Thánh Ngôn Hiệp Tuyển I & II - 8 / 9 (BSCT, Hiền Tài - Nguyễn Văn Hồng )

165 .  Ngày 21-5-1934 (âl 9-4-Giáp Tuất)
THẤT NƯƠNG Diêu Trì Cung
Tiếc thay, Em có dặn trước ngày Em đến, đặng hội hiệp đông đủ cùng nhiều chị, nhưng phò loan trễ nãi, nên Em không phương gặp đặng, nhất là việc Diêu Trì Cung bị mượn danh nơi khác mà dối gạt nhơn sanh.

Cái hại ấy vốn chẳng vừa về phần tín ngưỡng. Chớ chi thất tại Tà quyền thì có mấy em trừ khử, nhưng tại nơi đồng tử, thì mấy em
không phương giải nạn cho mấy người mê tín.
Thưa cùng mấy chị,
Em xin nhắc nhở điều nầy: Ngày hội Ngọc Hư đặng lo phương tiếp pháp của Tây Phương Cực Lạc qua, Em đã đặng nghe thấy những lời của Ðịa Tạng Vương Bồ Tát than thở rằng: Ngài là Phật nên khó gần gũi các hồn Nữ phái mà khuyến giáo cơ giải thoát mê đồ. Bởi cớ, nơi Âm quang, Nữ hồn còn bị luyện tội nhiều hơn Nam phái bội phần.

Em lại nghe Người ước rằng: Chớ chi có một Ðấng Nữ Tiên dám đảm đương đến phổ tế mới mong tận độ chư vong của Phong đô thoát kiếp.

Em mới để dạ lo lường, cả lòng lân ái đến đó. Em đã chán thấy nhiều tội tình chẳng trọng hệ, song có hồn chịu sầu thảm lạ thường. Em đã liệu nhiều phương thế cho từ đây mấy chơn hồn có bề dễ tránh khỏi cửa Âm quang hãm tội.

Em nên nói rõ Âm quang là gì trước đã, rồi mấy chị mới hiểu đặng.
Âm quang là nơi Thần Linh Học gọi là nơi Trường đình của chư hồn giải thể hay nhập thể.
Ðại Từ Phụ đã định nơi ấy cho Phật gọi là Tịnh Tâm Xá, nghĩa là nơi của chư hồn đến đó đặng tịnh tâm xét mình, coi trong kiếp sanh bao nhiêu phước tội.

Vậy thì nơi ấy là nơi xét mình. Chớ chi cả nhơn sanh biết xét mình trước khi thoát xác thì tự nhiên tránh khỏi Âm quang.
Nói cho cùng, nếu trọn kiếp, dầu gây lắm tội tình, mà phút chót biết ăn năn tự hối, cầu khẩn Chí Tôn độ rỗi thì cũng lánh xa cửa Âm quang, lại còn hưởng đặng nhiều ân huệ của Chí Tôn, là các chơn hồn đặng tự hối hay là đặng giáo hóa mà hiểu trọn chơn truyền lập phương tự độ, hay là con cái của các chơn hồn cầu rỗi.

Ôi! Tuy vân, hồng ân của Ðại Từ Phụ như thế mà vẫn thấy các chơn hồn sa đọa hằng hà, mỗi ngày xem chẳng ngớt, là tại thiếu đức tin và lòng trông cậy nơi Thầy. Ðó là mấy đạo hữu tín đồ bị thất thệ.
Em trông thấy bắt đau lòng, phái nữ lại là phần đông hơn hết. Thăng.

CHÚ THÍCH:
 (Xem trở lại bài Thánh Ngôn 159 của Bát Nương giải về Âm quang)

Tiếp pháp: Tiếp nhận pháp luật của CLTG ở phía Tây.
Cơ giải thoát mê đồ: Cách thức giải thoát khỏi con đường mê muội.
Luyện tội: Hành tội nhiều lần.
Tận độ chư vong của Phong đô thoát kiếp: Cứu giúp tất cả chơn hồn, không sót người nào, thoát khỏi cõi Âm quang.
Lân ái: Thương xót. Lân cũng đọc Liên là thương xót.
Trường đình: Nơi dừng chân sau khi đi một quãng đường dài. Trên con đường thiên lý, khi đi một đoạn đường ngắn thì người ta dựng ở bên đường một cái trạm nghỉ chân, gọi là Ðoản đình, khi đi một quãng đường dài thì người ta dựng bên đường một cái trạm nghỉ chân gọi là Trường đình.
Giải thể: Linh hồn cởi bỏ thể xác.
Nhập thể: Linh hồn nhập vào thể xác.
Tịnh Tâm Xá: Cái nhà mà linh hồn đến đó để lắng đọng tâm tư tự xét mình, xem trong kiếp sanh của mình nơi cõi trần đã làm được bao nhiêu phước, và gây ra bao nhiêu tội.
Tuy vân: Tuy rằng, dẫu rằng, dầu là.
Sa đọa: Rơi xuống chỗ thấp và bị đọa đày.
Thất thệ: Mất lời thề, tức là không giữ đúng lời thề lúc nhập môn cầu Ðạo. Cho nên việc lập Minh Thệ lúc nhập môn cầu Ðạo rất quan trọng, nếu giữ đúng lời thề thì được hưởng ân huệ của Ðức Chí Tôn cứu giúp, nếu thất thệ thì bị đọa vào cõi Âm quang.

166 .  Ngày 20-7-1934 (âl 9-6-Giáp Tuất)
THẦY
Các con, . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Hồi trước còn ngu xuẩn, kẻ phò cơ không đủ tinh thần như mấy con. Vậy nên, mỗi khi cầu cơ, lấy làm khó nhọc lắm mới được một vài lời của người khuất mặt. Như đồng thật mê thì ra thi hay, song khi rồi đàn thì Thần của nó phải suy. Nếu dùng đồng mê thì Ðạo biết bao giờ phổ thông đặng.
 (Hỏi về việc nhập xác)

Chơn thần của các con gặp Tà khí thì khó chịu, nên xin Thầy xuống điển nhiều đặng ngăn Tà mị, một đôi khi phải nhập xác vì điển xuống nhiều. Cũng một lẽ ấy mà mỗi lần lập thệ đều có nhập xác.

THẦY
Các con,
Thầy khen đạo tâm của hai con. Trước Thầy chỉ biểu hai con cứu bịnh trong đạo hữu mà thôi, là vì Thầy có ý để cho hai con liệu mà đối đãi với nhơn quần.

Lòng nhân của hai con mà Thầy vốn rõ rất hạp với tánh háo sanh của Tạo hóa. Chẳng những phải cứu trợ kẻ ngoại Ðạo mà lại cứu kẻ nghịch cùng mình trong cơn nguy biến. Thăng.

CHÚ THÍCH:
Bài Thánh Ngôn trên có trong Thánh Ngôn chép tay của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu, trang 11 và 15. Phò loan: Bảo Pháp - Hiến Pháp.

Ðồng thật mê: Ðồng tử thật mê, tức là đồng tử hoàn toàn ở trạng thái không biết gì hết, vì Chơn thần của đồng tử hoàn toàn xuất ra khỏi thể xác để nghe các Ðấng thiêng liêng dạy bảo, rồi điều khiển cánh tay theo điển lực thiêng liêng mà viết ra bài thơ bài văn, nên thơ văn nầy hoàn toàn của Ðấng thiêng liêng, nên tuyệt hay và rất cao siêu.

Ðồng tử là người làm trung gian để người ở cõi trần có thể thông công được với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật; và ngược lại, cũng để cho chư Thần, Thánh, Tiên, Phật truyền ra những tư tưởng đạo đức dạy bảo nhơn sanh.

Song khi rồi đàn thì Thần của nó phải suy: Thần là Chơn thần của đồng tử. Chơn thần nầy vì xuất ra khỏi thể xác một cách trọn vẹn, nên sau buổi cầu cơ xong thì phải mệt.

Khi mở Ðạo Cao Ðài, Ðức Chí Tôn không dùng đồng tử mê, mà dùng đồng tử tỉnh, để Chơn thần của đồng tử không mệt, nên có thể ngồi thủ cơ liên tục cho các Ðấng giáng cơ dạy Ðạo. (Xin xem trở lại bài Thánh Ngôn 2: Thủ Cơ - Chấp bút).

Ðức Chí Tôn dùng đồng tỉnh và giáng vào tâm của đồng tử, làm cho tâm của đồng tử hiểu được Thánh ý của Ðức Chí Tôn rồi điều khiển tay viết ra ý đó.

Cho nên Ðức Chí Tôn lựa đồng tử rất kỹ, phải là những chơn linh cao trọng đầu kiếp xuống trần mới được Ðức Chí Tôn lựa làm đồng tử.
 (Xem Chú thích của bài Thánh Ngôn 125)

167 .  Ngày 24-8-1934 (âl 15-7-Giáp Tuất)
CAO THƯỢNG PHẨM
Hồi Em còn ở thế, sức giận của Em đến đỗi, nếu Em được thiêng liêng vị tức cấp, thì có lẽ cây quạt của Em đã đưa họ trụm vào Phong đô không sót một ai.

Nhưng chừng bỏ xác phàm, được nhãn huệ quang rồi, Em lại thương đau thương đớn, dường như sợ cho họ sái đường lạc nẻo, thì phải mất một bạn thiêng liêng rất quí trọng vậy. Thành thử, phải dìu dắt chiều theo tâm phàm họ cao thấp mà sửa từ bước, độ từ chặng, mà nếu rủi dìu họ không được thì phải tận tụy với trách nhiệm, làm thế nào cho họ đừng sa đọa Phong đô, để cầu với Tam Giáo Tòa cho tái kiếp mà chuộc căn quả.

Thế, anh có vì việc nhỏ nhen vô vị mà nỡ ngó Ðạo chinh nghiêng à?
Trách nhậm là trách nhậm, cá nhơn là thứ chi, phải biết nguồn cội là gốc, thì mới tránh khỏi thường tình đặng.

Các Ðấng thiêng liêng đã thường nói: Lợi danh thường tình là nhỏ, danh giá Ðạo là trọng. Ðãi người một bực, bất kể tên gì, chịu thiệt thòi mà làm phận sự.
Trễ nãi của bước Ðạo thế nầy thì Thầy có khổ tâm khai Ðạo cho chúng ta độ rỗi sanh linh đâu. Sự trễ nãi là sự phàm tâm của ta, anh cũng cần nên đoạn khổ cho người, chớ nên tạo khổ cho ai.

Ðường đời là bến sông mê, thoát mê thoát khổ được, ai lại còn mang đeo thằng phược vào mình mà để cho loạn tâm mệt trí về nơi đó, chẳng uổng kiếp sanh lắm ru? Thăng.

CHÚ THÍCH:
Em: Ðức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư tự xưng đối với Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu, vì Ngài Cao quỳnh Cư là em ruột của Ngài Cao quỳnh Diêu.
Cây Quạt của Em đã đưa họ trụm vào Phong đô: Cây Quạt của Ðức Cao Thượng Phẩm là Long Tu Phiến, rất huyền diệu, đưa các Chơn thần trong sạch siêu nhập vào CLTG, và đẩy Chơn thần ô trược đi xuống cõi Âm quang. Trụm là đưa hết tất cả trọn một lần. Phong đô là cõi Âm quang.
Nhãn huệ quang: Cặp mắt trí huệ của người đắc đạo, không còn bị các chướng ngại phàm trần che đậy.
Cá nhơn là thứ chi: Ý nói: Cái cá nhơn của người tu không đáng kể, cái quan trọng là lo cho danh thể của Ðạo.
Thằng phược: Thằng là sợi dây, phược là trói buộc. Thằng phược là lấy dây mà trói buộc.

168 .  Ngày 25-8-1934 (âl 16-7-Giáp Tuất)
THÁI THƯỢNG ÐẠO TỔ
Hỉ chư đạo hữu. Cười . . . .
Có lẽ chư đạo hữu vẫn ngạc nhiên vì Bần đạo đến thình lình, mà chư đạo hữu không để tâm trước đó chăng?
 (M. Ng . . bạch: Quả nhiên như lời của Ngài, vì Thượng Phẩm có để lời trước rằng Chí Tôn sẽ giáng dạy.)
Chí Tôn sở cậy Bần đạo thố lộ chút ít điều mật yếu để dìu bước chư đạo hữu trong buổi loạn lạc trong nền Ðạo buổi nầy.
M. Ng . . hiền hữu có nhớ những lời Bần đạo đã giãi bày lúc trước bằng nhiều cách và lấy danh từ khác nhau mà dìu dẫn chăng?

Cơ Trời mầu nhiệm đối với Ðời, mà máy Thiên cơ đối với Ðạo, lại càng huyền vi thâm trọng hơn nữa, có lẽ tâm phàm dầu cao kiến đến đâu cũng chưa đạt thấu được. Những vai tuồng của Chí Tôn sắp đặt trên sân khấu Ðạo, nếu so sánh lại chẳng khác chi những bậc Nguyên nhân lãnh phận sự dìu đời từ xưa đến nay mà thôi.

Muốn an tâm tỉnh trí và đè nén lửa lòng, cần phải có một nghị lực vô biên, một tâm trung quảng đại, thì mới khỏi bực tức với những trò đã vì mạng lịnh thiêng liêng phô diễn ở nơi thâm hiểm nặng nề nầy.

Nên biết rằng, mỗi việc chi đều có hạn định, có căn nguyên, dầu các bậc tiền bối cũng vậy. Phải lấy nét đạo đức mà đoán xét thì mới hiểu thấu sự mầu nhiệm vĩ đại của Chí Tôn sắp đặt.

Xưa Hớn Bái Công chưa phải là chánh đáng một vị minh quân, mà cơ Trời vẫn để cho nghiệp Hớn 300 năm quyền bỉnh. Nào tật đố hiền tài, hữu thỉ vô chung, nghe lời sàm tấu, giết người lao công hạn mã, nếu chẳng phải chí của Trương Lương thì không thế nào khỏi xung tâm oán trách.

Võ Tắc Thiên hoang dâm thái thậm, Tùy Dương Ðế lỗi đạo muôn phần, khi Sở Hạng bạo ngược vô biên, Tần Thủy Hoàng hôn quân cực điểm, nhưng than ôi! máy Thiên cơ buổi nọ, nếu phải chiều chuộng một ít vị công thần bị khép vào vòng những kẻ đã chịu sở bức, thì phải thay đổi, bôi xóa sự nghiệp non sông của những chúa tể ngu muội ấy chăng?

Cười . . . Ðời là đời, Ðạo cũng vậy, chi chi cũng có định phân mực thước. Những kẻ chí sĩ lãnh trách nhậm nghiêng vai gánh vác cả non sông đều làm phận sự. Công nghiệp nhiều ít ấy, tính lời vốn với Tòa thiêng liêng, hoặc ghi tên tuổi vào thanh sử thiên niên, chớ chẳng phải để kể công trình với chúa tể ấy.
Than ôi! Cái nư giận thường làm đổ nát những công sáng tạo đã qua, không biết bao nhiêu vĩ đại.

Hiền hữu chỉ biết hành động của người mà chưa biết đến Thiên thơ của Ðức Chí Tôn. Có biết thạnh suy mà chưa chịu biết để công linh đào tạo thời thế, đặng dìu dắt chúng sanh cho kịp buổi.

Bần đạo hỏi bốn hiền hữu có ai đã mang sao đội nguyệt, ăn mật nằm gai, chịu muôn sự khổ hạnh cõi đời để tạo hạnh phúc cho nhơn sanh chưa?
 (T. . . Ð. . . bạch: . . . . . . . . .)
Cười . . . . Ðối với bực hiền xưa, chưa đặng muôn một. Nếu Chí Tôn không sớm lập Ðại Ðạo, chờ đôi ba chục năm nữa, e khi các bậc Nguyên nhân đang vị hiện thời đều phải chịu luân hồi không biết mấy kiếp.

Ngày giờ nhặt thúc, sanh chúng đương bơ vơ, chẳng biết đuốc huệ soi về phương nào, mảng nói nói cười cười. M. Ng . . hiền hữu có rõ ngày chung cuộc xây trở về đâu chăng?

- Chắc hẳn không, nhưng thiêng liêng vị, xin hiền hữu cũng nhớ để công tâm, trí não vào chúng sanh với, hiền hữu chịu chăng? (M. Ng . . bạch: . . . . . )

Cười . . . Trách nhậm là trách nhậm, muốn làm thì dầu bao nhiêu cũng gọi là thiếu, dầu ngày nào cũng gọi chẳng sớm, sớm là sớm nơi cái tâm bất định mà thôi. Chí Tôn đã vì nỗi con cái của Ngài mà sửa chỉnh bước đường, thì hiền hữu lại há không vì sự yêu đương quí hóa ấy mà sửa đổi tâm trí cho quảng đại sao?

Tà Chánh, cười . . . . Bần đạo nói thiệt cũng chưa dám định đoạt. Trong cái rủi thường có sự may; trong cái may vẫn khép cầm sự rủi, khó lường được. Ðiều cần là nên làm mà thôi.

Nếu luận Tà Chánh thì chưa một ai dám còn mang mắt phàm xưng tụng mình là Chánh. Cái Tà vì Thiên thơ xử dụng, Tà vì cơ thử thách của Tam Giáo Tòa, Tà vì những quỉ xác ma hồn lẫn lộn của Quỉ vương để làm cho công phu lỡ dở. Mỗi cái Tà có duyên cớ ấy, ngày sau đều có sự biến đổi thiêng liêng hoặc có một kết quả.

Ngày chung qui chỉ đem về Thầy một chữ Tâm và những công nghiệp đã gây thành cho sanh chúng.

Nền Ðại Ðạo đã chia ba, theo lời Bần đạo đã nói, M . Ng . . hiền hữu muốn lập công nơi nào? Tòa Thánh, Trung Ương, Hậu Giang?

(M. Ng . . bạch: Nơi Tòa Thánh).
Tòa Thánh là gốc cội của Ðạo. Nếu muốn lập công nơi đó, vì Thầy đã dạy, thì nên làm đi. Cách xây đổi phương lược tùy cơ ứng biến. Ấy là cơ nghiệp riêng của mỗi đạo hữu, Bần đạo không dám dạy. Nếu chờ thì phải trễ chăng?

Hiền hữu nên xét, Ðời khác, Ðạo khác, những sự lỗi lầm của mình tạo khổ cho mình, mà nguyên nhơn vẫn cứ huyền bí, mắt thịt tâm phàm chưa dễ độ đặng, nên xét cho ra. Thăng.

CHÚ THÍCH:
M. Ng . . .: Mỹ Ngọc, hiệu của Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu.
T . . . Ð . . .: Tiếp Ðạo, Ngài Tiếp Ðạo Cao Ðức Trọng.
Sở cậy: Trông cậy vào.
Quyền bỉnh: Quyền bính, quyền hành nắm trong tay cũng như nắm cái cán của một vật mà vận dụng.
Tật đố hiền tài: Ghen ghét người có tài năng đạo đức.
Hữu thỉ vô chung: Có lúc bắt đầu mà không có lúc cuối cùng, ý nói người có lòng dạ đổi thay, không chung thủy.
Lao công hạn mã: Người có công lớn nơi chiến trường. Hạn mã là ngựa đổ mồ hôi. Hớn Bái Công giết người lao công hạn mã là ý nói giết chết Hàn Tín.
Xung tâm: Giận lắm, lòng giận hờn dữ dội.
Tòa thiêng liêng: Tòa Tam Giáo thiêng liêng nơi Ngọc Hư Cung cân phân tội phước để định phận cho mỗi chơn hồn.
Thanh sử thiên niên: Sử xanh ngàn năm.
Công linh: Công lênh, công sức vất vả làm việc.
Mang sao đội nguyệt: Cảnh sống vất vả, dãi gió dầm mưa, màn trời chiếu đất. Ăn mật nằm gai: Ý nói: Chịu đựng mọi gian khổ để mưu việc lớn.
Ðuốc huệ: Cái trí huệ của người tu đạt được như một ngọn đuốc làm biến mất vô minh, soi đường cho sanh chúng.
Nền Ðại Ðạo đã chia ba: Giữa năm 1934, nền Ðạo chia làm ba nhóm lớn: - Tòa Thánh Tây Ninh là gốc, -Phái Minh Chơn Lý của Phối sư Thái Ca Thanh ở tỉnh Mỹ Tho (Trung Ương), - Phái Minh Chơn Ðạo của Cao triều Phát ở Bạc Liêu (Hậu giang).

169 .  Hộ Pháp Ðường,
Ngày 13-11-1935 (âl 18-10-Ất Hợi)
LÝ THÁI BẠCH
Lão chào Hộ Pháp, chư Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Hội Thánh Ngoại Giáo.

Ðợi Lão biểu Cao Thượng Phẩm nâng loan. (buông cơ) Lão đến tư đường của Hộ Pháp nên cho miễn lễ, đứng hết.

Hộ Pháp, hèn lâu Lão không đến chuyện vãn cùng nhau đặng, một là vì không cơ bút, hai là vì Thiên thơ biến chuyển, Lão có đến cũng chẳng ích gì.

Nay vì Lễ Ðạo Triều, nên đến chúc mừng chư hiền hữu. Lão để lời cám ơn Hộ Pháp đã chịu lắm phen nhọc nhằn khổ não làm cho Ðạo ngày nay đặng ra thiệt tướng. Lão chỉn thẹn có một điều là Lão chưa giúp hay vào đó. Lão đa tạ, đa tạ!
 (Hộ Pháp bạch: . . . . . . . . . . . . . .)

- Cười . . . Lão chẳng nói rõ, hiền hữu cũng thấy hiển nhiên rằng từ thử, thảng Lão có muốn nên cho Ðạo đi nữa thì cũng không thi thố chi đặng với một Hội Thánh hữu hư vô thiệt, như vậy có phải?

May thay! Thiên thơ do một mặt chẳng chi dời đổi trở ngăn, nên may ra nữa, từ đây Lão có phương cầm quyền trị thế.
 (Hộ Pháp bạch: Thiên thơ đã đổi, đệ tử xin giao quyền hành của Quyền Giáo Tông lại cho Ngài đặng Ngài đủ oai cầm Thiên thơ vững chặt).

- Cười . . . Lão e cho, một là Lão đã cho, không lẽ lấy lại, hai là hành pháp thì dễ, hành hình thì khó, không có nửa quyền trị thế của Lão nơi tay Hộ Pháp, có thế nào điều hành Hội Thánh cho đặng. Ấy vậy, cứ để y. Nghe thi nầy và kiếm hiểu:
Bát Nhã từ đây vững lái thuyền,
Tuông pha khổ hải độ nhơn duyên.
Gay chèo thoát khổ đầy linh cảm,
Rạch nước trừ oan đủ diệu huyền.
Thổi thẳng cánh buồm thì Lão thủ,
Nâng an lòng bản cậy Thần, Tiên.
Phong ba mấy độ đà qua khỏi,
Ném thử Giáng Ma đóng Cửu tuyền.
                                                                                                          Thăng.
CHÚ THÍCH:
Lễ Ðạo Triều: Lễ Kỷ niệm ngày Khai Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ hằng năm vào ngày 15 tháng 10 âm lịch.
Hữu hư vô thiệt: Có hư mà không có thực, tức là xem như không có gì cả, hoàn toàn không có giá trị.
Hành pháp: Thi hành pháp luật, tức là chiếu theo pháp luật mà làm. Hành hình: Thi hành hình phạt.
Ném thử Giáng Ma đóng Cửu tuyền: Câu nầy nói về Ðức Phạm Hộ Pháp, dùng bửu pháp Giáng Ma Xử để đóng cửa Ðịa ngục, theo lịnh của Ðức Chí Tôn trong thời Ðại Ân Xá.

THI TẬP
Hội Thánh xin trích lục ra đây để cống hiến chư đạo hữu những bài thi và những lời chỉ giáo của các Ðấng Tiền Bối đã sẵn lòng giúp chúng ta xây dựng nền Ðạo.

Những bài thi ấy cho từ cuối năm Ất Sửu (1925) lúc còn xây bàn và đầu năm Bính Dần (1926) trước khi mở Ðạo.

Ngày mùng 6 tháng 6 năm Ất Sửu (26-07-1925), vong linh Cụ cố CAO QUỲNH TUÂN, tức là Cụ thân sinh của Ông CAO QUỲNH CƯ (Ðức Cao Thượng Phẩm) giáng cho trong cuộc xây bàn bài thi sau đây:
THI
Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương căn dặn gắng tâm đời.
Bên màn đòi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.
Cao Quỳnh Tuân
(Mi tức là Ô Cư)

Ngày mùng 10 kế đó, Cô Ðoàn Ngọc Quế giáng cho ba bài dưới đây:
THI
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào Ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống Tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trước mai.
Dồn dập tương tư oằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai.

Trời già đành đoạn nợ ba sinh,
Bèo nước xẻ hai một gánh tình.
Mấy bữa nhăn mày lâm chước quỉ,
Khiến ôm mối thảm lại Diêm đình.

Người thì Ngọc mã với Kim đàng,
Quên kẻ dạ đài mối thảm mang.
Mình dặn lấy mình, mình lại biết,
Mặc ai chung hưởng phận cao sang.
                                                                       Ðoàn Ngọc Quế

CHÚ THÍCH:
Ngọc các: Lầu ngọc, chỉ nhà cao sang quyền quí. Tuyền đài: Suối và lầu đài, chỉ cõi Âm phủ. Tình sông núi: Tình cảm thương nhớ công ơn sanh dưỡng của cha mẹ, do câu ca dao: Công cha như núi Thái sơn (núi), Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. (sông). Trúc mai: chỉ tình yêu thắm thiết giữa một đôi nam nữ. Ðoàn Ngọc Quế: Tá danh của Thất Nương Diêu Trì Cung.
Bà Bát Nương giáng làm thi vấn đề: Tiễn biệt tình lang, dưới đây:
THI
Chia gương căn dặn buổi trường đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Ðêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
Lần lựa cô phòng xuân thỏn mỏn,
Xa xuôi ai thấu nỗi đinh ninh.
                                                           Bát Nương

HOẠ VẬN
Ình ình trống giục thảm trường đình,
Ðau nỗi chia phôi một chữ tình.
Hồng nhạn đưa tin trông vắng dạng,
Phụng lầu gác quyển đợi hòa thinh.
Vừng trăng xẻ nửa lưng tròng ngó,
Một mảnh gương treo biếng mắt nhìn.
Kẻ ở phương trời người góc biển,
Lòng thành nhắn gởi chữ khương ninh.
                                                                                  Quí Cao
CHÚ THÍCH:
Trường đình: Nơi từ giã chia tay nhau khi đưa tiễn. Vàng đá: Lời thề chắc chắn hẹn ước cuộc trăm năm. Phụng lầu gác quyển: Trên lầu Phụng, gác cái ống sáo chờ người yêu đến để cùng thổi sáo. (Ðiển tích: Tiêu Sử và Lộng Ngọc)

Ngày 14 tháng 8 năm Ất Sửu (dl. 01-10-1925).
NHÀN ÂM ÐẠO TRƯỞNG
Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng,
Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân.
Rượu cúc một bầu trăng gió hứng,
Non sông dạo khắp lối đêm xuân.

Rằm tháng 8 năm Ất Sửu (dl. 01-10-1925), vì có sự thành khẩn nên Lục Nương giáng cho bài thi sau đây:
THI:
Im lìm cây cỏ vẫn in màu,
Mờ mệt vườn xuân điểm sắc thu.
Gió dậy xao trời mây cuốn ngọc,
Sương lồng ướt đất liễu đeo châu.
Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu.
Non nước đìu hiu xuân vắng chúa,
Nhìn quê cảnh úa giục cơn sầu.
                                                           Lục Nương
Giải nghĩa hai câu thứ 5 và thứ 6 của bài thi :
Ngựa vàng ruổi vó thoi đưa sáng,
Thỏ ngọc trau gương dậm vẻ làu.

Trường quang: Ánh sáng mặt trời.
Kim mã là ngựa vàng, tức mặt trời.
Ngọc thố là thỏ ngọc, tức mặt trăng.
Có nghĩa là ngày giờ qua mau, rất lẹ.

THẤT NƯƠNG
Lừa dịp đình chơn viếng cố nhân,
Cảm tình trông đợi dạ ân cần.
Chầy ngày tuy chẳng thăm nhau đặng,
Mà tấm lòng kia vẫn luống gần.

(22-8-Ất Sửu, 9-10-1925)
A Ă Â
Thu về ngắm cảnh dạ buồn tanh,
Nhớ đạo nghĩa nhau T. . . xúc tình.
Ðộng cũ vườn tòng sầu biếng trổ,
Non xưa rừng bá thảm buông mành.
Phong trần thương kẻ mang thân đọa,
Bồng đảo vì ai giữ tấc thành.
Một bóng luống chờ ngày tái ngộ,
Chơn thần gìn đặng vẹn tinh anh.

BÁT NƯƠNG
Ðộng đình chạnh lúc tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
Cờ thần nhớ buổi vầy đôi bạn,
Tiệc ngọc nào khi hội nhứt trường.
Mượn vận lương nhân xin nhắn nhủ,
Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.

QUÍ CAO
Tử sanh dĩ định tự Thiên kỳ,
Tái ngộ đồng hoan hội nhứt chi.
Bắc Ngụy quan văn tâm mộ hữu,
Giang Ðông khán thụ lụy triêm y.

Thất Nương giải nghĩa hai câu chót:
Bắc Ngụy quan văn tâm mộ hữu,
Giang Ðông khán thụ lụy triêm y.

Khi Như Hoành ở Bắc Ngụy đi thuyết chiến bên Giang Ðông, gặp Bạch Hàm thì tâm đầu ý hợp, kết làm anh em.
Như Hoành than rằng: Bắc Ngụy văn thiên thụ.
Bạch Hàm than rằng: Giang Ðông nhứt mộ vân.

Nghĩa là:
Ngó Bắc Ngụy nghe ngàn cây đưa tiếng bạn,
Nhìn Giang Ðông thấy khóm mây vẽ hình anh.
VỊNH MAI
Mai là cốt cách liễu tinh thần,
Thi thiệt hồn mai, tuyết ấy trần.
Mai tuyết không thi mai tuyết não,
Thi không mai tuyết thế không xuân.
(9-12-1925)

Mai đeo tuyết ngọc biết bao lần,
Tuyết vẽ mày mai thắm thía xuân.
Xuân có tuyết mai xuân hiệp tuyết,
Tuyết mai vầy bạn xúm chào xuân.

Cũng đồng địa vị cũng đồng đường,
Hứng tuyết tìm mai dưới giọt sương.
Mai tuyết hiệp đôi mai tuyết đẹp,
Tuyết giành trong sạch, mai giành hương.

Nhơn vô tùng thế đắc tùng Thiên,
Ưu lự trần gian ý vị nhiên.
Mạc hối tiền trình căn dĩ định,
Tự nhiên dĩ hậu phản như tiền.
(14-10-1925)

CHÚ THÍCH: Bài thi Hán văn viết ra chữ Hán:
Người không tùng theo đời thì được theo Trời,
Lo nghĩ việc đời ý kiến chưa rồi.
Ðừng hối tiếc tiền trình, vốn đã định,
Tự nhiên về sau sẽ trở lại như trước.
A Ă Â

Mừng thay gặp gỡ Ðạo Cao Ðài,
Bởi đức ngày xưa có buổi nay.
Rộng mở cửa răn năng cứu chuộc,
Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.
(19-12-1925)

CHÚ THÍCH:
Cứu chuộc: Cứu giúp và chuộc tội. Ðơn sai: Không làm đúng theo lời nói.
Có cơ có thế có tinh thần.
Từ đấy Thần Tiên dễ đặng gần.
Dưỡng tánh tu tâm tua gắng sức,
Ngày sau toại hưởng trọn Thiên ân.
(20-12-1925)

THẤT NƯƠNG
(Cho Ông Chấn)
Hồ thủy vẫy vùng đáng phận trai,
Trời chiều nay đã rạng cân đai.
Gành Nam nêu đặng người tên tuổi,
Ðất Bắc mừng an bước lạc loài.
Lộc nước gắng đền công chín tháng,
Nợ nhà tua vẹn gánh hai vai.
Qui điền có lúc phong trần rảnh,
Ðinh sắt một lòng, chí chớ lay.
(21-12-1925)

BÀ THIÊN HẬU
Trước có căn duyên ở ngọc cung,
Cầu con nên phải đến phân cùng.
Thiên cơ mạt lộ chờ đôi lúc,
Nương cậy về sau khỏi não nồng.
(21-12-1925)

THẤT NƯƠNG
Ðã cùng nhau trót mấy lời giao,
Cách mặt mà lòng chẳng lãng xao.
Ðàng Ðạo càng đi càng vững bước,
Cõi Thiên sau ắt hội cùng nhau.

Một nhà vầy hội rất mừng thay,
Ðạo Thánh từ đây đặng vẹn ngay.
Một bước một đi đường một tới,
Lòng thành xin trọng thấu Cao Ðài.
(22-12-1925)

LỤC NƯƠNG
Cha chả hèn lâu chẳng viếng thăm,
E chư huynh trưởng trách em thầm.
Tuy xa cách mặt lòng không cách,
Buồn dở thơ hòa đọc lại ngâm.
(23-12-1925)

BÁT NƯƠNG
Lửa lòng rưới tắt mượn nhành dương,
Vì nghĩa sơ giao phải đến thường.
Còn gánh đồ thơ tua vẹn giữ,
Dứt dây oan trái chớ riêng thương.

Mừng nay Thanh Thủy giải dây oan,
Ðường Ðạo từ đây bước vững vàng.
Tình ái nhành dương đem rưới tắt,
Nắm tay dìu lại cõi Tiên bang.
CHÚ THÍCH:
Nhành dương: Cành cây dương liễu để rải nước Cam lồ. Nhành dương là chỉ nước Cam lồ. Nghĩa sơ giao: Tình nghĩa lúc mới quen biết nhau. Ðồ thơ: Bức họa đồ và sách, chỉ nền văn hóa của một dân tộc. Thanh Thủy: Bút hiệu của Ngài Cao Hoài Sang.
HUỆ MẠNG TRƯỜNG PHAN (1)
Trước ước cùng nhau sẽ hiệp vầy,
Nào dè có đặng buổi hôm nay.
Gìn lòng tu niệm cho bền chí,
Bồng đảo ngày nay đặng hiệp vầy.

Tây Ninh tu luyện động Linh Sơn,
Chẳng quản mùi trần thiệt với hơn.
Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công hầu vương bá dám đâu hơn.
                                                           (23-12-1925)
(1) Huệ Mạng Trường Phan là Ông thầy chùa nhỏ trên núi Ðiện Bà.

A Ă Â
Trước vốn thương sau cũng thương,
Một lòng nhơn đức giữ cho thường.
Trông ơn Thượng Ðế tuông rời rộng,
Sum hiệp ngày sau cũng một trường.

HỚN THỌ ÐÌNH HẦU
Tiết nghĩa trung can Hớn đảnh xây,
Phò Lưu dựng Thục một lòng ngay.
Kinh Châu thất thủ nơi Thiên định,
Khiến Hớn vận suy mới đổi thay.
                                                                       (25-12-1925)

A Ă Â
Muôn kiếp có Ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân Thiên.
Ðạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.

LÝ BẠCH
Ðường trào hạ thế hưởng Tam quan,
Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn.
Ly rượu trăm thi đời vẫn nhắc,
Tánh Tiên muôn kiếp vốn chưa tàn.
Một bầu phong nguyệt say ngơ ngáo,
Ðầy túi thơ văn đổ chứa chan.
Bồng đảo còn mơ khi bút múa,
Tả lòng thế sự vẽ giang san.
                                                           (Noel 1925)

ÐỖ MỤC TIÊN (họa Lý Bạch)
Chẳng kể công khanh bỏ ấn quan,
Bồng Lai vui đạo hưởng an nhàn.
Thi Thần vui hứng ngoài rừng Trước,
Rượu Thánh buồn say dưới cội tàn.
Nồng hạ Trời thương đưa gió quạt,
Nắng thu đất cảm đổ mưa chan.
Vân du thế giới vui mùi đạo,
Mơi viếng Kỳ Sơn tối Cẩm San.

LỤC NƯƠNG
Vui nhơn vui Ðạo lại vui thiền,
Vui một bước đường một bước yên.
Vui bóng Cao Ðài che khắp chốn,
Vui gương Ngọc Ðế thấy như nhiên.
Vui ngàn thế tải ngăn nhơn sự,
Vui một màu Thiên đóng Cửu tuyền.
Vui vớt sanh linh nơi bể khổ,
Vui Trời rưới khắp đủ ân Thiên.
                                                                       (Noel 1925)
CHÚ THÍCH:
Vui thiền: Ý nói vui với việc tu hành. Thế tải: Một năm nơi cõi trần.

LỤC NƯƠNG
Mừng nay đường Ðạo đã êm chơn,
Vàng ngọc công khanh chẳng dám hơn.
Rượu cúc Bàn đào chờ hội ẩm,
Thuốc Tiên lò tạo giữ sanh tồn.
Bồng Lai vắng mặt Tiên buồn nhớ,
Dinh đảo nghiêng tai Thánh khảy đờn.
Trước chẳng giữ ngôi, ngôi mới mất,
Cân phân thế tục, phẩm chi sờn.
                                                                       (13-1-1926, Cầu Kho)
CHÚ THÍCH:
Rượu cúc Bàn đào: Ý nói Hội Yến Bàn đào nơi Diêu Trì Cung. Hội ẩm: Hội họp nhau mà uống rượu vui vẻ. Lò tạo: Cái lò để tạo hóa ra vạn vật. Bồng Lai, Dinh đảo: Ðó là đảo Bồng Lai và đảo Dinh Châu ở cõi Tiên, chỉ cảnh Tiên.

THẦY
Thành tâm niệm Phật,
Tịnh, tịnh, tịnh, tịnh, tịnh.
Tịnh, là vô nhứt vật,
Thành tâm hành đạo.
                                                           (14-1-1926)

Ông Ðốc Bản (Ðoàn Văn Bản) xin chấp bút,
THẦY
Bút nở mùa hoa đã có chừng,
Chẳng như củi mục hốt mà bưng.
Gắng công ắt đặng công mà chớ,
Buồn bực rồi sau mới có mừng.

Tu như cỏ úa gặp mù sương,
Ðạo vốn cây che mát mẻ đường.
Một kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng,
Ðôi năm mệt nhọc vạn năm bường.
Có thần nuôi nấng thần càng mạnh,
Luyện khí thông thương khí mới tường.
Nhập thể lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn Tiên ngọn Phật mới nhằm phương.
                                                           Quí Cao (16-1-1926)

THẦY
Thiệt thiệt hư hư dễ biết chăng?
Hành tàng chơn đạo gọi sao rằng.
Khai Thiên lập Ðịa, ai là chủ?
Thánh Phật là ai dám đón ngăn.
                                                                                  (21-1-1926)

Mặt nhựt hồi mô thấy xẻ hai,
Có thương mới biết Ðấng Cao Ðài.
Cũng con cũng cái đồng môn đệ,
Bụng muốn phân chia, hỏi bởi ai?
                                                                                  (21-1-1926)

Chín Trời mười Phật cũng là Ta,
Truyền Ðạo chia ra nhánh nhóc ba.
Hiệp một chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh, Tiên, Phật đạo vốn như nhà.
                                                                                  (23-1-1926)

CHÚ THÍCH:
Chín Trời: Chín từng Trời, thường gọi là Cửu Trùng Thiên. Mười Phật: Mười phương Phật, tức là Thập phương chư Phật, hay chư Phật ở 10 phương. Mười phương đó là: Ðông, Tây, Nam, Bắc, Ðông Nam, Ðông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, phương trên và phương dưới.
Các Ðấng khai mở 9 từng Trời và 10 phương Phật đều là những hóa thân của Ðức Chí Tôn Thượng Ðế.

Ta: Tiếng tự xưng của Ðức Chí Tôn. Nhánh nhóc ba: Ý nói Tam giáo: Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo.

Khai Ðàn Cao Quỳnh Cư :
THẦY
Ðã để vào Tòa một sắc hoa,
Từ đây đàn nội tỷ như nhà.
Trung thành một dạ thờ Cao Sắc,
Sống có Ta, thác cũng có Ta.

Ðài sen vui nhánh trổ thêm hoa,
Một Ðạo như con ở một nhà.
Hiếu nghĩa tương lai sau tựu hội,
Chủ trung Từ Phụ vốn là Ta.
                                                                       (27-1-1926)
LÝ BẠCH
Có công phải biết gắng nên công,
Tu tánh đã xong tới luyện lòng.
Kinh sách đầy đầu chưa thoát tục,
Ðơn tâm khó định lấy chi mong.
                                                                                  (21-7-1926)

LỤC NƯƠNG
Công quả ngày xưa thiệt chẳng hèn,
Nợ trần bước tục phải đua chen.
Võ đài chờ trả rồi oan trái,
Xủ áo phồn hoa lại cảnh Thiên.
                                                           (27-1-1926)

THẦY
Một ngày thỏn mỏn một ngày qua,
Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa.
Luyện đặng tinh thông muôn tuổi thọ,
Cửa Thiên xuất nhập cũng như nhà.

Cương tỏa đương thời đã giải vây,
Ðừng mơ oan nghiệt một đời nầy.
Hữu duyên độ thấu nguồn chơn đạo,
Tu niệm khuyên bền chí chớ lay.
                                                                       (28-1-1926)

Thầy vui vì các con thuận hòa cùng nhau; Thầy muốn cho các con như vậy hoài, ấy là một lễ hiến cho Thầy rất trân trọng.
 (29-1-1926)

Khai Ðàn cho Ông Lê Văn Trung:
THẦY
Một Trời một Ðất một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh đặng dạ hiền.
Cầm mối Thiên Thơ lo cứu chúng,
Ðạo người vẹn vẻ mới thành Tiên.
                                                                       (31-1-1926)

THẦY
Dạy trẻ con toan trước dạy mình,
Cái công giáo hóa cũng đồng sinh.
Ðạo đời tua biết rằng đời trọng,
Một điểm quang minh một điểm linh.
                                                                       (23-2-1926)

THI VĂN DẠY ÐẠO
Phần 1: Thơ Ðường luật (8 câu): (1-9)

1.
Tròi trọi mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náu nương chân.
Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,
Ðỡ gót nhờ con hạc trắng ngần.
Bố hóa người đời gây mối đạo,
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân.
Chừng nào đất dậy Trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

2.
Tân tả BẠCH NGỌC KINH
Một Tòa Thiên các ngọc làu làu,
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc đẩu,
Muôn trùng nhíp khảm hiệp Nam tào.
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao.

3.
Huỳnh lương một giấc cuộc đời in,
Có trí có mưu phải xét mình.
Phú quí lớn là giành với giựt,
Lợi danh cao bởi mượn và xin.
Trăm năm lẩn quẩn đường nhơn nghĩa,
Một kiếp đeo đai mối nợ tình.
Biết số biết căn tua biết phận,
Ðường xưa để bước lại Thiên đình.

CHÚ THÍCH:
Bài thi số 3, cặp trạng ở trên là chép theo bản Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Quyển 1 in năm 1964, còn bản in năm 1928, cặp trạng trên là:
Danh lợi lớn là giành với giựt,
Phú quí cao bởi mượn và xin.

4.
Ðời hiếp lẫn nhau nỡ chẳng thương,
Thương đời nên mới đến đem đường.
Ðường dài vó ngựa tua bền sức,
Sức yếu lòng người khéo để gương.
Gương Ðạo noi theo đời Thuấn Ðế,
Ðế dân vẹn giữ lối Văn Vương.
Vương hầu lê thứ, ai là chí,
Chí quyết làm cho thế khác thường.
           
CHÚ THÍCH:
Thuấn Ðế: Vua Thuấn, nối ngôi vua Nghiêu. Dưới 2 thời vua nầy, dân chúng sống trong cảnh thái bình thạnh trị.Văn Vương: Vua Văn Vương là vị vua khai sáng ra nhà Châu bên Tàu. Ngài có công nghiên cứu và chế ra Bát Quái Hậu Thiên, giải thích Kinh Dịch. Lối Văn Vương: Ðường lối của vua Văn Vương là dụng đạo đức để thu phục lòng người.

5.
Thanh thanh nhựt nguyệt Cửu Trùng Thiên,
Hiện xuất cao nhơn tại nhãn tiền.
Bất quản hổ tranh thâu Bắc Cực,
Chỉ nguy long đấu đoạt Nam Uyên.
Sanh tồn cụ pháp vô công trác,
Tử hậu cùng đồ uổng lộ diên.
Hữu đạo, hữu công du tự khả,
Vô công, vô đạo tổng đồ nhiên.
           
CHÚ THÍCH:
Bài thi số 5 viết ra chữ Hán sau đây:
青青日月九重天
現出高人在眼前
不管虎爭收北極
只危龍鬥奪南淵
生存具法無功琢
死後窮途枉路延
有道有功逾自可
無功無道總徒然

GIẢI NGHĨA:
Trời xanh, mặt nhựt, mặt nguyệt và Cửu Trùng Thiên,
Trước mắt xuất hiện một vị cao nhơn.
Không quản ngại cọp tranh giành thâu cõi Bắc,
Chỉ hiểm nguy rồng tranh đấu đoạt vực Nam.
Ðầy đủ các pháp để sanh tồn, không cần công sức giồi mài,
Sau nầy đến đường cùng thì chết, uổng công kéo dài con đường.
Có đạo có công thì tự mình vượt qua được,
Không đạo không công thì tất cả không được gì cả.

6.
Hảo Nam bang! Hảo Nam bang!
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
Hạnh ngộ Cao Ðài truyền Ðại Ðạo,
Hảo phùng Ngọc Ðế ngự trần gian.
Thi ân, tế chúng thiên tai tận,
Nhược thiệt, nhược hư vạn đại an.
Chí bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng tri giác thế sắc cao ban.

CHÚ THÍCH:
Bài thi số 6 viết ra chữ Hán sau đây:
好南邦好南邦!
小國早開會涅槃
幸遇高臺傳大道
好逢玉帝御塵間
施恩濟眾千災盡
若實若虛萬代安
至寶人生無價定
能知覺世敕高頒
GIẢI NGHĨA:
Tốt đẹp thay nước Việt Nam!
Một nước nhỏ sớm khai Hội Long Hoa.
May mắn gặp Ðấng Cao Ðài truyền cho nền Ðại Ðạo,
Tốt đẹp gặp Ðấng Thượng Ðế ngự xuống cõi trần.
Ban ơn, cứu giúp dân chúng ngàn tai nạn mất hết,
Như là thực, như là không thực, muôn đời an ổn.
Rất quí báu cho nhơn sanh, không thể định giá trị được,
Nên biết giác ngộ người đời thì được Ðức Chí Tôn ban thưởng.

Cặp trạng của bài thi nầy thường được dùng làm đôi liễn viết vào hai bên Thiên Bàn thờ tại tư gia.
7.
Hữu vân hữu võ hữu phong ba,
Nhựt Nguyệt Âm Dương tứ quí hòa.
Thiên Ðịa Càn Khôn kiêm vạn loại,
Nhơn quần thảo mộc cập chư hoa.
Ly kỳ cảnh vật cao nhơn thưởng,
Ðáo để san hà thượng khách ca.
Ngã vấn chư nhu hà thủ tạo?
Kỉnh Ngô vi chủ, Ðạo như hà?
           
CHÚ THÍCH:
Bài thi số 7 viết ra chữ Hán sau đây:
有雲有雨有風波
日月陰陽四季和
天地乾坤兼萬類
人群草木及諸花
離奇景物高人賞
到底山河上客歌
我問諸儒何手造
敬吾為主道如何
GIẢI NGHĨA:
Có mây có mưa, có sóng gió,
Mặt trời, mặt trăng, khí âm, khí dương, bốn mùa hòa hợp.
Trời Ðất, Càn khôn thế giới bao gồm vạn vật,
Loài người, thảo mộc, đến các thứ hoa,
Cảnh vật đẹp lạ lùng cho cao nhơn thưởng thức,
Cảnh núi sông, thượng khách hết sức ca ngợi,
Ta hỏi chư nhu, tay ai tạo ra các thứ ấy?
Kính Ta làm chủ, nền Ðạo liệu như vậy sao?

8.
Ngọc ẩn thạch kỳ ngọc tự cao,
Hoàng Thiên bất phụ chí anh hào.
Giáng ban phúc hạnh nhơn đồng lạc,
Thế tạo lương phương thế cộng giao.
Giáo hóa nhơn sanh cầu triết lý,
Ðạo truyền thiên hạ ái đồng bào.
Nam nhơn tỉnh cảm sanh cao khí,
Phương tiện tu tâm kế diệt lao.

CHÚ THÍCH:
Bài thi số 8 viết ra chữ Hán sau đây:
玉隱石岐玉自高
皇天不負志英豪
降頒福幸人同樂
世造良方世共交
敎化人生求哲理
道傳天下愛同胞
南人醒感生高氣
方便修心計滅勞
GIẢI NGHĨA:
Ngọc ẩn trong đá núi, ngọc ấy tự nó có giá trị cao,
Trời không phụ ý chí của người anh hùng hào kiệt.
Giáng trần để ban hạnh phúc cho loài người cùng vui vẻ.
Ðời tạo phương hay, đời giao hòa cùng chung với nhau.
Giáo hóa nhơn sanh cầu cái triết lý cao siêu của Ðạo,
Ðem Ðạo truyền cho dân chúng biết thương yêu đồng bào.
Người Việt Nam  tỉnh ra cảm ứng sanh chí khí cao thượng.
Phương tiện tu tâm là kế tiêu diệt các nỗi khổ đau.

9.
Tường quang nhứt khí chiếu minh đông,
Tam Giáo qui nguyên dữ cộng đồng.
Phật Pháp khuyến nhơn qui mỹ tục,
Nho Tông phục thế hưởng thuần phong.
Diệu huyền chơn đạo tu tông hướng,
Mê hoặc tà mưu khả tự phòng.
Thế thượng dục tri Thiên sứ đáo,
Tam Kỳ Phổ Ðộ lập kỳ công.
CHÚ THÍCH:
Bài thi số 9 viết ra chữ Hán sau đây:
祥光一氣照明東
三敎歸元與共同
佛法勸人歸美俗
儒宗復世享純風
妙玄眞道須宗向
迷惑邪謀可自防
世上欲知天使到
三期普度立奇功
GIẢI NGHĨA:
Một khí sáng lành chiếu sáng phương đông,
Tam giáo qui nguyên và cùng chung với nhau.
Giáo lý của Phật khuyên người trở về mỹ tục,
Ðạo Nho làm cho đời trở lại hưởng thuần phong.
Nền Chơn đạo huyền diệu, nên hướng sự tu hành về đó,
Mưu kế tà quái mê hoặc nhơn sanh, khá tự đề phòng,
Trên đời muốn biết các Thiên sứ đã đến,
Hãy lập công quả lớn trong Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.

THI VĂN DẠY ÐẠO
Thơ Ðường luật (8 câu): (10-46)

10.
Khổ đời muốn lánh gắng tìm phương,
Giành giựt đừng mong chác thế thường.
Xạo xự tuồng đời lừng bợn tục,
Trau tria nét đạo nực mùi hương.
Rừng thiền ngàn dặm Trời soi bước,
Biển khổ muôn chia khách lạc đường.
Gặp được nẻo ngay, đời có mấy?
Thìn lòng khối ngọc tạo nên gương.

11.
Gắng sức trau giồi một chữ Tâm,
Ðạo đời muôn việc khỏi sai lầm.
Tâm thành ắt đạt đường tu vững,
Tâm chánh mới mong mối đạo cầm.
Tâm ái nhơn sanh an bốn biển,
Tâm hòa thiên hạ trị muôn năm.
Ðường Tâm cửa Thánh dầu chưa vẹn,
Có buổi hoài công bước Ðạo tầm.
                                                                       Diêu Trì Kim Mẫu
12.
Phải giữ chơn linh đặng trọn lành,
Ngọc Hư toàn ngự đấng tinh anh.
Luật điều Cổ Phật không chừa tội,
Hình phạt Chí Tôn chẳng vị tình.
Chánh trực kinh oai loài giả dối,
Công bình vùa sức kẻ chơn thành.
Mũi kim chẳng lọt xưa nay hẳn,
Biết sợ xin khuyên cẩn thận mình.
                                                                       Lý Giáo Tông
13.
Tìm Ðạo mà chi khá hỏi mình,
Bến mê mới vững vớt quần sinh.
Vun trồng cội phúc ơn chan thấm,
Dong ruổi đường Tiên nghĩa tạc gìn.
Tâm chánh nương nhau dìu lối chánh,
Lòng thành nhờ lẫn lóng hơi thanh.
Thiên cơ tuy hẳn nên trường khảo,
Lướt khỏi ngàn thu quả đắc thành.

14.
Màn Trời đã vẹt ngút mây trương,
Bước tới đài hoa thấy tỏ tường.
Ngọc sáng non Côn đà gặp nẻo,
Lối mòn động Bích chớ lầm đường.
Chánh tà đôi nẻo tua tầm chước,
Hư thiệt muôn phần gắng định phương.
Mê tỉnh chuông khua phân biệt tiếng,
Rừng thiền nô nức loán mùi hương.
                                                                       Nhàn Âm Ðạo Truởng

CHÚ THÍCH:
Ðài hoa: Ý nói Ðài vinh quang. Ngọc sáng non Côn: Ngọc đẹp trong đá của núi Côn. Ðộng Bích: Bích Du Cung của Thông Thiên Giáo Chủ.
Cặp trạng: Gặp được Chánh đạo quí báu, Chớ lầm đường vào Tà đạo.

15.
Ðổi tục về Tiên sắc đượm nhuần,
Rưới chan cho khắp giọt hồng ân.
Rừng tòng thanh nhã say mùi Ðạo,
Bể khổ mênh mang vớt khách trần.
Linh dược đầy bầu là cội ái,
Kinh luân nặng túi ấy nguồn nhân.
Buồm trương lái vững chờ sông lệ,
Ðưa chiếc thuyền sen đến đảnh Thần.
                                                                       Cao Thượng Phẩm

CHÚ THÍCH:
Sông lệ: Ý nói: Biển khổ. Lệ là nước mắt. Thuyền sen: Chiếc thuyền do Phật Tổ lấy một cánh sen nơi cõi Cực Lạc Thế Giới tạo thành. Ðó là chiếc thuyền Bát Nhã. Ðảnh Thần: Núi Thần, chỉ cõi Tiên.
16.
Trau giồi cho xứng phận nga mi,
Tấn thối riêng lo kịp thế thì.
Thanh sử từng nêu gương nữ kiệt,
Hồng ân chi kém bạn nam nhi.
Lọc lừa chớ để đen pha trắng,
Lui tới đừng cho bạc lộn chì.
Hạnh đức điểm tô non nước Việt.
Muôn năm bia tạc tiếng còn ghi.
                                                           Bát Nương

CHÚ THÍCH:
Nga mi: Mày tằm, mày ngài, chỉ người con gái đẹp. Thanh sử: Sử xanh, ý nói sách lịch sử. Nữ kiệt: Người phụ nữ tài trí hơn người.
17.
Thiều quang nhặt thúc khuất màu xuân,
Trở bước quanh co rán liệu chừng.
Hứng giọt Ma Ha lau tục lụy,
Ngừa thuyền Bát Nhã thoát mê tân.
Trau tâm hiệp sức vun nền Thánh,
Dưỡng tánh chờ khi sạch bợn trần.
Phước gặp Tam Kỳ Trời cứu độ,
Gắng tu kịp buổi lướt Ðài Vân.

CHÚ THÍCH:
Giọt Ma Ha: Nước Thánh dùng trong phép Tắm Thánh và Giải Oan. Ma Ha thủy năng hủy oan nghiệt tội chướng chi đọa: Nước Ma Ha có khả năng tiêu hủy sự đày đọa do oan nghiệt tội chướng. Tục lụy: Nỗi phiền não nơi cõi trần. Ngừa: Chờ. Mê tân: Bến mê, chỉ cõi trần. Ðài Vân: Cái đài cất cao tới mây để vẽ hình và ghi tên các đại công thần thời nhà Hán. Ý nói đài vinh quang của người đắc đạo.
18.
Rẽ lối non sông thấy Ðộng đào,
Bừng con mắt tỉnh giấc chiêm bao.
Ðường gai gốc gắng lần qua khỏi,
Cảnh rạng ngần tua rán bước vào.
Mùi tục lần xa, vui đạo đức,
Cõi tâm rộng mở khổ giồi trau.
Nước dương rưới sạch trần ai cũ,
Bờ giác nương theo nguyệt rọi làu.

CHÚ THÍCH:
Ðộng đào: Cõi Tiên. Nước dương: Nước nhành dương, chỉ nước Cam Lồ. Bờ giác: Giác ngạn, bờ giác ngộ, chỉ cõi của người đắc đạo.

19.
Cần lo học Ðạo chí đừng lơi,
Phú quí sương tan lố bóng Trời.
Lợi lộc xôn xao rồi một kiếp,
Nghĩa nhơn tích trữ để muôn đời.
Làm lành sau cũng lành vay trả,
Chác dữ âu hay dữ vốn lời.
Mấy kẻ xét mình tâm tự cải,
Thân danh bể khổ mặc buông trôi.

20.
Lần lừa ngày tháng cảnh đưa xuân,
Ướm chổi huỳnh lương tỉnh dậy lần.
Rạng nẻo chung soi đèn Bạch Ngọc,
Dò đường xúm núp bóng Hồng Quân.
Hồi chuông cảnh tỉnh vang rừng Thánh,
Tiếng trống giác mê nhặt đỉnh Thần.
Biết Ðạo khá lo trau hạnh đức,
Dữ lành đợi buổi cũng cân phân.

21.
Ngày chầy dặm thẳng gắng đưa qua,
Chịu khổ trau tâm chí mới già.
Vẹt ngút mây xanh Trời tỏ rõ,
Quét lằn bụi đỏ thế phui pha.
Lòng trần gội sạch noi đường chánh,
Nét Ðạo gìn thanh lánh nẻo tà.
Ðèn huệ chực soi mau tiến bước,
Nơi miền Cực Lạc dễ đâu xa.

22.
Ðường về muốn vẹn để công trình,
Bóng nguyệt tua dò nẻo rạng thinh.
Xuân hé đã hay cơn ác lố,
Ðông tàn khá biết lúc Trời chinh.
Trau tài trau phận tua trau đức,
Biết thế biết nhân mới biết mình.
Dặm khổ qua rồi ngôi vị sẵn,
Hay chi thế tục chước cầu vinh.

23.
Nhiệm mầu Tạo hóa cuộc vần xây,
Thưởng phạt cũng do một buổi nầy.
Ðức trước hưởng thừa tâm vẹn giữ,
Nhân sau để dấu chí đừng lay.
Ðường mây thẳng gió hồng trương cánh,
Bước Ðạo êm chơn nguyệt rọi mày.
Dìu dắt sanh linh lo tế độ,
Thiên niên danh tạc chốn Vân Ðài.

24.
Liễu Huệ nhuần sương Liễu Huệ tươi,
Chiều Xuân nguyệt rạng vẻ hoa cười.
Màn Trời mây khỏa muôn sao lố,
Thuyền Ðạo buồm treo một sắc phơi.
Cội trước gió đưa hơi nhắn khách,
Rừng tòng khách giục cảnh chờ người.
Lần theo bước rạng non Thần đến,
Chớ luyến phồn hoa lụy đến nơi.

25.
Vun nền đạo hạnh khá rèn lòng,
Gặp hội đành vui chữ sắc không.
Cúc rải đường qua vang tiếng nhạn,
Rừng tà bóng khuất vẳng hơi thung.
Xuôi chiều đổ bến êm dòng bích,
Phải lúc nương mây chớp cánh hồng.
Nhuần gội ơn Trời âm chất vẹn,
Mau chơn ngày tháng đã qua đông.
CHÚ THÍCH:
Sắc Không: chỉ sự tu hành, do câu kinh trong Bát Nhã Tâm Kinh: Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc. Vắng hơi thung: Ý nói vắng bóng người tu hành. Cánh hồng: Cánh của con chim hồng.
26.
Rừng thung bóng nhựt đã hầu chinh,
Tỏ rạng gần nơi bước vẹn gìn.
Ách đất rắp nhồi trường náo nhiệt,
Cửa Trời kịp mở vớt quần sinh.
Nâng đời khá gắng trau nhơn đức,
Học Ðạo tua năng luyện tánh tình.
Khổ hạnh chí mong qui nẻo chánh,
Ngoài tai chớ chác miếng hư vinh.
           
CHÚ THÍCH:
Rừng thung: Chỉ cảnh chùa, nơi tu hành. Ách đất: Tai họa do đất gây ra, như động đất, núi lửa. Trường náo nhiệt: Nơi tranh giành danh lợi kịch liệt. Hư vinh: Cái vinh dự hảo huyền, không thật.
27.
Non chiều ác xế bóng Trời thâu,
Nẻo chánh may nương buổi đáo đầu.
Theo bước kịp thì tìm ánh sáng,
Ngừa thuyền ấy lúc lánh dòng sâu.
Soi gương hạnh đức trau lòng tục,
Hứng giọt từ bi rửa bợn sầu.
Nhặt thúc quang âm xuân đã lụn,
Liệu qua cho khỏi cuộc tang dâu.

CHÚ THÍCH:
Ðáo đầu: Ðến đầu cùng, ý nói việc đến lúc kết thúc. Ngừa thuyền: Chờ thuyền. Giọt từ bi: Giọt nước Cam lồ của Phật. Tang dâu: Ý nói Tang điền thương hải: Ruộng dâu biến thành biển xanh, chỉ cuộc đổi thay của Trời Ðất không lường trước được.

28.
Thìn trau đức tánh để nêu gương,
May gặp Ðạo mầu gắng liệu phương.
Cội Bắc chim về chiều ngã bóng,
Non Nam ác lố ánh tan sương.
Thuyền từ sông lệ buồm trương cánh,
Cảnh trí rừng thung khách lướt đường.
Ðộ chúng cứu đời công nghiệp để,
Thiên ân hưởng trọn khá lo lường.

CHÚ THÍCH:
Non Nam ác lố ánh tan sương: Ðạo mở ra ở nước VN như ánh mặt trời mọc, làm tan màn sương u ám. Thuyền từ: Thuyền từ bi của Phật, đó là chiếc thuyền Bát Nhã. Cảnh trí: Cảnh của người trí huệ, cảnh Tiên.
29.
Cành mai thơ thới đượm hơi xuân,
Dìu dắt đem nhau lại đảnh Thần.
Tích đức để lòng trau khổ hạnh,
Diệt phàm gắng chí thoát mê tân.
Lừng Trời vẹt ngút mây xây mịt,
Ðài ngọc khoe gương sắc rạng ngần.
Công nghiệp dồi dào âm chất đủ,
Long Hoa đợi hội hưởng Thiên ân.
CHÚ THÍCH:
Diệt phàm: Tiêu diệt các nét tầm thường thấp kém của mình, tức là phải tu thân. Ðài ngọc: Ðài vinh quang. Âm chất: Công đức thầm kín, không phô trương. Long Hoa đợi hội: Ðợi đến Hội Long Hoa.
30.
Ðã nhiều danh lợi bước đua tranh,
Nhọc xác lao tâm hỏi có thành?
Ác lố rọi tan lằn gió bụi,
Nguyệt lờ soi gượng bước công khanh.
Ðường tu ví sớm noi gương rạng,
Cội phúc mai sau hưởng quả lành.
Mộng ảo trò đời đâu mấy chốc,
Ngựa qua cửa sổ cuộc tan tành.
CHÚ THÍCH:
Bước công khanh: Ý nói bước đường làm quan. Ngựa qua cửa sổ: Chữ Hán là Bạch câu quá khích, ý nói thời gian qua rất mau.
31.
Day mặt Hồng Quân ngó địa hoàn,
Rưới chan vạn vật khối sinh quang.
Cõi Tiên mở rộng cung Ðâu Suất,
Nước Phật sửa an cảnh Niết Bàn.
Cứu thế quyết ngưng quyền Ðịa phủ,
Ðộ đời cố tạo phước nhơn gian.
Thần thông trói chặt Ma vương quái,
Dìu bước vạn linh đến cảnh nhàn.
CHÚ THÍCH:
Ðịa hoàn: Trái đất. Khối sinh quang: Cái khối phát ra ánh sáng để nuôi dưỡng sự sống cho chúng sanh. Cứu thế quyết ngưng quyền Ðịa phủ: Ðức Chí Tôn mở Ðạo Cao Ðài cũng là mở Ðại Ân Xá Kỳ Ba nên ra lịnh đóng cửa Ðịa ngục và mở rộng cửa Trời.

32.
Viết thử Thiên thơ với nét trần,
Hầu sau bền giữ nghiệp Hồng Quân.
Chuyển luân thế sự đưa kinh Thánh,
Trừ diệt tà gian múa bút Thần.
Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng,
Nầy xem nước Lỗ biến hình lân.
Công danh nước Việt tay đành nắm,
Mưa mốc dân sanh gắng gội nhuần.
                                                           Lý Giáo Tông

CHÚ THÍCH:
Kìa lóng non Kỳ reo tiếng phụng: Nghe tiếng phụng gáy ở núi Kỳ Sơn, báo hiệu có vua Thánh ra đời là Văn Vương, mở ra nhà Châu. Nước Lỗ biến hình lân: Nước Lỗ có kỳ lân xuất hiện báo hiệu cho biết có Thánh nhơn (Ðức Khổng Tử) ra đời phục hưng Nho giáo.

33.
Ðường mây sẵn lối gặp may duyên,
Nâng gánh xa thơ sửa mối giềng.
Anh tuấn đất gìn nung khí phách,
Uy linh Trời giữ tạc đài liên.
Hồn về nước cũ đời nương thế,
Hạc lại tùng xưa đức lập quyền.
Ðảnh Việt chờ qua cơn bão tố,
Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.
                                                                                  Cao Thượng Phẩm
CHÚ THÍCH:
Ðường mây: Ðường công danh. Xa thơ: Xe và sách, ý nói nền văn hóa của một dân tộc. Mối giềng: Ý nói Tam cang và Ngũ thường, dịch là 3 giềng và 5 mối. Uy linh: Oai quyền thiêng liêng. Ðài liên: Ðài sen, tòa sen.
34.
Có hiệp đem đường nẻo mới thông,
Phân chia cội Ðạo uổng vun trồng.
Quanh đường chớ cậy chơn Kỳ Ký,
Ngược gió tài chi sức Hộc Hồng.
Bể khổ mênh mang lo giải khổ,
Nền công nghiêng ngửa gắng nên công.
Phong ba dầu được dìu qua khỏi,
Nhớ bởi chung nhau kết dải đồng.
CHÚ THÍCH:
Kỳ Ký: Ngựa Kỳ và ngựa Ký, là loại thiên lý mã, chạy mau và xa. Hộc Hồng: Chim Hộc và chim Hồng, loại chim cánh rất khỏe, bay cao và xa. Dải đồng: Cái dây thắt lưng bằng lụa dùng tặng cho nhau để biểu thị tình cảm khắng khít. Kết dải đồng: Kết chặt tình thương mến.

35.
Bạch Vân nhàn lạc khỏe thân già,
Thương kẻ nặng mang nợ quốc gia.
Ðời rạng lưu tồn gương nhựt nguyệt,
Ðạo thành vạn đại chiếu sơn hà.
Thiện nam gắng giữ nền nhân nghĩa,
Chơn nữ hằng ghi thuyết cộng hòa.
Trách nhiệm thiệt hành cho vẹn phận,
Hồng ân chung hưởng buổi âu ca.
                                                                       Thanh Sơn Ðạo Sĩ
CHÚ THÍCH:
Bạch Vân: Bạch Vân Ðộng. Bài thi nầy của Ðức Thanh Sơn Ðạo Sĩ, Ngài là Sư Phó của Bạch Vân Ðộng nơi cõi thiêng liêng. Thiện nam: Người nam lành. Chơn nữ: Người nữ chơn thật. Âu ca: Ca hát vui vẻ, ý nói thời thái bình thịnh trị.

36.
Trần thế hầu gây náo nhiệt trường,
Lánh nguy nguồn Ðạo vẹn tìm phương.
Vùi sầu nay gắng chung vai gánh,
Hưởng phước sau may hiệp bước đường.
Cay đắng lần soi gương trí huệ,
Chia phui chờ trải lối tang thương.
Dặn mình tua chặt trong gan tấc,
Sau trước lòng son giữ đặng thường.
CHÚ THÍCH:
Trí huệ: Trí não được khai sáng đặc biệt, biết được những điều huyền vi của Trời Ðất. Tang thương: Do thành ngữ: Tang điền thương hải, ý nói việc đời luôn luôn thay đổi không lường được. Lòng son: Tấm lòng tốt đẹp không thay đổi.
37.
Biến chuyển Trời Nam cuộc đảo huyền,
Trả vay cho sạch vết oan khiên.
Trường Ðời đem thử gan Anh Tuấn,
Cửa Ðạo mới ra mặt Thánh Hiền.
Ðau khổ rán gìn nhơn nghĩa vẹn,
Tang thương chờ hưởng huệ ân riêng.
Non sông Việt chủng ngày êm lặng,
Chung sức cùng nhau đức lập quyền.
                                                                       Thanh Sơn Ðạo Sĩ

38.
Những là khổ nhọc chịu cơ đời,
Hạnh phúc thử nhìn đặng mấy mươi.
Vinh nhục đòi phen vui lẫn khóc,
Ghét thương lắm lúc giận pha cười.
Ðường tâm tự tỉnh chơn ra giả,
Nẻo đức gồm theo thiệt hóa chơi.
Thoát tục ví ai tìm nẻo Thánh,
Bến mê lướt sóng đến ven Trời.
                                                                       Bát Nương

39.
Bóng dương tỏ rạng lố chơn mây,
Ðầm ấm hơi xuân nở mặt mày.
Tranh thế bớt pha lằn bợn trược,
Cuộc đời thêm rạng vẻ thanh bai.
Trường Tiên mở rộng chơn du khách,
Nẻo hoạn buông khơi trí đặc tài.
Lọc nước rửa đời Trời để dấu,
Riêng che Nam đảnh một cân đai.

40.
Ác lồng nhựt rạng tản sương mơi,
Gặp lối đường quanh khó tách dời.
Thuyền Ðạo đẩy đưa lằn sóng biển,
Bước đời dùn thẳng bước thang Trời.
Ðai cân mảng luyến chưa nên phận,
Danh lợi ham giành khó vẹn ngôi.
Nhắn nhủ phồn hoa mau thức tỉnh,
Lần lừa bỏ quá kiếp xuân thời.

41.
Lồng sương gió thoảng bặt hơi xuân,
Ðể bước tìm nơi Ðạo gội nhuần.
Sóng khỏa thuyền về còn lắc lở,
Rừng chờ khách trở buổi cân phân.
Trau gương hạnh đức pha lòng tục,
Giồi trí thanh cao giữ tánh Thần.
Thưa nhặt thoi đưa trời xế bóng,
Xét mình một khắc một mau chân.

42.
Dìu dắt tìm ra lối lạ lùng,
Bóng Trời xúm xít đỡ nương chung.
Dài đường chớ ngán con Kỳ Ký,
Ngược gió đừng nao cánh Hộc Hồng.
Nhướng mắt tua dò theo kẻ trí,
Thìn lòng khá gắng đắp nền công.
Sen tàn cúc nở qua ngày tháng,
Nhặt bước đường hoa đến cội tùng.

43.
Cái kiếp hồng nhan kiếp đọa đày,
Phải làm cho gái hóa ra trai.
Linh oai vẻ ngọc là gươm sắc,
Mềm mỏng hình hoa ấy phép tài.
Phòng tía cất thành hình thổ võ,
Cung loan lập giống dạng Cao Ðài.
Muốn đi cho tận trường sanh địa,
Phải đổi giày sen lấy thảo hài.
CHÚ THÍCH:
Vẻ ngọc: Sắc đẹp của phụ nữ. Gươm sắc: Cây gươm bén. Hình hoa: Hình dáng của phụ nữ. Phòng tía: Cái phòng sơn màu tím, chỉ chỗ ở của đàn bà con gái. Thổ võ: Ðất đai của một nước. Cung loan: Nơi ở của người vợ. Trường sanh địa: Cõi TLHS, vì con người ở nơi đó thì trường sanh bất tử. Giày sen: Giày của người phụ nữ. Thảo hài: Giày bằng cỏ của người tu hành.
44.
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
Cửu Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiệp Thiên đứng trị vì.
Thành pháp dìu đời qua nẻo khổ,
Nên công giúp thế lánh cơn nguy.
Quyền hành từ đấy về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì.
CHÚ THÍCH:
Bài thi 44: Cặp trạng cho biết Ngọc Hư Cung trở pháp, giao cho Hiệp Thiên Ðài nắm quyền nền Ðạo. (Xem bài Thánh Ngôn 164)
45.
Ðào Nguyên lại trổ trái hai lần,
Ai ngỡ Việt Thường đã thấy lân.
Cung Ðẩu vít xa gươm xích quỉ,
Thiềm cung mở rộng cửa hà ngân.
Xuân thu định vững ngôi lương tể,
Phất chủ quét tan lũ nịnh thần.
Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc,
Mở đường quốc thể định phong vân.
                                                           Bát Nương

CHÚ THÍCH:
Ðào Nguyên: Nguồn đào, chỉ cảnh Tiên. Việt Thường: Tên xưa của nước VN. Xích quỉ: Quỉ đỏ. Thiềm cung: Chỉ mặt trăng. Hà ngân: Ngân hà, sông Ngân, chỉ biển khổ. Xuân Thu: Cổ pháp của Nho giáo, chỉ đạo Nho. Phất chủ: Cổ pháp, cũng là bửu bối của đạoTiên.

46.
Mở rộng đường mây rước khách trần,
Bao nhiêu tình gợi nhắn nguyên nhân.
Biển mê cầu ngọc liên phàm tục,
Cõi thọ sông Ngân tiếp đảnh Tần.
Chuyển nổi Càn khôn xây võ trụ,
Nhẹ nâng nhựt nguyệt chiếu Ðài Vân.
Cầm gươm huệ chặt tiêu oan trái,
Dìu độ quần sanh diệt quả nhân.
                                                                       Bát Nương

CHÚ THÍCH: Cầu ngọc: Cây cầu thấy trắng như ngọc, bắc qua biển khổ. Gươm huệ: Cây gươm trí huệ. Người tu dùng trí huệ của mình như cây kiếm để quyết thắng giặc vô minh và phiền não.
  Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  [ 9 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét