Đời Sống Của Người Tín Đồ Cao Đài - 2 / 3 (Nguyễn Long Thành)

Song đó chỉ là thuật điều chỉnh tư tưởng mà thôi, chỗ yếu nhiệm song song kế đó là trong tâm mình phải có đức tin và lòng trông cậy vào quyền năng của Bát Quái Đài. Không có đức tin có nghĩa là không sống thực với lòng mình thì sự tập trung tư tưởng cầu nguyện, lễ bái không có thần lực của mình phát ra cao độ cũng như máy thu thanh thiếu điện đương nhiên không có cảm ứng, cúng lạy suốt đời cũng chỉ lòng vòng với hình tướng mà thôi không có bí pháp ứng hiện.
"Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp..."

Khi bắt đầu đọc kinh đã có sự nhắc nhở như vậy. Có đức tin mới có lòng thành khẩn và sự kính trọng thật sự trong tâm. Không tin, không kính thì sự kính trọng làm ra vẻ bề ngoài và những lời vái van lấy lệ trên đầu môi chót lưỡi chỉ là giả tưởng mà thôi, xét trên quan điểm cao tầng huyền linh quả nhiên như vậy, tuy rằng lời thật hay mất lòng.

Tóm lại cúng kiến, cầu nguyện phải đúng với chơn pháp và phải có đức tin mãnh liệt mới có ấn chứng tâm truyền khi mình đủ công đức.
II - ĐỌC KINH CẦU LÝ
1 / Ý nghĩa
Đọc kinh cần phải hiểu ý nghĩa của lời kinh vì lý trí có hiểu đặng ý nghĩa mới điều khiển thân xác hành động theo chánh tín đặng. Quan niệm sống của người tín đồ thể hiện qua tư tưởng và hành động của họ, không hiểu ý nghĩa lời kinh việc sùng tín dễ rơi vào mê tín dị đoan và lòng nhiệt thành hăng say vì Đạo dễ bị lạm dụng không đúng chỗ. Ý nghĩa lời kinh trong các tôn giáo thường diễn tả vũ trụ quan và nhân sinh quan của nền triết lý đạo giáo ấy.

Việc cầu lý bao gồm từ thấp đến cao, tùy theo căn cơ và trình độ của mỗi cá nhân người giảng và nghe, cần có những hình thức diễn giảng khác nhau mới đáp ứng đủ mọi trình độ hiểu biết của nhơn sanh.

Triết lý của Tam Kỳ Phổ Độ tổng hợp tinh hoa các giáo thuyết đông tây kim cổ gọi là Qui Tam Giáo hiệp Ngũ Chi nên chúng ta không lạ gì khi thấy, chẳng hạn một vấn đề ăn chay thôi mà lý giải của nó do những người đi trước truyền đạt cũng không đồng nhất. Người truyền giáo hiểu đến đâu thì diễn giảng theo mức ấy và người nghe tùy trình độ nhận thức của mình cũng hiểu và tin vấn đề một cách khác nhau. Tinh thần tổng hợp chấp nhận tất cả những sự khác biệt ấy đều hữu dụng cho nhơn sanh tùy căn duyên của mỗi người. Cũng lẽ ấy mà về hình thức nghi lễ tất cả các vị giáo chủ cổ kim đều được tín đồ Cao Đài thờ chung trên một bàn thờ dù trước kia chủ trương hành động của họ đối với cuộc đời không đồng nhất khi độ rỗi nhơn sanh. Về phương diện cầu lý phương tu của người tín đồ Cao Đài chủ trương làm người phải tìm hiểu lý đạo sâu xa sửa lòng mình cho trong sạch khi tụng kinh.
"Làm người rõ thấu lý sâu,
Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh Kinh" (Trích bài Khai Kinh)

Trong Tân Luật điều thứ hai mươi ba, Chương VI ghi rõ trong Đạo sẽ mở trường dạy chữ và dạy Đạo. Dạy Đạo là giảng dạy về môn giáo lý Cao Đài trong học đường. Điều mong ước ấy của các bậc tiền bối đã ghi thành luật nhưng trên thực tế chẳng thực hiện được bao nhiêu hầu đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lý Đạo cho lứa tuổi thanh thiếu niên.
2 / Các hình thức cầu lý
Để tìm hiểu ý nghĩa của lời kinh, thông thường người ta áp dụng những hình thức sau đây:
a) Truyền giảng trực tiếp bằng lời nói giữa người và người, mặt đối mặt với nhau. Hình thức nầy trong Đạo Cao Đài gọi là thuyết đạo, thường thấy trong các đàn cúng do chức sắc hay chức việc thực hiện khi vừa mãn lễ trước số đông tín đồ tham dự đàn cúng vào các ngày sóc vọng hay lễ vía hoặc ngày thường.

Hình thức nầy truyền thụ kiến thức một chiều giữa người nói và người nghe. Đôi khi cũng có những buổi thuyết giảng ngoài giờ cúng trong đó người nghe có cơ hội nêu thắc mắc để được giải đáp hay thảo luận.
b) Dùng phương tiện sách báo, phim ảnh, băng ghi âm, làn sóng điện truyền thanh truyền hình để truyền bá đạo lý trong đó có ý nghĩa lời kinh. Người giảng chỉ nói một lần và lời nói hay văn tự được giữ lại để truyền đạt cho tín đồ nhiều lần về sau.
c) Hình thức học hỏi bằng cách thông công hay tham thiền, sinh hoạt loại nầy thuộc cao cấp và có nhiều nguy hiểm. Các Đấng Thiêng Liêng trợ thần cho người tìm hiểu tự khám phá lấy hoặc giảng dạy trực tiếp trên chơn thần bằng âm thanh hay hình ảnh về ý nghĩa của lời kinh và những vấn đề khác. Trong bước đầu tu học người tín đồ nên áp dụng hai phương thức trước dễ dàng hơn. Nghe giảng, đọc sách, tham khảo, tra cứu, tự tìm tòi bằng lý trí bình thường của mình ngoài giờ cúng là lối học hỏi dễ có kết quả. Có nhiều người đốt giai đoạn dùng giờ cúng tứ thời để suy ngẫm ý nghĩa lời kinh tiếng kệ trong khi thần trí chưa quen an tĩnh kết quả chỉ là tình trạng đi rong của tư tưởng về văn từ nghĩa lý từ câu nầy sang câu khác, không đạt đến kết qủa cao đặng và dễ bị mõi mệt thần kinh.

Đành rằng Thái Tử Sĩ Đạt Ta đã thành công nhờ thiền định nhưng khi chúng ta chưa đạt đến tình trạng tấn hóa như Ngài nên áp dụng phương pháp tu học từ thấp lần đến cao hay hơn chạy nhanh rồi vấp ngã.

LÀM CÔNG QUẢ

I - ĐỊNH NGHĨA
Thế thường người ta vẫn quen gọi đi làm công quả là đi làm công việc cho nhà Chùa, Thánh Thất hay một cơ quan từ thiện và không nhận lương bổng hay thù lao gì sau khi làm công việc đó.
Phân tách hiện tượng nầy chúng ta thấy hai tiếng công quả bao hàm những tính chất sau đây:
* Công việc làm có tính cách tự nguyện Đi làm việc cho nhà Chùa hay cơ quan từ thiện, hành động đó hoàn toàn do ý muốn của mình, khác hẳn với công tác đi làm xâu mà nhà nước cai trị trước đây thời Pháp thuộc thường hay bắt dân làng đi công tác đắp đồn lũy, đốn cây phá rừng, mở đường... cũng không nhận thù lao, nhưng do sự cưỡng bách của quyền lực, nghĩa là không làm sẽ bị một hình phạt nào đó.

* Không vì tư lợi cá nhân
Ý nghĩa rõ rệt nhứt biểu lộ trong hành động người đi làm công việc không hưởng một khoản lương bổng hay thù lao nào sau khi hoàn tất công việc. Chẳng những người làm công quả không nhằm đến mục đích thu lợi cho cá nhân mình mà họ còn muốn công việc làm của họ không bị kẻ khác lợi dụng. Họ muốn rằng hành động của họ phải là sự hy sinh đúng nghĩa, đúng chỗ, nghĩa là nhơn sanh phải hưởng nhờ tiện ích do công việc làm của họ tạo nên.

So sánh hành động làm công quả cho nhà Chùa với công việc làm của một người lao công cho một ông chủ hãng buôn không nhận thù lao, chúng ta thấy có sự khác biệt rõ rệt, một đàng nhắm tới lợi tức của một người là ông chủ hãng, một đàng nhắm tới lợi ích của nhiều người tức là nhơn sanh nói chung.

Nhà Chùa, Thánh Thất, Đình, Miễu, Nhà Thờ hay các cơ quan từ thiện xã hội là những tổ chức mà mục đích là phụng sự cho nhơn sanh chớ không phụng sự cho quyền lợi tư riêng của người đang cầm quyền làm chủ. Dù cho trên thực tế, những tổ chức nầy có bị lợi dụng vào mục đích tư lợi cho cá nhân đi nữa, việc ấy xảy ra trong bóng tối chớ ý nghĩa của những tổ chức nầy vẫn là không vì tư lợi cho cá nhân.

Do đó người ta mới tìm đến các tổ chức tôn giáo, từ thiện để làm công quả, ý nghĩa của sự tìm tới nầy là muốn rằng hành động của họ không bị lợi dụng.

* Ý hướng tu hành
Người làm công quả mang ý  hướng tu hành trong tâm tư của họ, đôi khi chính họ không nhận thức được rõ rệt ý hướng nầy, nhưng bao giờ cũng cảm thấy tính chất thiêng liêng cao thượng trong hành động đó. Họ làm việc với tất cả tâm thành, ý vẹn trong niềm tin rằng hành động của họ sẽ được Thần linh chứng giám, hoặc nếu không rõ rệt như vậy cũng tin tưởng rằng sẽ được đền bù tương xứng theo đúng luật công bình, khách quan, vô tư và tự nhiên. Lẽ dĩ nhiên luật công bình thiêng liêng ấy phải khá hơn luật công bình của tòa án và cảnh sát do các nhà cai trị tạo nên. Do đó tâm trạng của người làm công quả tìm đến nhà Chùa thường ở trong những trường hợp sau đây:
- Hoặc để sám hối ăn năn về một việc lỗi lầm nào đó và họ muốn lập công chuộc tội.
- Hoặc để tìm sự yên ổn trong tâm hồn, tránh sự buồn chán tuyệt vọng vì một sự thất bại nào đó.
- Hoặc để tạo những nguyên nhân tốt hầu ngày sau được đền bù bằng những phần thưởng xứng đáng mà họ may mắn gặp trong cuộc sống, tức là có ý hướng cầu phước.

- Hoặc hơn cả các trường hợp trên đây, họ làm việc vì đã ý thức được thiên chức của mình, vì sự thức tỉnh hay giác ngộ thì chung qui cũng do niềm tin vào định luật tấn hóa tự nhiên của Trời Đất. Ý hướng tu hành trong trường hợp nầy mới là siêu đẳng.

II - TẠI SAO PHẢI LÀM CÔNG QUẢ
Ngay từ buổi khai Đạo có nhiều người khi vừa thức tỉnh giấc mộng trần ai, tâm hồn liền hóa ra chán ngán cảnh thế tình, muốn bỏ hết chuyện nhơn sự tìm chỗ yên thân tu luyện những mong thành Tiên, hóa Phật cho cá nhân mình. Đức Chí Tôn liền ngăn cản và dạy phải làm công quả trước tiên:
"Trong các con có nhiều đứa lầm tưởng hễ vào Đạo thì phải phế hết nhơn sự, nên chúng nó ngày đêm mơ tưởng có một điều rất thấp thỏi là vào một chỗ u nhàn mà ẩn thân luyện Đạo.

Thầy nói cho các con biết nếu công quả chưa đủ, nhơn sự chưa xong thì không thể nào các con luyện thành đặng đâu mà mong. Vậy muốn đắc quả thì chỉ có một điều phổ độ chúng sanh mà thôi. Như không làm đặng thế nầy thì tìm cách khác mà làm âm chất, thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu cũng có thể đạt địa vị tối cao. Các con phải hiểu Thánh ý Thầy mà trau giồi chí lớn. Dầu đi lối nào cũng phải cần cái đèn thiêng liêng chiếu rõ mới đặng vững bước.

Làm Vua, làm thầy, làm công nghệ, làm đạo sĩ cũng cần phải có cái chí lớn mới mong thành tựu đặng. Các nghề dưới thế không có nghề nào là vô dụng, mà vô dụng là tại người không chuyên vậy".(TNHT QI. 1969. trg.101-102)

Đức Chí Tôn lại còn xác nhận rằng lập Tam Kỳ Phổ Độ nầy, Ngài đã mở một trường thi công quả cho nhơn sanh đến mà tranh thủ địa vị, Ngài dạy:
" Thầy hằng nói cùng các con rằng một trường thi công quả các con muốn đến đặng nơi cực lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi". (TNHT QI. 1969. trg.34)

Rồi Ngài lại chỉ cho cách làm công quả là phải độ rỗi chúng sanh:
" Thầy đã đến chung cùng với các con, các con duy có tu mà đắc Đạo, phải đoái lại bá thiên vạn ức nhơn sanh  còn phải trầm luân nơi khổ hải chưa thoát khỏi luân hồi, để lòng từ bi mà độ rỗi ".(TNHT QI.1969. trg.34)

Ngài lại dạy rõ: ít nữa mỗi tín đồ phải độ đặng 12 người.
" Hễ bao nhiêu môn đệ độ rỗi của mỗi đứa thì là họ hàng của mỗi đứa. Hiểu à! Chừng ấy về đến Bạch Ngọc Kinh thì gia tộc mỗi đứa đều phân biệt, nếu chẳng độ rỗi thì về với hai tay không.
Còn chư môn đệ đã lập minh thệ rồi ngày sau tùy âm chất mỗi đứa mà thăng hay là tội lỗi mà giáng, song buộc mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa là 12 người". (TNHT QI.1969. trg.42)

Tuy vậy nhiều tín đồ vẫn còn sụt sè chưa dám dấn thân tích cực. Đức Chí Tôn lại dạy về sự công bình của Tạo Hóa buộc rằng nếu không lập được công quả tại thế gian nầy thì địa vị Thần, Thánh, Tiên, Phật dầu có thương cũng không ban cho được.
"Thầy đã nói cho các con hay trước rằng : nếu các con không tự lập ở cõi thế nầy là cái đời tạm của các con thì Thầy cũng không bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng. Ấy vậy cái vấn đề tự lập là vấn đề các con phải lo đó". (TNHT QI.1969. trg.105)

Về sau Đức Phạm Hộ Pháp có giảng rõ về vấn đề tự lập nầy là phải lập công, lập ngôn, lập đức và coi đó như là ý nghĩa của đời sống con người. Mỗi người đều phải có đủ tam lập ấy mới tròn thiên chức làm người, khi chết linh hồn sẽ trở về cảnh thiêng liêng hằng sống. Ấy là gia tài, là sự nghiệp thiêng liêng của mỗi người phải biết tạo ra mới có được. Bởi vì:

" Người ở thế nầy muốn giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc Đạo phải có công quả". (TNHT QI. 1969. trg.27)
Tam Thế Phật (trên nóc Bát Quái Đài)

KINH THẾ ĐẠO

I - GIỚI THIỆU CÁC BÀI KINH
Ngoài các bài kinh Thiên Đạo đọc trong các thời cúng tại Thánh Thất hay tư gia mà nội dung ca ngợi công đức của các Đấng Trọn Lành hay kêu gọi đến năng lực thần bí của thế giới thần linh, để hỗ trợ cho các pháp bửu bí truyền được ứng hiện linh diệu, người ta nhận thấy còn có rất nhiều bài kinh gọi là Kinh Thế Đạo, dùng để đọc trong những dịp sau đây:

1 / Tang tế
Thí dụ bài kinh dùng để tỏ cái tình, cái nghĩa của người còn sống với kẻ quá cố. Thuộc loại nầy, nghi lễ Cao Đài đã có những bài kinh sau đây:
- Kinh tụng khi vua thăng hà.
- Kinh tụng khi thầy qui vị.
- Kinh cầu tổ phụ qui liễu.
- Kinh tụng cha mẹ qui liễu.
- Kinh cầu bà con cố hữu qui liễu.
- Kinh tụng huynh đệ mãn phần.
- Kinh tụng khi chồng qui vị.
- Kinh tụng khi vợ qui liễu.

Lời lẽ trong bài kinh khác nhau tùy theo mối liên hệ giữa người quá cố và kẻ sanh tiền, nhưng nội dung có điểm tương đồng là ca ngợi công ơn của người đã chết, nhắc nhở vong linh luôn luôn nhớ đến Đức Chí Tôn, và sau cùng là lời cầu khẩn cùng Đức Ngài từ bi cứu độ.

2 / Hôn phối
Chỉ có một bài kinh duy nhứt gọi là kinh Hôn Phối đọc tại Thánh Thất khi đám cưới được Hội Thánh nhìn nhận hợp pháp và có chức sắc làm phép Hôn Phối.
3 / Nhóm họp
Trong các buổi họp đông người, hoặc để thuyết pháp cũng có các bài kinh như:
- Kinh nhập hội đọc lúc khai mạc buổi họp.
- Kinh xuất hội đọc vào lúc bế mạc buổi họp.
- Kinh thuyết pháp đọc trước khi giảng đạo, thuyết pháp.
4 / Các hoạt động thường ngày
Xen vào các hoạt động thường ngày như ăn ngủ, đi đứng có bài kinh sau đây:
- Kinh thức dậy.
- Kinh đi ra đường.
- Kinh khi về.
- Kinh vào ăn cơm.
- Kinh khi ăn cơm rồi.
- Kinh khi đi ngủ.

Và sau cùng là bài kinh cứu khổ dùng để đọc trong những dịp bất thường, khi người tín đồ cần kêu gọi đến năng lực của Thần linh giúp họ vượt qua vài trở ngại nào đó trong cuộc sống, mà xét ra lời yêu cầu rất nên chánh đáng.

Tất cả các bài kinh nầy đều có trong quyển "Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo" do Hội Thánh ĐĐTKPĐ Tòa Thánh Tây Ninh xuất bản.

II - CÁCH ÁP DỤNG
Có một điều lầm lẫn rất tai hại là người ta vẫn thường cho rằng các bài kinh Thế Đạo liên quan đến các hoạt động thường ngày như ăn ngủ, đi đứng... chỉ áp dụng cho trẻ con mà thôi, còn người lớn thì đã “hiểu đạo” rồi. Đành rằng khi người ta đã thấm nhuần tư ttưởng cao siêu trong các bài kinh ấy và đã thật sự sống với những điều mà tư tưởng ấy muốn diễn tả, thì hình thức đọc kinh có lẽ cũng không còn cần thiết nữa. Kẻ đã qua sông được thì cần gì phải mang chiếc bè trên lưng, thế nhưng nhìn kỹ lại trong hàng tín đồ có bao nhiêu người có được trình độ tâm linh như vậy?  Phải thành thật thú nhận rằng có rất ít người đạt đến mức độ ấy sau nửa thế kỷ truyền giáo.

Cho nên sự áp dụng một cách nghiêm chỉnh những bài kinh Thế Đạo vẫn cần thiết và rất cần thiết như cơm ăn, áo mặc hằng ngày vậy.

Đọc kinh chỉ là làm thể pháp mà thôi, cần đạt đến nội dung là cái tác dụng của lời kinh ấy giúp ích được gì cho tâm hồn của chúng ta lắng đọng những tư tưởng trần tục và khơi dậy những tư tưởng thanh cao thánh triết. Cho nên nếu người tín đồ chịu khó suy nghiệm sẽ thấy các áp dụng như sau:

+ Đối với trẻ con cần có sắc tướng âm thanh rõ rệt chúng mới hiểu được nên cần phải đọc ra lời, lại nữa cũng là phương bắt chúng học thuộc lòng.

+ Còn đối với người lớn thì chỉ đọc trong trí mà thôi, nghĩa là tâm mình tưởng đến những lời kinh trước khi ăn cơm, sau khi ăn xong, trước khi nhắm mắt ngủ, khi vừa tỉnh giấc, khi đi ra đường, khi trở về nhà. Phương thức nầy áp dụng được cho tất cả mọi người, mọi nơi, mọi lúc... Bên ngoài dường như không ai hay biết gì cả về thế giới nội tâm sinh động của mình. Chỉ thoáng mấy giây đồng hồ chúng ta có thể tưởng xong một bài kinh, nghĩ cũng chẳng khó gì, mà ít ai làm được!

III - TÁC DỤNG TÂM LÝ VÀ THẦN QUYỀN
Có lẽ nguyên nhân chính của sự lười biếng nầy là người tín đồ không hiểu rõ, và cũng không được chứng nghiệm về tác dụng hữu ích của lời kinh tiếng kệ, do đó không có đức tin vững mạnh đối với Thần linh, những bậc chơn tu đều có một niềm thương xót vô biên đối với chúng sanh khi thấy họ không hiểu gì về thế giới thần linh cả. Muốn nắm tay dẫn đến tận nơi, vén bức màn thiêng liêng chỉ cho ngó thấy tận mắt, sợ e vì kinh hãi mà loạn thần hóa ra ngây dại, còn dùng lý lẽ mà nhủ khuyên thì lý cãi lý già đời không hết.

Nếu biết rằng người có xác và hồn, xác biết ăn còn hồn chẳng biết ăn sao? Xác biết lựa món ăn ngon còn hồn chẳng biết món ăn ngon sao? Chẳng lẽ xác biết lựa cao lương mỹ vị cho béo bổ khỏe mạnh còn hồn thì cho nó ăn những tư tưởng thấp hèn, oán ghét, thù hận, đố kỵ, tham lam, ích kỷ hay sao? Vậy mà con người vẫn thường hay đắm mình trong những tư tưởng hắc ám ấy.

Muốn xua đuổi những tư tưởng oán thù, tham lam, ích kỷ... ra khỏi tâm thần người tín đồ, các bậc Thánh hiền đã đặt ra các bài kinh Thế đạo để ngày ngày áp dụng dường như có một người nhắc nhở bên tai mình vậy. Không chịu áp dụng thì kể như không còn ai nhắc hết. Nghĩ về điều tốt tức là không nghĩ về điều xấu, ít ra cũng trong khoảnh khắc nào đó, rồi những tư tưởng thiện ấy sẽ từ từ hướng dẫn thể xác có những hành động lành. Ấy là một cái phép của Trời đất, phải tập cho con người có suy nghĩ tốt trước đã, rồi ý nghĩ ấy sẽ dẫn dắt hành động trở nên tốt. Tác dụng tâm lý rõ ràng như vậy, muốn cùng chẳng muốn là tại mình làm mà thôi.

Về phương diện thần quyền chúng ta há chẳng thường thấy có những người mà tinh thần bạc nhược, lờ đờ, uể oải, hiện rõ trên nét mặt... người đời chẳng từng gọi họ là những kẻ “không hồn” hay sao? Chẳng cần phải luận giải chi dài dòng về việc linh hồn có hay không, vậy chớ thực thể sinh động nào làm cho cái xác của con người biết cựa quậy và khôn ngoan, làm cho chúng ta phân biệt được giữa một tử thi và một con người sống? Chúng ta coi đó là dấu hiệu, là chứng tích của một chơn thần đang ngự trị trong xác thân. Người đời vẫn thường gọi linh hồn là tất cả những gì của con người khác hơn phần xác chết của họ. Phần linh hồn ấy sẽ rời khỏi xác thân vào lúc mà người ta gọi là chết, và người sống có giao tiếp với nó được.Thuật cầu cơ chấp bút trong Cao Đài được xây dựng trên nền tảng nầy, người sống có thể thông công với người chết (dĩ nhiên với một số điều kiện nào đó không mấy dễ dàng).

Kết quả của sự thông công nầy là Đạo Cao Đài được thành hình. Linh hồn của thi hào Lý Bạch, của Thái Tử Sĩ Đạt Ta, của Khổng Tử, Lão Tử, của Jesus Christ, của Victor Hugo, của Tôn Dật Tiên, Trạng Trình, và biết bao nhiêu người khác nữa mà danh tánh dường như xa lạ, đã đến để nói chuyện với người tín đồ Cao Đài, làm chứng rằng thế giới vô hình có thật và linh hồn bất tử. Tất cả những vị nầy đều kính nhường một Đấng mà người ta gọi là Ông Trời, là Thượng Đế, là Đức Chí Tôn. Rồi chính mình Đức Chí Tôn cũng đến nói chuyện với loài người nữa.

Bây giờ chỉ còn vấn đề là con người có chịu đặt mình trong mối tương giao mật thiết với Thượng Đế và Thần linh hay không?

Tôi sẽ không bao giờ nói chuyện với bạn nếu tôi nghĩ rằng bạn không có mặt ở trước tôi, hay ít ra sự hiện hữu của bạn không có trong tầm giao tiếp của tôi. Đối với Thượng Đế hay Thần linh cũng vậy, người tín đồ sẽ không thể nào cảm ứng được nếu họ không tin rằng có các Đấng ấy trong thế giới vô hình. Đức tin là đầu mối, là điều kiện tối quan hệ để thiết lập tương giao giữa người và Thần linh, ý nghĩa sau cùng của đạo giáo là đặt đời sống con người trong sự hòa hợp với siêu nhiên, và quyền lực tối trọng kia được mô tả bằng hai tiếng “Thượng Đế”.

Thượng Đế và Thần linh sống động, luôn luôn ảnh hưởng trên đời sống trần tục của con người, và nếu con người thiết lập được tương giao với các Đấng ấy, đời sống của họ sẽ đi đúng trong thiên cơ và sẽ đảm bảo cho họ chân hạnh phúc. Vì vậy đức tin là điều cần phải củng cố trước tiên, vì người ta không thể tin mà không có chứng nghiệm. Sự cầu nguyện và đức tin sẽ giúp người ta có được những chứng nghiệm, một vài lần trong cả tháng hay đôi khi cả năm, còn quá ít nếu không nói là không đủ để bắt gặp đời sống của các Đấng Thiêng Liêng. Tỉ như chiếc radio bỏ túi với vài cục pin bé nhỏ làm sao có thể bắt được những làn sóng điện của anh phi hành gia từ cung trăng gởi về.

Phải có một đức tin rất mạnh mới chứng nghiệm được thế giới vô hình, và một khi đặt mình trong mối tương giao ấy, đời sống của người tín đồ sẽ trở nên phi phàm. Tác dụng thần quyền của những bài kinh Thế Đạo là để buộc tâm, thần người tín đồ luôn luôn hướng về Đức Chí Tôn cao cả, lòng chân thành và tư tưởng của họ là những tín hiệu gởi đến Thần linh lời cầu xin giúp đỡ. Mối tương giao thiết lập được thì hai thực thể hữu vô sẽ là một. Người tín đồ sẽ trở thành “người Thần”, “người Thánh”, “người Tiên”, “người Phật” trong tất cả mọi hành động của họ, lúc ăn, lúc ngủ, lúc thức, lúc đi ra đường, lúc trở về... họ luôn luôn phối hợp với Thần linh trong mọi hoạt động và những tín hiệu ấy phải được đánh đi đều đều thì hai thực thể mới không tách rời nhau. Đó cũng là ý nghĩa của tiếng Phật Trời phò hộ, hay ban ơn vậy.
THÁI TỬ SHIDARTA ĐI TẦM ĐẠO

ĐỜI SỐNG HÔN NHÂN
I - LUẬT VỀ HÔN PHỐI
 Hôn phối là việc rất hệ trọng trong đời người, thiết nghĩ ai cũng biết điều đó, nhưng không phải ai cũng đủ khôn ngoan, sáng suốt khi quyết định về hôn nhân. Bởi vậy ngoài yếu tố tình yêu, tâm lý của gia đình rất nhiều người còn tìm đến những nhà bói toán để xem tuổi với hy vọng sẽ gặp được người phối ngẫu thích hợp với mình. Sự việc bói toán đúng hay sai không bàn nơi đây, nhưng ghi nhận ý nghĩa trong hành động tìm đến bói toán như là một sự đắn đo trước khi quyết định vì đã ý thức được sự quan trọng của hôn nhân.

Luật Đạo Cao Đài buộc phải chọn người phối ngẫu cùng trong tôn giáo.
" Việc hôn là việc rất quan trọng trong đời người. Phải chọn hôn trong người đồng đạo, trừ ra khi nào người ngoài ưng thuận nhập môn thì mới kết làm giai ngẫu". (Điều 6. Chương Thế Luật. Bộ Tân Luật).

Vấn đề nầy vẫn gây nhiều thắc mắc cho các thanh niên nam nữ. Tình yêu đâu phải như bài toán có đáp số dễ dàng sau khi đã cộng, trừ, nhân, chia thì phải ra như vậy. Có biết bao trường hợp cô hay cậu yêu người không phải đồng đạo mới tính sao đây?

Sự ràng buộc của luật pháp có vẻ nghiêm khắc đã được nghiên cứu kỹ lưỡng về mặt tâm lý từ nửa thế kỷ trước và tới nay vẫn còn hiệu dụng. Ý nghĩa của hôn nhân là sự hòa hợp giữa người với người. Sự hòa hợp ấy đến tuyệt đỉnh khi hai thân xác hiệp làm một, tình cảm cũng một, mà tinh thần cũng một. Còn có tai hại nào hơn khi hai người phải sống chung với nhau suốt đời mà từng giây từng phút mỗi người là một thế giới riêng? Ấy là một kiếp sống cô đơn, quạnh quẽ trong khi thân xác vẫn bị buộc ràng. Xác thân có thể vì những định luật vật chất buộc nó phải phối hợp với nhau, tình cảm cũng có thể vì những khêu gợi chung quanh nhất thời chia sẻ cùng nhau được, nhưng niềm tin sâu thẳm trong tâm hồn con người thì không dễ gì lay chuyển. Niềm tin về đạo giáo thuộc về loại nầy. Bởi vậy thái độ khôn ngoan là thái độ của người thấy trước được điểm tâm lý khó khăn nầy.

 Đành rằng triết lý Tam Kỳ Phổ Độ vẫn dạy rằng các Đạo giáo vốn từ một gốc sanh ra, nhưng sự hiểu biết lẽ thật của người tín đồ đâu phải ai cũng có trình độ như các hiền triết cả để có thể thông cảm cùng nhau dễ dàng. Thế  nên, tốt hơn nên chọn người đồng đạo với mình, hy vọng sẽ tránh được nhiều phiền toái hơn. Bậc chơn tu khi đặt ra một điều luật cho tín đồ, hẳn đã nghiên cứu kỹ lưỡng rồi.

Còn việc chọn người ngoài làm phối ngẫu với điều kiện ưng thuận nhập môn, xét về mặt chánh trị đạo là một phương thức dụng tình yêu đưa người vào cửa đạo. Ý hướng dụ dỗ tín đồ ở các đạo khác theo đạo Cao Đài bằng ngõ hôn nhân không cần thiết nơi đây. Điều kiện “ưng thuận nhập môn” nầy không nhằm mục đích làm gia tăng số tín đồ, mà chính vì muốn bảo đảm hạnh phúc cho hai người. Trong Cao Đài giáo, qua hôn nhân, con người không phải là công cụ để củng cố chế độ chánh trị đạo, cũng không phải là phương tiện tranh đấu để bành trướng số tín đồ, hôn nhân có ý nghĩa thiêng liêng của nó, biểu lộ thân phận làm người của người tín đồ.
“Cơ sanh hóa càn khôn đào tạo,
Do âm dương hiệp Đạo biến thiên.
Con người nắm vững chủ quyền,
Thay Trời tạo thế giữ giềng nhơn luân”. (Kinh Hôn Phối)

Chính con người, hạnh phúc trong hôn nhân mới có ý nghĩa nơi đây chớ không phải chánh trị hay chế độ. Sự ràng buộc của luật Đạo tuy có nghiêm khắc thật nhưng là phương thức hữu hiệu, là chỉ dẫn cần thiết cho thanh niên nam nữ. Ngoài điều luật về sự lựa chọn người phối ngẫu trên đây còn có các điều luật khác liên quan đến sự đề phòng gian dối, nghi lễ hôn phối, cưới hầu thiếp, ly dị.
" Tám ngày trước lễ sính, chủ hôn trai phải dán bố cáo nơi Thánh Thất sở tại cho bổn đạo hay sau khỏi điều trắc trở". (Điều 7. Thế Luật)
" Làm lễ sính rồi hai đàng trai và gái phải đến Thánh Thất mà cầu lễ chứng hôn." (Điều 8. Thế Luật)

" Cấm người trong đạo kể từ ngày ban hành (1927) luật nầy về sau không được cưới hầu thiếp. Rủi có chích lẽ giữa đường thì được chấp nối. Thoảng như phụ nữ kia không con nối hậu thì Thầy cũng rộng cho đặng phép cưới thiếp, song chính mình chánh thê đứng cưới mới đặng." (Điều 9. Thế Luật)

" Trừ ra có ngoại tình hay là thất hiếu với công cô, vợ chồng người đạo không được để bỏ nhau." (Điều 10. Thế Luật)

II - PHÉP HÔN PHỐI
Sau khi làm lễ sính hôn rồi, luật lệ buộc hai đàng trai và gái phải đến Thánh Thất cầu lễ “chứng hôn”. Cô dâu và chú rể sẽ quì trước Thiên Bàn, bốn tay nắm chéo lẫn nhau, vai kề vai, đầu chạm đầu trước sự chứng kiến của họ hàng đôi bên. Cử chỉ nầy biểu lộ ý nghĩa tâm đồng ý hiệp và sự phối hợp hoạt động chặt chẽ giữa hai người như một.

Một vị chức sắc chứng lễ đứng trước mặt cặp vợ chồng hành pháp hôn phối trong khi đồng nhi đọc kinh. Bí pháp nầy có tác dụng giải trừ bớt những mầm xung khắc đã có sẵn trong tâm hồn của hai người do tiền khiên nghiệp chướng của họ gây ra, giờ đây sẽ có cơ hội vay trả lẫn nhau trong đời sống vợ chồng. Những mầm mống xung khắc nầy có thể khó nhận thấy vì trong buổi đầu của cuộc yêu đương sự bồng bột của tình yêu có thể lấn lướt và làm lu mờ tất cả các yếu tố khác. Khi yêu nhau thắm thiết người ta tha thứ cho nhau và chiều ý nhau một cách dễ dàng, sẵn sàng kềm chế những thói hư tật xấu của chính mình để làm vừa lòng người yêu. Thế nhưng sau một thời gian chung sống sự bồng bột trong buổi đầu không còn nữa khi sự thật đã hiện nguyên hình thì những xung khắc có cơ hội nổi dậy làm thành một cuộc trả vay khóc cười lẫn lộn ngay trong đời sống yêu đương.

Tác dụng giải trừ bớt nghiệp quả xấu nầy gọi là ban ơn, là sự ân xá của Đức Chí Tôn trong Tam Kỳ Phổ Độ. Nhiều người tín đồ không hiểu rõ về tác dụng thần quyền nầy lại cũng không có đức tin vững mạnh nên đã xem phép hôn phối là một nghi lễ thêm phiền phức, họ quan tâm đến tiệc tùng, lời chúc tụng và sự vui thích trong ngày hôn lễ hơn. Đó là một sự thiệt thòi rất lớn trong suốt kiếp sanh của họ mà họ không hề hay biết vì không hiểu đạo. Đức Chí Tôn đã ân xá cho tội tình của họ mà họ lại khước từ ân huệ ấy qua hành động từ chối phép hôn phối và dễ gì có được cơ hội thứ hai khi dịp may kia đã lỡ rồi.

Hành pháp xong, vị chức sắc sẽ dặn dò vợ chồng mới cưới vài lời về cách ăn ở với nhau cho phải đạo làm người. Sau khi bái lễ Đức Chí Tôn, vị chức sắc sẽ nắm tay cô dâu, chú rễ đưa ra Thánh Thất, người đi giữa, cô dâu chú rễ hai bên. Có nhiều trường hợp chẳng may không gặp được vị chức sắc có đủ khả năng hành pháp hôn phối, hai đàng trai và gái vẫn đến Thánh Thất cầu nguyện nhưng không có hành pháp. Dĩ nhiên nếu lời cầu nguyện chân thành vẫn có sự cảm ứng của thiêng liêng nhưng chắc chắn ân huệ sẽ không được đủ đầy như trong trường hợp có hành pháp linh hiển.

III - VAI TRÒ CỦA NGƯỜI MẸ ĐỐI VỚI CÁC CHƠN LINH GIÁNG TRẦN
Vai trò nầy được ví như “bụng mang đầy quyền phép nắn đời” bởi vì người mẹ có thể làm cho đời trở nên hiền lương nhưng ngược lại người cũng có thể làm cho đời trở nên quỉ mị. Người mẹ giữ vai trò của cơ quan sản xuất ra nhơn loại, phép uốn nắn trẻ thơ nơi tay người không ít. Người có thể sản xuất ra hạng hiền nhân quân tử, tài trí thông minh, nhưng cũng có thể tạo ra hạng đàng điếm lưu manh.

Nếu hiểu được Đạo là máy Trời vi diệu, chúng ta cũng có thể nương theo đó mà thay đổi số kiếp của con người được phần nào. Phép sanh hóa của người mẹ thật hệ trọng đối với các chơn linh giáng trần. Hễ cái máy xấu thì khó lòng sản xuất được vật tốt. Một người gọi là tốt thì phải tốt cả hình hài lẫn tâm hồn, hai yếu tố ấy tương liên mật thiết với nhau. Hồn tốt mà xác xấu sẽ không đủ sức làm nổi việc thế gian, xác tốt mà hồn xấu thì chỉ vụ đường vui chơi. Cái phép sửa đời tệ hóa ra hay của Đạo Cao Đài còn ngó đến tận chốn phòng the trong việc ăn ở với nhau giữa vợ chồng cho phải phép của Đấng Hóa Công thì mới mong gặp được hạng Thánh Thần giáng thế. Nếu như tâm hồn của người mẹ thấp hèn nhơ nhớp quá, thể xác ô uế, tiều tụy quá làm sao hy vọng có đủ điều kiện sản xuất được hình hài tốt đẹp cho các chơn linh cao trọng giáng ngự.
Ấy vậy vai trò của người mẹ đã thay nửa quyền Tạo Hóa vẽ nên hình tướng của cuộc đời nầy.

IV - ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỜI SỐNG TÌNH DỤC
Xin tóm tắt nơi đây những lời giảng dạy của Đức Hộ Pháp về vấn đề nầy:
" Hồn và xác của con người tương liên mật thiết với nhau. Tinh thần của người mẹ như thế nào trong khi mang thai thì đứa con sẽ chịu ảnh hưởng giống như thế đó không ít. Ấy là một phép truyền thần, dầu chẳng linh hiển trọn vẹn, nhưng rất quan hệ. Bởi vậy trong việc ăn ở của vợ chồng, ảnh hưởng tinh thần của cha mẹ rất hệ trọng, cần phải tập đứa con trong tương lai được thông minh bằng cách chính cha mẹ phải sống với tinh thần cao thượng, để tinh thần ấy nhiễm vào bào thai từ từ.
Bần Đạo đâu vọng ngữ nói chơi,
Dạy vợ chửa tức thời dạy trẻ.
Những trí thức tinh thần có lẽ,
Nhiễm vào tâm chửa đẻ trọn tinh thần.
Có tinh thần mới có xác thân,
Biến thân đủ tinh thần quán chúng.
Trí cao thượng nhiễm từ trong bụng,
Con đẻ ra chắc đúng bực thông minh.
Tỉ khác nào tấm kiếng chụp hình,
Có bóng chói đã in mọi vật.
Đầu mới tượng, óc còn thiếu chất,
Phần thông minh lật đật bỏ vào.
Cây hưởng phân, quí sẽ dường bao,
Thì cha đã thông minh mẫn đạt.
Con chắc là bác lãm quần thi,
Thần mẹ thêm cách vật trí tri.
Con ắt đặng quản tri thế sự,
Dầu vợ dốt hay là hay chữ.
Nghe điều hay cư xử gia đình,
Phép truyền thần dầu chẳng đặng linh.
Việc dạy dỗ vợ mình còn chế sửa,
Để ý thấy trẻ thơ nhiều đứa.
Tánh thông minh từ thuở mới lên ba,
Ấy là nhờ tính chất mẹ cha.
Gặp phải phép hiệp hòa sanh đặng vậy." (Phương Tu Đại Đạo. Phạm Công Tắc)

Ấy là tích cực, còn tiêu cực thì vợ chồng nên tránh giao hoan trong lúc thể xác yếu đau và tinh thần bất ổn như đang lúc say rượu hay là vừa khi nguôi cơn giận. Bởi vì bào thai của đứa trẻ tượng hình do nơi tinh khí của cha mẹ là những chất liệu đầu tiên tạo nên hình hài nhục thể nó. Vậy nếu tinh suy nhược, khí rối loạn thì cha mẹ làm sao tạo được hình hài hoàn hảo cho đứa trẻ, vừa ý với những chơn linh cao trọng giáng trần.
Lúc vợ chồng giao tình tua để dạ,
Luyện trí thức thông minh hòa nhã.
Tứ đổ tường chớ khá nên gần,
Hễ thân mình thiếu khí, loạn thần.
Thọ khí bẩm nhâm thần, con dại dột,
Cữ hoa nguyệt, bớt đi thì tốt.
Tinh khí đầy, hài cốt trẻ tráng cường,
Khi giao hoan có độ, có lường.
Vợ bịnh, yếu chớ thường lân cận,
Đừng nhè lúc vợ chồng đương giận.
Mới vừa vui, vầy trận tam bành,
Cũng đừng quen theo phép dỗ dành.
Ép buộc vợ thỏa tình hoa nguyệt,
Khi thấy dáng nhụy hoa quả kết.
Thì phải toan dứt tuyệt đường ong,
Nghén ba trăng phải gắng gia công.
Dạy con trẻ còn trong bụng mẹ". (Phương Tu Đại Đạo. Phạm Công Tắc)

Đành rằng sự tấn hóa của đứa trẻ còn tùy thuộc nhiều yếu tố khác nữa như cách dinh dưỡng của người mẹ trong khi mang thai, sự dinh dưỡng của đứa bé từ khi ra đời, sự giáo dục của gia đình trong tuổi ấu thơ, sự giáo dục của học đường, ảnh hưởng của xã hội. Những yếu tố ấy cấu kết với nhau làm thành một phần nào số phận của nó. Thế nhưng, một khi đã hiểu lý đạo nhiệm mầu, con người vẫn có thể chủ định được phần nào tương lai của chính mình bằng thái độ tích cực loại trừ bớt những mầm mống của đau khổ bất kỳ lúc nào có thể làm được.

Đức Hộ Pháp đã nhắc nhở tín đồ cần loại trừ bớt những mầm đau khổ ấy ngay từ trong việc ăn ở của vợ chồng với nhau, tưởng cũng nên để ý lắm vậy.

LUẬT PHÁP ĐẠO

Căn bản về luật pháp đạo của Đại ĐạoTam Kỳ Phổ Độ có hai phần chính là Pháp và Luật.
* PHÁP là Pháp Chánh Truyền
Bất di bất dịch, do Đức Chí Tôn chỉ dạy từ buổi mới mở Đạo. Đây là một văn kiện qui định các phẩm vị, quyền hạn, bổn phận, đạo phục của chức sắc. Về sau Đức Hộ Pháp có chú giải thêm nhiều chi tiết rõ ràng hơn, viết thành quyển "Pháp Chánh Truyền chú giải". Lời chú giải này đã được Đức Lý Đại Tiên chỉnh lại.

* LUẬT là Tân Luật và Đạo Luật
Tân Luật đã được Hội Thánh lập thành và Đức Chí Tôn phê chuẩn từ năm 1927. Năm Mậu Dần (1938) quyền Vạn Linh có lập thêm bộ luật nữa gọi là Đạo Luật ban hành ngày Rằm tháng Giêng năm ấy.

Ngoài ra Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ Pháp còn ký ban hành sáu Đạo nghị định nữa vào năm 1930, và hai Đạo nghị định nữa vào năm 1934, cộng chung là tám Đạo Nghị Định thường gọi là "Bát Đạo Nghị Định".

Bổn phận của người tín đồ là phải tuân theo luật pháp Đạo và bảo vệ luật pháp ấy để cho đời sống chung trong tôn giáo khỏi bị rối loạn.Chi tiết về các điều luật có đầy đủ trong các quyển:

- Pháp Chánh Truyền Chú Giải.
- Tân Luật.
- Bát Đạo Nghị Định.
- Đạo Luật Mậu Dần (1938).

Tôi chỉ xin ghi lại nơi đây những điều luật căn bản mà bất kỳ người tín đồ nào cũng phải gìn giữ.

I - GIỚI LUẬT CẤM RĂN
A / Ngũ giới cấm
Là năm điều cấm, nếu phạm vào tùy theo nặng nhẹ có thể bị phạt từ hình thức cảnh cáo quì hương, sám hối, đến bị ngưng quyền chức từ một đến ba năm. (Chương IV. Tân Luật).

NĂM ĐIỀU CẤM ẤY LÀ:
1) Nhứt bất sát sanh
Là chẳng nên sát hại sanh vật.

2) Nhì bất du đạo
Là cấm trộm cướp, lấy ngang, lường gạt của người, hoặc mượn vay không trả, hoặc chứa đồ gian, hoặc lượm lấy của rơi, hoặc sanh lòng tham của quấy, để ý hại người mà lợi cho mình, cờ bạc gian lận.

3) Tam bất tà dâm
Là cấm lấy vợ người, thả theo đàng điếm, xúi giục người làm loạn luân thường, hoặc thấy sắc dậy lòng tà, hoặc lấy lời gieo tình huê nguyệt (vợ chồng không gọi là tà dâm).

4) Tứ bất tửu nhục
Là cấm say mê rượu thịt, ăn uống quá độ, rối loạn tâm thần, làm cho náo động xóm làng, hoặc miệng ước rượu ngon, bụng mơ đồ mỹ vị.

5) Ngũ bất vọng ngữ
Là cấm xảo trá láo xược, gạt gẫm người, khoe mình, bày lỗi người, chuyện quấy nói phải, chuyện phải thêu dệt ra quấy, nhạo báng, chê bai, nói hành kẻ khác, xúi giục người hờn giận, kiện thưa xa cách, ăn nói lỗ mãng, thô tục, chưởi rủa người, hủy báng tôn giáo, nói ra không giữ lời hứa.

B / Tứ đại điều qui
Là bốn qui điều lớn buộc phải tuân theo:

1) Phải tuân lời dạy của bề trên, chẳng hổ chịu cho bực thấp hơn điều độ. Lấy lễ hòa người. Lỡ lầm lỗi phải ăn năn chịu thiệt.

2) Chớ khoe tài, đừng cao ngạo, quên mình mà làm nên cho người. Giúp người nên Đạo. Đừng nhớ cừu riêng, chớ che lấp người hiền.

3) Bạc tiền xuất nhập phân minh, đừng mượn vay không trả. Đối với trên, dưới đừng lờn dễ, trên dạy dưới lấy lễ, dưới gián trên đừng thất khiêm cung.

 4) Trước mặt sau lưng cũng đồng một bực, đừng kính trước rồi khi sau. Đừng thấy đồng đạo tranh đua ngồi mà xem không để lời hòa giải, đừng lấy chung làm riêng, đừng vụ riêng mà bỏ việc chung. Pháp luật phải tuân, đừng lấy ý riêng mà trái trên dễ dưới. Đừng cậy quyền mà yểm tài người.

 Nếu phạm vào một trong bốn điều qui này sẽ bị hình phạt thuyên bổ đi nơi khác chỗ mình đang hành đạo. Luật pháp Đạo tuy có nghiêm khắc thật, nhưng đó là phương pháp để kềm chế, sửa trị phàm tâm của chúng ta rất hữu hiệu. Chưa ai có thể bước chân vào lòng Thánh Điện mà không mang theo những vết nhơ bẩn trên người. Ấy vậy phải thường xuyên xét mình mới tránh khỏi lỗi lầm đáng tiếc.

II - PHÁP CHÁNH TRUYỀN
1 / Nguồn gốc
Pháp chánh truyền là bản văn qui định một cách tổng quát cách thức tổ chức và điều hành tôn giáo Cao Đài, ấn định các phẩm tước, quyền hạn, trách nhiệm, luật công cử của chức sắc các cấp trong Hội Thánh.

Đó là những bài Thánh giáo do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ truyền dạy ngày 20-11-1926 về Cửu Trùng Đài, ngày 13-2-1927 về Hiệp Thiên Đài và bài Thánh giáo do Đức Lý Thái Bạch dạy về nữ phái đồng tử thông công là Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc và Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư.

2 / Nội dung – đặc điểm
Nội dung Pháp Chánh Truyền có ba đặc điểm chính:

a) Không thay đổi
Bởi nguồn gốc Thiêng Liêng của nó không ai có quyền thay đổi bất cứ điều khoản nào trong Pháp Chánh Truyền, khi viết bản pháp chánh truyền Cửu Trùng Đài Đức Chí Tôn đã lập lại bảy lần mệnh lệnh của Ngài.
" Chư môn đệ tuân mạng!" thì đủ rõ tính chất hệ trọng là dường nào.

b) Số chức sắc có giới hạn
Tổng số chức sắc Cửu Trùng Đài nam phái cầm quyền hành chánh đạo trên toàn thế giới được ấn định 3115 vị cho 6 cấp từ Giáo Hữu đến Giáo Tông kể ra như sau:

- Giáo Tông                 1
- Chưởng Pháp            03
-  Đầu Sư                    03
- Phối sư                     36
- Giáo sư                     72
- Giáo Hữu                  3000

Riêng cấp Lễ Sanh không giới hạn túc số. Dĩ nhiên trong số 3115 vị này không kể những vị hồi hưu, hàm phong hay bị kỷ luật ngưng quyền. Số chức sắc nữ phái không giới hạn.

c) Qui tam giáo hiệp ngũ chi
Đức Chí Tôn dạy lập Đạo Cao Đài với tôn chỉ qui nguyên Tam Giáo (Phật, Lão và Nho Giáo), hiệp nhứt ngũ chi (Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo) có nghĩa là tổng hợp các triết lý, nghi lễ, hình thức, tổ chức sinh hoạt của các nền đạo giáo chính đã có trên toàn cầu, xác định lại tất cả các đạo giáo đều có cùng một nguồn gốc là Thượng Đế và các vị giáo chủ là người thay mặt Ngài giáo dân vi thiện.

Ngài chọn lấy tinh hoa của các đạo giáo tổng hợp lại và lập thành đạo Cao Đài.Vì vậy về phương diện tổ chức Đạo Cao Đài là một tôn giáo mới có một nền triết lý tổng hợp của các tôn giáo. Qui Tam Giáo hiệp Ngũ Chi không phải là tổ chức thành một hiệp hội của nhiều tôn giáo.

Tinh thần tổng hợp là gom lại làm một, nên trong Pháp Chánh Truyền không có điều khoản nào cho phép sự phân chia Đạo Cao Đài thành nhiều chi phái, nhiều Hội Thánh hoạt động riêng lẻ. Đức Chí Tôn lập một Đạo Cao Đài cho toàn thể các sắc dân trên thế giới và chỉ có một Giáo Tông cầm quyền gọi là Anh cả.

3 / Chú giải của Đức Hộ Pháp về Pháp Chánh Truyền
Tuân theo Thánh ý của Đức Chí Tôn và Đức Lý Giáo Tông, Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc đã chú giải từng câu từng chữ trong bản Pháp Chánh Truyền cho rõ nghĩa, viết thành bản ''Pháp Chánh Truyền chú giải " đầy đủ chi tiết về sự phân quyền giữa ba đài: Bát Quái, Hiệp Thiên, Cửu Trùng, về quyền hạn Đạo Phục, luật công cử của từng phẩm chức sắc cho cả nam và nữ.

Trong Đạo Nghị Định thứ sáu ngày 3-10 Canh Ngọ (1930) Đức Lý Giáo Tông có nói rõ:
" Nghĩ vì Pháp Chánh Truyền Lão đã dạy Hộ Pháp chú giải chẳng thi hành từ thử làm cho Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài phản khắc Đạo quyền gây nên rối loạn chánh giáo Đức Chí Tôn...".

Trong lời chú giải ở nhiều đoạn Đức Hộ Pháp đã cho ghi lại nguyên văn những lời Thánh Giáo Đức Chí Tôn giáng bút chỉ dạy thêm về Pháp Chánh Truyền.

III - BỘ TÂN LUẬT
1 / Nguồn gốc
So với CỰU LUẬT của các tôn giáo đã có từ trước, bộ luật của Đạo Cao Đài mới được thành lập nên gọi là TÂN LUẬT.

Sau khi ban hành Pháp Chánh Truyền phong chức cho chức sắc, Đức Chí Tôn dạy Hội Thánh phải lập TÂN LUẬT để tu hành. Ngài dạy các chức sắc cao cấp Cửu Trùng Đài soạn dự thảo luật đệ trình trước Hội Thánh để bàn thảo và sửa đổi xong sẽ đệ trình lên Giáo Tông.

Ngày 20-11 Bính Dần (1926) Đức Chí Tôn giáng cơ dạy về sự cần ích của Tân Luật như sau:

"Thầy tỏ thật cái luật lệ Thầy khiến các con hiệp chung trí mà lập thành đây nó có ảnh hưởng về đạo đức Tiên phong Phật sắc của các con nên Thầy buộc mình cam chịu vậy. Chẳng luật lệ thì là trái phép mà trái phép thì làm thế nào vào Bạch Ngọc Kinh cho đặng. Vậy các con gắng làm phận sự cho hoàn toàn rồi có Thái Bạch giáng cơ sửa luật".

2 / Thủ tục dâng luật
Sau khi hoàn tất bản dự thảo bộ Tân Luật lần đầu tiên các chức sắc cao cấp Hội Thánh Cao Đài được Đức Lý Giáo Tông giảng dạy về thủ tục dâng luật như sau:

Xin trích một đoạn trong Pháp Chánh Truyền chú giải.

"Lại nữa buổi ba vị Chánh Phối Sư dâng luật, Hộ Pháp và Thượng Phẩm phò loan cho Đức Giáo Tông giáng sửa (13-12 Bính Dần) Ngài có truyền dạy ba vị Đầu Sư và Chưởng Pháp phải ngự trên ngai đoạn đòi ba vị Chánh Phối Sư vào hành lễ rồi kêu Chánh Phối Sư Thượng Tương Thanh mà dạy rằng:
" Hiền hữu coi Lão hành sự đây mà bắt chước ".

 Ngài lại dạy ba vị Chánh Phối Sư mỗi người phải dâng luật thế nào cho đủ sáu bàn tay nâng luật ấy, chẳng nên cho hở đặng dâng lại cho Đầu Sư. Đầu Sư cũng phải cho đủ sáu tay mà dâng lên cho Chưởng Pháp rồi Chưởng Pháp cũng phải đủ sáu tay mà dâng lên cho Ngài.

Khi ấy Ngài dạy phải đi ngay lên Đại Điện đưa qua khỏi đầu Hộ Pháp và Thượng Phẩm, Ngài hạ Ngọc Cơ xuống dưới đặng đi qua cho khỏi Ngài nữa.
Hay... ( )

Chưởng Pháp tiếp luật rồi lại đưa ngay qua khỏi đầu Khương Thái Công và Thánh Chúa Jésus nữa. Sau Hộ Pháp có để lời than cùng Thầy về điều ấy thì Thầy cười mà phán dạy rằng:
"Mắc Tiên vị của Thái Bạch còn ở dưới Thích Ca, Khổng Tử và Lão Tử bằng chẳng vậy thì bộ luật cũng đi ngang qua đầu các Đấng ấy nữa vì nó là Thiên Điều đó con".

Khi dâng luật Ngài lại giải thích ấy là cơ vô vi Tinh Khí Thần hiệp nhứt nếu cả ba chẳng hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng.

Về phương diện hữu hình qua nghi thức ấy chúng ta thấy Thánh ý Đức Chí Tôn buộc cả chức sắc Thiên Phong thuộc ba phái Thái Thượng Ngọc phải chung tâm hiệp trí với nhau trên bước đường hành Đạo và phải tùng luật pháp Đạo mới thành công đặng. Đức Thích Ca Mâu Ni khi thuyết về Di Lạc Chơn kinh cũng có dạy:
"Tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ tất đắc giải thoát".

3 / Nội dung
Gồm ba phần: đạo pháp, thế luật và tịnh thất.
a) Về đạo pháp : 8 chương, 32 điều
- Chương 1: nói về quyền hạn, trách nhiệm, luật công cử của các hàng phẩm chức sắc Cửu Trùng Đài.
- Chương 2: về người giữ Đạo, thủ tục nhập môn, trai giới hai bậc hạ thừa và thượng thừa.
- Chương 3: về việc lập họ Đạo, cách cúng kiến tại Thánh Thất địa phương.
- Chương 4: về ngũ giới cấm.
- Chương 5: về tứ đại điều qui.
- Chương 6: về giáo huấn.
- Chương 7: về hình phạt. Hội Công Đồng Tòa Tam Giáo.
- Chương 8: về việc ban hành luật pháp.

b) Về thế luật: Gồm 24 điều.
Qui định các bổn phận phải đối xử với nhau giữa người đồng đạo trong sinh hoạt quan hôn tang tế.
c) Về tịnh thất: Gồm 8 điều.
Cách tổ chức và sinh hoạt nhà tịnh.

4 / Ai có quyền lập luật và phá luật
Qua Pháp Chánh Truyền chúng ta nhận thấy:
- Giáo Tông và Đầu Sư có quyền lập luật.
- Đầu Sư có quyền phá luật.
- Giáo Sư Giáo Hữu có quyền xin chế giảm luật lệ.
Điện Thờ Phật Mẫu & Bá Huê Viên

TỜ KHAI ĐẠO

I - AI ĐỨNG TÊN TRONG TỜ KHAI ĐẠO
TỜ KHAI ĐẠO được viết bằng Pháp Ngữ gởi cho quan Thống Đốc Nam Kỳ LeFol ngày 07-10-1926 do 28 người đại diện ký tên kèm theo danh sách 247 người nữa đứng tên trong Tịch Đạo tức là danh sách những người tín đồ khai báo đầu tiên với chính quyền để làm yếu tố pháp lý cho sự thành hình của một tôn giáo mới.

Bản văn này do Ngài Thượng Trung Nhựt soạn thảo. Đặc biệt quan phủ Ngô Văn Chiêu mặc dù là môn đệ đầu tiên được Đức Chí Tôn độ rỗi bằng huyền diệu không đứng tên chung trong danh sách 28 người đại diện này. Từ tháng 4-1926 Ngài Ngô Văn Chiêu đã tách rời ra khỏi sinh hoạt của nhóm cầu cơ do quí Ngài Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư , Cao Hoài Sang dẫn đầu.

II - Ý NGHĨA VÀ NỘI DUNG
Ý nghĩa tờ khai Đạo là một bản tuyên ngôn về sự thành lập một nền tôn giáo mới tại Việt Nam. Nó không mang ý nghĩa của một đơn xin phép mà chính quyền Pháp có quyền cho hay là bác bỏ, nếu cho thì Đạo Cao Đài thành hình không cho thì Thượng Đế đành bất lực. Thượng Đế đã dùng huyền diệu cơ bút đến khai mở một nền Đạo mới để dìu dẫn buớc đi của con cái Ngài là toàn cả nhơn loại và những môn đệ đầu tiên của Ngài có bổn phận phải thông truyền với nhà cầm quyền tại Việt Nam buổi ấy vì đó là vấn đề an ninh trật tự trong tổ chức xã hội loài người.

Nội dung tờ khai đạo gồm 4 điều chính:
1 . Từ xưa dân tộc Việt Nam vẫn sùng bái cả ba nền tôn giáo là Phật, Lão và Nho giáo.
2 . Xã hội ngày nay mất đi cảnh thái bình nguyên nhân do người hành đạo canh cải, làm thất chơn truyền và lòng người sống xa rời tôn chỉ quí báu của Tam giáo.
3 . Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ dạy phải hiệp Tam giáo lại lập thành Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ còn gọi là Đạo Cao Đài ý nghĩa là đại ân xá lần thứ ba của Thượng Đế, mục đích là làm cho nhơn loại biết thương yêu lẫn nhau, cư xử thuận hòa, làm lành lánh dữ để cộng hưởng cuộc sống hòa bình như buổi trước.
4 . Hai mươi tám người đại diện đã long trọng công bố: "Kể từ ngày nay chúng tôi đi phổ thông Đại Đạo khắp cả hoàn cầu". (Trích bản dịch Việt Ngữ trong quyển Đạo Sử -Hương Hiếu)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét