Cao Đài Xuất Thế - 1/3 (Trần Thanh Danh)


Lời Tựa
Đọc giả thân mến !
Đạo Cao Đài xuất thế ngày 14. 15 tháng 10 năm Bính Dần (1926), tại một tỉnh Cực Đông Miền Nam nước Việt Nam gần một Thế Kỷ.

Thời gian qua có nhiều người ở các nền Đạo Giáo và Lương Dân Quốc Nội. Quốc Ngoại đã đến viếng Tôn Giáo nầy tại Tòa Thánh Tây Ninh, và cũng còn có người chưa có dịp đến viếng.

Người đến thì được thấy, còn người chưa đến thì chỉ nghe ... Những người có đến, hay những người được nghe, ai ai cũng mong muốn có một tập tài liệu TỔNG HỢP GIÁO TRUYỀN để nghiên cứu về Đấng Cao Đài xuất thế !

Tôn ý cao thượng đó, rất hài hòa chơn lý, lành mạnh của mọi người; và dĩ nhiên phải có.
Hiển linh thay ! Đạo khai trong thời kỳ Hạ ngươn chuyển the á.....

Bần sĩ là một vị Chức Sắc Thiên Phong của Hội Thánh Hiệp Thiên Đài làm nhiệm vụ của Hội Thánh giao phó .... Giữ gìn Chơn truyền khuôn viên Đạo Pháp. Đã từng bị lao lý, trằm mình trong cơ thử thách ! Năm năm cắm cố, sáu năm lưu đày !... Thời gian lao lý cực hình ! Được huyền năng Thiên Liêng che chở và dạy bảo căn cứ vào tài liệu Giáo Pháp Chơn truyền, làm phận sự hoàn thành một quyển sách nhỏ chủ đề CAO ĐÀI XUẤT THẾ gồm ba phần quan yếu : BÍ SỬ, HUYỀN SỬ, THANH SỬ để phổ giáo khắp nhân gian ... Chuyển TỊCH ĐẠO THANH HƯƠNG sang ĐẠO TÂM, thực thi THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO .

Mở đường thiên lý cho tinh thần con người nhìn thấy được nhiệm mầu của Đấng cầm quyền CÀN KHÔN VŨ TRỤ và thế nào là mệnh hệ sinh tồn của vạn loại chúng sanh, trước khi bước qua Ngươn THÁNH ĐỨC.

Để mọi người có một đức tin hữu ích hướng về cuộc sống, nhìn thẳng vào mốc thời gian của Nhơn loại gắn liền với mốc thời gian của Vũ Trụ nó quan hệ dường nào ? Để cho mọi người dọn tánh ĐẠI ĐỒNG HUYNH ĐỆ cùng nhau đón mừng ngày LONG HOA ĐẠI HỘI .

Than ôi ! Thời gian có biết bao cảnh vật đổi, sao dời ! Đó là định luật thiên nhiên mọi người nên dụng tâm đức quang linh để tầm ra Chơn Lý !.

Chiếc BÁC NHÃ THUYỀN Đạo Cao Đài, đã và đang chờ rước người hành trình đạo đức qua bờ Bỉ Ngạn ! Ngôi cũ vị xưa ai đã biết mình mang mệnh số nào, từ đâu đến ? Đến đây làm gì ? Rồi được về đâu ?

Hãy lắng nghe tiếng chuông BẠCH NGỌC ĐẠO TRỜI cảnh tĩnh từ lâu, dục khách hồng trần tầm nẻo thiện, thượng trình về bến Giác ...

Hữu hạnh thay ! CỬU TRÙNG ĐÀI dìu dắt về Ngôi Tiên, HIỆP THIÊN ĐÀI độ về phẩm Phật, nhơn loại sớm biết cho ?
THI
Thuyền khơi đợi gió lướt dòng Ngân,
Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần.
Nhượm áo nâu sòng về Cực Lạc ...
Trao gương trí huệ phủi đai cân.
Cơ Trời đến buổi Đời thay đổi,
Đạo Thánh nhằm khi khách gội nhuần.
Khổ hạnh dầu ai thì một kiếp,
Rừng tòng thoát tục sớm đưa chân.

Quyển CAO ĐÀI XUẤT THẾ nầy, tác giả thân ái đóng góp phần ánh sáng Đạo, truyền cho toàn thể nhơn loại gần xa có tâm đức kính bái Đạo Trời, có tài liệu làm món quà cho tư tưởng !...

Đây cũng là cái tâm thành kính của tác giả chu toàn lời Thiêng Liêng chỉ giáo ... đáp ân trong muôn một tôn sư Hộ Pháp và Các bậc Tiền Bối đã dày công lập Đạo đó vậy.
Kính bút.
*  *  *

I - PHẦN BÍ SỬ

Những lời tiên tri về Đấng Ngọc Hoàng Thượng Đế
giáng thế lập thành nền ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ.

Phàm những việc gì trong thế gian nầy, sắp có biến chuyển sãy ra đều phải có hiện tượng hay tiên tri báo trước ... Để cho nhơn loại Lương hay Giáo chứng nghiệm suy đoán !.

Về mặt Đạo mạch thống truyền, ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ đã giáng linh nhiều lần: Từ Nhứt Kỳ. Nhị Kỳ đến Tam Ngươn Tứ Chuyển đã lập thành nền ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ (gọi tắt là Đạo Cao Đài) như thế nào ?

Xin mời người xem qua những lời tiên tri của các vì Chưởng Giáo hoặc Thánh Nhân trước và trong hai ngàn năm, nói về ĐẤNG NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ xuất thế như sau :

* PHẬT TÔNG NGUYÊN LÝ: (Tiên tri)
Đức Thế Tôn Văn Phật tiên tri rằng :
Trong hai ngàn năm, sẽ có một vị Phật lớn hơn Ngài ra đời. Đức Phật ấy lớn hơn Đức Phật Thích ca, là Đấng Tạo Hóa hay là Đức Thái Thượng Thánh Hoàng mà thôi

* THANH TỊNH KINH: (lão Giáo)
Kinh nầy lưu truyền đã nhiều đời có tiên tri rằng :
Thanh tịnh hữu di tích, công viên-quả mãn chỉ thọ đơn thơ, thiên mạng phương khai truyền ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ .
Người có công dầy, quả đủ sẽ được thọ đơn thơ.

* MINH THÁNH KINH: (Sấm truyền)
Mạng hữu Cao Đài Minh Nguyệt chiếu
Đức Cao Đài Giáng trần Khai nền Chơn Giáo Sáng như Trăng Rằm.

* Bên TRUNG HUÊ: (Vào thập ngũ thế kỷ)
Vi Đạo Sư Ngô Chi Hạt, có lập nên phái Đạo Tam Thanh thờ các vị Chưởng giáo của ba nền Đạo lớn là:
            ĐỨC PHẬT THÍCH CA (Phật Đạo)
            ĐỨC LÃO TỬ (Tiên Đạo)
            ĐỨC KHỔNG THÁNH (Nho Giáo)

Nguồn cội Đạo Tam Thanh này, hiện đang làm nền tảng lập thành nền ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ.

* KINH VẠN PHÁP QUI TÔNG: (Tiên tri)
Cao Đài Tiên Bút Thi văn Tự :
Khi Đạo Cao Đài xuất thế, sẽ do Thần Cơ Diệu Bút viết ra Thi Văn lập giáo .

* KINH GIÁC MÊ SẤM TRUYỀN: (Phán rằng)
Hữu duyên mới gặp Tam Kỳ Phổ Độ, Muôn đời còn tử phủ nêu danh. Ba ngàn công quả đặng viên thành, mới đặng thiên thơ chiếu diệu .

Người có căn duyên mới gặp được Tam Kỳ Phổ Độ, Lập công để được trở về quê xưa vị cũ.

* KINH TỈNH THẾ NGỘ CHƠN : (Tiên tri)
Đại Thiên tiến hóa hoằng chơn Đạo,
Trợ Quốc cứu dân tích thiện luân.
Nam hải Từ Hàng châu vận tế,
Tây phương Tiếp Dẫn Phật đông lâm.

Trước khi cuộc thế biến đổi lớn !
Thay Trời Đất có một nền Đạo chơn thật hoằng khai giúp nước cứu dân làm điều lành đáng khen.
Biển Nam hải có Phật Từ Hàng đi khắp nơi cứu độ.
Phương tây có Phật Tiếp Dẫn đưa đến đông độ.

Mãi hậu Kiền Khôn đồng nhứt đại.
Thiên Môn, vạn Giáo cọng qui căn.

Chứng minh : sau đời Hạ Ngươn đến đời Thượng Ngươn : Trời Đất chung một dãy. Tôn Giáo hiệp một nhà sống trong cảnh Đại Đồng huynh đệ.

* KINH VẠN DIỆU THIÊN THƠ :
Có thi rằng :
Tam Giáo kiêm tùng cố hóa sanh,
Tiên thiên phương hữu thị Tam Thanh.
Phật pháp nho hề qui nhất bổn,
Tự nhiên tà đạo tống tương tranh.
Vạn ức san hà Giai hữu thử,
Tống qui nhất phái đắc an thành.
Xà vĩ Mã đầu khai đại hội,
Tam Kỳ hậu thế hiển phương danh.

* KINH NHẬT TỤNG : (Sấm truyền)
Con Cầu Phật Tổ Như Lai,
Con cầu cho thấu Cao Đài Tiên Ông.
Canh Dần, Mậu Dần Niên,
Kỷ Mão, Canh Thìn tiền,
Tự nhiên Thiên phú tánh,
Cao Đài tận chơn truyền.

* LÃO SƯ CHI MINH SƯ ; (Phán rằng)
Cao như Bắc Khuyết nhân chiêm ngưỡng,
Đài tại Nam Phương đạo thống truyền.

* GIA TÔ GIÁO CHỦ : (Phán Rằng)
Ta vui thấy nước Việt Nam hữu hạnh. Được ngộ Đạo Trời. Chúa Trời tá danh Kỳ Ba là Cao Đài phổ truyền khắp cả Ngũ Châu Vạn Quốc.

Hạ Ngươn này. Đức Cha Trời và Tam Đạo. Đại Hội Long Hoa định đoạt thưởng phạt nhơn loại phân minh. Đúng lẽ công bằng Thiên Đạo.
Gần tận thế ngôi ra hai mặt,
Đặng toan phương dìu dắt chúng sanh.
Chỉ đường cội phước nguồn lành,
Giác mê tỉnh ngộ tu hành siêu thăng.
Cuộc tang thương dữ dần trước đó !
Mà nào ai có rõ chi đâu ?
Rồi đây chung chịu thảm sầu !
Không nương đạo đức khó hầu tránh tai !
Nạn khổ cuộc tương lai dữ dội !
Nhơn vật đồng thay đổi tiêu tan !
Có ai thấy máy hành tàn !
Dinh Hư Tiêu Trưởng rõ ràng không sai !

* TAM NGƯƠN LẬP GIÁO :
a). NHỨT KỲ PHỔ ĐỘ : Đức Nhiên Đăng cổ Phật chủ trì Liên Trì Hội .
b). NHỊ KỲ PHỔ ĐỘ : Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chủ trì Linh Sơn Hội .
c). TAM KỲ PHỔ ĐỘ : Đức Phật Di Lạc Vương chủ trì Long Hoa Hội .

*  *  *

II - PHẦN HUYỀN SỬ

Từ hiện tượng cho đến ngày
ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
tá danh CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT xuất thế ...

Ngược dòng thời gian: Trước khi ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ tá danh CAO ĐÀI Giáng linh lập giáo Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế đã cho chư THẦN, THÁNH, TIÊN, PHẬT vàdu hành khắp nơi gợi cãm TÂM LINH một số người hiền nhân, phong nhã, ưa thích tìm lại cõi vô hình bằng cách XÂY BÀN cầu cơ hầu chuyện với cõi Thiêng Liêng ....

Như trường hợp của Ông Ngô Văn Chiêu, đang làm việc Quan Phủ thời nước Việt Nam Còn là thuộc địa của nước Pháp.

Năm 1919 Ông Chiêu được lịnh đi trấn nhậm Hà Tiên. Thời gian nầy. Ông Chiêu thường lập thường lập đàn cầu cơ thỉnh Tiên về để xin toa thuốc cứu chửa bệnh nhân và hỏi về đường Đạo Đức ..v.v...

Lần đầu tiên. Ông lại được vì Tiên cô xưng danh là Ngô Kim Liên, giáng cơ cho Ông hai bài thi tứ tuyệt như sau :
THI
Văng vẳng nhẹn kêu bạn giữa Thu,
Rằng Trời cùng Đất vẫn xa mù !
Non Tây ngoãnh lại đường gai góc,
Gắn chí cho thành bậc Trượng phu.
Ngần ngần trăng tỏ giữa trời Thu.
Cái cảnh Tây phương vẫn mịt mù.
Mắt mẹ nào ai trông thấy đấy ?
Lắm công trình mới đặng công phu.

Vì Tiên cô nầy thường xuyên tá cơ khuyên Ông Chiêu gắng lo việc tu hành để được thuần gội nguồn Đạo Đức sắp mở.

Đến ngày 26 tháng 10 năm 1920. Ông Chiêu được thuyên chuyển ra đảo Phú Quốc. Từ ngày ra đảo nầy, Ông Chiêu cũng thường tiếp tục lập đàn cầu Tiên học đạo nữa ....

Một hôm cầu cơ, có Đấng Tiên Ông giáng đàn mà chẳng chịu xưng danh, chỉ bảo Ông Chiêu bằng lòng làm đệ tử, thì sẽ dạy đạo cho....

Mỗi lần cầu cơ, Tiên Ông giáng ... Đều bảo Ông Chiêu phải lo việc tu hành và ăn chay một tháng 10 ngày, làm được như vậy Tiên Ông sẽ dạy Đạo .....

Ông Chiêu mới bạch rằng : Tiên Ông dạy thì Đệ tử xin vâng lời, nhờ Tiên Ông bảo hộ? Chư nhu hầu đàn đều lấy làm lạ, vì mỗi lần Tiên Ông giáng đàn, Tiên Ông đều kiêu đích danh Ông Chiêu mà dạy như vậy cả.

Thời gian sau, Tiên Ông bảo Ông Chiêu ăn Chay trường được 3 năm, Tiên Ông sẽ chứng quả và cho Ông Chiêu thấy HUYỀN DIỆU ..v.v..

Ông Chiêu còn đang làm Quan chức, còn phải giao tế với người đời nên chưa ăn Chay trường được.

Một buổi sáng 8 giờ Ông Chiêu đang ngồi trên võng, bỗng nhiên Ông thấy trước mặt cách chừng hai thước hiện ra một con mắt thật lớn. THẦN NHÃN chiếu sáng ngời như Mặt Trời mới mọc .... Ông Chiêu lấy làm kinh hải !.. Ông dùng hai bàn tay đậy mặt Ông lại không dám dòm độ 30 giây Ông mới mở mắt ra dòm thử thì vẫn thấy con mắt hiện ra càng chói sáng hơn nữa. Ông Chiêu liền chấp tay vái rằng : Bạch Tiên Ông, đệ tử được biết huyền diệu của Tiên Ông rồi, đệ tử sợ lắm, như vậy phải Tiên Ông bảo Đệ tử thờ THIÊN NHÃN thì Đệ tử thờ, xin Tiên Ông cho biến mất . Vái xong thì con mắt hiện lu dần và biến mất.

Sau một thời gian, Ông Chiêu chưa họa THIÊN NHÃN để thờ, Ông Chiêu lại được thấy như vậy một lần nữa ! Ông Chiêu khẩn vái sẽ họa THIÊN NHÃN thờ liền, thì con mắt lại biến mất.

Hai lần Ông Chiêu thấy THIÊN NHÃN hiện, Ông Chiêu cầu cơ hỏi cách thờ phượng, thì được Tiên Ông bảo họa con mắt như đã thấy mà thờ và từ đây Tiên Ông mới xưng danh CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT .

Một thời gian sau Ông Chiêu được chuyển nhiệm về Sài Gòn, Ông Chiêu lập Thiên Bàn thờ xong, Ông Chiêu trao đổi với một số bạn bè thân thiết có tâm đức, thích việc tu hành. qua hình THIÊN NHÃN để tu tâm luyện tánh .....

Chư vị đầu tiên cùng với Ông Chiêu lập Thiên Bàn thờ ĐỨC CAO ĐÀI NGỌC ĐẾ để tu là : Quan Phủ Vương Quan Kỳ. Ông Phán Nguyễn Văn Hoài, Ông Phán Võ Văn Sang. Đốc Học Đoàn Văn Bảng.

Đêm 13 JUILLET 1923.
TÂY PHƯƠNG GIÁO CHỦ giáng cơ cho một bài Thánh giáo
(bằng Pháp văn xin dịch ra Việt ngữ)

“ Thế Giới là một Hội chợ lớn, nơi đó người ta dẫn đến những con vật có sức chở nặng và những con bò để mà bán, nơi đó phần đông người ta đến để mua hoặc để bán, rất ít người đến đây để xem quan cảnh của hội chợ, để xem tại đây coi những sự vật xãy ra như thế nào ? Và cốt để biết được sự hình thành của Hội chợ, những ai đã tạo ra nó và tại sao lại lập ra nó ?

Hội chợ ở trường đời thì cũng giống như vậy thôi.

Rất ít trong số người qui tụ tại đây có tánh hiếu kỳ, muốn quan sát để hiểu biết vũ trụ là cái gì và ai cai trị nó hay không ? Có thể nào có một thành phố hay ngôi nhà có thể tồn tại được dù trong khoảnh khắc thôi nếu không có một người nào quản lý nó, và cả một cộng đồng chung hợp lớn lao tuyệt mỹ nầy, có là do một sự biến thiên ngẫu nhiên nào đó hay không ? Vậy thì phải có một người thống quản nó. Người ấy là ai ? và người ấy thống quản như thế nào ? Chúng ta là ai ? Có phải chúng ta do người đó sinh ra không ? Giữa người ấy và chúng ta đây có sự gắn liền với nhau không và chúng ta phải làm gì đây ? Chúng ta có một mối quan hệ với người đó hay không ? Đó là những tư tưởng một số ít người chỉ nghĩ riêng đến một vấn đề rồi rời khỏi Hội chợ sau khi đã nhìn kỹ qua nó. Sao vậy ? Người tầm thường đâm ra chế nhạo những người ấy. Quả nhiên chính ở tại hội chợ, những người mua bán chế nhạo những người đi xem thường là những con vật có sức chở nặng nếu như chúng nó có được trí khôn, chúng nó sẽ chế nhạo những người nào chỉ biết chú trọng tới giá cả mà không chú trọng tới cỏ rơm.

Mục đích của tất cả các Tôn Giáo, chủ yếu như mục đích của các trung tâm Thụ pháp Thần bí, mặc dù có sự khác biệt về phương diện : chỉ hướng về linh hồn cho nó nhẹ nhàn từ thể chất nặng trỉu, cho nó được trong sạch sáng suốt do bởi trí khôn để rồi chỉ biết ham muốn những của cải tinh thần, những phúc lạc về Tâm linh và những nhảy vọt ra khỏi vòng sinh thực ( của các thế hệ ), Linh hồn có thể được đi lên tới nguồn cội của sự sanh tồn hằng hữu.

Những phương tiện đi đến để đạt mục đích cao trọng như thế nào cũng là thông thường trong các Tôn Giáo, trong các trung tâm thụ pháp. Những phương tiện đó dung nạp một sinh quốc có những học thuyết công khai ( ý muốn nói đến những học thuyết đã được Triết gia thời cổ giảng dạy công khai ) và trước nhất là sự hiểu biết về con người của mình ( tri ngã ).

Các người không thể làm gì được để đi tới con đường Thụ pháp, nếu các người không biết được bản nhiên thực tại của mình và trong những quan hệ với Thượng Đế ( qui y Phật ), với thiên nhiên tạo vật ( qui y Pháp ), với nhân loại ( qui y Tăng ), mà các người tùy thuộc nó chờ đợi sở hành của các người.

1). Các người hãy trong sạch hóa thể xác qua cuộc sống lành mạnh, điều hòa, qua sự áp dụng vệ sinh thật tốt, để không thể làm nặng đi phần Linh hồn của mình, vì những thú vui hạ tiện, cũng không thể diệt đi sự điều hành tốt đẹp vì những khổ cảnh trong đời sống do sự túng thiếu không đáng xãy ra một hướng đi thật là hữu ích để đạt được mức trung dung nầy.

2). Trí tuệ cũng cần đến sự giáo dục. Các ngươi hãy trao giồi năng lực của nó đừng để nó bị khô héo đời sống tình cãm, chỉ cho nó phát huy những tư tưởng mà sự rung động phải hướng thiện ở các ngươi, cũng như các người ở xung quanh.

3). Tấm lòng cũng cần được mở rộng mà không phải mở rộng để tôn Thượng Đế con người các ngươi.

Chỉ có đến tấm lòng vị tha mới đem lại cho tâm hồn sự bình an và niềm vui cần thiết cho sự tiến hóa.

Cuối cùng để trả lời về nhu cầu cao nhất cho bản tính của các ngươi, điều thiết yếu là phải sùng bái Thượng Đế, phải tôn thờ trong tâm của chúng ta và trong tư tưởng của chúng ta và chúng ta sẽ trang sức với tất cả vẻ đẹp càng tốt, vì lòng yêu thương và sự biết ơn chỉ thích ứng trong những nhiệm vụ nầy.

Đêm 30 JUILLET 1923
Nơi miễu nổi Bến Các Gia Định.
Ông Tào Quốc Cựu Trong BÁT TIÊN giảng dạy như sau :

“ Khá rán luyện cho nên Đạo kẽo uổng, người trong Trời khó gặp đặng, vì Đạo rất báu trong đời, không chi bì kịp, nên mới gặp, gặp đạo mở kỳ nầy là kỳ thứ ba. Thiệt chư nhu có đại căn mới gặp trước thiên hạ đó ?

Hữu duyên đắc ngộ Tam Kỳ Độ.
Tiên Thánh điều lâm phàm mà độ kẻ nguyên nhân, chư nhu là kẻ nguyên nhân. Hể thành tâm làm Đạo thì tự nhiên đặng “

Đêm 2 SEPTEMBRE 1923
HUÊ QUANG ĐẠI ĐẾ giáng đàn
tại chùa NGỌC HOÀNG. Đặt lời cho thi như sau :

THI
Huê Phát Tam Kỳ Đạo dĩ khai,
Quang minh từ hướng thượng Tam Tài.
Đại phước Kim Đơn thân đắc ngộ,
Đế quân giáng hạ nhủ vô lai.

Vui thay ! Trong thời gian này khắp mọi nơi có phong trào CẦU CƠ XÂY BÀN để mời các Đấng vô hình về dạy đạo ..v.v..

Tại Thủ Đô Sài Gòn, mệnh danh là Hòn Ngọc Viễn Đông Có quí ông Cao Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, là người có ông bà đồng quê quán ở Tỉnh Tây Ninh. Xuống Sài Gòn mướn phố Hàng Dừa ở đường Bourdais, ông Cao Huỳnh Cư làm việc ở sở Hỏa Xa, ông Phạm Công Tắc và ông Cao Hoài Sang đồng làm việc tại sở Thương Chánh.

Ba ông thân thiết nhau như tình ruột thịt, lại có một thiên tư văn chương ưa thích đánh đàn, ngâm thi vịnh phú ... nên ngoài giờ làm việc đêm nào ba ông cũng hiệp nhau tại nhà ông Cao Huỳnh Cư, hoặc nhà ông Cao Hoài Sang hay nhà ông Phạm Công Tắc, để hòa nhạc ngâm thi giải trí rất lành mạnh, nói lên cuộc sống văn chương nghệ thuật, điệu đàn !...

Vào Thượng tuần tháng 6 năm Aát Sửu (1925), tâm hồn ba ông như được Thiêng Liêng gợi cảm ..... Ba ông nông nã nghĩ ra việc XÂY BÀN để cầu các vong linh cỏi vô hình về để xin thi văn hoặc hỏi thăm việc tình hình thế sự, về vận nước giống nòi ...

Trong khi đó ba ông lại nhớ một vị Thi hữu đã quá vãng là Ông Huỳnh Thiên Kiều tự Quý Cao liền vái mời ... Quả nhiên được ông Quý Cao về nhập bàn, sau khi chào hỏi nhau xong, nhắc nhở tình cố hữu lúc còn sanh tiền, rồi ông Quý Cao gỏ bàn cho một bài thi như vầy :

THI
Nhắn nhủ mấy anh một ít lời,
Làng mây hồn trẻ đã xa chơi...
Mẹ già nổi hiếu chưa rồi đạo,
Vợ yếu niềm duyên chẳng trọn đời !
Chạnh nhớ quê xưa lòng xót xáy,
Buồn trông làng cũ mắt chơi vơi.
Ai về gởi lại tình Sông núi,
Kiếp khác ân sinh sẽ đáp bồi.

Khi bài thi nầy được hình thành, ông Nguyễn Trung Hậu tự Thuần Đức nguyên trước đây cũng là bạn thi hữu với ông Quý Cao , nghe tin liền đến nhà ông Cao Huỳnh Cư, xin ông Cư Xây bàn để ông được hầu chuyện với ông Quý Cao ... Ông Cao Huỳnh Cư, ông Phạm Công Tắc và ông Cao Hoài Sang bằng lòng đem bàn ra, đồng thắp nhan vái ông Quý Cao ... Được ông về nhập cho ngay một bài thi tứ tuyệt như sau :

THI
Âm Dương tuy cách cũng chung Trời,
Sinh tịch đời người có bấy thôi !
Chén rượu đồng tâm nghiên ngữa đổ !
Thương nhau nhắn nhủ một đôi lời.

Được ông Quý Cao cho thi, ông Nguyễn Trung Hậu cũng chưa tin, còn nghi ngờ ! Ông Nguyễn Trung Hậu nói rằng : Tôi Sẵn có làm một bài thi đem theo đây, xin đọc cho anh nghe và họa lại chơi cho vui !!! Ông Quý Cao gỏ bàn hai cái tỏ ý bằng lòng, Ông Hậu đọc thi :

THI
Mấy năm vùng vẫy cũng tay không,
Nào khác chiêm bao một giấc nồng.
Cử nắng tuần mưa dày dạn mặt,
Mùi danh bá lợi ngẩn ngơ lòng.
Ngày qua Thơn mởn Xuân Thu lập,
Gương rạng phui pha cái bụi trần.
Chừ gặp cố nhân lời ướm hỏi ?
Hỏi ra cho biết nẻo cùng thông.

Ông Quý Cao liền gỏ bàn họa lại nhanh nhẹn không ngập ngừng chút nào cả. Bài thi như sau :

THI
Một tiếng u minh gióng cửa không,
Phồn hoa dục tính giấc đương nồng.
Ngồi thuyền Bát Nhã qua tình biển,
Mượn nước nhành Dương rưới lửa lòng.
Cuộc thế lạnh lùng làng gió lọt,
Đường đời ngán ngẩm bụi trần lòng.
Kiếp tu xưa tiếc chưa nên Đạo !
Oan trái phủi rồi phép Phật thông.

Ngộ thay ! Trong những đêm ba Ông Xây bàn đều có rất nhiều Đấng Thiêng Liêng đến nhập bàn cho thi văn, xướng họa làm cho ba Ông phấn khởi vô cùng .....

Nhằm đêm mùng 6 tháng 6 năm Aát Sửu (26-7-1925). Ba Ông tiếp tục Xây bàn nữa ... Vì tinh thần thị hiếu thi văn, ngoài thứ đó, ba Ông còn hỏi qua tình hình thế sự đổi thay như thế nào ? Vì thời kỳ đó nước Việt Nam còn là thuộc địa của Pháp, tâm tư người trí thức ai ai cũng luôn luôn rai rức cảnh sống cá chậu, chim lồng !...

Bổng nhiên đêm nay ba Ông lại tiếp đặng một bài thi hết sức tình cảm yêu thương như vầy :

THI
Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa nên ước đặng mười !
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn gắng tâm đời.
Bên màng đôi lúc trêu hồn phách,
Cỏi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nổi vợ hiền cò lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.

Cho thi xong, đề danh Cao Quỳnh Tuân. Ông này chính là thân sinh của Ông Cao Huỳnh Cư, đã qua đời hồi Ông Cư còn trong vòng 10 tuổi.

Đọc bài thi nầy, Ông Cao Quỳnh Cư quá xúc động ! Ông Phạm Công Tắc và Ông Cao Hoài Sang cũng bùi ngùi !..

Đêm mồng 10 tháng 6 năm Aát Sửu (DL. 30-7-1925). Ba Ông cũng họp Xây bàn tại nhà Ông Cao Hoài Sang, kỳ này cái bàn chuyển rất dịu dàng khoan thay. Đó là vong linh Tiên Cô Đoàn Ngọc Quế giáng đàn cho thi văn gợi lại tình cảm của kiếp khi còn làm người tại thế.

THI
Nổi niềm tâm sự tỏ cùng ai ?
Mạng bạc còn Xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào Ngọc Các ...
Nào dè phủi nợ xuống thuyền đài !
Dưỡng sanh cam lổi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nổi niềm tâm sự tõ cùng ai.

Vì Tiên Cô nầy, từ đây về sau vâng lịnh Cung Diêu Trì thường xuyên giáng đàn dùng thi văn tình cảm hóa ba Ông Cho quen bút để từ từ dẫn ba Ông đi đến làm môn đệ của ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ mở Đạo Kỳ Ba.

Đến thượng tuần tháng 7 năm Aát Sửu (1925) ba Ông dự tính Xây bàn cầu Tiên Cô Đoàn Ngọc Quế về cho thi văn để học hỏi hoặc xướng họa nữa .....

Nào ngờ đâu khi Bàn chuyển rất lạ thường hơn bao nhiêu kỳ trước. Có một Tiên Ông giáng đàn đề danh A Ă Â, rồi cho một bài thi:

THI
Ớt cay, cay ớt gẫm mà cay !
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai.

Nghe qua bài thi, Ông Phạm Công Tắc mới nói với Ông Cao Huỳnh Cư rằng : Thôi anh, Ông gì xưng danh A Ă Â nghe khó hiểu quá ?

Ông Cao Huỳnh Cư nói : Ấy, em ngồi lại Xây bàn vị nầy là ai ? Vì qua nghĩ không phải Chơn linh tầm thường đâu ?

Hai Ông tiếp tục Xây Bàn. Ông Cao Huỳnh Cư hỏi Ông A Ă Â mấy chục tuổi, Ông A Ă Â gỏ bàn đếm hoài không ngừng, Ông Cao Huỳnh Cư không dám hỏi nữa.

Từ đó về sau vì Tiên nào giáng đàn cho thi văn thì Ông Cao Huỳnh Cư cũng cầu Ông A Ă Â về giải nghĩa giùm .....

Hạ tuần tháng 7 năm Aát Sửu (1925) ba Ông cầu Tiên Cô Đoàn Ngọc Huế về và hỏi rằng : Cô có chị em nào biết làm thi văn, mời giùm về cho thi văn học hỏi ? ... Cô Đoàn Ngọc Huế trả lời : Chị Hớn Bạch Liên với Nhứt Nương Diêu Trì Cung làm thi hay lắm ...

Ba Ông mừng và nhờ mời giùm quý vị Tiên Cô ấy : Ngày Rằm tháng 8, nhằm Lễ Trung Thu, trăng thanh gió mát về cho thi văn hoa vận học hỏi .....Cô Đoàn Ngọc Quế dặn ba Ông : Ba anh muốn cầu thì ngày đó ba anh phải ăn Chay cầu mới được . Ba Ông vâng lời Tiên Cô Đoàn Ngọc Quế ăn Chay.

Đến Rằm tháng 8, ba Ông lập bàn hương án, chưng bông , hoa, trà, quả, xông hương trầm, trọn ngày trong nhà không tiếp khách.

Từ 20 giờ đến 22 giờ, có 4 vì Tiên Cô giáng đàn cho một bài thi văn :

THI
Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mịt vườn Xuân điểm sắc Thu.
Gió dậy sao Trời mây cuốn Ngọc,
Sương lòng ướt đất liểu đeo Châu.
Ngựa vàng ruổi gió thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương đậm vẽ làu.
Non nước đìu hiu Xuân vắng Chúa,
Nhìn quê cảnh úa giục cơn sầu.

Ba Ông cầu Đức A Ă Â về xin giảng giải về bài thơ trên của bốn vì Tiên Cô cho, để ba Ông lãnh hội. Đức A Ă Â giảng giải thi văn nghe rất phong phú... làm cho ba Ông cảm kích vô cùng.

Có hai Ông Phạm minh Kiên và Ông Lê Thế Vĩnh, là người hành nghề viết báo đến viếng Ông Cao Huỳnh Cư, nhân lúc ba Ông cầu Đức A Ă Â về. Ông Cao Huỳnh Cư xin Đức A Ă Â Cho Ông Kiên và Ông Vĩnh mỗi người một bài thi để làm kỷ niệm.

Đức A Ă Â đáp Để Bần Đạo cho chung hai người một bài thi mà thôi . Ai nấy đều làm lạ, nghĩ vì tâm sự mỗi người mỗi khác. Hai người mà cho chung một bài thi thì thế nào được hợp ? Đức A Ă Â gỏ Bàn cho ngay một bài thi Tứ tuyệt :
THI
Một viết với thân giữa diễn đàn,
Bằng xua trước giặc vạn binh Lang.
Đạo Đời vị biết đời là trọng,
Dạy dỗ sao cho đặng mở mang ?

Đọc hai bài thi ai nấy đồng khen, chỉ có bốn câu thi mà gần đủ bộ vận hai nhà làm báo.

Đêm sau ba Ông đồng tiếp tục Xây bàn . Ông Nguyễn Trung Hậu bạch với Đức A Ă Â .... Tôi còn nhớ hai câu đối, thuở nay chưa có ai đối được, xin đem ra nhờ Đức A Ă Â đối dùm . Đức A Ă Â đáp : Bần Đạo xin hầu đối ... nhưng đối nếu không chuẩn xin quý vị chớ cười và niệm tình Bần đạo mà chấn chỉnh lại cho .

           
Câu đối Ông Hậu đọc :
            Ngồi trên Ngựa đừng bo con Nghé
           
Câu Đức A Ă Â đáp :
            Cởi lưng Trâu chớ khỉ thằng tê .
           
Câu thứ hai Ông Hậu đọc :
            Ngựa chạy mang lạc .
           
Câu Đức A Ă Â đáp :
            Cò bay le bè .

Từ đây Ông Hậu và Quí Ông đều phục tài Đức A Ă Â và hết lòng sùng kính ... Không bao lâu người hầu đàn tại nhà Ông Cao Huỳnh Cư càng ngày càng đông. Trong đó có Ông Trương Hữu Đức, người làm việc tại Sở Hỏa Xa và Ông Bồng Dinh, biệt danh là Giáo Sỏi làm việc tại Dinh Hiệp Lý Sài Gòn cũng đến tìm hiểu ?

Khi xây bàn, Ông Bồng Dinh bạch cùng Đức A Ă Â rằng : Trong truyện Kiều có câu : Sửa sang níp tử xe Châu, vùi nông một nắm mặc dầu có hoa ? Chẳng hay níp tử là gì ? Xin Đức ngài chỉ giáo ... Đức A Ă Â đáp : Níp tử là cái rương của thầy Khổng Tử, xe Châu là cái xe của Châu võ Vương ngồi đi phạt Trụ. Cái rương của thầy Khổng Tử dùng đựng sách vở, tức là văn chương, người văn sĩ thác rồi cũng theo xác thịt mà chôn vào quan cử. Nên Nguyễn Du mới dùng hai chữ níp tử để gọi cái quan tài của bậc văn chương tài tử, cũng như nàng Đạm Tiên vậy !

Vua Châu Võ Vương ngồi Long Xa đi phạt Trụ, tức là gồm thâu giang san nhà Trụ vào đây. Con người ở đời làm được bao sự nghiệp trong buổi sanh tiền, khi thoát xác rồi cũng phải tay không thì chẳng khác nào bao nhiêu sự nghiệp tự mình gầy nên đến khi nhắm mắt rồi thảy đều thâu vào trong Linh Xa để gọi cái Linh Xa tài tình bạc mệnh !

Nghe qua đoạn văn giải đáp nầy, Ông Cao Huỳnh Cư va Quý anh em đồng lãnh hội rất hoan hỉ vô cùng ... Ông Cư nói : Bình sanh tôi luôn luôn phục thi văn của Lý Bạch, vậy chúng ta cầu thử người coi ? Đoạn Ông cùng các bạn thấp nhang ra giữa Trời khẩn vái .....Quả nhiên Lý Bạch Đại Tiên giáng đàn ngay cho một bài thi :
THI
Đường trào hạ thế hưởng Tam Quan,
Chẳng quản công danh chỉ vị nhàn.
Ly rượu, trăm thi đời vẫn nhắc,
Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn !
Một bầu Phong Nguyệt say ngơ ngáo,
Đầy túi thơ văn đổ chứa chan !
Bồng Đảo còn Mơ ngày bút múa ...
Tả tình thế sự vẽ Giang san.

Được thi Lý Bạch ban cho, Ông Cư và các bạn quá phấn khởi... thành tâm thỉnh ngay vong linh Ông Đổ Phủ giáng đàn về họa vận :

THI HỌA
Chẳng nệ công danh bỏ ấn quan,
Bồng Lai riêng thú hưởng an nhàn.
Thơ thần vui vịnh ngoài rừng trước,
Rượu Thánh buồn say dưới cội tàn !
Nắng Hạ, Trời thương đưa gió quạt ...
Nông thu Đất cảm đổ mưa chan.
Vân du thế giới vui mùi Đạo,
Sớm dạo Kỳ Sơn, tối Cẫm San.

Nghe thi văn các Đấng Thiêng Liêng xướng họa, Ông Cao Huỳnh Cư và các bạn đắc chí ... và cầu thỉnh vong linh nào thì cũng được giáng đàn ngay. Ấy cũng là pháp thuật Thiên điều của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế sắp đặt để độ Quý Ông Xây bàn phò loan hầu sau nầy Chấp cơ truyền đạo phổ độ chúng sanh.

Thời gian Xây bàn khá dài Ông Cao Huỳnh Cư than với các bạn : Nghi cách Xây bàn quá chậm chạp ? Phải cải tiến như thế nào cho được tân kỳ linh hoạt hơn nữa ? ...

Vào thượng tuần tháng 8 năm Aát Sửu (1925). Khi Xây bàn thì có vị Tiên Cô Thất Nương Diêu Trì Cung giáng đàn dạy quý Ông phải dùng Đại Ngọc Cơ , Nhà Ông Tý có ( cùng ở đường Bourdais ).

Sau đàn Ông Cao Huỳnh Cư sang nhà Ông Tý mượn được Đại Ngọc Cơ và Nhờ Ông Tý sang nhà Ông Cao Huỳnh Cư chỉ giùm nghi thức cầu Đại Ngọc Cơ thế cho Xây bàn .

Khi có Đại Ngọc Cơ , hằng đêm quý Ông đều có thiết đàn được chư Thần, Thánh, Tiên, Phật giáng đàn dạy đạo ... Đức A Ă Â giáng đàn phán dạy ba Ông : muốn cho ta truyền Đạo, thì tất cả phải kiêu ta bằng THẦY để cho tiện bề xưng hô đối đãi ? Ba Ông vui lòng vâng chịu.

Từ đây nghĩa thầy trò giao tiếp tình cãm mật thiết hơn nữa ... Đức A Ă Â mới tá danh Ngọc Hoàng Thượng Đế cho biết : THẦY sẽ lập TÔN GIÁO CAO ĐÀI, danh xưng ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ.

Trước khi mở Đạo, ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ dạy thiết lễ HỘI YẾN DIÊU TRÌ CUNG . Ý nghĩa ra sao ? Xin mở ngoặc ra đây mời quý vị theo dõi lời giảng của Đúc Hộ Pháp.

Ngày Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung , là bí pháp trong nền ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ, ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ tá danh CAO ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG lập thành nền Chơn giáo của Ngài. Bần Đạo xin thuyết minh cho toàn thể con cái Đức Ngọc Hoàng hiểu rỏ cái huyền vi bí mật ấy, bởi có ảnh hưởng tới cơ quan đạt đạo của chúng ta tại mặt thế gian nầy.

Hơn nữa Bần Đạo có dịp tỏ bày một Đức tin phi thường với một Đấng yêu ái, một Đấng tạo nên CÀN KHÔN VŨ TRỤ.

Đạt được đức tin ấy, năm Ất Sửu (1925) ĐỨC NGỌC HOÀNG đến với chúng tôi như một tình bạn, với một danh từ A Ă Â mà thôi, giờ phút nầy Bần Đạo không dám nói. Ngài đến làm bạn trước với Cao Thượng Phẩm, Phạm Hộ Pháp, Cao Thượng Sanh, vào thượng tuần tháng 6 năm Aát Sửu. Ngài dùng cơ bút huyền diệu của Ngài. Ngài dạy VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO, đều mà chúng ta bây giờ không thể tưởng tượng đặng. Đây là một cử chỉ chung chớ phải cá nhân Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh, mà lời huấn giáo của Ngài cốt yếu để cho toàn thể nhơn loại trên mặt Địa Cầu nầy, nhứt hơn hết là nòi giống Việt Nam chúng ta.

Bần Đạo nói đến đây còn có Bà Hương Hiếu hiện là Phối Sư, là người bạn đời của Cao Thượng Phẩm từng hiểu điều ấy. Ngày nói đến với một tình cảm đáo để ... Một Đức tin vững vàng, không thể tưởng tượng đặng, khiến cho ba chúng tôi không vi kỷ, e thẹn chi hết.

Giữa khoảng Dường Bourdais (Phố Hàng Dừa), nơi Châu thành Sài Gòn đô hội, thiên hạ đi qua, đi lại tấp nập mà Đức Ngọc Hoàng bảo chúng tôi phải quỳ ngoài lề đường. Quỳ đặng cầu nguyện xin Đạo cho chúng sanh, tội nghiệp thay ! Ngài thử thách cho đến nước ! Thoãng như mình quỳ đó mà thiên hạ không biết mình, thì quỳ làm gì cũng ít mắt cở chút mà cũng có thể quỳ, còn mình quỳ mà mọi người đều biết thì nhột nhạt khó chịu lắm, nhưng vì sợ kỉnh Đức Ngọc Hoàng nên phải ráng mà làm.

Ngay lúc đó có một Ông bạn mà ai cũng biết là nhà Thi-sĩ danh tiếng nhất. Bần Đạo dám chắc nội trong Nam Bộ, chúng ta đây chưa có ai bằng, nổi danh Thi-sĩ đứng đầu hơn hết là người ấy. Không biết cớ gì mà người mê thi văn của Đức Ngọc Hoàng quá chừng quá đổi, đến nước người thuộc lòng bài thơ của Đức Ngọc Hoàng, người làm như say mê vậy. Bần Đạo thì nhột nhạt, vì sợ kỉnh Ngọc Hoàng mà vâng mạng lệnh thi hành theo Quyền Giáo Hóa của Đức Ngọc Hoàng, còn người Thi-sĩ tài ba biệt danh Bồng Dinh cứ hòa theo cuộc VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO đó mà ngâm thi liên tục ... Thiên hạ đi đường thấy tấn tuồng dị họm tụ lại càng lúc càng đông. Họ thấy mình để một cái bàn Vọng Thiên Cầu Đạo, ba người quỳ cầm 9 cây nhan, để bàn tay lên cái bàn quay, gỏ, nói chuyện ...

Lúc đó các Đấng Thiêng Liêng không biết bao nhiêu, đến các vị Chưởng Giáo cũng xuống giảng dạy Đạo và làm nhiều điều lạ lắm ! Cùng Lúc Nầy Đức Ngọc Hoàng đến giáo hóa chúng tôi khá lâu. Từ đó về sau, các Đấng Thiêng Liêng cũng đến làm bạn cùng Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh càng nhiều hơn nữa ...

Tuy mới mà chúng tôi có đủ đầu óc, có một đức tin vững vàng. Đức tin ấy có thể nói rằng : Trong buổi ban sơ mà khối óc như đã thâm nhiểm lâu rồi, nên Đức Ngọc Hoàng Mới ra lịnh biểu làm một cái tiệc.

Ngài dạy sắp đặc một cái tiệc ấy để đãi Đấng vô hình, đãi mười người. Đức Phật Mẫu, Cửu vị Tiên Nương. Phần hữu hình có ba người : Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh. Sắp đặc tiệc nầy Bà Hương Hiếu, hiện giờ là Nữ Chánh Phối Sư, vâng mạng lịnh Đức Ngọc Hoàng tạo thành một tiệc. Trên bàn thờ Phật Mẫu, ở dưới 9 cái nghế như có người ngồi vậy, có chén, đĩa, đủa, muỗng bất kỳ cái gì cũng giống như người hữu hình vậy, tuy có 3 người xác thịt là Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh. Bần Đạo mới hỏi Đức Ngọc Hoàng, tiệc nầy là tiệc gì?

Ngài nói là HỘI YẾN DIÊU TRÌ . Bần Đạo nghe nói vậy, chưa biết giá trị Hội Yến Diêu Trì là gì cả ? Suy nghĩ chắc cũng có ảnh hưởng gì cần yếu đến tương lai của Đạo mà vâng lịnh thôi, chớ không hiểu lý cho cùng tận hết !

Khi tiệc xong, ba người đồng ngồi ăn, cò Bà Hương Hiếu gắp đồ ăn để vào chén trên bàn thờ Phật Mẫu và 9 vị Tiên Nương cũng như người sống kia vậy.

Bần Đạo còn nhớ chuyện lạ lùng là lúc đó không hiểu gì hết. Giờ biết Đạo mới hiểu Đức Ngọc Hoàng buổi nọ lấy một tên riêng đối với Bần Đạo. Bây giờ Bần Đạo Không dám nói lại. Ngài đến làm bạn cùng Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh mà thôi !

Chừng Hội Yến Diêu Trì xong. Đức Ngọc Hoàng giáng cơ. Thượng Phẩm, Hộ Pháp, Thượng Sanh tọc mạch hỏi : Khi nãy Diêu Trì Cung Đến , có Ngài ở đó không ? Đức Ngọc Hoàng Trả lời : Có chớ, ta ở đây từ khi ban sơ tới giờ. Ngài có thấy Diêu Trì Cung đến Không ?. Có chớ, chính mình ta tiếp đãi... Cao Thượng Phẩm hỏi: Diêu Trì Cung ngó thấy Ngài không ?. Không ngó thấy . Cao Thượng Phẩm hỏi: Sao vậy ? . Ngài trả lời: Ngài dùng Phép ẩn thân.

Bần Đạo tọc mạch hỏi tiếp: Như đứa em của tôi là Thất Nương Cung Diêu Trì có thể đạt Đạo được chăng ? Ngài nói Đạt đạo chớ. Cao Thượng Phẩm hỏi: Phải làm sao ?. Ngài nói: Phải tu, bằng không tu chẳng đặng.

Bần Đạo hỏi: Tu chừng bao lâu mới đạt Đạo đặng ?. Cái đó Ngài làm thinh. Bần Đạo hỏi một năm, năm năm, một ngàn năm ...Ngài cũng làm thinh, rồi không dám hỏi nữa, nghe vậy hay vậy, các vị nữ phái ráng nhớ HỘI YẾN DIÊU TRÌ là gì đó rồi.

Toàn thể Thánh Thể Đức Ngọc Hoàng và các con cái của Ngài ráng để ý cho lắm ... Từ khi NGỌC HƯ CUNG BÁC LUẬT CỰC LẠC THẾ GIỚI bị đóng cửa. Chúng sanh toàn cả CÀN KHÔN VŨ TRỤ có tu nhiều nhưng thành Đạo rất ít, bởi phương pháp đạt đạo khó khăn lắm !

Cổ Pháp định cho các chơn hồn về nơi DIÊU TRÌ CUNG dự HỘI BÀN ĐÀO tức nhiên hưởng được HỘI YẾN DIÊU TRÌ ăn được quả Đào Tiên, uống được Tiên Tửu mới nhập được vô cảnh Thiêng Liêng hằng sống, gọi là PHÁP TỊCH .

Ôi thôi ! Từ thuở đến giờ có ai đặng hưởng, nếu có đặng cũng một phần rất ít !

Giờ phút nầy được ĐỨC NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ đến độ con cái của Ngài thay vì Bí Pháp ấy độ con cái của Ngài về nơi KIM BÀN PHẬT MẪU đặng hưởng đặc ân Thiêng Liêng có tay Ngài định pháp ấy mới đặng.

Hôm nay là ngày PHẬT MẪU đem bí pháp đặng giải thoát chúng sanh tận độ toàn vạn linh sanh chúng, Ngài để lại mặt thế trong cửa Đạo mà thôi.

Nhân Lễ Hội Yến của Ngài, mà cũng là ngày trọng hệ trong cửa Đạo, xin toàn thể con cái của Ngài nhớ và để nơi tâm mình, bởi thế năm nào bần Đạo cũng để ý Lễ của Ngài hơn hết.

Từ Tạo Thiên Lập Địa tới giờ chưa có ai hiểu đặng, thời kỳ này Ngài đến tại mặt Địa Cầu thứ 68 này đặng tận độ con cái của Ngài.

Chúng ta phải chiêm ngưỡng ơn vô biên, vô tận của Ngài, chúng ta phải chiêm ngưỡng Lễ này để mặc niệm ân thâm Đức Ngọc Hoàng và Đức Phật Mẫu, ấy là BÍ PHÁP chung cho chúng ta đó vậy.

Sau ngày Lễ Hội Yến Diêu Trì , lần đầu trên ngày 15 tháng 8 năm Ất Sửu (1925). Đức Diêu Trì Kim Mẫu . Cửu vị Tiên Nương, chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và các vị Chưởng Giáo của các nền Đạo Giáo thường xuyên giáng đàn cho thi văn dạy đạo, mỗi bài thi văn cho lý lẽ rất cao siêu, nên ba ông thường mời Đức A Ă Â giảng giải lý nghĩa nhiệm mầu cho ba ông lãnh hội.

Các bài thi văn, Thánh Giáo ấy, hiện được hình thành trong hai quyển THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN.

Đến ngày 27 tháng 10 năm Ất Sửu (1925) Bà Cửu Thiên Huyền Nữ giáng cơ bảo rằng Mồng một tháng này. Tam vị đạo hữu sẽ được VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO .

Khi Bà thăng rồi, ba Ông họp nhau bàn giải không hiểu Vọng Thiên Cầu Đạo là gì ? Mà Bà dạy, để cầu hỏi mấy vị Tiên Nương xem sao ?
Ngày sau cầu Thất Nương về hỏi xin Thất Nương dạy dùm cầu Đạo là gì ?!
Thất Nương nói: Không phải phận sự của em, xin hỏi Ông A Ă Â.

Ngày sau nữa, ba ông cầu các Đấng về ba ông hỏi ? Thì các Đấng cũng nói : Không phải phận sự của chúng tôi, xin hỏi ông A Ă Â .

Đến ngày 30 tháng 10 năm Ất Sửu (1925). Ba ông cầu Đức A Ă Â giáng đàn về dạy rằng : Ngày Mồng 1 tháng 11 năm Ất Sửu (DL, 16-12-1925) này, Tam Vị phải VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO .

Ngày ấy tắm gội cho thanh khiết, ra quỳ giữa Trời, mỗi người cầm ba cây nhang (9 cây) đốt và đưa lên tráng mà vái rằng : Ba tôi là:
Cao Huỳnh Cư,
Phạm Công Tắc,
Cao Hoài Sang.
Vọng bái Cao Đài Thượng Đế ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh

Ba ông nghe lời dạy của Đức Cao Đài Thượng Đế : sớm mai ngày Mồng 1, ông Cao Huỳnh Cư sang nhà ông Tý mượn ĐẠI NGỌC CƠ . Chiều 17 giờ ba ông sắp đặt một cái bàn ngoài trời, bên lề Đường Bourdais rồi ba ông đều quỳ chấp tay đồng để lên mặt bàn cầm 9 cây nhang, tịnh tâm mặc niệm ... Lúc đó ba ông hết nhớ đến việc quỳ bên lề đường, người ta và xe cộ tấp nập càng lúc càng đông, họ coi ba ông làm gì mà quỳ vái ngoài trời như vậy ?

Ai coi mặt ai, ba ông quỳ vái cho đến tàn 9 cây nhang. Lúc đang quỳ bổng có ông Bồng Dinh đến dịn cái bàn chổ ba ông đang quỳ mà ngâm thi ... Thiên hạ coi lại càng đông nhẹt đường.

Mở ngoặc. Nên biết: Đây là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế chọn ba đệ tử đầu tiên sau nầy chưởng quản ba Chi: PHÁP-ĐẠO-THẾ, lập thành HỘI THÁNH HIỆP THIÊN ĐÀI.

- HỘ PHÁP: Phạm Công Tắc.
- THƯỢNG PHẨM Cao Huỳnh Cư.
- THƯỢNG SANH: Cao hoài Sang.

Vọng Thiên Cầu Đạo xong, ba ông vào nhà cầu cơ. Đức A Ă Â giáng cơ xưng danh CAO ĐÀI NGỌC ĐẾ viết bằng chữ Nho, gọi rằng : NHO TÔNG CHUYỂN THẾ , ba ông không rõ cầu Đức A Ă Â về giải nghĩa giùm để ba ông lãnh hội, ngay sau đó Đức A Ă Â cho một bài thi :
THI
Cứ níu theo phan Đức Thượng Hoàng,
Tự nhiên tu tánh đặng bình an.
Nguyệt hoa căn cội tua xa lánh,
Dịn lấy nhành dương hưởng đạo tràng.

Đức A Ă Â nói rằng : Đức Cao Đài Ngọc Đế Đã hiểu lòng của ba đệ tử rồi. Ngài đã ban cho đầy ân phúc mỗi người.

ĐẾN ĐÊM và Phạm Công Tắc mới ngồi lại nâng Đại Ngọc Cơ cơ giáng dạy như sau :

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG .
THI
Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

Đêm nay phải vui mừng vì là ngày ta xuống trần lập Đạo bên Thái Tây. (Europe). Ta rất vui mừng đặng thấy chư đệ tử kính mến ta như vậy, nhà nầy sẽ đầy ơn ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đăïng kính mến ta hơn nữa ...

Đức Cao Đài Ngọc Đế giáng đàn phán rằng : Bấy lâu Thầy tá danh A Ă Â là cốt để dìu dắt các con vào đường Đạo Đức, hầu chẳng bao lâu đây các con phải ra giúp Thầy khai nền ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ, các con có thấy Thầy khiêm nhượng dường nào chưa ? Các con nên bắt chước Thầy trong mãi múng thì mới xứng đáng là người Đạo Đức.

Đến Đêm mùng 1 thàng 1 năm 1926, có người Phụ Nữ theo Đạo Thiên Chúa đến xin cho tôi để thử trên bàn cầu cơ hình Đức Chúa Jésus và một cây Thánh Giá. Nếu Đức Cao Đài là Thượng Đế thiệt thì mới giáng cơ được, còn là Quỉ Vương thấy hai vật ấy thì phải tự nhiên tránh. Ông Cao Huỳnh Cư bằng lòng cho thử, đoạn cùng Ông Phạm Công Tắc ngồi lại nâng cơ Đức Cao Đài Ngọc Đế giáng cơ dạy : Các con có hiểu Jésus là ai chăng ? Trước ta đổ máu cho loài người cũng vì thương yêu ! Bây đủ thương yêu ta dường ấy chăng ? Ta cầu bây biết ăn năng. Ta trông thấy bây biết ăn năng hầu cứu chửa bây .

Từ đây Quý Ông Cao Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức đều hết lòng tín ngưỡng thờ phượng Đức Cao Đài Ngọc Đế và lo dưỡng tánh tu tâm chuyên lo việc Đạo ...

Huyền diệu thay ! Nhắc lại một huyền năng Giáo Hóa chọn đệ tử để sau nầy lập nên người lãnh đạo ngôi cao cả của HỘI THÀNH CỬU TRÙNG ĐÀI .

Vào tháng 4 năm Aát Sửu (1925), trong Chợ Gạo (Chợ lớn), thường đêm cũng có một số người thiết đàn thỉnh Tiên về dạy Đạo nữa ...

Một hôm Ông Hội Đồng Thành Phố Chợ Lớn Nguyễn Hữu Đắc Gặp Ông Lê Văn Trung, Nghị Viên Hội Đồng Thượng Nghị Viện đi dạo mát ... Ông Đắc mời Ông Trung Lên Chợ Gạo hầu đàn ... Ông Trung Bằng Lòng cùng đi. Sau khi biết chỗ rồi, mỗi lần ở Chợ Gạo có khai đàn cầu cơ thì Ông Trung đến hầu đàn.

Lần nầy Ông Trung nhiểm mùi Đạo, tỉnh ngộ phế bỏ lần gia sự, lợi danh, rồi ăn chay, giữ giới chuyên lo việc tu hành, sau khi chư Tiên độ được Ông Lê Văn Trung, chư Tiên dạy bế đàn Chợ Gạo, làm cho mọi người ngớ ngẩn không rõ cớ chi ?

Vào ngày 5 tháng 12 năm Aát Sửu (DL : 28-1-1926) : Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ dạy ba Ông : Cao Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang đem cơ vô nhà Ông Lê Văn Trung ở Chợ Lớn (Đường Testard) cho Ngài dạy việc ... Ba Ông lấy làm ái ngại vô cùng ! Vì thuở nay ba Ông chưa hề quen biết Ông Lê Văn Trung, hơn nữa nghe ra Ông Trung Là người có quyền cao, tước trọng trong Xã Hội, rất là thế phiệt trâm anh, đài các ...

Nhưng lịnh Đức Ngọc Hoàng bảo phải vâng hành mà thôi ! Ba Ông đi hỏi thăm được biết nhà Ông Lê Văn Trung. Ba Ông đồng vào tiếp xúc trình bày lời dạy của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế ... được Ông Lê Văn Trung vui vẻ tiếp rất hân hoan !!! Ông Lê Văn Trung cho sắm lễ phẫm thiết đàn ngay.

Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ dạy Đạo và khuyên Ông Lê Văn Trung lo việc tu hành. Ngài lại phán rằng : Chính Ngài đã sai Lý Thái Bạch độ và dìu dắt Ông Lê Văn Trung nơi đàn Chợ Gạo đã lâu rồi . Ngài dạy Ông Lê Văn Trung : Trung nhứt tâm nghe con, sống cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy, mà đọa cũng nơi Thầy. Con cứ lấy sự sáng suốt của con mà suy lấy . Rồi Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế cho một bài thi:

THI
Một Trời, một Đất một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm máy Thiên Cơ lo cứu chúng,
Đạo Người vẹn vẽ mới thành Tiên.

Từ đây Ông Lê Văn Trung vâng Thánh ý Đức Ngọc Hoàng thu xếp phần nhân đạo, để cùng Quý Ông Cao Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang một lòng xả thân hành Đạo.

Chính Ông Lê Văn Trung sau nầy đã được thọ Thiên Ân Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, tiếp đến đắc vị Quyền Giáo Tông Tịch Đạo Thanh Hương đầu tiên.

Ít hôm sau, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ dạy Quý Ông Cao Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc ,Cao Hoài Sang, Lê Văn Trung, Trương Hữu Đức phải hiệp với Ông Ngô Văn Chiêu để lo mở Đạo ... Lúc đó trong Đạo mới có 13 người.

Ông Ngô Văn Chiêu, Lê Văn Trung, Cao Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức, Vương Quang Kỳ, Nguyễn Văn Hoài, Đoàn Văn Bảng, Võ Văn Sang, Lê Văn Giảng, Lý Trọng Quý.

Đêm 30 tháng 12 năm Aát Sửu (DL. 12-1-1926) Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ cho mỗi người bài thi Tứ Tuyệt :
THI
Lê Văn Giảng
Đã thấy ven mây lố mặt Dương ...
Cùng nhau xúm xích dẫn lên đường.
Đạo cao phó có tay cao độ,
Gần gủi sau ra vạn dặm trường.

Cao Huỳnh Cư
Sắp út thương hơn cũng thế thường,
Cái yêu, cái dạy ấy là thương.
Thương không nghiêm trị là thương dối,
Dối dạ vì chung yếu dạ thương.

Phạm Công Tắc
Ngao ngáo không phân lẽ thiệt không,
Thấy thằng áp út quá buồn lòng !
Muốn giàu Thầy hứa đem cho của,
Cái của cái công phải trả đồng.

Võ Văn Sang
Tân Dân hỉ hiến đắc tân niên,
Phổ độ Tam Kỳ bá thế hiền.
Nhứt tịnh chủ tâm chơn đạo lý,
Thăng Thiên Hượt Địa chỉ nhu Thiên.

Vương Quang Kỳ
Nhựt nhựt tân về nhựt nhựt tân,
Niên đáo tân hề Đạo giữ tân.
Vô lao công quả tu đường tác,
Niên hóa niên hề Đạo tối tân.

Lê Văn Giảng
Trần tục là nơi chổ biển buồn !
Nghe nơi Đại Đạo ráng nghe luôn.
Ở trong nhà sẳn Thầy đưa khó,
Ách nạn chi chi cũng chảy luôn.

Nguyễn Trung Hậu
Thuần phong mỹ tục giáo nhơn sanh,
Đức hóa thường lao mạc vị danh.
Hậu thế lưu truyền gia pháp quý,
Giáo dân bất lậu tán thời manh.

Nguyễn Văn Hoài
Vô vi tối hiếu Đạo đang cầu,
Đệ tử tâm thành bất viễn ưu.
Thế sự vô duyên vô thế sự,
Tiểu tư bất xuất ngoại gian đầu.

Đoàn Văn Bảng
Thương thay trung tín một lòng thành,
Chẳng kể quan mà chẳng kể danh.
Thiệt thòi mấy phận không con nối,
Thầy rứa lòng ta cũng chẳng đành.

Lý trọng Quý
Lỡ một bước lướt một ngày,
Một lòng thành thật chớ đơn say.
Lôi thôi buổi trước nhiều ân xá,
Lắp lững đừng làm tội bữa nay.

11 giờ khuya tái cầu: Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giảng dạy: Chư đệ tử nghe: Chiêu buổi trước hứa lời truyền Đạo ... để cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ dìu dắt cả môn đệ của ta vào đường Đạo Đức đến buổi chúng nó thành công, chẳng nên tháo trúc. Phải thay mặt cho ta mà dạy dỗ chúng nó.

Trung, Kỳ, Hoài. 3 con phải lo thay mặt cho Chiêu mà lo đi độ người. Nghe và tuân theo.
Bảng, Sang, Giảng, Quý, lo dọn mình Đạo Đức đặng truyền bá cho chúng sanh. Nghe và tuân theo.
Đức tập Cơ, Hậu tập Cơ, sau theo mấy anh đặng độ người. Nghe và tuân theo.

Vào đêm mùng 9 tháng 1 năm Bính Dần (1926). Nhằm ngày Vía Trời. Ông Vương Quang Kỳ thiết Lễ Đại Đàn tại nhà Ông tại đường Lagran Diere. Đêm ấy có rất đông chư nhu Đạo Hữu hầu đàn. Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng đàn cho thi :

THI
Bửu tòa thơi hới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp ráng dung nền Đạo Đức ...
Bền lòng son sắc đến cùng ta.

Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu. Thầy vui muốn cho các con thuận hòa, ấy là Lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Đạo Thầy. Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy. Phải làm cho nhau đặng thế lực, các con giữ phận làm tùy ý muốn của Thầy.

Ngay giờ đó. Ông Văn Chiêu xin Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế lấy tên mấy người đệ tử kết thành một bài thi kỷ niệm. Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế liền cho một bài thi Tứ Tuyệt.

THI
Chiêu, Kỳ, Trung độ dẫn Hoài sanh,
Bảng Đạo khai Sang, Quý, Giảng thành.
Hậu, Đức, Tắc, Cư thiên địa cảnh,
Hường minh mân đáo thủ đài danh.

Sau đàn cơ này, Ông Lê Văn Trung cùng Anh Em lo đi khai đàn giảng đạo ... Ông Chiêu ở nhà tu thân ! Ý không muốn làm nhiệm vụ Thể Thiên Hành Hóa , vì sợ ảnh hưởng khó khăn bản thân, vì dưới chế độ của người Pháp đô hộ, Ông Chiêu nói Ngô thân bất độ, hà thân độ . Ông Chiêu vô hình trung phu nhận lời Thánh huấn của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế , chỉ lo tu đơn, tu tịnh mà thôi.

Coi như Ông Ngô Văn Chiêu tự tách ra không chung lo Thể Thiên Hành Hóa kể từ ngày 14 tháng 3 năm Bính Dần (DL. 24-4-1926) Đồng một quan niệm với Ông Chiêu lo tu đơn, tịnh luyện có 3 Ông : Võ Văn Sang, Nguyễn Văn Hoài, Lý Trọng Quý. Nhưng về phương diện tín ngưỡng. Ông Chiêu vẫn tôn thờ Đức Ngọc Hoàng Thương Đế .

Từ đây, Ông Lê Văn Trung cùng với anh em lo đi phổ thông chánh giáo Đạo Trời ... Đức Ngọc Hoàng giáng cơ thâu nhận đệ tử nhiều vị có trình độ học thức danh giá như : Đốc Phủ Lê Bá Trang, Đốc Phủ Nguyễn Ngọc Tương, Đốc Phủ Lê Văn Hóa, Đốc Phủ Mạc Văn Nghĩa, Quan Huyện Nguyễn Ngọc Thơ và phu nhơn Lâm Hương Thanh (Bà này sau thọ Thiên Aân Đầu Sư Nữ Phái Cửu Trùng Đài đầu tiên), các Ông Nguyễn Văn Tương, Trần Đạo Quan, Nguyễn Văn Kinh, Lâm Quan Bính, là những người cùng với Ông Lê Văn Trung làm rường cột khai mở Đạo Trời ...

Phần Trách nhiệm phò cơ, ngoài 5 Ông : Cao Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức.

Đêm 15 tháng 1 năm 1926.
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế ban Thánh giáo :

NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
VIẾT CAO ĐÀI TIÊN ÔNG ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT GIÁO ĐẠO NAM PHƯƠNG

" Trung vô giữa bái Lễ cho Thầy coi ...
Con làm Lễ trúng, song mỗi gật con nhớ niệm câu chú của Thầy; Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát .

Đại Lễ làm Lễ ba lần.
Lần đầu dâng hương và hoa.
Lần giữa dâng rượu,
Lần chót dâng trà.
Phải chính mình con dâng Lễ ấy.

Khi bái Lễ, hai tay con chấp lại, song phải để tay trái ẤN TÝ tay mặt ngữa ra, nắm với tay trái chụp lên trên.

Từ đây 13 tháng Giêng năm Bính Dần (25 tháng 2năm 1926), con phải may riêng một bộ áo Lễ, tay rộng, cổ trịch, như áo Đạo, nhưng phải gài 9 mối, màu xanh da trời, con nhớ mang giầy gai đặng hầu Thầy, còn nhứt nhứt đều để chơn không hết.

Lại là gì ?
Là tỏ ra bề ngoài Lễ kính trong lòng.
Chấp tay lại là tại sao ?
Tả là Nhựt. Hữu là Nguyệt, vi chủ Âm Dương hiệp nhứt, phát khởi Càn Khôn ... sanh sanh hóa hóa tức là Đạo sanh thành.

Lạy kẻ sống hai lạy, tại sao ?
Là nguồn cội của nhơn sanh. Lưỡng hiệp ÂM DƯƠNG mà ra ấy là Đạo.
Vong phàm lạy 4 lạy, là tại sao ?
Là vì 2 lạy của phần người, còn một lạy Thiên, một lạy Địa.
Lạy Thần, lạy Thánh 3 lạy, là tại sao ?
Là lạy đấng vào hàng thứ 3 của Trời , và cũng chỉ rằng lạy Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt, hay là Đạo.

Lạy Tiên, Phật 9 lạy, là tại sao ?
Là lạy chín Đấng Cửu Thiên Khai Hóa.
Còn Lại 12 lại là tại sao ?
Các con không biết đâu ?
Thập Nhị Khai Thiên. Thầy là Chúa cả Càn Khôn thế giái, nắm trọn Thập Nhị Thới Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy.
Chưa phải hồi các con hiểu đặng.
Tại vẽ con mắt mà thờ Thầy. Thầy nói sơ lược cho con hiểu chút ít:
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng Quang chủ tể.
Quang Thị Thần,
Thần Thị Thiên,
Thiên Giã ngả Giã.

Thầy là khiêm khuyết của cơ mầu nhiệm, từ ngày Đạo bị bế, Lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy. Thầy cho thần hiệp Tinh, Khí , đặng hiệp với Tam Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.

Các con nhớ nói vì cớ nào thờ con Mắt. Thầy cho chư Đạo hữu nghe !

Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật từ ngày bế Đạo, thì luật lệ bởi conø nguyên, luyện Pháp chẳng đổi, song Thiên Đình mỗi phen đánh tảng Thần không cho hiệp cùng Tinh, Khí .

Thầy đến đặng hườn nguyên Chơn Thần cho các con đắc Đạo. Con hiểu Thần cư tại Nhãn . Bố trí cho chư Đạo hữu các con hiểu rõ. Nguồn cội Tiên, Phật, do yếu nhiệm là tại đó. Thầy khuyên các con mỗi phen nói Đạo hằng nhớ đến danh của Thầy."

Từ ngày Ông Lê Văn Trung được Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy phần nghi Lễ ... hàng đêm Ông cùng với Quý Ông Vương Quang Kỳ, Cao Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức, Đoàn Văn Bảng, Lê Văn Giảng hợp tại nhà Ông Lê Văn Trung ở đường Testard Chợ Lớn hoặc nhà Ông Cao Huỳnh Cư đường Bourdais SaiGon, để cầu Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ dạy về việc phổ thông Chơn Đạo ...

Home                      [ 1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét