THÁI BẠCH
M. . . D . . . est prié d'attendre la venue du Divin Maitre.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo
Nam phương
DIEU TOUT-PUISSANT qui vient sous le nom de CAO ÐÀI
pour enseigner la Vérité en Annam
D . . . debout et lis.
De pauvres esprits prétendent qu'ils sont dans le secret de Dieu. Or, Je ne
donne à nul humain ici-bas d'en faire la révélation.
Pour venir à Moi, il faut des prières. Je ne néglige pas à me manifester
quand ces prières sont sincères.
Il suffit, pour vous convaincre ce que Je suis bien Jéhovah des Hébreux, le
Dieu des Armées des Israélites, le Dieu inconnu des Juifs et le Vrai Père de
Jésus Christ, de me prier ce prête-nom CAO ÐÀI pour que vos voeux soient
exaucés.
Tu viens à Moi avec un sentiment sincère pour bien faire aux peuples soumis
qui te sont confiés.
Je te prie alors de propager cette Doctrine à tous les protégés.
C'est la seule qui maintient l'humanité dans l'a-mour des créatures et vous
apporte une paix durable.
Bài dịch Việt văn của Hội Thánh:
THÁI BẠCH
M . . . D . . . , hãy chờ Ðức Chí Tôn đến.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo
Nam phương
THƯỢNG ÐẾ TOÀN NĂNG giáng thế tá danh CAO ÐÀI
truyền Chơn lý tại Việt Nam
D . . . hãy đứng dậy và đọc.
Thầy cho con hiểu rằng nếu không có ý muốn của Thầy thì trên quả địa cầu
nầy chẳng có vật chi sanh tồn tất cả.
Lại có lắm kẻ đáng thương hại tự phụ rằng, họ hiểu thấu cả lẽ mầu nhiệm của
Ðấng Tạo hóa. Nhưng Thầy không bao giờ cho một kẻ nào dưới cõi trần nầy tiết lậu Thiên cơ cả.
Muốn đến Thầy thì phải cầu nguyện. Thầy không bao
giờ không cảm ứng với những lời cầu nguyện chơn thành.
Như thế đủ chứng tỏ cho con tin rằng Thầy là Ðức
Jéhovah của dân Hébreux, vị chủ tể của quân lực dân Israel, vị Thánh vô danh
của dân Do Thái, vị Ðại Từ Phụ của Chúa Jésus Cứu Thế, con chỉ cần cầu nguyện
Thầy với danh hiệu CAO ÐÀI thì sẽ có sự cảm ứng chấp thuận.
Con đến đây với tấm lòng thành thật để làm việc
phải cho giống dân biết phục thiện hiện đang giao phó cho con.
Vậy Thầy nhờ con truyền bá Giáo lý nầy cho dân tộc
đặt dưới quyền bảo hộ của con.
Chỉ có cách đó mới có thể kềm giữ nhơn loại trong
tình yêu sanh chúng và đem lại cho con một cuộc đời hòa bình bền bỉ.
CHÚ THÍCH:
M . . . D . . .:
Monsieur Dauplay.
D . . .: Dauplay.
Hébreux: Dân Hébreux là
nòi giống của Abraham, là tổ tiên của người Do Thái ngày nay.
Israel: tên của nước Do Thái, gọi bằng tiếng Pháp.
Tiết lậu Thiên cơ: Nói ra cho người khác biết việc
bí mật của máy Trời.
Bảo hộ: Người Pháp đến cai trị nước ta xuyên qua chánh
quyền Việt Nam do Pháp dựng lên đặng làm bù nhìn cho Pháp.
65 .
Chúa nhựt, 19-12-1926 (âl 15-11-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam
phương
Các con nghe:
Một sự các con chưa hề biết đến, đặng hiểu Ðạo quí
trọng là dường nào, lo tu tâm dưỡng tánh.
Các con đã sanh ra tại thế nầy, ở tại thế nầy, chịu
khổ não tại thế nầy, rồi chết cũng tại thế nầy.
Thầy hỏi: Các con chết rồi các con ra thế nào? Các
con đi đâu?
Chẳng một đứa nào hiểu đặng cơ mầu nhiệm ấy. Thầy
dạy:
Cả kiếp luân hồi thay đổi từ trong nơi vật chất mà
ra thảo mộc, từ thảo mộc đến thú cầm, loài người phải chịu chuyển kiếp ngàn
năm, muôn muôn lần mới đến địa vị nhơn phẩm.
Nhơn phẩm nơi thế nầy lại còn chia ra phẩm giá mỗi
hạng. Ðứng bực đế vương nơi trái Ðịa cầu nầy, chưa đặng vào bực chót của Ðịa
cầu 67. Trong Ðịa cầu 67, nhơn loại cũng phân ra đẳng cấp dường ấy.
Cái quí trọng của mỗi Ðịa cầu càng tăng thêm hoài
cho tới Ðệ nhứt Cầu, Tam thiên Thế giái. Qua khỏi Tam thiên Thế giới thì mới
đến Tứ Ðại Bộ Châu. Qua Tứ Ðại Bộ Châu mới vào đặng Tam thập lục Thiên. Vào Tam
thập lục Thiên rồi phải chuyển kiếp tu hành nữa mới đặng lên đến Bạch Ngọc
Kinh, là nơi đạo Phật gọi là Niết Bàn đó vậy.
Các con coi đó thì đủ hiểu, các phẩm trật của các
con nó nhiều là dường nào, song ấy là phẩm trật Thiên vị.
Còn phẩm trật Quỉ vị cũng như thế ấy. Nó cũng noi
chước Thiên cung mà lập thành Quỉ vị, cũng đủ các ngôi, các phẩm, đặng đày đọa
các con, hành hài các con, xử trị các con. Cái quyền hành lớn lao ấy do Thầy
ban cho nó, nên đặng quyền cám dỗ các con, xúi biểu các con, giành giựt các con
mà làm tay chơn bộ hạ trong vòng tôi tớ nó.
Thầy đã thường nói: Hai đầu cân không song bằng thì
tiếng cân chưa đúng lý. Luật công bình thiêng liêng buộc phải vậy. Thầy lắm
phen bị mất, bị giựt con cái của Thầy vì chúng nó.
Thầy đã chỉ rõ hai nẻo Tà Chánh, sang hèn rồi, vậy
Thầy cũng chỉ phương hướng cho các con đi cho khỏi lầm lạc.
Các con hiểu rằng, trong Tam thiên Thế giới còn có
Quỉ mị chuyển kiếp ở lộn cùng các con thay, huống lựa là Thất thập nhị Ðịa nầy,
sao không có cho đặng?
Hại thay! Lũ quỉ là phần nhiều. Nó bày bố ra mỗi
nơi một giả cuộc mà dỗ dành các con.
Vì vậy Thầy đã nói tiên tri rằng:
Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại
hằng ngày xúi biểu nó cắn xé các con, song Thầy cho các con mặc một bộ thiết
giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng, là đạo đức các con.
Ấy vậy, đạo đức các con là phương pháp khử trừ Quỉ
mị, lại cũng là phương dìu dắt các con trở lại cùng Thầy.
Các con không đạo thì là tôi tớ Quỉ mị.
Thầy đã nói đạo đức cũng như một cái thang vô ngằn,
bắc cho các con leo đến phẩm vị tối cao tối trọng là ngang bực cùng Thầy, hay
là Thầy còn hạ mình cho các con cao hơn nữa.
Vậy Thầy lại dặn các con: Nếu kẻ không tu, làm đủ
phận người, công bình chánh trực, khi hồn xuất ra khỏi xác thì cứ theo đẳng cấp
gần trên mà luân hồi lại nữa, thì biết chừng nào đặng hội hiệp cùng Thầy.
Nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại
Càn khôn Thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu, đủ trở về cùng Thầy đặng, mà
hại thay! mắt Thầy chưa đặng hữu hạnh hoan lạc thấy đặng kẻ ấy.
Vậy Thầy dặn: Ðạo là nơi các con nên quí trọng đó
vậy.
CHÚ THÍCH:
Thất thập nhị Ðịa: 72 Ðịa cầu. Các quả Ðịa cầu nầy
được đánh số để gọi từ cao xuống thấp. Ðịa cầu ở cao nhất tức là thanh nhẹ nhất
là Ðệ nhứt cầu (Ðịa cầu số 1), Ðịa cầu ở thấp nhất (trọng trược nhất) là Ðịa
cầu số 72. Ðịa cầu của nhơn loại chúng ta đang ở là Ðịa cầu số 68.
Tam thiên Thế giới: 3000 Thế giới. Tam thiên Thế
giới ở bên trên Thất thập nhị Ðịa, nên rất thanh nhẹ.
Tứ Ðại Bộ Châu: Bốn Bộ Châu lớn. Ðây là Tứ Ðại Bộ
Châu Thượng của Tam thiên Thế giới, gồm: Ðông Ðại Bộ Châu, Nam Ðại Bộ Châu, Tây
Ðại Bộ Châu, và Bắc Ðại Bộ Châu. Tứ Ðại Bộ Châu Thượng nằm trên và quản lý Tam
thiên Thế giới. Ngoài ra Thất thập nhị Ðịa cũng có Tứ Ðại Bộ Châu nữa, gọi Tứ
Ðại Bộ Châu Hạ, nằm trên và quản lý Thất thập nhị Ðịa. Tứ Ðại Bộ Châu Hạ gồm:
Ðông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hóa Châu, Bắc Cu Lư Châu. Ðịa
cầu 68 của chúng ta thuộc Nam Thiệm Bộ Châu.
Hai đầu cân không song bằng thì tiếng cân chưa đúng
lý: Ðây là luật công bình thiêng liêng. Hễ có Chánh thì phải có Tà; có Tiên
Phật thì có Quỉ Ma; có Thiên đường thì có Ðịa ngục; hễ có Dương thì phải có Âm.
Hai thế lực ấy phải cân bằng nhau, để thúc đẩy sự vận chuyển tiến hóa trong
CKVT.
Cải Tà qui Chánh là tiến hóa, ngược lại, từ Chánh
qua Tà là thoái hóa. Mỗi người nơi cõi trần đều trải qua một quá trình tiến hóa
lâu dài, đi từ vật chất lên thảo mộc, lên thú cầm, rồi tiến hóa thành nhơn
loại. Mỗi một kiếp luân hồi là một lần tiến hóa. Con người còn phải tiến hóa
lên Thần, Thánh, Tiên, Phật. Muốn tiến hóa nhanh vượt bực thì phải tu hành.
Trong một kiếp tu có thể đạt được Phật vị. Nếu không tu thì sự tiến hóa rất
chậm, còn nếu làm ác thì bị thoái hóa.
66 .
Chúa nhựt, 19-12-1926 (âl 15-11-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Các con phần nhiều biết tiếng Lang sa.
Thầy dùng nói cho các con dễ hiểu đạo lý.
Qu'est-ce que la noblesse, la richesse, la gloire?
La noblesse est l'ensemble de titres plus ou moins énivrants décernés aux
hommes par les hommes.
Quelle est la valeur de ces titres?
N'est-ce pas suivant la valeur de ceux qui donnent?
Donnés par un humain, ils ne sont que trop humains.
Ce qui vient d'un homme n'a rien de résistant.
C'est sujet à détérioration. Ils sont détruits dès qu'on enlève la vie de
celui qui les détient.
Cherchez la noblesse céleste, c'est la seule éternelle.
La richesse est ensemble de toute préciosité qu'on amasse en ce monde.
Que comprend-elle?
L'or, l'argent, la pourpre, la soierie, etc . . .
L'or, l'argent ne sont que simples métaux.
La pourpre n'est que couleur.
La soierie n'est que matière animale.
Prenez-vous toutes ces choses en vraies richesses?
Elle ne sont qu'insignifiantes d'après leur provenance.
Cherchez, vous autres, la richesse en la Vertu de Dieu. C'est la seule que
vous aurez éternellement ; nul ne pourra vous la dérober.
La gloire est souvent contre la vertu. Elle est éphémère. Elle provient
souvent de la fourberie.
La gloire de Dieu est la seule qui résiste à toutes épreuves.
(Trung bạch: Mấy con phải làm sao mà
tìm đặng la noblesse, la richesse et la gloire de Dieu?)
Thầy trả lời: TU.
Bài dịch Việt văn của Hội Thánh:
THẦY
Các con,
Các con phần nhiều biết tiếng Lang sa.
Thầy dùng nói cho các con dễ hiểu đạo lý.
Phẩm tước là gì? Của cải, danh vọng là gì?
Phẩm tước là sự tổng hợp các chức tước đã bày ra để quyến rũ người hoặc ít hoặc nhiều. Những chức tước ấy do người
đời tạo ra phong thưởng kẻ khác.
Giá trị của các chức tước ấy ra sao?
Giá trị những chức tước ấy tùy theo mà tạo nó ra.
Việc chi do người đều phàm cả.
Nó không bền, thường thường bị hư hỏng và tiêu tan
ngay sau khi người đã được nó tặng bị cướp mất sự sống.
Các con hãy tìm tước phẩm nơi cõi thiêng liêng,
tước phẩm ấy mới là vĩnh viễn.
Còn tài sản là tổng quát các vật quí giá của con
người đã thu nhặt trên thế gian nầy.
Của cải ấy gồm những gì?
Vàng bạc chỉ là loại kim khí tầm thường.
Hồng là một chất màu.
Còn lụa là chất do loài vật cấu thành ra.
Các con xem của ấy là quí giá thật sự sao?
Xét từ nơi sản xuất các vật ấy đều không đáng kể.
Các con nên tìm sự giàu đức tính của Trời. Chỉ có
cách đó mới gọi là vĩnh cửu. Của quí ấy không ai ăn cướp đặng cả.
Danh vọng thường hay chống lại với đức hạnh. Nó rất
ngắn ngủi và thường thành tựu nhờ nơi sự gian trá.
Danh quyền nơi Trời là bền chắc nhứt và danh quyền
ấy mới chịu đựng nổi bao sự thử thách.
(Trung bạch:
Mấy con phải làm sao mà tìm đặng phẩm tước, của cải và danh vọng của Trời?)
Thầy trả lời: TU.
67 . Ðại Ðàn Chợ Lớn (Nhà của
Ngài Lê văn Trung)
Ngày 20-12-1926 (âl 16-11-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Chư môn đệ nghe:
Thầy đã muốn cho hoàn toàn phải cần có luật, mà hễ
có luật thì cần phải do theo đó mà hành đạo mới khỏi điều sơ thất đặng.
Nhiều đứa nhờ công quả chút ít mà đặng Thầy trọng
dụng, là có ý để cho chúng nó đặng vui lòng mà bước tới, dè đâu đã chẳng trông
sợ nơi lịnh Thầy, lại lấy ý riêng mà làm cho có lời kích bác trong đạo. Thầy
hỏi: Có đáng tội chăng?
Nếu Thầy chẳng lấy đức từ bi mà dìu dắt các con thì
chư Thần, Thánh đã phạt mấy đứa ấy cách nặng nề hơn nữa. Các con khá liệu mà
hành đạo.
Chư nhu nghe:
Ðạo Trời dìu bước nhơn sanh, đường Thánh dẫn người
phàm tục. Sanh nhằm lối may mắn đặng gặp một Ðạo Chánh, nếu chẳng lo dưỡng tánh
trau mình, để bước vào con đường Cực Lạc, thoát đọa Tam đồ, một mai cảnh ủ bông
tàn, rốt cuộc lại ăn năn vô ích.
Ta vì thương xót sanh linh, mở Ðạo Tam Kỳ để độ
người hữu phước. Nếu chẳng mau chân, ngày giờ hầu cận, chư Tiên, Phật hội Tam
Giáo xin bế lại thì dầu Ta muốn cứu vớt thêm cũng chẳng qua số Thiên cơ đặng.
CHÚ THÍCH:
Ðường Thánh: Con đường đạo đức.
Dưỡng tánh: Nuôi dưỡng cái tánh cho được lành như
thuở ban đầu. Nhơn chi sơ tánh bổn thiện: Con người mới sanh ra, tánh vốn lành.
Thoát đọa Tam đồ: Thoát khỏi ba đường luân hồi đày
đọa là Ðịa ngục, Ngạ quỉ (Ma đói), Súc sanh (Thú vật). Tam đồ, ở đây chúng ta
phải hiểu ý nghĩa theo Phật giáo, là ba đường luân hồi đày đọa trong Lục đạo
luân hồi. Lục đạo luân hồi gồm: Tiên, Thần, Nhơn, Ðịa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.
Cảnh ủ bông tàn: Lúc đóa hoa kéo úa sắp tàn, ý nói
cảnh về già của con người.
Người hữu phước: Người có phước đức trong kiếp
trước, tức người có căn tu hành.
Hầu cận: Hầu gần, sắp đến.
Hội Tam giáo xin bế lại: Các Ðấng Thần, Thánh,
Tiên, Phật trong Tam giáo họp Ðại hội xin đóng lại, và bãi bỏ luật tu hành,
người tu không còn đắc đạo được nữa.
Số Thiên cơ: Ðiều qui định trong Thiên điều.
68 .
Ngày 24-12-1926 [NOEL] (âl 20-11-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
giáo đạo Nam phương
Thầy mừng các con.
Các con ôi! Nếu nói rằng Thầy đã nhiều cực nhọc từ
ngày Khai Ðạo đến chừ, Ðạo đặng phổ thông mau chóng dường nầy, thì đáng lẽ Thầy
mừng cho các con lắm mới phải . . . Sao Thầy lại buồn?
Các con ôi! Các con đã chịu lắm khổ não nơi biển
trần nầy. . . Từ mười ngàn năm rồi đã ở dưới quyền Tà quái áp chế.
Vì vậy mà Thầy phải phế hết Bạch Ngọc Kinh, Huỳnh
Kim Khuyết, giáng trần độ rỗi các con, chớ chi Thầy đến mà làm cho giảm sự khổ
não các con chẳng đặng nữa thì thôi, lẽ nào còn lập TÂN LUẬT ràng buộc các con
thêm nữa. . .
Vì cớ mà Thầy buồn . . .
Thầy tỏ thật, cái luật lệ Thầy khiến các con hiệp
chung trí mà lập thành đây, nó có ảnh hưởng về đạo đức, Tiên phong Phật sắc của
các con, nên Thầy buộc mình cam chịu vậy.
Chẳng luật lệ thì trái phép, mà trái phép thì thế
nào vào Bạch Ngọc Kinh cho đặng. . .
Vậy các con ráng làm phận sự cho hoàn toàn, rồi có
Thái Bạch giáng cơ sửa luật.
CHÚ THÍCH:
Biển trần: Ðây là Biển trần khổ. Ðức Phật nói: Nước
mắt của chúng sanh nhiều hơn nước bốn biển. Cho nên cõi trần là biển khổ, là
cõi đọa. Con người sống trong cõi trần là đang ngụp lặn trong biển khổ ấy.
Áp chế: Dùng sức mạnh mà sai khiến kẻ khác.
Bạch Ngọc Kinh: Tòa nhà bằng ngọc trắng ở tại trung
tâm CKVT, nơi thường ngự của Ðức Chí Tôn Thượng Ðế, nơi ấy có đủ ngôi vị của
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Huỳnh Kim Khuyết: Cái cổng vào đền vua làm bằng
vàng ròng. Trong Huỳnh Kim Khuyết là nơi họp triều đình của Ðức Chí Tôn.
Kinh Ngọc Hoàng Thượng Ðế:
Diệu diệu Huỳnh Kim
Khuyết,
Nguy nguy Bạch Ngọc Kinh.
Nghĩa là: Mù mù cửa Huỳnh
Kim Khuyết,
Vòi vọi đền Bạch Ngọc
Kinh.
Tân Luật: Luật tu mới,
trái với Cựu Luật là Luật tu cũ.
Tân Luật là luật tu của Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Cựu Luật là luật tu của thời Nhị Kỳ Phổ Ðộ.
Tiên phong Phật sắc: Hình dáng như Tiên, vẻ đẹp như
Phật. Ý nói phẩm cách cao thượng siêu phàm.
69 .
Ðêm 24-12-1926 [NOEL] (âl 20-11-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam
phương
Thầy lấy làm vui mà trông thấy các con hội hiệp
nhau đêm nay mà tỏ lòng thành kính.
Thầy để lời ban khen hạnh đức của phần nhiều trong
chư môn đệ và chư ái nữ.
Sự hội hiệp của các con chẳng phải vì nơi đạo đức
mà thôi, lại cũng vì mối tương thân tương ái nữa.
Ngày nầy năm trước, các con vẫn còn mơ màng trong
giấc mộng trần, đường co duỗi vẫn đã lấp kín chút bợn trần, mà màn thế tục cũng
chưa trông khỏa vén. Lần lựa cúc xủ sương tan, mai gầy sen nở, ngày tháng qua
chẳng là bao mà thế thái nhơn tình biết bao thay đổi! Kìa đai cân nhuộm nước
màu thiền, nọ danh lợi xủ lằn trí huệ!
Thầy cũng hoan tâm nắm máy huyền vi, mong rằng các
con sẽ tận lực tận tâm đắp vững nền Ðạo đặng hoàn toàn mà dìu sanh chúng thoát
khỏi tội tình, cùng nhau đỡ nâng đem lên con đường Cực Lạc, vẹt ngút mây xanh,
trông vào lối thanh bạch thiêng liêng là chỗ từ xưa các Chí Thánh đã tổn lắm
công phu mà chưa mong để mình đến được.
Thầy cũng để lời rằng: Phần nhiều trong các con
chưa để hết tâm tánh giúp ích vào đường Chánh giáo. Thầy vì thương căn quả của
các con mà lấy đức từ bi đặng Thiên phong cho các con là cố ý để cho các con
hành đạo cho hoàn toàn, dễ bề tương công chiết tội tiền khiên, hầu nâng mình
vào nơi cựu vị, song nhiều đứa vẫn còn thế tục đeo đai, bước trần chưa trở nẻo,
còn chất chứa gánh trần ai, ngổn ngang lằn gió bụi, chẳng hiểu sự khổ hạnh trau
mình là nấc thang để bước khỏi chốn luân hồi ràng buộc.
Nếu Thầy chẳng vì thương tâm thì các Tiên Phật đã
ghi lỗi rất trọng hệ của các con mà chẳng khứng cho lập công chiết tội.
Phải thường hỏi lấy mình, khi đem mình vào lạy Thầy
buổi tối, coi phận sự ngày ấy đã xong chưa, mà lương tâm có điều chi cắn rứt
chăng?
Nếu phận còn nét chưa rồi, lương tâm chưa đặng yên
tịnh thì phải biết cải quá, ráng sức chuộc lấy lỗi đã làm, thì các con có lo
chi chẳng bì bực Chí Thánh.
Thầy mong rằng, mỗi đứa đều lưu ý đến sự sửa mình
ấy thì lấy làm may mắn cho nền Ðạo, rồi các con sẽ đặng thong dong mà treo
gương cho kẻ khác.
Các con thương mến nhau, dìu dắt nhau, chia vui sớt
nhọc nhau, ấy là các con hiến cho Thầy một sự vui vẻ đó.
CHÚ THÍCH:
Giấc mộng trần: Cuộc vinh hoa phú quí nơi cõi trần
ngắn ngủi như là một giấc mộng. Giấc mộng trần đồng nghĩa: Giấc huỳnh lương,
Giấc Nam kha.
Co duỗi: Thu gom các hoạt động để chờ thời, gọi là
co; hay bung ra hoạt động mạnh mẽ, gọi là duỗi. Ðường co duỗi là ý nói các sự
quyền biến hoạt động trong cuộc sống.
Khỏa vén: Khoát tấm màn ra cho trống chỗ.
Cúc xủ sương tan, mai gầy sen nở: Hoa cúc tượng
trưng mùa thu, cúc xủ là hoa cúc tàn, ý nói cuối mùa thu. Ðầu mùa Ðông có tiết
sương giáng, sương tan là cuối mùa Ðông. Hoa mai tượng trưng mùa xuân, mai gầy
là ý nói hết mùa xuân. Hoa sen là tượng trưng mùa Hạ, sen nở là đang lúc mùa
Hạ.
Thế thái nhơn tình: Tình cảm của con người đổi thay
theo tình đời ấm lạnh.
Ðai cân nhuộm nước màu thiền: Việc công danh lấn áp
việc tu hành. Lo công danh mà bỏ qua việc tu hành.
Danh lợi xủ lằn trí huệ: Cái danh và cái lợi che
khuất cái trí sáng suốt của người tu. Xủ là rủ xuống.
Căn quả: Căn là gốc rễ, chỉ kiếp trước; quả là kết
quả. Căn quả là cái kết quả có được trong kiếp nầy là do những việc làm thiện
hay ác trong kiếp trước. Ở đây, căn quả là ý nói cái căn lành của mỗi người.
Tương công chiết tội tiền khiên: Lấy công quả trừ
bớt tội lỗi đã làm trong kiếp trước.
Bước trần chưa trở nẻo: Vẫn bước trên con đường
danh lợi, chưa trở lại con đường tu.
70 .
Ðại Ðàn Chợ Lớn (Nhà của Ngài Lê văn Trung)
Ngày 27-12-1926 (âl 23-11-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Chư môn đệ nghe:
Phần nhiều trong các con chẳng để lòng thờ kính
Thầy, tưởng cho đem thờ Thầy vào nhà là chủ ý cầu một việc lợi riêng chi cho
gia quyến vậy thôi, chớ chẳng hiểu là một nguồn trong sạch để rửa các lỗi phàm
tục của các con.
Nhiều đứa lại còn mờ hồ, đã thờ Thầy mà chưa chắc ý
rằng thờ đặng chi, và mở đạo có ích gì?
Than ôi! Ðã bước chân vào đường đạo hạnh mà chẳng
để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn, thì làm phận sự môn đệ như thế có
ích chi cho nền Thánh giáo đâu?
Ðạo Trời khai ba lượt, người tục lỗi muôn phần.
Sanh đứng vào vòng thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng đặng chờ lúc
kết quả, hồn qui Thiên ngoại, lánh khỏi xác phàm, trở về nơi khởi hành mà phục
các điều đã thi hành giữa sân khấu là chốn trần ai khốn đốn nầy.
Phận chưa xong phận, thân chẳng nên thân, thân phận
lo tính chưa rồi, còn mong mỏi chi dụng mình vào đường đạo đức để cho có ích
chung nữa đặng!
Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng của
Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc
nhơn đức. Làm một việc phải tức là do nơi ý Trời, phạm một nét vạy tà là cãi
nơi Thiên luật.
Phải quấy, Thần, Thánh chỉn chép biên, thưởng phạt
duy đợi ngày chung cuộc. Khá biết lấy!
CHÚ THÍCH:
Ðạo Trời khai ba lượt: Từ trước tới nay, Ðức Chí
Tôn mở ra 3 thời kỳ khai Ðạo phổ độ nhơn sanh:
Kỳ thứ nhứt gọi là Nhứt Kỳ Phổ Ðộ vào thời Thái cổ.
Kỳ thứ nhì gọi là Nhị Kỳ Phổ Ðộ vào thời Trung cổ.
Kỳ thứ ba là Tam Kỳ Phổ Ðộ ngày nay.
Hồn qui Thiên ngoại: Khi con người nơi cõi trần
chết, linh hồn xuất ra khỏi thể xác, bay lên không trung, ra ngoài bầu Trời,
đến các thế giới khác.
Lương tâm: Cái tâm lành. Cái tâm lành nầy là cái
thể hiện của linh hồn, mà linh hồn là điểm Linh quang của Trời ban cho mỗi
người, nên nó vốn lành. Nó thường khiến con người làm điều hay sự phải, khi làm
điều sai trái gian ác thì bị lương tâm cắn rứt. Mỗi người đều có tâm lành như
nhau, Phật giáo gọi là Phật tánh, nhưng con người làm ác là do dục vọng che phủ
lương tâm, không cho lương tâm kềm chế thể xác.
Chỉn: Vốn, vẫn. Từ ngữ xưa.
71 .
Tây Ninh (Chùa Gò Kén), năm Bính Dần (1926)
THẦY
Các con,
Cõi trần là chi?
Khách trần là sao?
Sao gọi là khách?
Trần là cõi khổ để đọa bậc Thánh Tiên có lầm lỗi. Ấy là cảnh sầu để trả
xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả phải mất cả chơn linh là
luân hồi. Nên kẻ bị đọa trần là Khách trần.
Ðạo là gì? Sao gọi là Ðạo?
Ðạo tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần do theo mà hồi cựu
vị. Ðạo là đường của các nhơn phẩm do theo mà lánh khỏi luân hồi.
Nếu chẳng phải do theo Ðạo thì các bậc ấy đều lạc bước mà mất hết ngôi
phẩm.
Ðạo nghĩa lý rất sâu xa, nhưng phải hiểu trước bao nhiêu đó, rồi mới học các
nghĩa huyền bí khác cho đích xác đặng.
Ðời cũng thế, Ðạo cũng thế, chẳng Ðạo chẳng nên
Ðời, Ðời Ðạo chẳng trọn, lấy Ðạo trau Ðời, mượn Ðời giồi Ðạo. Ðạo nên Ðời rạng,
giũ áo phồn hoa nương bóng khổ trăm năm mãn cuộc tự thanh cao, nếm mùi tự toại,
dưỡng chí thanh nhàn, thì có chi hơn. Vậy là mầu, vậy là trí. Thăng.
72 .
Tây Ninh (Chùa Gò Kén), năm Bính Dần (1926)
LÝ THÁI BẠCH
Việc công cử Bàn Trị Sự, chư hiền hữu làm không
hiệp Thiên ý, vì một người mà lãnh nhiều trách nhiệm thì sao cho tiện.
Thượng Trung Nhựt, hiền hữu rõ việc lắm chứ?
(Thượng
Trung Nhựt bạch: . . . . . . . . . . . . . . . )
Lão y lời hiền hữu mà xin sửa lại, vì không phải
thiếu người mà làm như thế. Việc đó là việc của chư hiền hữu, Lão đâu dám tiến
cử ai, nhưng có một điều là một người không nên lãnh hai phần việc.
Thái Thơ Thanh Thủ Bổn và Phó Hội Trưởng không đặng
(hai người trong Hội ký tên mới được xuất phát), lấy theo việc hành chánh thì
không phải tính như vậy được. Ðạo cả, chẳng nên tư vị, nghe à!
Lão còn ít lời khuyên chư hiền hữu rằng: Công quả
cho kịp kỳ kẻo để nhiều người còn chìm đắm trong khổ hải mà không đặng sớm gặp
Tam Kỳ Phổ Ðộ nên Lão cũng lấy làm thương xót. Có người thì rủi dường ấy, còn
nhiều kẻ may gặp Chánh đạo lại có ý cáo thối, lui bước lại đường đời, ấy là
điều đáng lo cho chúng sanh, vì cái gương Ðạo mà đem chiếu giữa công chúng, nếu
gương trong thì tỏ rạng, còn gương lờ thì mới sao?
Phần nhiều để dạ lo thế sự, không hay lẽ chánh lẽ
tà. Trong Ðạo, kẻ ấy khi nghe lời nghị phản đối thì ngã theo liền vì quanh năm
cứ mang lấy thói mờ hồ nên phải thua kẻ ngoại Ðạo.
Vậy cái tiếng mình là người Ðạo chẳng là tiếng hổ
thẹn lắm sao?
Chư hiền hữu, nếu lấy lời của Lão làm phải thì nên
lưu ý mà lo Ðạo, và cũng đem truyền ra cho hết thảy đặng nghe. Còn có nhiều đạo
hữu cũng cố công nữa, Lão sẽ nài xin phong thưởng.
Lão xin chào chư đạo hữu. Thăng.
CHÚ THÍCH:
Công cử: Nhiều người họp lại, lựa chọn người tài đức
bầu lên để giữ một nhiệm vụ quan trọng hơn.
Bàn Trị Sự: Hội Thánh lập ra một Ban gồm nhiều
người được bầu ra để quản lý và điều hành việc Ðạo. Ðây không phải là Bàn Trị
Sự của Hương đạo.
Tiến cử: Ðề cử người tài đức lên cấp trên trọng
dụng.
Ðạo cả: Ðạo lớn.
Cáo thối: Báo cho biết mình rút lui.
Công chúng: Ðông đảo dân chúng trong một vùng.
Kẻ ngoại đạo: Người chưa nhập môn vào đạo.
Gương trong, tỏ rạng khiến người ta phấn chí tiến
bước; Gương lờ thì khiến người ta thối chí ngã lòng mà lui bước.
73 .
Ngày 3-1-1927 (âl 30-11-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam
phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ, chư chúng sanh.
Chư chúng sanh nghe:
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, chiếu theo luật Thiên đình,
Hội Tam giáo, mở rộng mối Ðạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn sanh bước lên con
đường Cực Lạc, tránh khỏi đọa luân hồi và dụng Thánh tâm mà dẫn dân sanh, làm
cho hoàn toàn trách nhậm nặng nề của đứng làm người, về bực nhơn phẩm ở cõi
trần ai khốn đốn nầy.
Than ôi! Ðường Thánh ít kẻ tìm, mà nẻo Tà nhiều
người đến. Trò đời lăng xăng, cõi thế biết bao người chìm đắm vào biển khổ,
mang nặng xác phàm, miếng đỉnh chung, mồi danh lợi, giành giựt phân chia, mà
chẳng kể đạo lý, luân thường, khiến cho mối Ðạo quí báu ngàn năm, đã thành nấc
thang để dắt người xuống hang sâu vực thẳm.
Nhơn loại dùng thế lực mà cắn xé nhau, giành giựt
nhau, quên lửng cõi trần nầy, nhơn sanh lãnh mỗi đứa một vai tuồng đặc biệt mà
trả cho xong căn xưa quả cũ.
Càn khôn càng náo nhiệt, ngày tận diệt đã hầu kề.
Kẻ hữu phần đặng nắm mối Ðạo Trời, dựa chiếc thuyền sen lần vào non cao suối
lặng, để rửa bớt chút bợn trần, dưỡng tánh tu thân, để nâng lên địa vị thanh
cao, lánh xa đọa luân hồi trong lúc hồn lìa khỏi xác.
Kẻ vô phước dụng tà tâm làm một món lợi riêng, quên
cả điều hành phạt đã kế bên mình, chới với cả muôn triệu giữa dòng, mà chẳng
chịu sớm tự hối đặng gỡ lần mối họa sau.
Hành trình dài đăng đẳng, mà bước tục hãy còn chờ,
chẳng sớm biết mình, họa Trời đâu tránh khỏi.
Khá biết cho. Thăng.
CHÚ THÍCH:
Luân thường: Những phép
tắc đối xử hợp đạo đức trong gia đình và ngoài xã hội.
Căn xưa quả cũ: Những
việc làm thiện hay ác của kiếp sống trước và cái kết quả của nó.
Thuyền sen: Chiếc thuyền Bát Nhã, vì Ðức Phật Tổ
dùng một cánh hoa sen nơi cõi CLTG để tạo thành chiếc thuyền rước người đắc đạo
vượt qua biển khổ, đến bờ giác ngộ, vào cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Tự hối: Tự mình hối hận đã làm việc sai trái.
74 .
Thánh Thất Cầu Kho
Ngày 8-1-1927 (âl 5-12-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Thầy vui thấy nhơn sanh biết hối ngộ, chẳng quản
dặm dài, đến hội hiệp nhau mà để bước vào đường đạo đức.
Các con phải biết, hễ là người thì phải biết Ðạo,
không biết Ðạo không phải là người.
Cái Chánh cái Tà rồi đây sẽ phân biệt nhau. Nếu các
con còn để một vài điểm mờ hồ trong dạ thì làm sao chóng đến nơi đến chốn đặng?
Các con phải đồng tâm hiệp lực, bỏ hết các điều tệ
theo thường tình, thì mới dễ thành Ðạo.
Vậy Thầy khuyên các con, đứa nào có trí lực bao
nhiêu, khá đem ra mà thi thố, chớ đừng sụt sè theo thói nữ nhi, vậy cũng uổng
cái điểm linh quang của Thầy ban cho các con lắm. Các con hiểu à!
CHÚ THÍCH:
Thánh Thất Cầu Kho: (Xem Chú Thích bài 89).
Hối ngộ: Tỉnh ra mà biết rõ điều lầm lỗi của mình
và muốn sửa lỗi.
Trí lực: Sự hiểu biết và sức lực.
75 . Ngày 8-1-1927 (âl
5-12-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam
phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ, chư nhu.
C . . . nghe Thầy:
Màu
thu cảnh ướm trở về đông,
Ðạo
đức soi gương đã vẹn lòng.
Non
xế nhành thung oanh nhặt thúc,
Rừng
tà đảnh hạc khách trông mong.
Ðường
trần dù muốn dừng chơn tục,
Nguồn
suối tìm nơi rửa bụi hồng.
Thìn
dạ bước dìu sanh chúng độ,
Nương
thuyền mới trọn thoát qua sông.
Lòng đạo đức của con Thầy đã thấu rõ, nhưng gương
khổ hạnh ráng giồi thêm, hầu dìu dắt sanh linh vào nẻo Chánh giáo mà lánh khỏi
đọa luân hồi.
Sanh nhằm thời buổi nhơn sanh dụng gương bất đức mà
gieo họa cho bước trần, khiến cho sai sót nẻo luân thường. Bến khổ đường mê vẫn
cứ tìm vào mà làm cho biển trần chẳng biết bao nhiêu chìm đắm. Ðạo đức chẳng
rèn lòng mà tội tình càng chác lấy. Nếu chẳng có một Ðấng Từ Bi lấy đức háo
sanh mở Ðạo Tam Kỳ đặng vớt những kẻ hữu căn thì toàn thế giới sẽ bị dần dần
tiêu diệt, ngôi cựu vị ở chốn non thẳm rừng xưa, cũng chẳng có một bực Tiên
Thánh đọa trần nào đoạt lại được.
Họa Âu tai Á sẽ vì Thiên điều mà phạt kẻ bạo tàn
tội lỗi. Càn khôn tiều tụy mà bước tục hỡi chần chờ. Nếu chẳng sớm xét mình, để
buổi ác xế trăng tà, nước dời cạn bực, thuyền Bát Nhã đã lướt qua, nhành dương
liễu hết rơi giọt từ bi thì ăn năn rất muộn.
Khá biết lấy, chư chúng sanh hãy nghe. Thăng.
CHÚ THÍCH:
Ướm: Sắp sửa. Oanh nhặt thúc: Chim oanh kêu như
thúc giục, ý nói thời gian qua mau, đời người không mấy chốc.
Hai câu 3-4: Thời gian qua mau, đừng chờ đến lúc
già mới lo tu hành.
Bụi hồng: Hồng trần, chỉ sự ô trược của cõi trần.
Thìn dạ: Giữ lòng bền chặt.
Bến khổ đường mê: Sông mê biển khổ, chỉ cõi trần.
Bước tục hỡi chần chờ: Bước chân của người trần hãy
còn chần chờ, chưa chịu bước vào nẻo đạo.
Ác xế trăng tà: Mặt trời xế bóng, mặt trăng sắp
lặn, chỉ tuổi già sắp chết.
Nước dời cạn bực: Nước ròng xuống gần cạn, thuyền
không đi được.
Giọt từ bi: Giọt nước Cam lồ được rải bằng cành cây
dương liễu để cứu tử huờn sanh hay rửa sạch các oan khiên nghiệp chướng.
76 .
Chợ Lớn, 10-1-1927 (âl 7-12-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Chư môn đệ và chư nhu nghe:
Chim về cội, nước tách nguồn, từ xưa kiếp con người
giữa thế chẳng qua là khách đi đường. Phận sự muốn cho hoàn toàn cần phải có
bền chí và khổ tâm. Có bền chí mới đạt phẩm vị thanh cao, có khổ tâm mới rõ
tuồng đời ấm lạnh.
Lăng xăng xạo xự mùi chung đỉnh, vẻ cân đai, rốt
cuộc cũng chẳng khác chi một giấc huỳnh lương mộng.
Mỗi bậc phẩm đều đặng một vai tuồng của Ðấng cầm
quyền thế giới ban cho, dầu thanh cao, dầu hèn hạ, cũng phải gắng làm cho rồi
trách nhậm, hầu buổi chung cuộc, hồn lìa cõi trần, đặng đến nơi khởi hành mà
phục hồi công cán.
Ai giữ trọn bực phẩm thì đặng Tòa Nghiệt Cảnh tương
công chiết tội, để vào địa vị cao hơn chốn Ðịa cầu 68 nầy; ai chẳng vẹn trách
nhậm nhơn sanh phải bị đọa vào nơi U Minh Ðịa, để trả cho xong tội tình căn quả
cho đến lúc trở về nẻo chánh đường ngay mà phục hồi ngôi cũ, bằng chẳng biết
sửa mình thì luật Thiên điều chồng chập, khổ A Tỳ phải vướng muôn muôn đời đời
mà đền tội ác.
Bậc nhơn sanh vì đó mà phải chịu thiên niên chìm
đắm vào số luân hồi, vay trả trả vay, căn quả chẳng bao giờ tiêu đặng.
Các bậc Thần, Thánh, nếu chẳng biết mối đạo là
phương châm tìm nguồn trong rửa bợn tục, thì biển trần khổ nầy cũng khó mong
thoát đặng.
Trời Nam may đặng một yếng sáng của Ðấng Ðại Từ Ðại
Bi dẫn khách trần bước lần ra con đường hắc ám, để tránh khỏi bến mê, dụng nâu
sồng thế cân đai, mượn khổ tâm thay chung đỉnh, lấy hạnh đức làm nấc thang bước
lên tột lừng Trời, vẹt ngút mây xanh, trông vào cảnh thiên nhiên, biết rõ cơ
mầu nhiệm mà làm khách u nhàn thanh nhã, núi thẳm rừng xanh.
Phủi hết muôn sự ở cõi trần vô vị nầy, ấy là một sự
khó thi hành của khách phàm tục. Mấy ai nong nả tìm đến cảnh thiêng liêng, mà
nhiều kẻ lại tìm vào vực thẳm.
Ðạo Trời qua bến tục, đường Thánh dẫn khách trần,
nếu chẳng biết thế thời, giọt nhành dương hết chờ khi rưới khổ đặng.
CHÚ THÍCH:
Phục hồi công cán: Phục hồi là khôi phục cái đã
mất. Công cán là công lao khó nhọc.
Tòa Nghiệt Cảnh: tức là Nghiệt Cảnh Ðài, là Tòa Án
nơi cõi thiêng liêng, nơi đây có đặt một tấm kiếng lớn rất huyền diệu, ai đứng
trước tấm kính nầy thì trong tấm kính sẽ hiện ra tất cả việc làm thiện ác trong
suốt kiếp sanh nơi cõi trần, một lời nói cũng không sót. Ðứng nhìn vào kính như
đứng coi chiếu phim vậy, mà cuốn phim nầy là cuốn phim của đời mình. Bao nhiêu
thiện ác thì có cây Cân Công bình thiêng liêng cân, phước nhiều thì thăng, tội
nhiều thì đọa, không thể chối cãi được.
Tương công chiết tội: Lấy công trừ tội.
U Minh Ðịa: Trong Thất thập nhị Ðịa, Ðịa cầu của
nhơn loại số 68. Như vậy, bên dưới Ðịa cầu 68 còn bốn quả Ðịa cầu nữa là: 69,
70, 71, 72. Bốn Ðịa cầu nầy rất trọng trược, chìm dưới sâu của vũ trụ, chịu
cảnh tăm tối nên gọi là U Minh Ðiạ, mà các tôn giáo khác gọi là Ðịa Ngục. Ðây
là nơi thảm sầu tăm tối để đọa đày kẻ gây ra nhiều tội ác.
Ðấng Ðại Từ Ðại Bi: Ðức Chí Tôn.
Khách phàm tục chính là khách trần.
Bến mê: Sông mê thì có Bến mê, chữ Hán là Mê tân.
Cho nên Bến mê là chỉ cõi trần. Bởi vì con người nơi cõi trần bị màn vô minh
che khuất trí huệ, nên con người bị mê lầm.
77 .
Thánh Thất Tây Ninh (Từ Lâm Tự Gò Kén)
Ngày 16-1-1927 (âl 13-12-Bính Dần)
THÁI BẠCH
Lão khen chư đạo hữu.
Ðại hỉ . . . Ðại hỉ . . .
Thượng Tương Thanh, coi Lão hành sự mà bắt chước.
Mời Chưởng Pháp phái Nho.
Thơ, chư hiền hữu bình thân.
Ðứng dậy, phân hai hàng.
Chưởng Pháp, Ðầu Sư tọa vị.
Phối Sư tam phái tới trước. Thái Thơ Thanh phải ôm
Bộ Luật chú giải các luật, Tân Luật của các hiền hữu, đến dưng cho 3 vị Ðầu Sư.
Ba vị Ðầu Sư đồng đứng dậy, bái và tiếp luật một
lượt, thế nào 6 bàn tay đều có trong mấy Bộ Luật, ngay giữa, dạy cả 3 tiếp dưng
lên.
Chưởng Pháp cũng phải bái mà tiếp một lượt, đội
dưng lên Ðại điện, day vô, đưa lên chí trán.
Nghe dạy: Lão giao luật nầy cho Nhị vị Chưởng Pháp
xem xét lại nữa, trong một tháng phải rồi mà giao lại cho Hộ Pháp cầu Lão sửa
Luật.
Phải làm một phòng thanh tịnh mà giả làm Hiệp Thiên
Ðài. Thập nhị Thời Quân phải có mặt, Thượng Sanh, Thượng Phẩm phải có mặt.
Phải tái cầu nghe dạy:
Nhị vị Chưởng Pháp đem Luật để ngay tượng Lão một
đêm nay.
Dương phải đội mão Hiệp Chưởng như Luật, đắp khậu
như Luật.
Nương phải sắm Thiên phục như Thơ vậy nghe.
Ðem Luật để lên rồi xuống tọa vị, lên điện để
xuống. Chư Thiên phong đồng lạy Thầy.
TÁI CẦU:
THÁI BẠCH
Thiên điều mầu nhiệm của Ðạo còn thiếu sót lắm.
Cười . . .
Nhưng điều ấy, chư hiền hữu biết đâu mà lập cho
đặng.
Hại thay! Nếu chẳng có cơ mầu nhiệm bí mật ấy thì
chẳng thành Luật. Nếu chẳng thành Luật. Thế nào thành Ðạo? Cười . . .
Lão tâu cùng Ðại Từ Ðại Bi, xin thêm vào Luật những
điều bí mật yếu trọng ấy. Vậy chư hiền hữu cũng phải cầu khẩn với Lão, nội hạ
tuần tháng nầy thì khởi nguyện, dặn các Thánh Thất, các đạo hữu phải để lòng
thành khẩn, hiệp sức làm một với Lão mà nài xin Thánh luật, nghe à!
Hễ Ðạo trọng thì tức nhiên chư hiền hữu trọng. Vậy
thì chư hiền hữu biết mình trọng mà lo sửa vẹn người đời.
Từ đây, Lão hằng gìn giữ chư hiền hữu hơn nữa. Nếu
Lão ép lòng cầm quyền thưởng phạt phân minh là có ý muốn giá trị của chư hiền
hữu thêm cao trọng nữa. Vậy Lão xin đừng để dạ phiền hà nghe!
CHÚ THÍCH:
Thượng Tương Thanh: Ngài Chánh Phối Sư Nguyễn Ngọc
Tương.
Chưởng Pháp Phái Nho: Ngài Ngọc Chưởng Pháp Trần
Văn Thụ.
Chưởng Pháp Phái Thượng: Ngài Quyền Thượng Chưởng
Pháp Trần Ðạo Quang. (Ngài Thượng Chưởng Pháp Nguyễn Văn Tương đã đăng Tiên).
Phối Sư tam phái: Ba Chánh Phối Sư của ba phái:
Thái, Thượng, Ngọc là: Thái Thơ Thanh, Thượng Tương Thanh, Ngọc Trang Thanh.
Ba vị Ðầu Sư: Thượng Trung Nhựt, Ngọc Lịch Nguyệt,
Thái Nương Tinh (Dương văn Nương).
Dương: Giáo Sư Thái Dương Thanh.
Luật: Giáo Sư Thái Luật Thanh (Yết Ma Nguyễn Văn
Luật).
Mão Hiệp Chưởng: Mão của Giáo Sư phái Thái.
Ðức Ðại Tiên Trưởng Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn Oai
Nghiêm, được Ðức Chí Tôn giao kiêm nhiệm chức Giáo Tông, dạy chư vị Chức sắc
Ðại Thiên phong cách dâng Tân Luật. Chúng ta thấy cách dâng Tân Luật rất long
trọng, vì Tân Luật làm xong thì trở thành Thiên điều tại thế.
78 .
Ngày 17-1-1927 (âl 14-12-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Thượng Trung Nhựt, con là anh phải dạy lại các em
một lần nầy là chót.
Thầy vẫn đã thường nói rằng: Thầy đến lập cho các
con một nền Chơn đạo, tức là mỗi sự chi dối trá là chẳng phải của Thầy. Thầy
đến là chủ ý để dạy cả nhơn sanh đặng hòa bình, chớ chẳng phải đến đặng giục
thêm nghịch lẫn nhau.
Thầy lại thường nói rằng, sự sang trọng vinh hiển
của các con chẳng phải nơi thế giới nầy. Thầy lại đến lập trong nước các con
một nền Chánh đạo đủ tư cách độ rỗi chúng sanh.
Các con và cả dân tộc các con, vì nơi Ðạo mà đặng
đoạt đến phẩm vị cao thượng. Cái phẩm vị ấy do nơi đâu mà có? Là bởi đạo đức
của các con. Ðạo đức thắng hung bạo là thường tình. Các con hằng thấy sự đời
thường vậy.
Thầy là Ðấng Chí Tôn cầm quyền thưởng phạt, há lại
không quyền hành mà làm mọi việc một mình Thầy đặng sao, lại phải sở cậy tay
phàm, chẳng qua là đạo đức thiếu kém các con đó, nó làm cho các con bị phạt.
Từ đây phải tin tưởng một Thầy và nghe lời Thầy
dặn, giữ đạo đức cho bền, còn ngoại trừ sự chi nghịch với Chơn đạo thì là mưu
chước Tà quái.
Thầy ban ơn cho các con.
CHÚ THÍCH:
Chơn đạo: Nền Ðạo chơn thật, tức là toàn cả Giáo lý
của nền Ðạo nầy hoàn toàn chơn thật, không điều chi giả dối, như thế mới đưa
người tu đến bờ giải thoát, đắc đạo thành Tiên, Phật.
Nền tôn giáo nào có dạy điều chi không chơn thật
thì nó không phải là Chơn đạo. Nó đưa người tu đến chỗ lầm lạc. Mà hễ là Chơn
đạo thì nền tôn giáo ấy mới có thể đem lại cho nhơn loại một nền hòa bình
trường cửu.
Nền Chơn đạo của Ðức Chí Tôn lập cho dân tộc Việt
Nam đây, gọi là Quốc Ðạo, sẽ đưa nước Việt Nam từ chỗ thấp hèn lên địa vị cao
thượng trên thế giới.
Chánh đạo: Trái với Tà đạo. Chánh đạo hay Chánh
giáo là nền Ðạo ngay thẳng, đúng đắn dẫn dắt người tu vào đường đạo đức, thoát
kiếp luân hồi, đạt được phẩm vị cao trọng nơi cõi Thiêng liêng Hằng sống.
Ðức Chí Tôn phải sở cậy tay phàm lập Ðạo là vì Ðạo
lập ra là để độ người phàm, chớ không phải để độ các ông Thánh, Ông Tiên, và
nhứt là có sự hợp nhứt giữa Trời và Người, gọi là Thiên - Nhơn hợp nhứt thì mới
thấu đáo Càn khôn, trường tồn đến thất ức niên.
79 .
Ðàn tại Ðình Mỹ Lộc
Ngày 18-1-1927 (âl 15-12-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam
phương
Hỉ chư môn đệ,
Hỉ các đẳng chúng sanh nam nữ.
Tịnh, tịnh.
Chúng sanh chưa rõ nền Ðạo quí trọng là dường nào.
Ðạo cũng do nơi phàm mà phát ra và tiếp lấy cái thiêng liêng của Thầy mà hiệp
đồng, mới sanh sanh hóa hóa, thấu đáo Càn khôn.
Người mà biết Ðạo, ấy kẻ hữu phần, còn người chưa
thấu đáo nền Ðạo, ấy là kẻ vô duyên.
Hiểu há! Thầy cho phép cầu đạo, góp sớ.
Thầy từ bi toàn thâu chư chúng sanh, đặng Thầy cho
phép Thần Hoàng Bổn Cảnh giáng cơ mà dạy dân trong phần trách nhiệm của nó. Thăng.
THẦN HOÀNG BỔN CẢNH
Chào chư Thiên phong,
Chào cả thảy các đạo hữu và các đẳng chúng sanh nam
nữ trong thôn lân.
Thần
ân tứ hải thủ châu danh,
Hoàng
hữu ấn phong tải độ thành.
Mỹ
thới dân khương bình thái trị,
Lộc
cao hà nễ thọ thời sanh.
. .
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Mỹ
có công thành khẩn vái,
Lọc
lừa tại thế phước tùng lai.
Nhơn
dân lê thứ đồng bình trị,
An nhủ an cư thấu Ðạo tài.
Từ thuở ta vâng chiếu
chỉ đến trấn nhậm nơi đây, ta một tấm lòng lo cho lê thứ đặng an cư lạc nghiệp,
thạnh vượng mùa màng, mỗi mỗi đều hằng lo lắng cho chúng sanh nơi phần trách
nhậm.
Nay có lịnh Ngọc Hoàng
chiếu chỉ cho phép ta giáng cơ mầu nhiệm mà tỏ nền Ðạo là quí trọng cho lê
thứ hiểu. Lê thứ đâu rõ thấu việc Trời đã định hơn mấy chục ngàn năm nay. Lê
thứ nghe:
Kỳ Hạ nguơn hầu mãn, nhơn vật vì tai nạn mà
phải tiêu tận, mười phần còn đoái lại có một mà thôi.
Than ôi! Buồn thôi!
Nghĩ vì Thiên cơ đã định vậy, thế nào mà cải cho đặng, duy có mở tấm lòng từ thiện ăn năn sám
hối, lo việc tu hành, đồng với nhau cả quốc dân mà quì lụy khẩn cầu coi Trời
đoái tưởng đến chăng.
Bởi thế nên Ngọc Ðế và
chư
Phật, chư Tiên, chư Thánh mới lập Hội Tam Kỳ Phổ Ðộ đặng có cứu vớt
chúng sanh đương linh đinh nơi biển khổ.
Nếu gặp thuyền Bát Nhã
mà không xuống không theo thì chắc thế nào cũng chơi vơi nơi mé biển.
Còn phần viên chức sắc cúng tế, bảo lên quì trước
đại điện cho ta tỏ lòng thi ân cho chúng nó.
Vui thay! Mừng thay! Cả nhơn dân đều biết Ðạo, duy
còn một chút ít mà thôi. Từ đây ta hết dạ hết lòng mà lo lắng, săn sóc chăm nom
hơn khi trước nữa. Ta tỏ cho chức sắc hiểu, tại sao mà ta lo hết bổn phận? Ấy
là từ đây Ngọc Ðế truyền lịnh cho ta phải theo phò chư Cao đạo hữu, nên ta lo
lắng bội phần hơn khi trước. Mỗi khi có việc chi tai biến hay là có những bịnh
truyền nhiễm thì đến đây, ta sẽ dạy cho mà lánh những điều hại.
Còn việc tế lễ cúng, ta muốn dùng đồ chay hay là
cây trái, chớ sát sanh.
Ta cũng tỏ cho chư chức sắc hiểu rằng: Tế tự là tại
sao? Phàm có lòng tin mới cúng chớ. Cúng là lấy có lễ đó, gọi là kỉnh trọng,
chớ Thần Thánh, nào ăn của ai. Bởi thế nên ai dùng vật thực mà cúng, tốt hơn
nên dùng trái cây. Ai có lòng thì tế lễ chi chi ta cũng chẳng trách đặng, vì
cựu lệ bày đến ngày nay. Nay ta muốn theo Thánh ý của Ngọc Ðế. Vậy chức sắc
liệu làm sao? Trả lời thử. Cười . . .
Thôi ta chào chư Thiên phong và các đạo hữu, các
đẳng chúng sanh nơi bổn thôn. Ta lui.
CHÚ THÍCH:
Ðình Mỹ Lộc: Ðình thờ Thần ở làng Mỹ Lộc, quận Cần
Giuộc, quê của Ngài Bảo Ðạo Ca Minh Chương.
Tịnh, tịnh: Giữ cho trong sạch và yên lặng.
Thần Hoàng Bổn Cảnh: Vị Thần được bổ nhiệm đến trấn
nhậm cai quản một làng, hay một thành thị.
Bài thi bốn câu khoán thủ: Thần Hoàng Mỹ Lộc, viết
ra chữ Hán như sau:
Thần ân tứ hải thủ châu
danh, 神恩四海守朱名
Hoàng hữu ấn phong tải độ thành. 隍有印封載度成
Mỹ thới dân khương bình thái trị, 美泰民康平太治
Lộc cao hà nễ thọ thời sanh. 祿高何你受時生
GIẢI NGHĨA:
Cái ơn của Thần khắp nơi
giữ cái tiếng tốt,
Thần nơi làng nầy có ấn
phong, độ cho thành.
Ðẹp thịnh, dân an, thời
thái bình thạnh trị,
Lộc cao, sao các người thọ
lãnh lúc sanh thời?
Hạ nguơn hầu mãn: Nhơn loại
hiện nay đang ở thời kỳ Hạ Nguơn Tam Chuyển, sắp bước qua Thượng Nguơn Tứ Chuyển
lập đời Thánh đức. Tam Chuyển là Chuyển thứ ba. Mỗi Chuyển chia ba Nguơn: Thượng
Nguơn, Trung Nguơn, Hạ Nguơn. Hạ Nguơn hầu mãn là thời kỳ Hạ Nguơn gần dứt.
Mười phần còn lại có một
mà thôi: Ðúng với câu tiên tri: 10 phần mất 7 còn 3, mất 2 còn 1 mới ra thái
bình.
Viên Chức sắc cúng tế: Những
vị có trách nhiệm trong việc cúng tế tại Ðình Thờ Thần, không phải là Chức sắc
của Ðạo.
Cao đạo hữu: Những vị theo
Ðạo Cao Ðài, môn đệ của Ðức Chí Tôn.
Cựu lệ: Lệ xưa nơi làng
xã.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, hỉ chư ái nữ, chư nhu.
Chư nhu nghe:
Nguồn Tiên, nẻo Phật, từ
trước đến giờ, vẫn chờ kẻ hữu phần hữu đức hữu công, tu thân dưỡng tánh, mà
lánh khỏi thói đời mê muội nầy.
Biển khổ lắm chơi vơi mà
khách phàm hằng đeo đuổi.
Ðài Nghiệt Cảnh rọi chẳng
biết bao nhiêu tội tình, mà chốn tội tình lắm người đưa chân tìm đến.
Kiếp phù sinh không mấy chốc,
đời mộng ảo chẳng là bao, sanh đứng nên người chen vai vào vòng thế cuộc, có
khác chi kẻ bị đày vào biển khổ, để làm xong nhân sự đặng chuộc thửa tội tiền
khiên.
Bao nhiêu tiếng khóc câu
cười, thế lộ bước đã mòn mà giấc mộng trần chưa thức tỉnh.
Cang thường điên đảo,
phong hóa suy vi, những mảng ghét lẫn nhau, giành xé nhau, mối tôn giáo phân
chia, đạo nước nhà chẳng đoái, chánh tà tà chánh nan phân, còn chút hơi thở ở
cõi trần mà tính tình dọc ngang chưa chịu dứt, một mai hồn xuống Diêm Ðài, khổ A
Tỳ bảo sao không buộc trói.
Ðạo Trời khai dẫn bước lỗi
lầm, đem kẻ hữu căn lánh vòng phiền não. Nếu chẳng bả bươn nhặt thúc bóng thiều,
kiếp phù sinh qua dường nháy mắt.
Hãy biết lấy. Thăng.
CHÚ THÍCH:
Khách phàm: Khách trần.
(Xem chú thích bài Thánh Ngôn 76)
Ðài Nghiệt Cảnh: (Xem chú
thích bài Thánh Ngôn 76)
Kiếp phù sinh: Ý nói kiếp
sống ngắn ngủi như cái bọt nổi trên mặt nước, rất mau tan vỡ. Phù là nổi.
Thửa: Tiếng thế cho người
và vật. Thửa tội tiền khiên: Cái tội lỗi ấy trong kiếp trước.
Cang thường: Ý nói Tam
cang và Ngũ thường. Tam cang là 3 giềng mối trong cách đối xử giữa: Vua tôi,
Cha con, Chồng vợ. Ngũ thường gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Phong hóa: Phong tục và tập
quán tốt đẹp có từ lâu đời của một dân tộc.
Suy vi: Sút kém trở nên thấp
hèn.
Diêm Ðài: Lầu đài của Thập
Ðiện Diêm Vương.
Nhặt thúc bóng thiều: Ngày
giờ giục thúc qua mau. Bóng thiều là bóng thiều quang, chỉ ngày giờ.
81 . Ðàn tại An Hóa, 22-1-1927 (âl 19-12-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, hỉ các đẳng
chúng sanh.
Xứ nầy mới tiếp Thầy lần đầu
nên có nhiều đứa còn để lòng nghi hoặc.
Các con cùng Thầy, vì lòng bác ái, chẳng nài khó nhọc đến truyền Chánh đạo,
mặc tình những đứa vô lương, các con cứ một đường đi tới, sự phải quấy sau nầy
chúng nó sẽ rõ.
Vậy Thầy sẽ vui lòng cùng các con toàn thâu Nam, Nữ.
Tương, con phải nói những điều cần yếu cho chúng nó
nghe.
Thầy cho một bài thi
chung:
Thế đại Càn khôn cộng nhứt Thiên,
Nhơn như sa mạc tại thâm uyên.
Hạnh phùng bình thủy thân an tại,
Nhược ngộ phong ba phận đảo huyền.
Kỷ tải phàm trần cam nghiệt chướng,
Nhứt thời đạo hạnh thoát oan khiên.
Thùy tri Nam địa sanh phong nhựt,
Ðại Ðạo hoằng khai thế cuộc tuyên.
Cho Nữ phái vô Thầy dạy.
Chư ái nữ, Thầy vì Tam Kỳ
Phổ Ðộ, chẳng phân cao thấp, sang hèn. Thầy chỉ khuyên một điều là đạo hạnh các
con phải giữ hằng ngày cho nhằm phương pháp Nhơn đạo, tức là Tứ Ðức đó vậy. Các
con hiểu à!
Nền nhơn luân của con nhà
Nam Việt chẳng lầm, mà tại các con hay nhiễm thường tình mà hư hoại, nên chi Thầy
phải nhắc lại cho các con đừng lầm nữa, nghe các con!
Nam phái vào.
Các con nghe cho rõ, thường
ngày các con trông thấy những điều trái tai gai mắt, các con có biết vì tại sao
chăng?
Như kẻ làm quan ỷ quyền hiếp
bức dân lành, đứa ngu nghịch cha phản bạn, làm rối luân thường, các con có biết
vì tại sao chăng? . . . Tại vô đạo.
Thầy ban ơn cho các con.
Thăng.
CHÚ THÍCH:
Tương: Ngài Chánh Phối Sư
Thượng Tương Thanh.
Bài thi đường luật của Ðức
Chí Tôn viết ra chữ Hán:
Thế đại Càn khôn cộng nhứt Thiên, 世代乾坤共一天
Nhơn như sa mạc tại thâm uyên. 人如沙漠在深淵
Hạnh phùng bình thủy thân an tại, 幸逢平水身安在
Nhược ngộ phong ba phận đảo huyền. 若遇風波分倒懸
Kỷ tải phàm trần cam nghiệt chướng, 幾載凡塵甘孽障
Nhứt thời đạo hạnh thoát oan khiên. 一時道行脫冤愆
Thùy tri Nam địa sanh phong nhựt, 誰知南地生豐日
Ðại Ðạo hoằng khai thế cuộc tuyên. 大道弘開世局宣
GIẢI NGHĨA:
- Ðời đời Càn khôn Thế giới
đều cùng chung một Trời.
- Con người như hạt cát
trong sa mạc tại chỗ sâu thẳm.
- May mắn gặp nước yên thì
thân được an nhàn tự tại.
- Nếu như gặp phong ba thì
thân phận bị đảo ngược.
- Bao năm ở cõi trần đành
chịu nhiều nghiệt chướng,
- Một thời tu hành thì
thoát khỏi các oan khiên.
- Ai biết đất Nam sanh ra
thời kỳ thịnh vượng,
- Ðại Ðạo hoằng khai,
tuyên bố ra cho người đời biết.
Tam Kỳ Phổ Ðộ chẳng phân
cao thấp, sang hèn: Trước Ðức Chí Tôn, mọi người đều bình đẳng. Ðức Chí Tôn
không phân biệt người có địa vị cao hay thấp, người giàu sang hay nghèo hèn, tất
cả đều là con cái yêu mến của Ðức Chí Tôn, mà không chừng Ðức Chí Tôn lại còn
thương yêu các đứa con nghèo nàn, dốt nát, thua thiệt, hơn là những đứa con
giàu có, khôn ngoan. Chúng ta nghĩ ông cha phàm thế nào thì Ðức Chí Tôn cũng thế
đó, nhưng siêu đẳng hơn gấp bội.
Nhơn đạo: Ðạo làm người.
Không có tôn giáo nào dạy Nhơn đạo đầy đủ và kỹ bằng Nho giáo. Nói một cách tổng
quát, Nhơn đạo của người đàn ông là: Tam Cang và Ngũ Thường; Nhơn đạo của người
đàn bà là Tứ Ðức và Tam Tùng.
Tứ Ðức: Bốn đức tánh căn bản
của người phụ nữ để làm tăng giá trị của phụ nữ, thời nào cũng vậy, xưa cũng
như nay. Tứ Ðức gồm: Công, Dung, Ngôn, Hạnh.
82 . Ngày 22-1-1927 (âl 19-12-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Tr . . . Hiền đồ, trương
Thiên phục Thầy trấn Thần, con đặng phép mặc hầu Thầy.
Còn N . . . đợi y phục rồi,
sẽ trấn Thần luôn.
Th . . . nghe Thầy:
Gội nhuần đức trước rạng thôn lân,
Ðạo Thánh dìu chơn bước khởi lần.
Cội bá chờ khi về Cực Lạc,
Màu thiền ấy buổi nhuộm đai cân.
Tranh khoe nguyệt rọi làu sông Vị,
Mây tỏa sương phơi bạc đảnh Tần.
Thành dạ trau gương sanh chúng độ,
Thuyền kề gió lướt thoát mê tân.
Tr . . . , Thầy rất đẹp
lòng đặng môn đệ ái kính như các con yêu dấu nơi Thánh địa nầy. Ðường tân khổ lắm
vày vò, buổi an nhàn đâu kẻ hưởng, tuồng thế cũng gay go, mà bước trần càng khốn
đốn.
Sanh ra phận làm người, đã
mang vào mình một trách nhậm đặc biệt, phải gắng sức làm cho hoàn toàn, hầu chờ
buổi chung qui tương công chiết tội, tiêu quả tiền khiên, mà nâng mình vào địa
vị cao thượng hơn phẩm vô vị chốn sông mê nầy.
Thấm thoát ngày tháng thoi
đưa, bóng thiều quang nhặt thúc, sen tàn cúc rũ, đông mãn xuân về, bước sanh ly
đã lắm nhuộm màu sầu, mà con đường dục vọng chẳng còn biết đâu là nơi cùng tận.
Lợi danh xạo xự, chung đỉnh
mơ màng, cuộc vui vẻ chẳng là bao, mà chốn đọa đày chen chẳng mãn. Nỗi đau
thương bề ấm lạnh, nào tiếng khóc đến câu cười, co duỗi duỗi co, dở bước đến cảnh
sầu, thì thấy chẳng lạ chi hơn là mồ hoang cỏ loán, đồng trống sương gieo,thỏ lặn
ác tà, khách trần nào ai lánh khỏi.
Ðạo mầu tìm đến, lấy hạnh
đức giồi tâm, mượn nâu sồng lánh thế, càng dìu sanh chúng, càng bước bước càng
cao, lên tột mây xanh, vẹt ngút trông vào cảnh cực lạc an nhàn, non chiều hạc
gáy, động tối qui chầu, ấy là khách Tiên gia lánh khỏi đọa luân hồi nơi cõi thế
vậy.
Mau bước gắng tìm đường kẻo
rừng chiều bóng xế. Chúng sanh khá biết
cho. Thăng.
CHÚ THÍCH:
Tr . .: Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn
Trung).
N . .: Ngài Ðầu Sư Thái
Nương Tinh (Dương Văn Nương)
Th .: Chánh Phối Sư Thái
Thơ Thanh (Nguyễn Ngọc Thơ)
Trương: Giương rộng ra, mở
lớn ra rồi đưa lên.
Trấn Thần: Dùng phép huyền
diệu của Ðức Chí Tôn để đưa một vị Thần đến trấn giữ, ban rải thanh điển vào vật
đó, và gìn giữ vật ấy cho tinh khiết, không cho Tà quái xâm nhập khuấy phá. Thuở
đầu tiên mới Khai Ðạo, Ðức Chí Tôn trấn Thần áo và mão của Chức sắc. Nhưng về
sau nầy, mỗi khi Chức sắc được thăng phẩm và lập thệ thì áo mão mới sẽ được một
vị Thời Quân HTÐ trấn Thần.
Mê tân: Bến mê. Tân là cái
bến sông. Sông mê thì có bến mê. Bên nây Biển khổ thì có Bến mê (Mê tân), bên
kia Biển khổ là Bờ giác (Giác ngạn). Bến mê là cõi trần, Bờ giác là cõi của người
đắc đạo.
Tân khổ: Cay đắng. Tân là
cay, khổ là đắng. Tân khổ là chỉ những nỗi vất vả khổ cực ở đời.
Tiêu quả tiền khiên: Tiền
khiên là tội lỗi đã gây ra trong kiếp sống trước. Tội lỗi nầy tạo thành cái
nghiệp xấu ảnh hưởng lên các kết quả của kiếp sống hiện tại. Muốn làm cho tiêu
quả tiền khiên nầy thì phải lập công quả để lấy công trừ tội, gọi là Tương công
chiết quả.
Phẩm vô vị: Bực phẩm không
giá trị.
Dục vọng: Lòng ham muốn mong ước. Cái dục vọng của con người thì không bờ bến, không giới hạn.
Sen tàn cúc rũ: Mùa hạ đã
qua, mùa thu cũng đã qua. Bông sen tượng trưng mùa hạ, bông cúc tương trưng mùa
thu.
Thỏ lặn ác tà: Trăng lặn
và mặt trời chiều. Thỏ là chỉ mặt trăng, ác là con quạ chỉ mặt trời.
Rừng chiều bóng xế: Ý nói
lúc tuổi già, gần hết kiếp.
83 . Ngày
23-1-1927 (âl 20-12-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ.
Ch . . . nghe Thầy:
Hương bay rừng trước nực mùi thung,
Ðạo đức đem về một nẻo chung.
Cõi thế chờ qua đường mấy dặm,
Non Thần đợi lóng nhạc năm cung.
Ngày về thức tỉnh trời trưa sớm,
Non rạng an vui cảnh bá tùng.
Chước lánh tìm Tiên đời để dấu,
Gương soi hậu thế rạng nam trung.
Thầy để lời cho con rõ, cảnh vui vẻ về sau của gia quyến con, đạo đức soi
gương, đem về chung một nẻo. Dầu cho sang vinh trăm mối, tiền của muôn chung, mấy
kẻ đặng tìm đến địa vị an nhàn, xủ áo phồn hoa, để gương soi hậu thế.
Một nhà sau gặp gỡ, ngàn trước vẫn an vui. Ấy là nhứt
môn hạnh phúc vậy. Thầy ban ơn các con. Thăng.
CHÚ THÍCH:
Ch . . .: (?)
Nam trung: Trong giới đàn
ông con trai.
Phồn hoa: Nơi dân cư đông
đúc, đua chen danh lợi.
Xủ áo phồn hoa: Bỏ chốn
danh lợi, lo việc tu hành.
84 . Ngày 23-1-1927 (âl 20-12-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ.
Rừng thiền ác xế khuất non Tần,
Vày vã từ đây khỏi nhọc thân.
Bền dạ tua thìn trau đạo Thánh,
Ra công khá gắng đắp nền nhân.
Gặp chiều nhạn trở về rừng trước,
Ðợi lúc thuyền nương lánh bến trần.
Mái tóc sương pha thiều nhặt thúc,
Sanh linh độ dẫn hưởng Thiên ân.
Chiều thu nguyệt xế, non
nhạn ngày thâu, lẩn thẩn ngày tháng qua mau, buổi xuân ngoảnh lại đà xa lắc. Nếu
chẳng bền lòng theo nẻo chánh mà thoát lối sông mê thì căn quả trả vay, chẳng
biết ngày nào tiêu tận đặng.
Non cao suối lặng, tìm đến
rửa bụi hồng. Ðạo đức làm thang để lên địa vị thanh cao, lánh khỏi đường tội lỗi,
thưởng phạt hai đường, gắng công trình sẽ rõ.
Thầy ban đầy ơn cho các con. Thăng.
CHÚ THÍCH:
Tua thìn: Tua là phải, ý buộc. Thìn là gìn giữ cho bền.
Nền nhân: Nhân là lòng thương người mến vật, thương
cả chúng sanh. Nền nhân, ý nói nền Ðạo của Ðức Chí Tôn mở ra cho nhơn sanh tu
hành.
Thuyền nương lánh bến trần:
Nương theo chiếc thuyền Bát Nhã để rời khỏi cõi trần, đi lên cõi thiêng liêng hằng
sống.
Thiều nhặt thúc: Thiều
quang nhặt thúc, ý nói ngày giờ qua mau. Thiều quang là ánh sáng đẹp, chỉ ngày
giờ, thờigian.
Sông mê: Ðồng nghĩa: Biển
khổ (Khổ hải), Bến mê (Mê tân) chỉ cõi trần.
Tiêu tận: Mất hết. Tiêu là
mất, tận là hết.
Công trình: Việc quyết tâm
lập hạnh gìn giữ giới luật tu hành. Con người thường tự dễ dãi với bản thân
mình, cho nên việc giữ đúng giới luật rất khó, phải có lòng dũng cảm, ý chí
cương quyết mới thực hiện được. Thường nói: Công phu, Công quả, Công trình, gọi
chung là Tam Công.
85 . Ngày 23-1-1927 (âl 20-12-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ.
N . . . nghe Thầy:
Ðộng đình trở gót lại ngôi xưa,
Tuổi ấy qui y nhắm đã
vừa.
Sân
hoạn cùng đường gương ngọc rạng,
Nguồn
đào để bước mảnh xuân thưa.
Nhàn
chiều nhặt thúc đời vay trả,
Non
xế quanh co nẻo lọc lừa.
Khổ
hạnh để lòng công quả gắng,
Lánh
trần chi nệ nỗi cay chua.
Thầy trước đã sai chư Tiên, Phật dùng huyền diệu mà cho con lòng tín ngưỡng. Ấy là muốn dìu bước đường đạo đức, bắc thang mây để độ con trở hồi
ngôi cũ.
Thiên cơ Thầy đã thố lộ
nơi Th . . , ráng xem lấy đó mà liệu trong lúc sau nầy.
Hiếm chi bậc Thánh bị đày
vào chốn trần ai khổ nhọc, chìm đắm nơi bến khổ sông mê, dan díu lấy sự say vui
mùi thế tục, bước đến cảnh kim mã ngọc đàng mà phủi hết lòng đạo đức, khiến cho
ngôi cựu vị phải chịu trôi phủi dòng sông, mà vì đó, thuyền Bát Nhã khó nương cứu
vớt đặng.
Vậy gắng khổ tâm giữ lòng
đạo đức mà vẽ bước cho đời sau, lập công quả đặng chờ ngày chung cuộc, phủi nợ
trần ai, đem tấm lòng thiện niệm đến Tam Giáo Ðài mà phục hồi cảnh cũ, rừng vắng
non nhàn, suối chảy tòng đưa, lánh chốn đọa đày đã bấy lâu ràng buộc.
Cảnh gia đình phải tiên liệu.
Thầy để lời con tua gắng chí, chừng sửa luật phải có mặt nơi Thánh Thất.
Sau nầy con đặng cầm quyền
trong bước Ðạo mà dẫn độ sanh chúng nơi đây, là nơi Thầy đã đặng nhiều môn đệ
yêu dấu.
Thầy ban ơn cho các con. Thăng.
CHÚ THÍCH:
N . . .: Ngài Ðầu Sư Thái
Nương Tinh, thế danh Dương Văn Nương (1870-1929), Tri Huyện Hàm tại Sađec.
Th .: Chánh Phối Sư Thái
Thơ Thanh (Nguyễn Ngọc Thơ), sau được thăng lên Thái Ðầu Sư.
Bài Thánh Ngôn nầy Ðức Chí
Tôn dạy Ngài Ðầu Sư Thái Nương Tinh. Ðức Chí Tôn nói: "Thiên cơ Thầy đã thố
lộ nơi Thơ, rán xem đó mà liệu trong lúc sau nầy."
Ðó là vì ngày 17-1-1927
(âl 14-12-Bính Dần), tức là trước bài Thánh Ngôn nầy 6 ngày, Ðức Chí Tôn giáng
dạy Ngài Thái Thơ Thanh như sau:
ÐS. II. 177: " Thơ,
con đừng lo lắng về Chơn thần con lắm vậy nghe . . . Nhiều phen Thầy nghe con
vái, nhưng mà ngày giờ chưa đến nên Thầy chưa nói. Ngày nay Thầy tỏ thiệt cho
con hiểu. Con là một chơn linh cùng Quan Âm Bồ Tát. Con đã hiểu rồi, vậy từ đây
phải biết mình trân trọng mà trau giồi tánh hạnh nghe.
Thầy chẳng nói căn cội của
Nương e con giận. Vậy Thầy cũng nói luôn để cho anh em nhìn nhau, thương yêu
nhau. Nó là Văn Thù Bồ Tát tái thế, nghe à! Nó lập ngôi vị cho con, nó đi một
đường với con mà hành đạo cho tới ngày hai con đến đắc quả đặng trở về cùng Thầy."
Như vậy, Ngài Thái Thơ
Thanh là Chơn linh của Từ Hàng Bồ Tát giáng trần; và Ngài Thái Nương Tinh là
Chơn linh của Văn Thù Bồ Tát giáng trần.
Sân hoạn: Trường quan lại.
Nhàn chiều: Nhạn bay về núi vào lúc chiều tối. Nguồn đào: Ðào nguyên, chỉ cảnh
Tiên.
Thang mây: Cái thang bắc
lên Trời, cao tận mây.
Hiếm chi: Ý nói có nhiều lắm.
Kim mã ngọc đàng: Chỉ cảnh
làm quan vinh hiển.
Thuyền Bát Nhã: Còn gọi là
Thuyền sen, Thuyền từ. Người tu khi đạt được trí huệ, tức là đắc đạo, thì ví
cái trí huệ ấy như một chiếc thuyền, đưa người tu đến giác ngạn, vào cõi thiêng
liêng hằng sống. Bát Nhã là chữ Phạn phiên âm: Prajnâ, nghĩa là trí huệ, cái
trí sáng suốt hiểu biết rõ đạo lý.
Tam Giáo Ðài: Tòa Tam
Giáo.
86 . Ngày
23-1-1927 (âl 20-12-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ.
H . . . nghe Thầy:
Thuyền khơi gặp gió cánh buồm trương,
Dìu dắt đạo mầu nẻo chánh nương.
Mùi thế xưa còn lằn bụi trược,
Mạch sầu nay rửa bến sông hương.
Chiều xuân sương tỏa lồng sân hoạn,
Dặm liễu trăng soi rạng bước đường.
Trăm hạnh để lần sanh chúng dẫn,
Non Thần vẹt ngút tới tìm phương.
Ðời thắm thoát, thế gay
go, trăm năm thoát qua điều dâu bể, khách trần, hỏi có bao nhiêu kẻ lấy danh phận
đem vào cảnh tuyền đài, để nâng mình lên địa vị cao thượng đặng chăng?
Ngày xuân gần mòn mỏi, khá
sớm biết trau xuân, ấy là phương châm dẫn đàng khách phồn hoa vào nơi Cực Lạc.
Thầy khen lòng thành kỉnh
của con, rán độ dẫn sanh linh, ngôi cựu vị ngày sau chẳng mất. Thầy ban ơn cho gia tộc con.
Thầy ban ơn cả các con.
Thăng.
87 . Ngày
26-1-1927 (âl 23-12-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, chư chúng
sanh.
Chư chúng sanh nghe:
Thuyền khơi đợi gió lướt dòng ngân,
Dẫn khách Nam qua khỏi bến trần.
Nhuộm áo nâu sồng về Cực Lạc,
Trau gươm trí huệ phủi đai cân.
Cơ Trời đến buổi đời thay đổi,
Ðạo Thánh nhằm khi khách gội nhuần.
Khổ hạnh dầu ai thìn một kiếp,
Rừng tòng thoát tục sớm đưa chân.
Ðạo Trời khai ba lượt,
khách tục lỗi muôn phần. Khách trần ai vẫn lấy sự vui vẻ vô vị chốn sông mê nầy
mà quên trọn các điều đạo đức của các Ðấng Thánh trước Hiền xưa.
Chung đỉnh mảng tranh
giành, lợi danh thường chác buộc, kiếp phù sanh không mấy lát, đời giả dối chẳng
là bao. Sanh đứng làm người, trót đã mang vào mình một vai tuồng đặc biệt, đã
chẳng lo bước hành trình cho xong mà đắp bồi nợ mảnh hình hài, ngọn rau tấc đất,
lại chác lắm điều phiền não ưu sầu, lấy Thánh đức gọi là chơi, mượn hành tàng
vô nghĩa mà làm cho vừa lòng ái mộ bất lương.
Cái xuân kia chẳng đợi người
mà bước đời càng gay trở, lần qua thỏ lặn ác tà, bóng thiều quang nhặt thúc,
con đường hy vọng chẳng biết đâu là tột cùng mà bước đời xem đà mòn mỏi, sự
thác vô tình sẽ đến mà vẽ cuộc sanh ly pha màu tử biệt, làm cho sự vui vẻ giàu
sang danh vọng đều thành ra một giấc huỳnh lương, rồi đây vĩnh biệt ngàn năm, tội
tình muôn kiếp.
Ðài Nghiệt Cảnh là nơi rọi
sáng các việc lỗi lầm, bước luân hồi sẽ dẫn vào nơi u khổ cùng sầu mà đọa đày đời
đời kiếp kiếp. Ấy là buổi chung qui của khách trần đó.
Nguồn Tiên, đạo Thánh dìu
bước nhơn sanh tránh tội lỗi, lìa nẻo vạy, bước đường ngay, mà lần vào nơi Cực
Lạc an nhàn, rừng tòng suối lặng, động thẳm non xanh, để mình vào bực thanh
cao, thoát khỏi chốn luân hồi ràng buộc. Ai mau bước đặng nhờ thân, ai luyến trần
cam chịu khổn.
Ðạo Trời mầu nhiệm, khá biết
xét mình, sau khỏi điều tự hối. Chúng sanh khá biết
cho.
CHÚ THÍCH:
Dòng ngân: Dòng sông Ngân Hà trên cõi thiêng liêng. Ðây là dòng sông đau khổ
chia cách tình yêu của vợ chồng Ngưu Lang-Chức Nữ, nên nó
cũng là biển khổ. Trên dòng Ngân Hà nầy có chiếc thuyền Bát Nhã đậu ở ngoài
khơi (Thuyền khơi) chờ rước khách trần đầy đủ công đức trở về ngôi vị cũ nơi
cõi thiêng liêng. Cho nên trong Kinh Giải Oan có câu: "Chèo thuyền Bát Nhã
Ngân Hà độ sanh."
Khách Nam: Khách trần là
những người Việt Nam.
Nhuộm áo nâu sồng về Cực Lạc:
Ý nói: Phế việc đời, gắng chí tu hành thì đắc đạo, được về ở nơi cõi CLTG.
Trau gương trí huệ phủi
đai cân: Rời bỏ công danh phú quí, lo việc tu hành để đạt được trí huệ, tức là
đắc đạo.
Trần ai: Trần là bụi, ai
cũng là bụi. Trần ai là cõi trần.
Nợ mảnh hình hài: Các món nợ mà thể xác phàm phải
mang là: Nợ cha mẹ nuôi dưỡng, nợ đất nước, nợ xã hội.
Hành tàng vô nghĩa: Những việc làm lộ rõ ra hay
còn ẩn kín không ích lợi gì cho ai hết, chỉ để thỏa lòng ích kỷ.
Ái mộ bất lương: Lòng ưa thích xấu xa.
Cái xuân kia chẳng đợi người:
Cái tuổi trẻ hăng hái khỏe mạnh chẳng đợi ai hết, cứ đi qua theo định luật tự
nhiên.
Sự thác vô tình: Sự chết
không có tình cảm tư vị ai hết, tới số thì chết, không thể dùng tình yêu để năn
nỉ cho lâu chết, hay dùng tiền bạc lo lót cho đừng chết.
Tử biệt sanh ly: Hai nỗi
đau khổ: Chết thì vĩnh biệt, còn sống mà xa cách nhau.
U khổ cùng sầu: Chỗ tối
tăm, khổ sở, buồn rầu vô cùng.
88 . Chợ Lớn (Nhà của Ngài Lê văn Trung)
Ngày 31-1-1927 (âl
28-12-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Ngày qua thấm thoát, nhặt
thúc bóng quang âm, xuân mãn kế xuân về, nước non màu cũng vẫn như xưa mà tâm hạnh
nhơn tình biết bao thay đổi.
Một xuân qua tức là Ðạo một
lần bước chóng. Ngày nầy năm ngoái vẫn ra sao mà đến ngày nay, màn Chánh giáo
đã diềm dà xủ khuất bóng trần, gương trí huệ rạng ngần soi khách tục.
Thầy mầng cho các con đã
chịu lao tâm tiêu tứ mà vun đắp nền Ðạo, làm cho mối tương thân tương ái càng
khắn khít vững bền, ráng công thêm nữa mà đi cho cùng bước đường của các con đã
chịu lắm nhọc nhằn, vạch lối chông gai, dìu chơn hậu tấn.
Môn đệ nơi đây mảng buộc
ràng nhơn sự mà hiệp chẳng đủ nghe Thánh ý. Vì vậy mà Lý Thái Bạch định cho làm
đại lễ nơi Thánh Thất Cầu Kho cho các môn đệ đó có thế hầu đàn đủ mặt.
T . . , con cũng nên tới
chứng đàn và chung cùng mấy em, chư môn đệ cũng vậy.
89 . Thánh Thất Cầu Kho, 1-2-1927 (âl 29-12-B.Dần)
(Cuối năm Bính Dần, đêm
nay Giao thừa, mai là mùng 1 Tết Ð. Mão)
THẦY
Các con,
Thầy lấy làm không bằng
lòng cho mấy đứa vắng mặt hôm nay.
Ngày giờ thôi thúc mà các
con còn dụ dự giữa chừng. Nền Ðạo cao thâm là mấy, chí phàm không thấu lý sâu,
nếu các con chẳng ra khỏi vòng trần tục thì các con chẳng là luống công theo Thầy
kể đã đầy năm.
Kiếp trần ai lắm nỗi vày
vò, các con ở nhằm thời đại nầy, đặng lắm cuộc tân toan, nên mới để ý vào đường
đạo đức. Nếu chẳng vậy thì các con cũng đã như ai, đem thân vùi dập trong chốn
lợi quyền, tranh tranh cạnh cạnh, biết ngày nào rồi?
Ấy vậy, các con phải lưu
tâm mà chấn hưng mối Ðạo, ấy là kế bảo tồn quốc túy, lại là phương thoát tục.
Cơ Trời, Thầy không lẽ tỏ
ra đây, song các con nên biết xét mình là đứng vào địa vị tối cao hơn muôn vật,
nên các con phải có trí độ phi phàm, thì mới có đủ tư cách làm người.
Các con nên biết, Thầy
sanh ra mỗi chủng tộc đều có đặc biệt một phần linh diệu riêng, mà cũng vì nhơn
loại không chịu khó tìm tòi cho ra lẽ thiên nhiên, cứ thấy những điều cận lợi
mà quên hẳn lương tâm, chẳng hay thương mà hay chém giết lẫn nhau, sanh phương
tiện thông đồng không muốn, lại tìm kế sát hại nhau.
Nếu các con vì Ðạo Thầy là
Ðạo gìn công lý mà biết mấy sự đó tránh đi, và rủ nhau hiệp làm mối Ðại đồng,
thì chẳng những thuận lòng Trời mà nhân loại đặng gội nhuần ân huệ. Các con hiểu
à!
CHÚ THÍCH:
Thánh Thất Cầu Kho: Ông
Ðoàn Văn Bản làm Ðốc học (Hiệu trưởng) trường Tiểu Học Cầu Kho (nay là trường
Tiểu học Trần Hưng Ðạo). Tư gia của Ông khá rộng, ở cạnh trường, số nhà 42
Général Leman (nay là đường Cao Bá Nhạ), được Ðạo mượn dùng làm Thánh Thất thờ
Ðức Chí Tôn, lập đàn cầu cơ, thâu nhận môn đệ. Phò loan tại đây là hai Ngài:
Nguyễn Trung Hậu và Trương Hữu Ðức.
Quốc túy: Cái tinh hoa đặc
sắc của một nước.
Chấn hưng mối Ðạo là kế bảo
tồn quốc túy, lại là phương thoát tục: Ðất nước Việt Nam, dân tộc VN, được Ðức
Chí Tôn lựa chọn để mở Ðạo, ngoài những mục tiêu cao cả của Ðạo Cao Ðài, dân tộc
VN nhờ mối Ðạo nầy mà sẽ đạt được 3 điều sau đây:
Bảo tồn được quốc túy.
Làm chủ tinh thần của nhơn
loại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét