Chúa nhựt, 24-10-1926 (âl
18-9-Bính Dần)
THÍCH CA MÂU NI PHẬT tá
danh CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
Vì Tân Luật chưa ra nên Thầy
phải giải:
Ðã có Thánh Tượng Thầy thì
là cốt Ngọc Hoàng con để lại chẳng nghĩa chi hết. Thầy nói cho các con rõ, vì cớ
nào trước từ Nhứt Tổ chí Lục Tổ
thì thờ Thầy ngồi trước, vì trước là lớn phải vậy.
thì thờ Thầy ngồi trước, vì trước là lớn phải vậy.
Khai Thiên Ðịa vốn Thầy,
sanh Tiên, Phật cũng Thầy. Thầy đã nói một Chơn thần mà biến Càn khôn Thế giới
và cả nhơn loại.
Thầy là chư Phật, chư Phật
là Thầy.
Các con là chư Phật, chư
Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có
các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.
Thầy khai Bát Quái mà tác
thành Càn khôn Thế giới, nên mới gọi là Pháp; Pháp có mới sanh ra Càn khôn Vạn
vật rồi mới có người, nên gọi là Tăng. Thầy là Phật chủ cả Pháp và Tăng, lập
thành các đạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy.
Thầy lập Phật giáo vừa khi
Khai Thiên lập Ðịa, nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo, rồi mới tới Nho giáo
Nay là hạ nguơn hầu mãn,
phải phục lại như buổi đầu, nên phải phản tiền vi hậu.
Tỉ như Tam giáo qui nhứt
thì:
Nho là trước,
Lão là giữa,
Thích là chót.
Nên Thầy phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần, mà đưa chúng nó lại Vô Vi chi Khí, chính là Niết
Bàn đó vậy. . . . . . . . . . . . .
Còn cổ lễ cúng thì: Rượu
là Khí, Bông là Tinh, Trà là Thần.
CHÚ THÍCH:
Nơi giáng cơ, trong TNHT.
I - 1928, 1931 ghi là Phước Tinh Tự; trong ÐS.II.7, lại ghi là Phước Linh Tự.
Chỗ nhiều chấm gần chót xin chép bổ sung ra sau đây:
"Còn như Hộ Pháp đã
xuống trần rồi thì thờ chi nữa, các con nên lập ra ba bài vị đề: HỘ PHÁP, THƯỢNG
PHẨM bên hữu, THƯỢNG SANH bên tả."
Nhứt Tổ của Phật giáo
Trung hoa: Bồ Ðề Ðạt Ma.
Lục Tổ của Phật giáo Trung
hoa: Huệ Năng.
Phản tiền vi hậu: Trở ngược
cái trước làm cái sau.
Vô Vi chi Khí: Ðó là Khí
Hư Vô, chất Khí nguyên thỉ sanh ra Ðức Chí Tôn. Cổ lễ: Nghi lễ xưa.
Niết Bàn: phiên âm từ tiếng
Phạn: Nirvana, có nghĩa đen là: Ra khỏi rừng phiền não luân hồi. Ðó là cảnh giới
hoàn toàn sáng suốt, an vui sung sướng, của những người đắc đạo.
45 . Thứ tư,
27-10-1926 (âl 21-9-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO
ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
L'humanité souffre de toutes sortes de
vicissitudes.
J'ai envoyé Allan Kardec, J'ai envoyé
Flammarion comme J'ai envoyé Élie et Saint Jean Baptiste, précurseurs de
l'avènement de Jésus Christ; l'un est persécuté, et l'autre tué. Et par qui?
Par l'humanité. Mon fils est aussi tué par vous. Vous ne le vénérez qu'en Esprit
et non en Sainteté.
Je voulais causer avec vous en une seule fois
au temps de Moise sur le mont Sinai, vous ne pouviez me comprendre.
La promesse que J'ai faite à vos ancêtres pour
votre Rédemption, la venue du Christ est prédite, vous ne voulez pas en tenir
compte.
Il faut que Je me serve moi-même maintenant
d'un moyen plus spirituel pour vous convaincre. Vous ne pourrez pas nier devant
le Grand Jugement Général que Je ne sauve pas l'humanité par tous moyens
plausibles. Quelque indulgent que Je sois, Je ne pourrai effacer tous vos
péchés depuis votre création.
Le monde est dès maintenant dans les ténèbres.
La Vertu de Dieu est détruite, la haine universelle s'envenime, la guerre
mondiale est inévitable.
La race françise et la race annamite sont mes
deux bénites. Je voudrais que vous soyez unis pour toujours. La
NouvelleDoctrine que J'enseigne a pour but de vous mettre une dans communauté
d'intérêt et de vie.
Soyez donc unis par ma volonté et prêchez au
monde la paix et la concorde.
En voilà assez pour vous ce soir.
Bài
dịch Việt văn của Hội Thánh:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI TIÊN ÔNG ÐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Nam phương
Nhơn loại hiện chịu đau khổ bởi nhiều cuộc tai
biến.
Thầy đã sai Allan Kardec, Flammarion, cũng như Élie và Thánh Jean Baptiste, là những bực tiền Thánh báo tin ngày giáng
sinh chấn động của Chúa Cứu Thế Jésus Christ, nhưng chúng nó, đứa thì bị hành hạ, đứa
khác bị giết chết. Bởi ai? Cũng bởi loài người. Chính con của Thầy cũng bị các con giết mất. Các con chỉ biết tôn sùng
Người bằng Tinh thần chớ không bằng Thánh chất.
Thầy đã muốn nói với các
con chỉ một lần mà thôi, hồi thời kỳ Thánh Moise trên ngọn núi Sinai, nhưng các
con không hiểu được ý Thầy.
Lời hứa của Thầy với Tổ
tiên các con về việc xin chuộc tội cho các con và ngày Giáng sinh của Chúa Cứu
Thế là việc đã có sấm tiên tri rồi mà các con không chịu quan tâm đến.
Nay Thầy phải tự tìm lấy một
phương pháp huyền diệu hơn để thâu phục các con. Các con sẽ không còn chối cãi
được trước Tòa Phán Xét Chung rằng Thầy không cứu vớt nhơn loại bằng những
phương pháp công hiệu. Dầu Thầy có khoan dung cách mấy đi nữa, Thầy cũng không
thể bôi xóa được những tội lỗi của các con đã làm từ lúc tạo thành nhơn loại.
Từ nay thế giới phải chịu
trong vòng hắc ám. Tinh thần đạo đức đã tiêu mất, sự thù hận tràn ngập khắp
hoàn cầu. Chiến tranh thế giới không thể tránh khỏi.
Dân tộc Pháp - Việt là hai
giống dân được nhiều huệ phúc nhất. Thầy muốn sao cả hai được hòa hiệp nhau mãi
mãi. Giáo lý của Thầy có mục đích dạy dỗ các con hòa hợp nhau trong sự sống chung
cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt.
Vậy các con hãy chung hiệp
nhau mãi mãi theo ý muốn của Thầy và hãy truyền bá khắp hoàn cầu thuyết hòa
bình tương thân tương ái.
Thôi có bao nhiêu đó cho
các con đêm nay.
CHÚ THÍCH:
Allan Kardec: Nhà Thần
Linh Học Pháp, có công truyền bá Thần Linh Học ở nước Pháp và nhờ Ông mà Học
thuyết Thần Linh Học được hệ thống hóa. Ông có viết 2 quyển sách Thần Linh Học
là: Le livre des Esprit (Sách về Thần linh) và Le livre des Médiums.
Camille Flammarion
(1842-1925): Nhà Thiên văn theo Thần Linh Học, tiếp nối Allan Kardec truyền bá
Thần Linh Học ở nước Pháp.
Moise: Nhà lãnh đạo của
dân Do Thái thời Thượng cổ, lúc dân Do Thái bị các Pharaon Ai Cập bắt làm nô lệ.
Moise được Ðức Chúa Trời chọn, vâng lịnh Ðức Chúa Trời dẫn dắt dân Do Thái
thoát khỏi ách nô lệ, đến định cư và dựng nước ở đồng bằng phì nhiêu dưới chân
núi Sinai. Ðức Chúa Trời giao cho Moise 10 Ðiều Răn để dạy dân Do Thái, các
giáo lý, cách thờ phượng Ðức Chúa Trời, tạo thành đạo Do Thái thời Nhứt Kỳ Phổ
Ðộ.
Jean Baptiste: Thánh Jean
Baptiste là nhà tiên tri sửa soạn sự xuất thế của Chúa Jésus. Ông làm phép Giải
Oan cho Chúa ở bờ sông Jourdain và xác định đây là Chúa Cứu Thế. Ông bị tử đạo
năm 28 do lịnh của Salomé. Lễ kỷ niệm Ông hằng năm vào ngày 24 tháng 6.
Élie: ở Thi-sê-be, nhà
tiên tri người Do Thái thời vua Do Thái là A-hap, sau thời Thánh Moise xa lắm,
vâng lời Ðức Chúa Trời đến ở khe Kê-rit, đối ngang sông Jourdain. Élie với học
trò là Élisée, vâng lịnh Ðức Chúa Trời, đi đến bờ sông Jourdain, Élie lấy áo
tơi cuốn lại đập trên nước thì nước sông rẽ hai cho 2 người đi qua sông, rồi
Élie được Ðức Chúa Trời rước lên Trời trong một cơn gió lốc. Élisée tiếp nối
Élie làm tiên tri của dân Do Thái.
46 . Ngày 28-10-1926 (âl 22-9-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
DIEU TOUT PUISSANT qui vient sous le nom de CAO
ÐÀI
pour dire la Vérité en Annam
M . . . et V . . . Venez près d'ici.
Croyez-vous qu'il est impossible à Dieu de
faire ce qu'il veut faire.
M . . . , tu es désigné par Moi pour accomplir
une tâche ingrate mais humanitaire. Tu relèves par tes nobles sentiments la
décadence d'une race millénaire qui a sa civilisation.
Tu te sacrifies pour lui donner une vraie
morale. Voilà une toute faite pour ton oeuvre. Lis toutes mes Saintes Paroles.
Cette Doctrine sera universelle. Si l'humanité la pratique, ce sera la paix
promise pour toutes les races. Tu feras connaitre à la France que l'Annam est
digne d'elle.
Tu as assez pour ce soir.
Bài
dịch Việt văn của Hội Thánh:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
THƯỢNG ÐẾ TOÀN NĂNG giáng thế tá danh CAO ÐÀI
truyền Chơn lý tại Việt Nam
M . . . và V . . . Các con hãy lại gần đây.
Các con tưởng rằng Ông Trời không thể làm cái
gì mà Ông muốn sao?
M . . . , Thầy chỉ định con lãnh một vai trò bạc
bẽo mà nhân đạo. Con vì tâm tình cao thượng mà cứu vãn sự sụp đổ của
một dân tộc đã hấp thụ một nền văn minh tối cổ.
Con tự hy sinh để đem lại cho dân tộc ấy một nền
đạo lý chơn chánh. Ðó là công nghiệp dành sẵn cho con. Hãy đọc các Thánh Ngôn của
Thầy. Giáo lý của Thầy sẽ là đại đồng. Nếu nhơn loại biết tu hành thì đó sẽ là
nền hòa bình hứa hẹn chung cho tất cả các dân tộc. Con sẽ tỏ cho nước Pháp biết, nước Việt Nam là nước xứng đáng đối với Pháp.
Thôi có bấy nhiêu cho con
hôm nay.
CHÚ THÍCH:
M . . . và V . . .: Ðại úy
Paul Monet và người bạn tên Vidal. Ông Monet là nhà Thần Linh học Pháp, hôm đó
ông đến hầu đàn, thấy đang cầu cơ. Ông thử làm phép cắt điển.
Nếu là Tà điển thì phải xuất
ra liền, còn điển của Thánh Tiên thì không ảnh hưởng. Lúc đó, Ðức Chí Tôn đang
giáng cơ, nên kêu ông Monet và ông Vidal đến để Ðức Chí Tôn dạy đạo.
47 . Ðại Ðàn Chợ Lớn [Nhà Ngài Lê văn Trung]
Ngày 29-10-1926 (âl
23-9-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, chư nhu,
chư ái nữ.
Các con nghe:
Thầy buộc phải nói rõ cho
các con đừng lầm mà trách Thầy. Cha hiền chả biết hành hạ con cái bao giờ. Thầy
đã đến mà dìu dắt từ đứa thì lẽ nào lại đành lòng xô đuổi.
Thầy thấy các con bị phép
thử thất Ba Trấn lập thành thì đã hiểu nhiều đứa bị hành. Thầy ngậm đau nuốt thảm
ngồi nhìn. Thầy chẳng để thử thất, Ba Trấn trách Thầy vì yêu mến quá lẽ mà làm
mất hết công bình, nhứt là Lý Thái Bạch kêu nài hơn hết.
Dầu Quan Âm và Quan Thánh
xin cũng chẳng đặng. Nhứt là buổi thử thất ấy, lại nhằm ngày khai Thánh Thất
thì các con đủ hiểu là hại dường nào, song phải dằn lòng chịu vậy.
Các con ngã thì tại nơi Thầy.
Nếu Thầy biết các con nhẹ tính thì thế nào cũng chẳng chịu. Lại để lời tiên tri
mà dặn trước, nào dè Thánh Ngôn, các con không đọc, lời Thầy nói cũng như
không, mới ra tội lỗi các con phạm thượng thế ấy.
Vậy từ đây, quyền thưởng
phạt đã giao vào tay Lý Thái Bạch. Các con liệu mình mà cầu rỗi nơi Người. Thầy
dạy dỗ, các con không nghe, đợi có hình phạt thì các con chịu lấy.
(Ð . . . Q . . . thượng sớ).
Cười . . .
Ð . . . Q . . . , cả môn đệ
Thầy duy có biết một chớ không biết hai. Kẻ nào cưu tâm chia phe phân phái là đứa
thù nghịch của Thầy. Con hiểu à!
Con biết rằng, Thầy hằng dặn
cả môn đệ, nhứt nhứt sự chi cũng phải đợi lịnh Thầy. Thầy có cho phép con cầu đạo
và mọi phép bí tích chi chi cho mẹ T . . . chăng? Vì xảo trá ấy mà làm cho T .
. . phải mất đức tin nhiều lắm, con hiểu à!
Cái kho bạc ấy nó giục
lòng con lắm hả?
T . . .! Con phải định
tánh mà xét nét lấy. Thầy chẳng cần nói.
Trung, Trang, Tương! Ba
con phải nhớ những điều Thầy phú thác . . . Thầy đã dặn, hiểu à!
TÁI CẦU:
LÝ THÁI BẠCH
Hỉ chư đạo hữu. Thiên phong bình thân.
Từ đây Thầy đã giao quyền
thưởng phạt về nơi tay Bần đạo. Vậy các đạo hữu khá hết lòng lo lắng vun đắp nền
đạo cho vững vàng, hiệp ý với Thiên cơ mà bước lần lên địa vị cao thượng, chớ sụt
sè ôm thói mờ hồ thì đã uổng công trình cực nhọc từ bấy lâu nay, lại thêm chẳng
đặng theo Thánh ý của Thầy, là bậc Chí Tôn đã hết sức nhọc nhằn cùng sanh
chúng.
Mở một mối đạo chẳng phải
là sự thường tình, mà sanh nhằm đời đặng gặp một mối đạo cũng chẳng phải dễ. Muốn
lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ
có công, có phạt mới răn đặng lòng tà vạy.
Thưởng phạt tuy chẳng phải
hữu hình, nhưng là một sự mừng vui, chưa có bậc cao thượng ở thế nào bằng, và một
sự buồn bã nào sánh đặng. Dầu có ăn năn hối hận mấy kiếp, ngày giờ cũng đã qua
rồi. Ngôi Cực Lạc vẫn có người choán hết.
Phần nhiều các đạo hữu dày
công mà xây đắp nền đạo, nhưng sự ham muốn còn bôn chôn theo tình thế. Công đã
nhiều mà bước tới nữa dường như ngán bước, gặp sự gay go đã mỏn lòng. Than
thay! Tiếc thay!
Ðặng bậc Chí Tôn cầm quyền
thế giới dìu dắt, rửa lỗi, mà chẳng bươn chải cho kịp thì, để đua nhau nghĩ
tính về miếng đỉnh chung, nếu Thầy chẳng đại từ đại bi thì công quả đã chảy
theo dòng nước.
Từ đây Bần đạo phải để ý
dìu dắt bước đường cho các đạo hữu, phải gắng công thêm nữa cho hiệp với cơ Trời.
Ai hữu phước thì địa vị đặng
cao thêm, ai vô phần thì bị đọa Tam pháp. Phước phần cũng khó lựa người, rủi rủi
may may đừng trách nơi Bần đạo.
Bần đạo xin chào các đạo hữu.
Bần đạo kiếu.
CHÚ THÍCH:
Kể từ ngày nay,
29-10-1926, Ðức Chí Tôn giao quyền thưởng phạt Chức sắc cho Ðức Lý Thái Bạch,
Nhứt Trấn Oai Nghiêm, kiêm nhiệm Giáo Tông Ðại Ðạo.
Phép thử thất Ba Trấn lập
thành: Cách thử thất do Tam Trấn Oai Nghiêm lập ra để chọn lọc Chức sắc làm cho
giá trị thêm cao. Thử thất là bày ra cuộc thi khả năng đạo đức, thử xem ai chịu
nổi thì đậu, ai không chịu nổi thì rớt mất. Ba Trấn là Tam Trấn gồm: Lý Thái Bạch,
Quan Âm Bồ Tát, Quan Thánh Ðế Quân.
Ð. . Q. . .: Ngài Trần Ðạo
Quang, Quyền Thượng Chưởng Pháp.
T. . .: (?)
Cưu tâm: Mang lấy lòng dạ.
Phép bí tích: Các phép thuật
huyền diệu bí truyền.
Miếng đỉnh chung: Miếng mồi
giàu sang. Ðỉnh chung là cái vạc và cái chuông. Mạnh Thường Quân ở nước Tề,
giàu sang tột bực, có lòng chiêu hiền đãi sĩ, trong nhà luôn luôn có vài ngàn
tân khách để lo bàn việc ích nước lợi dân. Do đó phải nấu cơm bằng vạc, khi mời
ăn cơm thì đánh chuông.
Ðọa Tam pháp: Nếu tội phạm
Thiên điều thì bị đọa Tam đồ bất năng thoát tục. Nếu phạm các tội nặng khác như
thập ác, ngũ nghịch thì bị đọa vào ba đường khổ trong Lục đạo luân hồi. Ba đường
khổ nầy theo Phật giáo là: Ðịa ngục, Ngạ quỉ, Súc sanh.
48 . Ngày 11-11-1926 (âl 7-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ,
chư nhu.
Ng . . . nghe Thầy:
Nghiệp thành trước đã có Ơn Trên,
Công quả độ sanh khá vẹn đền.
Ðạo đức thìn soi gương trí huệ,
Nguồn đào đoạt vị mới hầu nên.
Hai con đã có lòng vun nền
đạo đức, phải khổ tâm thêm nữa mà giữ cho tròn phận sự. Mùi chung đỉnh, bả vinh
hoa có khác chi ngọn cỏ phơi sương, vừng mây giữa gió. Nét hạnh đức là phương
hay để dìu dắt các con bước lên con đường Cực Lạc, tránh khỏi đọa tam đồ.
Thầy vì đức háo sanh, nên
chẳng kể bực Chí Tôn cầm quyền thế giới, đến lập Ðại Ðạo Tam Kỳ trong lúc hạ
nguơn nầy mà vớt sanh linh khỏi vòng khổ hải. Ai biết đạo tức là có duyên phần,
ai vô đạo tức là số chịu hình khổ luân hồi. Phải mau chơn, bằng luyến ái sự thế
thì sau ăn năn rất muộn.
Than ôi! Thầy đã là Ðấng lập
khổ hình, chiếu theo phép công bình của Tạo hóa, nhưng thấy nhơn sanh càng ngày
càng bước vào con đường hắc ám, để đem số phận buộc vào đó, thì Thầy cũng bắt
đau lòng, nhưng chẳng lẽ bỏ phép công vì sanh chúng.
Ấy vậy, Ðại Ðạo Tam Kỳ chẳng
khác chi một trường thi công quả. Nếu biết ăn năn trở bước lại con đường sáng sủa,
giồi tâm trau đức, đặng đến hội diện cùng Thầy, thì mới đạt đặng địa vị thanh
cao trong buổi chung qui cho.
Chúng sanh khá nghe và xét
mình cho lắm.
CHÚ THÍCH:
Ng . . .: (?) Thìn: Gìn giữ
cho bền.
Nguồn đào: Chữ Hán là Ðào
nguyên, chỉ cõi Tiên.
Mùi chung đỉnh: Cái mùi
giàu sang. Dùng chữ mùi để tỏ ý chê bai. Bả: Miếng mồi.
Bả vinh hoa: Cái mồi giàu
sang vinh hiển.
Con đường Cực Lạc: Con đường
đưa tới cõi CLTG.
Sanh linh: Chúng sanh, các
chơn linh sống nơi cõi trần.
Duyên phần: Cái duyên và
cái phần tốt đẹp được hưởng do kết quả của việc làm đạo đức trong kiếp trước.
Hình khổ luân hồi: Việc
luân hồi chuyển kiếp là một hình phạt khổ sở cho những người không đủ công đức
đắc đạo.
* Ðây là lần thứ ba, Ðức
Chí Tôn nói: Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là một trường thi công quả. Ðức Chí Tôn nói
lần thứ nhứt nơi bài Thánh Ngôn 17, lần thứ nhì nơi bài 24, lần thứ ba nơi bài
48 nầy. Trong thời kỳ Ðại Ân Xá nầy, môn thi là Công quả. Ðắc đạo cùng chăng là
do Công quả.
49. Ô Môn.
Ngày 12-11-1926 (âl
8-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
K . . .
Nếu các con hiểu rõ cơ huyền
diệu của kiếp luân hồi con người, chẳng phải như thói thường tình định liệu,
thì con không buồn và cũng không oán trách Thầy.
Nơi Bạch Ngọc Kinh, cả thảy đều là con cái của Thầy,
tức là anh em với nhau.
Cái phẩm vị của các con phải
buộc tái sanh nhiều kiếp mới đến địa vị tối thượng mình là nơi Niết Bàn. Một lời
nói với nhau cũng đủ cả hai xuống thế mà khuyên giúp lẫn nhau. Con chẳng nên gọi
oan nghiệt.
Còn đạo mới khai lập, tuy
xuất hiện chưa đầy một năm, chớ chư Tiên, chư Phật đã lập cùng cả Năm Châu. Chẳng
khác nào khi trước, Nhơn đạo chưa mở thì đã có Châu Công truyền trước.
Thánh đạo Jésus chưa ra đời
thì
đã có Moise, Élie, Gérimie, Saint Jean Baptiste.
Ðạo Tiên Nguơn Thỉ chưa ra đời thì có Hồng Quân Lão Tổ, Lão Tử, Thông Thiên Giáo chủ
truyền đạo.
Phật Thích Ca chưa ra đời thì đã có Nhiên Ðăng
Cổ Phật và Brahma truyền đạo.
Thầy chưa giáng cơ lập đạo tại nước Nam, chớ
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, dùng huyền diệu nầy mà truyền đạo cùng vạn quốc.
CHÚ THÍCH:
Oan nghiệt: Oan là thù giận, nghiệt là nghiệp
ác. Oan nghiệt là những thù giận mà mình gây cho người trong kiếp trước tạo thành nghiệp ác báo hại mình trong kiếp
hiện tại.
Châu Công: Ông Châu Công Ðán, con vua Văn
Vương, chế ra Lễ Nhạc, nghi thức nơi triều đình, trật tự trong gia tộc, viết ra
Hào Từ để chú giải mỗi hào trong 64 quẻ kinh Dịch.
Moise, Élie, Saint Jean Baptiste: (Xem Chú
thích bài 45)
Gérimie: Nhà Tiên tri Do Thái sau thời Ông
Élie. Ðức Chúa Trời phán cùng Gérimie: "Nầy Ta đã đặt ra những lời Ta
trong miệng ngươi.". Ðức Chúa Trời dạy dân Do Thái qua sự truyền giảng của
Gérimie.
Hồng Quân Lão Tổ: Một hóa thân của Thượng Ðế. Theo Truyện Phong Thần, Hồng Quân Lão Tổ có ba học trò là: Lão Tử, Nguơn Thỉ Giáo chủ Xiển giáo, Thông Thiên Giáo Chủ Triệt giáo. Học trò Xiển
giáo và học trò Triệt giáo thường có chuyện tranh chấp nhau, khiến hai vị Giáo
chủ vì binh học trò mà bất hòa. Hồng Quân Lão Tổ phải can thiệp và phân xử.
Khi Ðức Chí Tôn chưa mở Ðạo
Cao Ðài ở nước VN, Ðức Chí Tôn đã cho các Ðấng dùng huyền diệu cơ bút mở đạo ở
các nơi trên thế giới như: Thần Linh Học ở Âu Mỹ Châu, Thông Thiên Học ở Mỹ và Ấn
Ðộ, đạo Omoto ở Nhựt, đạo Minh Sư ở Trung hoa, vv . . .
50 . THÁNH GIÁO NGÀY KHAI ÐẠO:
Khai Ðạo tại chùa Gò Kén
(Từ Lâm Tự) Tây Ninh.
Ngày 18-11-1926 (âl
14-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ.
Nữ phái nghe Thầy khai Tịch
Ðạo:
HƯƠNG tâm nhứt phiến cận Càn khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.
Lâm thị: phong vi Giáo Sư,
lấy Thiên ân Hương Thanh.
Ca thị: phong vi Phó Giáo
Sư, lấy Thiên ân Hương Thế.
Ðường thị: đã thọ mạng
Thiên sai, cứ giữ địa vị mình.
Còn cả chư ái nữ, Thầy sẽ
lập đại hội cho đủ mấy vị rồi sẽ phong sắc một lần.
Thầy ban ơn cho các con, cứ
hành lễ theo lời dặn. Thăng.
CHÚ THÍCH:
Bài thi Tịch Ðạo Nữ phái,
viết ra chữ Hán sau đây:
Hương tâm nhứt phiến cận Càn Khôn, 香心一片近乾坤
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn. 慧德修真度引魂
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng, 一念觀音垂保命
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn. 千年等派守生存
GIẢI NGHĨA:
- Một tấm lòng thơm gần Trời
Ðất,
- Cái đức sáng suốt do tu
hành chơn thật độ dẫn được linh hồn.
- Một lần niệm danh hiệu Ðức
Quan Âm Bồ Tát thì được Bồ Tát rủ lòng thương xót bảo vệ mạng sống,
- Ngàn năm Nữ phái gìn giữ
sự sanh tồn của nhơn loại.
Vậy Tịch Ðạo của Chức sắc
Nữ phái CTÐ trong đời Giáo Tông thứ nhứt là lấy chữ HƯƠNG làm Thánh danh; đời
Giáo Tông thứ nhì sẽ lấy chữ TÂM.
Ðức Chí Tôn phong chức cho
hai vị: Bà Lâm Thị Thanh (hay Lâm Ngọc Thanh) ở Vũng Liêm, và Bà Ca Thị Thế con
của Ngài Bảo Ðạo Ca Minh Chương.
Lâm Thị Thanh: phong làm Nữ
Giáo Sư, Thánh danh Hương Thanh.
Ca Thị Thế: phong làm Phó
Giáo Sư, Thánh danh Hương Thế. Phó Giáo Sư là phẩm Giáo Hữu.
Ðường thị: Bà Ðãi thị Huệ
(1874-1936), hiền thê của Ngài Lê Văn Trung.
Thọ mạng: Nhận lãnh mệnh lệnh
của Ðức Chí Tôn.
Thiên sai: Trời sai khiến.
Phong sắc: Ra Sắc lịnh phong chức.
51 . Từ
Lâm Tự (Gò Kén, Tây Ninh)
Thứ bảy, 20-11-1926 (âl 16-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
GIÁO TÔNG nghĩa là Anh Cả các con, có quyền thay mặt Thầy mà dìu dắt các con trong
đường Ðạo và đường Ðời. Nó có quyền về phần xác chớ không có quyền về phần hồn.
Nó đặng phép thông công cùng Tam thập lục Thiên và Thất thập nhị Ðịa giái đặng
cầu rỗi cho các con, nghe à! Chư môn đệ tuân mạng.
CHƯỞNG PHÁP của ba phái là Ðạo, Nho, Thích. Pháp
luật Tam giáo tuy phân biệt nhau, song trước mặt Thầy vốn coi như một.
Chúng nó có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành, hoặc là nơi Giáo Tông
truyền xuống, hay là nơi Ðầu Sư dâng lên. Như hai đàng chẳng thuận thì chúng nó
phải dâng lên cho Hộ Pháp đến Hiệp Thiên Ðài cầu Thầy giáng xuống mà sửa lại,
hay là tùy ý mà lập luật lại. Vậy chúng nó có quyền xem xét kinh điển trước khi
phổ thông. Như thảng có kinh luật chi làm hại phong hóa thì chúng nó phải trừ bỏ,
chẳng cho xuất bản. Buộc cả tín đồ phải vùa sức mà hành sự trước mặt luật đời.
Thầy khuyên các con ráng xúm nhau vùa giúp chúng nó. Mỗi Chưởng Pháp có ấn
riêng. Ba ấn phải có đủ trên mỗi luật, mới đặng thi hành. Chư môn đệ tuân mạng.
ÐẦU SƯ có quyền cai trị phần Ðạo
và phần Ðời của chư môn đệ. Nó đặng quyền lập luật, song phải dâng lên cho Giáo
Tông phê chuẩn. Luật lệ ấy phải xem xét một cách nghiêm nhặt, coi phải có ích
cho nhơn sanh chăng. Giáo Tông buộc phải giao cho Chưởng Pháp xét nét trước khi
phê chuẩn.
Chúng nó phải tuân mạng lịnh
Giáo Tông, làm y luật lệ Giáo Tông truyền dạy. Như thảng luật lệ nào nghịch với
sự sanh hoạt của nhơn sanh thì chúng nó đặng phép nài xin hủy bỏ.
Thầy khuyên các con phải
thương yêu giúp đỡ lấy nó. Thầy lại dặn các con, như có điều chi cần yếu thì
khá nài xin nơi nó.
Ba Chi tuy khác, chớ quyền
lực như nhau. Như luật lệ nào Giáo Tông đã truyền dạy mà cả ba đều ký tên không
tuân mạng thì luật lệ ấy phải trả lại cho Giáo Tông. Giáo Tông truyền lịnh cho
Chưởng Pháp xét nét lại. Chúng nó có ba cái ấn riêng nhau. Mỗi tờ giấy chi chi
phải có ấn mới thi hành, nghe à! Chư môn đệ tuân mạng.
PHỐI SƯ mỗi phái là 12 người, cộng
là 36 người. Trong 36 vị ấy có ba Chánh Phối Sư. Ba vị ấy đặng thế quyền cho Ðầu
Sư mà hành sự, song chẳng quyền cầu phá luật lệ, nghe à! Chư môn đệ tuân mạng.
GIÁO SƯ có 72 người, trong mỗi
phái là 24 người. Giáo Sư là người để dạy dỗ chư môn đệ trong đường Ðạo với đường
Ðời. Buộc chúng nó lo lắng cho các con như anh ruột lo cho em. Chúng nó cầm sổ
bộ của cả tín đồ. Chúng nó phải chăm nom về sự tang, hôn của mỗi đứa. Như tại
Châu thành lớn thì mỗi đứa đặng quyền cai quản cúng tế Thầy như thể Ðầu Sư và
Phối Sư. Chúng nó đặng quyền dâng sớ cầu nài về luật lệ làm hại nhơn sanh, hay
là cầu xin chế giảm luật lệ ấy. Chúng nó phải thân cận với mỗi môn đệ như anh
em một nhà cần lo giúp đỡ, nghe à! Chư môn đệ tuân mạng.
GIÁO HỮU là người để phổ thông
Chơn đạo Thầy. Chúng nó đặng quyền xin chế giảm luật lệ Ðạo. 3000 Giáo Hữu chia
ra đều, mỗi phái là 1000, chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt. Chúng nó đặng
phép hành lễ khi làm chủ các chùa trong mấy tỉnh nhỏ.
LỄ SANH là người có hạnh, lựa chọn
trong chư môn đệ mà hành lễ. Chúng nó đặng quyền đi khai đàn cho mỗi tín đồ. Thầy
dặn các con hiểu rõ rằng Lễ Sanh là người Thầy yêu mến, chẳng nên hiếp đáp
chúng nó. Như vào đặng hàng Lễ Sanh mới mong bước qua hàng Chức sắc. Kỳ dư Thầy
phong thưởng riêng mới đi khỏi ngả ấy mà thôi, nghe à! Chư môn đệ tuân mạng.
Ðầu Sư muốn lên Chưởng
Pháp thì nhờ 3 vị công cử nhau.
Phối Sư muốn lên Ðầu Sư
thì nhờ 36 vị kia công cử.
Giáo Sư muốn lên Phối Sư
thì nhờ 72 vị kia xúm nhau công cử.
Giáo Hữu muốn lên Giáo Sư
thì nhờ 3000 vị kia xúm nhau công cử.
Lễ Sanh muốn lên Giáo Hữu
thì nhờ cả Lễ Sanh xúm nhau công cử.
Môn đệ muốn lên Lễ Sanh
thì nhờ cả môn đệ xúm nhau công cử.
Kỳ dư Thầy giáng cơ phong
cho người nào thì mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi.
Còn Giáo Tông thì hai phẩm
Chưởng Pháp và Ðầu Sư tranh đặng, song phải chịu cho toàn môn đệ công cử mới đặng,
kỳ dư Thầy giáng cơ ban thưởng mới ra khỏi luật lệ ấy mà thôi. Chư môn đệ tuân
mạng. Thầy ban ơn cho các con.
CHÚ THÍCH:
Ngay sau Ðại lễ Khai Ðạo
(ngày 15-10-Bính Dần) tại Thánh Thất tạm đặt tại Từ Lâm Tự Gò Kén, Tây Ninh, Ðức
Chí Tôn liền lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Ðài Nam phái ngày 16-10-Bính Dần
(1926). CTÐ là cơ quan rất quan trọng của Ðạo Cao Ðài vì CTÐ tượng trưng thể
xác của Ðạo. Nếu không có thể xác (CTÐ) thì không làm được việc chi nơi cõi trần
hữu hình nầy.
Tiếp theo, qua Tết Ðinh
Mão, ngày Vía Ðức Chí Tôn mùng 9 tháng Giêng năm Ðinh Mão (1927), Ðức Lý Thái Bạch
Nhứt Trấn Oai Nghiêm giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền Cửu Trùng Ðài Nữ phái.
Ngày 12 tháng Giêng năm
Ðinh Mão (1927), Ðức Chí Tôn giáng cơ lập Pháp Chánh Truyền Hiệp Thiên Ðài.
Thế là trọn vẹn, tạo thành
Hiến Pháp tổ chức điều hành toàn bộ Hội Thánh Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Pháp Chánh Truyền là văn bản
tổng quát tổ chức nền Ðạo Cao Ðài. Ðó là Hiến Pháp của Ðạo, cho nên Ðức Lý Thái
Bạch, Nhứt Trấn Oai Nghiêm kiêm nhiệm Giáo Tông ÐÐTKPÐ, ra lịnh cho Ðức Hộ Pháp
Phạm công Tắc chú giải tỉ mỉ từng chi tiết để cho Chức sắc trong hai Ðài, Hiệp
Thiên và Cửu Trùng, dễ thi hành, có Ðức Lý Giáo Tông giáng cơ hiệu đính, gọi là
Pháp Chánh Truyền Chú Giải, tạo thành Hiến Pháp bất di bất dịch của Ðạo Cao
Ðài.
Ðức Lý Giáo Tông nói rõ
trong Ðạo Nghị Ðịnh thứ 6, ngày 3-10-Canh Ngọ (1930), xin chép ra sau đây:
NGHỊ ÐỊNH: "Hai vị
Thiên phong Giáo Tông và Hộ Pháp phải điều đình Hiến Pháp, sửa trị Ðài mình cho
hiệp Pháp Chánh Truyền, nên đồng ký tờ nầy mà ước hẹn."
52 . Từ Lâm Tự, Gò Kén, Tây Ninh.
Thứ ba, 23-11-1926 (âl
19-10-Bính Dần)
THẦY
Các con chớ phiền hà chuyện
Thánh Thất xảy ra, ấy cũng một bước trắc trở trong đường Ðạo của Thầy. Thầy còn
phải đau lòng thay, nhưng cũng là nơi Thiên cơ vậy.
Thầy hằng biết công của
các con, nhưng Thầy phải cực lòng chìu ý của mỗi đứa mà xây đắp nền Ðạo. Vì vậy
mà nhiều sự xảy ra đều do nơi tâm chí của nhiều đứa. Thầy hằng dùng tâm chí của
các con mà bố mọi điều thiết yếu trong việc đạo đức.
Sự xảy ra nơi Thánh Thất,
tuy là nơi mối Ðạo chậm trễ, nhưng cũng do nơi lòng tà vạy của nhiều đứa mà ra,
vì tâm trung chánh đáng thì làm cốt cho Tiên Thánh, còn tâm chí vạy tà là chỗ của
Tà quái xung nhập.
Chi chi cứ tưởng có Thầy
giúp mà lập xong nền Ðạo cho các con là đủ.
Thầy cũng có phép răn trị
kẻ vạy tà, các con duy có trông cậy nơi Thầy, bước đường cứ thủng thẳng đi lần
tới, đừng gấp quá, mà cũng chớ thối lui, thì một ngày kia sẽ đặng toại kỳ sở
nguyện.
Thầy ban ơn cho các con. Thầy thăng.
CHÚ THÍCH:
Bài Thánh Ngôn nầy, Ðức Chí Tôn nói về việc Quỉ Vương nhập đàn phá Ðạo ngay trong đêm Ðại
lễ Khai Ðạo.
Ngài Ðầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt được lịnh Ðức Chí Tôn làm phép Trấn Ðàn bốn hướng, nhưng Ngài lại quên không trấn một hướng, khiến cho Quỉ Vương thừa cơ
đột nhập vào.
Trong đêm ấy, Ðức Chí Tôn
giáng cơ để ít lời quở trách rồi Ðức Chí Tôn và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật
thăng. Quỉ vương liền đột nhập vào đàn.
Quỉ nhập vào Ông Lê Thế
Vĩnh, giả xưng là Tề Thiên Ðại Thánh; một con Quỉ khác nhập vào Cô Vương Thanh
Chi, con gái của Ông Vương Quan Kỳ, giả xưng là Quan Âm Bồ Tát. Ban đầu bổn đạo
tưởng thật, sau hai cốt nói năng lung tung, lại nắm tay nhau nhảy múa, khiến mọi
người đều nghi ngờ là Tà quái. Nhiều người thấy vậy chán nãn bỏ ra về và suy giảm
đức tin. Cũng chính vì vậy mà Hoà Thượng Như Nhãn và đệ tử không theo Ðạo Cao
Ðài nữa, đòi chùa Từ Lâm lại.
Báo chí tại Sài gòn tường
thuật buổi lễ, có đăng hình và bình luận, khiến nổi lên trong dân chúng một trường
tranh luận, người thì cho là thật, người thì cho là giả.
Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung
Hậu, trong quyển Ðại Ðạo Căn Nguyên, có thuật lại như sau đây:
" CUỘC BIẾN:
Ðêm ấy vì đông người mà cuộc
lễ hóa ra thất nghiêm, nên Thượng Ðế giáng cơ, chỉ để ít lời quở trách rồi
thăng. Tà quái thừa dịp Thượng Ðế và chư Thần, Thánh, Tiên, Phật thăng rồi ,
bèn nhập vào cho một vị nam và một vị nữ bổn đạo mà gây rối ra, mạo xưng là Tề
Thiên Ðại Thánh và Quan Âm Bồ Tát. Ban đầu trong bổn đạo còn tin thiệt, hết dạ
kỉnh thành, sau lần xem cách hành động của chúng nó, lấy làm lộng, chừng ấy mới
phân biệt Chánh Tà, thì rất muộn.
Rã cuộc, người biết đạo
thì chẳng nói chi, duy kẻ nhẹ tánh thì gãi đầu chắc lưỡi, ngẩn ngẩn ngơ ngơ.
Thấy tình hình như vậy,
Ông quan ba Monet (Ðại Úy Paul Monet) khuyên giải trong bổn đạo như vầy:
"Công việc các Ông làm
đây là rất phải, các Ông chẳng nên vì một cuộc biến thường tình như vậy mà ngã
lòng thối chí. Tôi cho là thường tình, vì bên Tây, trong mấy đàn thỉnh Tiên,
cũng thường xảy ra những điều rối rấm như vậy. Tôi có một lời khuyên các Ông là
từ rày sắp lên, hễ có cầu cơ thì chớ hiệp nhau đông đảo, vì cần phải thanh tịnh,
mà hễ đông người thì một là mất bề thanh tịnh, hai là tư tưởng bất đồng không
tương ứng nhau được, thì không linh nghiệm."
Lời châu ngọc của Ông
Monet đến ngày nay chúng tôi càng nhớ đến chừng nào thì chúng tôi lại càng thâm
cảm thạnh tình ông chừng nấy.
TRƯỜNG CÔNG KÍCH:
Cuộc biến ấy thành ra một
trường công kích rất nên kịch liệt. Kẻ nghịch đạo nhơn đó mà hô lớn lên rằng Ðại
Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ là Tà giáo, là quái giáo lăng xăng. Tuy nhiên cũng có một ít
người bổn đạo vì đó mà ngã, chớ còn kẻ có chút quan tâm về tôn giáo, càng nghe
lời công kích chừng nào càng để ý quan sát về Ðại Ðạo chừng nấy, thành thử trường
công kích lại trở làm giới thiệu cho nền Ðạo mà tự người đứng ra công kích cũng
phải nhìn nhận như vậy.
Vì là chỉ trong ba tháng mở
đạo ở Từ Lâm Tự mà số người nhập môn (Lang sa có, Cao Miên có, Khách trú có), kể
đến hằng ức."
53 . Thứ tư, 24-11-1926 (âl
20-10-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Thầy nghĩ lại việc hôm nọ
tại Thánh Thất biến ra một trường Tà quái mà Thầy bắt đau lòng đó các con. Các
con thiết nghĩ lẽ nào? . . . . . . . .
Ðó là bước Ðạo, đó là
Thiên cơ. Các con hiểu sao được, nhưng Thầy buồn vì nỗi có nhiều đứa sàm biện về
việc ấy. Thầy cũng muốn phạt chúng nó một cách nặng nề, nhưng Thầy nghĩ lại mà
thương đó chút.
Môn đệ của Thầy nhiều đứa
muốn bỏ đạo y, ném dép cỏ, lột khăn tu mà mong hồi tục thế. Bởi bước Ðạo gập
ghình khó tới nên mới ra cớ đỗi. Bởi còn vướng bụi trần, ham mồi phú quí, mê chữ
vinh sang mà ngán đạo.
Các con hiểu, Thầy buồn,
nhưng ấy là máy Trời đã định, chạy sao cho khỏi. Thầy biết bao lần vì các con
mà chịu nhọc nhằn.
Từ khai Thiên lập Ðịa, Thầy
cũng vì yêu mến các con mà trải bao nhiêu điều khổ hạnh, mấy lần lao lý, mấy
lúc vang mày, nuôi nấng các con hầu lập nền Ðạo, cũng tưởng cho các con lấy đó
làm đuốc soi mình đặng cải tà qui chánh.
Mấy lần vun đắp nền Ðạo,
Thầy cũng đều bị các con mà hư giềng đạo cả,
Thầy buồn đó các con.
Thầy ban ơn cho các con.
Thầy thăng.
TÁI CẦU:
Các con nghe Thầy:
Sự biến xảy ra đến nay đã
thành một trường ngôn luận, có khi cũng náo nhiệt đến nền Ðạo. Kẻ gọi Tà, người
nói Chánh.
Nơi Thiên thơ đã có dấu
ràng ràng. Các con có đi tranh luận cũng nhọc công vô ích. Kẻ hữu phần, người
vô phước, tin tin, không không, cũng chẳng sửa cơ Trời đặng.
Ðường còn dài, bước càng
nhọc, thì nền Ðạo càng cao, công trình càng rỡ.
Ôi! Thầy đã lắm nhọc nhằn
vì bầy con dại, muốn ra tay tế độ, vớt trọn cả chúng sanh thoát vòng khổ hải,
nhưng chúng nó nhiễm luyến đã đầy mùi trần thế, tâm chí chẳng vững bền, thấy
khó đã ngã lòng, mới đạp chông toan trở bước. Thầy cũng phải đau lòng mà nắm
máy huyền vi để cơ Trời xây đổi. Các con liệu lấy.
. . . . . . . . . .
CHÚ THÍCH:
* Phần đầu của bài Thánh
Ngôn nầy có trong ÐS.II.34.
Chỗ có nhiều chấm xin chép
bổ sung ra sau đây:
"Mỹ Ngọc: - Bạch Thầy,
tại vài Ông Thiên phong làm chuyện lôi thôi nên mới có quỉ yêu xung nhập.
- Phải, bởi cái lếu của
chúng nó mà sanh việc ngày hôm nay
Mỹ Ngọc: - Bạch Thầy,
trong môn đệ có nhiều người ngã lòng
- Bất bình lắm hả?
- Nhưng trong Thiên phong
có vài Ông mà thôi.
- Cũng có nhiều chớ, sao
con nói ít vậy con."
Mỹ Ngọc: Hiệu của Ngài Cao
quỳnh Diêu, sau đắc phong Bảo Văn Pháp Quân. Ngài Cao quỳnh Diêu là anh thứ ba
của Ngài Cao quỳnh Cư.
* Phần Tái Cầu có trong
ÐS.II.36, chỗ nhiều chấm gần cuối, xin chép bổ sung ra sau đây:
"Thơ! Con chẳng nên
lo xa nữa, Thầy giao sắp đặt hành tàng về mọi sự Thánh Thất cho Trung, Tương,
Trang, Hóa, làm sao nơi đây cho đặng vững vàng khỏi điều trắc trở. Bốn con nên
lưu ý, nhứt là Trang, con hiểu Thầy chăng con? Bốn con điều đình chung lo, có
Thầy biết thiết yếu và sẽ làm cho các con đặng toại kỳ sở nguyện.
Trung! nơi đàn thứ hai tới
đây, con nhớ cho các Thánh hội Sài gòn và Chợ Lớn hay đặng đến hết cho Thầy dạy
nghe!
Thầy tưởng dùng máy đèn có
khi làm cho mất sự tịnh trong lúc hành lễ mỗi đàn, nhưng đã có rồi, con liệu
tùy tiện mà làm."
Trung: Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt (Lê Văn Trung).
Tương: Chánh Phối Sư Thượng
Tương Thanh (Nguyễn Ngọc Tương).
Trang: Chánh Phối Sư Ngọc
Trang Thanh (Lê Bá Trang).
Hóa: Phối Sư Thượng Hóa
Thanh (Lê Văn Hóa).
Thơ: Chánh Phối Sư Thái
Thơ Thanh (Nguyễn Ngọc Thơ).
Sàm biện: Bàn tán bậy bạ. Ðạo y: Áo của người tu.
Dép cỏ: Chữ Hán Thảo hài,
dịch là là giày cỏ hay dép cỏ, là giày dép làm bằng cỏ của người tu hành.
Khăn tu: Cái mũ hay cái
mão đội trên đầu trong bộ y phục của người tu hành.
Khai Thiên lập Ðịa: Mở Trời
lập Ðất, ý nói thuở đầu tiên của Càn khôn Thế giới nầy.
Khổ hạnh: Nỗi vất vả khổ cực
của người tu.
Lao lý: Bị giam cầm và lo
buồn. Lý là lo buồn.
Vang mày: Ðau mặt. Vang là
đau. Vang mày là ý nói phải chịu nhiều nỗi khó khăn nguy hiểm trong công việc.
Nhiễm luyến: Thâm nhiễm và
mê luyến mùi trần.
Huyền vi: Sâu kín nhỏ nhặt,
ý nói huyền diệu.
Toại kỳ sở nguyện: Thỏa
lòng mong ước của mình.
54 . Chúa nhựt, 28-11-1926 (âl 24-10-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
DIEU TOUT-PUISSANT qui vient sous le nom de CAO
ÐÀI
pour dire la Vérité en Annam
L . . .
Une séance spéciale n'est donnée que rarement
aux gens pour un voeu de quelque importance que ce soit; mais à toi dont Je
connais les sentiments d'humanité et l'esprit charitable, à toi Je donne
entière satisfaction.
En dehors de tes volontés religieuses, tu as
l'intention de t'informer de cette Nouvelle Doctrine qui t'a été travestie par quelques-uns
de tes compa-triotes sous une forme quelque peu malicieuse.
Sur cette terre dont le peuple est si doux et
paisible, Je viens comme le Christ était venu parmi vous pour combattre
l'hérésie et évangéliser le monde.
Quelque soit la race dont vous faites partie,
enfants de la terre, vous avez tous un même Père, c'est Dieu qui préside à vos
destinées. Pourquoi vous séparez-vous à cause de divergences d'opinions
religieuses, alors que tous, vous êtes appelés à souffrir et faire votre
Purgatoire en ce monde?
Tu as déjà mis pied dans ce chemin qui conduit
tout humain vers l'heureux séjour qu'est le Nirvana.
Tâche de continuer cette voie pour arriver à
ton but. De Bons Esprits guideront tes pas. Tous tes voeux seront exaucés.
C'est assez pour toi. Au revoir.
Bài
dịch Việt văn của Hội Thánh:
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
ÐẤNG CHỦ TỂ TOÀN NĂNG giáng thế tá danh CAO ÐÀI
truyền Chơn Lý tại Việt Nam
L . . .
Một đàn cơ riêng biệt ít khi được
thiết lập cho ai, mặc dầu lời thỉnh nguyện có quan hệ cách mấy đi nữa cũng
không đặng. Nhưng đối với con, Thầy được hiểu lòng nhân đức, tánh từ thiện của
con, nên Thầy cho con được thỏa nguyện.
Ngoài ý chí đạo đức của
con, con còn có ý tìm hiểu Giáo lý mới mẻ nầy, giáo lý mà một vài đồng bào của
con đã giải thích xuyên tạc dưới một hình thức tinh ranh.
Nơi xứ nầy, dân tình rất
thuần hậu và ôn hòa, nên Thầy đến cũng như Chúa Cứu Thế đã đến với chúng con để
bài trừ Tà thuyết và truyền bá Chơn đạo trên toàn cầu.
Người sống trên thế gian nầy,
dầu thuộc giống dân nào, cũng chỉ có một Cha chung mà thôi., ấy là Trời đang chế
ngự số mạng của các con. Tại sao các con lại chia rẽ nhau vì sự bất đồng Ðạo
lý, mà chính tất cả các con đều phải chung chịu đau khổ để rửa tội của các con ở
cõi thế gian nầy?
Con để chơn vào con đường
đưa đến cảnh an nhàn, hưởng những chuỗi ngày hạnh phúc nơi cõi Niết Bàn.
Con ráng tiếp tục đi trên
con đường vạch sẵn ấy để theo đuổi đến mức cuối cùng. Nhiều Ðấng Anh linh sẽ
dìu bước cho con. Các lời cầu nguyện của con sẽ được chuẩn nhận.
Bấy nhiêu đây đủ rồi. Từ
giã con.
CHÚ THÍCH:
Bài Thánh Ngôn nầy có chép
trong tập Thánh Ngôn chép tay của Ngài Ðầu Sư Thái Thơ Thanh, trang 511.
L . .: Latapie, tên một
người Pháp theo Ðạo Cao Ðài.
Ngày thứ bảy, 25-12-1926,
Ðức Lý Thái Bạch phong Ông Latapie làm Giáo Sư phái Thượng: Thánh danh Thượng
Latapie Thanh. (ÐS. II. 120)
55 . Thánh Thất Tây Ninh (Từ Lâm Tự)
Thứ năm, 2-12-1926 (âl
28-10-Bính Dần)
THÁI BẠCH
Thầy sai Bần đạo đến sắp đặt
trang nghiêm trong Thánh Thất. Bần đạo phân phép từ ngày nay, hễ nhập Thánh Thất
thì phải giữ phép:
Nam Nữ bất thân.
Nam ở Ðông hiên, Nữ ở Tây hiên.
Hai bên không lân cận nhau.
Nam theo Nam, Nữ theo Nữ.
Cấm cười cợt trững giỡn với nhau.
Trừ ra vợ chồng hay là chị
em ruột, anh em ruột đặng chuyện vãn nhau nơi Tịnh đàn. Còn kỳ dư, như hai đàng
muốn chuyện vãn nhau, phải có hai người chứng, một bên Nam, một bên Nữ.
Phòng trù, dầu phải chung
lộn với nhau buổi nấu nướng, khi dọn ăn, chẳng đặng lộn xộn cùng nhau, nghe à!
. . .
Thơ Thanh, Hiền hữu phải
viết luật cấm nầy dán nơi Thánh Thất. Nghe à!
CHÚ THÍCH:
Tịnh đàn: Nơi thờ cúng Ðức
Chí Tôn phải giữ cho trong sạch.
Phòng trù: Nhà bếp để nấu
ăn.
Ðông hiên: Cái hiên phía
bên trái Bàn thờ Ðức Chí Tôn nơi Thánh Thất.
56 . Thứ hai, 6-12-1926 (âl 2-11-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ,
chư nhu, chư tín nữ.
Chư nhu nghe:
Ta vì lòng đại từ đại bi,
vẫn lấy đức háo sanh mà dựng nên mối Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, tôn chỉ vớt những kẻ
hữu phần vào nơi địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi và nâng những
kẻ tánh đức bước vào cõi nhàn, cao hơn phẩm hèn khó ở nơi trần thế nầy.
Than ôi! Ðiều vui sướng
lao trần chẳng ai buộc mà nhiều kẻ tìm tới, mối đạo đức trau thân là phương
châm thoát tục mà lắm kẻ trốn lánh, bài bác mối Ðạo Trời, khua môi uốn lưỡi, mà
tưởng cho mình hơn đặng các phẩm nhơn sanh, chớ chẳng dè là một hình phạt rất nặng
nề đã chực chúng nó nơi chốn A Tỳ.
Ai đặng phước thêm cao trọng,
ai vô phần thì trí não vẫn mờ hồ, nét hạnh đời càng mê muội, biết biết không
không, luật Trời đã định, phần công quả trả cho rồi thì cảnh u nhàn là nơi rước
khách tục trong lúc chung qui đó.
Sanh nhằm đời có một Ðạo
chánh chẳng phải dễ, mà bước lên con đường chông gai, lần vào non thẳm kiếm ngọc
lại càng khó. Khó dễ nơi lòng, chớ đem thói ám muội mờ hồ vào đường đạo đức,
sau ăn năn rất muộn.
CHÚ THÍCH:
Tôn chỉ: hay Tông chỉ là
những nguyên tắc và tư tưởng chánh yếu chi phối mọi hoạt động.
Tôn chỉ của Ðạo Cao Ðài là
Qui Tam giáo, Hiệp Ngũ Chi, làm thành một nền Tân Tôn giáo gọi là Ðại Ðạo Tam Kỳ
Phổ Ðộ do Ðức Chí Tôn làm chủ, cứu độ chúng sanh thoát khỏi luân hồi, trở về
cõi thiêng liêng hằng sống.
Kẻ hữu phần: Người có
duyên phần, tức là người có cái gốc tu hành nơi kiếp trước.
Lao trần: Cõi trần nhiều vất
vả đau khổ.
A Tỳ: chỉ cõi Ðịa ngục,
nơi trừng trị các hồn tội lỗi.
Nét hạnh đời: Cái tánh của
con người nơi cõi trần.
Phần công quả trả cho rồi:
Lấy cái công quả làm được để đền trả cho hết các món nợ oan nghiệt.
Cảnh u nhàn: Cảnh vắng vẻ
nhàn hạ. U là vắng vẻ.
Khách tục: Khách trần, người
khách ở tạm nơi cõi trần. Các nguyên nhân đều là những khách trần, bởi vì
nguyên nhân là người gốc ở cõi thiêng liêng, nay vâng lịnh đầu kiếp xuống trần
để làm một nhiệm vụ. Khi nhiệm vụ xong thì trở về cõi thiêng liêng.
57 . Ngày
8-12-1926 (âl 4-11-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ,
chư nhu.
Nghe Thầy:
Dặm dài bước lạ nẻo chưa quen,
Thánh chất dầu trau gẫm chẳng hèn.
Bóng trải diềm dà xuân đợi chúa,
Tiết nồng thơ thới hạ khoe sen.
Nhành dương nước rưới tan lòng tục,
Nguồn Thánh đạo dìu lại cõi Tiên.
Phước gặp Kỳ Ba Trời dẫn độ,
Mau chơn rán lướt tới rừng thiền.
Từ đây, Thầy là Ðứng chủ
trung dìu dắt các con trong đường đạo hạnh, nhứt nhứt đều tưởng có Thầy bên các
con, và đợi nơi Thầy mà thôi. Ðường tuy xa, bước đường tuy gay trở, nhưng các
con lướt nổi sự hiểm nguy đặng đến cùng Thầy trong buổi chung cuộc.
Môn đệ nhiều đứa lòng vẫn
nhẹ tợ lông, thấy sự chi khó thì đã muốn bần dùn thối bước.
Ðại Ðạo Tam Kỳ hoằng khai
tại cõi Nam, đã chiếu theo Thiên thơ, Hội Tam giáo, mà vớt chúng sanh thoát
vòng ly khổ, thiệt thiệt, hư hư, một mảy chi, cũng chẳng qua là máy Thiên cơ mà
thôi.
Ðạo Trời mở ra cho một nước
tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn.
Phải giồi lòng trong sạch,
lấy sự nhẫn nhịn làm gương soi mình hằng bữa, phải thương yêu nhau, giúp đỡ
nhau dường như con một nhà, rồi cái thương yêu, sự giúp lẫn ấy sẽ dìu chung các
con vào tận chốn Cực Lạc thiêng liêng, để tránh khỏi nơi khổ cùng tiều tụy.
Khá biết lấy. Thăng.
CHÚ THÍCH:
Diềm dà: Rậm rạp. Tiết nồng:
Thời tiết nóng bức.
Lòng tục: Lòng trần, lòng
ham mê vật chất nơi cõi trần.
Nguồn Thánh: Ý nói Ðạo Cao
Ðài.
Rừng thiền: Thiền lâm, nơi
tu hành.
Ðứng chủ trung: Ðấng ở giữa
làm chủ điều khiển tất cả.
Ðường đạo hạnh: Con đường tu
hành tập rèn đức hạnh.
Lòng nhẹ tợ lông: Nhẹ dạ,
thiếu chính chắn, dễ tin.
Hoằng khai: Mở rộng. Hoằng
là làm cho rộng lớn.
Thoát vòng ly khổ: Thoát
ra khỏi các phiền não đau khổ của cõi trần.
58 . Ngày 9-12-926 (âl 5-11-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Ngày nay đã mất hết một
người môn đệ của Thầy, lại là một đạo hữu của các con, đã cùng các con nghiêng
vai gánh vác một trách nhậm trong Ðại Ðạo Tam Kỳ.
TƯƠNG mãn phần cũng nơi số
mạng tiền định. Nó có phước là vì đặng về Thầy trong mấy ngày rốt của kiếp trần
ai của nó.
Sự thác cũng có khi vui mà
cũng có lúc buồn. Người thế nếu biết sống, nghĩa là biết dụng mình cho có ích
vào xã hội, biết dưỡng tánh tu thân, thì sự thác chẳng qua là sự mong mỏi của kẻ
hành trình đã xong trách nhậm, trở về phục sự đặng lãnh phần thưởng xứng đáng
mà thôi.
TƯƠNG tuy chưa đặng như mấy
kẻ ấy, song lòng đạo đức đã ra vun đắp mối Ðạo Trời, thì địa vị cũng có khi
khác thế thường đặng. Ðiểm Chơn thần của nó còn phải đến hầu trước Tòa Tam Giáo
mà đợi lịnh phát lạc tùy theo công quả, tội tình của nó bấy nay. Ấy là Thánh ý
của Thầy đã lập luật riêng cho mỗi đứa trong các con đó. Chư môn đệ cũng nên hiểu
biết.
Còn việc an táng nó, các
con cũng nên lưu ý chung với nhau mà lo bề nhơn đạo của các con cho toàn.
Trang, con nói với Trung,
Thơ, Tương, Hóa, và các Thiên phong đều có mặt mà đưa nó lên đường, là chỗ an
giấc ngàn năm, cũng để tiếng đặng một người đạo hạnh vậy. Trừ ra đứa nào phải vắng
mặt bận việc thì chế đặng.
Còn về sự làm cho rỡ ràng
trong đạo hữu, các con nên liệu tính cho kíp. Sự cầu kinh thì do nơi đám táng của
mẹ Hậu, đều khác hơn một thí.
CHÚ THÍCH:
TƯƠNG: Ngài Chưởng Pháp
Thượng Tương Thanh, thế danh Nguyễn Văn Tương (1879-1926). Trước khi nhập môn
vào Ðạo Cao Ðài, Ngài Nguyễn Văn Tương tu theo Minh Sư, đạt đến phẩm Ðại Lão
Sư. Ngài được Ðức Chí Tôn phong chức: Thuyết Pháp Ðạo Sư Chưởng Quản Oai Linh Ðạo
Sĩ, Chưởng Pháp Phái Thượng. Ngài hành đạo được khoảng ba tháng rưỡi thì đăng
Tiên ngày 5-11-Bính Dần, lúc đó Ngài mới được 48 tuổi. Ngài là vị Chức sắc cao
cấp qui liễu đầu tiên. Nền đạo còn trong thời kỳ phôi thai, chưa có Nghĩa Ðịa
riêng của đạo, nên phải an táng Ngài nơi quê nhà của Ngài là làng Hữu Ðạo (gần
Chợ Thuộc Nhiêu) quận Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho.
Nghi lễ đám tang trong Ðạo
Cao Ðài, Ðức Chí Tôn chưa thiết lập, nên Ðức Chí Tôn dặn noi theo đám tang của
bà mẹ của Ngài Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu mà trước đây Ðức Chí Tôn đã sắp đặt.
Ngày thứ bảy, 11-12-1926
(âl 7-11-Bính Dần), Ðức Chí Tôn giáng cơ dạy hai Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt
và Ngọc Lịch Nguyệt như sau: (trích trong ÐS.II.85)
" Trung, Lịch, hai
con phải dụng Ðại lễ mà an táng cho Tương, nghe! Thầy ngặt một lẽ chẳng thế nào
đem Tương vào Tam thập lục Thiên, phải để nó đợi nơi Ðông Ðại Bộ Châu mà chờ
Tòa Tam Giáo phát lạc.
Thầy có để lời cho Thái Bạch
Kim Tinh cầu rỗi, nhưng Người giận Tương không công quả, dâng Bộ Công Thiên thơ
ra trống trải lắm, tại nơi Tòa mới cãi chối nỗi gì. Người nhứt định không dự đến.
Các con nghe à!
Vậy trong hịch văn sớ tấu,
các con phải thượng nơi Tòa Tam Giáo mà cầu rỗi cho nó thiệt hết lòng, rồi Thầy
sẽ rỗi cho nó. Các con hiểu.
Lịch bạch về sự Ðại lễ . .
.
- Không con . . . Ðại lễ
là làm theo một lễ với sự an táng bậc Thái Lão nghe!"
Gần hai tháng sau, vào
đúng ngày mùng 1 Tết Ðinh Mão, Ngài Chưởng Pháp Tương có giáng cơ tỏ nỗi vui mừng
được Ðức Chí Tôn cứu độ. (Xem bài Thánh Ngôn 92)
Kẻ hành trình: Người làm một
công trình.
Phục sự: Trở về báo cáo
công việc.
Phát lạc: Ðưa đi đày. Một
thí: Một chút, một tí.
Bộ Công: Bộ ghi chép công
quả của mỗi Chức sắc.
59 . Ngày 11-12-1926 (âl 7-11-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết
CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ,
chư nhu.
T . . . Hiền đồ nghe Thầy:
Ðức
tánh tàng thơ vô vị bần,
Lộ hành an bộ Ðạo tùy thân.
Tâm trung cẩm đắc phù vô giá,
Khải
chiết mai chi hữu diệt trần.
Con lấy làm hữu hạnh gặp đặng Thầy dìu bước trong nẻo Ðạo nhiệm mầu lúc non chiều bóng xế. Thầy đã có sai chư Thần mách bảo với con đã lâu, trí thiêng liêng đem đàng dắt bước con đặng độ dẫn sanh linh cho kịp thì giờ trong buổi chung cuộc của con. Vậy khá bền
lòng son sắt đặng ngày về Thầy, một địa vị xứng đáng sẵn chờ con, khá lưu tâm
nghe!
Ngày vui vẻ của sanh linh đã mòn, họa Thiên điều
đã cận, Càn khôn Thế giới còn đeo đuổi, dụng thất đức vô nhân mà gieo thảm chất
sầu trong nhân loại. Họa Âu tai Á sẽ lần lần thay phiên nhau, dụng luật Thiên
đình mà diệt phạt người vô đạo. Càn khôn cũng vì đó
mà phải điên đảo.
Thầy lấy đức háo sanh mở Ðạo
lần ba mà vớt kẻ hữu phần, tránh khỏi nơi buộc ràng khổ phạt.
Ai hữu phước đặng để chân
vào, kẻ vô phần phải bị Tà yêu cám dỗ.
Than ôi! Chới với cả muôn
triệu giữa dòng, mà thuyền Bát Nhã độ người không mấy kẻ. Ðức thừa ít có, mà
tài vô dụng chẳng thiếu chi. Phong hóa khiến suy tồi, cang thường càng loạn
phép. Tài mọn, đức hèn, mượn chước khoe mình, việc kỉnh thành Thánh giáo, hư
thiệt, thiệt hư, đâu qua máy hành tàng của Tạo hóa. Nhơn luân giữ trọn, ấy là mối
đạo nhân, lo Thánh đức trau lòng là phương thoát tục. Mấy ai xét nét thế tình,
lắm kẻ khinh khi nguồn Thánh. Chư chúng sanh khá liệu mình.
Tr . . . Con nên đọc sơ lược
Thánh Ngôn mấy lần chót cho chúng sanh và phải biểu ăn năn, hỏi mình trước khi
cầu Thầy. Thăng.
CHÚ THÍCH:
T. . .: (?) . Tr . . .:
Thượng Trung Nhựt.
Bài thi tứ tuyệt được viết
ra chữ Hán sau đây:
Ðức tánh tàng thơ vô vị bần, 德性藏書無謂貧
Lộ hành an bộ Ðạo tùy thân. 路行安步道隋身
Tâm trung cẩm đắc phù vô giá, 心中錦得扶無價
Khải chiết mai chi hữu diệt trần. 凱折梅枝有滅塵
GIẢI NGHĨA:
- Ðức tánh chứa sách không
gọi là nghèo,
- Ðường đi an bước Ðạo
theo thân.
- Trong tâm gấm vóc thì được
giúp đỡ quí báu,
- Vui bẻ cành mai bỏ cõi trần.
60 . Ngày
12-12-1926 (âl 8-11-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ.
T . . . Hai vợ chồng con có dạ kỉnh thành vì Thầy đến ngày chung cuộc
chăng?
Nơi trần khổ nầy, dầu cho bậc Chí Thánh cũng khó tránh sự lỗi lầm đặng,
nhưng sự ăn năn tự hối là quí báu vô giá. Các Tiên, Phật xưa cũng nhiều bậc đứng đặng địa vị cao thượng thiêng liêng là nhờ có sự cải
quá mà nên Chánh quả.
Có nhiễm trần, có lăn lóc
mơi sương chiều gió, có kim mã ngọc đàng, có đai cân rực rỡ, có lấn lướt tranh
đua, có ích kỷ hại nhân, có vui vẻ với mùi đỉnh chung lao lực, mới thấy đặng tỏ
rõ bước đời gai chông khốn đốn, mới thấy cuộc nhục vinh, buồn vui không mấy chốc,
chẳng qua là trả vay vay trả đồng cân, chung cuộc lại thì mối trái oan còn nắm,
mà cũng vì đó mới thấy đặng đường hạnh đức trau mình, trò đời chẳng qua một giấc
huỳnh lương.
Thầy có thế dùng hai con đặng
đắp vun nền Ðạo, cứu vớt sanh linh, nhưng đức tín ngưỡng biết có đặng tròn, sự
dày công chịu khó vì nhơn sanh biết có đặng bền bỉ chăng?
T . . . con, Ðạo mở tức để
cứu vớt sanh linh thoát vòng khổ hải, ấy là cho kẻ hữu phần mà thôi.
Nếu nơi Thiên cơ chẳng xảy
ra điều trắc trở, Ðạo Thầy chừng một năm đã khắp toàn trong thế giới. Nhưng thiệt
hư, hư thiệt chỉ có đức hạnh của các con lướt qua khỏi mà thôi.
Thầy đã lắm lúc nhọc nhằn
chìu theo thế mà dẫn bước đường, nhưng nhiều đứa dụng thời thế ở trần mà phạm
thượng đến Thầy, và dằn thúc chư môn đệ và chư chúng sanh. Nếu Thầy chẳng lấy đại
từ đại bi mà lập nền Ðạo thì sổ của kẻ đặng vớt khỏi trầm luân và kẻ Chí Thánh
đã bị Thầy bôi xóa hết.
Con có ngày giờ suy nghĩ
đã lâu, Thầy cho con xét thêm nữa đặng có đức tánh hoàn toàn, chừng ấy con là
ái nữ của Thầy, sẽ dụng làm tay chơn, đem rưới giọt nhành dương để cứu thoát
nhơn sanh nơi vòng ly khổ từ đây. Thầy có mấy lời cùng hai con sau đây:
Dìu nhau trở bước lại rừng thung,
Ðằng cát may đưa dựa bóng tùng.
Tác hiệp sẵn nhờ xây bĩ thới,
Thành song trước định gặp thư hùng.
Ngày thâu bóng xế oanh thưa nhặt,
Mắt nhắm đường xa khách thẳng dùn.
Lộc Hớn từ vinh Trương học chước,
Cầm đường tiếng hạc phủi muôn chung.
Khá nghe và suy xét. Thầy
ban ơn cho các con. Thăng
CHÚ THÍCH:
T . . .: (?)
Kim mã ngọc đàng: Ngựa
vàng nhà ngọc. Cửa Kim mã là nơi các quan Ðại Học Sĩ vào làm việc. Vua Tống
Thái Tổ ban cho quan Ðại Học Sĩ Tô Ðịch Gian bốn chữ: Ngọc đường chi thự. Kim
mã ngọc đàng là chỉ việc làm quan lớn vinh hiển.
Ðai cân: Cái đai lưng và
cái mão trong phẩm phục của các quan nơi triều đình, chỉ việc làm quan lớn.
Trái oan: Món nợ thù giận.
Mình làm cho người ta thù giận mình tức là mình đã mang một món nợ thù giận.
Giấc huỳnh lương: Giấc kê vàng, là giấc mộng của Lữ đồng Tân. Hớn Chung Ly muốn độ Lữ đồng
Tân tu Tiên, Chung Ly nấu nồi bắp vàng, gọi Ðồng Tân đến chơi, đưa cái gối bảo
Ðồng Tân nằm xuống nghỉ giây lát. Ðồng Tân vừa nằm xuống liền chiêm bao thấy đi
thi đậu Trạng, cưới vợ đẹp, vua bổ làm quan, 50 năm lên chức Thừa Tướng, con
cháu đông đảo, giàu sang tột bực, vẻ vang hiển hách. Sau đó bị gian thần hãm hại,
vua bắt tội, tịch thu tài sản, đày ra Lãng Biển, khổ sở vô cùng. Ðồng Tân giựt
mình thức dậy, thấy nồi bắp vàng nấu vẫn chưa chín. Ðồng Tân suy nghĩ mà chán
ngán sự đời, liền nhờ Hớn Chung Ly truyền đạo tu hành. Giấc huỳnh lương là ý
nói xem công danh phú quí như là giấc mộng.
Ðằng cát: Dây đằng và dây
cát là loại dây leo, chỉ thân phận của người phụ nữ phải sống nương tựa vào chồng.
Bóng tùng: Bóng của cây
tùng, chỉ người chồng.
Câu thơ 7: Sự tích
TrươngLương, công thành thân thoái.
Cầm đường tiếng hạc: Chỉ
cuộc sống nhàn hạ thảnh thơi, thanh bạch với cây đàn và con chim hạc.
Muôn chung: Thành ngữ:
Ngàn tứ muôn chung (Ngàn cổ xe vạn chung thóc), chỉ nhà rất giàu.
61 . Ðàn Chợ Lớn (Nhà của Ngài Lê văn Trung)
Ngày 13-12-1926 (âl 9-11-Bính Dần)
THẦY
Các con,
Vốn Thầy tạo lập nền Chánh giáo cho dân Nam Việt chẳng phải là việc nhỏ
đâu. Các con ví biết Ðạo là quí thì phải ân cần thận trọng, đợi đến ngày thành
tựu, các con mới thấy rõ Thiên cơ, thì
chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi nầy sao đặng, vì mỗi việc khó khăn
trắc trở là lúc sơ khai.
Vậy Thầy khuyên các con ráng thành tâm hành đạo, mà
Ðạo không phải giữ bằng lỗ miệng không đâu.
Thầy thấy nhiều đứa trong các con có ý theo Ðạo
đặng toan kế làm nhiều việc chẳng lành. Thầy vì thương nhơn loại, muốn cứu hết
nên thường thâu thập nhiều đứa vô tâm, cũng muốn cho chúng nó ăn năn chừa lỗi,
ngõ hầu hưởng phước, mà chúng nó không biết tự hối thì làm sao mong rỗi đặng.
Ðến buổi chung qui mới thấy Thiên đàng, Ðịa ngục thì đã muộn rồi.
Các con phải xét mình cho lắm nghe!
62 . Ngày 14-12-1926 (âl 10-11-Bính Dần)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI giáo đạo Nam
phương
Hỉ chư môn đệ, chư ái nữ, chư nhu.
Th . . . nghe Thầy con:
Thanh nhàn muốn vẹn
buổi chung qui,
Giáo hóa nhân sanh đức phải vì.
Bước thế chịu đày khơi bạch
phát,
Nguồn
Tiên ráng lướt rạng thanh mi.
Nâu
sồng tánh gội dành trăm tuổi,
Chung
đỉnh đường qua trót một thì.
Gương
sáng phước Trời soi hậu tấn,
Chờ
xuân khải chiết đắc mai chi.
Từ đây, Thầy là Ðứng cầm quyền thế giới, đã vì con
mà độ dẫn con lại cảnh thanh nhàn cực lạc.
Vậy rán giồi Thánh đức, lấy đạo hạnh mà giáo hóa
đám dân sanh, phần nhiều đã mơ màng trong giấc mộng. Thầy trông mong nơi con,
khá cải sửa chút ít phàm tâm, thì đức tánh mới đặng trọn vẹn.
Công quả tuy nhọc nhằn, nhưng địa vị cao thượng
cũng chẳng phải dễ đoạt được. Có vì chúng sanh mà khổ tâm hành đạo, có khó
nhọc, có dãi dầu sương mơi nắng xế, mà quên bậc phẩm vô vị ở cõi trần nầy, có
vày vã nẻo gai chông lần theo bước đường hạnh đức, mới có ngày vui vẻ bất tận,
mới có buổi an hưởng địa vị thiêng liêng, tránh điều phiền não, thoát đọa luân
hồi, mới có lúc rảnh nợ phong trần, nhàn xem sự thế, non cao suối lặng, động
mát rừng thanh, là chỗ con lấy đạo đức làm thang để bước lên cho cùng tột.
Khá gắng nghe và hành trình liệu bước.
Chư nhu cũng tùy đó mà sửa bước. Nhơn sanh phải
thiện tâm và hết lòng vì đạo đức mới đặng Thần, Thánh chứng minh, mới có thấy
ngày kết quả đặng.
Thầy vì đức háo sanh nên thâu thập nhiều đứa lương
tâm chưa chánh đáng, là Thánh ý để cho chúng nó qui chánh cải tà, nhưng thói
phàm tục lung lăng chẳng dứt.
Nếu Thầy chẳng lấy đại từ đại bi mà lập Ðạo thì đã
để cho chư Thần, Thánh hành hình nặng nề chẳng xiết kể.
Biển khổ đã lắm nổi chìm, mà nhành dương liễu chẳng
mau vói níu, đọa trầm luân chưa chịu thoát, mà điều tình tội lại chác thêm,
buộc thảm đeo phiền, cũng tự mình tác tệ, chờ ăn năn rất muộn về sau. Khá hiểu
lấy. Thăng.
CHÚ THÍCH:
Th . . .: Ngài Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh (
Nguyễn Ngọc Thơ).
Bạch phát: Tóc bạc. Phát là tóc, bạch là trắng.
Nguồn Tiên: đồng nghĩa Nguồn Thánh, ý nói một nền
đạo đức cao siêu huyền diệu.
Thanh mi: Mày xanh, chỉ tuổi trẻ.
Chung đỉnh: Cái chuông và cái vạc, ý nói giàu sang.
Nâu sồng: Màu nâu và màu sồng là 2 màu quần áo của
tăng ni Phật tử. Nâu sồng là chỉ sự tu hành.
Khải chiết đắc mai chi: Vui vẻ bẻ được cành mai, ý
nói đắc thắng. Câu 8 của bài thơ: Chờ tới mùa xuân thì đắc thắng.
Ðứng: Ðấng thiêng liêng.
Dãi dầu sương mơi nắng xế: Phơi mình ra chịu đựng
sương sáng nắng chiều, ý nói chịu nhiều vất vả khổ cực.
Bậc phẩm vô vị: Thứ bậc và phẩm tước không giá trị.
Bất tận: Không hết, không dứt. Tận là hết, dứt.
Phong trần: Gió bụi, chỉ những nỗi vất vả ở đời.
Non cao suối lặng, động mát rừng thanh: Chỉ cảnh
đẹp đẽ thanh nhã, ấy là cảnh Tiên.
Qui chánh cải tà: Trở về điều Chánh, sửa đổi điều
Tà.
Tình tội: Tội tình, tội lỗi phạm phải.
Nhành dương liễu: Cành cây dương liễu dùng để Ðức
Quan Âm Bồ Tát rải nước Cam Lồ, ý nói sự cứu vớt chúng sanh của Ðức Quan Âm Bồ
Tát.
63 .
Thứ tư, 15-12-1926 (âl 11-11-Bính Dần)
THÁI BẠCH
Hỉ
chư Ðạo hữu, chư nhu, chư tín nữ.
Chỉnh
đàn cho nghiêm đặng Thầy ngự.
Qu'on dise à ces Francais qu'ici est une Maison de
Prières, qu'il ne faut pas qu'ils la considèrent comme une curiosité.
NGỌC
HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
giáo đạo Nam phương
M . . . debout et lis.
Toute chose vient à son heure.
Tu as vu et su ce que la plupart de tes compatriotes cherchent à voir et à
savoir. Ce n'est qu'à la suite de la conclusion des recherches spirites que
J'enseigne cette Nouvelle Doctrine.
N'ai-Je pas prédit que le Spiritisme est une religion d'avenir? Tu as
naturellement l'intention de créer en ce pays une relation morale des deux
races Français et Annamite appelées à vivre ensemble par ma volonté dans une
communauté de vie et d'intérêts.
Tu seras satisfait par une vie d'un homme de bien. Tes voeux seront
exaucés. Tu seras plus tard un de mes fervents disciples pour prêcher au monde
la paix et la concorde.
L'équipe Francais sera bientôt créée.
Tu seras forcé de revenir en France en 1928, pour soutenir cette Doctrine
au Congrès Universel. Tu seras grand et puissant par ma volonté.
Au revoir. C'est assez pour toi.
Bài dịch Việt văn của Hội Thánh:
THÁI BẠCH
ỉ chư đạo hữu, chư nhu, chư tín nữ.
Chỉnh đàn cho nghiêm đặng Thầy ngự.
Nói với mấy người Lang-sa rằng, đây là Thánh Thất (Nhà nguyện), không nên
xem đây như là một sự hiếu kỳ.
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀIgiáo đạo Nam phương
M . . . , hãy đứng dậy và đọc.
Mọi việc đều đúng giờ đã định.
Con đã thấy và hiểu những điều mà phần đông đồng bào của con đang tìm hiểu.
Chỉ sau nhiều cuộc khảo cứu và sưu tầm về Thần Linh Học mà Thầy đem truyền nền Ðạo lý mới mẻ nầy.
Thầy há chẳng có lời tiên tri rằng Thần Linh Học là một nền đạo tương lai
sao?
Hẳn nhiên con đã thành tâm thật ý muốn gây tại xứ nầy tình liên lạc tinh
thần giữa hai dân tộc Pháp - Việt mà Thầy chí quyết cho họ được chung sống
trong cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt.
Con sẽ đắc kỳ sở nguyện của một người làm phải. Lời khẩn nguyện của con sẽ
được chấp thuận. Sau nầy, con sẽ là một trong các môn đồ trung thành của Thầy
để đi truyền bá hòa bình và tương ái trên khắp hoàn cầu.
Ban Truyền giáo Pháp sẽ được thành lập gần đây.
Con cần phải về Pháp trong năm 1928 để binh vực
Giáo lý của Thầy tại Hội Nghị Ðại Ðồng Tôn giáo. Con sẽ trọng đại và đủ quyền
năng do Thiên ý.
Bấy nhiêu cho con rõ.
Thầy từ giã.
CHÚ THÍCH:
Bài TN Pháp văn nầy có
trong ÐS.II.93.
M . . .: Ông Marcel Martin, 135 rue Catinat, Saigon.
Thần Linh Học (Spiritisme): là khoa học nghiên cứu về cách thông công giữa
con người hữu hình với các Ðấng vô
hình, để chứng minh rằng có sự hiện hữu của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật và sự
hiện hữu của Thượng Ðế, tức nhiên có sự hiện
hữu của linh hồn. Con người khi thể xác chết đi, không phải là hết, mà còn có linh hồn. Linh hồn xuất ra khỏi thể xác
để chuyển qua sống trong thế giới vô hình. Chính vô hình điều khiển thế giới
hữu hình.
Thần Linh Học Thế giới khởi đầu xuất hiện ở nước Mỹ năm 1847, tại New York
gây được sự chú ý của nhiều giới.
Năm 1852, một Hội Nghị Thần Linh Học đầu tiên được tổ chức tại Cleveland.
Năm 1854, số người theo Thần Linh Học ở Mỹ đến 3 triệu người, trong đó có
hơn 1000 đồng tử.
Từ năm 1852 đã có một phái đoàn Thần Linh Học từ Mỹ sang truyền bá nơi nước Anh, gây
được một phong trào Thần Linh Học mạnh mẽ ở nước Anh.
Năm 1853, một nhóm Thần Linh Học khác sang nước
Pháp và Ðức, cũng gây được phong trào Thần Linh Học đáng kể ở 2 nước nầy. Hai
Ông Chevreul và Faraday ở Hàn Lâm Viện Pháp cầm đầu một nhóm đả phá dữ dội Thần
Linh Học, nhưng không kết quả. Bà Giradin, một đồng tử Thần Linh Học Pháp giúp
Văn hào Victor Hugo thông công được các Ðấng Vô hình trong lúc Victor Hugo đang
tỵ nạn chánh trị tại đảo Jersey thuộc Anh. Những bài Thánh giáo được Victor
Hugo tập hợp thành quyển sách nhan đề: Les tables tournantes de Jersey chez
Victor Hugo.
Giáo sư Charles Richets tại Ðại học Sorbonne Paris,
sau nhiều năm nghiên cứu Thần Linh Học, cho xuất bản quyển sách: Traité de
Métaphysique.
Năm 1853, Allan Kardec lập thành học thuyết Thần Linh Học với 2 tác phẩm:
Le livre des Esprits, và Le livre des médiums.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét