III -
NGUYÊN VĂN TỜ KHAI ĐẠO BẰNG PHÁP NGỮ
Saigon, le 7 Octobre 1926
Monsieur le Gouverneur,
Les soussignés,
Ont l'honneur de venir respectueusement vous faire connaitre cequi suit:
Il Existait en Indochine trois -Religions (Bouddhisme, Taoisme,
Confucianisme). Nos ancêtres pratiquaient religieusement ces trois doctrines et
vivaient heureux en suivant strictement les beaux préceptes dictés par les
Créateurs de ces religions.
On était, pendant cet ancien temps, tellement insoucieux qu'on pouvait
dormir sans fermer les portes et qu'on dédaignait même de ramasser les objets
tombés dans la rue (Gia vô bế hộ, lộ bất thập di di, tel est l'adage inscrit
dans nos annales)
Hélas! ce bcau temps n'existe plus pour les raisons suivantes:
1 . Les pratiquants de ces religions ont cherché à se diviser tandis que le
but de toutes les religions est le même: faire le bien et éviter le mal, adorer
pieusement le créateur.
2 . Ils ont dénaturé completement la signification de ces saintes et
précieuses doctrines.
3 . La course au confort, à l'honneur, l'ambition des gens, sont aussi des
causes principales des divergences d'opinions actuelles.
Les Annamites de nos jours ont completement ABANDONNÉ les bonnes moeurs et
traditions de l'ancien temps.
Ecoeurés de cet état de choses, un groupe d' Annamites, fervent
traditionalistes et religieux, ont étudié la refonte de toutes ces religions,
pour n'en former qu'une seule et unique appelée CAODAISME ou ĐẠI ĐẠO.
Le nom "ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ", qui signifie la troisème Amnistie
générale, est donné par L'Esprit suprême qui est vennu aider les soussignés à
fonder cette nouvelle religion.
L'Esprit Suprême est venu sous le nom de NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ dit CAO ĐÀI ou
"Le Très Haut, DIEU TOUT PUISSANT".
Par l'intermédiaire de médiums écrivant, NGỌC HOÀNG
THƯỢNG ĐẾ transmet aux soussignés des enseignements divins ayant pour but de
concentrer et d'enseigner les beaux préceptes de ces trois anciennes Religions.
La Nouvelle Doctrine enseignera aux peuples:
1 . La haute morale de Confucius;
2 . Les vertus dicteés dans les religions bouddhique et taoiqe. Ces vertus
consitant à faire le bien et éviter le mal, aimer l'humanité, pratiquer la
concorde, éviter totalement la dissention et la guerre.
Les soussignés ont l'honneur de vous soumettre:
1. Quelques extraits du recueil des "Saintesparoles" de NGỌC HOÀNG
THƯỢNG ĐẾÙ, paroles estimées plus précieuses que tuot qui existe ici-bas.
2 . La traduction de quelques passages du livre de prières que NGỌC HOÀNG
THƯỢNG ĐẾ nous a enseigneés.
Le but poursuivi par les soussignés est de ramener
les peuples à l'ancien temps de paix et de concorde. On sera ainsi dirigé vers
une époque nouvelle tellement heureuse qu'il est difficile de la décrire.
Au nom de très nombreusx Annamites qui ont
entièrement approuvé ces études et dont la liste est ci-joite, les soussignés
ont l'honneur de venir respectueusement vous déclarer qu'ils vont propager à
l'humanité entière cette Sainte Doctrine.
Persuadés d'avance que cette nouvelle religion
apportera à nous tous la Paix et la concorde, les soussignés vous prient de
recevoir officiellement leur déclaration.
Les soussignés vour prient d'agreér, Monsieur le
Gouverneur, l'assurance de leurs sentiments respectueux et dévoués".
BẢNG DỊCH TỜ KHAI ĐẠO:
Saigon, ngày 07 tháng 10 năm 1926
Kính cùng quan Thống Đốc Nam Kỳ Saigon.
Chúng tôi đồng ký tên dưới đây, kính cho quan lớn
rõ:
Vốn từ trước tại cõi Đông Dương có ba nền tôn giáo
là: Thích Giáo, Lão Giáo và Khổng Giáo. Tiên nhơn chúng tôi sùng bái cả ba Đạo
ấy, lại nhờ do theo tôn chỉ quí báu của các chưởng giáo truyền lại mới được an
cư lạc nghiệp. Trong sử còn ghi câu: "gia vô bế hộ, lộ bất thập di",
nghĩa là con người thuở ấy an nhàn cho đến đỗi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà,
còn ngoài đường thấy của rơi không ai lượm.
Nhưng buồn thay cho đời thái bình phải mất vì mấy
duyên cớ sau:
1 . Những người hành đạo đều phân chia ra nhiều
phe, nhiều phái mà kích bác lẫn nhau, chớ tôn chỉ của Tam Giáo đều như một là
làm lành lánh dữ và kỉnh thờ Đấng Tạo Hóa.
2 . Lại canh cải mối chánh truyền của các Đạo ấy
làm cho thất chơn truyền.
3 . Những dư luận phản đối nhau về tôn giáo, mà ta thấy hàng ngày cũng tại bã
vinh hoa và lòng tham lam của nhơn loại mà ra, nên chi người Việt Nam bây giờ
đều bỏ hết những tục lệ tận thiện tận mỹ ngày xưa.
Thấy tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều
người Việt Nam vì căn bổn, vì tôn giáo đã tìm phương thế hiệp Tam Giáo lại làm
một (qui nguyên phục nhứt) gọi là Đạo Cao Đài hay là Đại Đạo.
May mắn thay cho chúng sanh, thiên tùng nhơn
nguyện, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế hằng giáng đàn dạy đạo và hiệp Tam Giáo lập
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ tại cõi nước Nam nầy.
Tam Kỳ Phổ Độ nghĩa là đại ân xá lần thứ ba, những
lời của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ dạy chúng tôi, đều cốt để truyền bá
tôn chỉ Tam Giáo.
Đạo Cao Đài dạy cho biết:
1 . Luân lý cao thượng của Đức Khổng Phu Tử.
2 . Đạo đức của Phật Giáo và Tiên Giáo là làm lành
lánh dữ, thương yêu nhơn loại, cư xử thuận hòa mà lánh cuộc ly loạn giặc giã.
Chúng tôi gởi theo đây cho Quan Lớn nghiệm xét:
1 . Một bổn sao lục Thánh Ngôn của Đức Ngọc Hoàng
Thượng Đế.
2 . Một bổn phiên dịch Thánh Kinh.
Chủ ý của chúng tôi là muốn làm sao cho nhơn loại
được cộng hưởng cuộc hòa bình như buổi trước. Được như vậy chúng sanh sẽ thấy
đặng thời kỳ mới mẽ cực kỳ hạnh phúc không thể nào tả ra đặng.
Chúng tôi thay mặt cho nhiều người Việt Nam, mà đã
nhìn nhận sở hành của chúng tôi và đã ký tên vào tờ Đạo Tịch đính kèm theo đây,
đến khai cho Quan Lớn biết rằng:
Kể từ ngày nay, chúng tôi đi phổ thông Đại Đạo khắp
cả hoàn cầu.
Chúng tôi xin Quan Lớn công nhận Tờ Khai Đạo của
chúng tôi. (Trích trong Tiểu Sử Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt)
GIÁO
TÔNG ĐƯỜNG
BA
CON ĐƯỜNG THĂNG TIẾN
Tiến trình tu tập của người tín đồ Cao Đài là nhập
môn, giữ gìn giới luật, thờ cúng, làm công quảû, phổ độ chúng sanh, trau tâm
sửa tánh, tự xét mình có đủ tiêu chuẩn tam lập (lập đức, lập công, lập ngôn)
mới bước vào giai đoạn tịnh luyện, thiền định để tự giải thoát lấy mình. Tiến
trình này liên tục và từng giai đoạn thăng tiến đều có sự hướng dẫn đúng lúc.
Về phương diện hữu hình gọi là thể pháp của Đạo: có
ba con đường để các chơn linh xuống thế lập vị mình.
I - CON ĐƯỜNG THỨ NHỨT
Lấy quyền hành phẩm tước hữu hình làm phương tiện
hành Đạo, phẩm tước ấy phải do công nghiệp hành Đạo và đức hạnh mới có được.
Tùy theo công nghiệp phụng sự vạn linh và tài năng đức hạnh có được nhiều hay
ít sẽ được thăng phẩm từ tín đồ lên Giáo Tông, ấy là con đường lập quyền Đạo để
nương nhờ vào quyền hành ấy làm phương tiện phổ độ chúng sanh.
Các phẩm tước hữu hình trong Hội Thánh chỉ là những
nghi thức đối phẩm với các Đấng Thiêng Liêng trong thế giới vô hình, nó đòi hỏi
người thọ nhận phải làm tròn thiên chức của mình, khi chết linh hồn mới xứng
đáng được gọi là Thần Thánh Tiên Phật. Chẳng hạn phẩm Giáo sư, Pháp Chánh
Truyền buộc phải lo lắng cho tín đồ như anh ruột lo cho em. Ôi! được bao nhiêu
người có tâm đức ấy, chẳng trách nào Đức Chí Tôn định chỉ có 72 Giáo Sư hành
quyền trên toàn thế giới. Hay là phẩm Giám Đạo của Hiệp Thiên Đài đòi hỏi người
chức sắc phải có đủ quyền năng tâm linh để tự mình hay biết những vụ vi phạm về
luật pháp Đạo đã hay đang xảy ra ở một nơi nào đó mà về phương diện hữu hình
chưa lộ tông tích mới đúng nghĩa Giám Đạo, đúng với câu trong Pháp Chánh Truyền
"chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên Đài chẳng biết".
Vì vậy phẩm tước hữu hình chỉ là giả tạm và trạng
thái sống thực của chơn thần có tinh tấn hay không mới là yếu tố quyết định giá
trị của hai tiếng đối phẩm. Con đường đó là Cửu Trùng Đài. Khi chết Chơn Thần
rời khỏi xác thân trở về cùng Đức Chí Tôn. Con đường thứ nhất này bao gồm cả
những chức sắc cấp dưới của Hiệp Thiên Đài mà sở hành của họ cũng lấy quyền Đạo
làm phương tiện lập công.
II - CON ĐƯỜNG THỨ
HAI
Con đường thứ hai là Phước Thiện với thập nhị đẳng
cấp thiêng liêng cũng có phẩm tước hữu hình để đối chiếu với Thiêng Liêng từ
Minh Đức đến Phật Tử.
Sở hành của họ chú ý nhiều đến việc lập đức, tạo ra
nhiều của cải vật chất để tế khó trợ nghèo, yểm trợ đời sống hữu hình cho chức
sắc hành đạo bất kỳ ở cơ quan nào, nuôi nấng binh vực trẻ mồ côi, người già cả,
tật nguyền. Cũng phải đợi đến khi chết chơn thần mới rời khỏi thân xác trở về
cùng Đức Chí Tôn.
III - CON ĐƯỜNG THỨ BA
Con đường thứ ba Đại Đạo là tu chơn, tức là con
đường tịnh luyện, thiền định, chú ý tới sự rèn luyện, năng lực sống trong nội
thân mình theo tiến trình tinh hóa khí, khí hóa thần, thần huờn hư đến chỗ chơn
thần có đủ khả năng rời khỏi xác phàm trước khi chết trở về cùng Đức Chí Tôn
được. Đây là con đường đi tắt trong kiếp sanh, dĩ nhiên chơn thần xuất ngoại
xác thân được thì phải trở về được và sống trọn kiếp người của mình theo đúng
Thiên ý. Có rất nhiều lầm lạc vì ảo tưởng ảo giác trong loại sinh hoạt này.
Nếu như ở con đường thứ nhứt và thứ hai người ta có
thể lầm lạc chạy theo danh, lợi, quyền trong tôn giáo, cũng là ảo ảnh của cuộc
đời, nhầm lẫn phương tiện với cứu cánh làm biến tướng nền chơn giáo thành tả
đạo bàn môn thì ở con đường thứ ba này nhầm lẫn chính là ảo tưởng và ảo giác
rất tinh vi.
Trong phép thông công của con người với thế giới
thần linh cũng có vô vàn những điều đáng tiếc như vậy xảy ra, hậu quả của nó
đối với đời sống tín ngưỡng của một số đông người cũng rất đáng thương tâm.
(Trích: "Tu Chơn")
LỜI
THỀ CỦA CHỨC VIỆC
Tên họ ........... Phẩm vị ......... thề rằng
"Giữ
dạ vô tư hành đạo dầu cha mẹ, anh em vợ con cũng chẳng đặng phép tư vị, gìn dạ
chơn thành thể thiên hành hóa".
Đây là thủ tục hành chánh và thần quyền mà phẩm
Chánh Trị Sự và Thông Sự trong hàng chức việc phải thi hành khi nhận lãnh trách
nhiệm hành đạo tại một địa phương.
Lễ tuyên thệ được tổ chức tại Thánh Thất sở tại
trước Thiên Bàn, trước sự chứng kiến của Thần Linh, chức sắc cấp trên và đồng
đạo, dĩ nhiên lời tuyên thệ này phải được phát âm thành tiếng nói rõ ràng,
không phải chỉ nguyện trong tâm. Hai phẩm Chánh Trị Sự và Thông Sự bắt buộc
phải tuyên thệ như vậy. Vì hai phẩm này có quyền về luật lệ của Đạo do Hiệp
Thiên Đài ban cho.
Pháp Chánh Truyền không buộc phẩm Phó Trị Sự tuyên
thệ nhưng trên thực tế ở nhiều nơi người ta vẫn tổ chức lễ tuyên thệ luôn cho
phẩm Phó Trị Sự vì xét ra vẫn tốt về phương diện đức tin và tâm lý.
LỜI
CẦU NGUYỆN HẰNG NGÀY
I - NỘI DUNG
Ngoài những bổn phận về thế tục phải làm việc để
trả nợ áo cơm đã nương vào nhơn quần xã hội cho thân xác được tồn tại, hằng
ngày người tín đồ Cao Đài còn có bổn phận về tinh thần phải cầu nguyện năm điều
chung sau đây( ):
1 . Đạo Cao Đài được truyền bá sâu rộng.
2 . Chúng sanh biết thức tỉnh tu hành và giải thoát.
3 . Oan nghiệt tội tình của đệ tử được ân xá.
4 . Thế giới được hòa bình.
5 . Nơi thờ phượng Thượng Đế được an ninh.
Những lời cầu nguyện này được dâng lên Đức Chí Tôn
và chư Thần Thánh Tiên Phật vào các thời cúng Tý Ngọ Mẹo Dậu (12 giờ khuya, 12
giờ trưa, 6 giờ sáng, 6 giờ chiều). Lời cầu nguyện được đặt sẵn, giống nhau
thành lời Kinh Ngũ nguyện là phần chót của kinh cúng Tứ Thời. Những làn sóng tư
tưởng phát xuất tự đáy lòng thành khẩn của người tín đồ Cao Đài ở khắp mặt địa
cầu hiệp sức lại, cộng hưởng, tạo thành một sức mạnh tâm linh tác động trên
tinh thần của nhơn loại theo chiều hướng thánh thiện. Hiện tượng này cũng giống
như chúng ta ghép nhiều cục pin nhỏ lại để có được một dòng điện mạnh đủ thắp
sáng bóng đèn.
Các Đấng Thiêng Liêng nơi Bát Quái Đài đón nhận
những làn sóng tư tưởng của khối tín đồ Cao Đài dâng lên như một dòng thần lực
chứa đựng nhơn ý, các Ngài cảm nhận và cho hòa nhập vào trong tâm thức của mình
gọi là chứng lòng chúng sanh và tức khắc gởi trả ngược lại chúng sanh sau khi cho
thêm thần lực của các Ngài làm gia tăng thánh chất chứa đựng nhiều thánh ý
trong đó.
Hiện tượng này gọi là sự chuyển pháp của quyền năng
thiêng liêng tuy vô hình mà có thật và người nào nhận được ân huệ thiêng liêng
này sẽ có thêm sức sống tâm linh thánh thiện và đời sống hữu hình của thân xác
cũng sẽ thay đổi tốt đẹp dần. Sinh hoạt của giới vô hình này nối tiếp rất gần
với loài người, chỉ cách một xác thân.
Ngoài năm điều chung trên đây thỉnh thoảng cũng có
những vấn đề riêng của cá nhân mà sức phàm không giải quyết nổi, người tín đồ
cũng cầu nguyện với các Đấng Thiêng Liêng để xin hộ trì. Tuy nhiên không phải
điều cầu xin riêng tư nào cũng được thỏa mãn bởi lý do con người thường hay cầu
nguyện theo nhơn dục, mà hễ thuận cùng nhơn dục thì thường nghịch với Thiên
Điều.
II - BÍ PHÁP CẦU NGUYỆN
Bí quyết trong phép cầu nguyện là phải thành ý,
chánh tâm, có đức tin mạnh mẽ, thần trí phải thật yên tĩnh và lập lại nhiều lần
lời cầu nguyện trong một thời gian nào đó và điều cầu xin không quá hơn những
gì mà định mệnh đã an bày cho mỗi cá nhân trong mỗi kiếp sanh mới có cảm ứng
được. Cũng có những kẻ mà đời sống đầy những tham vọng cá nhân phàm tục, không
biết lẽ dinh hư tiêu trưởng là gì, quên câu luân hồi nghiệp báo tiền khiên vay
trả chỉ vụ lấy điều lợi trước mắt, họ đi vào cửa Đạo, lễ bái nhiệt tình trong
buổi đầu với một thâm tâm mong cầu sự đổi chác có lợi bội phần đối với thế giới
Thần Linh. Họ cũng cầu nguyện rất nhiều nhưng chỗ mong cầu vụ lợi phàm tục
không được đáp ứng bèn mất đức tin cho rằng Trời Phật không linh. Lợi dụng tâm
lý thấp thỏi nầy một số đồng cốt cùng với những tâm linh xấu tìm cách dẫn dụ
đức tin của họ xa dần chánh giáo và chung cuộc họ đã lạc bước vào con đường tả
đạo bàn môn lúc nào không hay. Thật đáng tiếc và con số tín đồ này cũng không
phải là ít.
Lời cầu nguyện chắc chắn được đáp ứng dù ít hay
nhiều là những lời cầu nguyện Hội Thánh đã đặt thành pháp trong kinh điển như:
Ngũ nguyện, dâng Tam Bửu, kinh Thế Đạo: trước và
sau khi ăn, khi đi ngủ, lúc thức dậy, khi đi ra đường, lúc trở về v.v...
Tất cả đều mang ý nghĩa một tinh thần hướng thượng
vô biên, sẵn sàng phụng sự vạn linh sanh chúng để sau một kiếp mang xác phàm
chơn thần nhập vào cõi hằng sống được. Chẳng hạn như:
"Nên
người con nguyện ra tài lợi sanh"
"Con
mong mượn xác đoạt quyền vĩnh sanh" (Kinh ăn cơm rồi)
"Bước
ra một bước cảm hoài căn tu" (Kinh đi đường)
"Bồng
lai cực lạc chỉ chừng
Đẩy
đưa xác tục dựa gần cõi linh" (Kinh đi ngủ)
Hay lời cầu nguyện khi dâng Tam Bửu nội dung tóm
tắt như sau:
"
Con xin dâng cả hình hài, trí não và linh hồn con cho Chí Tôn dùng phương nào
thì dùng". (Trích LTĐ của ĐHP Q1 tr 115)
III -
THỂ THỨC ÁP DỤNG KINH THẾ ĐẠO
Về thể thức áp dụng kinh Thế Đạo trong sinh hoạt
hằng ngày của người tín đồ, người ta thường dùng lối tâm pháp nghĩa là chỉ cầu nguyện
trong tâm trí của mình bằng tư tưởng, không phát âm thành lời nói.Chẳng hạn như
khi ngồi vào bàn ăn để chừng một phút đồng hồ cắt đứt mọi tạp niệm, cầu nguyện
trong tâm theo lời kinh ăn cơm, không làm ra vẻ gì khác biệt với những người
xung quanh về hình thức bên ngoài. Ăn xong rồi cũng áp dụng như vậy.
Nếu áp dụng đầy đủ trung bình cứ một ngày 24 giờ
người tín đồ Cao Đài đánh thức đời sống tâm linh mình 10 lần cứ cách vài tiếng
đồng hồ họ lại hướng tâm về Đức Chí Tôn và Thần Thánh một cách sâu kín bên
trong: 3 bữa ăn là 6 lần, đi và về 2 lần, ngủ thức 2 lần tổng cộng 10 lần. Sinh
hoạt nầy không mấy khó khăn nặng nhọc nhưng đòi hỏi phải có đức tin mãnh liệt,
sự thành tâm, trì chí liên tục mới có kết quả tạo được sự cảm ứng thường xuyên
với quyền năng thiêng liêng của Đức Chí Tôn và các Đấng. Hiệu ứng rõ rệt nhất
của nó là quan niệm sống, tánh tình của người cầu nguyện sẽ thay đổi tốt đẹp
dần theo chiều hướng thượng.
Điều cần lưu ý về kinh đi đường là không nên cầu
nguyện trong lúc đang lái xe để tránh bị phân tâm dễ gây tai nạn, phải cầu
nguyện trước khi lái.
Toàn bộ sinh hoạt tâm linh loại này đòi hỏi phải
sống thật với lòng mình. Với nội dung, ý nghĩa của lời kinh như nói chuyện với
Thần Thánh trước mặt mình vậy. Nếu chỉ áp dụng lấy lệ cho có hình thức như trả
bài sẽ không có kết quả.
Nguyện kinh Thế Đạo theo lối tâm pháp này dễ dàng
áp dụng trong mọi hoàn cảnh, mọi lứa tuổi đều thích hợp vì nó chỉ diễn ra trong
nội tâm của từng cá nhân người cầu nguyện. Tuy nhiên trong những môi trường
sinh hoạt thuần tôn giáo và có tính cách cộng đồng như ở tại Thánh Thất, Điện
Thờ Phật Mẫu các cháu đồng nhi thường đọc kinh thành lời khi ăn cơm, hình thức
này còn có thêm tác dụng về phương diện truyền giáo, nhưng đối với người lớn
không mấy thích hợp vì nó nặng nề về hình thức nên phần đông đều chọn lối tâm
pháp nhẹ nhàng hơn. Vả chăng ngoài xã hội trong những sinh hoạt thế tục hằng
ngày người tín đồ phải chung đụng với nhiều người không cùng tín ngưỡng thì
hình thức cầu nguyện sâu kín bên trong vừa với tâm lý nhiều người hơn.
Tóm lại, dù hình thức nào đi nữa khi áp dụng Kinh
Thế Đạo trong phép tu thân thì vấn đề chính là tâm linh của người tín đồ phải
có tiến bộ. Còn nếu như không có tiến bộ ắt phải có một nguyên nhân sai lầm ở
một điểm nào đó trong chu trình chuyển hóa nguồn năng lực sống từ tiên thiên
đến hậu thiên và từ hậu thiên đến tiên thiên nơi nội thân của mỗi con người.
Chẳng hạn đức tin không chánh lý nên thiếu sự trợ thần của Bát Quái Đài hoặc
không biết trụ thần khi cầu nguyện hoặc biết trụ thần nhưng cường độ không đủ
mạnh v.v... Trong trường hợp đó phải học lại lý đạo cho sâu và điều chỉnh chỗ
sai pháp ấy.
CẦU
NGUYỆN TRONG VIỆC LÀM ĂN
I - NỘI DUNG
Trong lãnh vực đức tin con người được tự do cầu
khẩn với các Đấng Thiêng Liêng nào mà mình tin tưởng và cảm thấy dễ dàng linh
ứng. Sự chọn lựa ấy có những lý do sâu xa ở những liên hệ tiền kiếp của linh
hồn họ.
Trong công việc làm ăn sinh sống hằng ngày một số
người tín đồ Cao Đài vẫn có thói quen cầu khẩn sự phò hộ của Thần Linh để giúp
họ dễ dàng đạt đến mục đích mà họ mong muốn. Họ thường kêu gọi đến quyền năng
Thiêng Liêng của hai phẩm: Thần Thổ Địa và Thần Hoàng Bổn Cảnh.
Nếp sinh hoạt tín ngưỡng dân gian này đã có từ lâu
đời trước khi khai mở Đạo Cao Đài và người tín đồ Cao Đài vẫn tiếp tục tin tưởng
như thế. Tuy nhiên khi hòa nhập chung vào nghi lễ của nền tôn giáo mới này, vẫn
có vài biến đổi. Chẳng hạn tập tục tín ngưỡng cúng Thần thờ ở các Đình làng tức
là Thần Hoàng Bổn Cảnh người ta cúng cả chay lẫn mặn, còn người tín đồ Cao Đài
chỉ cúng toàn đồ chay mà thôi. Vì vậy đây không phải là một sinh hoạt tín
ngưỡng đặc thù của Cao Đài giáo mà là nếp tín ngưỡng dân gian mà người Cao Đài
đồng hóa. Họ thường kêu gọi đến sự giúp đỡ của Thần linh trong những trường hợp
như: Khởi đầu một công trình xây cất, khai trương một cơ sở làm ăn, mở đầu công
việc mùa màng trồng trọt ở một vùng đất mới đặt chân đến đầu tiên v.v...
Nội dung lời cầu nguyện thường gồm bốn điểm chính.
1 . Danh tánh và địa chỉ của người cầu nguyện.
2. Công việc đang làm hoặc sắp làm.
3 . Yêu cầu Thần linh phò hộ cho mình điều chi, về phương diện nào.
4 . Để làm gì, tức là lời khấn nguyện mình sẽ sống
như thế nào với sự giúp đỡ của các Đấng ấy và đây là điều rất hệ trọng.
Không phải tất cả những gì cầu nguyện đều được Thần
linh phò hộ.
II - QUAN NIỆM THẦN LINH
Trong sự tín ngưỡng của người theo Đạo Cao Đài,
Thần linh là những Đấng tác động trên đời sống của người tín đồ để phò hộ cho
họ những sinh hoạt về phần xác lẫn phần hồn theo chiều hướng giúp họ biết tu
thân lập đức đi đến chỗ giải thoát, thành thử chỉ có những lời cầu nguyện nào
mà nội dung phù hợp với trách nhiệm thiêng liêng của các Ngài mới mong được dễ
dàng chấp thuận. Trách nhiệm ấy là dạy dỗ dân làng biết làm lành lánh dữ, sống
an cư lạc nghiệp, đủ sức chịu đựng sự trả quả mà mỗi cá nhân đã gây ra từ
trước. Chỉ có các Đấng ấy mới quyết định chấp thuận những lời cầu khẩn hay
không, còn người tín đồ chỉ theo những tập tục lâu đời của ông bà để lại họ cầu
nguyện một chiều theo lòng tin của họ. Ở đây chúng ta cần loại bỏ những khía
cạnh mê tín dị đoan trong các hình thức tín ngưỡng. Chẳng hạn trường hợp sau
đây:
Một người sống chủ trương không cần lễ nghĩa chi
cả, chẳng cần trí tín gì hết, chỉ làm sao có nhiều tiền, nhiều của cải vật
chất, thỏa mãn được dục vọng giác quan của mình là hạnh phúc rồi. Y cũng theo
đạo Cao Đài rồi mở một quán rượu, trịnh trọng cầu khẩn Thần linh phò hộ cho
mình làm ăn phát đạt. Lấy lý trí bình thường của một người chúng ta xét thử
trường hợp nầy.
Nếu như lời cầu nguyện của y được giúp đỡ có hiệu
lực, nghĩa là bán rượu chạy, thì sẽ có nhiều người phải say sưa gây ra những
bất hạnh cho xã hội. Thử hỏi Thần linh là những Đấng có trách nhiệm dạy dỗ
người dân hiền lành hướng thiện có thể giúp cho y đạt được mục đích giàu sang
do bán rượu thật chạy để nhiều người phải khổ hay không? Rồi khi có thật nhiều
tiền, nhiều vật chất, y lại sống theo dục vọng của giác quan, đời sống của y
càng sa đọa và tiếp tục đào tạo con cái ăn chơi hư hỏng. Thử hỏi, đứng ở cương
vị Thần linh các Ngài có thể tác động theo lời cầu xin đó để cho linh hồn y tạo
nhiều ác nghiệp và đi nhanh vào cõi đọa được không?
Đây chỉ là trường hợp mê tín dị đoan mà thôi. Vận
dụng năng lực thần quyền vào công việc làm ăn cần loại trừ khía cạnh mê tín dị
đoan nầy. Theo quan niệm của người tín đồ Cao Đài Thần linh là những Đấng vô
hình đứng trong hàng chánh giáo, khác hẳn với các vong linh thấp. Vì vậy chúng
ta không nên khấn nguyện với tâm trạng mong cầu sự đổi chác bằng những lễ vật
cúng bái hay nói khác hơn là lo lót để được Thần linh phù hộ.
Trường hợp thứ hai nầy vẫn thấy xảy ra ở một số
người tín đồ không hiểu lý sâu của Đạo. Cũng có những lời cầu nguyện rất chính
đáng xét về nội dung, rất đáng được giúp đỡ nhưng trạng thái nội tâm của người
cầu khẩn chưa có một tâm ý hướng thiện rõ rệt, các Ngài vì lòng từ bi cũng độ
rỗi trong một thời gian, sau đó xem xét lại. Nếu như chơn thần của y chưa thức
tĩnh theo chiều hướng thiện, nghĩa là quên lời khấn nguyện ban đầu, tinh thần
rơi vào trạng thái mô tả qua câu kinh sám hối:
"Lâm
nguy nguyện vái làm lành
Tai
qua rồi lại dạ đành phụ vong"
Các Ngài sẽ ngưng phò hộ, công việc làm ăn thấy
trôi chảy trong buổi đầu, sau đó mất hẳn đi những phần may mắn, lý do không còn
sự phò hộ của Thiêng Liêng nữa mà chỉ còn năng lực của trí phàm con người tranh
đấu nhằm đoạt lợi ở thế gian mà thôi.
Tóm lại, theo quan niệm của người tín đồ Cao Đài,
Thần linh là những Đấng rất gần gũi với những sinh hoạt của con người, các Đấng
ấy luôn giúp đỡ cho người tín đồ thăng tiến trên con đường tu thân lập đức và
đủ sức chịu đựng sự trả quả của mình đã gây ra từ trước. Vì vậy họ không ngần
ngại vái van cầu khẩn các Đấng này phò hộ cho họ trong đời sống hằng ngày.
Về hình thức lễ bái không có qui định nào rõ rệt,
có khi chỉ đơn thuần là một lời khấn, có khi là một nén hương, có khi là một
đĩa trái cây hay một mâm cơm chay. Tuyệt nhiên không dùng đồ mặn trong khi cúng
Thần Thổ Địa và Thần Hoàng Bổn Cảnh trong nếp sinh hoạt của người tín đồ Cao
Đài. Điều này đã có từ khi mới khai Đạo do lời dạy của vị Thần Hoàng Bổn Cảnh ở
làng Mỹ Lộc, quận Cần Giuộc và lời dạy của Đức Chí Tôn về trách nhiệm dạy dỗ
dân làng của Thần Hoàng Bổn Cảnh làng Long Thành là nơi Toà Thánh Tây Ninh đang
tọa lạc.
Lời dạy của Đức Chí Tôn 1927.
"...
Thầy đã ban sắc cho Thần Hoàng Long Thành thăng lên chức Văn Xương vào trấn
nhậm làng Hiệp Ninh, dạy dỗ dân làng về Đạo, Thầy ban trọn quyền thưởng phạt
đặng răn làng ấy cho đến ngày biết ăn năn cải hóa...
Vậy thì làng Long Thành, các con khá an lòng..." (TNHT .Q I.
1969 Tr 98)
Lời dạy của Thần Hoàng
Bổn Cảnh làng Mỹ Lộc ngày 18-01-1927 .
" Từ thuở Ta vâng chiếu chỉ đến trấn nhậm nơi đây, Ta một lòng lo cho
lê thứ đặng an cư lạc nghiệp, thạnh vượng mùa màng mỗi mỗi đều lo lắng cho
chúng sanh nơi phần trách nhiệm...
Từ đây Ngọc Đế truyền lịnh cho Ta phải theo phò chư Cao Đạo hữu, nên Ta lo lắng bội phần hơn khi trước,
mỗi khi có việc chi tai biến hay là có những bịnh truyền nhiễm thì đến đây Ta sẽ dạy cho mà lánh những điều tai
hại.
Còn việc tế lễ cúng, Ta muốn dùng đồ chay hay là cây trái, chớ sát sanh.
Tế tự là tại sao ?
Phàm có lòng tin mới cúng chớ,
cúng là lấy có lễ đó, gọi là kỉnh trọng. Chớ Thần Thánh nào ăn của ai. Bởi thế
nên ai dùng vật thực mà cúng tốt hơn
nên dùng trái cây. Ai có lòng tế lễ chi chi Ta cũng chẳng trách đặng vì cựu lệ
bày đến ngày nay..." (TNHT QI 1969 Tr 87-88)
Chúng ta cần phân biệt cho rõ ràng trong thế giới
vô hình cũng có những chơn linh thấp kém xấu xa sống lẫn lộn với những chơn
linh cao trọng. Hai cấp bực Thần Thổ Địa và Thần Hoàng Bổn Cảnh mà người tín đồ
tin tưởng là những chơn linh tốt, biết thương yêu chúng sanh, sẵn sàng phò hộ
giúp đỡ cho đời sống nhơn sanh phát triển theo chiều hướng thánh thiện khác hẳn
với những vong linh thấp kém mà đôi khi nhập vào xác những đồng cốt đòi hỏi
người ta cúng cho mình ăn vật nọ, vật kia theo những ảo giác của chơn thần họ
đang diễn ra. Thành thử khi vận dụng năng lực phò hộ của Thần linh trong công
việc làm ăn hằng ngày cần phải thận trọng. Nếu trong tâm của người khấn nguyện
dù không nói ra bằng lời rõ rệt mà có ý đổi chác song phương, "Nếu Ngài phò
hộ cho tôi, tôi sẽ cúng Ngài một đĩa trái cây" chẳng hạn, đó là một điều
thất lễ.
Đối với các vị Thần linh phải hết sức tránh chỗ tâm
ý thấp thỏi này do lòng mê tín của con người để khỏi phải làm phiền lòng các
Đấng ấy. Vì thương đời mà phải gần gũi với những sinh hoạt trần tục của chúng
sanh và phải nghe những điều bất chánh trong tâm của kẻ cầu nguyện.
Các Đấng ấy làm việc một cách vô tư vì trách nhiệm
thiêng liêng của mình tại mỗi địa phương, không phải vì các phẩm vật cúng tế.
Còn lễ và kính trọng là bổn phận của người tín đồ hiểu lý sâu của Đạo, một hình
thức sinh hoạt theo hướng Trời Người hiệp nhứt.
CẦU
NGUYỆN TRONG VIỆC HỌC HÀNH THI CỬ
Trong công việc học hành thi cử người tín đồ Cao
Đài đặng phép cầu khẩn với quyền năng thiêng liêng của Đức Chí Tôn khai mở
khiếu thông minh cho mình để học hành mau tiến bộ, đến nơi đến chốn, thi cử đỗ
đạt, hầu mai sau khi ra đời sống một đời sống có nghĩa nhân, biết thương yêu
bạn đồng môn, thương yêu sanh chúng trên đường công danh, biết làm lành lánh
dữ, nghĩa là sống đời sống của hàng chánh nhân quân tử trong xã hội. Lời cầu
khẩn ấy được cô đọng trong câu:
"
Cầu khẩn Đấng chơn linh nhập thể
Đủ
thông minh học lễ học văn
May duyên gặp hội Long Vân
Thuyền thơ ngọn gió Các Đằng xuôi
đưa " (Kinh nhập học)
Về phương diện tâm lý, nội dung của lời cầu nguyện
có tác dụng hướng dẫn con người sống theo hướng thánh thiện.
Về phương diện thần quyền, mỗi con người đều có một
linh hồn, linh hồn hiện ra nơi thân thể trong yếu tố gọi là Thần của Tam Bửu.
Thần là sự sáng suốt của tâm linh ngự trị nơi phàm thể con người điều khiển khí
và tinh. Cầu khẩn chơn linh nhập thể là thúc giục năng lực thánh thiện của Thần
biểu lộ nơi trí não của con người cho được nhanh chóng và cao độ. Năng lực sáng
suốt của Thần nơi con người có 2 tác dụng:
- Đối với quá khứ, nhớ lại được những ký ức đã ghi
nhận do sự hiểu biết từ trước và dường như bị chôn vùi đi theo thời gian. Khi
Thần linh hoạt nó sẽ nhớ lại được những ký ức nầy, tức là những kiến thức đã
học được từ tiền kiếp hay là ở trong kiếp này hiện ra nhanh chóng khi cần vận
dụng đến.
- Đối với tương lai, năng lực của Thần sẽ làm gia
tăng tính sáng tạo của con người để tìm tòi khám phá thêm những qui luật của sự
sống mà Đức Chí Tôn đã đặt để nơi con người và ở thiên nhiên biết biến cải môi
trường sống cho mình được tồn tại, tấn hóa trên dòng thời gian.
Đó là nói về nguyên lý của sự sống một cách tổng
quát, còn chi tiết hơn khi người tín đồ trong công việc thi cử, học hành phải
cầu nguyện đến quyền năng của các Đấng Thiêng Liêng hỗ trợ cho mình thì có phải
là việc làm mê tín hay không?
Tất cả những tri thức của con người còn đọng lại
trong phần gọi là ký ức của tinh thần người ấy, với thời gian quá lâu những ký
ức ấy có thể bị phai mờ đi, mình gọi là quên. Nhưng thật ra tất cả những gì
mình đã nghĩ, đã làm trong quá khứ đều lưu trữ lại ở trong sự sáng suốt của
chơn linh mình. Sau khi thân xác này chết đi những ký ức vẫn tồn tại trong chơn
linh người đó. Khi đi đầu kiếp chơn linh mang một hình xác mới những ký ức ấy
vẫn còn nhưng ở một trạng thái tiềm ẩn và chính nó làm thành sức thông minh bẩm
sinh nơi đứa bé. Dinh dưỡng đầy đủ và giáo dục đúng cách sẽ làm tăng trưởng sức
thông minh qua từng kiếp sống.
Vì vậy một người đã qua nhiều lần chuyển kiếp, học
hỏi được nhiều kinh nghiệm sống trong quá khứ, năng khiếu thông minh nơi trí
não của họ thường thường cao độ.
Đó là những gì có tính cách bẩm sinh nơi một con
người, nếu chúng ta biết đánh thức nó dậy thì sự biểu lộ của nó về phương diện
hữu hình đo lường bằng hệ số thông minh của trí não con người sẽ đạt đến mức
cao hơn là không biết đánh thức.Vì vậy phải có kho tàng kiến thức cũ nằm ở dạng
tiềm ẩn, khi một chơn linh con người đi đầu kiếp thì sự thông minh bẩm sinh cao
nơi đứa bé mới có được. Không có trường hợp linh hồn của một con thú đã tấn hóa
nhập vào hình xác của một con người nhờ ăn uống đầy đủ mà có trí thông minh bẩm
sinh cao được.
Lời cầu nguyện trong kinh nhập học:
"
Đại Từ phụ xin thương khai khiếu" là chiếc chìa khóa Thần quyền để khơi
dậy kho tàng tâm linh của ký ức tiền kiếp biến đổi nó thành sức thông minh hiện
tại để học và hiểu nhanh chóng những vấn đề mà trí não của con người đang đối
diện.
Một
khi người tín đồ đã hiểu được chơn pháp của đạo một cách sâu xa và biết vận
dụng những lời kinh tiếng kệ một cách khôn ngoan sẽ tạo cho mình một chánh tín.
Cho nên cầu nguyện trong việc học hành thi cử rất cần thiết để cho vai trò của
chơn linh mình dạy dỗ được trí phàm biết sống theo tánh linh sẵn có nơi mỗi
người.
Đức Chí Tôn dạy:
"Nơi
thân phàm các con, mỗi đứa Thầy đều cho một chơn linh gìn giữ cái chơn mạng
sanh tồn... Đấng chơn linh ấy vốn vô tư... nhứt nhứt điều lành và việc dữ đều
ghi chép không sai, đặng dâng vào Tòa phán xét... Các chơn linh ấy tánh thánh
nơi mình đã chẳng phải gìn giữ các con mà thôi mà còn dạy dỗ các con..." (TNHT- TG 1928)
Chơn linh tức là linh hồn của con người, nơi tích
lũy những ký ức qua nhiều kiếp sống tức là sự sáng suốt, khôn ngoan tiềm ẩn nơi
một con người. Biết dùng phép cầu nguyện để khơi dậy kho tàng quí báu của kiến
thức cũ trong quá khứ đó biến đổi thành trí thông minh của hiện tại là biết
sống với lẽ Đạo, biết sống với quyền năng cao diệu mà Đức Chí Tôn đã ban cho
con người. Nói riêng về quá khứ gần trong một kiếp sanh của con người, lời cầu
nguyện có được sự may mắn trong việc học hành thi cử có nghĩa là gì ?
- Trước nhứt, năng lực Thần quyền do các Đấng
Thiêng Liêng bố hóa cho người cầu nguyện sẽ làm cho Thần của họ thêm linh hoạt
nhớ lại những gì đã học hỏi từ trước để trong công việc thi cử trả lời cho
đúng. Vì vậy trong kho tàng ký ức của họ phải có những kiến thức do việc học
hành lưu lại, nhờ sự phò hộ của quyền năng thiêng liêng sẽ làm cho mình nhớ lại
trọn vẹn và trả lời đúng, tức nhiên là thi đậu.
- Thứ hai, vận dụng được sự sáng tạo của trí thông
minh mình trả lời những vấn đề khi người ta đòi hỏi phải biết, phải có những
sáng kiến mới giải đáp được.
- Thứ ba, là những điều kiện sinh hoạt ở xung quanh
mình không gây trở ngại trong việc thi cử như sức khỏe tốt, phương tiện di
chuyển an toàn, thời gian không trễ nải v.v...
Tóm lại phải có sự chăm chỉ học hành từ trước, lời
cầu nguyện may mắn mới có ý nghĩa trong sáng của nó. Khía cạnh mê tín dị đoan
thường nằm ở chỗ không chịu học hành mà muốn Thần Thánh phò hộ giúp đỡ cho mình
đỗ đạt.
SỨ
MẠNG TRUYỀN GIÁO
I -
SỨ MẠNG CÁ NHÂN
Từ những lời cầu nguyện hằng ngày:
- Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai.
- Nhì nguyện phổ độ chúng sanh.
Là sinh hoạt thuộc quyền năng tư tưởng có sự chuyển
pháp của các Đấng Thiêng Liêng hộ trì về phần vô vi sang lãnh vực hữu hình. Đức
Chí Tôn dạy mỗi tín đồ phải có sứ mạng truyền bá đạo lý của Ngài cho người khác
hiểu và hành động theo Thánh ý.
"
Còn chư môn đệ đã lập minh thệ rồi, ngày sau tùy âm chất mỗi đứa mà thăng hay
là tội lỗi mà giáng, song buộc mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa là mười hai
người".(TNHHT QI Tr 42)
Mỗi lần tái kiếp trong một gia đình nào đó linh hồn
sẽ có thêm họ hàng thân thích, tạo thành gia tộc hữu hình và bởi tình yêu
thương, nợ khí huyết vay mượn của tổ phụ lưu truyền, khi thoát xác chơn thần
của những người thân ấy có những liên hệ ràng buộc với nhau, bởi vậy mới có
phép điều chỉnh nghiệp quả.
"Chờ
con lập đức giúp huờn ngôi xưa" (Kinh cầu cha mẹ qui liễu)
Tình đồng đạo cũng vậy, khi chúng ta độ rỗi một
người nào nhập môn vào Đạo phải có trách nhiệm dìu dắt lẫn nhau anh trước em
sau mà đến nơi Bồng Đảo. Tình yêu thương và trách nhiệm tâm linh ấy nối kết các
chơn thần khi thoát xác trở thành họ hàng gia tộc nơi cõi thiêng liêng.
Đức Chí Tôn dạy:
"Hễ
bao nhiêu môn đệ độ rỗi của mỗi đứa thì là họ hàng của mỗi đứa hiểu à!
"Chừng
ấy về đến Bạch Ngọc Kinh thì gia tộc mỗi đứa đều phân biệt, nếu chẳng độ rỗi
thì về với hai tay không".
Ấy vậy sứ mạng truyền giáo để phổ độ chúng sanh đặt
nền tảng trên bổn phận của từng cá nhân người tín đồ. Không phải chỉ có chức
sắc hay chức việc mới có bổn phận truyền giáo mà mỗi người tín đồ đều có bổn
phận ấy.
II - PHƯƠNG TIỆN GIÁO QUYỀN
Khi mở Đạo Cao Đài tại Việt Nam Đức Chí Tôn có tiên
tri.
"Nam
Bắc cùng rồi ra ngoại quốc
Chủ
quyền chơn Đạo một mình Ta" (TNHT. TG 15. 9 Bính Dần)
Làm thế nào để ứng hiện lời tiên tri ấy?
Trên thì có các Đấng Thiêng Liêng chuyển pháp khai
mở năng khiếu tâm linh của con người, những ai hữu duyên cùng Đạo trên khắp mặt
địa cầu, dưới thì có quyền hành Hội Thánh là phương tiện để độ rỗi nhơn sanh.
Phép tu hành nhằm đạt đến sự giải thoát Chơn Thần con người, còn quyền hành áo
mão, chức tước chỉ là phương tiện để xác thân làm việc. Hai phương tiện truyền
giáo hữu hiệu nhứt là nơi thờ phượng Thượng Đế và các Đấng Thiêng Liêng để nuôi
dưỡng đạo tâm vì:
"Lễ
bái thường hành tâm Đạo khởi" và kinh điển để truyền bá đức tin hiểu đạo lý cho
chính đáng, tránh lạc lầm vào chỗ mê tín dị đoan.
Ngoài ra còn có việc truyền bí pháp thuộc phần sinh
hoạt cao cấp không tiện nói ra trong quyển sách nhỏ bé nầy.
Các phương tiện truyền thông đại chúng như truyền
thanh, truyền hình, báo chí, hình ảnh, ghi âm đã giúp ích rất nhiều trong việc
truyền giáo. Nhưng phương tiện dù tối tân đến đâu, kinh điển dù cao siêu thế
mấy, trên hết mọi sự con người mới là chính. Đời sống của người tín đồ, sự sinh
hoạt thể xác và tinh thần, nếu còn nặng mang nhiều nét phàm tục trước mắt chúng
sanh thì nền Đạo đang có dấu hiệu qui phàm. Trong một nền tôn giáo nếu thiếu
những tấm gương sáng chói về đạo đức của con người ở cõi tục nầy thì việc
truyền giáo cũng mất đi phần hữu hiệu.
Kinh điển
giải bày lý đạo cao siêu, truyền thông đại chúng rộng rãi, đó chỉ là lý thuyết;
còn thực hành thì đời sống của người tín đồ ra sao mới là kết quả. Ấy vậy việc
tu thân của mỗi cá nhân người tín đồ là nền tảng của cơ phổ độ.
Lấy thí dụ cụ thể chẳng hạn:
-
Muốn khuyên người nào chay lạt đặng giảm bớt nghiệp sát sanh.
-
Hay từ bỏ rượu thịt say sưa cho chơn thần an tĩnh.
-
Muốn khuyên đừng cờ bạc đặng bỏ tánh gian tham.
-
Hay xa lánh gió trăng cho gia đình đừng nghiêng đổ.
Trước hết phải tu chỉnh bản thân mình để làm gương
cho người khác thì lời khuyên mới có giá trị và mới hy vọng cảm hóa đặng lòng
người. Ấy vậy tu thân là chính trước khi sử dụng giáo quyền thi hành sứ mạng
phổ độ mà Đức Chí Tôn giao phó.
Đức Phật Di Lạc trên nóc
Hiệp Thiên Đài
XÉT
CÂU MINH THỆ
I - PHÉP XÉT MÌNH
Vào giai đoạn chót của đời sống người tín đồ Cao
Đài người ta cho áp dụng phương thức xét mình bằng cách gọi tên người sắp qui
vị và thúc giục:
"
Ớ (tên họ người qui vị) thành tâm cầu nguyện.
Nguyện
Chí Tôn linh hiển độ sanh
Ăn
năn sám hối tội tình
Xét
câu minh thệ gởi mình cõi thăng" (Kinh cầu hồn)
Đức Thất Nương Diêu Trì Cung khi giáng cơ giải
thích về cõi Âm quang có dạy rằng:
"Chớ
chi cả nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác thì tự nhiên tránh khỏi Âm
quang". (TNHT QII Tr 92)
Đức Chí Tôn cũng nhắc nhở môn đệ Ngài phải biết xét
mình hằng ngày trên bước đường tu học và hành Đạo.
"
Phải thường hỏi lấy mình khi đem mình vào lạy Thầy buổi tối, coi phận sự ngày
ấy đã xong chưa mà lương tâm có điều chi cắn rứt chăng? Nếu phận còn nét chưa
rồi, lương tâm chưa đặng yên tịnh thì phải biết cải hóa, ráng sức chuộc lấy lỗi
đã làm thì các con có lo chi chẳng bì bực Chí Thánh..." (TNHT 24.12.1926)
Phép xét mình không phải là điều mới lạ, từ ngàn
xưa các bậc Thánh hiền đã truyền dạy, các Đấng Thiêng Liêng trong Đạo Cao Đài
chỉ nhắc nhở tín đồ, Đức Hộ Pháp gọi đây là phép hồi quang phản chiếu, lấy ánh
sáng tâm linh soi rọi trở lại hành tàng của mình đã thi thố từng ngày, từng
tháng, từng năm và cả kiếp sanh, xem xét chỗ dở chỗ hay để định bước tương lai
cho đúng theo Thánh ý. Nó bao gồm nhiều vấn đề trong cuộc sống nhưng nơi đây
chỉ nhắc đến vài lời tâm nguyện mà thôi.
Trước hết xin đề cập đến lời minh thệ nhập môn.
II - Ý NGHĨA NỘI DUNG LỜI
MINH THỆ NHẬP MÔN
Tên họ ........... thề rằng:
"Từ đây biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế
chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn
đệ, gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì Thiên Tru Địa Lục".
Tất cả tín đồ Cao Đài đều phải qua thủ tục minh thệ
nầy khi nhập môn cầu Đạo. Lời minh thệ phải được phát âm thành tiếng nói rõ
ràng trước sự chứng kiến của Thần linh và giới chức sắc có thẩm quyền về hành
chánh Đạo, thấp nhứt là cấp Chức Việc Bàn Trị Sự.
Đây là một nghi lễ hữu hình có ba tác dụng:
- Về hành chánh Đạo: Để có đủ yếu tố pháp lý cấp
giấy chứng nhận tín đồ gọi là Sớ Cầu Đạo.
- Về tâm lý cá nhân: Để người tân tín đồ biết sợ
hình phạt của Thiêng Liêng mà giữ gìn giới luật của kẻ tu hành.
- Về thần quyền: Để được các Đấng Thiêng Liêng nhìn
nhận là môn đệ của Đức Chí Tôn và do đó sẵn sàng phò hộ cho mình trong cuộc
sống tu hành.
Chúng ta biết rằng mỗi linh hồn đều có quyền tự chủ
của mình, thăng hay đọa là do luật nhân quả tác động một cách vô tư do sở hành
của chính linh hồn ấy gây ra. Vì vậy phải có lời minh thệ là một hình thức cam
kết tự nguyện sống trong giáo pháp Đạo Cao Đài, chấp nhận sự thưởng phạt của
các chơn linh cao trọng đóng vai trò người hướng đạo cho mình trong suốt cuộc
hành trình trở về cùng Thượng Đế thì những chơn linh ấy mới sẵn sàng can thiệp
vào đời sống của mình với mục đích yểm phàm phục thánh.
Điều kiện nầy được xác định qua lời dạy của Đức Chí
Tôn đối với một số môn đệ tại Cần-Giuộc chưa qua thủ tục nhập môn trong thời kỳ
mới khai Đạo.
"Quỉ
Vương đến trước Bạch Ngọc Kinh xin hành xác và thử thách các con, Thầy chẳng
chịu cho hành xác, chúng nó hiệp Tam Thập Lục Động toan hại các con. Nên Thầy
sai Quan Thánh và Quan Âm gìn giữ các con nhưng phần đông chưa lập minh thệ nên
chư Thần Thánh Tiên Phật không muốn nhìn nhận". (TNHT 1. 7. BD)
Ngoài ra cũng về phương diện thần quyền phải có
minh thệ nhập môn thì khi chết Hội Thánh mới tiến hành các thủ tục độ hồn như
tụng kinh hấp hối, thượng sớ tân cố, cầu siêu làm phép xác độ thăng, làm tuần
cửu, tiểu và đại tường cho người giữ đúng luật Đạo.
III -
KHÔNG NHẬP MÔN, TU ĐẶNG CHĂNG
Thế nhưng có những giáo pháp chủ trương không cần
đến tha lực mà chỉ tập trung ý chí của mình để phát triển nội lực, thôi thúc
tiến trình hoàn thiện đến mức độ giải thoát tinh thần mình khỏi mọi hình thức
ràng buộc, nghĩa là giác ngộ.
Trên bình diện ngôn ngữ chúng ta thấy có sự khác
biệt giữa các giáo pháp nầy nhưng trên thực tế, sự chuyển hóa dòng sinh lực nội
thân khi con người có những cố gắng tu học vẫn giống nhau cũng ví như về phương
diện hữu hình hễ thức ăn vào dạ dày chịu luật biến dưỡng, chất bổ dùng nuôi
thân còn cặn bả đào thải ra ngoài, phàm thân con người ai cũng vậy. Trong địa
hạt tâm linh dầu có cầu đến tha lực hay không một khi có ý muốn hoàn thiện phát
khởi trong tâm con người thì thần, khí của mình liền biến đổi trạng thái từ xấu
ra tốt và luật giao cảm tinh thần trong thế giới bán hữu hình cũng thay đổi đối
tượng tương cầu thu hút lại gần sự chú ý của những đơn vị sống không hình xác
là những tầng điển quang thanh trong không gian gọi là Thần Thánh Tiên Phật. Sự
giao cảm làm tăng cường độ rung động điển quang của Chơn Thần và do đó đương
nhiên có thêm sức sống tâm linh cho con người, thần khí con người trở nên tinh
tấn hơn.
Hiện tượng gia tăng nội lực tâm linh nầy gọi là
Phật Trời phò hộ, ban ơn hay do công phu ý chí của mình mà đạo tâm trở nên tinh
tấn cũng chỉ là cách nói, cách nhìn vấn đề tinh luyện bản thân từ những góc độ
nào đó mà thôi. Khi người tín đồ chân thành cầu nguyện sự trợ giúp của Thần
Linh hay chỉ tập trung ý chí muốn hoàn thiện bản thân kết quả của hai phương
pháp nầy vẫn giống nhau ở chỗ là làm cho sức sống tâm linh của mình trở nên
mãnh liệt hơn thì phương pháp cầu nguyện Thần Linh trợ lực cũng là một hình
thức nâng cao ý chí hoàn thiện và ngược lại tập trung ý chí hoàn thiện cũng là
một hình thức thu hút sự trợ lực của Thần Linh qua luật giao cảm tự động.
Ấy là chỗ gặp nhau giữa các giáo pháp hay là lẽ
thuần nhất trong biến đổi là chơn lý đó vậy. Đối với thể xác cũng thế, hễ ăn
thì phải no, no là vì thức ăn đầy dạ dày, chẳng phải vì tiếng nói tôi ăn hay
tôi nuốt. Hễ mình biết và tu hành thật sự thì đương nhiên tinh thần trở nên
tinh tấn, còn tranh luận về giáo pháp chỉ là kiến thức mà thôi. Cũng chẳng khác
nào một người cầm tấm bản đồ trên tay cứ ngồi một chỗ học thuộc lòng từ tọa độ
A -> B nhưng chân không bước đi thì chẳng bao giờ đến đích.
Do đó khi đã chọn một giáo pháp nào cần phải theo đuổi cho đến nơi đến
chốn. Vị Giáo chủ nào cũng chỉ có mục đích là dạy cho con người làm lành lánh
dữ mà thôi, và thủ tục minh thệ nhập môn trong Đạo Cao Đài là một sự ràng buộc
cần thiết để giúp người tín đồ chế ngự phàm tánh cho dễ dàng đi đến đích sau
cùng của đời tu là giải thoát.
QUẢ
CÀN KHÔN
LỜI
KHẤN KHI HẤP HỐI
Vị chứng đàn đứng trước đầu bịnh nhơn kêu tên người
bệnh hấp hối dầu dứt hơi rồi cũng vậy.
"Tôi
vâng lệnh Đức Chí Tôn đến tụng kinh cho linh hồn đạo hữu nhẹ nhàng siêu thăng
tịnh độ, vậy đạo hữu phải tịnh thần mà
nghe và phải cầu nguyện Đức Chí Tôn ban ân lành cho". (Trích Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo)
Trường hợp người bệnh hấp hối là chức sắc thì kêu
thánh danh của người ấy. Đây là thủ tục thần quyền của người cầu kinh, thốt ra
lời nói hay chỉ khấn trong tâm cũng được. Điều quan trọng là tinh thần phải
nghiêm trang, nghĩa là tập trung tư tưởng cao độ để hiện tượng trợ thần xảy ra
có hiệu quả, nghĩa là Chơn Thần bịnh nhân phải nghe và hiểu được lời dặn.
Phải kêu tên bệnh nhân trước để họ chú ý đến lời
nói của mình trường hợp bệnh nhân đã tắt thở. Đây là thuật truyền âm giữa người
sống và Chơn Thần người chết nên phải tuân thủ những qui luật sơ đẳng về thần
quyền để việc cầu kinh hấp hối thật sự là một thiệt dụng của chơn truyền tận độ
của Đức Chí Tôn, khác hẳn với mê tín dị đoan.
Bí quyết trong phép độ hồn nói chung là nguồn năng
lực tinh thần của người cầu rỗi phải tinh tấn nhưng hạng người nầy ở thế gian
hãy còn quá ít trong khi người cần được giúp đỡ lại quá nhiều. Những qui định
của Hội Thánh trong Tân kinh buộc phải thiết lễ cúng Chí Tôn trước, rồi mới cầu
hấp hối nhằm mục đích để các Đấng Thiêng Liêng trợ thần cho người sắp đọc kinh
có thêm sức mạnh tâm linh, giúp đỡ hữu hiệu cho chơn thần người chết định tỉnh
được dễ dàng, trong khi môi trường điển quang chung quanh thường thì rất hỗn
loạn do sự xúc động của thân nhân người chết gây ra là chính, hay do trạng thái
nội tại của chơn thần người chết đầy dẫy những ác nghiệp khiến họ hốt hoảng
luyến tục hay hôn mê trong giờ phút vừa tắt thở. Như vậy người cầu kinh phải
chịu hao thần, nghĩa là mất năng lực sống tâm linh của mình một ít để truyền
năng lực ấy cho vong linh người chết, giúp họ định tỉnh nhẹ nhàng rời khỏi thân
xác.
Do đó càng có đông người tinh thần tốt đến thành
tâm cầu nguyện chơn thần người chết càng hưởng được nhiều ân huệ thiêng liêng.
Vì vậy buộc người chết khi còn sống phải đắc nhân tâm, gọi là đắc thế, để được
nhiều người thương mến mình đến đọc kinh cầu nguyện một cách chân thành, trợ
thần mình khi thoát xác và chúng ta nên nhớ rằng không có quyền lực nào buộc
con tim của chúng sanh phải yêu thương mình khi mình không xứng đáng. Có đông
người tốt tham dự đọc kinh cầu nguyện cũng giống như có nhiều cục pin ghép lại
thì cường độ của dòng điện phát ra càng mạnh, sức truyền thần càng gia tăng,
chơn thần người chết càng hưởng được nhiều sự ân xá của Đức Chí Tôn.
Tóm lại bí quyết trong phép cầu hấp hối là ở đức
độ, sự thành tâm và khả năng tập trung tư tưởng của người cầu rỗi.
Trường hợp ngược lại, nếu vì lý do thế tục nào đó,
chẳng hạn quyền lợi chính trị, thông lệ xã giao, buộc người ta phải đến tham dự
cầu hồn một cách nhiệt tình bề ngoài chẳng thật tâm, thì dù có đông bao nhiêu
đi nữa, việc ấy chỉ có tác dụng tâm lý đối với người sống mà thôi. Phần bí pháp
trong chơn truyền tận độ của Đức Chí Tôn phải có đủ hiệu năng nâng đỡ sự thăng
tiến của linh hồn người chết mới trọn vẹn ý nghĩa.
THUYỀN
BÁT NHÃ DI QUAN VÀO KHÁCH ĐÌNH ĐỂ CẦU SIÊU TRƯỚC KHI AN TÁNG
TANG
LỄ
I - Ý NGHĨA SỰ CHẾT
Người tín đồ Cao Đài quan
niệm rằng tất cả mọi hiện tượng diễn biến, mọi tạo vật đã hình thành
trong vũ trụ trên dòng thời gian vô định đều phát xuất từ một nguồn sống duy
nhất được con người gọi tên bằng nhiều danh hiệu khác nhau với tất cả lòng
thành kính. Nguồn gốc sống ấy đầy khắp trong vũ trụ bao la, sáng suốt tột cùng,
biết sáng tạo ra muôn loài vạn vật trong đó có con người.
Nguồn gốc sống linh
diệu ấy người tín đồ Cao Đài sùng kính qua danh hiệu Đức Chí Tôn, có nghĩa là
Đấng được tôn kính tột cùng trong vũ trụ. Đấng Tạo Hóa ấy sanh ra con người có
hình thể, xương thịt và có linh hồn ngự trị bên trong để điều khiển khối vật chất ấy
theo những qui luật gọi là PHÁP. Pháp là những qui luật vận hành trong vũ trụ:
Pháp vận hành mới có biến đổi tạo ra sự sanh tử của kiếp người trong khoảng
thời gian và không gian hữu hạn.
Chết là hiện tượng linh hồn rời khỏi thân xác vĩnh
viễn để trở về nguồn gốc ban đầu của nó là Đấng Chí Tôn. Khi lập Đạo Cao Đài
Đức Chí Tôn giáng cơ dạy rằng:
"Khi
chưa có chi trong càn khôn thế giới thì khí Hư vô sanh ra có một Thầy và ngôi
của Thầy là Thái Cực".
"Chi
chi hữu sanh cũng do bởi chơn linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là
cha của sự sống, vì vậy mà lòng háo sanh của Thầy không cùng tận".
"Khai
thiên địa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy, Thầy đã nói một chơn thần mà biến
càn khôn thế giới và cả nhơn loại".
Hoặc là:
"Bởi
vậy một chơn thần Thầy mà sanh hóa thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần
và toàn cả nhơn loại trong càn khôn thế giới nên chi các con là Thầy, Thầy là
các con".
Vì vậy người tín đồ Cao Đài quan niệm rằng:
Con người có nguồn gốc từ Thượng Đế là Đấng Chí Tôn
có bản thể và cấu tạo của một tiểu vũ trụ. Chết là lúc:
"Hồn
Trời hóa trở về Thiên cảnh
Xác
đất sanh đến lịnh phục hồi" (Kinh tẩn liệm)
Chết không phải là hết như nhiều người đã lầm
tưởng. Chết là thay đổi trạng thái sống từ hình thức có thân xác đến hình thức
không có thân xác. Hình thức sống nầy tiếp nối hình thức sống kia theo luật
nhân quả, nghĩa là khi còn mang xác phàm nếu con người biết tu hành, làm lành
lánh dữ thì khi chết phần tinh anh cao cấp nhất của con người gọi là linh hồn
sẽ tiếp tục sống trong trạng thái tốt gọi là Thần Thánh và ngược lại nếu con
người làm điều ác, hung dữ thì khi chết linh hồn sẽ sống trong trạng thái xấu
gọi là ma quỷ.
II - THỜ CÚNG TỔ TIÊN
Tục thờ cúng tổ tiên của con người là một biểu lộ
của lòng tưởng nhớ đến cội nguồn. Cội nguồn của con người gồm hai phần, phần
gần gũi thấy được trong kiếp sống là cha mẹ, ông bà đã sinh ra thân xác mình,
phần xa xôi phải suy luận mới thấy được là Thượng Đế, ông cha chung của muôn
loài vạn vật trong càn khôn vũ trụ này. Sau khi chết, phần xác của con người hư
hoại, phần hồn vẫn tồn tại. Thờ cúng tổ tiên là để tỏ lòng biết ơn đối với linh
hồn người quá cố, nó mang ý nghĩa một sự đền đáp lại món nợ mà mình đã vay của
tiền nhân trên cả hai phương diện vật chất và tinh thần. Vì vậy trong Cao Đài
giáo, cái chết và đời sống của linh hồn con người sau khi chết có một ý nghĩa
hết sức quan trọng và còn liên quan mật thiết đối với những thế hệ con cháu bởi
sự ràng buộc của luật nhơn quả. Đức Chí Tôn dạy rằng:
"Các
con là Thầy, Thầy là các con".
Cùng một ý nghĩa đó có thể nói rằng:
"Con cháu là ông bà cha mẹ,
ông bà cha mẹ là con cháu".
Sự sống phần hồn của ông bà cha mẹ tốt hay xấu có thể điều chỉnh lại được
phần nào bằng việc làm của con cháu. Con cháu biết tu hành, làm điều lành sẽ
ảnh hưởng tốt đối với đời sống phần hồn của ông bà cha mẹ nơi cõi thiêng liêng. Đó là ý nghĩa của câu kinh:
"Thong dong cõi thọ nương hồn
Chờ
con lập đức giúp huờn ngôi xưa"
Câu kinh ấy là một lời dặn dò, an ủi hứa hẹn của
con cháu đối với vong linh người vừa mới chết được long trọng đọc lên trước
linh cửu, trước sự chứng kiến của Thần linh và người sống tham dự tang lễ.
Tuy nhiên đó là cái thể pháp của Đạo, phần bí pháp
là sự sống thực của tinh thần con cháu, có lập đức được hay không sau khi tang
lễ ấy chấm dứt lại là một vấn đề khác. Một vấn đề đòi hỏi rất nhiều công đức
của các thế hệ con cháu tiếp nối và sự hiểu biết sâu xa rành mạch về chơn
truyền tận độ của Đức Chí Tôn, không thể nhằm lẫn với mê tín dị đoan được.
Chúng ta đã chứng kiến qua nhiều đám xác có biết
bao đứa con đầu chít khăn tang sụt sùi ngấn lệ, tiếng khóc uất nghẹn trong khi
tiếng cầu kinh của đồng nhi vang vang.
"Chờ con lập đức giúp huờn ngôi xưa" để
rồi sau khi vùi xong nắm xương tàn của người quá cố vào lòng đất lạnh, họ lại
tiếp tục say đuổi theo mục đích giàu sang danh vọng, chẳng còn nghĩ gì đến việc
lập đức cả. Người chết có khả năng biết được tư tưởng của người sống một cách
dễ dàng và trong trường hợp đó vong hồn của ông bà cha mẹ vừa mới mất sẽ vô
cùng đau khổ về sự hững hờ của con cháu đối với mình. Điều họ cần hơn hết là
khí thanh và thần an là năng lực sống của người biết tu hành, có đức độ và con
cháu họ đã không đáp ứng được nhu cầu nầy.
III - NGHI THỨC TANG LỄ
Bởi quan niệm rằng con người có xác và hồn, khi
chết xác hư hoại nhưng hồn vẫn tồn tại nên các nghi thức áp dụng trong tang lễ
của người tín đồ Cao Đài đặt trên căn bản một cuộc tiễn đưa linh hồn người quá
cố đi qua một thế giới mới khác hơn cuộc sống trần tục của chúng ta.
Nội dung các bài kinh đọc trong suốt các diễn tiến
của đám tang đều có cùng ý nghĩa là tỏ lòng thương tiếc, biết ơn đối với người
đã chết, dặn dò vong linh đừng luyến tục, luôn luôn hướng về nguồn cội của linh
hồn là Thượng Đế để được thăng lên cõi giới an nhàn cực lạc. Những người thân
trong gia đình và bạn bè của người chết tập trung cầu nguyện cho linh hồn người
chết được nhẹ nhàng siêu thoát qua lời kinh cầu siêu. Đó là một phương pháp
truyền năng lực sống tâm linh (gọi tắt là truyền thần) cho vong linh vừa rời
khỏi thân xác cho họ thêm sức sống trong cõi giới mới nầy, chẳng khác nào chúng
ta tặng quà cho người đi xa vậy. Các bài kinh ấy gồm có:
- Kinh cầu hồn khi hấp hối và chết rồi.
- Kinh tẩn liệm.
- Kinh cúng tế của người thân trong gia đình (vợ tế
chồng, chồng tế vợ, con tế cha mẹ, em tế anh).
- Kinh cầu tổ phụ đã qui liễu.
- Kinh cúng tế của thân bằng quyến thuộc. Đặc biệt
đối với người làm nghề dạy học, các học trò cũ sẽ đọc bài kinh tế Thầy, ca ngợi
công ơn của vị Thầy đã dạy dỗ mình nên danh phận với đời.
- Kinh cầu siêu.
- Kinh đưa linh cửu đến nơi an táng.
- Kinh hạ huyệt.
Việc đọc kinh trong tang lễ của người tín đồ Cao
Đài hoàn toàn tự nguyện, do đồng nhi thực hiện, người tham dự có thể cùng đọc
theo hay lắng nghe hòa tâm ý của mình vào lời kinh cũng được.
IV - PHÉP ĐỘ THĂNG
Trong các nghi thức tang lễ của người tín đồ Cao
Đài, phép độ thăng là phần sinh hoạt cao cấp nhất thuộc lãnh vực huyền linh và
rất khó thực hiện. Trước nhất nó đòi hỏi người chết phải có một đời sống tu
hành tối thiểu là giữ được giới luật 10 ngày chay mỗi tháng một cách nghiêm
chỉnh và thứ đến phải có chức sắc được thọ truyền bí pháp độ thăng có đủ quyền
năng linh hiển mới thực hiện được. Vị chức sắc hành pháp phải truyền vào vong
linh người chết một làn khí thanh và thần lực đầy an tĩnh, thoát tục, lấy từ
năng lực tinh thần của chính mình và số người tham dự cầu siêu có thành tâm và
có đời sống tu hành tương đối tốt. Trong phút chốc vong linh người chết cảm
thấy mình được nhẹ nhàng thanh thoát và sáng suốt hơn trạng thái sống trước đó.
Đây là sự thay đổi trạng thái tâm linh của chơn thần người chết nhờ vào tha
lực. Dĩ nhiên phải có Thần linh giáng ngự trên chơn thần và thể phách của vị
chức sắc hành pháp để hỗ trợ cho động tác độ thăng được linh hiển. Người hành
pháp phải có đủ công đức mới diêu động nổi khối điển quang của Thần linh và
khối người cầu siêu giúp đỡ hữu hiệu cho vong linh.
Phương pháp nầy chỉ là sự giúp đỡ một phần nào cho
vong linh người chết được nhẹ nhàng siêu thoát, chớ tự nó không phải là một
phép mầu xóa bỏ được tất cả mọi tội tình oan nghiệt trong kiếp sanh của kẻ ấy.
Hành trang mà chơn thần người chết mang theo là nghiệp quả của kiếp sống họ đã
nghĩ và hành động theo hướng nào hoặc thiện hoặc ác, giờ đây họ phải gánh chịu,
không thể chối bỏ được.
Thăng hay đọa là kết quả của cả kiếp người, làm
phép xác, cắt dây oan nghiệt, độ thăng là giúp thêm sức cho chơn thần dễ dàng
thăng tiến cũng ví như một khách lữ hành đi tới ngã ba đường đang khát nước,
được giúp một bát nước cho mát dạ, còn sự đói no ấm lạnh của họ trong suốt cuộc
hành trình là do túi hành trang, lương thực mà họ mang theo đầy hay vơi.
V - TUẦN CỬU CÚNG GIỖ
Thể thức độ phần hồn cho các vong linh được tiếp
nối trong vòng 581 ngày sau khi chết tuần tự diễn biến như sau:
Cứ cách 9 ngày một lần gia đình thân nhân người
chết mang linh vị đến Thánh Thất để tụng kinh tiếp tục cầu nguyện cho vong linh
được nhẹ nhàng siêu thoát từ tuần cửu thứ nhất đến tuần thứ chín kéo dài trong
81 ngày. Sau đó ngưng lại trong 200 ngày đến tiểu tường và sau tiểu tường 300
ngày là đại tường.
Các bài kinh đọc trong 9 tuần cửu, tiểu và đại
tường đều khác nhau, nội dung mô tả sự thăng tiến của linh hồn đến các cõi giới
ngày càng thanh cao hơn. Việc đọc kinh hàm ý nhắc nhở linh hồn người chết biết
mình sắp được hưởng ân huệ gì trên con đường trở về cựu vị. Dĩ nhiên ân huệ ấy
được mô tả theo ngôn ngữ trần gian. Còn cảnh giới tâm linh, trạng thái sống
không hình xác có nhiều điều khác với trí người tưởng tượng.
Cách thức cúng tế, đọc kinh tuần cửu, tiểu và đại
tường có chỉ dẫn rõ ràng trong quyển kinh Thiên Đạo và Thế Đạo do Hội Thánh Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh phổ biến. Sau lễ đại tường chấm dứt thời
gian thọ tang của con cháu đối với người chết. Thông thường lễ đại tường được
tổ chức trọng thể hơn tiểu tường và các tuần cửu. Từ đó trở đi gia đình tổ chức
cúng giỗ hàng năm vào ngày chết để kỷ niệm.
Ý nghĩa việc cúng tế vong linh người chết có hai
vấn đề rõ rệt:
- Phần hữu hình là để con cháu bày tỏ lòng biết ơn
kính trọng đối với tiền nhân và cầu xin cho linh hồn được siêu thoát.
- Phần vô hình là để thực hiện chơn truyền tận độ
của Đức Chí Tôn. Bí quyết trong việc độ hồn là nguồn năng lực sống tinh thần
của người cầu rỗi phải tinh tấn. Quyền lực của các Đấng thiêng liêng cao cả sẽ
giúp di chuyển tính chất tinh tấn này truyền đến các vong linh nặng nề ô trược,
chẳng những giúp di chuyển mà các Ngài còn cho thêm trong đó để làm giảm bớt
tính nặng nề ô trược kia.
Vì vậy luật công bình thiêng liêng đòi hỏi ở con
cháu người chết phải biết tu thân lập đức để phần khí và thần trong nội thân họ
trở nên thanh cao, thánh thiện và nhờ đó qua lời cầu nguyện, tính thanh cao thánh
thiện ấy được truyền đến người chết đặng bù đắp vào chỗ khiếm khuyết của vong
linh.
Nói cho dễ hiểu hơn, buổi sống chẳng may ông bà cha
mẹ thiếu tu, kém đức nên vong linh còn nặng nề luyến tục thì nay con cháu phải
tu thân lập đức đặng lấy công đức của mình mà dâng hiến, bù vào cho ông bà cha
mẹ. Nếu không chịu lập đức nghĩa là bản thân con cháu còn thiếu đức thì lấy đức
nơi đâu mà dâng hiến? Còn sự cầu nguyện lời kinh tiếng kệ chẳng qua là phương
pháp gởi đi, truyền chuyển công đức mà thôi, cũng ví như sợi dây nối giữa người
sống và người chết. Lấy chuyện nhỏ thế gian mà ví, muốn cho ai tiền mình phải
có tiền mới cho được, không có tiền lấy gì mà cho, dầu muốn cũng không được.
Tóm lại, con cháu phải lập đức mới có đức để giúp
ông bà cha mẹ "huờn ngôi xưa"
được.
Chơn thần người chết cần có được tình trạng
"Khí
trong trẻo dường như băng tuyết
Thần
im đìm dường nét thiều quang
Xa
chừng thế giái địa hoàn
Cõi
thiên đẹp thấy nhẹ nhàng cao thăng" (Kinh đệ nhị cửu)
Và hẳn nhiên, mâm cao cổ đầy, rượu ngon, bánh lạ,
hoa quả hương thơm chất đầy trên bàn thờ chỉ là chuyện của trần gian do chút
lòng tưởng nhớ, hiếu hạnh mà bày bố ra thôi!
KẾT
LUẬN
Vài sinh hoạt mô tả như trên đây không đủ để nói
lên hết ý nghĩa của đời sống một tín đồ Cao Đài. Tuy nhiên nó cũng giúp cho độc
giả nhất là các bạn đạo mới bước chân vào ngưỡng cửa tôn giáo hiểu được phần
nào nhân sinh quan Cao Đài giáo.
Dù mang sắc thái nào, vai trò của tôn giáo thế gian
vẫn mưu cầu một đời sống công bằng, ấm no, hạnh phúc, thanh bình cho mọi người.
Khát vọng sâu xa ấy thể hiện rõ rệt nhất trong những sinh hoạt thường nhật của
người tín đồ. Thoạt tiên là những lời cầu nguyện chân thành thường xuyên dâng
lên Đức Chí Tôn mỗi khi cúng tế tại Đền Thánh, Thánh Thất hay tư gia. Rồi đến
những hành động cụ thể hơn từ việc giáo dục đời sống hôn nhơn cho thanh niên
nam nữ, huấn luyện trẻ con, cho đến việc hướng dẫn người lớn sống với nghĩa
nhân, nuôi dưỡng tinh thần dân tộc, bảo vệ giống nòi, phát triển tình giao hảo
quốc tế trên căn bản đại đồng huynh đệ, lấy tình thương thay cho thù hận, nhìn
nhau là anh em ruột thịt cùng một gốc sinh ra. Nguồn gốc ấy phải thật linh
thiêng, quyền phép đáng kính, đáng trọng, đáng tôn sùng hơn hết mọi sự nên gọi
là "CHÍ TÔN".
Và một khi đã đặt mình trong mối tương giao Trời
Người hiệp nhất thì đời sống con người trở nên phong phú, sinh động vô cùng.
Tâm trạng chán nản, bơ vơ, lạc lõng của người luôn thấy cuộc đời vô nghĩa là
dấu hiệu nghèo nàn của những tâm hồn đã quên mất cõi nguồn thiêng liêng ấy nên
mới chuyên chú xây dựng một thứ hạnh phúc trên bụi trần làm đảo điên thiên hạ.
Ước gì mọi người đều rõ biết mọi lẽ ẩn vi trong các
sinh hoạt thường nhật của đạo giáo, năng thuyết năng hành thì đạo giáo sẽ là vị
thuốc thần hiệu chữa bịnh cho loài người vậy./.
XIN
CHÂN THÀNH TRI ÂN
Ngài Bảo Đạo Hồ Tấn Khoa và Quý vị chức sắc trong
Ban Kiểm duyệt kinh sách Tòa Thánh Tây Ninh đã giúp chúng tôi nhiều ý kiến xây
dựng, bổ khuyết những chỗ thiếu sót.
Hiền Huynh Lễ Sanh Ngọc Hồng Thanh và bạn Nguyễn
Thành Luông đã soạn thay chúng tôi chương nói về việc thờ cúng.
Đa Tạ
Nguyễn
Long Thành
Ngài Bảo Đạo H.T.Đ
Trưởng Ban Kiểm Duyệt Kinh
Sách
cho phép số 91/BKD.TT.
Ngày 9 tháng 5 Giáp Dần
(28-06-1974)
CÙNG MỘT TÁC GIẢ
Đã phổ biến:
-The path of a CaoDai
disiple – Ban Thế Đạo 1970
- Con Đường của người
đệ tử Cao Đài Ban Thế Đạo 1971 ( lần I ) – 1972 ( lần II )
- 24 Giờ Đạo – Ban Thế
Đạo 1971
- Thánh Ngôn Yếu Lược – Khảo Cứu Vụ
1973
- Danh Hiệu và Tiêu Chuẩn Lập Pháp. Đại Đạo Tam Kỳ
Phổ Độ – Khảo Cứu Vụ 1974
- Đời Sống của người tín đồ Cao Đài – 1974
- Thánh Ngôn tuyển tập – 1974
- Đời Người – 1974
- Luận Đạo Sưu Tập
- Đường vào cõi tục
- Nhìn lại 50 năm lịch sử Đạo Cao Đài
- Tu Chơn
- Bí Pháp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét