Thi Văn Sưu Tập 1925 - 1934 (Hiền-Tài Nguyễn Văn Hồng)


Thi văn
            Ngày 25-8-1925 (âl 7-8-Ất Sửu).
THẦN SƠN QUAN TỔNG THỐNG TÔNG KIM
DIỆU VÕ TIÊN ÔNG
THẬP THỦ LIÊN HOÀN :

1 .   Âm dương  tuy cách  cũng Trời chung,
Thấy   trái  nên  đây  mới   tỏ   cùng.
Thắt dạ  thuyền xưa không đậu  bến,
Đau  lòng  hạc     chẳng  về   tùng.
Cúi  đầu  đành  chịu  thân  trăm tuổi,

Ngước mắt ngơ  trông bặt chín trùng.
Mạnh  yếu    ngồi  cam  chịu  vậy,
Hay  chi      chậu  với   chim  lồng.
*
2 .   Chim  lồng  bao  thuở   lại  non  xanh,
Ngóng mắt  trông vơi chốn thoát mình.
Dựng  nước  chẳng  ai  tài  tướng lược,
Liều mình  thiếu  kẻ  đáng hùng  anh.
Vầy  thuyền   chi   sợ   cơn   giông  tố,
Hiệp chủng còn hơn cuộc chiến tranh.
Thìn   dạ   chờ   châu   về   hiệp   phố,
Nơi  mình  sự   nghiệp  mới  tan  tành.

3 .   Tan tành  nhớ  đến  gánh giang san,
Lòn cúi thương dân  lắm buộc ràng.
Phú  quí   mồi   câu   con  hạc  lánh,
Đỉnh chung  gió thổi  đám mây tàn.
Đợi  thời  toan  mượn  cần  câu  Lữ,
Dựng nghiệp tua chờ mặt lưới Thang.
Ly  loạn  gặp thời  đời  muốn  chán,
Công danh phủi sạch  hưởng thanh nhàn.
*
4 .   Thanh nhàn ngày tháng lại Tiên gia,
Trị  loạn  hằng xem  thế nước nhà.
Bể hoạn  dập dồi  thương bấy trẻ,
Thành sầu chất chứa thảm cho  già.
Bạc đầu non  chịu  lằn  sương  nhuộm,
Nhăn mặt nước chờ  trận  gió qua.
Thân  ái  mối  dây  tua  nắm chặt,
Chít  chiu   ấy  cũng  một  bầy  gà.
*
5 .   Bầy      mất   mẹ   kiếm     vơ,
Yếu   đuối   biết  ai   để   cậy   nhờ.
Nắng hạn trông mưa trông mắt  mỏi,
Đắng  cay  mộ  nước mộ  lòng chờ.
Ngoài khua tiếng  giặc trong  khua nịnh,
Võ thiếu binh nhung quốc thiếu cờ.
Trí  chúa tôi hiền không gặp  chúa,
Nào  người  gánh  nổi  mối  xa  thơ.

6 .   Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng,
Ai giữ phong cương đặng  vững bền ?
Đắp  lũy  Cổ Loa  chưa  mấy  mặt,
Lấp hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu tên.
Thăng Long bao thuở nâng hùng khí,
Gia Định từ  nhiên chấp ấn quyền.
Sông  núi  dật  dờ  chờ  tạo  khách,
Hóa sông nên giạu, núi nên thiềng.
*
7 .   Nên thiềng khi trước lập công danh,
Chín bệ xem qua chẳng trí quân.
Ích nước xủ tay khoe đẹp áo,
Lợi nhà vỗ bụng dưỡng tròn thân.
Nam Giao vắng vẻ  đường cung kiếm,
Văn miếu khô khan ngọn bút  thần.
Danh vọng ru hồn quên thổ võ,
Thẹn nòi bộc lại mộ đai cân.
*
8 .   Đai   cân  đã    vẻ   chi   chưa,
Hay phận tù lao kiếp  sống thừa.
Đạp đất gập  ghình bầy trẻ dại,
Ngừa thời đ iên đảo  trí  già xưa.
Ngồi hang thương  kẻ  mang  da  chó,
Ngự  điện ghét quân đội  lốt lừa.
Cái nhục giống nòi sao chẳng  rửa,
Xoi hang mạch nước ý chưa vừa.

9 .   Chưa  vừa  mộng mị  với  tây  tà,
Vụ xác vong hồn  dựa phách ma.
Tiêu hủy  thân  cây  lằn  lửa táp,
Tan tành hình nộm trận giông qua.
Rước voi phá mả đào lăng miếu,
Thả rắn xua ong nhiễu điện  tòa.
Đổ lụy hỏi người sao chẳng nhớ,
Ngọn  rau  tấc  đất  nước nhà  ta.
*
10 .   Nước nhà ta có tiếng anh phong,
Vẻ đẹp trời đông sắc Lạc Hồng.
Nam Hải  trổ nhiều tay Thánh đức,
Giao Châu sanh lắm mặt  anh hùng.
Tinh trung lửa thét  thành   Bình  Định,
Khí liệt gươm đề tỉnh Quảng Đông.
Văn hiến bốn ngàn năm có sẵn,
Chi cần dị chủng đến dâng công.
                                                                       (ĐS. I. 12)
            Ngày 4-11-1925  (âl  18-9 Ất Sửu).
NHÀN ÂM ĐẠO TRƯỞNG
THẬP THỦ LIÊN HOÀN :
Thi  họa vừa  khi  bước  hứng nhàn,
Vòng trần luân chuyển luống lo  toan.
Cày mây cuốc nguyệt chờ Thang Võ,
Hằng biết cho dân chịu buộc ràng.
*
1 .   Buộc ràng túng thiếu  cõi Nam Châu,
Trị   loạn  vần   xây  cuộc  bể   dâu.
Phép nước đòi  cơn  mây gió  thảm,
Nghiệp nhà  lắm lúc nước non  sầu.
Thương đời để dấu noi người trước,
Hiệp chủng làm gương dắt    sau.
  chậu  chim  lồng  chi   dễ  chịu,
Rừng xưa  bến    thảnh  thơi  đâu ?
*
2 .   Thảnh thơi đâu buổi nước non nhà,
Nam  đảnh  hầu xem  trận gió qua.
Ứa   mặt   ướm   nâng  nền    trụ,
Bền  lòng  chờ   đợi   bến   sơn  hà.
Dập  dồi  bể  hoạn  thương bầy trẻ,
Lắc  lở   thuyền  du   hổ  phận  già.
Cũng muốn lẫy lừng xây thế  cuộc,
Vòng  trần  ngặt  đã  bước  chân ra.

3 .   Bước chân ra khỏi ngậm ngùi thay,
Nỗi ước nhiều  phen  khó  cạn  bày.
Rừng trước tuy vui chung rượu thắm,
Ơn  xưa  đâu  lợt  tấm  lòng  ngay.
Rèn  tâm  khá  nắm  dây  thân  ái,
Giữ  dạ đừng quên mối cảm hoài.
Biển  khổ  mang  bầu  chờ  tế  độ,
Giựt  giành  chi  khỏi  trả  rồi  vay.
*
4 .   Trả  rồi  vay  tua  vẹn  lòng  son,
Bia cũ  gương trung dấu vẫn còn.
Đội  mão  khỉ  ngồi  non  hớn  hở,
Lìa rừng cọp ngóng biển thon von.
Nào khi đất Việt trời ngang dọc,
Chừ lúc vùng Nam phận cúi lòn.
Xương thịt cũng đồng nhơn loại thế,
Vày  bừa    chẳng  hổ  sông non.
*
5 .   Non sầu cỏ nhuộm đã phơi sương,
Thành cũ đường xưa cảnh để buồn.
Vạc ngã người đày trâu ngựa kéo,
Gia  tàn  yến  rủ  gió  mưa  tuôn.
Vật còn biết mến ngày thong thả,
Mình há đâu quên chỗ cội nguồn.
Vầy hiệp đồng tâm  liên  ái  kết,
Cường quyền sức mọn dễ chi sờn.

6 .   Chi sờn máu thịt mảnh thân phàm,
Danh lợi mồi  câu  nhử  tánh tham.
  biết  trọng mình nhà nước trọng,
Đừng quên tham nhục giống nòi tham.
Non sông chẳng đổi theo lời nói,
Cơ nghiệp dầu thay bởi sức làm.
Un đúc lòng thành chờ máy tạo,
Có ngày khuấy nước dọc trời Nam.
*
7 .   Trời Nam vừa thọ ánh dương quang,
Cương tỏa tiêu tan thấy cảnh nhàn.
Vần vũ suối bờ Thần tiếp Thánh,
Ồn  ào  bến  nghé  quỉ    quan.
Hồn  trung vì  nước hơi vừa tỉnh,
Mắt  trí  xem  dân  đã  hóa  làn.
Hồng Lạc giống nòi dầu thoát ách,
  hai  mươi  triệu  kẻ  đồng gan.
*
8 .   Đồng gan mới biết đặng đồng tình,
Biết máu thịt mình mới biết binh.
Lợi  lộc  của  nhà  thì  cứ  lấy,
Thế quyền trong nước há ngồi xin.
Tróng gông nô lệ sao ham muốn,
Hình bóng quan viên xúm giựt giành.
Lịch  sử  chép biên bao vẻ  đẹp,
Ai  từng đem nhục đổi làm vinh.

9 .   Làm vinh chẳng nghĩ thẹn non sông,
Chín  suối  ông cha nhẫng tủi thầm.
Buồn thấy giống Hồng thây chúng xẻ,
Thảm xem dòng Lạc thịt người  bầm.
Biên  cương  buổi  nọ  Tàu  lui  gót,
Chín  bệ  ngày  nay  quỉ  nhảy đầm.
Rút  vỏ  gươm  linh   ta  quyết  một,
Chẳng cho kẻ nghịch đặng ăn nằm.
*
10 .   Ăn  nằm  nín  nẩm  đợi  chơn quân,
Ta    quyết   sẽ   cho   kẻ   hạ   trần.
Nắm   mối    xa   thơ  ra  sức  gánh,
Thâu  giềng    tắc  sửa  đầu  cân.
Thái bình trăm họ  nhìn chơn chúa,
Thạnh  trị   ba  châu  trổ   trí  Thần.
Độc  lập  gần  ngày  vui   sắp  đến,
Bỏ  cơn  đất  Việt  chịu  tam  phân./.
*
*           *
Chiêu  tập  hồn  thi   bước  Đạo  dìu,
Non xưa chớp cánh nhạn trông  theo.
Trời thanh khách gắng lần qua khỏi,
Đêm rạng  trăng  soi  lướt  khỏi  đèo.
Mây khỏa  đảnh  Tần màu gió cuốn,
Thuyền khơi sông Bích cánh buồm treo.
Giang san một dãy nên chung dựng,
Biển cả chi  nao ít mái chèo.
                                                                       NHÀN ÂM ĐẠO    (ĐĐTrN.14)

THI :
cho THANH THỦY (Cao Hoài Sang)
Bước  đời  chìm nổi  bấy nhiêu niên,
Tâm chí   ghe  phen  dập  lửa  phiền.
Ấm lạnh  dốc  tròn  gương  phấn đại,
Vui  buồn  chưa vẹn  nỗi  hàn huyên.
Lòng trần  nung nấu  trăm  mùi  khổ,
Biển ái  đầy vơi  một  chiếc  thuyền.
Nín  nẩm  chờ  ngày  tiền  quả  sạch,
Trau  giồi đạo hạnh hưởng ân Thiên.
                                                           DIÊU TRÌ NƯƠNG NƯƠNG
* * *
Thuyền khơi gió ngược khá  nương voi,
Vận  thới   hầu  nên  đã  thấy  mòi.
Vườn cúc  hôm nay muôn  cụm  nở,
Rừng tòng buổi  trước một  cây còi.
Hồng nương dặm gió chi  sờn cánh,
Ngựa ruổi  đường hòe    nhọc roi.
Nìn   nẩm   chờ   qua   cơn      cực,
Thìn lòng chúng có lượng  đôi  thoi.
                                                           CAO HOÀI ÂN
            (Thân phụ của Ngài Cao Hoài Sang giáng cơ) (ĐĐTrN. 14)

Ba vị Tiên Nương DTC
tặng tài Thanh Sơn Đạo Sĩ :
Hay Thanh  Sơn !  Giỏi  Thanh  Sơn !
Trung nghĩa về Tiên cũng ngậm hờn.
Cẩm     thêu   oan   thành  khí  giới,
Văn  chương  khảo  tội hóa côn quờn.
Rung  chuông   tỉnh  thế  ba  kỳ  thức,
Hồi   trống  truy  hồn    tánh  khôn.
Trị   loạn   sấn   tay    nâng  vạc  ngã,
Anh linh  muôn kiếp  nước Nam đồn.
                                                           LỤC NƯƠNG DTC
*  * *
Tài  Thanh  Sơn !  Trí  Thanh Sơn !
Câu  văn  tuyệt bút vẽ nên hờn.
Giục  lòng  chí sĩ chưa vừa sức,
Múa viết Thần Tiên đủ chấp quờn.
Dệt  thảm    dân  Trời  cám cảnh,
Khêu  sầu    tắc   Đất  kinh  hồn.
Nắn  nhồi  trí  huệ  thành  binh khí,
Rèn  chất  anh  thư đắp lũy đồn.
                                                           THẤT NƯƠNG DTC
* * *
Trung Thanh Sơn ! Nghĩa Thanh Sơn !
Bởi tại đâu ăn oán nuốt hờn.
Nát  mật  khó xem nhà vắng chủ,
Bầm gan há chịu nước không quờn.
Câu văn ái  chủng gần dân khí,
Tiếng sấm ưu hương định quốc hồn.
Lập chí ôn nhu là đắp lũy,
Nung lòng đạo đức ấy xây đồn.
                                               BÁT NƯƠNG DTC
*  *  *
Bài thi điệu Động đình :
của  LỤC NƯƠNG
Đầm ấm cảnh trời mai  ác lố,
Thơ thới đưa thuyền khổ khách chèo.
Nhấp nhô lượn sóng khỏa lèo,
Luồng đông gió tạt cánh bèo ngưng sông.

Một chiếc quạnh bóng hồng nháng ngọn,
Mây đoanh non tuyết đóng nhành thông.
Về nam đổ cánh rừng tòng,
Ngút xem tủa án cây đông khỏa rèm.

Đường xúm xít chị  em ruổi bước,
Dắt dìu nhau kẻ  trước người sau.
Tìm nơi hứng giọt mưa rào,
Để cơn khao khát khoe màu phù dung.

Đờn nhắn khách năm cung nhặt trổi,
Vẹt  mây đen  gió  thổi  chiều  hôm.
Quang âm ngày tháng dập dồn,
Ngừa khi trễ bước hoàng hôn trở đường.

Đường dài muôn dặm khách đơn thân,
Mượn bóng trăng làu  bước  vẹn chân.
Khóa  kín   song  thu   trau  hạnh  đức,
Chờ khi Đạo  trọn đến non Thần.

Non Thần tiếng hạc  chầu  vang  đảnh,
Chờ rước người ngay chánh dẫn đường.
Mơ màng chưa tỉnh huỳnh lương,
Sóng xao biển khổ nên thương khách trần.
                                                           LỤC NƯƠNG (ĐĐTrN. 15)

THANH TÂM TÀI NỮ
Mượn  nguồn đạo đức khỏa màu trần,
Luyến  thế  ngày  qua  khó  kịp xuân.
Bến khổ trương buồm thuyền đợi khách,
Non  Tiên  trở   cánh  hạc  chờ  xuân.

Xuân mệt mờ  bao nhiêu cảnh ủ,
Cụm rừng  tòng  lá xủ  tranh sầu.
Biết bao mấy nỗi tang dâu,
Bóng trăng kia đã đứng đầu tuổi xanh.

Xanh vàng ngọn cỏ  trải  mồ hoang,
Oan trái  trả vay khách nhộn nhàng.
Nhàn  cảnh mấy  ai  tìm  đến  chốn.
Chốn  bi  ai  luống  nhọc nhằn than.

Than rằng : Cõi phù sanh nháy mắt,
Trăm  năm  đâu  biết  chắc rủi may.
Đua tranh sánh của so tài,
Của tài  phủi sạch  đường dài thoát qua.
                                               Gắng lo xa . . . . . . . . . (ĐĐTrN. 18)
*  *  *
Liệu    day  trở  bước  thang  xuân,
Một  dặm  đường  qua  Đạo  một gần.
Sóng dậy tang thương hồng chích cánh,
Trời  dìu  thưởng phạt  họa đồng cân.

Cân thiêng liêng chất đồng tội phước,
Gặp  thời   tua  vẹn   đức   trọn  nhân,
Dịp  may  dễ    mấy  lần,
  đường  đến  chốn non Thần mới hay.

Hay  biết  đời  sao,  Đạo  lại sao ?
Hay gần cửa Thánh bước lần vào.
Hay  tìm  nẻo  chánh,  tà xa lánh,
Hay  tập  thanh cao  chí  mới cao.

Cao không vói, thấp nào để  bước,
Khó    lần  đến  được mới mầu.
Chỉ  mành  rối  khá  lo  âu,
Liệu  chơn  thoát khỏi vực sâu sau nầy.
                                               THANH TÂM TÀI NỮ (ĐĐTrN. 20)

H. M.
Rảnh  nợ  thế,  rừng  thung  vui  thú,
Chiều hứng nghe vượn hú chim chiền.
Một ngày thong thả là Tiên,
Suối trong rửa sạch não phiền  trần  gian.
Vòng cương tỏa buộc ràng danh lợi,
Chốn    trường lui  tới  lăng xăng,
Phép quan luật nước thúc dằn,
Đỉnh chung rốt cuộc mơ màng chiêm bao.
Đâu là thấp  đâu cao phẩm thế,
Nhục vinh  kia  ai   dễ  trọn đời.
Cõi trần kiếp sống mấy hơi,
Phủi  tay  phút đã châu rơi ngọc trầm.
Hỡi  ai    khách  tri  âm ! . .
                                                                        (ĐĐTrN. 19)

Rèm gió  đêm trăng bóng  rạng thinh,
Nghêu ngao  non Túy  thú riêng mình.
Thu   về   hứng   cảnh   đôi   bầu  cúc,
Hạ  đến   vui  sen   mấy  chén  quỳnh.
Nhàn  dạo  vẩn vơ  theo Nhựt Nguyệt,
Rảnh ngồi chậm rãi tụng HuỳnhĐình.
Tranh   đua   giũ  sạch   lằn   phi  thị,
Gặp  buổi  giang hồ  vớt  chúng  sinh.
                                               NHÀN ÂM ĐẠO  (ĐĐTrN.20)

                        Ngày 13-2-1926  (âl  1-1-Bính Dần) : TẾT Bính Dần.

CAO  ĐÀI
Bạch  Ngọc  từ  xưa  đã  ngự  rồi,
Chẳng cần hạ giới vọng  cao ngôi.
Bần  sang  trối  mặc  tâm  là quí,
Tâm  ấy  tòa  sen  của Lão  ngồi.
                                               (TNCT. TTT. 116)
                        Ngày 23-2-1926  (âl 11-1-Bính Dần).
                        Đức Chí Tôn cho Ông Trần Duy Nghĩa :
Đạo  tâm  rỡ   rỡ  sáng  như  ngày,
Hiệp cũng may mà gặp cũng may.
Đã  mộ  trong  lòng thân cũng mộ,
Một  lòng  mộ  Đạo  chớ  nên  sai.
(TNCT. TTT. 115)

                        Ngày 27-2-1926  (âl  15-1-Bính Dần).
                        Đức Chí Tôn cho Ông Phạm Văn Tươi :
Một  nhà  sung  túc  hưởng  ân Thiên,
Mối   Đạo   từ    đây   đắc  sở   truyền.
Giáo  hóa  dày  công  giồi  đức  hạnh,
Cháu con sau hưởng phước  liền liền.

                        Đức Chí Tôn cho Ông Phủ Nguyễn Ngọc Tương :
Con   trị   ai,  Thầy  cũng  trị   ai,
Một  lòng đạo đức  chớ  đơn  sai.
Năm năm công quả tua  bền chí,
Chỉ dẫn nhơn sanh bước lạc loài.
                                                           (TNCT. TTT. 119)
                        Ngày 3-4-1926  (âl 21-2-Bính Dần).
                        Đức Chí Tôn cho Ông Ca Minh Chương :
Thế  thượng  hề      tuế  nhân,
Thất tuần    định vấn  thời  quân.
Ưu      mạc  vọng  thường    lộ,
Nghiệp  trái  tùy căn định số phần.
                                               (TNCT. TTT. 169)

Cuộc  đời  càng  nghĩ  lại càng gay,
Ngặt  nỗi  Thiên cơ chẳng dám bày.
Rắn  núp  dưới  hang coi ngựa chạy,
Khỉ  ngồi   trên  ngọn  ngó    bay.
Đông Tây  chộn rộn  Trời thay xác,
Nam   Bắc    ê   hề   đất   chở   thây.
Nhơn vật  mười phần  hao chín tám,
Thần Tiên thấy vậy cũng chau mày.
                                               (TNCT. TTT. 125)
            Thứ ba, 11-1-1927  (âl  8-12-Bính Dần).

THÁI  BẠCH
            Chúng đẳng ngồi kiết tường nghe dạy :
Lão viết chậm, Thượng Phẩm Hiền hữu dặn Sĩ Tải phải viết cho cẩn thận.
Điệu văn Động Đình, Lão dạy chư Tiên, chư Phật, sau có truyền cho Bạch Vân Đạo Sĩ  gọi là Trạng Trình, song người học đặng có một điệu truyền thế gọi là điệu Bạch Vân.
Lão lấy đề  “ NGỤ ĐỜI “ nghe.

NGỤ  ĐỜI
1 .  Đời hằng đổi, nước non không đổi,
Giữ nhơn luân nhờ mối Đạo truyền.
Nhẫng lo tước trọng cao quyền,
Đem thân trần cấu gieo miền trầm luân.
Biệt cành là rụng đầy rừng,
Con thuyền Bát Nhã lỡ chừng độ duyên.

Sắc
Tài
Tửu
Khí

Lưng vơi lấy chí anh hùng,
Mượn gươm thần huệ dứt lần trái oan.

2 . Vụ  chữ  nhàn
(12-1-27) Mến giang san
Phế  bủa quan
Ngừa trị  loạn
Xem qua như chốn hý tràng,
Lẻ loi mặt nịnh, lỡ làng phận trung.
Chẳng ai nắm kiếm thư hùng,
Thành nghiêng khôn đỡ vạt rùng khôn nâng.

 dân
Soái tướng
Quân thần

Chinh chuyên thay, phận phàm nhân,
Đỡ  nương  chẳng  biết dựa gần người binh.

                                   Giải nghĩa :
1 .  là điệu Thái Cực.
2 .  là điệu Lưỡng Nghi.
Thầy là cội, chúng sanh là lá . . .

Phải lấy chữ anh hùng hoặc nhiều hay ít mà dứt oan trái đặng tu tâm dưỡng tánh, hầu vụ chữ nhàn.
Rùng là sung sướng. Thư Hùng kiếm của Trương Tử Phòng dâng cho Hàn Tín.
Cái phận phàm nhơn chịu lắm nỗi chinh chuyên. Chinh là nghiêng, chuyên là chở. Chở nghiêng là chở nặng nề.
Thần huệ kiếm : Huệ trí dĩ vi kiếm tác đạo dã : lấy trí huệ làm gươm mà hành đạo.

3 . Nghe thấy  bắt  động tình
(13-1-27) Dân dưới  phép tụng đình
Nước dưới phép đao binh
Nhà dưới  phép  luật hình
Còn  chi  hai  chữ  thái bình
Ngửa nghiêng chín bệ, gập ghình ba châu.
Non sông nhuộm một màu sầu,
Nền Giao cỏ loáng, sân chầu sương phong.
Dân chẳng hiệp đồng
Quan  chẳng vị  công
Vua chẳng phải dòng
Về đông hết kế Tử Phòng,
Đoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.
Tiếc thay một gánh cơ đồ,
Xa  thơ  khuất  dấu  bóng  cờ  bặt  tăm.

4.     Nòi   anh   phong  đó,    nghiệp  hỏi  ai   cầm,
Cũng xương cũng thịt,cũng khí cũng huyết Nam,
Cũng văn cũng pháp, cũng phong cũng tục Nam,
Cũng    tắc  cũng  triều  đình  của  nhà  Nam.
Ngôi Tiên đã lấm gót phàm,
Kẻ  chăn  dân  lại  ra  làm  con  buôn.
Dân như cá chậu gà chuồng,
Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.
Quốc gia nghèo nàn, dân  khó  mở mang,
Lăng điện phá hoại, Văn miếu bỏ hoang,
Trí  quân  lánh  mặt,  hồn  nước  điêu tàn.
Gặp cơn xúi ác giục loàn,
Người ngay tránh dạng, đứa gian khoe mình.
Tỷ như một đám bù nhìn,
Cân  đai  một  vẻ,  thân  hình  một  nơi.

            Giải nghĩa :
            Vậy thì gọi là điệu Thái Cực là sao ? Lão chỉ cho Thượng Phẩm.
            Đọc lại Bài số 1, khi nhập đề như vậy là không không, chưa hiểu căn cước đề thân, thì gọi là nhập Hư Vô.

Thái Cực là vì có  1 tiếng. Nhập lại Hư Vô.
Bài số 2, ba tiếng là Tam Giáo.
Sĩ dân, hai tiếng là Lưỡng Nghi.
Bài số 3, ngũ ngôn ấy là Ngũ Chi.
Bốn chữ: Tứ Tượng là đó.
Bài số 4: Chín chữ là Cửu Lưu đó.
Tám chữ: Ấy là Bát Quái.
Lão sẽ tiếp điệu Biến hóa vô cùng, rồi mới kết cho toàn điệu. (Bốn bài kia rồi rồi, bây giờ lấy lại số I, Lão tiếp nữa :)
                                               I . (NÔNG)  Ấy  cũng  gọi  đời
(20-1-27) Nhơn vật khác vời
Vị   chữ   kim  thời
Phong  dời  tục đổi
Điền viên đất nổi lên vàng,
Oằn vai nông chịu muôn ngàn thuế sưu.
Tròn năm luống phận cần cù,
Không nuôi thê tử, không bù thân sanh.
Nhỏ tùng đinh
Lớn tùng binh
Già nằm canh
Mảnh tơi còn phận chưa lành,
Máu  đưa  quan  nút, mỡ  dành  làng  ăn.
Thân trâu phải chịu nhọc nhằn,
Đòn roi lão mục, tiếng dằn thằng chăn.

II . (CÔNG)  Phải tùy phương nắng, giỏi dắn dai dù,
(21-1-27)  Một  thổ    xưa  kia  nên  tuấn  tú,
Bị tay phàm làm xấu nét phong quang.
Ôi ! Thương thay cho cẩm tú giang san.
Đầy sông ngui ngút khói thuyền,
Đầu non súng giữ, cuối triền gươm đoanh.
Công dân đắp lũy bồi thành,
Tay  mình  lại  cột  lấy  mình thảm thay !

Nỗi lương tháng bổng ngày,
Nỗi  tiền  hỏi  bạc  vay,
Nỗi  trả  thuế  đóng  bài,
Thợ  hay  dầu  đủ  sức  tài,
Giũa đêm chẳng đủ, bào ngày không kham.
Miệng ăn quá sức tay làm,
Thê nhi thiếu kém, thân phàm chẳng no.

III . (THƯƠNG) Cũng trò
(22-1-27)  Lợi bỏ
Không lo
Cướp   to
Giựt  nhỏ
Trường thương lấp ló ít người,
Nơi  tay  dị  chủng  như  trời  nắng  mưa.
Quốc dân ăn thải uống thừa,
Khôn ngăn bán lận, khó ngừa buôn gian.
Cửa Sài gòn tính toán, áp chế nội hàng,
Gạo bắp chở ngoại bang, giành phần xuất cảng.
Dùng mưu phản gián Nam bang,
Đoạt thâu cho sạch  vàng  ngàn  bạc muôn.
Nọc ăn máu nước thúi ruồng,
Khô  khan  Lạc  khí, hao  mòn  Hồng  tinh.

IV . (SĨ) Tính toán vốn lời mình, đừng  chịu  làm thinh e lỗ vốn.
(23-1-27) Kìa quan viên Chức sắc bôn chôn, cũng lũ dại học khôn,
Nọ binh  lính tổng làng  chộn rộn, cũng lũ ngu ăn hổn,
Mua phẩm hàm tước hộ cầu tôn,tiền ngàn không sợ tốn.
Cửa công huyện mãn nha còn,
Dạ thưa lưỡi mỏi, cúi lòn lưng cong.
Lằn xanh ưa hửi mùi đồng,
Ham thân nô lệ, mến vòng tôi con.
Lớp lương tháng chẳng tròn, nỗi vợ con ương yếu,
Rủi  phải  cơn  túng  thiếu, chịu người  níu kẻ đòi,
Đã quen tiếng buộc lời lơi,
Gian làm ra phải, lỗi dời thành ngay.
Dày công đếm số mề đai,
Mực văng nhuộm tánh, viết mài tiêu tâm.

            Giải nghĩa :
Bài I : Trên là Tứ Thời, giữa là Tam Tài, gọi là điệu văn Tam Tài.
Bài II : Trên là Bát Tuyết, giữa là Ngũ Hành, gọi là điệu văn Ngũ Hành.
Bài III : Trên là Lưỡng khí, giữa là Cửu Thiên.
Bài IV : Trên là Thập nhị Thời, giữa là Thập Điện Diêm Cung, gọi là điệu văn Thập Điện.
Chỉ rõ ràng Bát Quái, Bát Quái đã biến đủ nhứt Âm nhứt Dương.
Lão tiếp thêm cho đủ 12 điệu văn gọi là Thập nhị Khai Thiên Động Đình Hồ.

V . (NGƯ) Có chi ham
(24-1-27)  Nguồn nước cấm
Thủy lợi thâu
Chiếc thuyền câu
Ra thủ phạm
Nghề xưa hạ bạc đã nhàm,
Nay dân đói khó ra làm không no.
Lúc giăng lưới, khi đóng nò,
Mảng lo tàu chặt, nhẫng dò bè trôi.
Cá chê mồi
Bởi  quen  muối
Khôn tránh lưới
Nào khi nguyệt giỡn sóng cười,
Thú hay mặt nước chơn trời ngửa nghiêng.
Kinh luân đứt nối khó truyền,
Gãy câu Khương Tử, đắm thuyền Ngư công.

VI . (TIỀU) Song vẫn cũng một lòng
(25-1-27) Thân đói khó như nhộng
Hỏi ăn chi đặng sống
Rằng hớp khí thanh không
Lánh thân khóm bá rừng tòng,
Tiều chưa thoát khỏi trong vòng tôi con.
Cây ăn lưỡi búa đã mòn,
Rừng  cao  hết  củi,  nồi còn không cơm.
Lão lục ngó  lườm lườm,
Chú săn đơm khẩu súng.
Non xanh vắng gót anh hùng,
Bỏ  cơn    Kiết  lánh  vòng  Văn Vương.
Thành Thang buông mặt lưới trương,
Biết  khôn  cầm  thú  kiếm  đường cao sâu.
Nạn củi quế gạo châu,
Thiên  sầu  Địa  thảm !
                                                           (Tạm ngưng)
CHÚ  THÍCH :
Bài I    :  Nói về NÔNG.
Bài II  :  Nói về CÔNG.
Bài III :  Nói về THƯƠNG.
Bài IV :  Nói về SĨ.
Bài V  :  Nói về NGƯ.
Bài VI : Nói về TIỀU.
Tới đây, Đức Lý ngưng lại.
Như vậy, còn thiếu : CANH và MỤC.

Ngày 26-8-1927  (âl  29-7-Đinh Mão).
NHÀN ÂM ĐẠO TRƯỞNG

DÒNG  NƯỚC BÍCH
Dòng nước bích tiếng cầm đêm nguyệt,
Vui hứng nhìn nước biếc non xanh.
Trối ai danh lợi giựt giành,
Giựt giành rốt cuộc tan tành đỉnh chung.

Mờ mệt khách lao lung buộc trói,
Nào mấy ai khoe giỏi khoe khôn.
Kiếp trần bước những bôn chôn,
Bóng quang âm đã dập dồn tuổi cao.

Nhìn sự nghiệp chưa bao nhiêu thỏa,
Đường thế còn danh giá ngoài khơi.
Mảng lo của vốn đồng lời,
Vốn lời chưa mãn phủi rồi tay không.

Kìa một gánh tang bồng mang nặng,
Nước nhà xưa vốn chẳng lo âu.
Nước non cảnh cũ đeo sầu,
Non phơi đảnh bạc, nước rầu mặt nhăn.

Nhăn vì  nỗi thuyền xưa lạc bến,
Bạc vì  cơn tang biến thương qua.
Qua bao nhiêu bóng ác tà,
Tà gương chí sĩ nợ nhà còn mang.

Lằn thân ái sương tan buổi sớm,
Giấc mộng hồn chưa dợm tỉnh hồn.
Chờ cho nước lặng đến chơn,
Chơn mau khó thoát mấy cơn bão bùng.

Sầu ngoảnh lại rừng thung gió thoảng,
Máu anh phong chảy  cạn mạch hồng.
Ngày trời trưa sớm thong dong,
Để chơn rửa sạch tấc lòng đắng cay.

Mặc trần thế đọa đày kiếp sống,
Tạng mặt nhìn càng ngóng càng đau.
Điểm tang dấu tuyết đượm màu,
Vầng trăng sân trước soi làu khổ xưa.

Dòm lại nỗi nắng mưa sự thế,
Cảm giống nòi giữa bể sóng xao.
Ướm toan mượn giọt máu đào,
Nhành dương rưới tắt nhọc lao khổ mình.

Ngặt còn bóng trời Nam chiếu sáng,
Vận mạng chờ ác tản sương mơi.
Nắm tay bước tận thang Trời,
Lằn thương tâm níu đổi dời dây oan.

Bóng hồng lố cánh thoàn thơ thới,
Thiện niệm chờ cạn gởi nỗi đau.
Gương trong hạnh quí dồi dào,
Đem lòng thanh bạch sánh vào lửa binh.

Ai  là trí phân minh lẽ chánh,
Văn chương đem làm cánh làm vi.
Ấy phương bảo thủ thành trì,
Đường khai đã sẵn gắng đi cho cùng.

Mong ngày thoát khỏi lao lung. . .
* * *
Đường đi nhắm không dài chẳng vắn,
Nhìn non tây ác lặn đã tà.
Cành dương lác đác sương sa,
Bóng quang âm ướm thoát qua biển trần.

Muốn trần lánh dữ khá trau lành,
Nguyệt rọi đường đi một bóng thinh.
Lướt đến non  cao tìm động Thánh,
Chờ  hơi  quốc  trổi Đạo chưa thành.

Chưa  thành tua gắng chút công lao,
Lao  lực  đem  nhau  cảnh  tịnh  vào.
Một mối tương thân chừ nắm chặt,
Đạo nên thức tỉnh giấc chiêm bao.

Bao lần  chuyển  tiêu hao  nhọc thế,
Bước  cạnh  tranh  chưa  dễ  ai  hơn.
Mạnh  đè  yếu  thiệt   chán  chường,
Biển  sâu  khó  biết  lo  lường  giải  oan.

Rừng thu bóng ngày  tàn  cụm trước,
Tiếng chuông chùa nguôi được nỗi đau.
Sưởi  trong  ánh  nhựt  rọi  làu,
Nhằm  hôm  nhắn  khách  cội đào gió qua.

Lựa   đèo   tầm  ngọc  ẩn   non   Côn,
Triền  đá  cheo   leo  gắng  bước dồn.
Ngoảnh khóm mây chiều  lằn ác lặn,
Kêu   nhau  đổ   dặm   tạm     thôn.

Thôn  lân  rải   rác  bóng  người  qua,
Hỏi    lại   chưa   ai    vẹn   chữ    hòa.
Thi,  rượu,  đờn,  cờ,  không  kết bạn,
Quanh năm khuây lãng thế phui pha.
                                                                       (TNCT. HH. 112-114)

THẤT NƯƠNG
Tình  ái
Người tình ái lòng thương như biển,
Cả nước non hòa tiếng yêu đương.
Thương hơi gió lá nâng sương,
Thương chim đổ cội, thương tường che hoa.

Thương tiếng dế như hòa khóc bạn,
Thương hơi cây gió thoảng reo đờn.
Thương bầy thú nhảy đầu sơn,
Kết đôi chẳng hiểu tiếng hờn chia bâu.

Thương sông chảy như sầu nhăn mặt,
Thương gành khuya như bắc cầu Lam.
Thương con thuyền bá nương buồm,
Thương dòng nhi nữ  chứa hờn Tương giang.

Thương gió lặng mây tan trời rạng,
Thương muôn sao nhấp nháng bóng khuya.
Thương mưa đổ giọt châu ria,
Cỏ  cây  nhờ  nước chan  bìa  dầm  xuân.

Thương đến chốn gọi rừng trước tử,
Chúa hiền xưa đặng  giữ  Đạo Đời.
Thương công ngư phủ dầm khơi,
Đò  nhân  rước  khách  lập  đời  an  nguy.

Thương vạn vật  cũng bì đồng loại,
Thương nhơn sanh chẳng mỏi lòng thương.
Thương người lạc bước lỡ đường,
Tìm nơi Cung Tốt, lạc đường Bích Cung.

Thương các Đấng anh phong vị chủng,
Thương những trang bỏ sống vì nhà.
Thương lùm mả    thân ma,
Cốt  căn  báo  đáp  sơn    gầy  nên.

Thương cửa Khổng chẳng bền mối Đạo,
Thương  nhà  văn  khó  bảo    văn.
Đòi phen nắm viết muốn quăng,
Đề  danh  chẳng  kể  đáng  bằng  ghi  tên.

Thương những kẻ vì hiền khổ phận,
Cửa  tang  du  khó  lấn  đầu  hiên.
Thương người đeo thảm chác phiền,
Nỗi duyên lỡ dở hương nguyền lạnh tanh.

Thương những kẻ ôm giành cả nghĩa,
Thương  cho  người  cửa  tía  cầu  ô.
Bán  thân vì  chút  từ  cô,
Đem  duyên    đổi  liễu  bồ  buôn  may.

Thương nỗi bạn hằng ngày trông bóng,
Kiếm người thương nhẫng ngóng tin sương.
Tuyết khua bủa lạnh then giường,
Gối  chăn  chia  nửa bước đường lạnh tanh.

Thương tiếng dế năm canh trổi giọng,
Tưởng như dường ướm gióng dây loan.
Thương ai thổn thức canh tràng,
Dở phòng phòng vắng, vén màn màn không.

Thương cho kẻ ngậm ngùi  lỡ phận,
Tìm  kiếm  đôi  lại  vấn  vương oan.
Thương người lánh tục tìm nhàn,
Trễ  chơn    bị  phụ  phàng  tình  duyên.

Thương người giữ chẳng bền danh tiết,
Vì thương nên khó biết trọng mình.
Thà cam chết sống với tình,
Chia tay chẳng chịu sớm đành phụ nhau.

Thương trời rạng lao xao cánh nhạn,
Đến  đưa tin  cửa  Hán Chiêu Quân.
Thương người lạc bước phong trần,
Đem  thân  Hồ  Hán  bỏ  phần    duyên.

Thương những kẻ chờ thuyền biển ái,
Bồng con thơ ngần ngại trông chồng.
Tấm trinh đối mặt non sông,
Đành đem thân đá hẹn cùng tuyết sương.

Thương mây tỏa như dường vẽ bóng,
Chức Nữ kia ngồi ngóng Ngưu Lang.
Trông vơi cánh thước nhộn nhàng,
Cầu  Ô  chẳng  đến  lập  đàng  hiệp  đôi.

Thương cung Quảng Hằng ngồi ngó thế,
Đợi  tin  chàng Hậu Nghệ  đến  thăm.
Thương ai mến trộm nhớ thầm,
Lựa duyên chẳng chịu  ôm cầm thuyền ai.

Thương Tô Huệ hằng ngày dệt gấm,
Dâng  tâm  trung  vào  tận đền rồng.
Thương người chịu nhục cùng chồng,
Dầu  xa  ân  ái  còn  nồng  nghĩa  nhân.

THI :
Chiếc    linh  đinh  thả  giữa vời,
Thôi  tìm  bến  Phạm  đậu  an nơi.
Vừng  hồng  đã  lố  thay màu  đất,
Phận bạc  đành  cam đợi  sắc Trời.
Trăng chiếu  cội  tùng  trăng lổ đổ,
Tuyết đeo cành tử tuyết trong ngời.
Sự  đời   đã   thế  thôi  đành  thế,
Dâu  bể  đòi  phen  cũng  đổi  dời.
*  *  *

Túy Sơn Vân Mộng
Năm  Long  Đức  thứ  tư,
Tiết Trung Thu tháng tám,
Quế tử hương đưa muôn dặm,
Hòe huê  sắc trổ  đòi  ngàn.
Trăng trăng bạc, gió gió vàng, lẻo  lẻo  một  bầu  bạch  bích.
Trời trời  xanh, nước nước biếc, làu  làu  một  khóm  pha ly.
Tám cảnh vầy mở bức bình phong,
Bốn  cõi  khắp  xây  nền vân thủy.
Ta khi ấy: Thôi chầu Thiên sứ,
Rảnh  việc công sai.
Thinh thinh một chiếc thuyền lan, noi dòng Xích bích,
Nhẹ nhẹ đôi  con  chèo quế, dực  bến  Thương Lang.
Trải hang Nghê qua cửa Thần Phù,
Dựa  bãi  Hạc tới  chùa  Non Nước.
Nọ non Tiên, nầy cảnh Phật, những ngỡ tòa tinh đẩu đưa  về.
Kìa quán gió, ấy cầu mây, chẳng khác chốn Bồng Lai đưa lại.
Phới   phở   lòng  son   dễ   hứng,
Bâng khuâng dạ ngọc khôn cầm.
Ta bấy chừ: Ghé bến liễu đậu thuyền,
Dõi  gành  hoa  chơi   bộ.

            Vén xiêm nghê, cài mão én, xênh xang một quạt một con đồng,
            Nâng bóng ác, vận chăn lừa, lẻo  đẻo  đôi  hầu  đôi  đứa  trẻ.

Dìu dắt  qua cầu Cửu Cấp,
Lần hồi  tới cửa Tam quan.
Ngoài vách thưa, đọc đọc ngâm ngâm,
Trong  am  tự,  trai  trai  giới  giới.
Quến rủ đôi ba thầy tụng, rập rềnh tiếng quyển rập tiếng tiêu,
Trù trì năm bảy ông sư, thù tạc  chén  thung  đưa  chén  cúc.
Dăn díu tiệc hầu mãn một,
Lần  lừa  canh  đã sang ba.
Mảng vui say khách thảy về nhà,
Riêng  lặng lẽ  mình ta ngồi đấy.
Những mảng quến trăng làm bạn, xa trông năm thức tầng vân,
Thày lay mượn gió đưa duyên, xảy  thấy  một trang yểu điệu.
Rỡ  rỡ  sen  đưa  gót ngọc,
Dịu dàng tay hé rèm châu.
Tóc   làu  làu   mây  Sở  mấy  từng,
Quần dợn dợn sóng Tương đôi lớp.
Mặt hoa ái ngại dường Hớn Tiên Nương tách dặm xuống lầu Tây,
Mày  liễu    ê  tợ  Đường  Minh Phi đeo  sầu  về  ải  Bắc.
Sau  lưng  dõi  đôi  hầu  thiếu nữ,
Trước mặt bưng một hộp kỳ nam.
Khoan khoan noi thềm quế bước vào,thưa rằng thiếp đến chầu quântử
Rón  rén  dựa  lan  can ngồi xuống, hỏi  sao chàng nỡ phụ cố nhơn.
Ta khi ấy: Ngập ngừng như tỉnh như say,
Ngơ  ngẩn  nửa mừng  nửa sợ.
  chã  giọt châu sa  trước mặt, nào ngờ bình thủy duyên xưa,
Nhặt khoan tiếng ngọc thoảng bên tai,mới biết tàokhang nghĩa cũ.
Mặt nhìn mặt  trăm chiều,  sầu  tuôn  lã chã,
Tay cầm tay mấy nỗi, thảm lụy ngập ngừng.
Chừ  lâu ta mới hỏi chừng,
Sau trước nàng bèn bày tỏ.

Nàng mới thưa rằng :
Thiếp hổ  thân  bồ  liễu,
Ngày dựa cửa trâm anh.
Vâng ngọc âm từ chốn Thiên đình,
Xuống hạ giới làm con Tướng quốc.
   đỏ  nhờ   tay  Nguyệt  Lão,
Cửa vàng trộm sánh Lang quân.
Nghĩa keo sơn thoạt bén thoạt ưa,
Duyên kim cải càng quen càng thắm.
Tiếng cầm xen tiếng sắt, phao tuông đêm hạ giấc hòa phong,
Mùi  xạ  bén mùi hương, đầm ấm ngày xuân  hơi  thoại  võ.
Đã trót vàng trao ngọc gởi,
Lại dầm biển ái nguồn ân.
Kề hàng trước, dựa hàng mai, những ước trăm năm thêm có lẻ,
Gối  cội  đào, chen  cội quế, để thề chín nguyện vẹn và mười.
Trước là sửa trấp đẹp duyên chàng,
Sau nữa nâng khăn  an  phận thiếp.
Những tưởng gió cu còn đợi,
Nào hay máy tạo khôn ngừa.
Duyên mới vừa thỏ bạc ngang thềm,
Kể   đã   đặng  năm  năm  ân  ái.
Điềm phúc ứng dê xanh qua cửa,
Bỗng rẽ phân hai ngả Sâm Thương.
Hạc  về  huê  biểu  tủi  ngùi  ngùi,
Nhạn lại hoành dương trông thẳm thẳm.
Thiếp từ khi ấy: Về cung Nữ Tú,
Phụng sự  Thiên Tào.
Sớm trông mây tối trông mưa, phưởng phất non Vu hồn Thần nữ,

Xuống khe rồng lên đảnh hạc,mơ màng cung nguyệt bóng Hằng Nga.
Thân tuy  đà  về  chốn Tiên đài,
Lòng chưa ắt khuây nơi trần thế.

Ngảnh lại Tử Liêm nền đất cũ, sao dời vật đổi, tưởng cù lao khôn xiết nỗi thở than,
Trông về Thanh Hóa chốn quê chàng, biển rộng non cao, nghĩ ân ái lại càng thêm thảm thiết.
Khoăn khoái năm canh quyên nhớ cõi,
     ngàn  dặm    trông  chừng.
Mong tầm Tiên học phép huờn hồn, song sợ học
phép mầu, Tiên chẳng bảo,
Muốn bạch Phật  hỏi  phương  hiện  thế,  lại  e
phương cấm, Phật không truyền.
Cậy  gió,  hềm    gió  đảo điên,
Mượn trăng, e    trăng xao lãng.
Tin đồng sợ thầy đồng tráo chác,
Nhắm  cốt  e mụ cốt mơ màng.

Bởi rứa nên :
Hai  chữ  tương    giữ  dạ  kính  ghi  dòng nước bích,
Một thiên trường hận  rèn lòng  thề tạc đảnh non xanh.

Thương thay: Hạnh uyển hoa tàn,
Diêu  Trì  tuyết tán.
Mã trục Tây Hồ hà nhựt phản ?
Kình dư Đông Hải  kỷ thời lai ?
Nay gặp chàng thoạt đến chốn nầy,
Đặng cho thiếp thở than duyên cũ.
Thôi thôi: Xin  nhớ  mấy  lời  tâm sự,
Kính đưa hai chữ bình yên.
Ngậm ngùi  tả bức huê tiên, bốn lạy giã từ  trần thế,
Lã chã  đôi hàng lụy ngọc, chín trùng trở lại Tiên đô.
Ta khi ấy: Chùa mây dùn thẳng,
Quán  cát  ngẩn  ngơ.
Mở cửa toan ngồi đợi,
Ra sân  lại  đứng chờ.
Mái nọ non xanh, trăng  bạc  gác  đầu  hiên  vặc vặc,
Bên kia cửa lục, chuông vàng soi mặt nước chinh chinh.

Mới biết là :
Động  phủ  hội  tam  sanh,
Huỳnh lương thành nhứt mộng.
Máy Trời Đất không không có có,
Đạo  vợ  chồng  ái  ái  ân  ân.

Than ôi !
Mộng huyễn bào ảnh đồ vi thị  xuân,
Không sắc sắc không hà tu  thậm dã.
Tuy    rẽ  âm  dương  đôi  ngả,
Cũng chẳng qua thành kỉnh một lòng.

Tử như sanh, vong như tồn, lòng kỉnh thành hữu cảm tắc thông,
Sanh như ký, tử  như  qui, tâm ngưỡng vọng hữu cầu tắc  ứng.
Bèn đem  rượu cúc  rót ba tầng,
Rắp mượn bút huê đề nhứt luật.


Nguyễn Du
giáng cơ đề bút.

HÃY CẨN NGÔN VỚI CÁC ĐẤNG
           
Một hôm, một số Chức sắc đang ngồi uống trà luận đạo lý, bỗng có một ông nói : Không hiểu Bà Hớn Tiên Nương và Đường Minh Phi đẹp thế nào mà Đức Nguyễn Du trong Túy Sơn Vân Mộng ca tụng quá xá. Người gì mà :
. Mặt hoa ái ngại dường Hớn Tiên Nương tách dặm xuống lầu Tây,
. Mày  liễu    ê  tợ  Đường  Minh  Phi  đeo  sầu  về  ải  Bắc.

Sao không nói đẹp như Mỹ Ngọc mới phải lẽ (sự thật ông chẳng những không đẹp trai mà còn ốm yếu lỏng thỏng).

Tối đêm đó có đàn cơ, Bát Nương về nói :
- Em xin sửa hai câu thi của Nguyễn Du lại như sau :
. Mặt yêu vằn vện dường Tiêu Lực Sĩ le lưỡi trấn Tây phương,
. Mày chằn  nhăn nhíu tợ Quỉ Dạ Xoa đẩy xe  vào  Âm  phủ.
Chừng ấy, ông Mỹ Ngọc mới phục tài chơi văn của Bát Nương và hứa từ nay không dám xúc phạm đến Bà nữa.
(Trích Bán Nguyệt san Thông Tin, Xuân Nhâm Tý 1972 trang 42)

Ngày   7-1-1928   (âl  15-12-Đinh Mão).
Đức Lý Giáo Tông tặng Bà Giáo Hữu Hương Lựu :

THI :
Thấm thoát ngày xuân xế bóng thiều,
Đường  trần  vay  quả  đã  bao nhiêu.
Oằn sương liễu  đượm cành hoa sớm,
Đổ  cạnh  nhàn  đưa  ngọn gió chiều.
Gội   đức   nhờ   khi    lằn   bụi  sạch,
Trau  nhân  chờ  buổi  mối  căn  tiêu.
Rừng   tòng   dìu   dắt   đi   tìm  chốn,
Khổ  hạnh  mai  sau  cũng  đáng liều.
                                                           (TNCT. TTT. 863)
            Ngày 2-4-1931  (âl  15-2-Tân Mùi).
LỤC  NƯƠNG
Nương huệ kiếm đoạn vòng oan nghiệt,
Thủ Thanh long đặng diệt tà tinh.
Thuyết đàn đã trổi thinh danh,
Thổi loa giục thức chúng sanh giấc nồng.
Đại Đạo mở Trời đông cứu thế,
Nắm tay nhau đoàn thể dắt dìu.
Tây đoài ác xế chín chiều,
Rừng hoang lạc bước ắt nhiều thú hung.
Nhìn Thiên Nhãn Huyền Khung Thượng Đế,
Mặc  Đạo  y  dụng  kế  độ  đời.
Tam  Kỳ  tự  chu û là Trời,
Diệu huyền giáng bút để lời dạy khuyên.
Khá xem lấy tích Tiên sử Phật,
Trải thân cho gió dập mưa dồi.
Biển trần mặc sức sóng nhồi,
Từ  thuyền tuông lướt giữa đời cứu dân.
Quan Thánh Đế Huỳnh cân dẹp giặc,
Trừ  nịnh    gian  tặc  giúp  đời,
Xuân Thu bỉnh chúc nước người,
Giữ tròn nhơn nghĩa muôn đời sử nêu.
Lục Nương chị  ngựa bêu cứu nước,
Quân nghịch thù mua được thiêu thân.
Cũng vì thương nước thương dân,
Cầm  binh  lướt  trận  tấm  thân    gì.
Em lựa phải hờn chi tiếng quở,
Lo tìm phương ăn ở vừa người.
Vàng cao nào sợ lửa vùi,
Lửa cao đem thử vàng mười đẹp xinh.
Chị  đến  tỏ  thiệt  tình  em  rõ,
Luật Thiên điều mắc mỏ lắm thay !
Tùy lòng cơ tạo đổi xây,
Dùng phương thử thách dở hay mất còn.
Cơn bão tố thuyền con thủ phận,
Để chờ  cơn  tan  trận  phong ba.
Nương thuyền Bát Nhã vượt qua,
Biển êm sóng tạnh mới ra giữa dòng.
Cơn gió vụt thuyền bong hải ngoại,
Phải  lẹ  tay  bịn  lấy  dây  lèo.
Giữ  gìn  tay lái  tay  chèo,
Giông to  gió giật thân bèo sóng xao.
Chịu xuống thấp trồi cao mặt sóng,
Thương thân bèo bợn đóng rêu bao.
Nhọc nhằn thân chịu sóng xao,
Ngửa nghiêng vì nước, lao đao vì Trời.
Em khá nghiệm những lời chị tỏ,
Xét cho cùng hiểu    thi  hành.
Chị thương em lắm nhọc nhằn,
Thấy thân em khổ chẳng đành làm thinh.
Em muốn đặng thân vinh Cực Lạc,
Phải chịu cơn gió  tạt  sương  lồng.
Quản chi đông lạnh thu nồng,
Gìn tròn trách nhậm, đảo Bồng sau chung.
Cây muốn tịnh nhành rung vì gió,
Trăng  ánh  mờ  mất  tỏ    mây.
Trái oan buộc chặt vì dây,
Cũng vì phàm thể nhục thây giục người.
Làm sao thế  đừng cười chẳng thị,
Làm  sao  cho  kẻ vị  người kiêng.
Làm sao nêu đặng bảng Tiên,
Làm sao Bạch Ngọc triều Thiên đặng chầu.
Làm  sao  cả  đâu  đâu  tôn  tặng,
Làm sao cho người đặng yêu thương,
Làm sao rõ mặt hiền lương,
Làm sao thoát khỏi  tai  ương  cõi  trần.
Khuyên em phải thuận vâng chiều lụy,
Khuyên  em  lo  đoạt  vị  tranh  ngôi.
Khuyên em bền chí chớ thôi,
Khuyên em khá biết Ngũ Lôi chẳng vì.

BÁT NƯƠNG tiếp :
Khuyên em biết thời kỳ chuyển pháp,
Khuyên  em  an  chịu  áp  chịu  rầy.
Khuyên em  trọng Đạo thương Thầy,
Khuyên  em  trì  chí    ngày  rảnh rang.
Khuyên  em  cực  chớ  than  khổ nhọc,
Chuyển pháp mầu đặng lọc lòng người.
Khổ thân em cũng tươi cười,
Chi  chi  xin  nhớ  hơn  mười  năm  tu.
Khuyên lập chí trượng phu Hàn Tín,
Khuyên  em  gìn  tâm  nhịn    hơn.
Dầu cho gió kép mưa đơn,
Khuyên em gắng chịu trong cơn dãi dầu.
Khuyên em nhớ những bầu tâm sự,
Khuyên  em   gìn   hai   chữ  từ  bi.
Khuyên em bước tận trường thi,
Khuyên em dùng phép sợ chi  tà thần.
Khuyên  em  biết  cây cân Tạo Hóa,
Chẳng chê nghèo, sang cả chẳng vì,
Lành thăng dữ  đọa A Tỳ.
                                                           Thôi chị cho đôi câu kiếm hiểu.
                                               Chị  xin  kiếu. Thăng.

            Ngày 2-4-1931  (âl  15-2-Tân Mùi).

BÁT NƯƠNG DTC
Nỗi  đeo đẳng  đường đời ràng buộc,
Nỗi đưa chơn theo cuộc tang thương.
Nặng lo sự thế vô thường,
Nỗi thương quân tử  đôi đường thê nhi.
Nỗi  thương con giữ nghì mẫu tử,
Nỗi  trên  vai  hai  chữ  tam tùng.
Nỗi lo cả giống dài dòng,
Nỗi thân chữ hiếu, nỗi chồng chữ duyên.
Nỗi lo Đạo cho tròn danh tiết,
Nỗi  tề gia cho biết vẹn hằng.
Nỗi mình mỏng mảnh yếm khăn,
Khó khăn chẳng giúp cho chàng đỡ tay.
Nỗi  mày liễu hình mai dục khách,
Hằng che duyên cho sạch bướm ong.
Một thân ở chốn tiêu phòng,
Nỗi gia phải chịu dưới chồng phận tôi.
Nỗi  lo  lắng  cho  rồi  sự  nghiệp,
Giúp chồng con theo kịp cùng người.
Mảng lo chỉ  tối  cơm mơi,
Mảnh duyên trả vẹn cho rồi thân danh.
Nào có  tưởng thư anh một thể,
Sửa  đời  hay  nào  kể  gái trai.
Để lời nhắn gái anh tài . . . . .
                                                           THĂNG.
            Năm 1931 (Tân Mùi).
NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
Mặt nhựt rạng nhờ trời thanh bạch,
Cõi  trần  may  nhờ  khách đức dày.
Mùi hương sen Phật đã bay,
Từ  bên  Đông  Á  phô  bày  Tây  Âu.
Nước hằng sống rửa bầu thế sự,
Khiến nguyên nhân đổi dữ theo lành.
Vạn bang dẹp cuộc chiến tranh,
Lập cơ thoát khổ độ sanh muôn loài.
Kẻ    mị  đoái  hoài  giả  Đạo,
Kẻ  hay  tin  quái  giáo gây trò.
Nguyên  nhân  lỡ  bước ai lo,
Đon   đường   Cực  Lạc  đưa  đò    tân.
Khá  hiểu rõ Thiền Lâm cho chóng,
Các nguyên nhân trông ngóng bấy lâu.
Biết  thân  lại  đợi  ai  cầu,

TÁI CẦU: LỤC NƯƠNG tiếp :
Cầm gươm thần huệ xây lầu nguyệt quang.
Dục  thế  tục  an  nhàn  lấy  phận,
Cửa Thiên cơ khỏi vấn vương oan.
Để chân vào cõi Niết Bàn,
Thoát vòng luân chuyển may đàng tầm duyên.
Tu đặng phép nhà Thiền ít kẻ,
Những đam mê theo lẽ dối đời.
Sa môn chánh pháp đổi dời,
Con buôn cửa Phạm gạt người thiện tâm.
Khá  hiểu nghĩa Thiền Lâm cho rõ,
Các thinh âm chẳng có cửa Không.
Bớt điều sắc tướng hoàn vong,
Bớt điều hồ mị nhọc lòng phạn hương.
Bớt những lẽ người đương mê tín,
Nhập Tịnh gia cậy lịnh Thích Ca.
Bớt  điều  làm  sãi    ma,
Đưa linh lại mượn có nhà minh sanh.
Bớt những lẽ giựt giành bái phước,
Lấy  Vu  Lan  đặng  được  ấm  no.
Bớt kinh bớt xá dâng thơ,
Mã môn con hát giả đò giải khiên.
Bớt cậy Phật lập quyền Địa Ngục,
Bớt  đồ  mưu  lấy  phục  Di - Đà.
Bớt phương giải nạn tinh ma,
Lập nên danh phận cho nhà quỉ tăng.

Thái Thơ Thanh,
Anh khá kiếm lời răn của Phật,
Lấy  từ   bi   dìu   dắt   sa  môn.
Chư tăng như xác không hồn,
Lấy câu cứu khổ làm môn độ đời.
Anh khá mở  cho rồi  Cực Lạc,
Lập đường tu cho các chư sơn.
Tùng theo Tân Pháp Chí Tôn,
Đường tu cửa Phật may huờn như xưa.
Em  nói    cho  vừa  Anh  hiểu,
Bác Thiền Lâm, tùng kiểu Tam Kỳ.
Phép mầu hai chữ  Từ Bi.
                                                           THĂNG.
            Ngày 19-9-1933 (âl  30-7-Quí Dậu).

HỒ XUÂN HƯƠNG
Em chào các Ngài.
            Bát Nương dặn Em cho hay rằng không đến đặng vì đã trót mấy ngày vào hộ Lê Tôn Quân cùng Ngạn Sơn, nên trễ về chầu Diêu Trì một buổi.
Em xin tỏ hay rằng vô hại, cứ an lòng.
Nghe Em :

THI :
BIỂN NAM HẢI
Biển Nam Hải thuyền Tiên đưa khách,
Động Bồng Lai  phủi sạch phong trần.
Con buồm thẳng cánh đài vân,
Nước non hứng đặng một lần thanh xuân.

Bước thơ sanh  đã  gần  cõi Thánh,
Vẹt gai chông đặng lánh bụi hồng.
Kìa đường giải khổ mênh mông,
Cậy cây huệ  kiếm đoạn vòng  gia  nô.

Lấy son  sắc điểm tô xã tắc,
Mượn trượng phu vẽ mặt sơn hà.
Bóng trời soi nụ đào hoa,
Thơm tho quốc túy, điều hòa Việt phong.

Bảo tồn giống Lạc Long chuyển thế,
Ánh sao Khuê đã xế sân rồng.
Ngọc lìa Hiệp Phố hồi đông,
Báu xưa huờn trả con Rồng cháu Tiên.

Đừng ngần ngại cửa thiền sấm chớp,
Giữ  nghĩa  nhân  đặng hợp giống nòi.
Sá chi những mặt tôi đòi,
Mua vinh chẳng thẹn tiếng đời thị phi.

Cửa ngục thất cũng    lầu  các,
Hổ nhục hay gội mát anh hùng.
Đã toan lãnh phận kiếm cung,
Đường tên mũi đạn để dùng bia danh.

Hễ tướng soái, chiến tranh là nghiệp,
Đạo  đức  sao  cho  hiệp  Thiên  đài.
Miệng tài  nào ví  tài  hay,
Giục roi Lữ Vọng, cổi hài Trương Lương.

Diệt  mê tín, mở  đường chơn thật,
Lấy Thánh tâm đặng cất Cao Đài.
Trảm  quỉ  khí, sát    oai,
Huơi đao Quan Võ, tế bài Vương Quân.

Tuy nền Đạo mấy lần nghiêng sụp,
Bác Nhã  còn  ẩn  núp  bến  trần.
Ba đào qua, lố bóng ngân,
Toàn cầu cả thấy nhơn quần đắp xây.

Mới  tám  thu  bao  chầy    vội,
Đạo huyền linh sớm tối cũng thành,
Đêm chầy nghe đã tàn canh,
Vừng đông tin nhắn rất lành tự do.

Lâu cuối năm, chầy cho đôi tháng,
Trông Bắc phương thấy dạng cứu tinh.
Rồi mong thế giới hòa bình,
Ngưu giang lặng sóng, Hà thành khói tan.

Chừng ấy mới an nhàn Nam Việt,
Mới lo toan trả nghiệt đền oan.
Kính hiền ngõ, trị bạo tàn. . .
                                                                       Hồ Xuân Hương

DIÊU TRÌ KIM MẪU
Lòng thành kỉnh khẩn cầu vọng bái,
Biết  các  con  phận  gái  chưa  an.
Thành tâm, MẸ phải chứng đàn,
Canh khuya dạy bảo con toàn thủy chung.
  thân  gái  không cùng vô phước,
Mắc tội xưa chẳng được thảnh thơi,
Xuống trần làm máy luân hồi,
Ăn  cay  nuốt  đắng trả  rồi  nợ  duyên.
Mấy khi gặp Chơn truyền xuống thế,
MẸ mới xin Ngọc Đế xuống truyền.
Xuống trần độ kẻ tâm duyên,
Thiên đường trở lại thoát miền gai chông.
Nhìn thấy trẻ trong vòng lao lý,
Muốn các con một  ý  một lòng.
Đừng ham mua bưởi bán bòng,
Nghĩa tình em chị  đem lòng ghen tương.
Tình chồng vợ cang thường gây mối,
Phải  mến  yêu  sớm  tối    nhau,
Đừng mong cậy chỗ sang giàu,
Khuyên đừng so sánh vàng thau phụ tình.
Sách có câu : Phu vinh thê ấm,
Lại có câu : Tu  thắng  ngô gia.
Xử sao trên thuận dưới hòa,
Xướng tùy trọn đạo gần xa tỏ tường.
Xa những kẻ buôn hương bán phấn,
  chồng thương xô lấn  dọc ngang.
Dầu chồng sanh thói lăng loàn,
Thay đen đổi trắng làm đàng mây mưa.
Noi  tiết  phụ  đời xưa thanh sử,
Sách có câu : Hiền nữ kỉnh phu.
Gái nên tiết vẹn ngàn thu,
Dữ  hung  sau  bị  mưa mù sương sa.
Nhìn  thấy  trẻ  chan hòa giọt lệ,
Bởi quá thương con trẻ chẳng lo.
Chẳng lo sợ chẳng gặp đò,
Ráng làm sao đặng khỏi lò dương gian.
Chị  với  em  hiệp  đàng  chung sức,
Yêu mến nhau cho được thấm duyên.
Chị đau em luống than phiền,
Em  dầu  đau  khổ  chị  liền  xốn  xang.
Người cách mặt đượm tràn nước mắt,
Vắng chị em khá nhắc khá thương.
Thương nhau trong cảnh đoạn trường,
Chừng nào đến chốn Thiên đường mới yên.
Cuộc thương hải tang điền thấy khổ,
Khắp bốn phương nhiều chỗ họa tai.
Thần Tiên xem thấy châu mày,
Đói  cơm  ai   giúp,  thi  hài  ai  chôn.
Người vô phước linh hồn đâu được,
Chốn Tây phương hưởng phước Thiên Thai.
Con ôi ! Giữ  da ï nhớ  hoài,
Giã  con    lại, Thiên  đài  MẸ  lui.
                                                                                  THĂNG.
*
 *         *
DIÊU TRÌ KIM MẪU
Mặt trời lố mọc nhành dương,
Mưa sa lác đác mùi hương nực nồng.
Thấy con trần thế có lòng,
Thành tâm cầu khẩn MẸ hồng vãng lai.
Dạy con để dạ nhớ hoài,
Mai sau về chốn Thiên đài chung vui.
Hễ con biết Đạo biết mùi,
Biết trau sửa tánh biết giồi nết na.
Biết con là phận đàn bà,
Biết lời ăn nói thiệt thà hiền lương.
Biết dùng dưa muối rau tương,
Biết lo tụng niệm, biết đường tu thân.
Chớ nên quyến luyến hồng trần,
Chớ  nên  tham  phú  phụ  bần  rẽ hai.
Chớ cho tình lợt duyên phai,
Chớ vong nghĩa cũ, chớ hai tấm lòng.
Có chồng trọn nghĩa cùng chồng,
Đắng cay phải chịu mặn nồng phải cam.
Làm sao phải gái nhà Nam,
Phải gìn đạo đức, phải ham tu hành.
Phải lo hai chữ sanh thành,
Phải thương cha mẹ nhọc nhành buổi xưa.
Phải cần sớm tối cùng trưa,
Phải  lo  tu  niệm  quê  xưa  đặng  về.
Hồng trần cõi tạm chớ mê,
Sao bằng Tiên cảnh là quê hương mình.
Thấy con có chí đắc thành,
Cho nên MEï phải nhọc nhành vì con.
Dầu cho biển cạn non mòn,
Mấy  lời  MẸ  dặn  giữ  tròn  chớ  sai.
Giã  con    lại  trần  ai,
MẸ về Tiên cảnh Bồng Lai hưởng nhàn.
                                                                       THĂNG.

DIÊU TRÌ KIM MẪU
Treo đai ngọc đền vàng Long Hội,
   con  hiền  bước  vội  đài  sen.
Con ôi ! Đây MẸ đốt đèn,
Gắng  đi  tận  đến  bệ  tiền  Trời  ban.
Người làm việc gian nan lắm nỗi,
Người thảo ngay sớm tối khổ đau.
Ma vương chen lấn Đạo Cao,
Đốt đèn trí huệ, đừng nao tấc lòng.
Nhớ hai chữ đại đồng nơi dạ,
Rằng thệ đường một ngả không hai.
Quyết đi tận đến kỳ khai,
Vào trường Long Hội gặp ngày định phân.
Con dầu gặp trăm lần cay đắng,
Nguyện với Thầy dìu dẫn giùm con.
Chẳng cho đạo đức hao mòn,
Chẳng cho mực lộn với son đổi màu.
Trống đã giục con nào lơi dạ,
Thúc hối mau bươn bả kịp kỳ.
Bóng đèn dẫn đến trường thi,
Lẽ  nào  con  lại  tách  đi  về  đời.
Tay  rạch  đất  con  ôi  trẻ  nhớ,
Ngước mặt lên phú có cao xanh.
Con ghi nơi dạ làm lành,
Dốc lòng đoạt đặng bảng danh đại đồng.
Nay con nắm ấn rồng Thượng Phụ,
Ngậm phù linh đặng giữ lòng con.
Trăm năm con cứ giữ tròn,
Nếu con bội tín, thân con tan tành.
Nhớ Mẹ già cung xanh đợi trẻ,
Tả tâm thơ thỏ thẻ bên con.
Bài nầy MẸ chép bút son,
Để làm kỷ niệm cho con học đòi.
Gặp cảnh khổ cho con bớt khổ,
Dầu lao tâm ấy số tiền căn.
Lời Thầy đã có dặn rằng,
Hữu chung hữu thủy đạo hằng đừng sai.
Lòng con nguyện Cao Đài gắng sức,
Diệt khảo lòng nắn đúc chí con.
Ấy    bài  học  để  lòng,
Gặp khi nghịch cảnh long đong con phòng.
Hễ quên MẸ, muốn trông thấy MẸ,
Ngâm bài nầy có lẽ khuyên lòng.
Dặn con nhớ giống nhớ dòng,
Nhớ cùng bạn đạo nhớ trong cảnh buồn.
Tình anh chị thịt xương một loại,
Hễ thương Thầy thì phải mến nhau.
Biết rằng không phải rún nhau,
Mà Thầy đem lại đổi trao mối tình.
Con thương MẸ con nhìn lấy nước,
Ắt  lòng  con  phải  nhớ giống nòi.
Nhớ rằng thảo chúa ngay tôi,
Khuông phò đạo đức phục ngôi đại đồng.
Họa chữ Tâm trên dòng Thiên Nhãn,
Cho Ma vương chẳng dám lăng loàn.
Để con đường thẳng bước sang,
Khỏi  ai  trì  kéo  đặng  an  tinh  thần.
Ve dáo dác xa gần rủ bạn,
Nhớ chị em lai láng lòng trông.
Nữ Nam coi  cũng một dòng,
Trên Thầy giáo hóa tấc lòng không sai.
Ơn đức ấy con nay chạm dạ,
Đặng con lo đền trả đức nầy.
Mãn rồi  lại hiệp cùng Thầy,
Giáo Tông sắc mạng  tại nầy năm châu.
Trời đã tối cung lầu trống đổ,
Các thú chim tìm tổ nghỉ ngơi.
Các con thì cũng đua bơi.
Kẻo khi trễ bước ắt thời tối tăm.
Nguyện chí một dốc tầm chơn lý,
Không sai lòng nãn chí người tu.
Dầu cho mưa nắng dãi dầu,
Thân con phú có trăng thu soi giùm.
Một lòng trọn thủy trọn chung,
Mực đen giấy trắng thệ lòng đừng sai.

Hết
Những Chữ Viết Tắt
Viết tắt :
ĐCT : Đức Chí Tôn.
DTKM : Đức Diêu Trì Kim Mẫu.
LTB : Đức Lý Thái Bạch.
QÂ : Đức Quan Âm Bồ Tát.
QT : Đức Quan Thánh.
CTP : Đức Cao Thượng Phẩm.

Các năm :
AS : Ất Sửu.
BD : Bính Dần.
ĐM : Đinh Mão.
MT : Mậu Thìn.
KT : Kỷ Tỵ.
CN : Canh Ngọ.
TM : Tân Mùi.
NT : Nhâm Thân.
QD : Quí Dậu.
GT : Giáp Tuất.
Bảng Liệt Kê Các Bài
Thi Văn Sưu Tập - Quyển I

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét