chế phục nó, như động nhiều thì phải ráng hết sức mà nấu luyện. Hượt tý
thời cũng là tên riêng của huyền quang. Hễ huyền quang thấu lộ, bất kỳ động hay
tịnh, lúc đó đều là hượt tý thời.
Hượt tý thời chẳng phải dễ tìm được. Phải có
người truyền chơn quyết mới biết đặng. Kẻ hậu học phải thành tâm mà đợi đến lúc
hư cực tịnh đốc, thì tự nhiên huyền quang thấu lộ (có hình dạng lố ra).
LƯ ÐẢNH LUẬN
Lư đảnh là thần khí. Khi
ngưng thần cho nó vào trong khí huyệt: Lúc đó thần là đảnh, khí là lư. Khi
thuốc sanh là đảnh, đơnđiền là lư. Lúc lấy thuốc đem vô lò, khí là đảnh, thần
là lư. Lúc vận khí đặng thể thủ, thần là đảnh, khí là lư. Khi vận khí lêncàn
cung (trên đầu), càn là đảnh, khôn là lư. Lúc giáng hạ qui căn, ly là đảnh,
khảm là lư. Khi vận đại châu thiên, khí là đảnh, thần là lư. Lúc tam niên nhũ
bộ, thần xuất nhập, khí là đảnh, thần là lư. Nói tóm lại, hễ ở trong hay là ở
trên thì là (đảnhchảo), còn ở dưới hay ở ngoài là lò. Dù có ngàn thí muôn dụ đi
nữa, cũng là thần khí mà thôi, chớ không có chi khác hơn nữa.
Muốn tu luyện kim đơn,
trước hết phải lo lập tam điền là:
1 . Hạ đơn điền: là chỗ luyện bá nhựt trúc cơ thành
đơn
2 . Trung đơn điền: là chỗ dưỡng thai trong 10 tháng
(thập ngoạt hoài thai)
3 . Thượng đơn điền: là chỗ tam niên nhũ bộ, xuất
thần tại nơi đó
4 . Mạch nhâm, mạch đốc là hai đường của thần khí qua
lại, lên xuống.
TIỂU CHÂU THIÊN QUỐC ÂM CA DIỂN
Muốn học cho đặng thành
Tiên, thành Phật không có chi khác hơn là luyện sao cho được mờ mờ mịt mịt, cho
đặng dươngthần gom lại, mà vào trong huyệt khí, thì thành Tiên, Thánh, Phật
được.Muôn việc chi dính dấp với đời đừng biết tới, thì chẳng có một mảy niệm
tưởng chi sanh ra được. Một mảy trần tục chẳngnhiễm thì mới trừ được các sự mê
tâm. Phải lấy ý mà đem sự sáng của 2 con mắt vào trong khí huyệt cho lâu, thì
thần khí nótrở về chỗ gốc sanh ra nó (qui căn).
Nước lửa gặp nhau rồi, thì
kim mộc đều giao tiếp với nhau. Rồng (hỏa), Cọp (thủy) tranh đấu với nhau, thì
mặt nhựt, mặtnguyệt đều vào 1 chỗ (là ý nói hồi quang phản chiếu) cho âm dương
hội hiệp. Anh (dương), Trạch (âm) giao cấu với nhau thìđược xung hòa, huân
chưng. Lửa đốt dưới đáy lò thì khí nóng nó hừng lên. Khi có khí dương hừng lên
lần đầu hết, thì nó rọ rạy nơi đường dương quang, như là tinh muốn chảy ra
ngoài vậy. Lúc khí âm nhiều hết sức rồi, thì có khí dương sanh ra. Lúcđó là lúc
tiểu dược mới sanh ra. Nên phải tận lực nấu luyện cho tinh hóa ra khí. Hễ đơn
dược sanh sản ra rồi, mà thần củamình tự nhiên nó biết, thì mỗi hơi thở đều trở
về gốc.
Phải lấy ý mà giữ chỗ
quang ngươn hoài, vậy thì có khi biết, mà có khi cũng không biết vì bởi tịnh
định. Lấy thuốc đem vô lòthì phải giữ thuốc tại đó cho ấm ấm hoài, khí nóng nó
hừng lên, như hồi mới tắm vậy. Vậy phải mau mau vận hỏa, chớ đừngchậm trễ không
nên.
Phải lấy ý mà giữ trung
cung đặng mà vận châu thiên. Ðừng vận mau lắm, phải vận chậm rải cho thần khí
xung hòa. Rồi lo tấndương hỏa, thì thần khí đều đi một lượt với nhau.Chẳng nên đi
trước, cũng không đi sau, thần khí phải đồng đi một lượt.
Lại phải vận thần khí đi
đến khiếu nê hườn, đặng nuôinấng thần cho nó mạnh mẽ chiếu định. Lúc đó âm
dương đã giao cấu với nhau rồi, nên phải thở nhẹ nhẹ như hơi thở của cácvì
Tiên, Thánh vậy. Khi dương khí nhiều hết sức rồi, thì phải thối âm phù.
Phải thở ra, hít vô cho
nhằm nhịp đặng hơi thở nó trở về gốc. Lúc ấy là lúc phải thời cho khí hậu thiên
và lửa vỏ hỏa đi chạy. Khi đơn dược về đến đơn điền rồi thì cũng cứ ôn dưỡng nó
cho ấm ấm như đã vận luyện trước vậy.Lúc đó phải đợi cho khí dương sanh ra nữa,
rồi cứ nấu luyện vận xây,
y một cách như đã luyện vận trước vậy.Giờ Tý khởi hỏa cho nó đi nghịch lên trên
Côn lôn (đầu).
Trong 36 hào dương (của 6
giờ dương) thì có 4 hào là tứ điệp đi theo đường kinh lộ (mạch máu).Tới giờ ngọ
thì đem thuốc xuống
cho nó thuận thời mà đi
một lượt. Trong 24 hào (của 6 giờ âm) thì cũng 4 hào thuộc về tứ điệp nó trở về
gốc.
Giờ mẹo, giờ dậu không kể
vô, vì mắc mộc dục (nghỉ) nên mới dư ra mà làm nhuần. Vận được 300 châu thiên
thì kim đơn tụ ngưng (gom lại). Khí đủ thì phải tắt lửa đặng chờ dương quang
hiện ra lần thứ hai.Luyện được kim đơn rồi thì được qui túc, là dâm căn nó thun
lại như đầu con rùa vậy. Hết muốn dâm dục nữa. Ðó là luyện tiểu châu thiên.
THỂ ÐẠI DƯỢC LUẬN
Khi lửa đúng thì phải tắt
lửa. Nếu lửa chẳng dứt thì lửa vỏ hỏa của hậu thiên sót lại, ắt kim đơn chẳng
khỏi bị hại bởi lửa dư ấy.
Nếu tắt lửa cho hiệu
nghiệm thì ngoại thận teo lại cũng như đầu con rùa vậy, thường chữ kêu là qui
túc.
Ngoại thận không cử động
chi hết, cho đến đổi lại gần đàn bà nó cũng xụi lơ. Còn nơi đơn điền thì thường
thường lại âm ẩm ngoài. Từ con mắt cho đến nơi lổ rún thì có 1 con đường sáng
chói lòa kêu là bạch quang khí.
Như lúc ấy mà ngươn tinh
chưa động thì đừng vận châu thiên nữa, phải tịnh mà đợi cho dương quang (khí
sáng) phát hiện ra lần thứ hai. Còn như hậu thiên ngươn khí nó động, chẳng nên
lấy thuốc mà dùng. Phải ngồi mà nhập định, đợi cho dương quang hiện chói lần
thứ ba. Lúc ấy lửa đủ thì đơn dược mới thành. Chừng đó trong hạ đơn điền mới có
đại dược. Phải lấy đại dược đó mà thủ luyện thì mới thành kim đơn.
Rồi trở lại dùng phép đại
châu thiên đặng trừ diên, thêm hống (bớt âm, thêm dương). Lần lần khí dương
nhiều thì khí âm phải tiêu mòn hết. Tự nhiên thuần dương, hết âm, thì dương
thần thành tựu, ắt sau thần định. Còn như thần không định thì dương thần chẳng
xuất hiện ra đặng. Ông Xung Hư chơn nhơn nói rằng: Tắt lửa là luyện sao cho
dược vật chẳng động nữa. Lại có dương quang hiện ra lần thứ hai là chừng ấy
phải tắt lửa đó. Phải tắt cho hết vỏ hỏa, còn văn hỏa thì để vậy mà ôn dưỡng
khá rời.
Dương quang nó phát hiện
ra trước chơn mày, có lòa ra như điện khí chớp nhoáng, đó là dương quang hiện
lần thứ nhất. Lúc ấy lửa chưa đủ, nên ngoại thận cũng chưa thụt vô.
Như gặp có khí dương sanh
phát thì lấy mà vận luyện. Phải vận 1 châu thiên, cứ luyện như vậy hoài cho
được nhiều phen. Tịnh rồi lại tịnh nữa, vận châu thiên cho giáp vòng, rồi vận
nữa cho đến khi đầy đủ, lo nhập định đặng bồi bổ chơn dương, đặng đợi cho dương
quang hiện ra lần thứ nhì. Như lúc hiện lần thứ hai đó có khí động, chẳng nên
lấy thuốc mà dùng. Phải lo nhập định mà thôi, đặng đợi dương quang hiện lần thứ
3, mới nên lấy thuốc đại dược. Lấy thuốc ấy mà vận luyện.
Ðại dược khi nó mới khởi
ra thì hình nó như trái châu lửa (hỏa châu). Lúc đại dược sanh thì có hiệu
nghiệm như vầy: 2 con mắt phóng kim quang (hào quang chói sáng như điện khí), 2
lổ tai nghe gió thổi vù vù, đàng sau ót nghe tiếng kêu, hai bên thanh cật (sau
lưng chỗ gần eo lưng) nóng tợ nước sôi, còn dưới hạ đơn điền nóng tợ lửa đốt.
Hễ có cái cảnh tượng như
vậy thì là có đại dược sanh. Phải lấy ý dời nó lên trung đơn điền. Trước hết
phải dùng hà sa (*thủy xa*) mà vận cho siêu thoát, thì lục căn mới không lậu
(hở chảy ra) ở tại đường cốc đạo, thì giữ gìn đừng cho nó địt.
Hễ đại dược sanh ra thì nó
chạy vọt lên tâm (tim). Nếu tâm vị không chứa đặng thì nó hạ xuống nơi vĩ lư.
Như vĩ lư chẳng thông, nó lại chạy thẳng xuống cốc đạo mà tẩu triệt ra ngoài.
Lúc ấy phải thủ tịnh mà
đợi cho chơn khí động lại, rồi nhẹ nhẹ dùng ý mà dẫn đại dược qua khỏi cốc đạo,
vì sợ nó chạy bậy ra ngoài. Nếu gặp nhầm vĩ lư bị điều chi ngăn trở, chẳng
thông thì phải thủ tịnh nữa. (Một mảy vọng niệm chẳng tưởng tới, một ý trần
gian chẳng muốn đến) Tịnh mà đợi cho chơn khí động lại nữa. Chẳng nên bất tử mà
dẫn đại dược đi, phải đợi cho chơn khí động lại, rồi cũng dùng ý nhẹ nhẹ mà dẫn
đại dược qua vĩ lư.
Bắt từ giáp tích cho tới
ngọc chẩm (sau ót), đi đến minh đường, xuống trùng lầu (cuống họng) rồi quá
quang. Như có việc chi ngăn trở thì phải đợi cho chơn khí động lại nữa, rồi
cũng nhẹ nhẹ vận dụng mới được. Lúc xuống trùng-lầu ấy cũng như hồi phục thực
vậy. Ðại dược vào nơi trung đơn điền, chỗ thần nhất (là chỗ dưỡng thần). Cho
nên trung đơn điền và hạ đơn điền thông rồi thì hiệp lại làm một.
Khi ấy dưỡng đại dược nơi
trung đơn điền thì ngươn thần tịch chiếu nơi hạ đơn điền và trung đơn điền, thì
đại dược cần phát sanh. Còn ngươn thần tuy ở trung đơn điền, mà cũng vận động
tới cả về trung và hạ đơn điền. Nên nhị khí mới diệu dụng, hóa ra cảnh giới hư
không.
Lúc ấy phải dùng lửa ấm
ấm, dường như có mà cũng dường như không, thì văn hỏa mới hiệp mầu nhiệm, và
nhị khí lên xuống tự nhiên. Chẳng cần để ý mà dẫn nó, cứ để tự nhiên cho nó đi.
* Châu thân con người có tam điền: thượng điền từ đầu
tới cổ, trung điền từ cổ tới rúng, hạ điền từ rúng sấp xuống. Lại có tam xa: ở
hạ tiêu gọi là hà xa (thủy xa), trung tiêu có hỏa xa, thượng tiêu có khí xa
(thần xa)*
THẬP NGOẠT HOÀI THAI LUẬN
Mười tháng dưỡng thai
chẳng dùng hà xa, cứ thở nhẹ nhẹ như thai của con hạt, như hơi thở của con rùa.
Trong một năm mộc dục đó
phải ngăn ngừa sự nguy hiểm. Phòng đây là phòng cái tâm chẳng định. Thường
thường phải giữ hơi lửa ấm ấm hoài và cho có chừng, đừng cho lửa nhiều mà cũng
đừng cho không lửa. Thường định, thường biết. Nếu chẳng hay, chẳng biết e tại
lửa lạnh quá, thì đơn dược ắp phải chậm.
Lại nói rằng: Hồi mới nhập
định, phải dùng hỏa hầu mà luyện khí cho thành thai, đặng hóa thần anh nhi
(ngươn thần). Khi ngươn thần được linh và thánh thai thành rồi thì không dùng
hỏa hầu nữa. Nếu vọng ý còn hành hỏa nữa, thì chẳng khỏi làm hại cho thánh
thai.
Chủ yếu cho có lửa ít ít
mà phải cho còn lửa hoài thì 2 hơi khí mới định được hết.
Rồi thì thành được cái
cảnh hư vô, nên kêu rằng: Mười tháng đậu thai thần. Hễ thần được trọn rồi ắt
xuất ra tại nơi hạ đơn điền và trung đơn điền, dời lên thượng đơn điền.
Lúc mới nhập định phải giữ
định 3 tháng, cho 2 khí động nhẹ nhẹ nơi rúng. Phải lấy chỗ rúng làm chỗ hư
cảnh (chỗ không không).
Gìữa định cho đến 4, 5
tháng thì 2 hơi khí âm dương đều ngừng, chừng ấy cái tánh ăn đã dứt được
<tuy không ăn mà trong bụng không biết đói cũng như có ăn vậy, vì khí đầy đủ
rồi>. Còn có một mình ngươn thần tịch chiếu mà làm chủ cái thai Tiên mà
thôi.
Ðịnh đến 6, 7 tháng trong
tâm chẳng sanh việc chi hết mà cũng chẳng diệt. Lại không ngủ nữa không ngủ mà
vẫn khỏe như đã ngủ vậy. Còn người phàm không ăn, không ngủ thì làm sao sống
được>. Ðịnh tới 8, 9 tháng, trăm mạch trong mình đều ngưng lại hết.
Ðến 10 tháng, tiên thai đã
đặng thuần dương <là trọn khí dương, không còn khí âm nữa> thì thần trở
về đại định. Hễ thần đại định rồi, thì hay sanh huệ <là sáng láng, thông
minh> tự nhiên có cảnh nghiệm lục thông phát ra. Lục thông là: lậu tận
thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, túc mạng thông, tha tâm thông, thần
cảnh thông. Trong lục thông, dầu được 1 miếng thần cảnh thông cũng đủ vui rồi,
vì biết được việc họa phước của người thế gian, biết được việc qua rồi, cùng
việc xảy tới.
Như người tu luyện chẳng
dùng sự huệ ấy, thì sự huệ đó hóa thành ra trí <trí là biết so sánh, biết
việc phải, việc quấy, rõ việc nên việc hư. Nhiều người dùng sự huệ mà bói khoa,
quyết đoán họa phước.
MÔN NHƠN VẤN ĐÁP
Ông Quán Trung hỏi: Dương
thần của các bậc Tiên là làm sao? Xin thầy chỉ bảo.
Ðức Lý Tử đáp: Dương thần
có 5 bực:
1 . Nhơn Tiên
2 . Ðịa Tiên
3 . Thần Tiên
4 . Thiên Tiên
5 . Kim Tiên
Trong một trăm ngày công
hạnh, khí đủ nơi hạ điền thì chứng bực nhơn tiên. Nhơn tiên cũng chẳng lìa
người, giữ cho được như vậy ích thọ diên niên. Bằng không thì thần trì, khí
tán, không khác nào phàm nhơn.
Nhơn Tiên gia công lấy đại
dược, quá quan phục thực ở trung điền thì chứng quả Ðịa Tiên. Ðịa Tiên cũng
chẳng lìa đất, nên không khỏi thác, ấy thiện thần khí phân hai. Chết rồi ngươn
thần chẳng độc lập đặng, thì chẳng khỏi đầu thai. Cho nên nhơn tiên cùng địa
tiên cũng đồng một thể. Ðịa tiên gia công dưỡng thai 10 tháng, không ăn không
thở, 100 mạch đều ngừng, thánh thai đầy đủ xuất thần, gọi là dương thần. Ở trên
thượng điền thì chứng quả thần tiên. Thần tiên chẳng lìa thần, dương thần còn
non chẳng hay vượt ra ngoài trời, cũng không thần thông, bất quá sống lâu bằng
trời đất mà thôi. Thần tiên gia công điều thần xuất xác, luyện hư vô chi dương
thần, luyện thần hườn hư, tam niên nhũ bộ, thần khí tiệm lão, thông thiên triệt
địa, thiên biến vạn hóa, chứng quả nơi thượng điền, ấy là bực thiên tiên đó.
Thiên tiên chẳng lìa trời đất. Thiên tiên gia công 9 năm diện bích, luyện hư
hườn vô, thần công thường định, thường tịnh, lâu dương thần kiên cố, pháp lực
quảng đại, ngao du bắc cực, siêu xuất thiên ngoại, vĩnh kiếp trường tồn, tiêu
diêu cực lạc, chứng quả kim tiên.
Ông Quán Trung hỏi: Dương
thần 5 bậc, còn âm thần thì dường nào? Xin thầy chỉ rõ.
Ông Lý Tử đáp: Âm thần
cũng có 5 bậc. Bậc thứ nhất nói sự họa phước trên đời, thấy quỉ, thấy thần. Bậc
thứ nhì thấy thiên cung cùng địa phủ. Bậc thứ ba đi chơi trên thiên đường cùng
dưới địa phủ. Bậc thứ tư thành thần, bậc thứ 5 thành quỉ tiên.
Bậc thứ 1 : nói sự họa phước của người và thấy quỉ thần là bởi tiền thế có căn, ấy là
bậc giả đạo gạt người.Bậc thứ
Bậc thứ 2 : thấy thiên cung cùng địa phủ, ấy
là bàng môn tả đạo. Bậc này dụng công cẩn bế lục môn, xuất âm thần, thường làm
hại người.
Bậc thứ 3 : đặng đi chơi trên thiên đường cùng dưới địa phủ, gọi là ngoại đạo. Bậc
này ngồi thiền còn tư lự, vọng tưởng ấy là ma đạo phỉnh người.
Bậc thứ 4: thành thần. Vốn là thiên thượng thần tiên, lầm
lỗi phải đọa xuống phàm trần. Hoặc quỉ tiên, địa tiên mượn xác người mà chuyển
kiếp. Hoặc thần tiên du hý chốn nhân gian, bất muội linh căn, khi còn nhỏ đã
hiểu đặng vị lai quá khứ, cũng có thần thông. Nhưng không biết tu trì, nên khi
chết làm thần.
Bậc
thứ 5: là quỉ tiên. Bậc này
chẳng gặp chánh đạo. Khô tọa, bàng môn. Ngày đêm công siêng, âm thần xuất hiện,
chứng quả thượng đẳng quỉ tiên, trung đẳng quỉ tiên, sau chết xuống âm phủ làm vua. Bậc
hạ đẳng quỉ tiên, sau chết rồi cướp thai người mà tái sanh.
Hỏi: Tý, ngọ, mẹo, dậu, ôn
dưỡng, mộc dục là nghĩa làm sao?
Ðáp: Khi mới hạ công luyện
đạo, thần khí nhập định là dậu thời mộc dục. Ðịnh chờ dương sanh, động rồi lại
tịnh, là tý thời mộc dục. Tấn dương hỏa rồi thôi. Hỏa là mẹo thời mộc dục. Chơn
tức pháy động là ngọ thời mộc dục. Cho nên tý, ngọ, mẹo, dậu đều có nghĩa là
mộc dục ôn dưỡng. Ấy là sự diệu dụng của kẻ tu Tiên, Phật. Nói tấn là tấn dương
khí chi hỏa. Thủ là lấy ngươn tinh trong thận. Nói thối là thối âm khí chi phù.
Thể là võ hỏa, phanh cũng là võ hỏa. Luyện là luyện âm tinh. Hỏa trung hữu phù,
phù trung, hữu hỏa.
Hỏi: Già non dường nào?
Ðáp: Già dậu mộc dục rồi,
dương khí động, thì phải lấy thuốc. Thuốc mới sanh gọi là non, chẳng hay thành
đơn. Ðộng rồi lại tịnh, là tý thời ôn dưỡng. Tịnh rồi lại động, chẳng lấy thuốc
thì già quá, cũng chẳng thành đơn đặng. Tấn hỏa mẹo thời mộc dục, đơn chưa
thuần thục, thối phù sớm quá ngọ thời ôn dưỡng chẳng thối phù, thì cũng thái
quá, cũng chẳng thành đơn.
Hỏi: Già non trong lúc nào?
Ðáp: Âm cực dương sanh. Hễ dương vượng
thì phải thể vận lên càn cung. Dương cực âm sanh, hễ âm vượng thì phải thối phù
qui căn. Già ấy là giờ chẳng già, chẳng non. Tấn dương hỏa, hỏa ấy là khí. Thối
âm phù, phù ấy là thần. Hỏa trung hữu phù, phù trung hữu hỏa. Hỏa phù hiệp
luyện thành kim đơn. Tấn là tấn chơn khí chi dương hỏa. Thối là thối âm thần
chi âm phù. Tấn thối đều tại nê hườn. Thể thủ là lấy cái ngươn tinh của chơn
dương. Phanh luyện là chưng nấu trược tinh của âm khí. Thể thủ phanh luyện đều
ở nơi khí huyệt.
Lại nói: Tấn là đi từ cung
khảm lên thượng đơn điền. Thối là đi từ cung ly xuống hạ đơn điền.
Lại nói rằng: Thiên can
địa chi bát quái, đảnh lư đều là lời diệu dụ trong phép luyện đơn.
Người đời chấp trứ có
thiệt tướng của phương vị, nên tu luyện đến chết cũng không thành. Vả lại, quan
khiếu là đường tắt của phép luyện, người đời bởi chấp trứ có thiệt tướng, nên
cũng là luống công vậy. Phàm hết thảy những lời ví dụ, là sự diệu dụng của phép
tu đơn, kỳ thiệt tóm lại là thần, khí, hai vật hiệp làm một vậy mà thôi.
Hỏi: Tu luyện ngồi cách
nào phải phép?
Ðáp: Tu luyện kim đơn,
ngồi lâu ngồi mau tùy sức mình, chẳng khá cượng dụng vậy. Chẳng luận ngồi lâu,
ngồi mau, tổng yếu là phải có tiên truyền chơn quyết. Nếu không chơn quyết, nào
sợ trường tạ mà chẳng nằm, vì cũng là vô dụng vậy.
Ðức Lục Tổ nói rằng: ngồi
lâu nhiều yêu quái, bồ đề sao đặng lớn, nằm ngủ chẳng lo lường, bồ đề ngày ngày
lớn, giờ sống thường ngồi chẳng nằm, giờ chết sau thường nằm chẳng ngồi, một
đống xương cô lâu, hai dạng hạnh làm gì?
Kẻ trai tráng ngồi thường
cũng tốt. Người tuổi già thường nằm chẳng ngồi. Còn ngồi hoài, thần mỏi khí
yếu, làm sao mà đặng kiết kim đơn. Phải bảo dưỡng ngươn tinh làm diệu, chẳng
khá ngồi hoài mà chẳng nằm. (Mười tháng dưỡng thai mới nên trường tọa đó).
Hỏi: Tiền tam tam, hậu tam
tam, hai cái tam tam làm một gánh nghĩa lý làm sao?
Ðáp: Tiền tam tam là tam
điền, hậu tam tam là tam quan. Trước tam điền cửu khiếu là một gánh, sau tam
quan cửu khiếu là một gánh, há chẳng phải hai cái tam tam là một gánh hay sao?
Ðều phải ra nơi huyền quan vậy. Nhiều năm công khó không người biết, một kỷ phi
thăng thiên hạ nghe.
Ông Minh Tánh hỏi: Bàng
môn ngoại đạo cũng thành đạo chăng?
Ðáp: Chẳng đặng thành đạo,
vậy 3,600 thứ bàng môn, 96 giống ngoại đạo đều là hồng phước, tụng niệm ca
xướng, nghe rất đẹp tai. Vả lại bỏ hồn phách, tinh khí thần: tý, ngọ, mẹo, dậu
là giờ định mà nuốt âm khí, hớp dương khí, ấy là ma căn. Khô tọa bàng môn còn
tư tưởng, hễ tinh thần tiêu hết, thì mạng khó giữ. Lạy tinh tú là sự hao sức vô
ích. Vẽ bùa vẽ quái, uổng tinh thần. Ðạp quái, niệm chú là lộng phỉnh quỉ thần.
Một đời lao nhọc công không có. Bế hơi lo lắng tổn huyền khí. Mặt vàng gầy ốm
hình tướng quỉ. Thọ giới đốt mình thiệt người ngu. Ngỗ nghịch mẹ cha hại thân
thể. Ngoại đạo phép tà kêu gió mưa. Ðằng vân giá võ thiệt yêu tinh. Vị lai quá
khứ nó biết đặng, một tánh âm linh cũng không dùng. Ðánh giặc trong phòng tổn
âm đức. Mắt trời lồng lộng chẳng dung tình. Ðánh bảy luyện ma đau khổ huyết.
Lầm tin thầy là hại tánh mạng. Hết thảy bàng môn cùng ngoại đạo, các ngươi bình
luận lấy trong lòng.
Ông Minh Tánh hỏi: Ðời
nay, tăng nhơn xưng mình là đại hòa thượng, có đắc đạo chăng?
Ðáp: Chẳng phải vậy. Kẻ
kia miệng xưng đại hòa thượng, truyền phép trên giấy, truyền câu chữ phàm, là
giả danh, cũng như ca nhi ở trên sân khấu làm vua, tôi, cha, con, chớ nguyên là
con hát vậy. Kẻ kia biết việc quá khứ vị lai, cượng xuất âm thần, như trong
giấc mộng, mơ màng chẳng rõ phép minh tánh.
Hỏi: Tìm thầy học đạo có
lỗi chi chăng?
Ðáp: Tìm thầy học đạo phải
hết lòng bền chặc. Chẳng nên tánh gấp. Phải trèo núi lội nước, lao khổ thân
tâm, tìm khắp thiên hạ, cảm động lòng trời, khổ công hạng mã, thì gặp chơn sư.
Xưa vua Huỳnh Ðế tìm đạo đến 81 tuổi mới gặp đức Quảng Thành Tử truyền đạo tu
chơn. Ông Bạch Ngọc Thiềm tổ sư 14 tuổi xuất môn, tìm đạo, đến 59 tuổi mới gặp
đức Lưu Hải, thiềm tổ sư được truyền đạo tu hành.
Ông Hưu Phàm hỏi: Người
xưa nói đất mọc sen vàng (địa đủng kim liên) có thiệt chăng?
Ðáp: Phật Quan Âm sanh rốt
đời thượng, luyện đạo trên núi Phổ Ðà Lạc Gia, trong Triều-Âm-Ðộng, tên là
Thanh Liên Nữ, chưa biết ở xứ nào. Phật bà được thần thông quảng đại mà cứu
khắp muôn dân. Người đời sau gọi là Phật Từ Hàng. Triều Âm Ðộng làm sao mà mọc
sen vàng. Phép tu luyện, hễ nhứt dương sơ động thì ngươn thần thấu lộ, sắc tợ
vàng ròng, nên thí dụ là sen vàng vậy thôi.
Hỏi: Còn cái thuyết mộng
lau xỏ đầu gối (Lư nha xuyên tất) là thế nào?
Ðáp: Ðức Thích Ca sanh
giữa đời Châu, luyện đạo trên núi Tuyết Sơn, trong Bàn Ðà Thạch, làm sao mộng
lau xỏ đầu gối đặng. Khi luyện đơn, thuốc sanh thì chạy ra ngoài đầu gối. Ngươn
tinh sắc trắng, nên diệu dụ là mộng lau vậy.
Hỏi: Cái thuyết đạp lau
qua sông (đạp lư quá giang) là nghĩa làm sao?
Ðáp: Ðức Ðạt Ma là người
Nam-Thiên-Trước, lúc ban đầu qua nước Lương, muốn độ vua Võ Ðế. Vua Võ Ðế không
tin, nên phải sang nước Ngụy. Phàm người tu hành, khi chưa thành đạo, thì thân
thể nặng như núi Thái Sơn, làm sao đứng trên cây lau qua sông cho đặng. Bởi hạ
đơn điền, tỷ như khúc sông, khi thuốc qua khỏi thước kiều, nên diệu dụ là qua
sông.
Ông Hưu Phàm hỏi: Chim sẻ
trắng làm ổ trên đầu (bạch tước tu đảnh), cái thuyết ấy có thiệt chăng?
Ðáp: Ðức Như Lai trước đến
Tuyết Sơn, sau về La Sơn. Xác phàm ngồi luyện đạo, làm sao chim làm ổ trên đầu
cho đặng. Khi thuốc về Càn Ðảnh, sắc trắng như bạch tước, ấy là thí dụ mầu
nhiệm vậy.
Ông Tu Ngươn hỏi: Sư cô có
thành đạo chăng?Ðáp: chẳng hay thành đạo. Từ xưa đến nay,
đâu có vị nữ tiên, nữ Phật
nào không tóc mà múa tụng om sòm. Cũng không nói đàn bà đốt đầu thành đạo. Duy
có đạo cô bao tóc thành tiên. Sư cô muốn thành đạo, đều phải để tóc, và ẩn thân
luyện đạo mới thành Tiên, Phật.
Hỏi: Ðàn bà, con gái làm
sao tu thành chánh quả?
Ðáp: Ðàn bà con gái muốn
thành chánh quả thì đổi chí khác phàm, mới thành Tiên, thành Phật đặng. Hoặc
giả điên, giả cuồng, sắc tốt đổi xấu, áo gấm đổi vải bô, trí huệ tài năng đều
bỏ hết, ẩn thân luyện đạo mới đặng.
Con trai có thất bửu, kim
thân (mình vàng bảy báu), con gái có ngũ lậu chi thể (chưng vóc năm hèn). Ngừa
đờn ông con trai như ngừa cọp, nếu chẳng cẩn thận, cọp già liền nhảy đến bắt.
Hỏi: Từ xưa đến nay, người
người thuyết đạo, nói đặng huyền quan, mới đặng thành Tiên, Phật. Huyền quan ấy
ở chỗ nào, tên gì, họ gì?
Ðáp: Vật ấy không tên chi
khác. Cần cầu sư phụ chỉ đường tắt thì biết rõ huyền quan. Huyền quan là tiên
thiên tổ khí. Cư trú tại Nam Thiệm Bộ Châu, nước Vô Song, phủ Thần Châu, huyện
Thần Sa, trong núi Côn Lôn là Linh Sơn Thái Tử, tên Chơn Ngươn, tự là Ngươn
Dương, hiệu Tây-Lai-Ý. Vì bởi sắc dục chưa dứt, tham tưởng hồng trần. Nhơn trời
đất mở cửa mới xuống Bác Cu Lư Châu, nước An Dưỡng, phủ Huyền Huỳnh, huyện Bạch
Kim, làng Bồ Ðề, nơi chơn núi Linh Sơn. Con nuôi là nhà Thận, cha nuôi là Hạo
Nhiên, là người tâm tánh nhơn từ, mẹ nuôi là Trần Thị Tâm, là tham luyến phàm
huê lại lo lắng hoạn nạn, cực nhọc, lao lực phí thần. Huyền quan ăn năn, vì lúc
ban đầu giận mà tưởng lầm. Ngày nay muốn chết mà chẳng hay chết, muốn sống mà
chẳng hay sống, oán hận chẳng thôi. Trong lúc nửa đêm, khi ở trên giường ăn
năn, hờn giận lo tưởng, bỗng nghe cách vách, linh phu khuôn mẫu hiệp thương.
Huyền quan lòng mừng nhảy nhót, mau mau đứng dậy chạy vào bụng khuôn mẫu, lộn
lạo biến hóa anh nhi, chịu khổ 3 năm, đến năm Ðinh Tỵ, 30 tháng 5 ngày hạ chí,
mượn mẹ đầu thai. Ở trong bụng mẹ tính đợi 100 ngày, đến đời vua Phục Hư (hườn
hư), năm Bính Ngọ, mùng 1 tháng 11, ngày đông chí, giờ Tý sanh ra. Linh phụ
khuôn mẫu già cả đặng một con thì rất hân thiên, hỉ địa, cũng như ban đêm được
ngọc Minh Châu, mới đặt tên là Huyền Quan.
Huyền Quan nói rằng: Tôi
làm cực nhọc cha mẹ, cha mẹ nuôi tôi mới đặng ra đời. Nếu không cha mẹ giao
cấu, tôi phải đọa khổ hải, chuyển đầu thai trong loài bò bay, máy cựa (tứ sanh)
trọn không ngày ra đặng. Ơn cha mẹ banh da, xẻ thịt, thiệt khó báo đáp vậy.
Huyền Quan còn có cha nuôi tên Huyền Tông, mẹ nuôi họ Khôn tên Nguyệt Bửu. Thầy
của Huyền Quan là ông Chánh Nhứt Tử chơn nhơn, truyền cho phép làm trời, đất.
Huyền Quan đêm ngày công cần tập tành thành thần thông, mới có phép di sơn, đảo
hải, thiên biến vạn hóa. Nhưng cha mẹ Huyền Quan trong lòng lo sợ, e sanh họa
đến mình, cho nên giờ khắc nào cũng chăm nom, không giây phút thả lỏng. Trong
cung có nàng long tử, mới chiêu thân với Huyền Quan làm chức nữ (tân lang). Lại
chuyển pháp luân xuống đáy biển, cả phá long cung. Trong long cung có nàng long
nữ mới phối hôn với Huyền Quan. Huỳnh Kim mảng thất, dị bửu mảng đình. Có khi
ngủ trên thiên cung. Cha mẹ yêu như trân bửu. Huyền Quan khôn lớn, nên người cứ
quen thói cũ, dời lên núi Côn Lôn. Lại xưng đại danh là chơn nhơn. Huyền Quan
ra cửa du ngoạn. Bà khuôn mẫu giờ khắc nào cũng trông nom chẳng dám rời.
Thuở vua Minh Đế, năm thứ
bảy, nhằm năm Mậu Tý, tiết trung thu, ngày rằm, giờ tý, Huyền Quan ra cửa. Khôn
mẫu dặn rằng: ram au, phải về mau, chẳng khá ở lâu nơi ngoài. Huyền Quan lúc
nào cũng uống sữa chẳng lìa Khuôn mẫu, lâu lâu mới dám đi xa. Đến chừng Huyền
Quan khôn lớn, cha mẹ vui long mới để cho lìa mẹ chơi xa. Cha mẹ lại cưới nàng
Hằng Nga ở cung trăng cho làm đôi bạn, mới sanh đặng đứa con trai tên Kim Đồng,
lại đẻ 1 nàng con gái tên Ngọc Nữ. Huyền Quan ra ngoài du ngoạn, anh em bạn mới
cho hiệu là Dương thần tử. Phật Như Lai, Địa Tạng kết làm an hem. Phật Đẩu Mẩu,
Quan Âm là em gái. Đức Ngươn Thỉ Ngọc Hoàng là đạo hữu. Chư Phật bồ tát là bà
con quyền thức. Ông nội Huyền Quan là mộc công, bà nội là Kim mẫu. Thái công vô
thượng (illimité) Thái bà vô danh (incrée). Huyền Quan ở tại thiên cung, phật
quốc làm Tiên, khoái lạc vô cùng. Huyền Quan công hạnh viên mãn, tính là 9 năm,
tháng giêng ngày ngươn đán, giờ tý thoát xác sắc phi thăng, cỡi rồng về trời.
Ý NGHĨA LỄ BÁ NHỰT, BA NĂM. MỌI BƯỚC TIẾN CỐT Ở TÂM
THANH TỊNH
Tịnh Đường,15-4 Ất
Tỵ (15-5-1965) Đại Đạo 40.
---oOo---
THI:
Cao nhưng có thể đến cùng Cha
Đài Thánh chờ con sớm một nhà
Thượng hạ nữ nam tua gắng bước
Đế ngôi lập sẵn đợi gần xa
Thầy các con, Thầy mừng các con.
Thầy vui mừng ngày nầy nơi
cõi ta bà cách đây hai ngàn năm trăm lẽ chín năm, ở Trung Ấn Độ một chúng sanh
được chiến thắng huy hoàng trải vô lượng kiếp, từ thảo mộc đến loài người đã
dày công tu học, chứng đến quả Vô Thượng Bồ Đề làm Thiên Nhơn Sư, cứu độ chúng
sanh trong sáu đường luân hồi sanh tử đã thành hằng hà sa số Bồ Tát, bao phủ
khắp đại địa sơn hà, đỡ nưng trời rộng đất dày, làm cho cơ sanh tồn hóa dục trở
thành bền chặt lâu dài.
Một chơn linh đến cõi nầy
mà nhiều công phu tinh tiến trên bước tu hành, để đồng nhứt cùng đất trời mà
hóa dục, thiệt cũng đáng vui mừng.
Vui mừng người đã dõng
mãnh chiến thắng thành công, nhập vào Đại Niết Bàn để lại cho đời một gương
sáng ngàn thuở được soi, mở con đường giải thoát cho chúng sanh ra khỏi ba
đường ác đạo, sáu nẻo luân hồi, chánh pháp gần ba ngàn năm mà còn xán lạn. Đã
ngăn được rất nhiều sự xấu xa tội lỗi cho đời. Ngay buổi Mạt Kiếp nầy mà còn
được yên ổn đôi phần, cũng có hy vọng làm đà tiến qua Nguơn Tái Tạo.
Người đã hoàn toàn chiến
thắng mà hôm nay nhân loại đâu đâu cũng sốt sắng đón mừng, mừng cái thành công
dẫm trên tất cả bất cứ những gì mà người đời cho là khó vượt qua, cho là vinh
sang quí trọng, không còn dính mắc một mảy ly hào. Đời sống làm thú hay làm
người cũng quên thân, không kiếp nào mà không hy sinh bố thí. Nói đến vô ngã từ
bi cửa người tràn ngập đất Trời, ơn đức chảy đầy cho mọi loài mọi vật; vì vậy
mà lòng người ai cũng kỉnh cũng yêu. Sự kỉnh yêu như thế đâu phải ở chỗ cao
quyền lớn chức, danh lợi giàu sang, mà quí cái chỗ sáng suốt, nhận được giả
chơn, thắng được lòng tham dục, thì đây các con cũng nên học lấy gương người mà
làm cho mọi người kính yêu cho cơ đời tái lập. Các con là kẻ được Thầy trọng
dụng, quyền Thầy ban cho, pháp Thầy dạy bão, mọi phương tiện có rồi chỉ quyết
chí thì thành công, chỉ quên thân thì đắc đạo.
BÀI:
Vượt thử ngạn tiến qua bỉ ngạn
Kết Phật duyên mà đọan trần duyên
Vô tâm mới tắc não phiền
Lợi quyền buông bỏ Pháp Quyền được cao
Thử hỏi lấy làm sao đắc đạo
Đạo ở đâu lộn lạo gắng tìm
Tìm ngoài sao thấy được con
Quay về lòng trẻ lo tròn công phu
--oOoo--
Công phu học đạo phải vô tâm
Đạo ở đâu xa nhọc kiếm tầm
Quay lại lòng mình cầu lấy đạo
Thành Tiên đâu phải tốn nhiều năm
Hôm nay Thầy đến ban ơn
lành cho các con và cũng chứng lễ ba năm của con Ngô Thanh Toàn.
Nầy con ôi! Chúng sanh
sống trong buổi đời tối tăm mù mịt mà lẩn quẩn trong sáu nẻo luân hồi. Thầy xót
thương mà đến đây cứu độ, chúng sanh còn mê mà chìm đắm trong dục giới ta bà,
loanh quanh trong bốn tường sắc tài tửu khí chưa tỉnh ngộ mà hồi đầu, cũng phải
chờ khi ngộ biến, cụng đầu với cảnh khổ khi đó mới dừng chân. Con nay được
phước hơn người gặp Thầy gặp đạo, song chưa chứng chỗ chơn thật nhiệm mầu, thì
bước tu cũng đương lẩn quẩn, ba năm bốn năm lại là gì?
Thầy cũng nhơn dịp nầy mà
khải thị cho các con, nếu các con không giác ngộ kịp thời, thì một kiếp tu cũng
chưa giải thoát được. Thầy nhiều lần thể theo cái thường lệ của các con mà đến
chứng lễ, hoặc trăm ngày, mười tháng, ba năm, hoặc bãy năm, chín năm, mà cái
năm cái tháng là cái gì? Nếu “bá nhựt” mà không được “Công linh” lấy gì mà “bá
nhựt”. Công phu xây đắp nền là hạnh của người tu, lúc bắt đầu bước vào cửa
Thánh, phải luyện kỷ tu thân, buông bỏ trần duyên đặt mình trên pháp đạo, để
thành người đứng đắn, học phép Tiên gia. Lễ bá nhựt là lễ “Trúc cơ”, mà cũng
chưa thấy mấy người làm được đúng, đến mười tháng hoài thai, mà khi mang thai
đã thấy gì, đặt con vào dạ, cẩn thận ngôn hạnh, tạo khí thái hòa. Khi mười
tháng không sản thì cũng gọi lễ một năm. Chí ba năm lễ nhị bộ, mà có gì nhị bộ
ở đâu?
Nên các con tỉnh sớm chớ
say, cầu kỳ vô ích.
Đây Thầy cho một bài khẩu
khuyết để các con lấy đó xét lại bước tu.
Đạo người trước phải tròn
bổn phận
Phận làm người phải tận
khả năng
Ở sao cho được công bằng
Nhơn nghĩa lễ trí đạo hằng
phải lo
Lo được vậy men dò Thiên Đạo
Đạo vô vi
hoài bão từ đây
Chí tâm học
ở nơi Thầy
Công phu
công quả chỉ bày gắng theo
Trăm ngày
phải dọn gieo đức hạnh
Dừng bước
đời xa lánh trần duyên
Vô tâm dẹp
sạch não phiền
Trăm ngày là
bước
cầu truyền phương tu
Tu tánh mạng thối phù tấn
hỏa
Trưởng dương cương thối hạ
âm hào
Lặng lòng Thần Khí được
giao
Linh đơn kết tụ thai bào
sản sanh
Ba năm phải nhọc nhành gìn
giữ
Cho chơn Thần vô lự vô câu
Khi ra khi ở đỉnh đầu
Để giao để đến tìm cầu
Chơn Sư
Lấy thân mà an lư nấu
thuốc
Thuốc là gì Thần được siêu
thăng.
Thối phù là gì các con? Ở kinh Dịch có sáu quẻ:
càn, khôn, ly, khảm, truân, mông, để mở đường tu học giải thoát . Tấn dương hỏa
là quẻ địa lôi phục. Phục là tấn dương, tấn cho đến sáu hào, từ lúc tiềm long hiện
long; tiềm là bước đầu lòng được
yên lặng thì có một khí pháp sanh. Khí ấy gọi là (thái hòa bão nhứt) mà khí
sanh cần phải biết, biết để võ hỏa hay văn hỏa. Võ hỏa là tinh tấn cương kiện tự cường
bất tức, công phu cần mẫn gấp rút. Văn phanh, nghĩa là thung dung nhàn tịnh,
lúc dương khí mới sanh cần ôn dưỡng, khi cực động cần thối phù, thối phù nghĩa
là lui tiệt phần âm, phần âm là phần vọng động bất tịnh, hiểu không?
Với người đồng chơn hay
chưa lậu thì dùng phương tu ôn dưỡng lấy bát quái Tiên thiên mà phanh luyện,
gọi là xuất chi vị đạo.Người đã cấu lậu (cấu nghĩa là tấn âm ) thì tu theo Hậu
Thiên Bát Quái, cửu hoàn thất phản, nghĩa là nghịch chuyển, thì phương tu Trung
Hưng đã chỉ đường Trung Đạo.
(1) Luyện châu để tập điều
Khí dưỡng Thần bổ dương thối âm, điều hòa thai tức
(2) Như phương tu các con
bây giờ gọi là luyện đạo, để mở đường thông vận cho Thần khí, luân lưu, tập thở
trong thịt và thở trong xương để tìm nội tức. Thở trong thịt là sao các con?
Muốn thở trong thịt, thì nín hơi một chút, nó soi thông các sớ thịt, các tế
bào, mở các lổ chơn lông gọi là thông bách hải vạn khiên, khử trược lưu thanh.
(3) Qui căn tiến độ, bước
qua một giai đoạn luyện ba phẩm thuốc linh đơn, bước đầu là Thần đại định nơi
Hạ Đơn Điền để nuôi dưỡng cho Thần mạnh Thần đầy, gọi là mười tháng dưỡng thai,
đến bước hai đem Thần vào Trung Đơn Điền gọi là Huỳnh Đình.
Ba năm tập xuất ngoại,
thân ngoại hữu thân mà cầu vô vi chánh pháp.
Vậy từ đây các con gắng
làm sao cũng tu cho được cái hạnh giải thoát, giải thoát cái thô mà cũng giải
thoát luôn cái tinh, để cho thân không còn dính mắc, mà Thần cũng không bị án
che, thì không đợi tu nhiều ngày, không cần kể năm đến tháng. Khó là chỗ buông
bỏ trần duyên, còn phương tu tùy đó mà thâu đạt kỳ diệu pháp môn, cốt các con
quên được mình để cho mình đồng hóa cùng đạo, mình và đạo làm một thì càn khôn
tuy to rộng nhưng cũng ở cả trong bàn tay, mà muốn đồng nhứt cùng Thầy thì
luyện lọc cái tâm cho trong sáng, nghĩa là chuyển Hậu Thiên trở lại Tiên thiên
để chứng đạo, cốt là qui căn phục mạng, căn mạng là Thầy là Đạo, là Trung Huỳnh
Mồ Kỷ Thổ, Vô Cực Vô Vi, hiện ở người là tín. Đức “tín” được rồi thì đơn nguơn
cũng kết đủ. Nên giữ tín ở người mà cũng ở mình là cần thiết. Tín ở mình đó là
cái dụng ở đơn, mà đơn là thể của tín. Nên tu thanh tịnh là đắc đạo, mà còn
vọng động là còn vô minh, còn vô minh là còn luân hồi, còn luân hồi thì làm sao
có đơn. Đơn là gì? Là hai khí âm dương kết hợp, tánh mạng đồng viên, mà tánh
mạng đồng viên là Nhơn đắc nhứt, đắc nhứt là Thánh, nhứt là tuyệt đối, không có
gì đối đãi gọi là nhứt, mà nhứt là Vô Vi Vô Cực. Vậy phương tu tấn hỏa thối phù
cốt là dưỡng cái đạo tâm, diệt cái phàm tâm. Vậy nói lại cái lễ ba năm của con
Toàn:
BÀI:
Thanh
Toàn con đã dày công
Quyết
đường tìm đạo cầu thông lẽ Trời
Ba
năm con đã đủ rồi
Làm
sao lòng được phục hồi như xưa
Muốn
giải thoát đại thừa thanh tịnh
Muốn
qui gia đại định tìm cầu
Thành
công nào phải bao lâu
Không
thiên không ỷ quay đầu là đây
Muốn
hiểu được ý Thầy con ráng
Mối
chơn truyền tỏ rạng ở tâm
Tâm không muôn việc không lầm
Tâm còn vọng loạn tối tăm mịt mờ
Từ đây bước lên bờ chánh giác
Phải đắn đo thông đạt ý Thầy
Phải toan vẹt ngút ngàn mây
Trăng soi tỏ rạng đó đây khỏi lầm
Dầu chi gốc cũng tại tâm
Tâm mê tâm tỉnh phải tầm phải
suy./.
Liên Thanh Sưu Tập
Home
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét