TỰA:
" Tôi nhớ một
phen kẻ nghịch Đạo để lời gièm pha biếm nhẽ rằng văn từ của Thầy xem rất thường
tình. Tôi chấp bút phân phiền cùng Thầy, Thầy dạy rằng: Con ôi! Trong anh em
của con phần dốt nhiều hơn hay chữ, đứa ám muội đông hơn đứa thông minh. Thầy
đến chăm nom dạy dỗ đứa ngu dốt hơn là đứa hay giỏi, thà là đứa sáng khôn quá
hiểu mà chê Thầy hơn đứa dốt nghe Đạo Thầy mà không rõ lý…”
Trên đây là lời của Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc nói
cùng chư đạo hữu về cách dụng ngôn từ để dạy Đạo của Đức Chí Tôn. Trong nửa thế
kỷ đã trôi qua kể từ ngày lập giáo, xem lại số kinh điển trong Cao Đài vẫn còn
quá ít, bậc chơn tu giác tánh văn tài lỗi lạc cũng chẳng được bao nhiêu hầu có
đủ tay chung sức lập ngôn thuyết giáo cho chúng sanh nhờ hưởng.
Nhìn lại cách lập pháp của Đức Chí Tôn giao cho Cửu
Trùng Đài cầm số mạng nhơn sanh và phân quyền cho Vạn Linh đối cùng Chí Linh,
ta mới thấy lòng từ bi của Thầy thật nên quá lẽ.
Cái lý nhiệm mầu “Bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa”
thì trời đất kia vẫn xoay chuyển không ngừng, còn thân phàm thể ta đây, biết
ăn, biết nói, thì cảnh nào việc ấy mới hợp với cơ thiên. Ấy vậy ngôn từ của con
người ta là để nói Đạo cho chơn thần giục tấn, xác thân là hành động giúp đỡ Vạn
Linh tìm đến Chí Linh.
Phép lập ngôn của người theo Đạo Cao Đài thật không
mấy khó mà cũng chẳng phải dễ. Đạo thì bao la vô cùng tậïn, tế vi nhiệm mầu,
còn ngôn ngữ thì giới hạn, ý nghĩa lại hàm hồ. Đức Chí Tôn lại dặn phải lấy lời
bình dị mà đem lý Đạo nhiệm mầu vào tâm não đám anh em kém hiểu. Ôi! Chẳng khác
nào kẻ nghèo phải lãnh nợ.
Tuy vậy, Thầy vẫn hằng bố hóa, trót bốn mươi chín
năm dư, biết bao kẻ nghèo nàn ngu dốt mà vẫn được làm môn đệ yêu dấu của Thầy.
Lời lẽ tuy tầm thường, tấm thân rách rưới, nhưng nơi họ tôi thấy có hình ảnh
của Chí Tôn.
Nay vẫn noi theo con đường cũ, kẻ hèn này xin góp
nhặt đôi lời chuyện vãn cùng chư đạo hữu về những điều thường nhật trong đời
sống của người tín đồ Cao Đài. Cầu xin những bậc cao minh chỉ giáo những chỗ sai
lầm và các bậc từ tâm thi ơn ấn tống.
Tòa Thánh Tây Ninh
Ngày 10 tháng 4 năm Giáp
Dần
(DL: 01-5-1974)
LƯỢC SỬ ĐẠO CAO ĐÀI
I - LỊCH SỬ LẬP GIÁO
Đạo Cao Đài là một tôn giáo lớn phát xuất tại Việt
Nam từ năm 1926, còn có danh gọi là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
1/ Quan phủ Ngô Văn Chiêu là một người có khuynh
hướng tu Tiên, thường hay lập Đàn cầu cơ thỉnh Tiên về học Đạo và xin thuốc trị
bệnh, ông có gặp được Đức Cao Đài và có thờ Ngài. Đức Cao Đài có hiện hình
Thiên Nhãn (con mắt) làm một huyền diệu cho ông đủ tin tưởng và lấy đó làm biểu
tượng thờ phượng. Sự việc này đã xảy ra tại đảo Phú Quốc trong khi ông đang làm
quan cho chính quyền Pháp vào năm 1921. Quan phủ Ngô Văn Chiêu là đệ tử đầu
tiên của Đức Cao Đài, sau có thêm một số đệ tử nữa cùng tu hành với ông, nhưng
những hoạt động của những vị này chưa phát triển thành một tôn giáo.
2/ Từ năm 1924-1925, phong trào xây bàn cầu cơ chấp
bút lan rộng và phổ thông hơn trước. Tại Sài Gòn, một số người Việt Nam làm
công chức cho Pháp, thường tụ họp nhau lại xây bàn thỉnh vong linh người quá cố
về họa thi để tiêu khiển, và hỏi thăm về thế giới vô hình cùng tương lai vận
mạng của chính mình và dân tộc
Trong số các chơn linh giáng hạ có một chơn linh
đến với một điển lực mạnh phi thường, không chịu xưng danh mà chỉ xưng là ông
A,Ă,Â. Mãi đến đêm Noel 1925 ông A,Ă, mới cho biết chính là Ngài Đức Chí Tôn,
là Ngọc Hoàng Thượng Đế, Ngài đến để lập Đạo Cao Đài. Ngài xưng danh như sau:
"
Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát Giáo Đạo Nam
Phương".
Từ đó Đức Chí Tôn thường giáng dạy về đạo lý, chỉ
biểu cách thành lập Hội Thánh, phong tước phẩm cho những chức sắc buổi ban sơ
cùng thâu nhận đệ tử. Các ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Lê
Văn Trung... và một số bạn bè trong nhóm trở thành chức sắc lớn trong Hội
Thánh. Quan trọng hơn hết là vai trò của Hộï Pháp Phạm Công Tắc giữ phân nửa
quyền hành trong Đạo.
Đến ngày 01-9 Bính Dần (07-10-1926) 28 người đại
diện ký tên vào Tuyên Ngôn Khai Đạo gởi lên nhà cầm quyền Pháp. Kể từ đây Cao
Đài đã trở thành một tôn giáo về mặt pháp lý tại thế gian.
Tóm lại, lịch sử lập giáo Đạo Cao Đài (Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ) có những thời điểm chính như sau:
+ Từ năm 1921 Quan phủ Ngô Văn Chiêu đã biết thờ
Đức Cao Đài.
+ 1925 Đức Cao Đài xưng danh là Ngocï Hoàng Thượng
Đế và tuyên bố Giáo Đạo Nam Phương.
+ Đạo Cao Đài thành hình một tôn giáo, bành trướng
mạnh mẽ từ 1926 trở đi, trung ương đặt tại Tây Ninh.
II -
TỔ CHỨC CAO ĐÀI
1 /- Phân quyền
Cao Đài giáo quan niệm rằng trong cơ trị thế có hai
quyền hành là Thiên Thượng và Thiên Hạ.
- Quyền Chí Linh là quyền hành của Đức Chí Tôn và
các Đấng trọn lành tức là Thiên Thượng.
- Quyền Vạn Linh là quyền của ba hội: Hội Nhơn
Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội hiệp lại thể cho Thiên Hạ.
Bởi Đạo Cao Đài là dân chủ nên quyền Chí Linh (tức
Thiên Thượng) cho Vạn Linh (tức Thiên Hạ) rộng quyền tự lập luật mà tu hành.
2 / Tổ chức
Về tổ chức có ba đài: một vô hình, hai hữu hình.
* Bát Quái Đài
Thuộc về vô hình, do Đức Chí Tôn và các Đấng trọn
lành điều khiển, vận dụng năng lực thần bí trong vũ trụ để thúc đẩy cơ sanh hóa
và giục tấn các đẳng chơn hồn.
* Hiệp
Thiên Đài
Là cơ quan bán hữu hình, vì nơi đây có chức sắc hữu
hình làm việc, được thông công với Bát Quái Đài để nhận lệnh hay lời chỉ giáo
của quyền Chí Linh.
Đứng đầu Hiệp Thiên Đài là Hộ Pháp. Hiệp Thiên Đài
có nhiệm vụ bảo thủ chơn truyền luật pháp của Đạo.
* Cửu
Trùng Đài
Là cơ quan hữu hình, có nhiệm vụ tổ chức đời sống
của tín đồ cho phù hợp với chơn pháp Tam Kỳ Phổ Độ, cầm quyền hành chánh, thi
hành luật pháp Đạo, truyền bá đức tin.
Đứng đầu Cửu Trùng Đài là Giáo Tông.
Giáo Tông là Anh cả của mọi tín đồ. Về mặt hữu
hình, Hộ Pháp là em của Giáo Tông, nhưng về phần Thiêng Liêng thì đồng vị. Toàn
thể chức sắc làm việc trong hệ thống Cửu Trùng Đài hiệp lại thành Hội Thánh Cửu
Trùng Đài, có cả nam phái và nữ phái quyền hành phân biệt.
Toàn thể chức sắc làm việc trong hệ thống Hiệp
Thiên Đài hiệp lại thành Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.
* Hội
Thánh Phước Thiện
Nằm bên Hiệp Thiên Đài và đặt dưới sự lãnh đạo tối
cao của vị Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài là Đức Hộ Pháp.
Đức Thượng Phẩm - Đức Hộ
Pháp - Đức Thượng Sanh
ĐẠI NGỌC CƠ
* TỔ
CHỨC HỘI THÁNH CỬU TRÙNG ĐÀI
Trung ương đặt tại Tòa Thánh Tây Ninh, địa phương
gồm các tỉnh ở miền Trung và Nam phần Việt Nam, một số tỉnh ở miền Bắc. Ở ngoại
quốc cũng có vài nước có cơ sở Đạo Cao Đài như: Pháp, Nhật, Cam Bốt, Congo...
* Tại Trung ương có 9 viện, gọi theo chữ Hán là Cửu
Viện chia đều cho 3 phái:
* Phái Thái
điều khiển:
- Hộ Viện coi về tài chánh.
- Lương Viện coi về lương thực.
- Công Viện coi về đường sá, dinh thự.
* Phái Thượng điều khiển:
- Học Viện coi về giáo dục.
- Y Viện coi về y tế.
- Nông viện coi về canh nông
* Phái Ngọc điều khiển:
- Hòa viện coi về an ninh, hoà giải.
- Lại viện coi về hành chánh đạo.
- Lễ viện coi về tế tự, nghi lễ.
* Tại địa phương có:
- Trấn Đạo gồm nhiều Châu Đạo (Tỉnh Đạo)
- Châu Đạo gồm nhiều Tộc Đạo (Quận Đạo)
- Tộc Đạo gồm nhiều Hương Đạo (Xã, Làng Đạo)
- Hương Đạo gồm nhiều Ấp Đạo.
(Tại Châu Thành Thánh Địa, Phận Đạo tương đương với
Tộc Đạo).
Đơn vị hành chánh là Hương Đạo, có công cử Bàn Trị
sự điều khiển tất cả mọi việc trong Hương Đạo. Những chức vụ trong tổ chức Bàn
Trị Sự gồm có:
- Chánh Trị Sự nắm quyền hành chánh và luật lệ
trong Hương Đạo.
- Phó Trị Sự nắm quyền hành chánh trong Ấp Đạo.
- Thông Sự nắm quyền luật lệ trong Ấp Đạo.
- Và một số Biện Đạo, Tuần Đạo, Thư Tín...
Theo
luật Đạo, tín đồ liên lạc thường xuyên nhất với các chức việc Bàn Trị Sự trong
các dịp quan, hôn, tang, tế. Bàn Trị Sự là cơ quan có thẩm quyền xét định và
cấp giấy chứng nhận về hạnh kiểm, đức tính của tín đồ. Giấy này rất quan trọng
mọi hồ sơ về tôn giáo. Chức việc Bàn Trị Sự có quyền phân xử những vụ tranh
chấp giữa các tín đồ với nhau, thường thường dưới hình thức hòa giải, nếu không
sẽ đề trình thượng cấp xét định.
III
- TÔN CHỈ - MỤC ĐÍCH
Đức Chí Tôn lập Đạo Cao Đài để dạy cho con người
làm lành lánh dữ, lập công bồi đức, để trở thành người hiền, người tốt tại thế
gian, khi chết chơn linh được trở về ngôi vị cũ trong cõi thiêng liêng hằng
sống, tùy theo công đức ít nhiều mà đạt đến địa vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Còn
đối với xã hội, Ngài muốn cho nhơn loại có tư tưởng đại đồng, biết thương yêu
nhau, coi nhau như anh em một nhà, thờ một ông Cha chung.
Ngài xác định tất cả các Đạo giáo, các giáo thuyết
đã có từ trước đến nay đều do chính Thiên ý Ngài đã lập ra. Sở dĩ có sự khác
biệt giữa các đạo giáo là vì phong tục, tập quán, trình độ dân trí của các dân
tộc khác nhau, tùy theo thời kỳ và tùy theo từng vùng đất trên địa cầu.
Nay chính mình Đức Chí Tôn đến, ngài gom góp những
cái hay của tất cả Đạo giáo, chỉ dạy thêm những điều mới lạ mà lập thành Tam Kỳ
Phổ Độ nên gọi là Quy Nguyên Tam Giáo (Nho Giáo, Phật Giáo, Lão Giáo), Phục
Nhứt Ngũ Chi (Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo).
Tượng Đức Phật Mẫu &
Cửu Vị Nữ Phật
ĐỨC QUYỀN GIÁO TÔNG THƯỢNG
TRUNG NHỰT
NHẬP
MÔN
I - NGHI LỄ NHẬP MÔN
Bước đầu tiên để một người thường trở thành tín đồ
Cao Đài là phải nhập môn cầu Đạo. Đây là một nghi lễ hữu hình nhưng nó có giá
trị về mặt tâm linh và Hội Thánh, cũng như hầu hết các tôn giáo đều làm.
Người nhập môn phải quỳ trước Thiên Bàn và nói lên
lời minh thệ của mình đại ý như sau:
“Tôi
tên là…tuổi, thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế chẳng đổi dạ thay
lòng, hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì Thiên
tru, Địa lục”.
Người chứng lễ là một vị Chức Sắc đương quyền hành
chánh ở cấp nào cũng được. Tại các địa phương hẻo lánh, không có Chức Sắc hành
Đạo thì vị Chánh Trị Sự cũng được phép chứng lễ nhập môn.
II - SỚ CẦU ĐẠO
Sau nghi lễ, người xin nhập môn đã chính thức trở
thành tín đồ Cao Đài và được cấp một giấy chứng nhận sọi là “Sớ Cầu Đạo Tạm”.
Sau sáu tháng tập sự làm quen với các sinh hoạt tôn giáo như cúng lạy, ăn chay...
nếu chứng tỏ được tinh thần hướng thiện của mình, người tân tín đồ sẽ được cấp
“Sớ Cầu Đạo Thiệt Thọ” thay cho Sớ Cầu Đạo Tạm.
Sớ Cầu Đạo Thiệt Thọ này sẽ dùng trong suốt cuộc
đời mình, khi chết sẽ được đốt đi, ý nghĩa là để gởi theo cho linh hồn người
chết sử dụng.
Trên Sớ Cầu Đạo có ghi tên hai người tiến dẫn mình
tức là người đã giới thiệu, hướng dẫn mình đi vào cửa Đạo. Hai người tiến dẫn
có trách nhiệm suốt đời đối với người mới nhập môn.
Sau này nếu người tín đồ lập được công đức lớn,
người tiến dẫn cũng chung hưởng được một
phần công nghiệp, còn nếu làm điều đại tội trong cửa Đạo, người tiến dẫn cũng
phải chịu một phần trách nhiệm.
Tuy luật lệ hữu hình này không ràng buộc nghiêm
khắc như vậy, nhưng về mặt tâm linh quả thật có như vậy. Cho nên khi đã kết
nghĩa làm bạn Đạo với nhau, phải biết giữ gìn cho nhau khỏi bị sa ngã, đối xử
với nhau bằng sự thành thật tín nhiệm và hòa hiệp, là những điều căn bản y như
lời kinh đã dạy:
"
Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp…"
III - TẠI SAO PHẢI NHẬP MÔN
* Làm lễ nhập môn có ích lợi gì?
* Tại sao phải minh thệ?
Về mặt hữu hình, trước nhất nó có ý nghĩa của một
lời tuyên thệ công khai rằng người tín đồ bằng lòng đặt mình trong kỷ luật của
Hội Thánh. Hành động này hoàn toàn tự do, có ý thức, không ai bắt buộc mình cả.
Rồi vì tự mình khép khuôn trong kỷ luật ấy, vì danh dự của tập thể, vì sự tôn
trọng lời hứa mà các bạn đạo, chức việc, chức sắc bề trên mới có thể và có
quyền can thiệp vào đời sống tư riêng của mình buộc phải sửa đương cho nên
hiền, nên Thánh. Thoảng như mình không gia nhập vào Đạo Cao Đài thì những người
kia chỉ là xa lạ, đâu ai có quyền can dự vào đời sống của mình, ngăn cản,
khuyên bảo việc dữ, điều lành. Vả lại chung sống với nhau trong đoàn thể, anh
ngã em nâng, đâu đâu cũng có bạn hữu là một điều lợi trước mắt về cả tinh thần
lẫn vật chất.
Còn về phương diện vô hình, khi người tín đồ lập
thệ rồi thì sẽ được Thần linh theo phù hộ, nếu họ thật tâm cải tà quy chánh.
Đây là điểm hệ trọng, con người có thể dối gạt được người phàm nhưng không thể
nào dối gạt được Thần linh. Thần linh đến phù hộ chúng ta bằng sự giao cảm, nếu
không thiệt tâm tu hành, dầu đã nhập môn cũng chẳng thấy một ân huệ nào cả. Vả
lại nếu không dám hứa nhập môn theo Đạo trước mặt Thần linh thì Thần linh không
nhận mình làm đệ tử. Ấy là lẽ đương nhiên.
Lúc mới khai Đạo tại Cần Giuộc, có một Đàn cơ Đức
Chí Tôn giảng dạy như sau:
"
Quỉ vương đến trước Bạch Ngọc Kinh xin hành xác và thử thách các con, Thầy
chẳng cho hành xác, chúng nó hiệp Tam Thập Lục Động toan hại các con, nên Thầy
sai Quan Thánh và Quan Âm đến giữ gìn các con. Nhưng phần đông chưa lập minh
thệ nên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật không muốn nhìn nhận" (TNHT.QI. 1969.Tr.37)
IV - GIẢI OAN TẮM THÁNH
Còn một điều ích lợi nữa về mặt thần quyền, là sau
khi lập thệ rồi, nếu may duyên gặp được vị Chức sắc có thọ truyền bửu pháp sẽ
được làm phép giải oan để rửa sạch tội tình oan nghiệt đã gây ra từ trước. Tâm thần của người tín đồ sẽ cảm thấy
nhẹ nhàng hơn trước. Bí pháp này nhằm đem đến cho thể xác ân điển thiêng liêng
thanh khiết, xua đuổi tà khí ra khỏi xác thân. Đức Chí Tôn có dạy:
"
Chơn thần của các con gặp tà khí thì khó chịu nên Thầy xuống điển nhiều đặng
ngăn tà mị, một đôi khi phải nhập xác vì điển xuống nhiều. Cũng một lẽ ấy mà
mỗi lần lập thệ đều có nhập xác".
Đối với trẻ sơ sinh, cha mẹ có bổn phận phải đem nó
đến Thánh Thất hay Đền Thánh để làm phép Tắm Thánh. Điều thứ 12 chương Thế Luật
của Bộ Tân Luật ĐĐTKPĐ ghi rõ:
"
Đứa con nít khi được một tháng sắp lên phải đem đến Thánh Thất sở tại mà xin
làm lễ Tắm Thánh và ghi vào Bộ Sanh của bổn đạo".
Sau nghi lễ này, đứa trẻ được gọi là tín đồ về mặt
pháp lý. Nó được cấp giấy chứng nhận được gọi là “Giấy Tắm Thánh”. Cha mẹ phải
có bổn phận gìn giữ giấy này cho đến khi nó trưởng thành. Theo luật lệ hiện
hành của Hội Thánh, đến năm 18 tuổi, đứa trẻ được coi là trưởng thành. Nó phải
làm lễ nhập môn minh thệ và đem giấy Tắm Thánh đổi lấy Sớ Cầu Đạo Thiệt Thọ.
Hội Thánh sẽ ghi tên nó vào Bộ Đạo chính thức từ đây.
Sở dĩ có sự ràng buộc này là vì khi còn bé thơ, cha
mẹ đem nó đi Tắm Thánh, nó chưa có ý thức gì về hành động này cả. Việc làm hoàn
toàn do cha mẹ nó hoàn toàn định đoạt. Giờ đây đứa bé đã trưởng thành, nó có ý
thức và trách nhiệm đối với mọi hành động của nó. Nó được hoàn toàn tự do xác
định rằng nó muốn theo Đạo Cao Đài hay không tùy ý nó. Thoảng như nó nhất quyết
từ chối không theo Đạo, luật lệ của Hội Thánh cũng không buộc tội cha mẹ nó
hoặc nó. Nếu không nhập môn, không có Sớ Cầu Đạo thì kể là không có Đạo.
Còn về mặt thần quyền, bí pháp Tắm Thánh cũng có
nghĩa như phép Giải Oan, nghĩa là đem ân điển thiêng liêng truyền vào cơ thể
hài nhi để giúp nó phát triển dễ dàng cả về tâm linh lẫn thể chất theo chiều
hướng tốt đẹp. Đối với trẻ người ta coi là vô tội, ít nhất từ khi mới sinh ra,
nên dùng chữ “Tắm Thánh” chứ không dùng chữ “Giải Oan” vì nó chưa gây nên oan
nghiệt gì cả.
* Tại sao cha mẹ có bổn phận phải đem con đi làm lễ
Tắm Thánh?
Khi một chơn linh xuống trần quyết định lựa chọn
gia đình có đạo đức để đầu thai làm con, chơn linh ấy xét thấy có nhiều hy vọng
để được bậc cha mẹ nuôi dưỡng mình suốt thời kỳ thơ ấu trong nếp sinh hoạt đạo
đức, hy vọng được hưởng ân huệ của Đức Chí Tôn ban cho trong Tam Kỳ Phổ Độ này,
được Chí Tôn ân xá tội tình từ kiếp trước. Nếu bậc cha mẹ không đem trẻ con đi
Tắm Thánh, nó sẽ không được hưởng ân lành của Đức Chí Tôn ban cho và con đường
tấn hóa của nó có thể gặp trở ngại vì những quả nghiệp xấu mà nó đã gây ra từ
bao kiếp trước và vì chưa được ân xá nên phải trả theo luật công bình thiêng
liêng vậy. Trách nhiệm ấy về phần cha mẹ gánh chịu trực tiếp vì bậc cha mẹ là
người hiểu Đạo mà không lo tròn bổn phận đối với con trẻ, làm chậm trễ bước
đường tấn hóa của các chơn linh xuống trần.
ĂN CHAY
I - LUẬT ĐẠO VỀ VIỆC ĂN CHAY
* Điều thứ 12 Bộ Tân Luật của Đạo Cao Đài ban hành
kể từ ngày lập giáo đến giờ qui định như sau:
"
Nhập môn rồi gọi là tín đồ. Trong hàng tín đồ có hai bực:
Một
bực còn ở thế có vợ có chồng làm ăn như người thường song buộc phải trai kỳ
hoặc 6 hoặc 10 ngày trong tháng, phải giữ ngũ giới cấm và phải tuân theo thế luật
của Đạo Cao Đài truyền bá. Bực này gọi là người giữ Đạo mà thôi, vào phẩm hạ
thừa.
Một
bực đã giữ trường trai, giới sát gọi là vào phẩm thượng thừa".
* Điều thứ 14 nói rằng:
Chức sắc cai trị trong Đạo từ bậc Giáo Hữu sắp lên
phải chọn trong bực người thượng thừa mà thôi.
Ăn chay theo Đạo Cao Đài có nghĩa là nuôi dưỡng cơ
thể bằng chế độ thực phẩm gốc thực vật. Người tín đồ không được phép ăn thịt
của bất cứ loài động vật nào trong ngày chay lạt từ con thú lớn như thịt bò,
thịt heo cho đến tôm cua. Nói một cách khác, thực phẩm mà họ dùng không có một
vụ sát sanh động vật nào mà có.
Trong thời hạn 6 tháng tập sự kể từ ngày nhập môn,
người tín đồ phải cố gắng ăn chay từ 6 ngày mỗi tháng, tập lần đến 10 ngày mỗi
tháng, và có thể dừng lại ở mức này cho đến suốt đời nếu không muốn đi xa hơn
nữa.
Những ngày ăn chay được tính theo âm lịch:
- Trai kì 6 ngày mỗi tháng là:
Mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 (tháng thiếu thì ăn chay ngày 29 thế cho 30).
- Trai kì 10 ngày mỗi tháng là:
Mồng 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29 và 30 (tháng thiếu phải ăn chay ngày
27).
Tưởng cũng cần nói rõ nơi đây vấn đề dùng
trứng, sữa, tôm khô, cua hay khô mực. Tôm, cá mực, cua là những loài động vật,
ăn thịt những loài này, dù khô hay tươi vẫn phải kể là ăn mặn. Sữa gốc ở cơ thể
động vật bài tiết ra, nhưng không phải là sát sanh, nên được phép dùng trong
ngày chay. Vấn đề trứng phức tạp hơn, hiện nay hai loại trứng thường dùng trong
thực phẩm là trứng gà và trứng vịt, thực phẩm này cũng lấy từ cơ thể động vật mà ra, dù không sát sanh con thú
mẹ nhưng nếu có trống, trứng có thể hườn nguyên hình một con thú mới. Do đó ăn
loại trứng có trống này là gián tiếp ăn thịt một con thú sắp tượng hình rồi thì
đương nhiên là đang ăn thịt một con "thú
con" vậy không thể nào gọi là ăn chay được.
Nếu trứng không có trống thì trứng ấy chẳng khác
nào một thứ sữa do thú vật bài tiết ra, dù có ấp cũng không nở ra con được,
người ăn chay có thể tạm dùng được ngoài 10 ngày ăn chay và trong lúc bệnh
hoạn, kém sức.
Nếu phải xếp loại, chúng ta có thể hiểu như thế
này: giữa hai hạng người trường trai hoàn toàn (dùng toàn thực phẩm gốc ở thực
vật) và hạng ăn mặn (dùng thịt của thú vật) có một hạng ở giữa cũng ăn chay
nhưng còn dùng sữa thú vật và trứng không trống.
Tóm lại, dùng tôm, cua, khô mực, trứng có trống không
thể kể là ăn chay được. Nếu cá nhân người nào còn dùng những thức ăn này ấy là
vì cơ thể họ chưa quen được với chế độ trường trai đúng nghĩa, họ đang tập lần,
chớ luật Đạo Cao Đài không cho phép dùng những thức ăn này trong ngày chay. Có
nhiều người đã hiểu lầm về việc này. Hành động của cá nhân là một việc, không
thể nào đồng hóa với luật pháp được.
* Ăn chay bù:
Vấn đề thứ hai là có thể ăn chay vào một ngày khác
hơn ngày ấn định để bù lại vì đã ăn mặn vào một ngày chay, hay vì những lý do
nào đó, thí dụ: tiệc tùng, hay vị nể lời nói của bạn bè hay chính mình không
nhớ ngày ăn chay...
Nhập môn cầu Đạo là hành động tự nguyện, hứa tùng
theo luật Đạo cũng là một hành động tự nguyện, không ai bắt buộc mình, nhưng
một khi đã cam kết tức phải có sự ràng buộc. Nếu một người đã cam kết điều gì
rồi chính mình xem lời hứa của mình như không có, còn ai có thể tin mình
được? Nhơn vô tín bất lập, cổ nhân vẫn
thường nói, vì vậy mà giáo luật có tính cách bắt buộc người tín đồ phải giữ
chay giới trong những ngày đã ấn định. Để tập cho họ có đức tính tốt là luôn
luôn phải nhớ lời hứa, chứng tỏ một nghị lực muốn vượt qua những cám dỗ của thể
xác và đời sống thế tục, một ý chí muốn tu hành, ít nữa trong phạm vi nhỏ hẹp
là sự ăn uống, giữ đúng trai kỳ là một hành động nói lên phần nào tinh thần của
người tín đồ quyết tâm làm chủ thân xác và dục vọng của mình. Ăn chay bù lại
những ngày không giữ được giới luật là hành động dễ dãi nuông chìu dục vọng của
mình. Nếu không thể giữ được tốt hơn nên can đảm nhìn nhận khả năng của mình
đến mức đó, rồi cố gắng khắc phục dần dần những trở ngại chớ không nên tìm cách
đánh tráo để cho tâm trí mình được yên ổn.
Trai kỳ đã được ấn định thành qui luật, tức cần
phải được tuân theo, chúng ta không nên sửa cải, thay thế ngày chay nầy bằng một
ngày chay khác. Đành rằng Đức Chí Tôn có hứa :
"Giữ
trai kỳ từ 10 ngày đổ lên trong tháng thì được thọ truyền bửu pháp"
Thay thế ngày ấy bằng một ngày khác thì tổng số
cũng đủ 10 ngày, song về mặt tâm lý đã tỏ rõ yếu kém, xem lời minh thệ “Gìn
luật lệ Cao Đài” nhẹ hơn lời mời của bạn hữu trong bữa tiệc hay một cơn thèm
muốn của vị giác.
Tóm lại đối với vấn đề ăn chay bù này không nên dễ
duôi với xác thân, mà cần phải buộc, phải tuân theo kỷ luật tối thiểu của người
tu để làm căn bản.
* KHÔNG ĂN CHAY, LÀM VIỆC THIỆN
Tới đây một vấn đề được đặt ra là nếu như một người
không ăn chay mà làm việc thiện, có tính tốt với mọi người thì sao?
Người ta vẫn hỏi như vậy và còn có ý so sánh với
những kẻ ăn chay nhưng hành động thường nhật rõ ràng chẳng tốt đẹp gì. Lẽ dĩ
nhiên ăn chay chỉ là một việc nhỏ trong đời sống người tín đồ, còn phải làm
nhiều việc khác nữa, nhứt là trau giồi tâm linh cho nên hiền, nên thánh. Còn sự
so sánh, chúng ta nên so sánh mình với những bậc mà thiên hạ đều kính yêu để
bắt chước điều hay lẽ phải nơi họ chớ đừng nên so sánh với kẻ giả tu làm gì.
Nếu thấy mình hãnh diện khi so sánh với kẻ giả tu hay kẻ có lòng thành nhưng ở
mức độ thấp kém, chúng ta nên hiểu rằng, niềm hãnh diện ấy chính là lòng kiêu
ngạo, khoe khoang của chính mình đã biến dạng thành một trạng thái tâm lý như
vậy. Nếu thật sự muốn hoàn thiện chúng ta nên dứt bỏ những ý nghĩ so sánh ấy.
Dĩ nhiên sự thành thật là điều đáng quí vô cùng trong đời sống của người tín
đồ. Cố gắng ăn chay không thôi cũng đáng quý, làm việc thiện cũng đáng quý, mà
có được cả hai thì càng tốt miễn rằng chúng ta thành tâm muốn sửa đổi con người
mình luôn luôn.
II -
Ý NGHĨA CỦA SỰ ĂN CHAY
Hành động ăn chay có ý nghĩa gì khiến giáo luật
phải buộc nghiêm khắc như vậy?
Chúng ta hiểu rằng chi chi hữu sanh cũng do bởi
chơn linh Đức Chí Tôn mà ra, hễ có sống ắt có Ngài trong đó. Ngài là cha của sự
sống, lòng háo sanh của Ngài không cùng tận. Ngài đã phân tánh Ngài mà sinh ra
vạn vật là vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm, nhơn loại gọi chung là chúng
sanh.
Nhơn loại là bậc tiến hoá cao hơn các loài kia thì
vai tuồng chẳng khác người anh cả trong gia đình đối với các em vậy. Kẻ nào làm
được hành động phi thường, yêu thương cả chúng sanh như yêu thương chính thân
mình vậy, bảo bọc, nâng niu, che chở cho đời sống của muôn loài vạn vật... kẻ
ấy đươcï tôn trọng lên hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ngược lại, nếu kẻ nào cướp
đoạt mạng sống của chúng sanh để béo bổ thân mình ắt phải bị đền bồi mới đúng
luật công bình tạo hoá. Như thân ta đây lấy từ cát bụi đấp nên hình, chết phải
trả về cát bụi. Cỏ cây hút phân mà sống, rồi thú vật ăn cỏ cây nên hình, người
ăn thịt thú và cây cỏ, người chết đi thân thối rữa trở thành phân, đất để cỏ
cây đòi lại những chất bổ ấy. Người đã cướp mạng sống của cỏ cây giờ đây phải
đền mạng, để cỏ cây mọc lại trên thân xác mình vừa biến thể.
Tấn tuồng ấy đã tạo thành vòng luân hồi triền miên
từ tạo thiên lập địa đến giờ. Càng sống lâu càng khôn ngoan, luân hồi nhiều
kiếp mới đạt đến địa vị con người là anh cả của thú vật, thảo mộc và vật chất,
vốn là anh em do một nguồn gốc với nhau từ một ông cha chung là Chí Tôn mà ra.
Nếu muốn thoát cửa luân hồi, ngừng nghỉ cuộc tử
sanh máu đổ thịt rơi chỉ có một cách là mở rộng tâm thần nhìn thẳng vào chúng
sanh, sẽ thấy mọi người là ruột thịt với nhau. Tình thương thiêng liêng ấy sẽ
buộc ta dừng tay chém giết lại, ấy là lòng bác ái, là ý nghĩa của việc ăn chay.
Bất sát sanh là lệnh truyền của Đức Chí Tôn và ăn chay là một trong muôn ngàn
cách thực hiện lời dạy ấy. Bởi vậy hành động ăn chay phải đi kèm với ý tưởng
muốn mở rộng lòng yêu thương của mình xóa bỏ hận thù với tất cả mọi người, mọi
vật.
Thế nhưng ăn chay nào tránh khỏi sát sanh đâu, ăn
thảo mộc cũng là sanh vật vậy? Quả nhiên như thế, ai đã đến cõi trần này mang
lấy xác thân, ắt có luân hồi vay trả, chưa dễ gì không ăn mà sống, nên thôi
đành hiệp nhau lại mà làm một điều luật định cho kẻ nào bớt được việc sát sanh,
nhứt là đối với những sinh vật thân thích, gần gũi với mình hơn hết, thì đồng
công nhận kẻ đó có được lòng thương rộng rãi nên ban cho phẩm vị học đòi theo
hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Ấy vậy quyền của Vạn Linh đã định kẻ nào chỉ ăn hoa
quả, thảo mộc mà sống cũng vào hạng từ tâm, bác ái, cũng đáng gọi là “Bất sát
sanh”, tuy rằng chẳng phải nghĩa cho lắm, nhưng xét ra cũng ít người làm được,
thì địa vị kia cũng không có gì là quá đáng.
Vậy thì hành động ăn chay có ý ngĩa là biết thương
mình, thương người, thương cả chúng sanh, tình thương ấy biểu lộ một cách tích
cực trong hành động chớ không phải trong lời nói suông.
III - TÁC DỤNG THẦN QUYỀN
Thánh Giáo của Đức Chí Tôn có dạy rằng:
" Mỗi kẻ phàm dưới thế nầy đều có hai xác thân. Một phàm
gọi là Corporel (thể xác). Còn một thiêng liêng gọi là Spirituel (linh hồn ).
Mà cái thiêng liêng do nơi cái phàm mà ra nên gọi là bán hữu hình, vì có thể
thấy đặng mà cũng không thấy đặng.
Cái
xác vô hình huyền diệu, thiêng liêng ấy do nơi Tinh Khí Thần mà luyện thành. Nó
nhẹ nhàng hơn không khí..."
Đức Chí Tôn gọi xác thân thứ hai này là Chơn thần.
Ngài lại dạy:
"Nó
vẫn là chất, tức hiệp với không khí Tiên Thiên, mà trong khí Tiên Thiên thì
hằng có điển quang. Cái chơn thần buộc phải tinh tấn, trong sạch mới nhẹ hơn
không khí, ra khỏi ngoài càn khôn đặng." (TNHT, QI, 1969 trg30)
Một trong những điều kiện dễ làm cho chơn thần nhẹ
nhàng tinh tấn, trong sạch là người tu phải ăn chay trường, vì phải có thân
phàm tinh khiết mới xuất chơn thần tinh khiết. Lẽ dĩ nhiên chỉ ăn chay trường
không thôi không đủ để làm cho người ta trở nên chí Thánh, chí Tiên, chí Phật.
Nhưng điều kiện này rất cần thiết vì khi còn ăn mặn
mà luyện đạo, nếu như hườn hình được nhị xác thân thì chơn thần ấy vẫn còn chứa
trược khí trong đó, mà trược khí là một chất tiếp điển nên khi chưa ra khỏi lằn
không khí đã bị sét đánh tiêu diệt rồi. Còn nếu như chơn thần khôn ngoan hơn,
ẩn núp tại thế, thì kiếp đọa trần cũng chưa mãn.
Vì vậy mà Đức Chí Tôn buộc người tu vào bậc thượng
thừa phải trường trai giới sát. Còn đối với bậc hạ thừa Ngài không buộc trường
trai, song nhưng ít nhứt cũng phải giữ đặng 10 ngày chay trở lên mỗi tháng.
Ngài có hứa rằng kẻ nào giữa đặng trai kỳ 10 ngày trở lên được thọ truyền bửu
pháp và Hội Thánh thực hiện lời hứa ấy bằng cách làm phép xác cắt bảy dây oan
nghiệt cho người nào lúc chết còn giữ được 10 ngày chay mỗi tháng. Về phần chức
sắc đã có thọ phép giải thể, chết về đời, sống về Đạo thì đặng phép độ thăng,
khỏi cắt bảy dây oan nghiệt.
Đức Bát Nương Diêu Trì Cung lại còn giảng rõ về âm
quang như sau:
"... Nơi ấy, là những chốn phạt tù những hồn vô căn, vô
kiếp nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế... kỳ thật là nơi để cho các chơn
hồn giải thần định trí (một nơi trung gian giữa thiên đường và địa ngục hay là
mờ mờ mịt mịt). Ấy là một cái quan ải, các chơn hồn khi qui thiên, phải đi
ngang qua đó. Sự khó khăn bước khỏi qua đó là đệ nhứt sợ của các chơn hồn.
Nhưng tâm tu còn lại chút nào nơi xác thịt con người, cũng nhờ cái sợ ấy mà lo
tu niệm. Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nửa đôi trăm năm, tùy
chơn hồn thanh trược. Chí Tôn buộc phải trường chay cũng vì cái quan ải
ấy". (TNHT, QII, 1970 trg 83)
Lời giải thích đã khá rõ ràng ăn chay có tác dụng
làm cho chơn thần được thanh khiết là điều kiện cần thiết để vượt khỏi âm quang
về cõi thiêng liêng hằng sống.
Hai tiếng thanh trược nơi đây có một ý nghĩa tương
đối, mà thật vậy có gì là tuyệt đối trong cõi đời này đâu. Chơn thần của một
người được gọi là thanh, xét về phương diện thần quyền, đâu phải chỉ có ăn chay
là đủ, mà còn phải có muôn vàn điều kiện khác nữa. Đức Chí Tôn có hứa thọ
truyền bửu pháp cho kẻ nào giữ trai giới 10 ngày trở lên. Đó là một điều kiện
cần thiết trong lãnh vực ăn uống, chớ thật ra bao nhiêu ngày chay đó cũng chưa
chắc đủ cho chơn thần siêu thoát được. Bởi vậy khi hứa cho tín đồ được phép giữ
10 ngày chay, Đức Chí Tôn đã buộc liền, phải tạo nhiều công đức, rồi công đức
ấy cộng với sự trai giới định kỳ làm cho chơn thần tương đối thanh, nó mới có
thể nương nhờ ân điển thêng liêng thanh khiết hơn nhiều lắm, núp theo đó mà
thăng dần đến các cõi cao siêu tịch diệt. Ấy vậy mới có những giáo pháp không
cần đòi hỏi tín đồ phải giữ trai giới mà vẫn tạo ngôi Thần, Thánh, Tiên, Phật
được. Không giữ trai giới nhưng tạo được nhiều công nghiệp, tâm linh mở rộng,
môn đồ của những giáo pháp không ăn chay ấy vẫn tạo được chơn thần thanh theo
nghĩa tương đối nên vẫn về được ngôi vị cũ, vẫn được thần linh độ hồn về cực
lạc.
Tích cực là tạo công đức, tiêu cực là trì tâm giới
sát, bù qua sớt lại tới mức nào đó, thì chơn thần gọi là thanh, đương nhiên
được sống nơi cõi phù hợp với trạng thái của nó.
Đạo vẫn như nhiên, pháp linh của trời đất xưa nay
vẫn không thay đổi dù giáo pháp của các vị giáo chủ có đổi thay.
Ấy vậy luật pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cho ăn chay
10 ngày rồi trường chay không có gì ngược với bí pháp của Đạo Thánh Kitô, Thích
Ca, hay Vô Vi của Lão Tử... Chúng ta thấy có sự khác biệt ở chỗ có ăn chay hay
không, nhưng bí pháp hằng sống của chơn thần chẳng hề khác nếu người ta chịu
hiểu cho đến tận cùng giáo lý của các vị giáo chủ ấy, nhứt là nền tảng siêu
linh, là phần Hình Nhi Thượng, chớ đừng hiểu ở ngọn, ở chữ nghĩa của kinh điển.
THỜ
CÚNG
I -
CÚNG ĐẠI ĐÀN TẠI THÁNH THẤT
* Tân Luật Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ điều thứ 19.
Buộc mỗi tín đồ phải đến Thánh Thất tham dự các đàn
cúng vào ngày mồng một và rằm mỗi tháng âm lịch và sau đó nghe giảng đạo.
Trường hợp bận việc riêng bất khả kháng thì được chế giảm.
Để kiểm soát sự siêng năng chầu lễ Đức Chí Tôn của
tín đồ, Hội Thánh đã cho áp dụng thể thức chứng sổ lưu niệm mỗi lần dự lễ. Có
hai hình thức cúng đàn: Đại đàn và Tiểu đàn.
* Nghi tiết cúng Đại đàn tại các Thánh Thất được
tóm lược như sau:
- Đến giờ cúng Lễ vụ đánh ba hiệp trống, mỗi hiệp
12 hồi, mỗi hồi 12 tiếng. Giờ cúng được ấn định vào thời Tý (00 giờ) hoặc thời
ngọ (12 giờ trưa). Trước khi đánh trống phải đọc câu chú kệ trống ( )
- Xong đến 3 hiệp chuông cũng y như đánh trống ( )
- Khi chuông đổ được hai hiệp, chức sắc, chức việc
và tín đồ xếp thành hàng đi vào Thánh Thất, hai tay bắt ấn tý ( ) theo thứ tự
nam tả nữ hữu (nhìn từ trong ra ngoài), phẩm lớn trước, phẩm nhỏ sau. Tất cả
đứng dọc theo hai bên mặt quay vào nhau.
- Chuông dứt, Lễ vụ khắc ba tiếng chuông báo hiệu
nhập đàn, tất cả đều xá một xá, xong bước vào giữa chánh điện, mắt nhìn về phía
Thiên Nhãn.
- Nhạc Tấu Huân Thiên: Ban nhạc trỗi bản hòa tấu
rất đặc biệt kéo dài khoảng nửa giờ. Mọi người đều đứng yên tại vị trí của mình,
cố gắng giữ tâm hồn cho yên tịnh.
- Niệm Thánh: dứt phần nhạc, nghe theo tiếng chuông
của Lễ vụ, tất cả đều xá ba xá, quì xuống đưa tay lên trán niệm “Nam Mô Phật”,
đưa qua bên trái niệm “Nam Mô Pháp”, đưa qua bên phải niệm “Nam Mô Tăng”, để
tay giữa ngực niệm:
"
Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam
Mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam Mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Nam
Mô Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.
Nam
Mô chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần ".
Mỗi câu niệm phải cúi đầu kỉnh lễ.
- Đọc kinh: niệm Thánh xong, đồng nhi bắt đầu đọc
các bài kinh sau đây:
* Niệm Hương:
"
Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp..."
Khi dứt lạy 12 lạy, nghĩa là ba lần cúi xuống, mỗi
lần bốn gật (vì mỗi gật tượng trưng cho một lạy), mỗi lần gật đầu đều niệm chú
Chí Tôn: "Nam Mô Cao Đài Tiên Ông
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát".
Chú ý: Khi cúi xuống lạy, hai bàn tay xòe ra úp sát
mặt đất, giữ cho hai ngón cái chéo nhau. Khi ngẩng đầu lên thì bắt ấn tý lại
như cũ.
*
Khai Kinh:
"
Biển trần khổ vơi vơi trời nước..."
Khi dứt cúi đầu chớ không lạy.
*
Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế:
"Đại La Thiên Đế..."
Khi dứt lạy 12 lạy như trên, niệm chú Chí Tôn.
*
Phật Giáo Tâm Kinh:
"Hỗn độn Tôn Sư..."
Lạy 9 lạy,
nghĩa là 3 lần cúi xuống mỗi lần 3 gật. Niệm chú lạy mỗi gật "Nam Mô Nhiên Đăng Cổ Phật Đại Bồ Tát
Ma Ha Tát".
*
Tiên Giáo Tâm Kinh:
"Tiên
Thiên khí hoá..."
Lạy 9 lạy như trên. Niêm chú: "Nam Mô Thái Thượng Đạo Tổ Tam Thanh Ứng Hóa Thiên Tôn".
*
Thánh Giáo Tâm Kinh:
"
Quế hương nội điện..."
Lạy 9 lạy. Niệm chú " Nam Mô Khổng Thánh Tiên Sư Hưng Nho Thạnh Thế Thiên Tôn ".
* Dâng
Tam Bửu:
Đồng Nhi đọc các bài thài sau đây:
- Dâng Hoa: "Từ
bi giá ngự rạng môn Thiền..."
- Dâng rượu: "Thiên
ân huệ chiếu giáng thiền minh..."
- Dâng Trà: "Mai
xuân nguyệt cúc vị trà hương..."
Dứt mỗi bài thài lạy 4 lạy, nghĩa là chỉ có một lần
cúi xuống, 4 gật.
*
Lời cầu nguyện khi dâng Tam Bửu như sau:
- Khi dâng
hoa: cúi đầu xuống cầu nguyện Chí Tôn như sau:
"Con
xin dâng mảnh hình hài của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng".
-
Khi dâng rượu:
"
Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng
".
-
Khi dâng trà:
"
Con xin dâng cả linh hồn con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng ".
Và cầu nguyện luôn câu sau đây:
"
Cả linh hồn, cả trí não, cả hình hài con, Thầy đào tạo đó là của Thầy thì do
nơi quyền hành độc đoán của Thầy định" .
*
Dâng Sớ :
Sau khi đọc sớ và đốt sớ xong, lạy 12 lạy, niệm chú
Chí Tôn.
* Đọc
bài kinh Ngũ Nguyện :
“Nam
Mô:
Nhứt
nguyện Đại Đạo Hoằng Khai,
Nhì
nguyện phổ độ chúng sanh.
Tam
nguyện xá tội đệ tử.
Tứ
nguyện thiên hạ thái bình,
Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh”.
Niệm chú Chí Tôn.
Phần nghi lễ cúng tế
xong, tất cả đứng dậy xá ba xá, quay ra sau lưng (nhớ quay đồng lượt phía bên
vai trái) xá bàn Hộ Pháp một xá (sau Đức Hộ Pháp có chữ "KHÍ") lui về
hai bên đàn nội, nam tả nữ hữu (nhìn từ trong ra ngoài).
* Phần thuyết đạo của
chức sắc (nếu có)
* Bãi Đàn: Lễ vụ đến
dọng chuông bãi đàn và kệ các câu chú như sau :
"
Đàn tràng viên mãn chức sắc quy nguyên vĩnh mộc từ ân phong điều võ thuận.
(đánh một tiếng Đại hồng chung)
"Thiên
phong hãi chúng quốc thới dân an hồi hướng đàn trường tận thâu pháp giái.
(đánh một tiếng Đại hồng chung)
" Án dà ra đế dạ ta bà ha"
(đánh một tiếng Đại hồng chung)
Tất cả nghiêm trang xá đàn, đoạn theo thứ tự ra về.
(Người đứng phía trong ra trước, ngoài ra sau, y như trật tự khi vào Thánh
Thất).
II - CÚNG ĐẠI ĐÀN TẠI TÒA
THÁNH
Đến tại Tòa Thánh Tây Ninh là nơi trung ương, nghi
tiết cúng đại đàn có phần khác hơn đôi chút ở những điểm sau:
1 / Hoán Đàn
Khi vào bên trong Đền Thánh vẫn giữ theo thứ tự nam
tả nữ hữu (nhìn từ trong ra ngoài). Cả chức sắc, chức việc và đạo hữu của mỗi
phái nam nữ đều đi thành vòng tròn ngược chiều nhau, nam đi theo nam, nữ đi
theo nữ, gọi là đi hoán đàn. Khởi sự từ chỗ bước vào, ngang ngai Hộ Pháp, phái
nam đi thẳng lên phía Bát Quái Đài, đi ngang qua Cung Đạo (khoảng trống giữa
bàn thờ Đức Chí Tôn và ngai Giáo Tông) vòng qua bên phái nữ, xuống tận ngai Hộ
Pháp, đi ngang qua trước mặt ngai, trở lại vị trí bắt đầu khi nãy tức là giáp
được một vòng, rồi mới tiến đến vị trí của mỗi người tùy theo hàng phẩm lớn nhỏ
để chờ khởi sự cúng.
Phái nữ cũng đi thành một vòng như vậy nhưng ngược
chiều phái nam.
Ý nghĩa của pháp đi hoán đàn được Đức Hộ Pháp giải
thích như sau:
"
Tại sao phải hoán đàn nam nữ chen nhau?
Đó
là bùa pháp luân thường chuyển.
Tại
sao Chí Tôn để bùa pháp luân thường chuyển tại thế này, đặng chi vậy?
"
Hiện đã mãn Hạ Nguơn tam chuyển, Thượng Nguơn tứ chuyển ta gọi là Khai Nguơn
nên phải để cho pháp luân chuyển. Ta đã biết thời Tiên Thiên Khí và Hậu Thiên
Khí chuyển làm một mới đạt đạo đặng. Cả thảy đều biết qua Cửu Trùng Đài nầy là
Cửu Thiên Khai Hóa, còn cung trên kia là Cung Đạo, từ trước đến nay mỗi người
mãi miết tìm Đạo mà Chí Tôn để giữa đó, trước mắt mà không biết. Đi chín từng
Trời để cho phần hồn đi cho cùng tột cửu phẩm Thần, Thánh, Tiên, Phật tức là
Phật xuống phàm, rồi phàm trở lại Phật, chuyển luân như vậy, bí pháp gọi là đạt
Đạo". (Lời thuyết Đạo. Q.2 tr. 28)
2 / Khi cúng tại Đền Thánh
Được ngồi xếp bằng thay vì quì như ở các Thánh
Thất.
3 / Chỉnh sát cúng phẩm
Trong thời gian Nhạc Tấu Huân Thiên, khi Ngọc Đàn (
) xướng “Chỉnh sát cúng phẩm” thì một vị chức sắc Hiệp Thiên Đài rời hàng ngũ
lên lầu Hiệp Thiên Đài quan sát các cúng phẩm có đầy đủ và tinh khiết rồi hành
pháp trấn thần các cúng phẩm, xong rồi trở lại vị trí cũ và giao cho sáu vị Lễ
Sĩ gồm hai mặc áo vàng, hai mặc áo xanh, hai mặc áo đỏ, đội mão lễ, cầm lồng
đèn (màu theo sắc áo của mình) đi từ phía trên lầu Hiệp Thiên Đài xuống trước ngai
Hộ Pháp rồi đi theo đường nội tâm chánh điện lên phía Bát Quái Đài. Theo sau là
một vị Giáo Sư phái Ngọc mang một cái hộp đựng Tam Bửu (hoa, rượu, trà), sáu Lễ
Sĩ và một vị Giáo Sư đi tới ngang phẩm Phối Sư thì dừng lại đấy, phân ra hai
bên chờ tới khi dâng Tam Bửu xong sẽ trở về chỗ cũ.
Khi nhạc tấu Huân Thiên dứt, có một vị chức sắc
Hiệp Thiên Đài lên thỉnh hương tại Bát Quái Đài đem xuống ngoại nghi (ngang
phẩm Phối Sư), Lễ Sĩ điện hương.
Khi Lễ Sĩ điện dâng hoa lên nội nghi (tại cung Đạo)
thì vị Chánh Phối Sư phái Ngọc tiếp lấy bình hoa lên đứng phía sau ngai của
Ngọc Chưởng Pháp, ngó ra phía Hiệp Thiên Đài đưa cao ngay trán trình cho chức
sắc và tín đồ biết để dâng lời cầu nguyện.
Khi dâng rượu thì vị Chánh Phối Sư phái Thượng tiếp
lấy chung rượu lên trình như Ngọc Chánh Phối Sư, nhưng đứng sau ngai Giáo Tông.
Khi dâng trà thì Chánh Phối Sư phái Thái tiếp lấy
chung trà lên trình như Ngọc và Thượng Chánh Phối Sư, nhưng đứng phía sau ngai
Thái Chưởng Pháp.
III -
SỰ KHÁC BIỆT VỀ NGHI TIẾT CÚNG TIỂU ĐÀN VÀ ĐẠI ĐÀN
1 /
Tại Tòa Thánh
Tiểu Đàn khác với Đại Đàn ở những điểm sau đây:
- Nhạc đờn 3 bài (thay vì 7 bài hoặc 5 bài như
trong các kỳ Đại Đàn)
- Lễ Sĩ không đăng điện.
- Không lập ngoại nghi.
- Không đi hoán đàn.
2 /
Tại Thánh Thất
Tiểu Đàn tại Thánh Thất khác Đại Đàn ở những điểm
sau:
- Nhạc đờn 3 bài thay vì 7 bài hoặc 5 bài.
- Lễ Sĩ không đăng điện.
- Không lập ngoại nghi.
IV - CÚNG ĐÀN TẠI ĐIỆN THỜ
PHẬT MẪU
Khi vào chầu lễ Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng
Liêng tại Điện Thờ Phật Mẫu, tất cả mọi người đều mặc áo dài trắng, khăn đóng
đen đối với nam phái; nữ phái mặc áo dài trắng thường, dầu cho chức sắc cũng
vậy. Về phương diện hình thức, nơi đây không còn phân biệt phẩm tước, mọi người
đều bình đẳng, ai đến trước quì trước, đến sau quì sau.
1 / Cách Nhập Đàn
Đúng giờ cúng, Lễ viện đổ 3 tiếng Đại Hồng Chung và
đọc kệ lần thứ nhứt như sau:
- Văn chung khấu hướng, huệ trưởng càn khôn. (dọng
một tiếng chuông)
- Pháp giái chúng sanh đồng đăng bỉ ngạn. (dọng một
tiếng chuông)
- Án dà ra đế dạ ta bà ha. (dọng một tiếng chuông)
Kệ chuông vừa dứt chư thiện nam tín nữ sắp đặt
chỉnh tề, nam thì sắp hàng bên bàn thờ chư chơn linh nam phái, nữ thì sắp hàng
hai bên bàn thờ Đức Phật Mẫu và chư chơn linh nữ phái.
Chuông đổ lần thứ hai, cũng 3 tiếng với các câu kệ
như sau:
- Nhứt vi u ám tất giai văn.
- Nhứt thiết chúng sanh thành chánh giác.
- Án dà ra đế dạ ta bà ha.
Dứt mỗi câu dọng một tiếng Đại Hồng Chung.
Khi tiếng chuông cuối cùng vừa dứt tất cả xá đàn
một xá, bước vào trong sắp thành hàng ngó lên bàn thờ.
2 / Nhạc Tấu Huân Thiên
Nhạc đờn 5 bài dứt, Lễ viện khắc chuông mọi người
kỉnh ba xá quì xuống.
3 / Mật niệm Đức Phật Mẫu và
các Đấng Thiêng Liêng (Nhớ là không có
lấy dấu Phật, Pháp, Tăng). Niệm như sau:
- Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn (xá một
xá).
- Nam mô Cửu Vị Tiên Nương (xá một xá).
- Nam mô Bạch Vân Động Chư Thánh (xá một xá).
4 /
Đọc các bài kinh sau đây
- Niệm Hương:
“Đạo
gốc bởi ...”
Khi đọc dứt kinh lạy 9 lạy (lạy 3 lần, mỗi lần 3
gật, mỗi gật niệm Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn)
- Khai Kinh:
"Biển
trần khổ vơi vơi trời nước …"
Khi đọc dứt câu, cúi đầu chớ không có lạy.
- Phật Mẫu chơn kinh:
"Tạo
Hóa Thiên huyền vi Thiên Hậu..."
Khi đọc dứt câu kinh lạy 9 lạy (lạy 3 lần, mỗi lần
3 gật, mỗi gật niệm Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn).
- Dâng Tam Bửu (Hoa, Rượu, Trà)
Chú ý: Bài dâng hoa câu thứ tư phải đọc: "Cúi mong Phật Mẫu rưới ân thiên"
thay vì đọc "Cúi mong Thượng Đế rưới
ân thiên".
Dứt mỗi bài thài lạy 9 lạy (lạy 3 lần, mỗi lần 3
gật, mỗi gật niệm Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn).
5 / Sớ Văn thượng tấu
Đọc sớ và đốt sớ xong, lạy 9 lạy (lạy 3 lần, mỗi
lần 3 gật, mỗi gật niệm Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Thiên Tôn).
6 / Ngũ nguyện
" Nam mô:
Nhứt
nguyện Đại Đạo hoằng khai,
Nhì
nguyện phổ độ chúng sanh,
Tam
nguyện xá tội đệ tử,
Tứ
nguyện thiên hạ thái bình,
Ngũ nguyện Thánh Thất an ninh."
Đọc ngũ nguyện xong,
lạy 9 lạy (lạy 3 lần, mỗi lần 3 gật, mỗi gật niệm Nam mô Diêu Trì Kim Mẫu Vô
Cực Thiên Tôn)
Đứng lên xá ba xá trở
ra sắp thành hàng tam ban, nam theo nam, nữ theo nữ.
7 / Kệ chuông Bãi Đàn
(Y như câu kệ tại Đền
Thánh và Thánh Thất, cách dọng chuông cũng y như vậy).
Xong mọi người từ từ xá Đàn trở ra.
V - NGHI TIẾT CÚNG TỨ THỜI
TẠI TÒA THÁNH, THÁNH THẤT VÀ ĐIỆN THỜ PHẬT MẪU
1 /
Tại Tòa Thánh và các Thánh Thất
Ngoài các buổi cúng đại đàn và tiểu đàn nhằm vào
các ngày đại lễ và tiểu lễ (ngày vía, ngày kỷ niệm các bậc chức sắc tiền bối có
công lớn với Đạo, ngày mồng một, ngày rằm hàng tháng tính theo âm lịch), tại
Tòa Thánh và các Thánh Thất luôn luôn có các buổi cúng hàng ngày vào các giờ:
Tý (0 giờ khuya) – Mẹo (6 giờ sáng) – Ngọ (12 giờ trưa) – Dậu (18 giờ chiều)
gọi là cúng tứ thời.
Cúng tứ thời giản dị hơn cúng đại đàn và tiểu đàn,
nghi tiết được tóm lược như sau:
Đến giờ cúng, Lễ vụ kệ 3 câu chú ( ) đánh 3 tiếng
Đại hồng Chung lần thứ nhứt, chức sắc, chức việc và đạo hữu tuần tự vào chánh
điện (nam bên tả, nữ bên hữu theo hướng từ trong nhìn ra), cũng đứng hai bên
quay mặt vào nhau, sắp theo thứ tự phẩm trật. Xong Lễ vụ tiếp tục kệ 3 câu chú,
đánh 3 tiếng Đại Hồng Chung lần thứ hai ( ), mọi người tiếp tục hành lễ với
những động tác giống như phần trình bày ở đoạn trước. Tuy nhiên các phần nghi
lễ sau đây không có trong các buổi cúng tứ thời:
- Hoán Đàn.
- Nhạc tấu huân thiên.
- Dâng tam bửu (chỉ dâng một trong ba món và đọc
một bài thài tùy theo thời cúng: thời Tý và Ngọ dâng rượu – thời Mẹo và Dậu
dâng trà)
- Chỉnh sát cúng phẩm.
- Thuyết Đạo.
Trong lúc đồng nhi đọc kinh, có hòa tấu nhạc đệm
theo.
Cúng xong, lễ vụ kệ ba câu chú ( ) khắc ba tiếng
Đại Hồng Chung lần thứ ba và bãi đàn.
2 / Tại Điện Thờ Phật Mẫu
Cũng như tại Tòa Thánh và các Thánh Thất, ngoài các
kỳ cúng Đàn, thường nhật cũng luôn luôn cúng tứ thời vào các giờ qui định như
trên.
Thể thức hành lễ cũng giống như phần trình bày ở
mục IV, tuy nhiên các phần sau đây được giảm chế:
- Nhạc tấu huân thiên.
- Dâng tam bửu (chỉ dâng một trong ba món giống như
ở Tòa Thánh).
- Sớ văn thượng tấu.
Trong khi đồng nhi đọc kinh có nhạc đệm theo.
VI -
THỜ CÚNG TẠI TƯ GIA
Độc giả nên xem những quyển sách sau đây:
1 . Kinh Thiên Đạo và Thế Đạo (Hội Thánh xuất bản)
2 . Thiên bàn thờ tại tư gia (GH Thượng Lý Thanh)
3 . Ý nghĩa thờ Thiên Nhãn (HT Nguyễn Kim Anh)
VII -
TẠI SAO PHẢI THỜ CÚNG
Điểm khó khăn hơn hết trong vấn đề thờ cúng không
phải là những nghi lễ tế tự phức tạp hay các lời kinh bằng chữ Hán khó hiểu,
khó nhớ... Thoạt nhìn người ta có thể cảm nghĩ như vậy, nhưng nghi lễ dù phức
tạp đến đâu vẫn có thể quen được như một tập tục, lời kinh dù khó đến đâu đọc
mãi cũng thuộc. Đó là hình tướng bên ngoài ai ai cũng làm được. Chính nội dung,
tác dụng của lời kinh tiếng kệ, những giây phút trầm tư mặc tưởng ấy có ích lợi
gì cho bản thân ta khiến người tín đồ phải thực hành những nghi lễ ấy, đó mới
là trọng hệ.
Đây là điểm đệ nhứt khó khăn trong đời sống của
người tín đồ vì nó thuộc về mặt tâm pháp bí truyền. Trong một đàn cúng có đông
người tham dự, thường thì chỉ có một số rất ít người có thể cảm nghiệm được
nguồn năng lực sinh động, một cái gì lung linh huyền diệu trong “cõi sống thật”
đang phủ trùm lấy họ từ bên ngoài cả đến bên trong thân xác. Một khi cả xác
thân lẫn tâm hồn đã đắm mình trong dòng sinh lực ấy, người tín đồ đã thực sự
đứng trước ngưỡng cửa của một thế giới không còn thuộc “về cõi người ta” nữa.
Nguồn năng lực vô biên ấy không thể tả được, nhưng chỉ cần một chút xíu thôi
cũng đủ làm cho những kẻ bướng bỉnh nhất trên thế gian nầy thay đổi cuộc sống
của họ một cách trọn vẹn. Nhưng không phải ai ai cũng dễ dàng khám phá được.
Một khi đã thực sự sống trong thế giới Thần Tiên
ngay bên cạnh “cõi người ta” nầy thì người tín đồ không còn tâm trạng sợ hãi
nữa, trái lại với sự tưởng tượng của những kẻ mà đời sống đắm chìm trong tục
lụy, ngồi ở đây mà tưởng tượng vẽ vời ra “thế giới bên kia” mà thực sự họ chưa
từng sống ở đó một phút giây nào cả.
Tôi xin nhắc lại lời nói của Thánh Giăng cánh đây
gần hai ngàn năm:
"
Người nào đã cảm giác được cái tinh thần thiêng liêng của Đấng Chí Tôn không
thể lầm lẫn, nghi ngờ hoặc phủ nhận nó. Ôi! Thế gian, ví như các người có đồng
thanh phủ nhận Ngài, ta thà từ bỏ thế gian và giữ vững đức tin của ta" (Chơn sư và Thánh
Đạo. Leadbeater. Nguyễn Hữu Kiệt dịch).
Các bậc chơn tu xưa nay đã nói rất nhiều về đời
sống Thần Thánh nầy nhưng khốn nỗi chính các Ngài cũng không có quyền muốn đem
cho ai thì cho “nguồn sống vạn năng” ấy dù chỉ một chút xíu thôi. Đó định luật
tất yếu trong càn khôn vũ trụ. Các Ngài sẵn sàng cho khối gia tài thiêng liêng
ấy đến tất cả mọi người, nhưng mà nắm lấy được hay không là do ở chính mình.
Thành thử kết quả sau cùng là các Ngài không trọn quyền ban cho ai tùy thích
được. Đó là một định luật công bình, của báu không bán nài và cũng chẳng phải
của riêng ai được quyền nắm giữ dù họ là giáo chủ đi nữa.
Thờ cúng là một trong những cách làm cho thần trí
của người tín đồ quen chủ định để dẫn thân xác đến gần thế giới thần linh. Rồi
đến một lúc nào đó cả hành vi, tư tưởng, lời nói của người tín đồ đã hiển hiện
là những “người Thần”, “người Thánh” trước mắt mọi người thì tự nhiên cánh cửa
“thế giới vô hình” sẽ mở hoát ra như một định luật của hữu vô đồng nhất mà
người đạo giáo thường gọi là thể pháp và bí pháp tương liên mật thiết với nhau.
Thần, Thánh, Tiên, Phật không phải là những vị mà
con người có thể cầu khẩn, van xin đút lót của hối lộ theo kiểu thường làm ở
thế gian.
Nghi lễ thờ cúng chỉ là những hình tướng biểu lộ
bên ngoài của một nội tâm kính trọng và ý muốn cầu thân cùng các Đấng Thiêng
Liêng. Dấu hiệu tỏ lộ bên ngoài có thể bắt chước được.
Hình tướng bên ngoài ấy dùng để dắt dẫn tâm linh
nên nó phải thay đổi cho phù hợp với phong tục tập quán và trình độ tấn hóa của
con người. Nghi lễ các đạo giáo vì vậy khác với nhau mới thích ứng được với mọi
người, chớ còn bên trong, cái khổ, cái sướng hay niềm an lạc trong tâm hồn của
con người thì tự cổ chí kim ai cũng như ai. Thực hành những nghi lễ thờ cúng là
để tìm về chỗ thuần nhất ấy, và khi đạt đến rồi thì người không còn phân cách
với người nữa, người cũng không còn phân cách với Trời, Phật hay Thần, Thánh
nữa. Đó là lý do sau cùng khiến người tín đồ phải để tâm đến việc thờ cúng. Đức
Quan Thế Âm Bồ Tát có giáng cơ chỉ dạy như sau:
"
Các em phải lo cúng kiến thường:
-
Một là tập cho chơn thần được gần gũi các Đấng Thiêng Liêng đặng sáng lạn.
-
Hai là cầu khẩn với Đức Đại Từ Bi tha thứ tội tình cho các em và cả chúng sanh.
- Ba
là có tế lễ thì tâm phải có cảm, cảm rồi mới ứng, ứng là lẽ tự nhiên.
-
Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng, mà nhứt là khiếu lương tri,
lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ ". (TNHT QII. 1969.
Tr 87)
Sự ngộ nhận ở chữ nghĩa trong kinh điển về lời cầu
nguyện, vái van, xin tha thứ tội tình, đã làm cho người ta tưởng chừng như các
Đấng Thiêng Liêng cũng có nhân cách biết thương yêu, ghét giận như phàm nhân
vậy. Sự thật không phải thế, chẳng phải vì lời cầu khẩn, những tiếng nói xin xỏ
ấy thốt ra mà các Đấng thương tình tha thứ, nhưng chính vì tâm hồn của con
người trong giờ phút ấy đã mở rộng cửa đón nhận các Đấng Thiêng Liêng mà các
Đấng thì hằng có mặt khắp nơi, nên khi mở cửa tâm hồn thì đương nhiên gặp, tức
là cảm ứng được.
Cũng như bầu sương lam đang phủ trùm cả núi rừng,
bác tiều phu mở cửa lều thì tự nhiên sương tràn vào. Tại hành động mở cánh cửa
ra, chứ không phải tại lời nói của bác tiều rằng “tôi mở cửa”, tại cái “khoảng
trống” không còn ngăn cách giữa phần trong nhà và bên ngoài mà sương tràn
vào và cái nhà đầy sương. Sương và nhà lúc bây giờ là một. Sương ở trong nhà và
nhà ở trong sương.
Ấy vậy thờ cúng không phải là việc mê tín hay dấu
hiệu của những tâm hồn yếu hèn mà mê tín, yếu hèn là tại mình hiểu sai và làm
sai vậy. Cho nên sự thành tâm và trúng cách, nghĩa là đúng pháp, rất cần thiết
trong việc thờ cúng, bằng chẳng vậy thì dầu có cúng lạy suốt đời cũng chỉ làm
mọi cho khói nhang, cũng hoài công vô ích.
CHỮ KHÍ
CÚNG
TỨ THỜI
Thờ cúng là một sinh hoạt thường nhật trong đời
sống của người tín đồ Cao Đài. Đức Quan Thế Âm Bồ Tát dạy phải siêng năng cúng
kiến cho thường với những lý do:
- Một là tập cho chơn thần được gần gũi các Đấng
Thiêng Liêng đặng sáng lạn.
- Hai là cầu khẩn với Đức Đại Từ Bi tha thứ tội
tình cho các em và cả chúng sanh.
- Ba là có tế lễ thì tâm phải có cảm, cảm rồi mới
ứng, ứng là lẽ tự nhiên.
- Bốn là tâm có cảm thì lòng bái ái mới mở rộng, mà
nhứt là khiếu lương tri lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra
mẫn huệ. Các em nhớ à". (TNHT. QII.1969-trg 87 )
Tuy nhiên không phải ai ai cũng dễ dàng đạt đến bốn
mục đính trên đây. Hương đăng trà quả, bàn thờ, tiếng chuông, tiếng mỏ hay cúi
đầu đảnh lễ tất cả chỉ là hình tướng bên ngoài gọi là thể pháp của Đạo. Điều
trọng yếu hơn hết là phải biết nương nhờ vào thể pháp ấy đặng đạt đến bí pháp
huyền linh là sức sống tâm linh ẩn tàng bên trong.
Vậy bí quyết ấy là gì? Ở đâu có?
I - BÍ PHÁP CÚNG TỨ THỜI
Trong phép cúng tứ thời hằng ngày tại tư gia hay
nơi công cộng như Đền Thánh, Đền Thờ Phật Mẫu... mục đích là để tập cho mình
quen gom thần định trí, nghĩa là tư tưởng phải chú định được vào một cái gì đó
thôi.
Chỗ chú định ấy thường là:
- Lời kinh
- Hoặc hình Thiên Nhãn
- Hoặc ý không muốn nghĩ gì cả.
Thật sự trong buổi đầu tâm trí của người tín đồ
chưa sống được với trạng thái trống vắng hoàn toàn, vì vậy chỉ yêu cầu gom về
điểm một là được. Sau đó mới lần đến chỗ ngừng nghĩ tư duy phàm tục, đón nhận
ánh sáng nội tâm tự phát nhịp nhàng với sự trợ thần của các Đấng Thiêng Liêng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét