Ðêm 24-12-1925 (âl 9-11-Ất Sửu)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ
TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Ðạo
mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn
tuổi muôn tên giữ trọn biên.
Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như
vậy.
Nhà nầy sẽ đầy ơn Ta. (Nhà của M. C...)
Giờ ngày gần đến, đợi lịnh nơi Ta. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính
mến Ta hơn nữa.
CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành.
HẬU ÐỨC TẮC CƯ Thiên Ðịa cảnh,
HUỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh.
(Mười hai chữ lớn trong ba câu trên là tên của 12 người môn đệ trước hết của
của Ðức Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Còn ba chữ xiên lớn trong câu chót là tên
của 3 vị hầu đàn).
CHÚ THÍCH:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG
ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương: Ðấng Ngọc Hoàng Thượng Ðế gọi là Ðấng Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma
Ha Tát, dạy đạo tại nước Việt Nam.
* Theo Ðạo Sử, Ðức Chí Tôn đến với nhóm xây bàn (gồm ba Ông: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc,
Cao Hoài Sang) vào hạ tuần tháng 7 năm Ất Sửu (1925) với danh xưng là A Ă Â.
Khi dạy đạo cho ba ông thì Ðức Chí
Tôn xưng là Thầy và gọi các ông là môn đệ. Vì lời cam kết nên ba ông không dám
tìm hiểu Ðấng A Ă Â là ai, chỉ biết đó là một Ðấng có quyền uy rất lớn nơi cõi
vô hình.
Mãi đến đêm Noel, 24 rạng 25 tháng 12 năm 1925,
Ðấng A Ă Â mới giáng cơ cho bài Thánh Ngôn trên, cho biết Ngài là Ðấng Ngọc
Hoàng Thượng Ðế, nay gọi là Ðấng Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Hát, giáng cơ
dạy đạo ở nước Việt Nam.
Décembre (tiếng Pháp): Tháng 12 dương lịch.
Europe (tiếng Pháp): Châu Âu.
Thái Tây: Thái là thịnh vượng. Thái Tây là các nước
cường thịnh ở phương Tây, tức là các nước ở Châu Âu gồm: Anh, Pháp, Ý, Ðức, Hòa
Lan, Bồ Ðào Nha, vv. . .
M. C...: viết tắt Monsieur Cư: Ông Cư (Cao Quỳnh
Cư). Nhà của Ông Cư lúc đó ở 134 đường Bourdais Sài Gòn.
Ðêm 24 tháng 12 là đêm giáng sinh của Ðức Chúa
Jésus Christ ở nước Do Thái. Ngài là con yêu quí của Ðấng Thượng Ðế, thay mặt
Thượng Ðế giáng trần mở đạo Thiên Chúa ở nước Do Thái và truyền bá qua các nước
Âu Châu.
* Bài thi bốn câu có tên 12 môn đệ đầu tiên của Ðức
Chí Tôn, theo ÐS.I.50 thì Ðức Chí Tôn giáng vào đêm mùng 8 rạng mùng 9 tháng
Giêng năm Bính Dần (dl 21-2-1926) tại đàn cơ thiết lập nơi nhà Ông Vương Quan
Kỳ, số 80 đường Lagrandière, Sài Gòn, nhân Lễ Vía Ðức Chí Tôn, Ngài Ngô Văn Chiêu
chứng đàn, Ðức Chí Tôn cho bài thi "Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa". .
. . . . Khi ấy Ngài Ngô Văn Chiêu xin Ðức Chí Tôn cho bài thi có tên các môn đệ
đầu tiên làm kỷ niệm.
12 môn đệ có tên trong bài thi kể ra sau đây:
CHIÊU: Ngô Văn Chiêu.
KỲ: Vương Quan Kỳ, đắc phong Thượng Giáo Sư.
TRUNG: Lê Văn Trung, đắc phong Ðầu Sư Thượng Trung
Nhựt, sau thăng Quyền Giáo Tông.
HOÀI: Nguyễn Văn Hoài, tức là ông Phán Hoài.
BẢN: Ðoàn Văn Bản, đắc phong Thượng Giáo Sư.
SANG: Cao Hoài Sang,
đắc phong Thượng Sanh.
QUÍ: Lý Trọng Quí.
GIẢNG: Lê Văn Giảng,
đắc phong Thượng Giáo Hữu.
HẬU: Nguyễn Trung Hậu,
đắc phong Bảo Pháp.
ÐỨC: Trương Hữu Ðức, đắc
phong Hiến Pháp.
TẮC: Phạm Công Tắc, đắc
phong Hộ Pháp.
CƯ: Cao Quỳnh Cư, đắc
phong Thượng Phẩm.
Ngài Ngô Văn Chiêu tách
khỏi nhóm Phổ độ của quí Ngài Lê Văn Trung và Phạm Công Tắc để chuyên bề tu
đơn, sau đó Ngài Ngô về Cần Thơ lập Chi phái Chiếu Minh.
Hai Ông Nguyễn Văn Hoài và Lý Trọng Quí theo Ngài
Ngô Văn Chiêu tu trong phái Chiếu Minh, sau Ông Lý Trọng Quí (cũng có tên là Hồ
Vinh Quí) lại tách riêng lập Chiếu Minh Ðàn Cần Thơ, có ra cuốn Kinh Tam Nguơn
Giác Thế vào năm Tân Mùi (1931).
Ông Vương Quan Kỳ tách khỏi TTTN vào năm 1930, lập
Chi phái Cầu Kho ở Sài Gòn.
Bài thi bốn câu Hán văn có tên 12 môn đệ đầu tiên
của Ðức Chí Tôn viết ra chữ Hán như sau:
招旗忠度引懷生
本道開創貴講成
厚德則居天地境
還明旻到守臺名
GIẢI THÍCH:
Câu 1: CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn
HOÀI sanh:
Bốn vị: Chiêu, Kỳ, Trung, Hoài có phận sự độ dẫn
nhơn sanh, độ cả thai nhi còn trong bụng mẹ.
Câu 2: BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành:
Nền Ðạo do Ta (Ðức Chí Tôn) mở ra nhờ bốn vị: Bản,
Sang, Quí, Giảng mà đặng thành tựu.
Câu 3: HẬU ÐỨC TẮC CƯ Thiên Ðịa cảnh:
Bốn vị: Hậu, Ðức, Tắc, Cư cùng ở nơi cõi gọi là Thiên Ðịa cảnh.
Câu 4: HUỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh:
Ba vị: Huờn, Minh, Mân đến giữ cái đài của Ta.
2 . Ngày 3-1-1926 (âl 19-11-Ất Sửu)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG
ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương.
Thủ cơ - Chấp bút.
Thủ cơ hay là Chấp bút phải để cho thần, tâm tịnh mới xuất Chơn thần ra
khỏi phách đặng hầu Thầy nghe dạy.
Khi chấp thủ thì tay tuân theo Chơn thần nói lại mà viết ra, mường tượng như con đặt
để, con hiểu đặng vậy.
Chơn thần là gì ?
Là nhị xác thân (périsprit), là xác thân thiêng
liêng. Khi còn ở nơi xác phàm thì rất khó xuất riêng ra đặng, bị xác phàm kéo
níu.
Cái Chơn thần ấy của các Thánh, Tiên, Phật là huyền
diệu vô cùng, bất tiêu bất diệt. Bậc chơn tu khi còn xác phàm nơi mình, như đắc
đạo, có thể xuất ra trước buổi chết mà vân du Thiên ngoại. Cái Chơn thần ấy mới
đặng phép đến trước mặt Thầy.
Như chấp cơ mà mê thì Chơn thần ra trọn vẹn khỏi
xác. Thầy mới dạy nó viết chữ chi đó, nó đồ theo, Thầy nói tên chữ, xác nó cầm
cơ viết ra, người đọc trật chữ, nó nghe đặng, không chịu, Thầy buộc viết lại và
rầy kẻ đọc trật ấy.
Còn chấp bút, khi Thầy đến thì làm cho thần con bất
định một lát, cho thần xuất ra nghe Thầy dạy, còn tay con tuân theo mà viết. Ấy
là một phần của con, một phần của Thầy hiệp nhứt, mới thấu đáo Càn khôn, tinh
thông vạn vật đặng.
Trước khi thủ cơ hay là chấp bút, thì phải thay y
phục cho sạch sẽ, trang hoàng, tắm gội cho tinh khiết, rồi mới đặng đến trước
bửu điện mà hành sự, chớ nên thiếu sót mà thất lễ. Nếu chấp cơ thì phải để ý
thanh bạch, không đặng tưởng đến việc phàm. Tay chấp cơ cũng phải xông hương
khử trược, tịnh tâm một lát, rồi phải để tinh thần tinh tấn mà xuất ngoại xác,
đến hầu dạy việc.
Phải có một Chơn linh tinh tấn mới mầu nhiệm, huyền
diệu, phải trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn, phải tập tành chí Thánh,
Tiên, Phật, mới phò cơ dạy đạo cả chúng sanh. Kẻ phò cơ, chấp bút cũng như
tướng soái của Thầy để truyền đạo cho thiên hạ.
Các con đừng tưởng việc bút cơ là việc tầm thường.
Còn việc truyền thần lấy điển quang thì ai ai cũng có điển trong mình, nó tiếp
điển ngoài rồi thần của nó viết ra, có khi trúng, có khi trật.
Vậy khi nào chấp cơ thì phải đợi lịnh Thầy rồi sẽ
thi hành.
CHÚ THÍCH:
Thủ: Tay, cầm bằng tay. Chấp: Cầm giữ.
Thủ cơ đồng nghĩa với Chấp cơ, Phò cơ, Phò loan.
Phách: Trong trường hợp nầy, Phách là thể xác.
Thủ cơ cần hai vị đồng tử ngồi hai bên ngọc cơ, mỗi
vị dùng hai bàn tay nâng ngọc cơ lên. Khi có một Ðấng giáng thì tay của đồng tử
đẩy ngọc cơ chuyển động, đầu cơ viết ra chữ.
Chấp bút thì chỉ cần một đồng tử, tay cầm viết đặt
trên một tờ giấy trắng. Khi có một Ðấng thiêng liêng giáng thì tay cầm bút
chuyển động và viết ra chữ trên giấy.
Chấp thủ: Thủ cơ và Chấp bút.
Nhị xác thân: Xác thân thứ nhì. Con người có Tam
thể: Thể thứ nhứt là Xác thân phàm do cha mẹ phàm trần sanh ra và được nuôi
dưỡng bằng vật chất phàm trần; Thể thứ nhì gọi là Nhị xác thân, là xác thân
thiêng liêng hay Chơn thần, do Ðức Phật Mẫu dùng nguyên khí nơi Diêu Trì Cung
tạo nên; Thể thứ ba là Chơn linh hay linh hồn, là điểm Linh quang do Ðức Chí
Tôn ban cho. Chơn linh điều khiển Chơn thần, Chơn thần điều khiển xác phàm. (Xin
xem tiếp bài Thánh Ngôn 20)
Vân du Thiên ngoại: Vân du là đi chơi thong thả như
đám mây bay. Thiên ngoại là ngoài bầu Trời, tức là những thế giới khác ở ngoài
Ðịa cầu.
Thần: Chơn thần. Tinh thông: Hiểu biết tường tận.
Xông hương khử trược: Ðốt chất thơm như trầm hay
nhang thơm để khói thơm bay lên tỏa ra xung quanh làm cho mất hết các mùi ô
trược.
Tịnh tâm: Giữ tâm cho trong sạch, tức là giữ tư
tưởng cho trong sạch, không nghĩ việc quấy.
Tinh tấn: Trong sạch và tiến hóa.
3 .
Ðêm 20-2-1926 (âl 8-1-Bính Dần): Vía Ðức Chí Tôn.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ
TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương.
Bửu
tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy
nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung
hiệp rán vun nền đạo đức,
Bền
lòng son sắt đến cùng Ta.
Nguồn Tiên tầm Ðạo dễ gì đâu?
Quyền phép Càn khôn một túi thâu.
Thoát xác xưa tầng tu vạn kiếp,
Ðộ
hồn nay gội khắp năm châu.
Tìm
hiền lắm lúc gieo nguồn đạo,
Cải
dữ đòi phen cổi mạch sầu.
Trần
khổ dầu ai chơn muốn lánh,
Ngày
thành Chánh quả có bao lâu?
Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ,
sau các con sẽ hiểu.
Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau hoài,
ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh đạo Thầy.
Ðạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy. Phải
làm cho nhau đặng thế lực, đừng ganh gổ nghe! Các con giữ phận làm tùy ý Thầy
muốn, ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy.
Vào
vòng huynh đệ khá thương nhau,
Một
đức trổi hơn một phẩm cao.
Quyết
chí Thiên đường men bước tới,
Phải
nhiều máu thịt mới đồng bào.
Các con phải hiểu rằng: Thầy là huyền diệu thế nào!
Cách dạy, Thầy buộc tùy thông minh của mỗi đứa mà dạy. Dầu cho thầy phàm tục
cũng phải vậy, nếu đứa dở mà dạy cao kỳ, nó biết đâu mà hiểu đặng.
Thầy cấm không cho dị nghị việc người, nhứt là đạo
hữu của các con thì đừng phạm đến kẻo tội nghiệp. Chi chi cũng phải nhớ quyết
rằng có Thầy trong đó.
Chẳng
quản đồng tông mới một nhà,
Cùng
nhau một Ðạo tức một Cha.
Nghĩa
nhân đành gởi thân trăm tuổi,
Dạy
lẫn nhau cho đặng chữ hòa.
Thầy dặn các con một điều, nhứt nhứt đều đợi lịnh
Thầy, chẳng nên lấy tứ riêng mà phán đoán chi hết. Phận sự và trách nhiệm các
con, Thầy đã định trước, song giờ ngày chưa đến, phải tuân lời Thầy nghe!
Từ đây, Thầy khởi sự dạy Ðạo cho.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . .
Trên Bạch Ngọc Kinh có đủ Nam và Nữ, các con chớ
lầm tưởng là phân biệt. Có các Ðấng Nữ Tiên, Nữ Phật còn lớn quyền hơn Nam
nhiều.
Tr. . . đã thọ mạng nơi Thầy, con đi đâu Thầy theo
đó. Lời đạo đức trong miệng con nói ra, ấy là lời Thầy bố hóa tâm trí con đặng
đi truyền đạo, tùy cơ mà dạy kẻ, một mình con đâu đủ sức phục người. Chẳng luận
là Nam hay Nữ, bất kỳ là nước nào, nó muốn biết đạo lý, con phải độ, biểu chúng
nó đến nghe Thầy dạy mới có thế nó tu hành đặng, trước con không nên buộc chúng
nó lắm.
Thầy nói một lần từ đây nhớ lấy: Dầu cho sắt đá cỏ
cây, mà nghe đến Thánh Ngôn nơi Thầy do con nói ra cũng hoan nghinh, huống lựa
là người. Con nhớ và an lòng.
Ðã
thấy ven mây lố mặt dương,
Cùng
nhau xúm xít dẫn lên đường.
Ðạo
cao phó có tay cao độ,
Gần
gũi sau ra vạn dặm trường.
Thầy đã hằng ngày nói với con rằng: Muôn việc chi
Thầy đã bố hóa vào lòng con, như con tính điều chi, tức Thầy đã định rồi. Con
không cần nặng lòng lo lắng. Ðạo cốt để cho kẻ hữu duyên. Những kẻ nào đã làm
môn đệ của Tà Thần Tinh Quái thì không thế gì làm môn đệ Thầy đặng.
Lẽ
Chánh tự nhiên có lẽ Tà.
Chánh
Tà hai lẽ đoán sao ra.
Sao
ra Tiên Phật người trần tục,
Trần
tục muốn thành phải đến Ta.
Những kẻ đã hưởng hết phúc hậu từ mấy đời trước,
nay lại còn phạm Thiên điều, thì tội tình ấy thế chi giải nổi. Mấy con biết
luật hình thế gian còn chưa tư vị thay, huống là Thiên điều thì tránh sao cho
lọt? Dầu các con như vậy thì Thầy cũng lấy oai linh ấy mà trừng trị chớ không
tư vị bao giờ. Phải lo sợ tội tình cho lắm. Phải có sợ mới có giữ mình, biết sợ
phải biết giữ mình. Phải hiểu rõ rằng: Thiên Ðịa vô tư, đừng ỷ là có Ðại Từ Phụ
mà lờn oai, nghe các con!
CHÚ THÍCH:
Mấy nhánh: Ý nói Tam giáo, gồm Phật giáo, Lão giáo,
Nho giáo; hay tổng quát hơn, đó là Ngũ Chi Ðại đạo: Phật đạo, Tiên đạo, Thánh
đạo, Thần đạo, Nhơn đạo.
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà: Ðây là tôn chỉ của
Ðạo Cao Ðài: Tam giáo qui nguyên, Ngũ Chi phục nhứt.
Câu thơ: Cùng nhau một đạo tức một Cha:
Các quyển TNHT in vào các năm: 1928, 1931, 1950,
1955, 1957, tức là trước năm 1962, đều in là một Cha.
Các quyển TNHT in sau năm 1962 như: 1964, 1969,
1972, đều in là cùng Cha. Sửa chữ một thành chữ cùng để cho đúng niêm luật của
bài thơ.
Ðối với bực thi sĩ bình thường thì cần giữ niêm
luật thơ, nhưng đối với bực thi bá, và trên nữa là Thi Tiên, Thi Phật, thì niêm
luật thơ không còn là vấn đề quan trọng số một nữa, mà ý nghĩa của câu thơ mới
là hàng đầu. Dùng chữ một Cha, tuy có thất niêm, nhưng mới thể hiện một cách rõ
nét Triết lý Duy Nhứt: chỉ có một Ông Trời, một Thượng Ðế, một Cha Trời, không
thể có hai Ông Trời, hai Thượng Ðế, hai Cha Trời.
Tr. . .: Viết tắt của chữ Trung, tên của Ðức Quyền
Giáo Tông (Lê Văn Trung).
Bố hóa: Ban bố và giáo hóa.
Thiên điều: Luật Trời. Thiên điều do chư Phật chư
Tiên họp tại Ngọc Hư Cung lập thành để cai trị toàn thể Càn khôn Vũ trụ. Phạm
Thiên điều là một trọng tội.
Thiên Ðịa vô tư: Trời Ðất không có lòng riêng, tức
là không tư vị ai hết, xử sự rất công bằng. Sách Nho cũng có viết rằng:
"Thiên Ðịa vô tư, Thần minh thời sát, bất vị tế hưởng nhi giáng phúc, bất
vị thất lễ nhi giáng họa." Nghĩa là: Trời Ðất không riêng, Thần minh
thường xét, không vì hưởng cúng tế mà ban phước, không vì sự thất lễ mà giáng
cho tai họa.
Ðại Từ Phụ: Mỗi người nơi cõi phàm trần đều có xác
thân phàm trần do cha mẹ phàm trần sanh ra và được nuôi dưỡng bằng các vật chất
phàm trần; ngoài ra con người còn có Chơn thần do Ðức Phật Mẫu tạo ra, và linh
hồn do Ðức Chí Tôn ban cho. Do đó, Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu là hai Ðấng Cha
Mẹ chung thiêng liêng của toàn nhơn loại, nên gọi Ðức Chí Tôn là Ðại Từ Phụ và
Ðức Phật Mẫu là Ðại Từ Mẫu.
4 . Ngày
23-2-1926 (âl 11-1-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ
TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương.
Dạy
trẻ con toan trước dạy mình,
Cái
công giáo hóa cũng đồng sinh.
Ðạo
đời tua biết rằng đời trọng,
Một
điểm quang minh một điểm linh.
Thi hứa giáo tập.
Nghĩa là: Sắp nhỏ của con dạy, sau cũng nên người ở
đời. Ấy là đời. Nếu biết trọng đời thì gắng dạy nó nên hiền.
Một điểm quang minh là một hồn người, là vật tối
linh của Thầy trân trọng. Nếu con muốn làm lành thì gắng dạy mấy hồn ấy đặng
hiền. (Lời giải 2 câu thi sau)
CHÚ THÍCH:
Tua: Phải, ý buộc. (Từ ngữ xưa, ngày nay ít dùng).
Một điểm quang minh một điểm linh: Ðó là điểm Linh
quang mà Ðức Chí Tôn chiết ra từ khối Ðại Linh quang của Ngài ban cho mỗi người
làm linh hồn, để gìn giữ sự sống và để điều khiển chơn thần và thể xác.
Thi hứa giáo tập: Ðức Chí Tôn ban thơ văn để dạy
học. Thi là thơ văn, hứa là thuận cho, giáo tập là dạy cho học tập.
5 . Ngày
25-2-1926 (âl 13-1-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ
TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương.
I . Trung! Vô giữa bái lễ cho Thầy coi.
Con làm lễ trúng, song
mỗi gật con nhớ niệm Câu Chú của Thầy: NAM MÔ CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA
TÁT.
Ðại Lễ là làm lễ ba
lần:
Lần đầu dâng hương và hoa,
Lần giữa dâng rượu,
Lần
chót dâng trà.
Phải
chính mình con dâng các lễ ấy.
Khi bái lễ, hai tay con chấp lại, song phải để tay
trái ấn Tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.
Từ đây (25-2-1926, 13 tháng Giêng năm Bính Dần),
con phải may riêng bộ áo lễ tay rộng, cổ trịch như áo đạo, nhưng dải gài chín
mối, màu xanh da trời. Con nhớ mang giày gai đặng hầu Thầy, còn nhứt nhứt đều
để chơn không hết.
II . Lạy là gì? Là tỏ
ra bề ngoài lễ kỉnh trong lòng.
Chấp hai tay lạy là tại sao? Tả là nhựt, hữu là
nguyệt, vị chi âm dương. Âm dương hiệp nhứt phát khởi Càn khôn, sanh sanh hóa
hóa, tức là Ðạo.
Lạy kẻ sống 2 lạy là tại sao? Là nguồn cội của nhơn
sanh lưỡng hiệp âm dương mà ra. Ấy là Ðạo.
Vong phàm lạy 4 lạy là tại sao? Là vì hai lạy của
phần người, còn một lạy Thiên, một lạy Ðịa.
Lạy Thần, lạy Thánh 3 lạy là tại sao? Là lạy Ðấng
vào hàng thứ ba của Trời và cũng chỉ rằng lạy Tinh, Khí, Thần hiệp nhứt. Ấy là
Ðạo.
Lạy Tiên, lạy Phật 9 lạy là tại sao? Là tại chín
Ðấng Cửu Thiên Khai Hóa.
Còn lạy Thầy 12 lạy là tại sao?
Các con không hiểu đâu.
Thập nhị Khai Thiên là
Thầy, chúa cả Càn khôn Thế giới, nắm trọn Thập nhị Thời Thần vào tay. Số 12 là
số riêng của Thầy.
III . Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh Tượng Con Mắt mà thờ Thầy,
song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh:
Nhãn
thị chủ tâm,
Lưỡng
quang chủ tể,
Quang
thị Thần,
Thần
thị Thiên,
Thiên
giả Ngã dã.
THẦN là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Ðạo
bị bế. Lập Tam Kỳ Phổ Ðộ nầy, duy Thầy cho THẦN hiệp TINH, KHÍ đặng hiệp đủ Tam
Bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.
Các con nhớ nói vì cớ nào thờ Con Mắt Thầy cho chư
Ðạo hữu nghe.
Phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, từ ngày Ðạo bị bế,
thì luật lệ hỡi còn nguyên, luyện pháp chẳng đổi, song Thiên đình mỗi phen đánh
tản THẦN không cho hiệp cùng TINH, KHÍ.
Thầy đến đặng huờn nguyên Chơn thần cho các con đắc
đạo. Con hiểu "Thần cư tại Nhãn". Bố trí cho chư Ðạo hữu con hiểu rõ.
Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó.
Thầy khuyên con mỗi phen nói Ðạo, hằng nhớ đến danh
Thầy.
CHÚ THÍCH:
Bài Thánh Ngôn nầy có ba phần rõ rệt:
Phần
I: Ðức Chí Tôn dạy Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt bái lễ và dạy may Ðạo phục
Thượng Ðầu Sư.
Phần
II: Ðức Chí Tôn dạy về năm cách lạy.
Phần
III: Ðức Chí Tôn dạy về ý nghĩa thờ Thiên Nhãn.
I . Phần I có chép trong ÐS.I.104, đề ngày Thứ sáu, 25-2-1926, tại nhà của
Ðức Cao Thượng Phẩm số 134 đường Bourdais, Phò loan: Hộ Pháp - Thượng Phẩm.
Câu Chú: là câu niệm huyền bí của một Ðấng thiêng
liêng đặt ra để hộ trì các môn đệ trên bước đường tu hành.
Câu Chú của Thầy có 12 chữ bao gồm Tam giáo:
- Cao Ðài: tượng trưng Nho giáo.
- Tiên Ông: tượng trưng Lão giáo hay Tiên giáo.
- Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát: tượng trưng Phật giáo.
Ngày nay Ðức Chí Tôn dùng Câu Chú nầy có mục đích
Qui nguyên Tam giáo, tức là đem Tam giáo (Nho, Phật, Lão) về một gốc, gốc đó là
Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Ðức Chí Tôn dặn Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt:
"Còn đồ sắc phục của con duy để làm lễ Thầy mà thôi. Nếu con bận nó đến
nơi nào thì chư Thần Thánh Tiên Phật đều phải tránh hết."
II . Ðức Chí Tôn dạy
năm cách lạy:
1) Lạy người sống: 2 lạy đứng, tức là một lạy
Dương, một lạy Âm. Lạy đứng là đứng lên rồi lạy xuống, rồi đứng lên và lạy
xuống, hai lần là hai lạy.
2) Lạy vong phàm: Vong phàm là người thường chết.
Lạy vong phàm 4 lạy gồm hai lạy quì và hai lạy đứng. Hai lạy quì là một lạy
kỉnh Thiên, một lạy kỉnh Ðịa. Hai lạy đứng là về phần người: một lạy Dương, một
lạy Âm.
3) Lạy Thần, lạy Thánh: 3 lạy quì.
4) Lạy Tiên, lạy Phật: 9 lạy quì. Cách lạy: Quì lạy
ba lạy, mỗi lạy gật đầu ba gật, tổng cộng chín gật thế cho chín lạy. Mỗi gật
niệm danh hiệu của vị Tiên hay vị Phật đó.
5) Lạy Ðức Chí Tôn: 12 lạy quì. Cách lạy: Quì lạy
ba lạy, mỗi lạy bốn gật, tổng cộng là mưới hai gật thế cho mười hai lạy, mỗi
gật niệm Câu Chú của Thầy.
Trong năm cách lạy nầy, hai bàn tay đều bắt Ấn Tý.
Ấn Tý là ấn đặc biệt của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
* Thời Nhứt Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ mở
Ðạo Tiên, dạy cách lạy hai bàn tay chấp nắm co lại, nhìn vào giống như cái hoa
còn búp.
* Thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Phật Thích Ca mở Ðạo
Phật, dạy cách lạy hai bàn tay xòe thẳng ra rồi úp lại, khi lạy xuống, hai bàn
tay mở ra để ngửa, như cái hoa nở.
* Nay đến thời Tam Kỳ Phổ Ðộ, Ðức Chí Tôn mở Ðạo
Cao Ðài, dạy chấp hai tay bắt Ấn Tý, giống như trái cây có cái hột bên trong,
tức là kết quả, khi lạy xuống thì hai bàn tay xòe ra và úp xuống, hai ngón cái
gác tréo nhau, tượng trưng việc gieo hột giống xuống đất.
Như vậy, Tam Kỳ Phổ Ðộ là thời kỳ chót trong một
chu trình: Trổ hoa và hoa còn búp, kế đó là hoa nở, rồi hoa kết thành trái và
lấy hột gieo xuống đất, để sau đó cây mọc lên và tạo một chu trình kế tiếp tiến
hóa hơn.
Chín Ðấng Cửu Thiên Khai Hóa: Chín Ðấng Tiên Phật
mở ra chín từng Trời và giúp sự tiến hóa trong chín từng Trời ấy. Cửu Thiên hay
Cửu Trùng Thiên là chín từng Trời.
Thập nhị Khai Thiên: Mười hai Ðấng Tiên Phật mở ra
12 từng Trời. Các Ðấng nầy do Ðức Chí Tôn hóa thân ra.
Mười hai từng Trời nầy chia ra hai phần:
- Bên dưới là 9 từng Trời gọi là Cửu Trùng Thiên.
- Bên trên là 3 từng Trời gồm: Hư Vô Thiên, Hội
Nguơn Thiên, Hỗn Nguơn Thiên.
Thập nhị Thời Thần: 12 vị Thần cai quản 12 khoảng
thời gian. Ðức Chí Tôn chia chu trình sáng tạo và tiến hóa của CKVT và vạn vật
làm 12 khoảng thời gian, đặt tên theo Thập nhị Ðịa Chi (12 con giáp: Tý, Sửu,
Dần, Mẹo,...). Cho nên nói: Thiên khai ư Tý, Ðịa tịch ư Sửu, Nhân sanh ư Dần.
Khoảng thời gian đầu là Tý, Ðức Chí Tôn mở các cõi Trời.
Khoảng thời gian tiếp theo gọi là Sửu, Ðức Chí Tôn
mở các cõi Ðất. Thời gian tiếp theo nữa gọi là Dần, Ðức Chí Tôn sanh ra vạn vật
và loài người....
Thánh Tượng Con Mắt: là Thánh Tượng Thiên Nhãn, là
hình vẽ con mắt tượng trưng Ông Trời để thờ.
1 . Nhãn thị chủ Tâm, 眼是主心
2 . Lưỡng quang chủ tể, 兩光主宰
3 . Quang thị Thần, 光是神
4 . Thần thị Thiên, 神是天
5 . Thiên giả Ngã dã. 天者我也
GIẢI NGHĨA:
1 . Con mắt là chủ của cái
Tâm. Ở đây, Thiên Nhãn là chủ của cái Thiên Tâm, Thiên Nhãn là chỉ Ông Trời,
Thiên Tâm là cái Tâm của ông Trời tức là Thái Cực, Ðại Linh quang, Ðại hồn. Vậy:
Ông Trời là chủ của Thái Cực.
2 . Hai ánh sáng là chúa tể.
Lưỡng quang ấy là Lưỡng Nghi: Dương quang và Âm quang. Ðức Chí Tôn chưởng quản
Dương quang, Ðức Phật Mẫu chưởng quản Âm quang.
Âm quang và Dương quang là
chúa tể, bởi vì Lưỡng quang Âm Dương phối hợp tạo ra CKVT và hóa sanh vạn vật.
3 . Ánh sáng là Thần. (Thần
là chơn thần của Ông Trời)
4 . Thần là Trời.
5 . Trời ấy là TA vậy.
Cho nên, thờ Thiên Nhãn là
thờ Trời, thờ Ðức Chí Tôn.
Thần cư tại nhãn: Chơn thần
hiện ra nơi con mắt. Nhìn vào đôi mắt, ta đoán biết Thần của người đó mạnh hay
yếu.
Huờn nguyên hay Hoàn
nguyên là trở về nguồn cội.
Phép luyện đạo trong
ÐÐTKPÐ là luyện Tam Bửu (Tinh, Khí, Thần) hiệp nhứt, tức là luyện Tinh hóa Khí,
luyện Khí hiệp Thần, luyện Thần huờn Hư, tạo được Chơn thần huyền diệu, đắc đạo
tại thế.
6 . Ngày 13-3-1926 (âl
29-1-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam
phương
Thầy cho các con biết trước đặng sau đừng trách
rằng quyền hành Thầy không đủ mà kềm thúc trọn cả môn đệ.
Các con đủ hiểu rằng, phàm muôn việc chi cũng có
thiệt và cũng có dối. Nếu không có thiệt thì làm sao biết đặng dối; còn không
có dối, làm sao phân biệt cho có thiệt. Cười...
Thầy nói cho các con hiểu rằng, muốn xứng đáng làm
môn đệ Thầy là khổ hạnh lắm. Hễ càng thương bao nhiêu thì Thầy lại càng hành
bấy nhiêu. Như đáng làm môn đệ Thầy thì là Bạch Ngọc Kinh mới chịu rước; còn
ngã thì cửa Ðịa Ngục lại mời. Thương thương, ghét ghét, ai thấu đáo vậy ôi!
Bởi vậy cho nên, Thầy chẳng vì ghét mà không lời
khuyến dụ; cũng chẳng vì thương mà không sai quỉ dỗ dành.
Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình. Chung
quanh các con, dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con.
Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn xé các con, song trước Thầy đã cho các
con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con.
Ấy vậy, rán gìn giữ bộ thiết giáp ấy hoài cho tới
ngày các con hội hiệp cùng Thầy.
Nghe và ráng tuân theo.
CHÚ THÍCH:
Càng hành bấy nhiêu:
Hành là làm cho cực khổ vất vả. Càng hành bấy nhiêu là ý Ðức Chí Tôn muốn con
cái của Ngài chịu nhiều nỗi khó khăn vất vả để trau giồi tâm đức và lập được
nhiều công quả hầu sớm trở về cùng Ðức Chí Tôn.
Thầy chẳng vì ghét mà
không lời khuyến dụ, cũng chẳng vì thương mà không sai quỉ dỗ dành: Trước là Ðức Chí Tôn
dạy dỗ tất cả con cái của Ngài, đứa tốt cũng như đứa xấu, đối đãi đồng đều như
nhau. Sau đó, Ðức Chí Tôn mới cho Quỉ vương thử thách để xem ai đậu ai rớt. Sự thử thách
nầy rất khó khăn, Quỉ vương biết ai yếu về mặt nào thì nó thử ngay mặt đó. Nó
biết ai ham tiền thì đem tiền đến thử, ai ham sắc thì lấy sắc thử, ai ham danh
quyền thì đưa danh quyền đến thử. Cho nên, người nào đậu mới xứng đáng làm môn
đệ của Chí Tôn.
Hổ lang: Cọp và chó sói. Ở đây ý nói đám quỉ nhơn
độc ác luôn luôn tìm cách phá khuấy hay hãm hại người tu.
Thiết giáp: Bộ áo mặc bên ngoài làm bằng sắt, để
che không cho các thứ vũ khí xâm phạm thân thể. Ðức Chí Tôn cho biết, đạo đức
của mỗi môn đệ là bộ thiết giáp vô hình bảo vệ an toàn trước đám hổ lang là bọn
Tà ma quỉ mị. Chính nhờ bộ thiết giáp đạo đức nầy, nó giúp chúng ta được trở về
cùng Ðức Chí Tôn.
7
. Vĩnh Nguyên Tự, 7-4-1926 (âl 25-2-Bính
Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ
TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
Nhiên
Ðăng Cổ Phật thị Ngã,
Thích
Ca Mâu Ni thị Ngã,
Thái
Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã,
Kim
viết Cao Ðài.
CHÚ THÍCH:
Vĩnh Nguyên Tự: Ở xã Tân An, quận Cần Giuộc, do
Thái Lão Sư Lê Văn Tiểng, pháp danh Lê Ðạo Long tu theo Minh Ðường (trong Ngũ
Chi Minh Ðạo) lập nên. Trước khi Ngài Lê Ðạo Long đăng Tiên, Ngài có tiên tri:
" Nơi đây là Thập nhị Khai Thiên, cơ quan của ÐÐTKPÐ hoằng khai chánh giáo
chơn truyền."
Ngài dạy các môn đệ phải tùng ÐÐTKPÐ. Ông Lê Văn
Lịch là con ruột của Ngài, được Ðức Chí Tôn phong Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt; Thái
Lão Sư Trần Văn Thụ, pháp danh Trần Ðạo Minh, là môn đệ lớn nhất của Ngài, nhập
ÐÐTKPÐ, được Ðức Chí Tôn ân phong là Ngọc Chưởng Pháp.
Vĩnh Nguyên Tự trở thành một trong những Thánh Thất
đầu tiên của Ðạo Cao Ðài.
Nhiên Ðăng Cổ Phật: Giáo chủ Phật giáo thời Nhứt Kỳ
Phổ Ðộ.
Thích Ca Mâu Ni: Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là Giáo
chủ Phật giáo thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ.
Thái Thượng Nguơn Thỉ: Ðức Thái Thượng Ðạo Tổ và
Ðức Nguơn Thỉ Thiên Tôn là Giáo chủ Tiên giáo vào hai thời kỳ: Nhứt Kỳ và Nhị
Kỳ Phổ Ðộ.
Thị Ngã: Ấy là TA. Kim viết: Nay gọi rằng.
Cao Ðài: Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.
Trong tập PHỔ CÁO CHÚNG SANH, đề ngày 13-10-1926, nơi trang 4, bài Thánh Ngôn
trên có thêm một câu là: "Gia Tô Giáo Chủ thị Ngã", chép ra như sau:
"Nhiên
Ðăng Cổ Phật thị Ngã,
Thích
Ca Mâu Ni Phật thị Ngã,
Thái
Thượng Nguơn Thỉ thị Ngã,
Gia
Tô Giáo Chủ thị Ngã,
Kim
viết Cao Ðài Bồ Tát Ma Ha Tát."
8 . Ngày 8-4-1926 (âl 26-2-Bính Dần)
THÍCH CA MÂU NI PHẬT
giáng cơ:
Thích
Ca Mâu Ni Phật
Chuyển
Phật Ðạo,
Chuyển
Phật Pháp,
Chuyển
Phật Tăng,
Qui
nguyên Ðại Ðạo,
Tri hồ chư chúng sanh?
Khánh hỷ! Khánh hỷ! Hội đắc Tam Kỳ Phổ Ðộ, chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật, đại hỷ phát đại tiếu!
Ngã vô lự Tam đồ chi khổ.
Khả tùng giáo Ngọc Ðế viết Cao Ðài Ðại Bồ Tát Ma Ha
Tát.
CAO ÐÀI
Lịch!
Con nghe Phật Như Lai nói chưa?
Tam
Kỳ Phổ Ðộ là gì? Là Phổ Ðộ lần thứ ba.
Sao gọi là Phổ Ðộ? Phổ Ðộ nghĩa
là gì?
Phổ là bày ra. Ðộ là gì? Là cứu
chúng sanh.
Muốn trọn hai chữ Phổ Ðộ, phải
làm thế nào?
Chúng sanh là gì?
Chúng sanh là toàn cả nhơn loại chớ không phải lựa chọn một phần người, như ý phàm tục các con tính rỗi.
Muốn trọn hai chữ Phổ Ðộ, phải làm thế nào? Thầy hỏi? Phải bày Bửu pháp chớ
không đặng giấu nữa. Con phải luyện lại cho thành, nội trong tháng 5 nầy về
theo Trung đặng đi truyền đạo.
Nghe và tuân theo.
Phải mặc y phục như Trung mà màu hồng.
CHÚ THÍCH:
Phần đầu của bài Thánh Ngôn nầy là Ðức Phật Thích
Ca giáng cơ, bằng Hán văn.
Phần tiếp theo là Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy Ngài Lê
Văn Lịch, và câu chót thì Ðức Chí Tôn định phong Ngài Lê Văn Lịch vào phẩm Ðầu
Sư cùng với Ngài Lê Văn Trung, nhưng phái Ngọc, mặc áo màu đỏ.
Ngài Thượng Ðầu Sư Lê Văn Trung, Thánh danh là
Thượng Trung Nhựt.
Ngài Ngọc Ðầu Sư Lê Văn Lịch, Thánh danh là Ngọc
Lịch Nguyệt. (Ðầu Sư phái Thái, Ðức Chí Tôn chưa phong).
Phật, Pháp, Tăng: Ở đây là Tam Bảo của nhà Phật:
Phật là Ðức Phật, Pháp là Giáo lý và Tăng là Giáo hội.
Chuyển Phật Ðạo, Chuyển Phật Pháp, Chuyển Phật
Tăng, qui nguyên Ðại Ðạo là chuyển toàn cả Phật giáo trở về gốc là ÐÐTKPÐ.
Tri hồ chư chúng sanh? là Chúng sanh biết chăng?
Khánh hỷ! Nghĩa là: Vui mừng.
Hội đắc Tam Kỳ Phổ Ðộ: Gặp được ÐÐTKPÐ.
Ðại hỷ: Mừng lớn. Phát đại tiếu: Phát cười lớn.
Ngã vô lự Tam đồ chi khổ: Ta không lo cái khổ của
ba đường. Ba đường nầy là ba đường luân hồi khổ sở (nằm trong Lục đạo Luân
hồi), gồm: Ðịa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.
Khả tùng giáo Ngọc Ðế: Khá theo lời dạy của Ðấng
Ngọc Hoàng Thượng Ðế (nói tắt là Ðấng Ngọc Ðế).
Chúng sanh, theo nghĩa rộng, là toàn cả các vật hữu
sanh nơi cõi trần, gồm: Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại. Chúng sanh
có được do Ðức Phật Mẫu vận chuyển Bát hồn đầu kiếp xuống cõi trần làm chúng
sanh. Trong nghĩa hẹp, chúng sanh là chỉ nhơn loại.
Bát hồn gồm: Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm
hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn. Trong bài Phật Mẫu Chơn
Kinh có câu: "Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh."
Bửu pháp: Pháp quí báu, ở đây, bửu pháp có nghĩa là
các pháp môn tu Thiền, Tịnh luyện. Các bửu pháp nầy Ngài Lê Văn Lịch học được
nơi thân phụ của Ngài là Thái Lão Sư Lê Văn Tiểng truyền lại. (Thái Lão Sư Lê
Văn Tiểng giáng cơ cho biết đã tu đắc quả Như Ý Ðạo Thoàn Chơn Nhơn).
9 .
Ðêm 22 rạng 23-4-1926 (âl 11/ 12-3-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam
phương
I . Ba con nghe dạy cuộc sắp Thiên phong.
Các con vui không?
Ðạo phát trễ một ngày là một ngày hại nhơn sanh.
Thầy nôn nóng nhưng mà Thiên cơ chẳng nghịch đặng, nên phổ thông trắc trở.
Vậy thì ba con (Trung, Cư, Tắc) cứ sắp đặt thế nầy:
Trung nghe! Con dời bài vị của Lý Bạch để dưới
tượng Thầy, con dọn dẹp trong hết, để một cái ghế kế một bên tran thờ, rồi để
lên một cái ghế lớn đặng làm ngôi Giáo Tông, ba cái nữa để sắp hàng theo ở dưới
đặng làm ngôi cho ba vị Ðầu Sư. Con phải bao bốn cái ghế ấy cho tinh khiết. Con
đem Thiên phục Giáo Tông để nơi ghế ở trên, còn bộ Thượng Thanh thì để giữa, bộ
Ngọc Thanh bên hữu, còn ghế bên tả, con phải viết một miếng giấy để chữ
"Thái" cho lớn mà dán lên chỗ dựa.
Ngay chỗ bàn ngự của Thầy, phải để một cái ghế
trước ngôi ba vị Ðầu Sư, vọng một bài vị, biểu Lịch viết như vầy:
"CỬU
THIÊN CẢM ỨNG LÔI THINH PHỔ HÓA THIÊN TÔN", lại vẽ thêm một lá bùa
"KIM QUANG TIÊN" để thòng
ngay giữa, ai ai ngó vào cũng đều thấy đặng.
Bàn Thầy giáng cơ thì để trước bàn vọng Ngũ Lôi,
khi giáng cơ rồi thì dời đi cho trống chỗ, đặng nhị Ðầu Sư quì mà thề.
Con lại để thêm một cái bàn giữa bên cửa sổ, đằng
trước ngó vô.
II. Cư! Nghe dặn. Con biểu Tắc tắm rửa sạch sẽ
(xông hương cho nó), biểu nó lựa một bộ quần áo tây cho sạch sẽ, ăn mặc như
thường, đội nón. Cười . . .
Ðáng lẽ nó phải sắm khôi giáp như hát bội, mà mắc
nó nghèo, Thầy không biểu. Bắt nó lên đứng trên, ngó mặt ngay vô ngôi Giáo
Tông, lấy chín tấc vải điều đắp mặt nó lại.
Lịch! Con viết một lá phù "GIÁNG MA XỬ"
đưa nó cầm.
Các con phải thanh tịnh, kể từ ngày nay diệt tận
phàm tâm, chớ nhơ một điểm thì ngày ấy thề mới đặng.
Cư! Khi đem ba bộ Thiên phục đến vọng trên ba cái
ngai thì con phải chấp bút bằng nhang như mọi lần, đặng Thầy trấn Thần trong ba
bộ Thiên phục và ba ngai ấy, rồi mới kêu hai vị Ðầu Sư đến quì trước bửu ngai
của nó, đặng Thầy vẽ phù vào mình.
Khi hai vị Ðầu Sư vái rồi, phải đến trước Bửu điện
Thầy mà làm lễ (12 lạy) và trước ngôi Giáo Tông (9 lạy), rồi biểu Giảng xướng
lên: "Phục vị", thì hai người leo lên ngồi.
Cả thảy môn đệ phân làm ba ban, đều quì xuống.
Biểu Tắc leo lên bàn, con chấp bút bằng nhang, đến
bàn Ngũ Lôi đặng Thầy triệu nó đến, rồi mới tới trước mặt Tắc đặng Thầy trục
xuất Chơn thần của nó ra, nhớ biểu Hậu, Ðức, xông hương tay của chúng nó, như
em có giựt mình té thì đỡ.
Rồi biểu hai vị Ðầu Sư xuống ngai, đến quì trước
mặt Ngũ Lôi, hai tay chấp trên đầu, quì ngay bùa Kim Quang Tiên mà thề như vầy:
"Tôi
là Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng Trung Nhựt, và Lê Văn Lịch tự Thiên ân là
Ngọc Lịch Nguyệt, Thề Hoàng Thiên Hậu Thổ trước bửu pháp Ngũ Lôi rằng làm trọn
Thiên đạo mà dìu dắt cả mấy em chúng tôi đều là môn đệ của Cao Ðài Ngọc Ðế, nhứt
nhứt do lịnh Thầy phân định, chẳng dám chuyên quyền mà lập thành tả đạo, như
ngày sau hữu tội thì thề có Ngũ Lôi tru diệt."
Ðến bàn Vi Hộ Pháp cũng quì xuống, vái y vậy, điều
câu sau thì như vầy:
"như
ngày sau phạm Thiên điều, thề có Hộ Pháp đọa tam đồ bất năng thoát tục."
Rồi mới biểu Giảng xướng lại nữa: "Phục
vị", thì nhị Ðầu Sư trở lại ngồi trên ngai. Chư môn đệ đều đến lạy mỗi
người hai lạy.
Tới phiên các môn đệ, từ người đến bàn Ngũ Lôi mà
thề rằng:
"Tên gì? . . . Họ gì? . . . Thề rằng: Từ đây
biết một Ðạo Cao Ðài Ngọc Ðế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn
luật lệ Cao Ðài, như sau có lòng hai thì Thiên tru Ðịa lục."
Tới trước bàn Hộ Pháp cũng thề như vậy, rồi mới đến
lạy nhị Ðầu Sư.
CHÚ THÍCH:
Những vị có tên trong bài
Thánh Ngôn nầy là:
Trung: Lê Văn Trung. Cư: Cao Quỳnh Cư.
Tắc: Phạm Công Tắc. Lịch: Lê Văn Lịch.
Hậu: Nguyễn Trung Hậu. Ðức: Trương Hữu Ðức.
Giảng: Lê Văn Giảng, giữ nhiệm vụ Xướng Lễ, có tên
trong mười hai vị môn đệ đầu tiên của Ðức Chí Tôn, sau đắc phong Thượng Giáo
Hữu.
Bài Thánh Ngôn trên được chia làm hai phần: I và
II.
Phần I có trong ÐS.I.108 và Phần II có trong
ÐS.I.112.
* Phần I: Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Cao
Quỳnh Cư, vào đêm 22 rạng 23-4-1926, Phò loan: Cư - Tắc, hầu đàn có mặt hai
Ngài Trung và Lịch. Ðức Chí Tôn dạy hai Ngài Trung và Lịch sắp đặt cuộc Thiên
phong nơi nhà Ngài Trung ở đường "Quai Testard", Chợ Lớn.
* Phần II: Ðức Chí Tôn giáng cơ tại nhà Ngài Trung
và thực hiện cuộc Thiên phong tại đây, vào ngày Chúa nhựt 25-4-1926 (âl 14-3-Bính
Dần), Phò loan: Cư - Tắc.
Trong ngày nầy, Ðức Chí Tôn trục xuất Chơn thần của
Ngài Phạm Công Tắc để Chơn thần của Vi Hộ Pháp nơi cõi thiêng liêng nhập vào,
mượn xác Phạm Công Tắc chứng thệ cho nhị vị Ðầu Sư, và các môn đệ của Ðức Chí
Tôn.
Xong rồi, Ðức Chí Tôn lập Minh Thệ cho hai vị Ðầu
Sư: Thượng Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt.
Sau cùng Ðức Chí Tôn lập Minh Thệ cho các môn đệ.
Ðức Chí Tôn nói: "Bộ Ngọc Thanh bên hữu, còn
ghế bên tả để chữ Thái." Nếu tả hữu nầy là bên hữu và bên tả của Ðức Chí
Tôn thì vị trí 3 ngai Ðầu Sư đối với Thiên Bàn như sau:
Thiên Nhãn
(Hữu) Ngai Giáo Tông (Tả)
Ngai Ngai Ngai
Ngọc Ðầu Sư Thượng Ðầu Sư Thái Ðầu Sư
Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hóa Thiên Tôn: Ðây
là phẩm tước của vị đứng đầu Bộ Lôi Công hay Lôi Bộ (Ngũ Lôi), là Thái Sư Văn
Trọng vào thời Phong Thần.
Bùa Kim Quang Tiên: là lá bùa trấn không cho Tà
quái (Kim Quang Sứ và đệ tử) xâm nhập phá khuấy.
Giáng Ma Xử: Cái chày để hàng phục quỉ ma. Ðây là
bửu pháp của Vi Hộ thời Phong Thần. Sau Vi Hộ trở về núi tu luyện đắc quả Phật
Hộ Pháp, nên gọi là Vi Hộ Pháp. Bửu pháp nầy được Ðức Hộ Pháp đem trấn nơi CLTG
cõi thiêng liêng.
Phục vị: Trở lại ngôi vị của mình, tức là trở lại
ngồi trên ngai của mình.
Ba ban: Ban giữa, Ban
tả, Ban hữu.
- Lời Minh thệ của nhị
vị Ðầu Sư:
Từ chữ Thề Hoàng Thiên . . . . . . . đến chữ tru
diệt, tổng cộng là 60 chữ, một bội số của 12: 60 = 12 x 5.
- Lời Minh thệ của chư Môn đệ:
Từ chữ Thề rằng từ đây. . . . . . . . . . đến chữ
Ðịa lục, tổng cộng là 36 chữ, một bội số của 12: 36 = 12 x 3.
Hoàng Thiên: Vua Trời. Hậu Thổ: Vua Ðất, tức là vị
Thần cai quản các Thổ Thần trong một nước. Hậu là vua.
Bửu pháp Ngũ Lôi: Những bửu bối của các Thần trong
Lôi Bộ, như Búa Thần, Roi Thần.
Tả đạo: Ðạo bất chánh, trái lẽ, đối nghịch Chánh
đạo.
Ðọa Tam đồ bất năng thoát tục: Ðọa đày ba vòng luân
hồi không thể thoát khỏi cõi trần, tức là bị luân hồi từ phẩm kim thạch cho đến
phẩm nhơn loại, rồi trở lại kim thạch, luân hồi ba vòng như vậy thì mới xong
hình phạt.
Thiên tru địa lục: Trời giết, Ðất giết, tức là phải
bị giết chết, không thể chạy trốn đâu cho khỏi.
10 . Ngày 24-4-1926 (âl 13-3-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ
TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
Vốn từ trước Thầy lập Ngũ Chi Ðại Ðạo là:
Nhơn đạo,
Thần đạo,
Thánh đạo,
Tiên đạo,
Phật đạo.
Tùy theo phong hóa của nhơn loại mà gầy Chánh giáo,
là vì khi trước Càn vô đắc khán, Khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại duy có hành
đạo nội tư phương mình mà thôi.
Còn nay thì nhơn loại đã hiệp đồng, Càn Khôn dĩ tận
thức, thì lại bị phần nhiều đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới
nhứt định qui nguyên phục nhứt.
Lại nữa, trước Thầy lại giao Chánh giáo cho tay
phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo mà làm ra Phàm giáo.
Thầy lấy làm đau đớn hằng thấy gần trót mười ngàn
năm, nhơn loại phải sa vào nơi tội lỗi, mạt kiếp chốn A Tỳ.
Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các con,
chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà buộc phải lập Chánh thể,
có lớn nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau, anh trước em sau mà đến
nơi Bồng đảo.
Vì vậy, Thầy mới lập ra có một phẩm Giáo Tông,
nghĩa là anh cả, ba phẩm Ðầu Sư, nghĩa là giáo hữu. Chẳng một ai dưới thế nầy
còn đặng phép nói rằng thế quyền cho Thầy mà trị phần hồn của nhơn loại. Còn cả
môn đệ, ai cũng như ai, không đặng gây phe lập đảng, nhược kẻ nào phạm tội thì
Thầy trục xuất ra ngoài cho khỏi điều rối loạn.
CHÚ THÍCH:
Bài Thánh Ngôn nầy do Hộ Pháp và Thượng Phẩm phò
loan.
Phong hóa: Nói chung những phong tục tập quán có từ
lâu đời của một dân tộc làm cho đời sống xã hội trật tự tốt đẹp.
Càn vô đắc khán: Không thấy hết được Trời.
Khôn vô đắc duyệt: Không xem hết được Ðất.
Tư phương: Ðịa phương riêng, vùng đất riêng.
Càn Khôn dĩ tận thức: Ðã biết rõ Trời Ðất.
Qui nguyên: Trở về nguồn cội. Phục nhứt: Trở lại
thành một. A Tỳ: Chỉ cõi Ðịa ngục.
Mạt kiếp: Thời kỳ cuối
cùng của kiếp sống nhơn loại.
Chánh thể: Hình thức tổ chức các cơ quan điều hành
việc đạo. Bồng đảo: Ðảo Bồng Lai, chỉ cõi Tiên.
11 . Ðêm 25 rạng 26-4-1926 (âl 14/15-3-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ
TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương.
Kim
triêu dĩ đáo Thiên Trung Quang,
Ám
hiểu thế tình tánh đức nan.
Chỉ
đãi thời lai quang minh tụ,
Tả ban thiểu đức, hữu ban mang.
Ðức, Hậu, phong vi Tiên
Ðạo Phò Cơ Ðạo Sĩ.
Cư, phong vi Tá Cơ Tiên Hạc
Ðạo Sĩ.
Tắc, phong vi Hộ Giá
Tiên Ðồng Tá Cơ Ðạo Sĩ.
Trung, Lịch, đã thọ
sắc, cứ tước vị mà theo sắc mạng Ta.
Kỳ, phong vi Tiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Ðạo
Giáo Sư.
Bản, phong vi Tiên Ðạo Công Thần Thuyết Ðạo Sư.
Cư, tuân theo lời Thầy truyền mà thi hành.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
. . . . . . . . . . . .
CHÚ THÍCH:
Bài Thánh Ngôn nầy có
trong ÐS.I.114.
Bài thi tứ tuyệt viết ra
chữ Hán sau đây:
Kim triêu dĩ đáo Thiên
Trung Quang, 今朝已到天中光
Ám
hiểu thế tình tánh đức nan. 暗曉世情性德難
Chỉ
đãi thời lai quang minh tụ, 只待時來光明聚
Tả
ban thiểu đức, hữu ban mang. 左班少德右班芒
GIẢI NGHĨA:
Sáng nay Ta đến từ cõi Thiên Trung Quang,
Ngầm hiểu tình đời và tánh đức thì rất khó.
Chỉ đợi cái thời tới thì nhiều người sáng suốt tài giỏi tụ về.
Ban tả thì thiếu đức, ban
hữu thì mờ tối.
Nếu ban tả và ban hữu nầy ở hai bên tả và hữu của
Ðức Chí Tôn thì đó là hai phái: phái Thái và phái Ngọc, (phái Thượng thì ở chính giữa). Hai phái nầy, một phái thì thiếu đức, một phái thì còn ám
muội mờ hồ.
Phong
vi: Phong chức làm.
Thọ
sắc: Nhận lãnh mệnh lệnh của Ðức Chí Tôn.
Tước vị: Phẩm tước và ngôi vị.
Sắc mạng: Mệnh lệnh của Ðức Chí
Tôn.
Ta: Tiếng tự xưng của Ðức
Chí Tôn.
12 . Trường
Sanh Tự (Cần Giuộc)
Chúa nhựt, 30-5-1926 (âl 19-4-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ
TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
Thầy chẳng hiểu thế nào chư môn đệ ám muội dường
ấy?
"Chiêu kỳ trung độ dẫn hoài sanh" nghĩa
là gì? Dầu cho trẻ con trong bụng cũng phải độ, sao các con lại đuổi thiện nam
tín nữ?
Hứa nhập - Khai môn.
Chư chúng sanh nghe:
Từ trước, Ta giáng sanh lập Phật giáo gần sáu ngàn
năm thì Phật đạo chánh truyền gần thay đổi. Ta hằng nghe chúng sanh nói
"Phật giả vô ngôn"! Nay nhứt định lấy huyền diệu mà giáo đạo, chớ không
giáng sanh nữa, đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn.
Dường nầy, từ đây chư chúng sanh chẳng tu bị đọa A
Tỳ thì hết lời nói rằng: "Phật tông vô giáo" mà chối tội nữa.
Ta nói cho chúng sanh biết rằng: Gặp Tam Kỳ Phổ Ðộ
nầy mà không tu thì không còn trông mong siêu rỗi.
Tại đây là một nơi Ta khởi chế sự "Tế lễ thờ
phượng" lại.
Bổn hội nghe:
Giữa chùa, gần 2 tran thờ Quan Âm Bồ Tát và Quan
Thánh Ðế Quân, phải lập ra một điện để Thánh Tượng Ta ở giữa. Bên mặt Ta để
tượng Quan Âm, bên trái thì tượng Quan Ðế, còn chư Tiên, chư Thánh, chư Phật,
để hàng dưới.
Xưng hiệu chùa là "Ngọc Hoàng Tự".
CHÚ THÍCH:
Hứa nhập: Cho vào. Hứa là thuận cho, nhập là vào.
Hứa nhập Khai môn: Mở cửa ra, cho vào.
Chánh truyền: Giáo lý được truyền lại một cách đúng
đắn và chơn thật.
Phật giả vô ngôn: Phật không có nói.
Phật tông vô giáo: Ðạo Phật không có dạy.
Siêu rỗi: Cứu vớt linh hồn cho siêu thăng.
Khởi chế: Bắt đầu tạo ra.
Bổn hội: Những người ở trong hội của chùa nầy.
Lưu ý: Phần chót của bài Thánh Ngôn nầy, từ chữ
" Tại đây là một nơi . . . . cho đến chùa là Ngọc Hoàng Tự " không có
in trong các bản TNHT năm 1931, 1950, 1957.
13 . Thứ hai, 31-5-1926 (âl 20-4-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ
TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
Trung! Con phải lên nhà
G. . . bây giờ mà xem sóc, sắp đặt sự thờ phượng theo bây giờ cho tới ngày tác
thành Tân Luật.
G. . .! Thầy khen con
đó.
Thánh tâm dầu phải chịu
khổn trần đi nữa thì chất nó cũng vẫn còn. Các con khác hơn kẻ phàm là duy tại bấy
nhiêu đó mà thôi.
Kẻ phàm dầu ly hương thuở ấu xuân đi nữa, lòng hằng
hoài vọng. Chí Thánh dầu bị đọa trần, lòng hỡi còn nhớ hoài nơi Tiên cảnh. Nếu
chẳng vậy, ai còn dám ưng thuận hạ thế cứu đời?
Con chỉ có tu mà đắc đạo. Phải ngó đến hằng ức
thiên vạn kẻ nhơn sanh chưa đặng khỏi luân hồi, để lòng từ bi độ rỗi, kẻo tội
nghiệp.
CHÚ THÍCH:
Trung: Ðức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.
G: (?)
Khổn trần: Bị khốn đốn nơi cõi trần.
Chí Thánh: Bực Thánh cao hơn hết, đó là bực Thiên
Thánh.
Hạ thế: Giáng sanh xuống trần.
Ức = 100 000. Thiên = 1 000. Vạn = 10 000.
14. Hội Phước Tự (Cần Giuộc)
Thứ bảy, 5-6-1926 (âl 25-4-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ
TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
Cư, đọc Thánh Ngôn.
Tắc, tụng Nhơn Quả.
Thích Ca Như Lai thị Ngã, dục cứu chúng sanh, tá
danh Cao Ðài Ðại Bồ Tát. Nhữ tri hồ?
Hữu Ngã đồ Thái Ðầu Sư tại thử, nhĩ vô thức luyện
đạo, Ngã phái Ngọc Ðầu Sư chỉ giáo thọ bửu pháp.
Tam thập tứ vị chúng sơn bất tri chơn lý luyện
thành.
Ngã vi Chủ khảo giáo hóa. Khả tuân Ngã mạng.
Nhữ đẳng tu thọ pháp, tu thọ pháp. Khâm tai!
THÍCH
CA NHƯ LAI kim viết
CAO
ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT
Chư sơn nghe dạy:
Vốn từ Lục Tổ thì Phật giáo đã bị bế lại, cho nên
tu hữu công mà thành thì bất thành. Chánh pháp bị nơi Thần Tú làm cho ra mất
Chánh giáo, lập riêng pháp luật buộc mối đạo Thiền.
Ta vì luật lịnh Thiên mạng đã ra cho nên cam để
vậy, làm cho Phật tông thất chánh có trên ba ngàn năm nay. Vì Tam Kỳ Phổ Ðộ,
Thiên Ðịa hoằng khai, nơi Tây Phương Cực Lạc và Ngọc Hư Cung mật chiếu đã
truyền siêu rỗi chúng sanh.
Trong Phật Tông Nguyên Lý đã cho hiểu trước đến
buổi hôm nay rồi, tại tăng đồ không kiếm chơn lý mà hiểu.
Lắm kẻ đã chịu khổ hạnh hành đạo. Ôi! Thương thay!
Công có công mà thưởng chưa hề có thưởng, vì vậy mà Ta rất đau lòng.
Ta đến chẳng phải cứu một mình chư tăng mà thôi, vì
trong thế hiếm bậc Thần, Thánh, Tiên, Phật phải đọa hồng trần, Ta đương lo cứu
vớt.
Chư tăng, chư chúng sanh hữu căn hữu kiếp, đặng gặp
kỳ Phổ Ðộ nầy là lần chót, phải rán sức tu hành, đừng mơ mộng hoài trông giả
luật.
Chư sơn đắc đạo cùng chăng là do nơi mình hành đạo.
Phép hành đạo Phật giáo dường như ra sái hết, tương tợ như gần biến Tả Ðạo Bàng
Môn. Kỳ truyền đã thất, chư sơn chưa hề biết cái sai ấy do tại nơi nào, cứ ôm
theo luật Thần Tú, thì đương mong mỏi về Tây phương mà cửa Tây phương vẫn cứ bị
đóng, thì cơ thành Chánh quả do nơi nào mà biết chắc vậy.
Ta đã đến với huyền diệu nầy thì từ đây, Ta cũng
cho chư tăng dùng huyền diệu nầy mà học hỏi, ngày sau đừng đổ tội rằng vì thất
học mà chịu thất kỳ truyền. Chư tăng từ đây chẳng đặng nói Phật giả vô ngôn
nữa.
CHÚ THÍCH:
Hội Phước Tự: Một ngôi chùa ở Cần Giuộc mà vị sư
trụ trì là Yết Ma Luật (Nguyễn văn Luật). Tháng 4 năm Bính Dần (1926), Hội
Phước Tự tổ chức trường hương, Hòa Thượng Thích Thiện Minh làm Thiền chủ. Chư
vị lập đàn cầu cơ, tiếp được bài Thánh Ngôn nầy. Hòa Thượng Thiện Minh được Ðức
Chí Tôn phong làm Ðầu Sư phái Thái, Thánh danh Thái Minh Tinh. Sau, Yết Ma Luật
được Ðức Chí Tôn phong Giáo Sư phái Thái là Thái Luật Thanh. (Tài liệu của Huệ
Nhẫn)
Cư: Ðức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư.
Tắc: Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
Tắc tụng Nhơn Quả: Ðức Chí Tôn bảo Ngài Phạm Công
Tắc tụng Kinh Nhơn Quả. Kinh Nhơn Quả là Kinh Sám Hối, thỉnh bên Minh Lý (Tam
Tông Miếu).
Chúng sơn: Các tu sĩ Phật giáo, đồng nghĩa chư
tăng.
Chủ khảo: Người chủ trì việc thi tuyển học viên.
Diễn nôm đoạn Thánh Ngôn chữ Hán:
Thích Ca Như Lai là Ta, muốn cứu chúng sanh, mượn
tên là Cao Ðài Ðại Bồ Tát. Ngươi biết chăng?
Có môn đệ của Ta là Thái Ðầu Sư (Thái Minh Tinh)
tại đây, nó không biết luyện đạo, Ta phái Ngọc Ðầu Sư (Ngọc Lịch Nguyệt) chỉ vẽ
cho để nhận lãnh bửu pháp.
Ba mươi bốn vị tăng không biết chơn lý luyện thành.
Ta làm Chủ khảo giáo hóa. Khá tuân lệnh Ta.
Các ngươi nên thọ pháp, nên thọ pháp. Kính vậy
thay!
Ðạo bị bế lại: Chánh pháp tu đắc đạo bị đóng lại,
làm người tu không thể thành Chánh quả được; giống như trường thi đóng cửa,
không tổ chức thi tuyển thì đâu có ai thi đậu.
Huệ Năng - Thần Tú: Hai vị nầy đều là học trò của
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn của Phật giáo Trung Hoa. Thần Tú học với Hoằng Nhẫn nhiều năm
nhưng chưa tỏ ngộ được Chơn tánh. Huệ năng mới học với Ngũ Tổ có 8 tháng nhưng
lại ngộ đạo, thấy được Chơn tánh, đạt được trí huệ. Do đó, Ngũ Tổ truyền Y Bát
cho Huệ Năng làm Lục Tổ Phật giáo, dạy xuống miền Nam hoằng pháp, truyền bá
phép tu Ðốn ngộ.
Sư Thần Tú có phần buồn nên đi lên phía Bắc hành
đạo, truyền bá phép tu Tiệm ngộ. Lúc bấy giờ, Phật giáo Trung hoa chia ra: Nam
Tông của Lục Tổ Huệ Năng và Bắc Tông của Ðại sư Thần Tú. Nhưng Nam Tông mới là
chánh truyền vì Lục Tổ Huệ Năng có Y Bát.
Mật chiếu: Mệnh lệnh bí mật của Ðức Chí Tôn.
Phật Tông Nguyên Lý: là quyển Kinh Phật viết vào
thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ, trong đó có nêu 6 chữ Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, và viết rằng:
Sau Ðức Thích Ca, sẽ có một Ðức Phật rất lớn giáng trần mở đạo." Ðó là Ðức
Chí Tôn mở Ðạo Cao Ðài ngày nay đó vậy. (theo Huệ Lương)
Hiếm: Có 2 nghĩa tùy theo trường hợp: Ít có -
Nhiều. Trong bài Thánh Ngôn nầy, Hiếm là nhiều (từ ngữ xưa) (theo Ðại Nam Quốc
Âm Tự Vị của Huỳnh Tịnh Của).
Giả luật: Ý nói luật tu không đưa đến sự đắc đạo.
Trái với Giả luật là Chơn luật. Giả là không thật. Chơn là thật.
Tả Ðạo: Ðạo không đúng đắn. Tả là sai trái.
Bàng Môn: Cửa bên hông chớ không phải cửa chánh. Ý
nói không phải Ðạo Chánh.
Tả đạo Bàng môn: Chỉ các tôn giáo không chơn chánh,
đưa người tu đến chỗ lầm lạc, không thành Chánh quả, không giải thoát khỏi luân
hồi.
Kỳ truyền đã thất: Cái Chơn truyền ấy đã mất. Chơn
truyền là giáo lý chơn thật đúng đắn được Ðấng Giáo chủ truyền lại cho các môn
đồ.
15 . Thứ ba, 8-6-1926 (âl 28-4-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ
TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương.
CAO
ÐÀI
(Hai người Lang sa hầu đàn)
Ce n'est pas ainsi qu'on se présente devant Dieu.
THĂNG.
Tái cầu:
CAO ÐÀI,
LE TRÈS-HAUT
Oh! Race bénite, Je vais satisfaire ta curiosité. Humains, savez-vous d'où
vous veniez?
Parmi toutes les créatures existant sur ce globe terrestre, vous êtes les
plus bénis; Je vous élève jusqu'à Moi en esprit et en sagesse. Vous avez toutes
preuves pour vous reconnaitre par promotion céleste.
Le Christ est venu parmi vous. Il versait son Saint sang pour la
Rédemption.
Quel profit avez-vous pendant presque deux mille ans de son absence? Vous
préchez son Évangile sans même le comprendre. Vous dénaturez la signification
de sa Sainte Doctrine. L'humanité souffre des vicissitudes de tous ses Apôtres.
Ils n'ont pas su suivre le même chemin du calvaire de leur Maitre.
Le trône le plus précieux du monde est celui du premier de ses disciples.
Cette doctrine, au lieu d'apporter à l'humanité la paix et la concorde, lui
apporte la dissension et la guerre.
Voilà, pourquoi Je viens vous apporter moi-même la paix tant promise.
Le Christ ne revient qu'ensuite.
Au revoir. . . Vous apprendriez encore beaucoup de choses auprès de mes
disciples.
Bài dịch Việt văn của Hội Thánh:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG
ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
CAO ÐÀI
(Hai người Lang sa hầu đàn)
Không phải cách chầu Trời như thế. THĂNG.
Tái cầu:
CAO ÐÀI, ÐẤNG CAO CẢ
Hỡi nầy dân tộc có diễm phước, Thầy sẽ làm thỏa mãn
tánh hiếu kỳ của con. Là loài người, các con có biết tự đâu các con đến chăng?
Trong vạn vật hiện hữu trên quả địa cầu nầy, các
con là kẻ được ban ân huệ nhiều hơn cả; Thầy đem các con đến tận Thầy bằng cả
tinh thần lẫn trí huệ. Các con có đủ bằng chứng để tự biết mình do sự thăng
phẩm vị thiêng liêng.
Chúa Cứu Thế đã đến với các con. Người đã phải chịu
đổ máu Thánh để chuộc tội cho loài người.
Trong 2000 năm vắng mặt Người, các con đã làm gì
hữu ích? Các con truyền bá đạo Người, nhưng chính các con cũng không hiểu chi
cả. Các con lại làm sai lạc bản chất, tôn chỉ của nền Thánh giáo. Nhân loại
phải chịu đau khổ vì sự biến thể của các Thánh Tông đồ.
Chiếc ngai quí báu nhứt trên thế gian nầy hiện là
chiếc ngai của vị đệ nhứt cao đồ của Người.
Giáo lý ấy đáng lẽ phải đem lại hòa bình và tương
ái cho loài người, nhưng trái lại nó gây mầm chia rẽ và chiến tranh.
Bởi thế nên nay chính Thầy phải đến để đem lại cho
các con nền hòa bình đã từng hứa hẹn.
Rồi đây, Chúa Cứu Thế sẽ trở xuống sau.
Thầy giã từ các con. . . Các con sẽ còn học hỏi
nhiều việc khác nữa với mấy vị môn đồ của Thầy.
CHÚ THÍCH:
Chúa Cứu Thế: Ðức Jésus Christ, Gia Tô Giáo chủ.
12 Thánh Tông đồ của Ðức Chúa Jésus là: 1) Thánh
Pierre [Phêrô]. 2) Anrê [em của Phêrô]). 3) Yacôbê [con của Zêbêđê]. 4) Yoan
[em của Yacôbê]. 5) Philip. 6) Barthôlômêô. 7) Thôma. 8) Mathêô. 9) Yacôbê [con
của Alphê]. 10) Thađê. 11) Simôn nhiệt thành. 12) Yuđa Iscariôt.
Yuđa phản Chúa nên bị chết thảm. 11 Tông đồ còn lại
cử Ông Matthya vào thay Yuđa cho đủ số 12 như buổi đầu.
16 . Ngày 27-6-1926 (âl 18-5-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam
phương
Nhơn, con phải khởi sự kể từ ngày nay cho tới bữa
Ngọc Ðàn Vĩnh Nguyên Tự, tập nhạc đủ lại hết. Như nhập lễ thì đừng đánh trống
Bát Nhã, mà đánh Ngọc Hoàng Sấm, nghĩa là mỗi hồi 12 tiếng, đổ xuống đủ 12 hồi,
3 lần như vậy.
Bạch Ngọc Chung cũng dộng ấy.
Khi nhập lễ, xướng "Khởi Nhạc" thì phải
đánh trống và đờn bảy bài cho đủ.
Chừng hiến lễ, phải đờn Nam Xuân ba bài, vì lễ sanh
phải hiến lễ bảy lái, đi chữ Tâm. Tới khi thài, thì đờn Ðảo Ngũ Cung, rồi con
lại bắt đầu đờn lại, cho môn đệ tụng kinh.
Lịch, Tân Luật con lập có Thầy giáng đủ lễ hết. Vậy
con truyền cho chư môn đệ đặng chúng nó y theo mà hành lễ.
Nghĩa, con phải học xướng cho thuộc làu.
Biểu Ðức cũng vậy. Ba con phải nhớ lời Thầy dặn cho
kỹ nghe!
Mấy đứa con là: Nghĩa, Hậu, Ðức, Tràng, Cư, Tắc,
Sang, đều mặc đồ trắng, hầu theo thứ lớp như vầy:
Nghĩa, Ðức, đứng xướng ngoài, là tại bàn thờ Hộ
Pháp; rồi Hậu, Tràng, đứng cặp kế đó; kế ba con sau rốt hết: Tắc giữa, Cư mặt,
Sang trái.
Còn ba bàn thờ trong thì biểu Lịch lập như vầy:
Giữa: Thượng Ðàn,
Hữu: Ngọc Ðàn,
Tả: Thái Ðàn.
Còn Thánh vị của chư môn đệ đã dĩ vãng thì tùy theo
phái nó mà sắp kế theo bàn thờ Thầy.
Kỳ, Kim, hầu xướng nội, là bàn thờ trong, biểu
chúng nó đứng như vầy: Kỳ bên mặt, Kim bên trái.
Còn Bản, Giỏi, một cặp lễ sanh đầu, đi giữa với một
cặp nữa là Tỷ với Tiếp.
Tả thì Nhơn với Tương, hữu thì Giảng với Kinh.
Lập ngoài cho đủ ba bàn vọng, đều để chư lễ sanh
hầu.
Chừng nào nội xướng thì để cho lễ sanh điện lễ,
cúng vật thì để sẵn ngoài ba bàn, chừng lễ sanh xướng thì đem vô cho mấy vị
Chức sắc hiến lễ.
Trung, con phải cậy hai vị Lão thành Minh Ðường hầu
trong đặng tiếp lễ Thượng Ðàn, Ngọc Ðàn thì Kinh và Chương, còn Thái Ðàn ngày
ấy Thầy lựa.
Cười . . .
Minh, Thầy sẽ dạy nó đến.
Cười . . .
Ba bàn ngoài thì mỗi bàn phải có hai viên Chức sắc
hiến lễ.
Tương và Tươi tại giữa Thượng Ðàn.
Muồi và Vân bên Ngọc Ðàn.
Còn Thái Ðàn ngày ấy Thầy định.
Cười . . .
Bản, đứng dậy. Thầy vẽ đi chữ Tâm là sao, rồi Thầy
mới dạy tiếp đặng.
[Phết trước mấy dấu ngón chơn mặt, giơ lên, phết
qua một cái đặng làm cái chấm . . . Ðứng hai chơn cho ngang nhau. Con phết đi,
đứng thụt lại.]
Cư, con đi cho nó coi.
Các con coi Thầy đi đây nè!
Hiểu lấy nước con.
Con đi thế nào thành hai chữ Tâm lộn ngược như vậy.
Cư đi trúng, đi lại nữa con.
Cư, giỏi con, phải vậy, như con muốn cho ra bộ lịch
sự thì khi chấm gót, con nhún bộ xuống một chút.
Cười . . .
Giỏi, Bản, . . . Thầy tiếp.
Ðọc lại Nghĩa.
Như ngoại xướng: "Ðiện Trà", "Quì", Chức sắc đồng quì dưng Trà lên
khỏi đầu.
Một cặp lễ sanh đầu, ở giữa hầu, đặng cầm song đăng
bước lên. Khi xướng "Quì" thì cũng phết chơn trái, đá chơn mặt, quì
xuống cho đều với ba cặp lễ sanh kia, chừng trống nhạc đổ thì lần lần đứng dậy
cho đều, day mặt vào Bửu điện.
. . . Phải vậy con. . . Hễ đứng dậy rồi, xây mặt
vào Chánh điện, để song đăng và cúng vật xuống ngay ngực, chừng trống đổ lần
thứ nhì, cung lên. Nhạc lại khởi thì xem nhịp mà đi bảy lái, chừng ấy Thầy dặn
Nhơn nó nhịp lại cho các con đi. Cười . . .
Con Trung, con phải giữ y như Tân Luật mà hành lễ.
CHÚ THÍCH:
Bài Thánh Ngôn nầy, Ðức Chí Tôn dạy cách sắp đặt
nghi thức cúng Ðại Ðàn, đặc biệt, Ðức Chí Tôn nhập vào Ngài Cao Quỳnh Cư để dạy
cách hiến lễ đi theo hình chữ Tâm . (心) Ðây là cách hiến lễ đặc biệt của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Nhơn: Giáo Sư Thượng Nhơn
Thanh (Nguyễn Văn Nhơn).
Ngọc Hoàng Sấm: Ý nói trống
Lôi Âm (Lôi Âm Cổ).
Bạch Ngọc Chung: Chuông Bạch Ngọc.
Ðờn bảy bài: Ðại Ðàn cúng Vía Ðức Chí Tôn và ba rằm lớn: Thượng nguơn, Trung nguơn, Hạ nguơn, khi Nhạc Tấu Quân Thiên, nhạc đờn bảy
bài, kể ra sau đây:
Xàng xê: là đưa qua trộn lại
không ở một chỗ, ấy là thời Hỗn Ðộn sơ khai.
Ngũ Ðối Thượng: là từng
trên, có Ngũ Khí thanh nổi lên làm Trời.
Ngũ Ðối Hạ: là từng dưới,
có khí Ngũ Hành nặng trược hạ xuống làm Ðất.
Long Ðăng: là rồng lên, ấy là Dương.
Long Ngâm: là rồng xuống, ấy
là Âm.
Vạn Giá: là muôn việc đã định
rồi, ấy là muôn loài đều có tên.
Tiểu Khúc: là sự nhỏ ngắn,
ấy là các vật nhỏ ngắn đều có định luật.
Ðờn hiến lễ bảy bài vì Ðức
Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu phối hợp Dương quang và Âm quang sanh hóa CKVT vạn vật.
Lịch: Ngài Ðầu Sư Ngọc Lịch
Nguyệt (Lê Văn Lịch).
Nghĩa: Khai Pháp Trần Duy
Nghĩa.
Ðức: Hiến Pháp Trương Hữu
Ðức.
Hậu: Bảo Pháp Nguyễn Trung
Hậu.
Tràng: Tiếp Pháp Trương
Văn Tràng.
Cư: Ðức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư.
Tắc: Ðức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc.
Sang: Ðức Thượng Sanh Cao
Hoài Sang.
Hiểu: (? )
Kỳ: Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh (Vương Quan Kỳ).
Kim: Giáo Sư Thượng Kim
Thanh (Ngô Văn Kim).
Hầu xướng nội: Ðứng hầu Nội
Nghi, phận sự xướng lễ.
Bản: Giáo Hữu Thượng Bản
Thanh (Ðoàn Văn Bản).
Giỏi: Giáo Hữu Thượng Giỏi
Thanh (Huỳnh Văn Giỏi).
Tỷ: Giáo Hữu phái Thượng
(Cần Giuộc).
Tiếp: Giáo Hữu phái Thượng
(Cần Giuộc).
Lễ sanh: Người giữ phận sự
điện lễ. Ðiện lễ là hai tay cung lên, bưng phẩm vật đem từ Ngoại nghi vào Nội
nghi, bước đi theo hình chữ Tâm 心 trao cho Chức sắc quì tại Nội nghi hiến lễ lên Ðức Chí Tôn.
Danh từ "Lễ sanh ở
đây chỉ người hiến lễ" trùng với "Lễ Sanh là phẩm vị Chức sắc",
nên Ðức Lý Giáo Tông sau nầy đặt ra danh từ Lễ sĩ cho phân biệt:
Lễ sĩ là người hiến lễ, học
trò lễ.
Lễ Sanh là phẩm vị Chức sắc
dưới Giáo Hữu.
Tương: Phối Sư Thượng
Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương)
Giảng: Giáo Hữu Thượng Giảng
Thanh (Lê Văn Giảng).
Kinh: Giáo Sư Ngọc Kinh
Thanh (Nguyễn Văn Kinh).
Trung: Ðầu Sư Thượng Trung
Nhựt (Lê Văn Trung).
Minh Ðường: Phái tu nơi
chùa Vĩnh Nguyên Tự ở Cần Giuộc của Thái Lão Sư Lê Ðạo Long.
Chương: Bảo Ðạo Ca Minh
Chương.
Minh: Hòa Thượng Thiện
Minh, học trò của Hòa Thượng Như Nhãn. Ðức Chí Tôn phong Ngài Thiện Minh là Ðầu
Sư Thái Minh Tinh, phái Thái.
Tươi: Hiến Ðạo Phạm Văn
Tươi.
Muồi: Giáo Sư Ngọc Muồi
Thanh (Nguyễn Văn Muồi)
Vân: Giáo Sư Ngọc Vân
Thanh (Ngô Tường Vân).
Hai câu: "Cư, con đi
cho nó coi. Các con coi Thầy đi đây nè." Ðức Chí Tôn nhập xác vào Ngài Cao
Quỳnh Cư để dạy cách đi hiến lễ bước theo hình chữ Tâm.
Ngoại xướng: Cặp lễ sĩ ở
Ngoại nghi xướng lễ.
Ðiện Trà: Lễ sĩ đi hình chữ
Tâm, cung tay cầm cái đài có đặt tách Trà, đem dâng từ Ngoại nghi vào Nội nghi.
Song đăng: Cặp lễ sĩ đi
trước cầm hai cây đèn, gọi là Cặp đăng hay Song đăng. (Cặp lễ sĩ đi sau bưng
cúng phẩm gọi là Cặp đài).
17 . Ngày
5-7-1926 (âl 26-5-Bính Dần)
CAO ÐÀI
K. . . nghe Thầy dạy con.
Người dưới thế nầy muốn giàu có phải kiếm phương thế
mà làm ra của. Ấy là về phần xác thịt. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật, muốn cho đắc
đạo phải có công quả.
Thầy đến độ rỗi các con là
thành lập một trường công đức cho các con nên đạo. Vậy đắc đạo cùng chăng, tại
nơi các con muốn cùng chẳng muốn.
Thầy nói cho con nghe, K .
. . ôi! Nếu chẳng đi đến trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi
nơi nào khác mà đắc đạo bao giờ.
K . . . con ôi! Cửa Bạch
Ngọc Kinh ít kẻ, chớ chốn A Tỳ vốn nhiều người. Con liệu mà hành đạo. Thầy
thương con chừng nào, ngày sau con càng ăn năn tiếc chừng nấy.
Thầy đã hiểu lòng con ăn
năn sám hối, nên Thầy đã tha tội trước cho con rồi.
Phận sự con rất lớn, tại
Ngọc Ðàn con sẽ thọ lịnh.
CHÚ THÍCH:
K . . .: Giáo Sư Ngọc Kinh
Thanh (Nguyễn Văn Kinh). Ông Kinh, sanh năm 1890 ở Bình Lý Thôn, Gia Ðịnh, tu
theo Minh Sư, học trò của Thái Lão Sư Trần Ðạo Quang. Ông Kinh có cất một cái
am nhỏ ở làng Hữu Ðạo thuộc Cai Lậy để tu học với Ngài Nguyễn Văn Tương (sau thọ
phong Thượng Chưởng Pháp. Khi Ngài Thượng Chưởng Pháp Tương qui Tiên thì Ngài
Trần Ðạo Quang được phong Quyền Thượng Chưởng Pháp. Về sau nữa, khi Ngài Ngọc
Chưởng Pháp Trần Văn Thụ đăng Tiên thì Ngài Trần Ðạo Quang được ân phong chánh
vị là Ngọc Chưởng Pháp).
Ông Kinh thọ Thiên ân Giáo
Sư phái Ngọc vào ngày mùng 8-6-Bính Dần, có viết hai quyển sách về Giáo Lý Ðạo
Cao Ðài là: Giảng Ðạo Yếu Ngôn và Hội Lý Xiển Chơn Luận. Giáo Sư Kinh có học thức
uyên thâm, nên được Ðức Chí Tôn bổ đi thuyết đạo phổ độ nhơn sanh ở các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long.
Năm 1945, do máy bay Ðồng
Minh oanh tạc đánh Nhựt Bổn, Ông bị thương nặng lúc đi trên sông Vàm Cỏ, được
đưa về bệnh viện Chợ Rẫy ở Sài Gòn thì qui liễu, hưởng 56 tuổi. (Tài liệu của
Huệ Nhẫn)
Bạch Ngọc Kinh: Tòa nhà bằng
ngọc trắng tại Trung Tâm của Càn khôn Vũ trụ, là nơi thường ngự của Ðức Chí Tôn
Ngọc Hoàng Thượng Ðế. Trong Bạch Ngọc Kinh có đủ ngôi vị của chư Thần, Thánh,
Tiên, Phật, đủ cả Nam và Nữ.
A Tỳ: chỉ cõi Ðịa ngục, là
nơi giam giữ và trừng trị các tội hồn, tức là những linh hồn mà trong kiếp sống
nơi cõi trần đã làm nhiều điều ác độc, tội lỗi.
18 . Ngày
15-7-1926 (âl 6-6-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Cư, Tắc, con phải đem bốn
đứa nhỏ theo, rồi kiếm thêm tám đứa nữa, chia ra mỗi hướng là ba đứa, con để:
An . . . . . . . . . . . . Ðông
Bích . . . . . . . . . . . Tây
Tri . . . . . . . . . . . . Nam
Hoằng . . . . . . . . . Bắc.
Biểu chúng nó cầm mỗi đứa một cây cờ nhỏ. Phải làm cờ thế nầy: xanh, đỏ, trắng,
vàng, đen, mỗi hướng ba cây. Trung ương là ba đứa bây cầm. Như làm cờ vải chẳng
kịp thì mua giấy màu. Bề dài cờ là 9 tấc tây, bề ngang 3 tấc tây, cắt xéo xuống.
Nghe và tuân theo.
Khi sắp đặt rồi, Cư, con chấp bút bằng nhang cho Thầy trấn. Con biểu Vân,
khi trấn rồi, nó ở trong cho tới mãn lễ, nếu bước ra ngoài, về nhà điên đi mà chớ.
Biểu sắp nhỏ đại tịnh. Tắc
nghe, con ngó chừng chúng nó luôn luôn.
Biểu Lịch phát cờ cho sắp
nhỏ vì nó phải đọc chú.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét