Thánh Ngôn Hiệp Tuyển I & II - 7 / 9 (BSCT, Hiền Tài - Nguyễn Văn Hồng )

145.  Ngày 10-2-1929 (âl 1-1-Kỷ Tỵ) [TẾT KỶ TỴ]
THẦY
Các con,
Ngày tháng vẫn mỏi mòn, mà đường Ðạo nhắm còn dài đăng đẳng. Một xuân qua là một dặm đường phải bước tới, mà Thầy ngảnh lại bước đường của môn đệ, Thầy vẫn thấy sụt sè chớ chưa thấy chi có mòi tấn phát.
Dần qua Mẹo lại, Thìn đến Tỵ về, xuân đổi lại xuân thay, năm kề rồi năm mãn. Ôi! Tấc bóng quang âm
nhặt thúc, mà xem lại tâm hạnh của mỗi con của Thầy thì nét Ðạo vẫn kém hơn, đức chưa thêm được, tâm chí mòn mỏi lối đường ngay mà nấu nung về nẻo vạy, e cho nền tảng thiêng liêng đồ sộ phải nghiêng ngửa. Rồi đây, các con cũng chưa chắc hết tranh cạnh giành xé nhau mà làm cho nền Ðạo phải chia tan tành.

Ðạo còn chứa tà vạy, người còn say mối lợi danh, thì phương chi cứu chữa bịnh Ðạo cho hết. Thầy cũng lắm đau thương, nhưng cũng chẳng cải sửa chi đặng. Thầy đã giao trách nhiệm lớn lao cho mỗi đứa đáng tin cậy, chúng nó chẳng biết điều đình thì phú mặc Tà quái xâm phạm mà thôi.

Ôi! Xuân tàn xuân đến, cái xuân của người đã sắp lụn hao, mà rồi cái xuân của Trời Ðất nước non cũng chưa chắc là vô cùng vô tận.

Các con nếu biết đời khổ tâm, biết vày vò tình thế, biết chịu kém sút trong nẻo lợi đường danh, biết thiệt mình mà đặng cho kẻ khác, biết đổ lụy cho kẻ vui cười, biết nhọc nhằn trong kế sinh nhai, biết giữ tâm chí cho thanh bạch, đừng nhơ bợn của chẳng nên dùng, biết động mối thương tâm, thương người hơn kể mình, thì là các con được tắm gội hồn trong mà về cùng Thầy đó.

Nét nào chưa vẹn, khá biết sửa lần, chớ nên trì huỡn. Ðạo suy đức kém, Tà quái lừng hơi, các con gắng chung tâm xua trục hết lũ vạy tà thì hiến công lớn cho Thầy đó. Thầy ban ơn cho các con. Thăng.

CHÚ THÍCH:
Bóng quang âm: Chỉ ngày và đêm. Quang là sáng, âm là tối. Bóng quang âm nhặt thúc: Ngày đêm thay đổi qua mau.
Tâm chí mòn mỏi lối đường ngay: Tâm và ý chí đã mòn mỏi trên con đường chánh đạo, không muốn bước tới nữa.
Nấu nung về nẻo vạy: Bị thôi thúc đi vào đường tà vạy.
Biết đổ lụy cho kẻ vui cười: Phải có lòng vị tha, quên mình mà lo cho người.
Tắm gội hồn trong: Như được tắm gội trong nước Cam lồ cho linh hồn và chơn thần được trong sạch.
Xua trục: Bắt buộc xuất ra và đuổi đi chỗ khác.

146 .  Tòa Thánh Tây Ninh
Ngày 16-4-1929 (âl 7-3-Kỷ Tỵ), Giờ Tý.
THẦY
Các con,
M . Ng . . kêu mấy anh con, kêu nữ phái, vì chúng nó vái ở dưới tội nghiệp.

Thầy đã nói rõ ràng: Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con, nhưng mà hại thay vì biếng nhác, các con không đọc Thánh Ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.

T . .! Con có nhớ lời Thầy nói với các con rằng: Ðạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại thiêng liêng chi vị thì ai đem các chơn hồn vào cửa Thiên giùm cho các con, lại nữa các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh, thay mặt Thầy nơi thế nầy về phần Ðời, còn phần Ðạo cũng phải có đôi đứa mới đặng cho. Cười . . . . . . . . . . . . . .

Th .! Con phải xây cái tháp của Thượng Phẩm phía trước cây ba nhánh, phải day về hướng đông, giống như ngó vào điện mà hầu Thầy vậy, song ba từng phải lợp ngói như nóc chùa của các Ðường nhơn vậy, nghe!

Ðừng làm như cái tháp của Bảo Ðạo vì hai đứa phẩm vị khác nhau. Chung quanh Bát quái đài phải làm như hình có cột, tại chính giữa tháp phải có một lỗ cho nhựt quang rọi tới liên đài.

Các con sẽ bị Thái Bạch quở phạt, liệu lấy mà sửa mình, phải tùy theo lịnh dạy của nó, đặng nó giảm nộ chút ít, nghe! Thăng.

CHÚ THÍCH:
M. Ng . .: Mỹ Ngọc, hiệu của Ngài Bảo Văn Pháp Quân.
T . .: Tắc, Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
Th .: Thơ, Ngài Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh.

Bài Thánh Ngôn nầy Ðức Chí Tôn nói về việc đăng Tiên của Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư, và dạy vị trí và cách xây tháp. (Ðức Cao Thượng Phẩm đăng Tiên ngày 1-3-Kỷ Tỵ)

Chỗ nhiều chấm, có trong ÐS. I. 76, xin chép bổ sung:
"Con (Tắc) đừng phiền mà trách mấy anh con, nhứt là đừng nói rằng chúng nó giết Thượng Phẩm, nghe! Vì Thiên cơ đã định, các con biết chi mà hờn trách lẫn nhau."

Thiêng liêng chi vị: Ngôi vị nơi cõi thiêng liêng.
Nóc chùa của các Ðường nhơn: Nóc chùa của người Tàu, có mái ngói cong lên.
Nhựt quang rọi tới liên đài: Ánh sáng mặt trời rọi xuống tới liên đài của Ðức Cao Thượng Phẩm đặt trong tháp.

Tháp xây có hình 8 cạnh như là Ðài Bát quái, có 3 từng mái ngói cong lên. "Chính giữa tháp, trên nóc có làm mặt kiếng, nghĩa là làm cái bầu có để mặt kiếng đặng cho nhựt quang giọi tới liên đài, phải làm cái bầu cho lớn đặng để mặt kiếng lớn mới được."

147.  Ngày 11-1-1930 (âl 12-12- Kỷ Tỵ)
THẦY
Các con,
Thầy thường nói với các con rằng, các con là cơ thể của sự thương yêu, mà các con không còn hiểu sự thương yêu là gì, bởi nơi nào đó? T. . kiếm coi.
 (T . . bạch: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . )
- Không, con. Sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn khôn Thế giới. Có thương yêu, nhơn loại mới hòa bình, Càn khôn mới an tịnh. Ðặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, mới giữ bền cơ sanh hóa.

Còn nghịch cơ sanh hóa là ai? Các con có biết không? T . . kiếm coi.
 (T . . bạch: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . )
- Không, con. Con nói đó là nói dối cho Tà quái, chớ thiệt là cho Quỉ vương. Quỉ vương là tay diệt hóa. Cũng như có sống của Thầy ắt có chết của Quỉ vương vậy. Vậy thì các con coi Quỉ vương lấy cơ thể nào mà toan hại các con?
 (T . . bạch: Quỉ vương xúi giục người không đem lòng bác ái mà gây rối lương sanh.)
- Sao con không dùng tiếng chết mà tỏ lý cao sâu? Vì có ghét nhau, vạn loại mới khi nhau, khi lẫn nhau mới tàn hại hại nhau, mà tàn hại lẫn nhau là cơ diệt thế.

Vậy Thầy cấm các con từ đây, nếu không đủ sức thương yêu nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau, nghe à! Thăng.

CHÚ THÍCH:
T . .: Tắc, Ðức Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
Các con là cơ thể của sự thương yêu: Ðứa con được sanh ra là do tình thương yêu thắm thiết của một cặp vợ chồng, và nó được nuôi dưỡng khôn lớn trong tình thương yêu của cha mẹ. Ngoài ra, nó còn được Ðức Chí Tôn và Phật Mẫu ban cho linh hồn và chơn thần, nên nó cũng được hai Ðấng Cha Mẹ thiêng liêng thương yêu y như cha mẹ phàm trần của nó vậy. Cho nên, con người là cơ thể của sự thương yêu của cha mẹ phàm trần và của cả 2 Ðấng Cha Mẹ thiêng liêng nữa.
Giềng bảo sanh: Cái đầu mối chánh bảo vệ sự sống.
Cơ Sanh hóa: Bộ máy sanh hóa. Sanh hóa là sự biến hóa sanh ra, hay sự sanh ra và nuôi dưỡng cho lớn lên. Cơ sanh hóa là của Ðức Chí Tôn.
Diệt hóa: Tiêu diệt sự sanh hóa. Cơ diệt hóa là của Quỉ vương. Nó chỉ biết làm chết chớ không biết cứu sống.
Lương sanh: Người tốt, người có căn lành.
Khi nhau: Dối trá với nhau. Khi là dối trá.
Tàn hại: Hại nhau một cách tàn ác.

148 .  Tây Ninh, [ VÍA ÐỨC CHÍ TÔN ]
Ngày 7-2-1930 (âl 9-1-Canh Ngọ)
THẦY
Các con,
Thầy quyết lấy đức háo sanh mở Ðạo, cứu rỗi sanh linh cho kịp trước kỳ Hạ nguơn nầy, nhưng Ðạo chẳng hoàn toàn, con đường đi chưa cùng bước, là vì tại nơi lòng nhiều đứa chưa để hết tín ngưỡng mà nghe lời Thánh giáo, cho nên lần hồi, nền Ðạo phải ra tan tành manh mún.

Kẻ hữu đức buồn lòng thối bước, đứa chơn thành không vui nắm tay theo. Ma hồn quỉ xác loán vào, kẻ đức thiếu níu đứa không nhân, thành ra nhân kém đức suy, cứ thẳng một đường tà dung ruổi.

Cơ lập Ðạo là nhiệm mầu vô giá. Biết Ðạo, biết ta biết người, biết thế biết thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt, rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng, biết sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ, biết thân nô lệ dẫn kiếp sống thừa, biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối. Có đâu đường đời còn lắm giành xé, hại lẫn nhau, mong chi đặng tầm Tiên noi Phật.

Công Thầy bố hóa bị lũ học trò tham lam ngu xuẩn dục lợi cầu danh, làm cho Tà quái lẫn vào, dìu dắt vào chốn hang sâu vực thẳm. Thế là hồn Ðạo phải chịu ngàn năm phưởng phất.

Thầy thấy nhiều đứa xả thân cầu Ðạo, diệt tục xủ phàm, để mình làm hướng đạo. Hỏi vậy có ai xứng đáng chưa? M. Ng. .? (M. Ng . . bạch: . . . . . . . )

- Ôi! Thầy vì mấy chục ức nguyên nhân, không nỡ để cho ngôi phẩm tan tành, chớ lấy luật Thiên thơ thì không một ai dự vào kim bảng.

Tu hành vẫn trái với thế tục, mà trái với thế tục mới đặng gần ánh thiêng liêng. Thầy thấy nhiều đứa, tu cũng muốn tu mà thế tục cũng không muốn chừa bỏ. Thế tục là nét dìu dắt cho mất tánh thiêng liêng, phải lấy nghị lực cang tâm mà kềm chế thì cái lối diệt vong, mới chẳng làm uổng công phu hành đạo cho.

Áo dà cũng muốn mặc, giày đạo cũng muốn mang, muốn đứng trước cả nhơn sanh để cho họ biết mình là hướng đạo. Ðường Tiên cũng lấp lửng, nguồn Thánh cũng toan vào, mà thấy bạc rơi cũng chẳng bỏ, lợi mún chẳng từ, mượn danh Ðạo mà tạo danh mình, vô Thánh điện mà hơi tà còn phưởng phất. Muốn cho nhà thiệt cao, áo thiệt tốt, mượn lốt cọp dọa cáo bầy, bụng trống lổng, túi thâu đầy toan làm thầy lũ dại.

Ôi! Lốt Ðạo, lốt Ðạo! Thầy buồn cho trẻ ngây, chẳng còn biết làm sao đem Thánh giáo vào tai chúng nó được.

Thầy nhớ xưa, kẻ mộ Ðạo chịu ngàn cay muôn đắng, biết có người mà chẳng biết nhọc mình, giày gai áo bã, đội nguyệt mang sao, gió trước lọt chòi tranh, mưa sau hư giậu lá, bần hàn chẳng quản, tay trắng dìu người, một mảy không bợn nhơ, mới có thể lập ngôi cho mình đặng; có đâu lấy của lấn nhân, mượn quyền xua đức, kẻ chân thành lánh mặt, đứa tà mị áp vào, rồi cúm núm mang hơi tà, lại đua nói rằng thờ Chánh giáo. Thầy hỏi: Ai chứng cho?

Lễ Nhạc chẳng hoàn toàn, nhiều đứa cậy tài học giỏi, lượm lặt sách xả rác hủ nho, mong bài bác đặng vinh mặt. Thầy bây giờ chỉn để phú Thiên điều hành luật. Ai biết nguồn cội, vội sửa mình, mới mong tránh khỏi lũ Tà ma mà đi cho cùng bước Ðạo.

Uổng thay! Nền Ðạo chẳng phải hư, ngày nay không phương tái lập. Thầy giao cho mấy đứa, vì Ðạo vì Ðời khá hiệp trí chung lo, họa may mới vớt người đặng muôn một.
M. Ng . . , con được phép cho mấy anh Tr . . . , Tr . . . coi Thánh giáo của Thầy.

Thầy cho các con hay rằng, Ðại lễ Tòa Thánh chẳng hoàn toàn theo cách thức dạy trước đây thì khá biết rằng có Tà quái chứng mà thôi, nghe!

Thầy khuyên các con:
Bước Ðạo lần chơn một dạ thành,
Xu trần chớ luyến lợi cùng danh.
Nâu sồng nhuộm áo pha màu khổ,
Tránh mối oan khiên chớ buộc mình.
Thầy ban ơn cho các con. Thăng.

CHÚ THÍCH:
M. Ng. .: Mỹ Ngọc, hiệu của Ngài Bảo Văn Ph. Quân.
Tr . . . , Tr . . .: Trung, Trang. Ðó là Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt và Chánh Phối Sư Ngọc Trang Thanh.
Dinh hư: Doanh hư. Doanh là đầy tràn, hư là trống không. Dinh hư là khi đầy khi vơi, khi đầy đủ khi trống không.
Tồn vong ưu liệt: Còn, mất, tốt, xấu (thắng, bại).
Kiếp sống thừa: Kiếp sống không làm gì hữu ích cho ai hết, lại ăn bám vào người khác, tạo gánh nặng cho xã hội.
Bố hóa: Dạy dỗ cho hiểu biết để sửa đổi từ xấu ra tốt.
Diệt tục xủ phàm: Tiêu diệt và trút bỏ những cái tầm thường thấp kém của mình để trở nên cao thượng.
Mấy chục ức nguyên nhân: Ý nói 92 ức nguyên nhân đang còn chìm đắm cõi trần. Kim bảng: Bảng vàng ghi tên người thi đậu. Nghị lực cang tâm: Nghị lực là sức bền vững làm việc. Cang tâm tức cương tâm là lòng dạ cứng cỏi.
Vô Thánh điện mà hơi tà còn phưởng phất: Ði vào Ðền thờ Ðức Chí Tôn mà vẫn còn giữ nét vạy tà bất chánh. Cho nên, trước khi vào Tòa Thánh, chúng ta đến Tịnh Tâm Ðiện, là nơi để chúng ta loại bỏ những tư tưởng xấu, giữ tâm trong sạch, tư tưởng không không, sau đó mới vào làm lễ Chí Tôn.
Lốt Ðạo: Mang áo mão đạo chớ không biết Ðạo.
Giày gai áo bã: Giày làm bằng cỏ không êm chân, áo được may bằng vải vụn. Ðó là giày và áo của người tu.
Mưa sau hư giậu lá: Chỉ cảnh nghèo, nhà cửa hư nát. Giậu là tấm phên.
Xu trần: Ði vào cõi trần, tức là sống trong cõi trần. Xu là đi rảo bước.

149 .  Ngày 12-4-1930 (âl 14-3-Canh Ngọ)
NHÀN ÂM ÐẠO TRƯỞNG
Hỉ chư đạo hữu.
Ðã lâu, Bần đạo không được giáp mặt chư đạo hữu để luận một vài câu chuyện về đạo đức. Hôm nay, Bần đạo cũng để dạ khen một ít hiền hữu đã để hết tâm chí trau giồi Thánh chất, mà cũng buồn nhiều đạo hữu còn chăm nom bước thế hơn đường tu.

Ðức Chí Tôn đã lấy từ bi mà châm chế, mong ngày Ðạo được hòa bình. Vậy khá chung trí hiệp tâm mà tái dìu mối Ðạo. Ấy là phương chuộc lỗi sửa mình mà trở về ngôi cũ đó. Phải khá lo xa.

H . . hiền hữu lúc nầy chuyên về văn chương quốc âm nhiều lắm há? Nhiều đạo hữu khác đã từng được Thánh giáo và học hỏi đã thông.

Vậy Bần đạo xin giải giùm bài thi nôm nầy:
Ðường về chớ nệ bước non sông,
Lần đến tìm nơi cảnh bá tòng.
Bụng trống thảnh thơi con hạc nội, (1)
Lúa đầy túng tíu phận gà lồng. (2)
Cô phần ngảnh lại đà bao tuổi, (3)
Sô diện xem qua khỏi mấy dòng. (4)
Một điểm quanh co lên một nấc,
Lần lừa ngày tháng ắt qua đông.

(Nhiều người giải bốn câu trên, qua đến điển tích và cặp luận thì không ai hiểu hết, nên Ngài giải nghĩa).

GIẢI:
 (1) (2): Lý Bạch viết:
Lung kê hữu mễ than oa cận,
Dã hạc vô lương Thiên Ðịa khoan.

Thích nôm: Gà lồng có lúa đầy bụng hằng ngày mà nồi nước sôi hằng cận bên, không biết phải bị giết ngày nào.

Còn con hạc nội, tuy bữa đói bữa no, nhưng Trời Ðất rộng thinh, mặc tình cao bay xa liệng.
Tóm lại, thà cực mà được thong thả, còn hơn sướng mà phải chịu nguy hiểm.
Có mối Ðạo dìu mình được tự do thiêng liêng, mà cái tự do thiêng liêng ấy, ta hãy làm con hạc nội mới mong chiếm được.
(3) Cô phần là mả hoang.
 (4) Sô diện là nhăn mặt.
Nghĩa giải riêng Luận nhứt và Luận nhì, chớ không phải chung nghĩa.

GIẢI:
Ta nhìn mấy cái mồ hoang mả lạnh, nếu tìm mà hỏi cho rõ tông tích thì toàn là những kẻ thiếu niên nằm nơi đó. Thế thì đời người như bọt nước, như mây bay, nếu chẳng lo tu sớm, chừng khuất bóng rồi, té ra mình chưa gặp Ðạo.

Ðức Thích Ca nói:
Mạc đãi lão lai phương học Ðạo,
Cô phần tận thị thiếu niên nhơn.

Nghĩa là: Chớ có đợi lúc già mới học đạo,
Những mồ hoang ấy toàn là của kẻ còn trai trẻ.

Chư đạo hữu hiểu rõ chưa?
 (4) Dòng đây là dòng nước, nước mà bị gió thổi, có con sông nào khỏi nhăn mặt.

Nước bị gió như người bị cường quyền, nếu chẳng thoát ra quyền ấy thì chưa dễ chắc còn thân. Ðạo là phương dìu người khỏi quyền ấy mà thôi.

Cổ nho có câu:
Thanh sơn nguyên bất lão, vị tuyết bạch đầu,
Lục thủy bổn vô sầu, nhơn phong sô diện.

Nghĩa là: Núi kia chẳng phải già mà bị tuyết đóng nên bạc đầu, Nước kia chẳng phải sầu mà bị gió thổi nên nhăn mặt.

Phải tìm cao xa mà hiểu.
Còn hai câu chót, ai cũng hiểu.
Vậy chư đạo hữu rán học Ðạo, nghe! Thăng.

CHÚ THÍCH:
Ðường về chớ nệ bước non sông: Con đường về với Ðức Chí Tôn, chớ nệ hà khó khăn qua sông vượt núi.
Cảnh bá tòng: Ý nói cảnh chùa, nơi tu hành.
Túng tíu: Bó buộc, chật hẹp, ngặt nghèo.
Một điểm quanh co lên một nấc: Ý nói, trên đường tu, vượt qua 1 bước khó khăn thì trình độ đạo đức tăng lên 1 bực.
Lần lừa ngày tháng ắt qua đông: Ngày tháng qua mau, chớ nên chần chờ, sớm lo tu hành, mùa đông giá rét sắp đến.

150 .  Ngày 21-4-1930 (âl 23-3-Canh Ngọ), Giờ Sửu.
THẦY
Các con,
Tr. . .! Thầy lập nền Ðạo nầy ra, do nơi Thiên thơ, lại cũng có lòng từ bi, để vớt cả mấy chục triệu nguyên nhân lớn lao trở hồi cựu vị.

Thầy biết có những chơn linh, vì lãnh mạng tá phàm, mà dìu dắt các con của Thầy, nên chẳng nại công lao khó nhọc, yêu cầu cùng Tam Giáo nới tay cho Thầy cứu rỗi các con.

Than ôi! Công trình Thầy và các Ðấng Thiêng liêng thì nhiều mà tấc thành của mỗi con thì không đặng mấy. Nhiều phen sóng khổ muốn chìm đắm các con mà Thầy phải sợ cho đến nhăn mày khổ lụy.

Thấy vậy chẳng đành, Thầy phải sửa cải Thiên thơ mà để cho mỗi đứa được có ngày giờ và thế lực mà dìu dắt nhau cho tròn phận sự, nhưng rốt lại, tà quyền cũng lấn lướt chất Thánh, bước tục dẫn chơn phàm, Thầy rất đau lòng mà dòm thấy con cái líu xíu bị lầm vào đường tà quái.

Ðứa thì mê tài, đứa thì ham cận sắc, đứa bị biếm vào lối lợi quyền, đứa bị xô vào nơi thất đức. Mỗi đứa mỗi nẻo, đều quăng sạch chất thiêng liêng, lầm lủi đưa tay theo mấy mươi động.

Hại nữa là các con lại bị nó tàng ẩn, xô cho dang nhau, bứt nghiến tình đoàn thể, chặt lìa dây liên lạc, giành xé cắn rứt nhau như kẻ khác nhà, gà riêng ổ, cho đừng có thế lực chi mà kình chống với chúng nó, rồi rốt cuộc lại thì các con phải lần lần bị manh mún phân chia, sa vào hang sâu vực thẳm.

Thầy tưởng để cho các con lo liệu, giành giựt, đương cự với chúng nó, nhưng dòm Thiên thơ, thì tám phần mười đã sa ngay vào chơn của Quỉ vương vày đạp, mà lại phần đông các con là bậc phẩm cao, chức trách trọng hậu.

Thầy phải ép lòng chịu tư vị với các con mà thố lộ chút ít. Vậy nên biết mà kềm sửa bước đường đặng cứu chữa căn bịnh cho nhau và ngăn ngừa bước đường cho những đứa sẽ đến.

Tà đã thắng Chánh thì con làm thế nào đương cự cho kham. Con là đứa Thầy đã tin cậy hồi mới ban sơ, tuy bước đường cũng lắm lúc sai lầm, nhưng nhờ các Ðấng Thiêng liêng thương mà chỉ dẫn, nên bước vừa trờ tới, kịp lúc trở ra.

Thương hại thay cho nhiều đứa khác, quyền chưa từng nắm, của chưa đặng cầm, sắc chưa từng gần, lợi chưa từng thấy, bị lũ quái tùy Thiên thơ, đem treo trước mắt mà phải lầm lủi bước đường, chơn linh quí hóa kia mắc lẫn với xác phàm mà phải chịu muôn đời chìm đắm.

Ðạo tuy cao, song nên biết sức Quỉ cũng chẳng hèn. Nếu không ngăn ngừa, dằn lửa nóng trong tâm thì lửa Tam muội của Quỉ vương đốt cháy.

Con khá hiểu lời Thầy và nên biết rằng, nếu con chẳng dụng quyền lực của Thầy ban cho con mà đương cự, dìu dắt các em thì một ngày kia, nó dẫn đi lần hồi hết, rồi còn một mình như chim lẻ bạn, như phụng lạc bầy, gặp cơn giông tố kia, cũng chẳng sức gì đởm đương cho khỏi sa nơi hắc ám. Chừng ấy thì thế giới phải tạo lập lại, sụt các con cho đến Ðịa cầu 72, đặng chờ lúc thiên niên đày vào Nghiệt Cảnh.

Nên biết trách nhậm rất nặng nề, nếu chẳng kham thì con đường thiêng liêng kia đâu an vị được.
B . . .! Thầy đã lấy ân huệ ban cho con, rất xứng đáng. Cái ân huệ ấy là tấm sắt hộ tâm, sao chẳng giữ gìn trọng trách, làm cho chinh lòng nhau?

Chưởng Ðạo Kim Biên lãnh mạng Thầy mà dìu dắt. Hễ có một bực trổi hơn thì con đường phải gay trở thêm. Nếu cái nhẫn kia chẳng đặng để đứng đầu, làm cho nó phiền, trả chức lại, cũng như Lý Bạch ngày nọ, thì mong chi đi cho cùng bước.
Thầy thấy Thiên thơ mà đau lòng, nên mấy lời nầy là lời chót thiết yếu chung.
Nơi đây cũng vậy, mà Kim Biên cũng vậy, khá chung lo mà gỡ rối, nghe!
Thầy ban ơn cho các con. Thăng.

CHÚ THÍCH:
Tr. . .: Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt.
Tá phàm: Giúp cõi trần, tức là giáng sanh xuống cõi trần để thực hành sứ mạng cứu giúp người đời. Tá là giúp đỡ.
Mấy mươi động: Tam thập lục Ðộng (36 Ðộng) của Quỉ vương, giả làm Tam thập lục Thiên của Ðức Chí Tôn để lừa gạt người tu nhiều hám vọng.
Tàng ẩn: Ẩn kín bên trong.
Lửa Tam muội của Quỉ Vương: Sự giận dữ trong lòng làm mờ ám lương tri, khiến con người làm nhiều điều xằng bậy, giống như ngọn lửa phép của Quỉ vương, đốt cháy hết công đức của người tu.
Ðịa cầu 72: Ðịa cầu đứng dưới chót hết trong dãy Thất thập nhị Ðịa, luôn luôn tối tăm lạnh lẽo, thuộc U Minh Ðịa, là nơi để trừng trị và đày đọa các tội hồn.
B. . .: Ông Lê Văn Bảy, Giáo Sư Thượng Bảy Thanh, làm Chủ trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo tại Kim Biên, Nam Vang, qui vị tại Nam Vang ngày 10-1-Mậu Tý (19-2-1948).
Chưởng Ðạo Kim Biên: Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn (tức Văn hào Victor Hugo, nước Pháp) được Ðức Chí Tôn phong chức Chưởng Ðạo cầm quyền Hội Thánh Ngoại Giáo, trụ sở đặt tại Kim Biên, Nam Vang. Ngài có quyền phong thưởng Chức sắc của Hội Thánh Ngoại Giáo (HTNG), và điều hành HTNG. Chức Chưởng Ðạo đối phẩm Chưởng Pháp CTÐ. (Xem thêm bài Thánh Ngôn số 158 phía sau).

151 .  Ngày 8-6-1930 (âl 12-5-Canh Ngọ)
QUAN THÁNH ÐẾ QUÂN
Hỉ chư đạo hữu,
Nền Ðạo chưa lập thành mà bên trong thì người biếng trau Thánh chất, nơi ngoài người lại muốn kêu nài so đo với các Ðấng Thiêng liêng, đặng làm cho rõ mình là thấy xa hiểu rộng.

Thời thế đã đổi dời, họa Thiên điều hầu kế cận. Từ Nam chí Bắc, khắp Ðông qua Tây, thỉnh thoảng trường náo nhiệt khởi động, diệt tàn kẻ vô đạo.
Xác phàm mắt thịt, nếu đã sẵn ánh thiêng liêng mà không sớm tỉnh hồn thì mảnh tro bụi kia chẳng khỏi chịu hình đòi lúc.

Than ôi! Trời cao minh soi xét mà người vẫn mê muội ám mờ, đem mảnh trí cỏn con kia chống kình với khuôn linh Tạo hóa.

Muốn học mùi Ðạo mà lại kèo nài giao kết thì dầu cho bậc phẩm nào đi nữa, cái ân đức từ bi cũng khó chiều theo được.
Các Ðấng thiêng liêng xưa kia khổ hạnh, công cán thế nào mới được về ngôi cao phẩm quí, há chẳng phải là gương tín thành đáng noi dấu hay sao?

Ðời mộng ảo nầy, sự còn mất như bọt nước mây bay, khá qui chánh cải tà, nắm giữ lòng thiện niệm thì một mai mới tránh khỏi bẫy vô thường của Quỉ vương đương giành xé.

Tánh kiêu căng tự đại là hang thẳm chôn lấp trọn thân hình hồn phách đó. Nên ghi nhớ mà lập tâm sửa mình. Khá gắng nhớ bài nầy:
Khuôn đời chưa dễ tạo nên hình,
Tóc bạc còn mờ lối nhục vinh.
Hòn ngọc khó đem trau Thánh chất,
Cân vàng khôn lấy nện chày kình.
Phước Trời gieo sẵn còn giao kết,
Lợi thế chưa nên xúm giựt giành.
Thời cuộc tuần hoàn tai ách khởi,
Liệu mà xông lướt, liệu đua tranh.
Các đạo hữu Thiên phong nên giảng bài nầy cho chúng sanh. Thăng.

CHÚ THÍCH:
Ánh thiêng liêng: Ý nói mối Ðạo của Ðức Chí Tôn.
Tỉnh hồn: Linh hồn thức tỉnh. Ðòi lúc: Nhiều lúc.
Mảnh tro bụi kia: Cái thể xác phàm kia, bởi vì thể xác phàm là do vật chất phàm trần tạo ra, nên nó là cát bụi.
Bẫy vô thường: Cái bẫy luôn luôn biến hóa để người ta không biết nên dễ bị lừa gạt mắc vào bẫy. Khi bị mắc vào bẫy rồi thì không thể thoát khỏi được.
Thân hình hồn phách: Thể xác, Linh hồn, Chơn thần.
Chày kình: Cái chày bằng gỗ có chạm hình con cá kình, dùng để dô?g chuông, chỉ việc tu hành. Khôn: Không.

152 .  Ngày 8-6-1930 (âl 12-5-Canh Ngọ)
NHÀN ÂM ÐẠO TRƯỞNG
Hỉ chư đạo hữu, chư đạo muội,
Bần đạo vâng Ðức Chí Tôn đến tỏ cùng chư đạo hữu yêu dấu ít lời.

Bần đạo rất buồn cho nhơn sanh chưa kịp nương bóng Ðạo, để đến đỗi ngày nay Thiên điều đã cận, nên biển khổ phải chịu đắm chìm, khó mong siêu rỗi đặng.

Cũng nơi Thiên tai, ách nước, nhưng rất đau lòng dòm thấy muôn ngàn nhơn loại lặn hụp chới với nơi vực thẳm hang sâu kia, mà con thuyền Bát Nhã cũng còn sóng dập gió dồi, linh đinh trên biển khổ sông mê, khó vớt người bị đắm.

Nền Ðạo thung dung được đứng sững trên cõi Việt mà đùm bọc che chở những kẻ hữu phước hữu phần, nếu dần dà chẳng tỉnh ngộ mà un đúc cho cứng khối tinh thần, để nay trở bước, mai đổi đường, thì mảnh xác phàm tục kia tránh sao khỏi lối tan tành ra tro bụi.

Bần đạo khuyên khá hết dạ kỉnh thành mà vọng ngưỡng nơi Ðấng Chí Tôn, thì con đường được thung dung đầm ấm, chí ư đem họa cỏn con biến đổi trong gia đình mà so sánh trành tròn với đức háo sanh của Tạo hóa, thì đường đạo đức minh quang thế nào trông trờ bước tới nữa, mà vẹt ngút mây xanh, trông vào cảnh tự tại.

Vào nơi đạo đức rồi, dầu cho phải cắt ái ly gia, chia tình xẻ nghĩa, máu thịt đoạn ly, mà làm cho tròn trách nhậm xứng đáng của mình, để hiến thân chuộc sanh mạng cho muôn ngàn kẻ đồng bào, thì cái đau đớn thường tình, sự khổ tâm ở thế kia, đau khổ nào có tiếc.

Ấy là cử chỉ của các bậc Thánh trước tìm mối Chơn đạo như thế. Chư đạo hữu nên ghi. Thăng.

CHÚ THÍCH:
Thiên tai ách nước: Thiên tai là tai họa do thiên nhiên gây ra như: Núi lửa, động đất, hạn hán, vv . . . Ách nước là tai họa do nước gây ra như lũ lụt, sóng thần, vv. . .
Vọng ngưỡng: Ngửa mặt trông chờ Ơn Trên chiếu cố.
Trờ bước: Bước ngay tới.
Cắt ái ly gia: Cắt đứt thương yêu và lìa khỏi gia đình.
Chia tình xẻ nghĩa: Vợ chồng tình nghĩa mặn nồng, giờ đây phải xa cách nhau.
Máu thịt đoạn ly: Tình cha con hay tình mẹ con phải chịu phân ly xa cách để đi tu.

153 .  Ngày 10-6-1930 (âl 14-5-Canh Ngọ)
LÝ BẠCH
Hỉ chư đạo hữu,
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Ðạo chẳng phải một món hàng mà nay đem cầu người nầy, mai đem nài kẻ kia cho họ biết mà nhìn nhận, thật nên nhục thể Ðạo quá!

Ðấng Chí Tôn đã gieo giống quí hóa rồi, thì cần phải vun trồng cho cội sởn sơ. Cội sởn sơ mới có đâm chồi trổ tược, nhành lá sum sê, hoa đơm sắc sảo, rồi mới đến trái oằn sai mà thành kết quả xứng đáng. Chừng hương nực mùi, hoa đơm trái rồi, ngàn dặm cũng tìm đến hưởng nhờ giống quí, nhọc chi phải hạ mình mà làm cho nhẹ nhàng phẩm giá.

Các đạo hữu cứ đường ngay thẳng tới, chung lưng đâu cật mà lo việc mình, thì muôn việc đều nơi Chí Tôn sắp đặt, nghe!
Tr. . . , hiền hữu rõ chưa? Ðã lầm nhiều rồi đó. Danh Ðạo đã bán một lần rồi, ráng mà chuộc lại.
Tòa Thánh là cội nguồn, ngày nào được sừng sựng đứng vững nêu trên miền Tây Vức nầy, ấy là ngày họ cầu thỉnh các đạo hữu đó.
Nên biết mà lo. . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Thăng.

CHÚ THÍCH:
Bài Thánh Ngôn nầy có trong Thánh Ngôn chép tay của Bà Nữ Ðầu Sư Hương Hiếu, trang 190. Phò loan: Hộ Pháp và Bảo Văn Pháp Quân. Hai chỗ có nhiều chấm ở đầu bài và ở cuối bài, xin chép bổ sung ra sau đây:

"Trung, Thơ, nhị vị Ðạo hữu đó há! Lão buồn xem Ðạo còn lắm nỗi khó khăn rối rấm, đường đi nước bước đã sớm chỉ cho hết vài phần mà đi lại cũng chưa gỡ được mối nào, mà con đường sai sót lại lần lần đi tới nữa. Mấy Ðạo hữu hiểu Thánh giáo như người dốt bàn chiêm bao, rồi thì kẻ hiểu một đường, người thông một nẻo, mạnh ai nấy bàn, đường ai nấy đi, chớ chẳng chung trí đồng tâm mà làm trách nhậm.
Lão đã nói, mình duy biết lấy mình và cậy nơi sức mình mà thôi."

"Lão kỳ cho hết năm nay, nếu chưa có vẻ gì khởi công mà tạo Tổ Ðình thì nền Ðạo chớ trông gì lập thành thiên niên được. Chừng ấy, cái họa muôn chung sẽ khởi mà hành động cho đến ngày tiêu diệt với Quỉ vương. Một phần người đã mờ ám mê muội với lũ nó, rồi trông cho đến truyền nhiễm hết, rồi nơi đây là động quỉ đó.

Lão đợi chư Ðạo hữu đặng tái lãnh trách nhậm, nếu chẳng thi hành thì luôn Ðức Chí Tôn cũng phải theo Lão mà ra khỏi kỳ phổ độ nầy.
Lão cho Trung, Thơ được quyền bàn tính gắp với mấy anh em mà thi hành.

Thơ, nên gắng công mà ráng sức lo nơi đây trước đã. Hiền hữu chuộc quả nhiều là nơi đó. Còn phần ở Hậu Giang, sau sẽ tính nghe. Lão trông mong. Thăng."

Lý Bạch: Lý Thái Bạch, gọi tắt là Lý Bạch. Ngài là Ðấng Ðại Tiên Trưởng, Nhứt Trấn Oai Nghiêm, kiêm nhiệm Giáo Tông Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ.
Cội sởn sơ: Cội cây tươi tắn chứa đầy sức sống nẩy nở.
Hoa đơm sắc sảo: Bông đơm xinh tốt lộng lẫy.
Chung lưng đâu cật: Nhiều người nương tựa vào nhau, đoàn kết gắn bó cùng nhau để làm công việc lớn cho được thành công tốt đẹp.
Tòa Thánh là cội nguồn: Tòa Thánh Tây Ninh là nguồn cội của Ðạo Cao Ðài. Ðức Chí Tôn đã nói: "Các con phải chung hiệp nhau mà lo cho hoàn toàn Tòa Thánh, chi chi cũng tại Tây Ninh đây mà thôi."
Sừng sựng: Sừng sững, nói về một vật to lớn đứng trơ ra một cách vững chắc như bị chôn chặt xuống đất.
Tây Vức: Tây là hướng Tây, Vức tức là vực, nghĩa là một vùng đất. Tây Vức là vùng đất hướng Tây, ý nói: Vùng đất Tây Ninh, là Thánh Ðịa, nơi cất Tòa Thánh của Ðạo Cao Ðài.

154 .  Tòa Thánh Tây Ninh,
Ngày 24-12-1930 (âl 4-11-Canh Ngọ)
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
LÝ GIÁO TÔNG
Hỉ chư hiền hữu, chư hiền muội.
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
Lão đã mang một cảm tình rất nặng cùng chư hiền hữu, hiền muội rồi đó.

Lão là người đã đứng ngoài vòng thế sự hèn lâu, nên đòi phen bợ ngợ, phải tìm tàng lượng tri lý mỗi người, ôi! nghĩ nên rất khó!

Vì khi nãy, Lão thấy con cái Chí Tôn đông đảo dường ấy, may là một nước Việt Nam chưa đủ trọn mà dường nầy, ngày nào Ðạo đã truyền bá toàn trong nhơn loại, trọn khắp ngũ châu, mới sao nữa!

Ngán thay cho cái trách nhậm nặng nề, vì trót đã hứa lời cùng Từ Bi ra tế độ, hễ trách phận đàn anh, tuy nhiên lấy oai quyền khuyến nhủ trừng trị lấy em mặc dầu, chớ cũng nên hiểu tâm của mỗi đứa.

Lão chỉ sợ một điều là Lão không phương gần kẻ tà tâm toan dạy dỗ; còn như gần kẻ đạo đức chơn thành thì rất dễ, song chẳng cần ích.

Tâm Thánh là ngôi vị của Ðấng thiêng liêng, không lo trau giồi thì cũng còn tự nhiên vì vẻ đẹp, còn vẻ đẹp thiên nhiên đã mang nặng thi hài nơi khổ cảnh nầy mà không mất thì đoạt vị đã đặng rồi, lại cần ai nâng đỡ.

Ấy vậy, Lão đến mà gieo hột Thánh cốc nơi lòng kẻ tà tâm, mong cho đơm bông kết quả, đặng liệu thế hồi tâm, chớ chẳng phải đến rước người hiền ngõ.

Lão đây cũng vậy, mà chư hiền hữu cũng vậy, chúng ta đã đến tạo thế sửa đời, vẫn là phận sự của chúng ta đã hẳn, hãy biết phận mình mới an tâm liệu thế chuyển xây, đã có khó ắt có hay, đã có gay thì có thuận, bền chí xem mảy mún cơ đời.

Chư hiền hữu, chư hiền muội xem trong năm Khai Ðạo, biết bao khổ não truân chuyên. Lão, vì đã thấy rõ, nên không nỡ ngồi an xem cơ thắng bại. Lão nhứt định đứng chung vai đâu cật cùng chư hiền hữu, chư hiền muội, mà chia bớt khổ tâm.

Lão chẳng phải sợ, vì chưa có quyền hành hữu vi nào mà phạm đến Lão đặng, chỉ sợ giùm cho chư hiền hữu, chư hiền muội mang nặng thi phàm, mà chịu cường quyền đè nén. Chư hiền hữu, chư hiền muội có đạt được phép tiên tri như vậy đâu mà mong tránh khỏi.

Lão nghĩ như thế nên nhứt định tái thủ quyền hành, đem cặp nhãn thiêng liêng thay vì cặp nhãn của Thầy, đặng thấy giùm mọi điều cho chư hiền hữu, chư hiền muội, đặng quyết thắng chúng sanh trong kỳ Khai Ðạo nầy, thì Lão tưởng khi Lão chưa phải là người vô dụng vậy.
Lão mang nặng tình nghĩa cùng một bạn thiêng liêng vì đời lãnh mạng, tạo Ðạo đặng cứu chúng sanh mà phải chịu mông trần vào cảnh đọa.
Lão nên nói rằng, cơ thưởng phạt của Thiên thơ thì lắm điều trái hẳn với trí người tưởng tượng. Có nhiều khi thưởng hữu hình mà làm hình phạt vô vi, mà cũng có khi lấy hình phạt hữu vi mà thưởng thiêng liêng công nghiệp.

Vậy, cái thưởng và cái phạt của Lão dùng điều đình Thánh giáo, nhiều khi chư hiền hữu, chư hiền muội không phương thấy lý đặng. Nên khá dè chừng, đừng vội luận nhảm bàn khùng mà mang tội thiêng liêng rất uổng, nghe! Thăng.

CHÚ THÍCH:
Bài Thánh Ngôn nầy của Ðức Lý Giáo Tông có trong ÐS.II.289, nói về việc trước đây Ngài xin Chí Tôn cho từ chức, nay Ngài tái nhậm chức Giáo Tông và tái thủ quyền hành.

Chỗ có nhiều chấm nơi đầu bài là bài thi Hán văn bốn câu của Ðức Lý, xin chép bổ sung ra sau đây:
Cửu tử kim triêu đắc phục huờn,
Hạnh phùng Thiên mạng đáo khai nguơn.
Thế trung kỵ tử hà tri tử?
Tử giả hà tồn chủ tịch Hương?
Viết ra chữ Hán bài thi trên của Ðức Lý Giáo Tông:
久死今朝得復還
幸逢天命到開元
世中忌死何知死
死者何存主籍香

Bài thi nầy được Ðức Phạm Hộ Pháp giải nghĩa trong bài Thuyết đạo nói về công nghiệp của Ðức Lý Giáo Tông, tại Ðền Thánh trong đêm 18-8-Kỷ Sửu (dl 9-10-1949) sau khi cúng Vía Ðức Lý.

Xin chép ra sau đây:
"Ðức Chí Tôn thường nhắc toàn Hội Thánh Hiệp Thiên và Cửu Trùng làm lễ Ðăng điện cho long trọng khi Ngài (Ðức Lý Giáo Tông) tái nhậm phận sự, rồi Ngài lên ngôi vị của Ngài, Ngài cầm cơ viết. Bần đạo tưởng không có vị vua chúa nào viết được bài diễn văn như Ngài.

Cửu tử kim triêu đắc phục huờn: là cảnh trần ta chết đã lâu rồi, mà hôm nay ta được phục sanh lại trong Thánh Thể của Ðức Chí Tôn.

Hạnh phùng Thiên mạng đáo khai nguơn: là còn hạnh phúc đặng Thiên mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến? Bần đạo đã thuyết cuối Hạ Nguơn Tam Chuyển khởi Thượng Nguơn Tứ Chuyển, Ngài đến khai Nguơn là có duyên cớ. Bần đạo dám chắc rằng, Ðấng nào khác hơn Ngài thì không thi hành được. Ngài đến đặng mở Thượng Nguơn Tứ Chuyển.

Thế trung kỵ tử hà tri tử: Thế gian sợ chết mà không biết cái chết là gì? Chính Ngài hỏi rồi nói:

Tử giả hà tồn chủ tịch Hương: Hương là tịch đạo của Nữ phái. Nữ phái là nguồn sống của nhơn loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của Nữ phái nghĩa gì? Cầm cái giống của thế gian nầy đặng chi?"

Nguyên do nào, Ðức Lý Giáo Tông xin từ chức?

Trong ngày Ðại Lễ Khai Ðạo 15-10-Bính Dần (1926) tại Thánh Thất Từ Lâm Tự Gò Kén, Ðức Chí Tôn dự định ban cho Ngài Ngô Văn Chiêu chức Giáo Tông, nhưng Ngài Ngô Văn Chiêu bị Quỉ vương thử thách mà không thắng nổi Quỉ vương, nên Ngài rút về nhà lo tu đơn và sau đó Ngài hợp với những đệ tử do Ngài phổ độ về Cần Thơ lập ra phái Chiếu Minh tại Cần Thơ.

Ðức Chí Tôn mới giao chức Giáo Tông cho Ðức Nhứt Trấn Oai Nghiêm Lý Thái Bạch kiêm nhiệm.
Rồi sau đó, lần lượt có một số các Chức sắc khác cũng có ý muốn tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh như quí Ông: Giáo Hữu Ngọc Chính Thanh lập phái Tiên Thiên ở Cai Lậy (1930), Phối Sư Thái Ca Thanh (Nguyễn Văn Ca) lập phái Minh Chơn Lý (1931) ở Cầu Vỹ (Mỹ Tho) với Ngài Chưởng Pháp Trần Ðạo Quang, Giáo Sư Thượng Kỳ Thanh (Vương Quan Kỳ) lập phái Cầu Kho (1930) ở Thánh Thất Cầu Kho Sài gòn, vv . . .

Ðức Lý Giáo Tông muốn dùng quyền của mình để trục xuất những vị muốn phân chia lập chi phái, nhưng Ðức Chí Tôn cản không cho, bởi vì Ðức Chí Tôn biết rằng nếu đã phân lập chi phái thì sau nầy không thế gì qui tụ trở lại được, nên Ðức Chí Tôn cản Ðức Lý hoài, để Ðức Chí Tôn cố gắng kêu gọi quí Chức sắc ấy trở về Tòa Thánh.

Do đó Ðức Lý không điều hành nền Ðạo được nên xin từ chức Giáo Tông.
Lòng thương yêu của Ðức Chí Tôn quả thật vô hạn, nhưng vì phàm tâm lấn lướt Thánh chất nên các Chức sắc lập chi phái không ai chịu trở về Tòa Thánh.

Ðức Chí Tôn đành triệu Ðức Lý trở lại cầm quyền Giáo Tông để xử trị các Chức sắc ấy, và Ðức Chí Tôn bảo Hội Thánh làm lễ Ðăng điện cho Ðức Lý thật long trọng để Ðức Lý tái thủ quyền hành.

Hèn lâu: Khá lâu lắm rồi.
Tìm tàng lượng tri lý: Tìm tòi chỗ còn ẩn kín để đo lường hiểu biết hết các lẽ.
Thánh cốc: Hột lúa Thánh, tức là hột giống đạo đức.
Hữu vi: Hữu hình, có hình thể thấy được.
Vô vi: Vô hình, không có hình thể thấy được.
Mông trần: Lưu lạc chịu nhiều nỗi vất vả.
Ðiều đình Thánh giáo: Dàn xếp các sự tranh chấp trong nền Ðạo của Ðức Chí Tôn để trên dưới được thuận hòa, chung lo phát triển nền Ðạo.

155 .  Ngày 26-4-1931 (âl 9-3-Tân Mùi)
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ÐẾ viết CAO ÐÀI
Hỉ chư môn đệ,
Tr . . .! Nền Ðạo chinh nghiêng, ấy cũng nơi Thiên định. Nước có trị loạn, đời có hưng vong, thì Ðạo tất phải có dùn thẳng quanh co, rồi mới đến thẳng rẳng đường ngay mà lập nên thể thống.

Thầy đã vì chúng sanh mà lập Ðạo, nhưng kẻ phàm tục còn ám muội, tham danh chác lợi, lấn tước cầu quyền, thì ấy là tự chúng nó gieo mình nơi vực thẳm. Cân thiêng liêng thế nào rồi cũng vì tội tình ấy mà để cho các con biết sự khinh trọng lúc kết cuộc ra sao.

Con khá giữ mực thẳng mà đi cho cùng bước Ðạo. Ấy là tri Thiên mạng đó. Cuộc biến đổi đau đớn ở thế tình, chẳng qua là do Thiên thơ định đoạt. Rủi may, may rủi, khá biết có Thầy, có Ðạo, vui lòng thiện niệm, thì sự lo lắng mảy mún chi của con cũng có nơi thiêng liêng biết đến, nghe!

Chớ nên xao tâm động trí, ngơ ngẩn theo thường tình, thì não cân được tự minh, mới có thể ngăn cản tà mị độn nhập vào mà khuấy rối. Ấy là lời dặn đinh ninh, nếu chẳng lưu tâm thì chẳng khỏi sự khổ xảy tới. Nên biết nghe!

Ð . . . đến nghe dạy, nghe và kiếm biết:
Cái đạo cang thường có thế thôi,
Thương sanh giữ vẹn chớ nghiêng dời.
Nhọc đời chưa dễ công đeo đuổi,
Nâng thế tua trau quả đắp bồi.
Chích cánh riêng vui con hạc lánh,
Ngừa thuyền còn đợi nhánh tùng rơi.
Ðường tơ đã đứt đừng toan nối,
Ðạo đức thìn lo trở lại ngôi.
Căn xưa quả cũ đã trả vẹn thì con đường đạo đức tất là nấc thang dìu đến phẩm cũ ngôi xưa.

Biết Thiên mạng, biết mình, biết chúng sanh, ấy là biết tìm ngọn đuốc sáng sủa, tôn chỉ thanh cao mà nâng mình khỏi nơi biển khổ vậy. Thăng.

CHÚ THÍCH:
Tr. . .: Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt.
Ð . . .: (?)
Nước có trị loạn: Quốc gia lúc bình an, lúc loạn lạc.
Tri Thiên mạng: Biết Mệnh Trời. Có biết mệnh Trời thì mới kềm chế được nhơn dục, theo mệnh Trời mà hành xử.
Tua: Nên, phải. Thìn: Giữ cho bền. Ngừa: Ðợi.

Cặp luận của bài thi: Ðã lẻ bạn rồi thì nên tìm thú vui riêng như con hạc lánh ở đồng nội. (Xem bài Thánh Ngôn149)
Chiếc thuyền Bát Nhã còn chờ để rước linh hồn về cõi thiêng liêng khi linh hồn lìa khỏi xác.

156 .  Ngày 1-8-1931 (âl 18-6-Tân Mùi)
Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ
LÝ GIÁO TÔNG
Th . . . Tr . . . Nh . . . , ngày nay Lão đã nhượng nửa quyền hành cho đó là có ý để mắt coi hiền hữu đúng phận cùng chăng?

Lão hạ mình bỏ quyền Nhứt Trấn lãnh việc Giáo Tông mà lập vị cho đoàn em bước tới. Lão đã lắm phen thấy điều khó khăn mắc mỏ của phần ấy, nên ra tay giục loạn đặng phân rõ Chánh Tà, hầu giúp phương cho Hội Thánh trừ khử.

Lão để mắt coi cái công bình phàm của chư hiền hữu giữa Tòa Tam Giáo là dường nào. Lão lại còn lấy công bình thiêng liêng mà để phương cho mỗi vị tội nhơn cải lỗi lấy mình. Ấy là thể lòng từ bi của Ðức Chí Tôn, bằng chẳng thì Lão đã hạ cơ trục xuất cả thảy. Chư hiền hữu đừng tưởng lầm rằng vì Ðạo chinh nghiêng mà buộc Lão tùng đời. Ấy là lời tuyên ngôn của Lão đã hứa quyết. Hiền hữu làm thế nào cho vừa trách nhiệm thì làm cho Lão xem thử.

Ng . . Tr . . . Th . . . , Lão để lời ban khen đó. Nên hư của Ðạo đều nơi tay hiền hữu, hiền hữu khá liệu lấy mà giữ gìn. Lão ở trong thân hiền hữu, hiền hữu ở trong thân của Lão. Lão đủ quyền hành mà xây chuyển Thiên cơ được cùng chăng cũng do hiền hữu. Khá kính lịnh. Chí Tôn để lời mừng cho hiền hữu.

Th . . . T . . . Th . . . , Lão mừng hiền hữu đó. Lão vì Chí Tôn đã hứa mà lo lập vị cho đáng giá. Vậy hiền hữu cũng phải tận tâm mà chung lo với Lão mới phải.

Ngày nay đã hành chánh thì cũng nên lập mình cho đủ tư cách của một người cầm sanh mạng của nhơn loại. Chưa có ngôi vị Ðế Vương nào mà sánh với phẩm vị thiêng liêng đặng. Khá phân biệt trượng khinh mà giữ gìn, kẻo bị tà tâm rối loạn. Hiểu à!

Lão chưa hề thấy ai để trọn tấc lòng mà làm nên danh thể cho Ðạo, mà kẻ phá Ðạo hư rất nhiều. Hiền hữu ráng mà trừ tà diệt mị cùng Lão, kẻo ngày sau tránh không qua lời tiên tri của Lão đa nghe.

Phải hiệp đồng cùng cả Chức sắc Ðại Thiên phong mà khử loạn, bằng chẳng vậy, thì Lão nhứt định không cho một ai thăng cấp một người.

Hiền hữu biết rằng trong trận trí binh nầy, nếu không đủ tài tình oai dõng thì chẳng hề thắng đặng.

Hiền hữu đã lãnh trách nhiệm nặng nề giáo hóa thì khá dạy sanh chúng biết lẽ Chánh Tà mà toan độ rỗi, còn mưu chước của Quỉ quái tinh ma là mưu của Lão để phân biệt chơn giả, vàng thau, cho phẩm giá trọng khinh. Nếu hiền hữu để tai vào lời dối trá thì là làm binh khí cho chúng nó hại Ðạo đa nghe! Thăng.

CHÚ THÍCH:
Th . . . Tr . . . Nh . . .: Thượng Trung Nhựt, Ðầu Sư, nay được Ðức Lý Giáo Tông thăng lên là Quyền Giáo Tông vào ngày 3-10- Canh Ngọ (1930) theo Ðạo Nghị Ðịnh thứ hai.
Ng . . Tr . . . Th . . .: Ngọc Trang Thanh, Chánh Phối Sư phái Ngọc. (Lê Bá Trang)
Th . . . T . . . Th . . .: Thượng Tương Thanh, Chánh Phối Sư phái Thượng. (Nguyễn Ngọc Tương)

Câu đầu của bài Thánh Ngôn nầy, Ðức Lý Giáo Tông một lần nữa xác nhận là giao cho Ngài Ðầu Sư Thượng Trung Nhựt phân nửa quyền Giáo Tông, tức là nắm quyền Giáo Tông tại thế, còn quyền Giáo Tông thiêng liêng thì vẫn do Ðức Lý.

Tuyên ngôn của Lão: là lời tuyên bố quan trọng nói rõ chủ trương và đường lối của Ðức Lý Giáo Tông giải quyết tình hình khó khăn của Ðạo.
Chưa có ngôi vị Ðế Vương nào mà sánh với phẩm vị thiêng liêng đặng: Ðây là lời xác định của Ðức Lý Giáo Tông để những vị coi phẩm tước quan chức phàm trần hơn hẳn phẩm vị thiêng liêng là điều sai lầm mà hồi tâm sửa đổi.
Chức sắc Ðại Thiên phong: Những Chức sắc cầm quyền Hội Thánh điều hành nền Ðạo từ phẩm Chánh Phối Sư hay tương đương đổ lên.
Trí binh: Bố trí binh sĩ nơi mặt trận đúng theo chiến lược để quyết thắng đối phương.
Tài tình oai dõng: Tài giỏi, khéo léo, oai hùng, dũng cảm.

157 .  Thảo Xá Hiền Cung Tây Ninh,
Ngày 23-12-1931 (âl 15-11-Tân Mùi)
THẦY
Các con,
Thầy lấy làm vui được gặp các con đủ mặt ngày nay mà hầu Thầy.
Các con nghe lời dặn cần yếu nầy mà làm phận sự các con cho vẹn vẻ cùng Thái Bạch.
Các con phải nhớ rằng, toàn Thế giới Càn khôn chỉn có hai quyền: Trên là quyền hành Chí Tôn của Thầy, dưới là quyền hành của sanh chúng.

Thầy đã lập hình thể hữu vi của Thầy, nghĩa là Hội Thánh của Ðại Ðạo ngày nay, rồi thì Thầy cũng phải ban quyền hành trọn vẹn của Thầy cho hình thể ấy đặng đủ phương tận độ chúng sanh; còn các con cả thảy đều đứng vào hàng sanh chúng, dưới quyền hành chuyển thế của Ðời, nghĩa là toàn nhơn loại đồng quyền cùng Thầy, mà tạo hóa vạn linh vốn là con cái của Thầy. Vậy thì Vạn linh cũng có thể đoạt vị vào hàng Thần, Thánh, Tiên, Phật đặng.

Trong quyền hành ấy có nhiều đẳng cấp, nên khởi phải chịu phẩm Người.
Ấy vậy, Người là chủ quyền của Vạn linh.
Thầy nói rõ, quyền Chí Tôn là Thầy, quyền Vạn linh là sanh chúng. Ngày nào quyền lực của Chí Tôn đặng hiệp một cùng Vạn linh thì Ðạo mới ra thiệt tướng.

Thầy đã ban quyền hành Chí Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội Thánh là Giáo Tông cùng Hộ Pháp. Vậy thì quyền hành Chí Tôn của Thầy đặng trọn vẹn khi Giáo Tông cùng Hộ Pháp hiệp một.

Còn cả nhơn loại thì là quyền lực Vạn linh.
Quyền hành Chí Tôn của Thầy duy có quyền hành Vạn linh đối phó mà thôi.

Thái Bạch hằng giận các con rằng, mọi điều chi nó đã hiệp đồng cùng Hộ Pháp mà ban hành thì các con lại còn khi lịnh mà xem rẻ rúng.

Vậy thì từ đây, hễ có mạng lịnh chi đã đủ hai đứa nó hạ truyền thì các con phải hội đủ Nhơn sanh, Hội Thánh và Thượng Hội mà xét nét cho cặn kẽ phân minh, đặng thi hành phận sự.

Thái Bạch đã hứa cùng Thầy rằng, qua ngày Tòa Tam Giáo Nữ phái rồi thì nó sẽ phong Thánh thêm nữa. Các con ráng mà chiều theo lòng nó nghe.
Thầy ban ơn cho các con. Thăng.

CHÚ THÍCH:
Bài Thánh Ngôn nầy có trong ÐS.II.286, Phò loan: Hộ Pháp - Bảo Văn P. Quân, Hầu đàn có: Ðức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, hai Ngài Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh và Thượng Tương Thanh, và mấy vị Chức sắc Thiên phong.

Thảo Xá Hiền Cung: Trong lúc Ðức Cao Thượng Phẩm lo xây dựng các cơ sở Ðạo trong khu Nội Ô Tòa Thánh, Ngài bị người xấu vu cáo Ngài đục tủ hành hương lấy tiền của Ðạo bỏ túi riêng, rồi nhóm côn đồ ở Chợ Lớn dưới quyền của Ông Tư Mắt kéo lên Tòa Thánh, dùng bạo lực xô đuổi Ðức Cao Thượng Phẩm ra khỏi Toà Thánh. Ngài phải trở về đất nhà ở gần chợ Tây Ninh, cất lên một ngôi nhà tranh để an dưỡng và tiếp tục tu hành. Ngày 12-6-Mậu Thìn (dl 28-7-1928), Thất Nương DTC giáng cơ an ủi, đặt tên cho ngôi nhà tranh là Thảo Xá Hiền Cung và cho đôi liễn:
. Thảo Xá tùy nhơn, ngu muội bần cùng nghinh nhập thất,
. Hiền Cung trạch khách, thông minh phú quí cấm lai môn.

Phần đất nơi Thảo Xá Hiền Cung sau nầy được hiến cho Hội Thánh làm chủ, phía sau là Thảo Xá Hiền Cung, phía trước cất Thánh Thất của Thị Xã Tây Ninh.

Hình thể hữu vi của Thầy: Ðó là Thánh Thể của Ðức Chí Tôn, tức là Hội Thánh CTÐ.
Vạn linh: Tất cả các chơn linh trong CKVT do Ðức Chí Tôn và Ðức Phật Mẫu biến hóa sanh ra, nên được gọi là Tạo hóa Vạn linh, gồm đủ Bát hồn: Vật chất Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn và Phật hồn. Vạn linh đầu kiếp xuống cõi trần làm chúng sanh, cho nên chúng sanh được xem là Vạn linh hữu hình. Chúng sanh gồm: Vật chất Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại. Con người là loài Thượng đẳng chúng sanh, nên làm đại diện cho chúng sanh, nắm chủ quyền Vạn linh.
Quyền Vạn linh: tức là quyền của chúng sanh.
Quyền Vạn linh được chia ra ba quyền của ba Hội: Hội Nhơn Sanh, Hội Thánh và Thượng Hội.
* Hội Nhơn Sanh gồm ba thành phần:
Phái viên là đại diện của các Ðạo hữu Nam Nữ.
Nghị viên là đại diện của Chức việc BTS Nam Nữ.
Các Lễ Sanh Nam Nữ đương quyền hành đạo.

Hội Nhơn Sanh đại diện cho Kim Thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn và Thần hồn.
* Hội Thánh gồm tất cả các Chức sắc Nam Nữ từ phẩm Giáo Hữu đến phẩm Phối Sư và Chánh Phối Sư của CTÐ. Hội Thánh đại diện Thánh hồn.
* Thượng Hội gồm 11 vị: Ðức Giáo Tông, Ðức Hộ Pháp, 3 Chưởng Pháp, 3 Ðầu Sư Nam, 1 Nữ Ðầu Sư, Thượng Phẩm, Thượng Sanh. Thượng Hội đại diện Tiên hồn và Phật hồn.

Những quyết nghị của Hội Nhơn Sanh được dâng lên Hội Thánh. Hội Thánh xem xét rồi quyết nghị dâng lên Thượng Hội. Thượng Hội xem xét và chấp thuận thì quyết nghị đó là của Vạn linh, tức là quyền Vạn Linh.

Quyền hành Chí Tôn của Thầy duy có quyền hành Vạn linh đối phó mà thôi. Ðức Chí Tôn cho quyền Vạn linh đồng quyền với Ðức Chí Tôn. Cho nên Ðức Chí Tôn cũng đã có nói rằng: "Các con là Thầy, Thầy là các con"

Ngoài ra, Ðức Chí Tôn còn ban quyền của Chí Tôn cho Ðức Giáo Tông và Ðức Hộ Pháp: "Thầy đã ban quyền hành Chí Tôn của Thầy cho hai đứa làm đầu Hội Thánh là Giáo Tông và Hộ Pháp. Vậy thì quyền hành Chí Tôn của Thầy đặng trọn vẹn khi Giáo Tông cùng Hộ Pháp hiệp một."

Như thế, khi Ðức Giáo Tông và Ðức Hộ Pháp đồng ký tên ra lịnh điều chi thì đó là lịnh của Ðức Chí Tôn. Cho nên, các Ðạo Nghị Ðịnh do Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Phạm Hộ Pháp ký tên ban hành thì không có quyền nào cải sửa đặng, vì đó là quyền của Chí Tôn, là Thiên điều tại thế.

158 .  Thánh Thất Kim Biên,
Ngày 20-3-1932 (âl 14-2-Nhâm Thân)
NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
Bần đạo chào Quyền Giáo Tông, Hộ Pháp, Tiếp Ðạo và Hội Thánh Ngoại Giáo.

Nam Nữ Thiên phong, xin nghe:
Nước Thiên đường thì ít kẻ, cửa Ðịa ngục vẫn nhiều người, chưa từng thấy hạng nhơn sanh nào mà tự trọng thân hình, chẳng hữu ích chi cho cả cơ Tạo, mà đoạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ngôi vị thiêng liêng chẳng phải do nơi sự cầu may mà đoạt đặng.

Bần đạo khi đắc lịnh làm Chưởng Ðạo lập Hội Thánh giáo đạo tha phương thì tùng lòng bác ái của Chí Tôn, mở rộng thế cho nhơn sanh dâng công đổi vị.

Bần đạo chẳng kể là Nguyên nhân, Hóa nhân hay là Quỉ nhân, ví biết lập công thì thành Ðạo.
Bần đạo để cho mỗi người tự do định phận, lại tùy thế khó khăn mà gầy thành công quả. Ấy vậy, nếu lấy phép công bình thì tự nhiên nên thì thâu, hư thì bỏ.
Bần đạo đã chán thấy kẻ bất lực rất nhiều. Vậy Bần đạo để lịnh cho mỗi vị Thiên phong xét mình, khai tội cùng Giáo Tông và Hộ Pháp, rồi sau mới định rõ điều thưởng phạt. Thăng.

CHÚ THÍCH:
Hội Thánh Ngoại Giáo: được Ðức Phạm Hộ Pháp thành lập tại Nam Vang vào giữa năm 1927, khi Ðức Hộ Pháp vâng lịnh Ðức Chí Tôn lên Nam Vang mở đạo tại đó.

Khi lên Nam Vang, Ngài ngụ tại nhà Ông Cao Ðức Trọng, rồi cùng với Ông Cao Ðức Trọng tổ chức đàn cơ cho Ðức Chí Tôn dạy Ðạo và thâu môn đệ.

Ðàn cơ ngày 27-7-1927 (âl 29-6-Ðinh Mão) tại Nam Vang, Ðức Chí Tôn giáng cơ ân phong các vị sau đây:
Lê Văn Bảy,Thiên phong Giáo Hữu Thượng Bảy Thanh.
Nguyễn Văn Lắm, - - Giáo Hữu Thượng Lắm Thanh.
Võ Văn Sự, - - Giáo Hữu Ngọc Sự Thanh.
Ðặng Trung Chữ, - - Lễ Sanh Thượng Chữ Thanh.
Trần Quang Vinh, - - Lễ Sanh Thượng Vinh Thanh.
Phạm Kim Của, - - Lễ Sanh Thái Của Thanh.
Ngài Cao Ðức Trọng, Thiên phong Tiếp Ðạo HTÐ.
Phần Chức Sắc Nữ phái được Thiên phong gồm:
BàTrần Kim Phụng, đắc phong Giáo Hữu Hương Phụng.
Bà Ðặng Thị Huê, - - Giáo Hữu Hương Huê.
Bà Nguyễn Thị Hạt, - - Giáo Hữu Hương Hạt.
Bà Huỳnh Thị Trọng, - - Lễ Sanh Hương Trọng.

(GHI CHÚ: Bà Huê là vợ của Ông Bảy, Bà Trọng là vợ của Ông Chữ, và Bà Hạt là thân mẫu của Ông Chữ).
Với số Chức sắc Nam Nữ đầu tiên nầy, Ðức Phạm Hộ Pháp thành lập Cơ quan Truyền Giáo Ngoại Quốc (Mission Étrangère du Caodaisme), gọi là Hội Thánh Ngoại Giáo (HTNG), trụ sở đặt tại Thánh Thất Kim Biên, Nam Vang.

Ðức Chí Tôn giao cho Ðức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tức là Chơn linh của văn hào Victor Hugo nước Pháp làm Chưởng Ðạo, chưởng quản Hội Thánh Ngoại Giáo.

Phần hữu hình thì Ðức Chưởng Ðạo bổ Ông Giáo Hữu Thượng Bảy Thanh làm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo. Năm 1930, Ông Bảy được thăng Giáo Sư và năm 1933, Ðức Nguyệt Tâm gọi Ông Bảy về Tòa Thánh. Ông Bảy được bổ làm Quản Lý Lại Viện. Năm 1937, Ông Giáo Sư Thượng Bảy Thanh được bổ nhiệm đi truyền giáo tại Hà Nội. Ngài Tiếp Ðạo Cao Ðức Trọng được Ðức Nguyệt Tâm chỉ định làm Chủ Trưởng Hội Thánh Ngoại Giáo tại NamVang.

Kế tiếp Ngài Tiếp Ðạo Cao Ðức Trọng, những Chức sắc sau đây được tuần tự bổ nhiệm làm Chủ Trưởng HTNG:
Bà Giáo Sư Hương Phụng (Trần Kim Phụng)
Giáo Sư Thượng Chữ Thanh (Ðặng Trung Chữ)
Giáo Sư Thượng Vinh Thanh (Trần Quang Vinh)
Giáo Sư Thái Gấm Thanh (Thái Văn Gấm).
Giáo Sư Thái Phấn Thanh (Trần Văn Phấn).

Năm 1951, Hội Thánh lập Bộ Ðạo tại Miên quốc, số tín đồ trong toàn nước Miên là 73.164, gồm tín đồ Việt kiều là 64.954 và số tín đồ người Miên là 8210. (Tài liệu của Ngài Phối Sư Thượng Vinh Thanh, Trần Quang Vinh)

Giáo đạo tha phương: Tha phương là xứ khác, các nước ngoại quốc. Hội Thánh giáo đạo tha phương là HTNG.

Nguyên nhân, Hoá nhân, Quỉ nhân:
Nguyên nhân là những người mà chơn linh được sanh ra từ lúc khai Thiên, nay đầu kiếp xuống trần. Số Nguyên nhân rất ít, hiện nay chỉ còn 92 ức Nguyên nhân nơi cõi trần.
Hóa nhân là những người do sự tiến hóa từ Thú cầm đi lên. Hầu hết nhơn loại đều là Hóa nhân.
Quỉ nhân là Quỉ hồn đầu kiếp làm người. Quỉ hồn là Nguyên nhân hay Hóa nhân mà làm điều ác độc, phạm Thiên điều, thì khi chết, bị đày vào Quỉ vị, biến thành Quỉ hồn.

159 .  Toà Thánh Tây Ninh,
Tháng 11 - 1932 (âl tháng 10 - Nhâm Thân)
BÁT NƯƠNG Diêu Trì Cung (Giải thích về Âm quang)

Âm quang là khí chất hỗn độn sơ khai khi Chí Tôn chưa tạo hóa. Lằn Âm khí ấy là Diêu Trì Cung chứa để tinh vi vạn vật, tỷ như cái Âm quang của phụ nữ có trứng cho loài người.

Khi Chí Tôn đem Dương quang ấm áp mà làm cho hóa sanh, thì cái khoảnh Âm quang phải thối trầm làm tinh đẩu, là cơ quan sanh hóa vạn linh.

Song lằn Âm quang ấy có giới hạn, nghĩa là nơi nào ánh linh quang của Chí Tôn chưa chiếu giám đến thì phải còn tối tăm mịt mờ, chẳng sanh chẳng hóa.

Vậy thì nơi khiếm ánh thiêng liêng là Âm quang, nghĩa là Âm cảnh hay là Ðịa ngục, Diêm đình của chư Thánh lúc xưa đặt hiệu.

Vậy thì chính lời nhiều tôn giáo, nơi ấy là những chốn phạt tù những hồn vô căn vô kiếp, nhơn quả buộc ràng, luân hồi chuyển thế, nên gọi là Âm quang, đặng sửa chữ Phong Ðô Ðịa phủ của mê tín gieo truyền, chớ kỳ thật là nơi để cho các Chơn hồn

Giải thân định trí (một nơi trung gian giữa Thiên đường và Ðịa ngục hay là mờ mờ mịt mịt).
Ấy là một cái quan ải, các Chơn hồn khi qui Thiên, phải đi ngang qua đó.
Sự khó khăn bước khỏi qua đó là đệ nhứt sợ của các Chơn hồn.
Nhưng tâm tu còn lại chút nào nơi xác thịt con người, cũng nhờ cái sợ ấy mà lo tu niệm.

Có nhiều hồn chưa qua khỏi đặng, phải chịu ít nữa đôi trăm năm, tùy Chơn thần thanh trược. Chí Tôn buộc trường trai cũng vì cái quan ải ấy.

Em nói thiệt rằng, mấy anh hiểu thấu, thì kinh khủng chẳng cùng. Nếu để cho Chơn thần ô trược thì khó mong trở lại cõi thiêng liêng và về cùng Thầy đặng.
Em biết đặng nhiều hồn còn ở lại nơi ấy trót ngàn năm chưa thoát qua cho đặng.
Thất Nương ở đó đặng dạy dỗ, nâng đỡ các Chơn hồn, dầu sa đọa luân hồi, cũng có người giúp đỡ. Nghe lại coi có phải vậy chăng? Thăng.

CHÚ THÍCH:
Âm quang - Dương quang: Theo Vũ trụ quan của Ðạo Cao Ðài thì, khởi thủy của CKVT là Khí Hồng mông hỗn độn, mờ mờ mịt mịt, lặng lẽ vô vi, thanh trược hỗn hiệp, gọi là Hư Vô chi Khí. Hư Vô chi Khí lần lần ngưng kết, phát ra tiếng nổ lớn, sanh ra Ðức Chí Tôn mà ngôi của Ngài là Thái Cực.

Ðức Chí Tôn phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi: Dương quang và Âm quang. Ðức Chí Tôn làm chủ Khí Dương quang. Ðức Chí Tôn hóa thân ra Phật Mẫu để làm chủ Khí Âm quang. Do đó, Bát Nương nói rằng: Âm quang là khí chất hỗn độn sơ khai khi Chí Tôn chưa tạo hóa.

Ðức Phật Mẫu ngự tại Diêu Trì Cung. Khi Ðức Chí Tôn muốn tạo hóa CKVT thì Ðức Chí Tôn phát ra Dương quang, Ðức Phật Mẫu thâu khí Dương quang ấm áp ấy phối hiệp với khí Âm quang lạnh lẽo để tạo thành CKVT hữu hình gồm: Các tinh đẩu (ngôi sao), các mặt trời, các hành tinh, các vệ tinh (mặt trăng).

Muốn tạo ra Vạn linh thì Ðức Phật Mẫu thâu lằn Sanh quang của Thái Cực để làm linh hồn, rồi đem Dương quang hiệp Âm quang tạo nên Chơn thần cho Vạn linh trong CKVT.

Khí Âm quang mờ mịt, lạnh lẽo, không có sự sống, tỏa rộng ra khắp nơi, có giới hạn, tạo thành biên giới của CKVT, nghĩa là bên ngoài CKVT thì không có khí Âm quang.

Muốn tạo hóa thì Ðức Chí Tôn chiếu Dương quang đến. Dương quang đem sự sống tới rồi phối hiệp với Âm quang mà sanh hóa. Do đó, nơi nào không có Dương quang (tức là ánh linh quang của Ðức Chí Tôn) chiếu tới thì nơi đó chỉ có Âm quang, nên rất tối tăm lạnh lẽo. Chính nơi đây, các tôn giáo xưa lập ra Ðịa Ngục, Diêm đình, Thập Ðiện Diêm Vương, Phong đô Ðịa phủ, để phạt tù, trừng trị các tội hồn.

Khi Ðức Chí Tôn mở Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ, cũng là mở Ðại Ân Xá Kỳ Ba, Ðức Chí Tôn ra lịnh đóng cửa các cõi Ðịa ngục, giải phóng tất cả tội hồn, cho đi đầu kiếp hết thảy để trả cho dứt các món nợ oan nghiệt, đồng thời Ðức Chí Tôn mở ra con đường tu hành để độ rỗi tất cả các linh hồn, dầu nguyên sanh, hóa sanh hay quỉ sanh, nếu biết tu hành và lập công quả đầy đủ thì đắc đạo.

Những linh hồn nào còn tiếp tục phạm tội thì Ðức Chí Tôn cho đến cõi Âm Quang để học đạo, có chư Tiên, Phật đến dạy đạo, để định tỉnh tinh thần mà ăn năn sám hối tội tình. Cõi Âm Quang do Ðức Chí Tôn mới lập ra ở Trung giới, bên trên là Thượng giới tức cõi Trời (Thiên đường, cõi Thiêng liêng Hằng sống), bên dưới là Hạ giới tức là các Ðịa cầu. Nơi cõi Âm Quang nầy, Ðức Ðịa Tạng Bồ Tát giáo hóa các Nam tội hồn, và Thất Nương DTC giáo hóa các Nữ tội hồn.

Những hồn nào học đạo tốt và biết giác ngộ thì được đi đầu kiếp nơi cõi trần để trả quả và lo tu hành, hầu được trở về cùng Chí Tôn. (Xem thêm bài Thánh Ngôn 165 của Thất Nương)

Em: Bát Nương tự xưng khi nói với Ðức Phạm Hộ Pháp.
Giải thân định trí: Cởi bỏ thể xác, định tỉnh trí não tinh thần. Giải là cởi bỏ, định là giữ cho yên.
Quan ải: Cái cửa tại biên giới để qua lại giữa hai nước.
Ấy là cái quan ải, các chơn hồn qui Thiên phải đi ngang qua đó: Các linh hồn muốn đi lên cõi Trời thì phải đi qua cõi Âm quang, để nơi đây thanh lọc. Chơn hồn nào trong sạch, đạo đức, có đầy đủ công quả thì cho đi lên. Chơn hồn nào ô trược, tội lỗi thì phải ở lại đây để học đạo. Riêng tín đồ Cao Ðài, ai giữ đúng luật Ðạo, thì Ðức Chí Tôn đặc ân cho đi thẳng lên Cửu Trùng Thiên, có Cửu vị Tiên Nương dẫn đường, được từ từng Trời thứ nhứt lên đến từng Trời thứ 10 là Hư Vô Thiên, vào Ngọc Hư Cung, được các Ðấng xem xét công và tội. Công nhiều thì thăng và có phẩm vị tương xứng; tội nhiều thì trở về cõi Âm Quang học đạo.

160 .  Ngày 11-4-1933 (âl 17-3-Quí Dậu)
THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI
Thiếp mừng mấy em. Mấy em nghe à:
Ðạo quí là tại HÒA. Các em nghĩ thử mà coi, tạo Thiên lập Ðịa cũng bởi Âm Dương hòa hiệp sanh hóa muôn loài, cũng bởi một chữ Hòa, đến đỗi như thân của người có tạng có phủ, tạng phủ ấy nếu chẳng hòa thì con người chẳng hề sống bao giờ.

Kịp đến tâm hồn bất hòa thì thất tình lục dục đều phát khởi tranh ngôi với thần lương tâm, nếu kém lực thì con người ấy duy có sanh hoạt trong vòng vật dục, chớ chẳng hề biết Thiên lý là gì?

Các em thử nghĩ, cái phẩm giá của kẻ ấy cao hèn là thế nào. Người chẳng có hòa là thế đó.
Còn gia đình chẳng hòa thì cha con mích nhau, chồng vợ lìa tan, anh em ly tán. Còn trong luân lý chẳng hòa thì dân cư bất mục. Nước chẳng hòa thì sanh ly loạn. Còn cả thế giới bất hòa thì nhơn loại đấu tranh. Vì vậy, Thiếp khuyên các em dĩ hòa vi tiên. Thăng.

CHÚ THÍCH:
Thần lương tâm: Lương tâm như là vị Thần làm chủ con người.
Vật dục: Ham muốn về vật chất.
Bất mục: Không thuận hòa với nhau.
Dĩ hòa vi tiên: Lấy chữ Hòa làm trước.

161 .  Ngày 21-4-1933 (âl 27-3-Quí Dậu)
THƯỜNG CƯ NAM HẢI QUAN ÂM NHƯ LAI
Thiếp chào các em.
Các em có hiểu vì sao mà phải khai rộng lòng thương cho đến bác ái chăng?
Vì vạn vật do Ðức Từ Bi mà sanh hóa trong cả thế gian. Vậy vạn vật đồng nhứt thể. Tánh háo sanh của Ðức Ðại Từ Bi cũng nhân đó mà vô biên vô giới. Còn chúng ta lại là một loài trong vạn vật, thì chúng ta cũng ở trong luật hóa sanh ấy.

Vì vậy mà hễ giết một mạng sống thì đau lòng Ðức Ðại Từ Bi, mà hễ đau lòng Ðức Ðại Từ Bi thì Thiên sầu Ðịa thảm.

Các em thử nghĩ, người tục có dám phạm đến oai Trời chăng?
Cứ do đó thì ta đủ rõ rằng: Ta phải mở lòng bác ái, thương xuống đến các vật yếu hèn, một là tránh khỏi sa vào luật quả báo, vì luật Thiên điều chẳng hề vị ai. Tuy mắt thịt không bao giờ thấy được, chớ kỳ thiệt, một mảy lành dữ không qua được. Các em có lẽ hiểu câu: "Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu." Ấy là một lẽ, còn một lẽ nữa là người sanh trong cõi trần, Ðức Ðại Từ Bi ban cho một tánh tối linh hơn vạn vật, là có ý thay thế cho Người mà dìu dắt loài yếu hèn hơn.
Các em thử xét, ở đời nếu cha phàm mà rủi có một đứa con bất hiếu thì có phiền chăng?

Còn Ðức Ðại Từ Bi mà có con không lòng bác ái thì thế nào? Mà người có nên trái lòng Trời là Ðức Ðại Từ Phụ chăng? Thăng.

CHÚ THÍCH:
Ðức Từ Bi: Ðức Ðại Từ Bi: Ðức Chí Tôn.
Vạn vật đồng nhứt thể: Muôn vật đều có cùng một thể cách như nhau, bởi vì đều có cùng một nguồn gốc sanh ra là Ðức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Ðế.

Mỗi vật đều có hai phần:
Phần hình thể hay thể xác là vật chất hữu hình,
Phần tinh thần vô hình là hồn.
Phần tinh thần vô hình điều khiển phần thể xác hữu hình. Vạn vật tuy đồng nhứt thể nhưng chia ra nhiều đẳng cấp tiến hóa cao thấp khác nhau: Loài kim thạch ở cấp tiến hóa thấp nhứt, và nhơn loại ở cấp tiến hóa cao nhất, nên gọi là Thượng đẳng chúng sanh.

Luật quả báo: tức là Luật Nhân Quả. Nhân nào quả nấy, không bao giờ sai chạy. Trồng đậu được đậu, trồng dưa được dưa (Chưởng đậu đắc đậu, chưởng qua đắc qua).
Thiên võng khôi khôi, sơ nhi bất lậu: Lưới Trời lộng lộng, thưa mà không lọt.

162 .  Ngày 8-5-1933 (âl 14-4-Quí Dậu)
QUANG minh chánh đại lập tâm thành,
ÂM chất khả tu, Ðạo khả minh.
BỒ liễu nhứt thân sanh biến hóa,
TÁC thành kim thể đắc trường sanh.

Chào các em.
Các em phải lo cúng kiếng thường.
1 . Một là tập cho Chơn thần được gần gũi các Ðấng thiêng liêng cho đặng sáng lạn.
2 . Hai là cầu khẩn với Ðức Ðại Từ Bi tha thứ tội tình cho các em và cả chúng sanh.
3 . Ba là có tế lễ thì tâm phải có cảm, cảm rồi mới ứng, ứng là lẽ tự nhiên.
4 . Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng mà nhứt là khiếu lương tri lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ.

Các em nhớ à!
Còn việc phổ độ, các em chớ nên vội quá, mà cũng chẳng nên biếng nhác quá.

Các em mỗi đứa phải để lòng vào đó thì mới có cảm động đến Ðức Ðại Từ Bi và có để lòng lo thì mới thành. Dầu một việc nhỏ mọn ở thế gian nầy cũng phải vậy. Huống chi Ðại Ðạo là việc cứu vớt cả chúng sanh đương chìm đắm trong biển trầm luân kia.

Các em rán noi theo lời Thiếp thì có ngày được vinh diệu. Cái vinh hoa ấy ở thế gian chẳng hề có đặng. Thăng.

CHÚ THÍCH:
Bài thi Hán văn, Ðức Quan Âm Bồ Tát khoán thủ: Quang Âm Bồ Tác, đồng âm chớ không đồng chữ, viết ra chữ Hán sau đây:
            QUANG minh chánh đại lập tâm thành,           光明正大立心誠
            ÂM chất khả tu, Ðạo khả minh.                       陰騭可修道可明
            BỒ liễu nhứt thân sanh biến hóa,                      蒲柳一身生變化
            TÁC thành kim thể đắc trường sanh.                作成金體得長生

GIẢI NGHĨA:
- Sự quang minh chánh đại lập được cái tâm thành thật,
- Khá tu âm chất, khá học đạo cho tỏ tường.
- Người phụ nữ nầy một thân chuyển sanh biến hóa trong nhiều kiếp,
- Tạo thành Chơn thần huyền diệu được trường sanh (tức là đắc đạo).

Kim thể: Mình vàng, là Chơn thần của Phật, ý nói Chơn thần huyền diệu của người đắc đạo.
Sáng lạn: Sáng rực, chữ Hán là Xán lạn: Rực rỡ.
Khiếu lương tri lương năng: Sự hiểu biết và sự tài giỏi vốn có của mỗi người do Trời phú cho, không cần học tập mà có, để nhận biết và làm điều tốt lành. Sách Nho có câu: "Nhân chi sở bất học nhi năng giả, kỳ lương năng giả, sở bất lự nhi tri giả, kỳ lương tri giả." Nghĩa là: Người không học mà giỏi là Lương năng; không suy nghĩ mà biết là Lương tri.
Mẫn huệ: Sáng suốt, thông hiểu sự lý.

163 .  Hội Thánh Ngoại Giáo (Kim Biên)
Ðêm 26-5-1933 (âl 3-5-Quí Dậu), 12 giờ 35.
CHƯỞNG ÐẠO NGUYỆT TÂM ou
VICTOR HUGO
Chào chư Ðại Thiên phong, chư hiền hữu, chư hiền muội.
Phàm Pháp luật lập thành đều tùy sở dụng, buộc kẻ chung công hiệp trí tác thành một cơ sở vĩ đại, đông tây tương thân tương ái. Bởi cớ mà Luật pháp vẫn nhiều mặt đặc biệt cùng nhau, tùy theo phương dụng, chẳng thế dùng một mặt Luật pháp nào mà thay thế vào một cơ sở khác hành vi cho đặng. Cần thì mới lập, còn vô ích thì bỏ.

Vậy các Luật pháp của Chí Tôn đã đào tạo đều hữu ích cho cơ quan hành động cho Chánh giáo của Người. Một cái dấu bỏ ra cũng chẳng đặng. Hễ tùng thì Ðạo thành, còn nghịch thì Ðạo diệt.

Cả thảy Hội Thánh chưa ai đặng quyền ra khỏi ngoại luật. Chúng ta vâng theo mới đắc thành quyền hành Hội Thánh. Thảng có một người nghịch thì làm rối loạn chơn truyền.

Kẻ nghịch cùng thế đạo thì tội trục ngoại xã hội hay là diệt tàn cho khỏi lưu hại, còn kẻ nghịch cùng
Ðạo pháp thì tội trục ngoại Thánh Thể Chí Tôn hay là có ngày quyền thiêng liêng diệt thác.
Chúng ta từ đây coi kẻ phạm Pháp luật như thù địch của Ðạo, dùng phương trừ khử.
Bần đạo đã thọ sắc lịnh Ngọc Hư lo chuyển pháp thì không phương tha thứ điều phạm bao giờ.
Từ đây, Hội Thánh Ngoại Giáo giữ nghiêm Pháp luật.
Bần đạo xin để lời cầu khẩn cùng Giáo Tông và Hộ Pháp cũng để lòng lo phương thế trừ hại, đừng vì bác ái từ bi vị nể. Thăng.

CHÚ THÍCH:
Chưởng Ðạo Nguyệt Tâm ou Victor Hugo: Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, hay Victor Hugo, Chưởng Ðạo Hội Thánh Ngoại Giáo. Ngài là một vị Thánh trong Tam Thánh đứng đầu Bạch Vân Ðộng, viết tiếng Pháp, công bố Bản Ðệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước giữa Trời và Người trong thời Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ. Chơn linh Ngài đầu kiếp ở nước Pháp là văn hào Victor Hugo (1802-1885).
Sở dụng: Cái công dụng quan trọng của nó.
Diệt tàn: Tiêu diệt cho mất hết.
Diệt thác: Tiêu diệt cho chết mất.
Thọ sắc lịnh Ngọc Hư: Nhận lãnh mệnh lệnh của Ngọc Hư Cung nơi cõi thiêng liêng. Ngọc Hư Cung là cơ quan cai trị toàn cả CKTG.

164 .  Tây Ninh (Phạm Môn),
Ngày 12-2-1934 (âl 29-12-Quí Dậu)
BÁT NƯƠNG
Mầng nhau vì thấy giúp nên nhau,
Mầng Ðạo từ đây đẹp vẻ màu.
Mầng xác Chí linh thêm mãnh lực,
Mầng thần Chơn lý đặng danh cao.
Mầng duyên nhân loại đường tu vững,
Mầng phước nguyên hồn chẳng chút hao.
Mầng Ðạo từ nay nâng thế giới,
Mầng nền Chánh giáo trở thanh cao.
Em an dạ, từ đây đã quan kiến sự kết cuộc của Chí Tôn đã định trước.

Em nhớ lại, khi Ngọc Hư định cho Hiệp Thiên Ðài cầm số mạng nhơn sanh, lập thành Chánh giáo thì Ðại Từ Phụ lại trở pháp, giao quyền ấy cho Cửu Trùng Ðài.

Cả Ngọc Hư chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đều ngạc nhiên sự lạ. Ðại Từ Phụ phổ giáo rằng: Hay! Hay! Không lẽ để phận hèn, ngày sau sẽ rõ Thánh ý Người quyết liệu.

LỤC NƯƠNG Diêu Trì Cung
Em chào mấy anh. Em đương ở Ngự Quan Cung, Bát Nương đến cho hay rằng mấy anh đương ngưỡng nghĩa, nên vội vã đến hầu.

Khi mơi nầy, em đặng tin lành: Ngọc Hư lo chuyển pháp. Cả Thiên thơ hủy phá, sửa cải pháp chơn truyền.

Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vui mừng chẳng xiết. Diêu Trì Từ Mẫu đẹp dạ không cùng, nhưng vì cái mừng ấy mà làm cho Người đổ lụy, ngâm bài than nầy:
Vú mẹ chưa lìa đám trẻ con,
Ðộ sanh chưa rõ phận vuông tròn.
Quyền cao Ngự Mã là vinh bấy,
Phận mỏng Hiệp Thiên biết giữ còn.
Lợt điểm Thánh tâm trần tục khảo,
Vẻ tươi bợn thế nét dò đon.
Thà xưa ví bẳng nay gìn vậy,
Lòng Mẹ ngại ngùng, con hỡi con!
Nhị ca ôi! Bài thi làm cho cả Cung Diêu Trì đổ lụy. Mấy anh nên lấy nó làm phép hằng tâm, thì bước vinh diệu thiêng liêng không lạc nẻo.

Anh Qu . . . Th . . ., lịnh Quan Âm dạy anh ẩn nhẫn, đợi Người lo giúp. Thăng.

CHÚ THÍCH:
Phạm Môn: Phạm là Phật, môn là cửa. Phạm môn là Cửa Phật. Phạm môn là cơ quan Tu Chơn (không có phẩm tước Chức sắc như CTÐ hay HTÐ) do Ðức Hộ Pháp lập ra theo Thánh ý của Ðức Chí Tôn trong bài thi:
Tỉnh ngộ xá thân tại Phạm môn,
Khuyến tu hậu nhựt độ sinh hồn.
Vô lao bất phục hồi chơn mạng,
Tỉnh thế kỳ thân đắc chánh tôn.

Xác Chí linh: Xác thể của Ðức Chí Tôn, chỉ các Hội Thánh CTÐ. Cho nên các Chức sắc CTÐ từ phẩm Giáo Hữu đổ lên gọi là hàng Thánh Thể của Ðức Chí Tôn.
Ðức Chí Tôn mở Ðạo Cao Ðài gồm ba Ðài: CTÐ là phần xác của Ðạo, HTÐ là phần Chơn thần của Ðạo, BQÐ là phần linh hồn của Ðạo. Ðức Chí Tôn là chủ của BQÐ.
Nguyên hồn: Linh hồn của Nguyên nhân.
Quan kiến: Xem xét thấy. Quan là xem xét, kiến là thấy.
Trở pháp: Chuyển pháp trở lại. Khi trước, các Ðấng Trọn lành nơi Ngọc Hư Cung định cho HTÐ lập thành Chánh giáo, cầm quyền nền Ðạo. Nhưng sau đó Ðức Chí Tôn chuyển pháp trở lại, để cho CTÐ đứng ra lập Ðạo và cầm quyền điều khiển nền Ðạo, cứu độ nhơn sanh.
Phổ giáo: Dạy khắp cả. Phổ ra bày ra khắp nơi.
Nhị ca: Thuở đầu tiên, lúc mới xây bàn, Thất Nương giáng bàn xướng họa thi văn với quí Ông: Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang. Ông Cư xin kết nghĩa anh em với Cô. Thất Nương bằng lòng và gọi: Ông Cư là Ðại ca (anh cả), Ông Tắc là Nhị ca (anh hai) và Ông Sang là Tam ca (anh ba), còn Cô là Tứ muội (em gái thứ tư). Do đó, Cửu vị Tiên Nương DTC theo Thất Nương mà gọi ba Ông như thế.
Ngưỡng nghĩa: Trông chờ với tình nghĩa tốt đẹp.

Ngọc Hư lo chuyển pháp. Cả Thiên thơ hủy phá, sửa cải chơn truyền. Trước đây, Ðức Chí Tôn đã trở pháp giao quyền cho CTÐ, nhưng CTÐ bất lực, không làm xong nhiệm vụ, nên Ngọc Hư Cung phải chuyển pháp trở lại, giao quyền cho HTÐ điều đình nền Ðạo. Ðây là Ngọc Hư Cung chuẩn bị giao quyền Chưởng quản Nhị hữu hình Ðài cho Ðức Hộ Pháp, nhưng vì Ðức Quyền Giáo Tông chưa đăng Tiên nên phải chờ.

Ðến ngày 13-10-Giáp Tuất (dl 19-11-1934), Ðức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung qui Thiên, Ðức Lý Giáo Tông mới giao quyền Giáo Tông tại thế cho Ðức Hộ Pháp, để Ðức Hộ Pháp Chưởng quản Nhị hữu hình Ðài, trọn quyền điều khiển nền Ðạo cho được kết quả tốt đẹp và mau chóng.

Phần Thi Văn Dạy Ðạo có bài thi:
Bắt ấn trừ yêu đã tới kỳ,
Ngọc Hư định sửa mối Thiên thi.
Cửu Trùng không kế an thiên hạ,
Phải để Hiệp Thiên đứng trị vì.
Thành pháp dìu đời qua nẻo khổ,
Nên công giúp thế lánh cơn nguy.
Quyền hành từ đấy về tay nắm,
Phải sửa cho nên đáng thế thì.

Ngự Mã: Ngự Mã Thiên Quân, là Ðấng Hộ Giá Ðức Chí Tôn mỗi khi Ðức Chí Tôn ngự hành. Ngự Mã Thiên Quân vâng lịnh Ðức Chí Tôn giáng trần là Hộ Pháp Phạm Công Tắc.
Dò đon: Dò hỏi thăm chừng cho biết. Nét dò đon: Những nét còn ngờ, chưa biết.
  Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]  [ 4 ]  [ 5 ]  [ 6 ]  [ 7 ]  8 ]  [ 9 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét