Đức Lý Giáo Tông Ngụ Đời Giác Mê Khải Ngộ (Vân Đằng dẫn giải)


Lời Dẫn
Thuở mới khai đạo Cao Đài, các Đấng giáng cho nhiều bài cơ linh hiển. Đêm 10 tháng 11 năm 1925 Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt giáng cho bài thi:
Đã ghe phen phấn khởi can qua
Thuộc địa trách ai nhượng nghiệp nhà
Trăm họ than van nòi bộc lại
Ba kỳ uất ức phép Tây tà…
Ông Cao Hoài Sang hỏi : Trong tình thế đó, có nên hợp
nhau đứng dậy làm cách mạng để thoát ách nô lệ chăng". Đức Ngài trả lời :

Mạnh yếu hai đàng đã hiển nhiên
Đôi mươi năm nữa nước nhà yean

Ngài đã khẳng định, dù Tây mạnh nhưng "đôi mươi năm nữa" cộng với năm 1925 nước nhà sẽ độc lập.

Đức Lý Giáo Tông cũng thẳng thắn lên án chế độ phong kiến nhà Nguyễn và thực dân Pháp bằng bài Ngụ Đời (08-12-Bính Dần) tả cảnh khốn khổ của nhân sanh dưới hai tầng áp bức

Bài này có hai phần :
1/ Lên án chế độ phong kiến nhà Nguyễn nhượng đất, bất lực trước thế giặc;
2/ Lên án chế độ thực dân Pháp đàn áp dân chúng, ép dân đen ra bạc.

PHẦN THỨ NHỨT

Phần này có bốn bài từ điệu Thái Cực, Lưỡng Nghi, Tứ Tượng đến Bát Quái.
Bài 1 : Tổng quát về bối cảnh đất nước. tửu sắc tài khí đã lung lạc con người, chìm đắm trong mê muội nên đạo đem thuyền Bát Nhã đến cứu rỗi nhân sinh.

Bài 2 : Nói về các giới trong nước : dân (lẻ loi), tướng soái (nịnh bợ), quan vua (như hí trường) dưới mắt Ngài họ đều đáng thương.

Bài 3 : "Nước dưới phép đao binh" dân bị luật Gia Long ràng buộc, quan chẳng vì việc công, vua chẳng phải dòng ( ám chỉ Bảo Đại) vậy ai là người gầy dựng lại nước.

Bài 4 : Vẫn là xã tắc, vẫn triều đình Việt Nam nhưng quan, vua thì bù nhìn "làm con buôn" còn "dân như cá chậu gà chuồng" để cho bọn "Việt gian khoe mình" sao gọi là nước được ?

PHẦN THỨ HAI

Phần này có 6 bài từ Điệu văn Tam Tài, Ngũ Hành Cửu Thiên, Thập Điện đến Động Đình Hồ
Bài 1 : Thực dân Pháp sửa đổi phong tục, thâu mua ruộng đất, khiến nông dân gặp muôn vàn khó khăn chịu sưu cao thuế nặng, đi làm xâu, làm lính, canh gác nhà quan, áo quần rách rưới, còn bị đòn roi làm thân trâu ngựa.

Bài 2 : Nhớ nước xưa "phong quan hay khói (chiến tranh) ngút ngàn sông núi. Dù thợ giỏi (với đồng lương rẻ mạt) cũng phải làm ngày làm đêm quá sức mà vợ con chẳng no. Hỏi "trò" ấy do ai làm ra ? Đó là cái nhục của người dân mất nước.

Bài 3 : Thương trường nơi tay "dị chủng" (Pháp) độc quyền xuất nhập khẩu, áp chế hàng nội bằng cách lập các công ty độc quyền.
"Đoạt thâu cho sạch vàng ngàn bạc muôn"
Bài 4 : Quan viên, chức sắc, thuộc địa là "lũ dại học khôn , lũ ngu ăn hổn, mua phẩm hàm tước hộ ham thân nô lệ, mến vòng tôi con" còn gì sĩ khí?

Chưa kể, lương tháng ít ỏi, bất công. Cùng một việc làm, người bản xứ lương chết đói, dân Pháp lương cao chót vót,bất công thấu trời xanh.

Bài 5 : Những người làm nghề sông nước, bị ngăn cấm đánh cá vùng nhiều thuỷ sản mà vẫn bị đánh thuế thuỷ lợi cao nhưng chưa ai có kế hoạch như Tử Nha.

Bài 6 : Bị sưu cao thuế nặng trốn vào rừng làm tiều phu, búa mòn mà cơm không đủ ăn. Muốn chống giặc mà "non xanh vắng gót "anh hùng" nước nhà thời ấy đang khủng hoảng lãnh đạo cách mạng.

Thật là "Thiên sầu, Địa thảm"
Người dân bị khốn khổ đến cùng cực, chỉ còn tìm vào chùa tu. Đức Lý giáng cho bài phú Giác Mê Khải Ngộ, Ngài lấy chuyện xưa tích cũ để khuyên người đời tu luyện vì hồng trần là cỏi tạm, chỉ có cõi trên mới vĩnh hằng.

Đàn khải ngộ khơi nguồn lập chí thượng thừa :
Trống Giấc Mê khai đường chính đại quang minh
Kính mời đồng đạo đọc thi Ngụ Đời và phú Giác Mê Khải Ngộ sẽ tự phát hiện nhiều điều lý thú trong văn chương.
Tam Tê Anh vào Hạ
Vân Đằng

I . - NGỤ ĐỜI

của Đức LÝ THÁI BẠCH giáng cơ ngày 8 tháng chạp B.Dần (11-1-1927)

            Bài số 1 (Điệu Thái Cực) :
Đời hằng đổi nước non không đổi,
Giữ nhơn luân nhờ mối Đạo truyền,
Nhẩng lo trọng tước cao quyền
Đem thân trần cấu gieo miền trầm luân.
Biệt cành lá rụng đầy rừng,
Con thuyền "Bát Nhã" lửng lờ độ duyên.
Sắc
Tài
Tửu
Khí
Lưng vơi lấy chí anh hùng
Mượn gươm Thần huệ dứt lần trái oan.
Vụ chữ nhàn

            Bài số 2 (Điệu Lưỡng Nghi)
Mến giang san
Phế Vua quan
Ngừa trị loạn
Xem qua như chốn hí tràng,
Lẻ loi mặt nịnh lỡ làng phận trung.
Chẳng ai nắm kiếm Thư Hùng (3)
Thành nghiêng khôn đở, vạt rùng khôn nâng.
Sĩ Dân
Soái Tướng
Quân Thần
Chinh chuyên thay ! phận phàm nhân,
Đỡ nương chẳng biết dựa gần người binh.
Nghe thấy bắt động tình.

            Bài số 3 (Điệu Tứ Tượng) Dân dưới phép tụng đình,
Nước dưới phép đao binh
Nhà dưới phép luật hình,
Còn chi hai chữ thái bình
Ngửa nghiêng chín bệ, gập gình ba châu
Non sông nhuộm một màu sầu,
Nền giao cỏ láng, sân chầu sương phong
Dân chẳng hiệp đồng,
Quan chẳng vị công
Vua chẳng phải giòng,
Về đông hết kế Tử Phòng,
Đoạt binh thơ chẳng Trương Tòng mưu mô.
Tiếc thay một gánh cơ đồ,
Xa thơ khuất dấu bóng cờ bặt tâm.
Nòi anh phong đó cơ nghiệp hỏi ai cầm ?

            Bài số 4 (Điệu Bát Quái)
Cũng xương, cũng thịt, cũng khí, cũng huyết Nam,
Cũng văn, cũng pháp cũng phong cũng tục Nam,
Cũng Xã Tắc, cũng Triều Đình của nhà Nam,
Ngôi Tiên đã lắm gót phám,
Kẻ chăn dân lại ra làm con buôn.
Dân như cá chậu gà chuồng,
Tiếng oan trăm họ trêu buồn ngậm than.
Quốc gia nghèo nàn dân khó mở mang,
Lăng điện phá hoại, Văn Miếu bỏ hoang,
Trí quân lánh mặt, hồn nước điêu tàn,
Gặp con ác giục loàn,
Người ngay tránh dạng đứa gian khoe mình,
Tỷ như một đám bù nhìn,
Cân đai một vẻ, thân hình một nơi.
Aáy cũng gọi đời ………………

            Bài số 1 (trên Tứ Thời giữa Tam Tài gọi là Điệu văn Tam tài)
Nhơn vật khác vời
Vị chữ kim thời
Phong dời tục đổi.
Điền viên đất nổi lên vàng,
Quằn vai nông chịu muôn ngàn thuế sưu
Tròn năm luống phận cần cù,
Không nuôi thê tử không bù thân sanh.
Nhỏ tùng đinh
Lớn tùng binh
Già nằm canh
Mảnh tơi còn phận chưa lành,
Máu đưa quan núc, mở dành làng ăn.
Thân trâu phải chịu nhọc nhằn,
Đòn roi lão mục, tiếng dằn thằng chăn.
Phải tùy phương nắng, giỏi dắn dai dù.

            Bài số 2 (Trên Bát tuyết giữa là Ngũ Hành gọi là Điệu văn Ngũ Hành)
Một thổ võ xưa kia nên tuấn tú
Bị tay phàm làm xấu nét phong quang.
Oâi ! Thương thay ! cho cẩm tú giang san,v Đầy sông ngui ngút khói thuyền,
Đầu non súng giữ, cuối triền gươm đoanh,
Công dân đắp lũy bồi thành,
Tay mình lại côt lấy mình thảm thay !
Nổi lương tháng bổng ngày,
Nổi tiền hỏi bạc vay
Nổi trả thuế đóng bài.
Thợ hay dầu đủ sức tài,
Dủa đêm chẳng đủ, bào ngày không kham.
Miệng ăn quá sức tay làm,
Thê nhi thiếu kém thân phàm chẳng no.
Cũng trò …………..

            Bài số 3 (Trên là Lưỡng Khí giữa là Cửu Thiên)
Lợi bỏ
Không lo
Cướp to
Giựt nhỏ
Trường thương lấp ló ít người,
Nơi tay vị chủng như Trời nắng mưa.
Quốc dân ăn thãi uống thừa,
Không ngăn bán lận, khó ngừa buôn gian.
Cửa Sài Gòn tính toán, áp chế nội hàng,
Gạo bắp chở ngoại bang, giành phần xuất cảng.
Dùng mưu phản gián Nam Bang,
Đoạt thâu cho sạch vàng ngàn bạc muôn.
Nọc ăn máu nước thúi ruồng,
Khô khan lạc khí hao mòn hồn tinh.
Tính toán vốn lời mình, đừng chịu làm thinh e lỗ vốn.

            Bài số 4 (Trên Thập Nhị Thời, giữa Thập Điện Diêm Cung gọi là Điệu văn Thập điệu)
Kìa Quan viên Chức sắc bôn chôn, cũng lũ dại học khôn,
Nọ binh lính Tổng làng chộn rộn, cũng lũ ngu ăn hỗn.
Mua phẩm hàm tước hộ cầu tôn, tiền ngàn không sợ tốn.
Cửa công huyện mãn nha còn,
Dạ thưa lưỡi mõi, cúi lòng lưng cong.
Lằng xanh ưa ngửi mùi đồng,
Ham thân nô lệ, mến vòng tôi con
Lớp lương tháng chẳng tròn, nổi vợ con ương yếu
Rủi phải cơn túng thiếu, chịu người níu kẻ đòi
Đã quen tiếng buộc lời lơi,
Gian làm ra phải lổi dời thành ngay.
Dày công đếm số mề đai
Mực văng nhuộm tánh, viết mài tiêu tâm.
Có chi ham ……………

            Bài số 5 : Nguồn nước cấm
Thủy lợi thâu
Chiếc thuyền câu ra thủ phận
Nghề xưa hạ bạc đã nhàm
Nay dân đói khó ra làm không no
Lúc giăng lưới khi đóng nò
Mãn lo tàu chặn nhẩng dò bè trôi.
Cá chê mồi
Bởi quen mối
Khôn tránh lưới
Nào khi nguyệt giỡn sóng cười
Thú bay mặt nước chân trời ngửa nghiêng
Kinh luân bứt nối khó truyền
Gảy câu Khương Tử, đắm thuyền Ngư Công
Song vẫn cũng một lòng …

            Bài số 6 (Điệu Thập Nhị Khai Thiên Động Đình Hồ)
Thân đói khô như nhộng,
Hỏi ăn chi đặng sống,
Rằng hớp khí thanh không.
Lánh thân khóm bá rừng tòng,
Tiều chưa thoát khỏi trong vòng tôi con
Cây ăn lưỡi búa đã mòn,
Rừng cao hết củi nồi còn không cơm.
Lão lục ngó lườm lườm
Chú săn đơm khẩu súng,
Non sanh vắng gót anh hùng
Rõ cơn Võ Kiết lánh vòng Văn Vương
Thành Thang muôn mặt lưới trường
Biết khôn cầm thú kiếm đường cao sâu,
Oâi ! nạn củi quế gạo châu, Thiên sầu Địa thảm !

II. - GIÁC MÊ KHẢI NGỘ
PHÚ LỐI VĂN
Lý triết thanh liêm hỡi TRƯỢNG PHU
THÁI SƠN ngọc chiếu vẹt sương mù,
BẠCH tâm MINH CẢNH soi cho hãng
GIẢNG luận khuyên đời vẹn đức TU

Đời Hỗn Độn, (1) bởi nên thú người dường thể lộn, cuộc thế tàn chốn chốn rối vò tơ,
Trước không lo đào bến với đấp bờ,
Cơn sóng gió thuyền dật dờ không nơi dựa.
Đời Mạt Kiếp, (2) nhắm xem sơn thủy Trời càng chan chứa,
Nhìn cỏ cây đồng xào úa, dường như lụy ứa cõi mộng trường. (3)
Kíp giản nàn tua mượn nước Nhành Dương, (4)
Thì mới gặp chánh đường là Đại Đạo.
- Người còn dan díu nơi trường mộng ảo, (3)


(1) Đời Hỗn Độn : là đời lộn xộn, không trật tự kỷ cương, cang thường đảo ngược, luân lý suy đồi, mạnh được yếu thua, không còn dại mất.
(2)Đời Mạt Kiếp : là vận hội cuối cùng của đời Hạ Ngươn sắp mãn, đặng sang trở lại đời Thượng Ngươn.
(3)Mộng trường, Mộng ảo : ví như giấc mộng. Trong bài thơ của vua Thuận Trị có câu : Bá niên thế sự tam canh mộng, vạn lý giang san nhứt cuộc kỳ, nghĩa là : Việc đởi trong trăm năm tưởng lại như giấc chiêm bao, mới thấy đó rồi mất đó, giang san muôn dặm như cuộc đánh cờ, thắng bại dời đổi.
(4)… Nước nhành dương : là nhành Dương liễu của Phật Quan Âm nhúng vào nước Cam Lồ để rảy vào đám chúng sinh khổ não. Ý nói muốn gặp Đạo phải ráng tìm phương pháp cứu độ người.

Khó mong cho hườn đáo cảnh u nhàn,
Cõi thế tàn nóng tợ như lửa than,
Đời cùng cuối chèo chan dườn tuyết lạnh.
- Đánh tiếng chuông cảnh tỉnh, cả kêu người còn tranh cạnh
Tỉnh giấc hồng mau xa lánh khỏi sông mê,
Hiệp ban lành nơi Tiên Cảnh quay về,
Chốn thanh nhã dựa kề câu thi phú.
- Mây che khuất ánh Trời nên vần vũ,
Biết Trời mưa toan lo đủ củi, cơm,
Cảnh thế xây, người khá rõ nguồn cơn,
Bừng mắt dậy lóng nghe tiếng đờn Tạo Hóa (1)
- Giọng cứu khổ nhặt khoan xem rất lạ,
Tiếng phù trầm ÐẠI Aân Xá Kỳ Ba,
Dạy thuần phong mỹ tục cho Đạo nhà,
Tỉnh giấc mộng rõ là cơn kiếp chót
- Xoi lỗ tai cho thông và nghe cho lọt,
Lời Phật, Tiên ngon ngọt khuyến đời,
Sẵn thuốc Thần nhỏ mắt đui, đặng tỏ sáng mà thấy Đạo Trời.
Vì mạt kiếp. Mở độ đời cơn giết lẫn,
- Nghe chuông Thánh, bớt cuộc trần chen lấn,
Rõ khách Tiên lánh biển hận sông cừu,
Thoát cảnh trần mới khỏi chốn phiền ưu,
Dầi chí thấp Thượng lưu đề danh tạc.
- Khuyên sanh chúng nhớ nơi miền Cực Lạc,
Cảnh thanh nhàn cỡi hạc ngao du.
Đoái xem lại trần dường thể tuyết mù,
Nhìn cuộc thế tợ bóng cu vó ngựa, (2)
- Người mắc trong tứ tường, (3) vách cao mà không cửa, Có thang Trời đà bắt dựa, kíp mau leo,
Thoát khỏi tường tham dục, tránh nạn eo,
Người chí liệt ráng dòm theo đèn Ngọc Đế.
- Mùi Đạo Đức chớ ơ hờ mà bê trễ,
Cuộc thế tàn nghe tiếng dế cất giọng Nam Ai, (1)
Lòng đá vàng ôi ! Chí sĩ hỡi anh tài,
Dạ kim ngọc, phận râu mày, đừng khuấy rồi ngơ lấp.
-Đời thái quá chuyển xây rồi bất cập,
Ham leo trèo nạn té vấp nó kề bên,
Nẻo gian truân lần đi tua phải gắng sức bền,
Nhiều cây dụm mới nên là núi đặng.
- Đường còn dài trì tâm lo sức gắng,
Chẳng nẻo quanh, dặm thẳng chỉ một đường,
Cảnh u nhàn rước kẻ hiền lương,
Đò cứu khổ buồm trương miền Tây Vức. (2)
- Cả tiếng kêu hỡi khách trần đạo đức,
Bát Nhã thuyền (3) đà sẵn chực kề đưa,
Rước những người Quân tử chí tương dưa,
Chốn Bồng Đảo (4) không trưa chiều sớm tối.
- Cõi trần tục hỡi ai còn lặn lội,
Kíp quày đầu trở lại bến xưa,
Chốn gian hồng (5) mai nắng chiều mưa
Sao bằng phước Đại Thừa nơi Tiên Cảnh.
- Cõi giả dối, bóng tùy theo hướng ánh
Cười dã man chấu cánh cậy hơi cào…
Giọng hạnh kiêu ở thấp tặng mình cao,
Miệng Mô Phật lòng gươm đao toan kế hận.
- Đời xảo nguyệt chen chen cùng lấn lấn,
Kiếp bụi tàn luống lận đận với lao đao.
Giọng ma yêu rủ quyết rất ngọt ngào
Tiếng tinh quỉ, lụy phong trào trong vòng Hoàng Vũ.
- Hỡi khách tri âm (1) đứng trong vòng vũ trụ,
Đầu đội Trời, chơn đạp Đất, mau thức giấc ngủ, đặng tỉnh táo mà thấy Đạo Trời.
Sửa thuần phong mỹ tục cho đời,
Dạy người biết Đạo người mà cư xử.
- Phá giấc mê người còn đang dụ dự,
Vẹt ngút mù đà lố chữ Bác Aùi (2) với Từ Bi (3)
Mở trí cuồng cho người thông suốt tánh lương tri,
Lo kinh kệ chokịp kỳ Thầy mở hội.
- Lời châu ngọc Phật, Tiên dạy lóng nghe mà tự hối,
Tiềng đá vàng phân gốc cội đã đành rành,
Khuyên trong đời nên liên kết mối nhiệt thành,
Đừng mê vật chất, mà rấp ranh toan kế hại.
- Nghĩa nhơn thế đều đứng trong vòng nhơn loại,
Mến yêu nhau mới phải Đạo làm người,
Cuộc bể dâu sau rõ biết cơ Trời,
Đường Huỳnh Đạo (4) sẵn mời kêu khách lạc.
- Cõi phàm tục sống mai, chiều thác
Chốn Mê đồ (5) cảnh bạc đổi lòng vôi,
Vẫy vùng lo tiền của nhắm mắt đã thôi rồi,
Hồn lìa xác bàn tay không, hỡi ôi ! là con vợ !
- Kiếp sanh tiền mối giây oan phải làm nô lệ tôi tớ,
Đến thác rồi con vợ có che đỡ tội chi chăng ?
Tội sanh tiền thác xuống, Diêm Chúa luật trừng răn,
Đành cam chịu ăn năn dường như nước chảy.
- Hỡi chí nhơn ôi ! Là người mật trải,
Nầy Trượng Phu hà hải đã phơi gân,
Chẳng mấy thu rồi cũng một khúm tro tàn,
Aên của đất, hườn lại đất, nghĩ càng thêm cám cảnh.
- Đám cỏ xanh đỡ cho mồ phần hiu quạnh,
Cụm tuyết mù giúp thêm cảnh hồ tan,
Sao bằng quân tử chí ư nhàn,
Đai cơm nước, nương sơn cốc, mà cháo chan câu thi cùng lối phú.
- Vườn Thanh Sơn, Nhạc Thiều là phụng kê vượn hú,
Ve ngâm nga hòa âm nhạc, giúp thêm đủ kệ Tinh Thần,
Cuộc mơ màng nọ lầu Phụng, các Làn,
Nơi phú quý như mây gần rã nước.
- Giấc Huỳnh Lương (1) quan cao lộc cả mà không được,
Mộng Nam Kha, (2) giàu sang vinh hiển quờn tước, nào hay đâu là mưu chước của con ma đời.
Tỉnh giấc hòe, bàn tay không, nghĩ chánh ngán vô hồi,
Hồn nhập xác, rõ khúc nôi là ảo mộng.
Sao bằng lấy Trời cao ta làm dù lộng,
Lấy đất bằng làm kiệu võng đỡ chơn,
Sớm vui miền nước Trí non Nhơn,
Chiều dạo cảnh thủy sơn trong Tạo hóa,
- Cuộc trần thế muôn điều là dối giả,
Cõi thế gian một bã điêu tàn,
Hỡi khách trần còn đương trong giấc mơ màng,
Người cõi thế nắng mưa chan đã tường nóng lạnh.
- Cuộc dâu biển khuyên nhơn sanh kíp lánh,
Nẻo chông gia khá tránh kẻo va vào,
Chí thanh nhàn, yên tâm trí mà tu luyện mối đạo cao,
Hằng trạm trổ, cần giồi trau Linh Quang Cảnh (1)
- Kìa Khương Thượng (2) tác già mà chưa rảnh,
Nọ Cam La (3) tuổi bé không lo tránh miếng đỉnh chung trần,
Sao bằng bực Nhan Uyên (4) đai cơm bầu nước, ở thông thả nơi chốn chòi tranh,
Miền lậu hạn, nẻo lợi danh, sánh như sóng đập gành khua lã chã.
 -Kiếp sống thác cuộc trần mau như bóng quạ, (5)
chốn phù sanh trăm thu như lửa đá nhán nào lâu.
Làm họa sâu chịu phải nạn sâu,
Việc ác nghiệt đáo đầu vay phải trả.
- Hỡi Hoàn Cảnh cớ sao xem đổi lạ
Luật Thiên Nhiên Tạo Hóa vẫn một màu
Cõi Hồng gian xem sóng bủa ba đào,
Hơi ác khí bao cao, luồng gió hoại phong trào cáng óng dậy.
- Chước Quỉ Vương kéo xô thêm trì đẩy,
Kế mị tà nơi nơi đồng gày bẫy với giăng dò,
Khiến trăm mưu toan đục nước béo cò.
Lòng muôn thế đắn đo sanh chước độc.
- Kim ong chích, thêm hùa rắn nọc,
Khiến muôn điều, than khóc cho trăm họ muôn nhà,
Đời cuối cùng bóng nguyệt đã xế tà,
Cuộc thế mãn, Âm tuyệt Dương sanh, loài quỉ ma chờ ngày dứt giống.
- Đức Từ Lành ơn trên bố rộng,
Người gội nhuần đặng sống, mà lo vun đắp mối Đạo Trời,
Trong nhà không đóng cửa, ngoài đường chẳng lượm của rơi
Người ngậm cơm vỗ bụng, rất thảnh thơi Trời Nghiêu cùng Đất Thuấn.
- Bốn phương đặng mưa hòa gió thuận,
Nơi nơi đều cảm hứng, mà tấm nhuận ơn Trời ban,
Chốn chốn đều an cư lạc nghiệp, khác thể Châu, Thang,
Nhà nhà thảy thanh nhàn, ấy là phục lại đàng Thượng Cổ.
- Than ôi ! Hễ đặng bữa cày thì phải buông bữa giỗ.
Chốn gian trường ôi ! là biển khổ với sông mê,
Cuối Mạt Đời cả nhơn loại đã trường trải ủ ê,
Rèn gươm Trí Huệ mà diệt hết bốn bề hồng lưới.
- Thuốc trần tục, người lâm phàm thêm mẩn mê dã dượi
Nay phép Tiên đã rưới, kíp mau định hồn lại, mà thoát ra khỏi lưới trần,
Mượn cảnh nâu sòng đổi thế đai cân,
Xa vật chất tinh thần càng thêm phát huệ
- Kìa Bá Di, Thúc Tề (1) mượn cảnh không dứt rồi mối tệ
Nọ Thạc Sùng, Vương Khải (2) cũng danh tiếng ai có kể ra gì ?
Khách lánh trần sẵn đuốc Tạo Hóa kíp lần đi
Đường Chánh Đạo hiệu Vô Vi cứu khổ.
- Thương lấy cõi trần gian chịu cơn cháy mày mà nhăn nhố,
Bước lạc lầm sao chưa suy độ thẹn hổ với lương tâm,
Tỉnh giấc hồng lánh việc sai lầm,
Tâm thần định, thấy Đạo Trời, dầu câm đều nói được.
- Hỡi anh hùng, kẻ tài ba người thao lược,
Phá núi cao, tát biển cạn, có qua được cái chết cảnh trần chăng.
Sống còn ba tấc hơi róng giọng líu lăng,
Hồn khỏi xác, nghĩa Kim bằng (1) đành phải dẹp.
-Thanh sử xưa đời còn tạc chép,
Huỳnh Đế còn đành dẹp nảo lợi danh, quì gối đi ba vội (mà) yết bái Đức Quảng Thành (2).
Vì Tiên Đế làm cha nhơn sanh, còn phế giang san, tâm chí quyết tu hành,
Oâi! Là dân thứ còn đua tranh chí đường danh cùng cùng nẻo Lợi.
- Ráng hồi tỉnh lo tròn Nhơn với Ngỡi,
Nếm thuốc Thần cho hết bịnh tâm bưởi dạ bồng,
Thoát khỏi xa nơi chốn lao lồng,
Lìa những cảnh bướm ong mới khỏi vòng long đong trong kiếp khổ.
- Cảnh bi thương thấy càng thêm lụy đổ,
Mê công banh, sai luân lý, quên báo bổ ơn dày.
Mảng mê Tửu khí với Sắc Tài
Đành quên dứt điệu hôm mai thần tỉnh.
- Hỡi Trượng phu trí, tâm tua ráng định,
Chốn Mê đồ đừng bịn rịn, phải dấp dính, khó trả lại thêm vay
Kiếp phù sanh như lửa đá nhán không dài,
Mồi danh lợi đến thác, không ai dính theo tay một mảy

(1) Tiếng đờn Tạo Hóa : là những Thánh Huấn thanh tao, phần nhiều là thi văn tiếng Việt của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ giáo Đạo nơi xứ Việt Nam, đặng phổ độ giáo lý Đạo Trời, để dẫn khách trần hồi tâm tỉnh ngộ.
(2) Bóng cu vó ngựa : Tống sử có câu nhân sinh như bạch câu quá khích nghĩa là : người đời như bóng ngựa trắng chạy qua cửa sổ, ý nói : đời người đi mau thắm thoát và ngắn ngủi.
(3) Tứ tường : sách có câu : Tửu sắc tài khí tứ đổ tường , là bốn tấm vách làm cho con người mê mẩn, không có đủ trí để phán đoán, hầu vượt mọi cảnh giới nơi thế gian
(1) Nam Ai : Tên một bản nhạc của ta, giọng điệu rất ai oán.
(2) Miền Tây Vức : miền Tây Phương, ý nói miền Cực lạc của Phật.
(3) Bát Nhã Thuyền : là thuyền từ của nhà Phật, là Đạo cứu khổ để cứu vớt chúng sanh còn chìm đắm nơi bể khổ trần gian. Theo thời kỳ Đại ân xá nầy, Bát Nhã Thuyền là thuyền Trời cứu khổ, là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ hoằng khai, dùng giáo lý Đại Đồng giải thoát chúng sanh.
(4) Bồng đảo : tức là đảo Bồng Lai, tên một hòn núi trong ba hòn núi của Tiên ở Bột Hải.
(5) Chốn gian hồng : là phàm gian.
(6) Đại thừa : cổ xe lớn, chánh giáo độ đặng tất cả chúng sanh, ví như xe lớn chở đặng nhiều người.
(1) Khách tri âm : biết tiếng, nói những người bạn thiết, biết được chí hướng của nhau (xem tích Bá Nha Tử Kỳ trang)
(2) Bác ái : Lòng yêu hết mọi người mọi vật.
(3) Từ bi : Kinh Phật dạy : Từ năng dự lạc, bi năng bạc khổ, nghĩa là đức Từ của Phật ban cho chúng sanh mọi điều vui, đức Bi cứu vớt chúng sanh mọi điều khổ, Từ Bi là lòng thương rộng rãi và bình đẳng đối với muôn loài chúng sanh, người tu hành Từ Bi xem hạnh phúc và nỗi đau khổ của chúng sanh như của mình, ban ân cho chúng sanh không cần trả, không vì lợi riêng bản thân.
(4) Đường Huỳnh Đạo : là Đạo huỳnh hay là đường Trung đạo, do Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế lấy cái tinh túy của Tam Giáo Ngũ Chi để lập ra, theo tiến hóa của nhơn loại hay là Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ.
(5) Chốn mê đồ : đường mê hay bến mêm Phật dạy : sự ngờ vực ở nơi 3 cõi. 6 đường thì gọi là mê tâm, sái bến lạc đường phải nhờ thuyền từ bi cửa Phật, mới đưa vào đến bến.
(1) Giấc Huỳnh Lương Tích Lữ Đồng Tân đời Đường đến quán trọ nằm đợi chủ quán nấu kê (Hoàng lương) ngủ quên, chiêm bao thấy mình lấy vợ đẹp, thi đậu quan to đi đánh giặc được thắng trận, sanh con đẻ cháu, vinh hoa phú quý nhất đời sống được 80 tuổi mới chết phút giựt mình tỉnh dậy, thì nồi kê chưa chín. Bởi thế đời xưa thường dùng điều đó tả sự giàu sang ở đời rất chóng.
(2) Mộng Nam Kha, hay Giấc Hòe, Tích Thuần Vu Phần nằm chiêm bao thấy mình đến nước Hòe An, được vua gả công chúa cho lại phong làm Thái Thú quận Nam Kha, giàu cực phẩm, danh tiếng lẫy lừng, sau đi đánh giặc bị thua, và công chúa mất, vua nghi cách chức đuổi đi uất ức quá, bừng mắt tỉnh dậy, thấy mình đang nằm dưới gốc cây hòe. Thuần Vu Phần suy nghĩ lấy làm chán bỏ đi tu. Vậy nên gọi giấc mộng, giấc ngủ là giấc Nam Kha hay giấc Hòe.
(1) Linh Quang Cảnh : chỉ cái tâm của mỗi người.
(2) Khương Thượng : tự Tử Nha, tên chữ là Lữ Vọng, người đời nhà Châu thuở nhỏ nhà nghèo vợ khi, bỏ đi lấy chồng khác, ông không màng, ngồi bàn thạch ở sông Vị Thủy câu cá chờ thời, tới 80 tuổi, vua Chu là Văn Vương mới rước về, giúp Võ Vương đánh bại vua Trụ định an thiên hạ dựng nghiệp Chu hơn 800 năm, chết năm 1048 trước Tây Lịch.
(3) Cam La : người thời Chiến quốc, cháu của Cam Mậu là một người hạ tướng của Lữ Bất Vi, ở nước Tần, mới 12 tuổi, đi sứ qua nước Triệu thuyết phục Triệu Vương cắt 5 thành để dưng cho Tần, khi về được phong làm thượng khanh, nhưng không bao lâu rồi chết.
(4) Nhan Uyên : tên Hồi, tự Tử Uyên, người nước Lỗ, học trò Đức Khổng Tử, nổi tiếng là hiền, hằng ngày Nhan ăn ở rất giản dị, Đức Khổng Tử thường khen : Hiền thay Nhan Hồi, một giỏ cơm một bầu nước.
(5) Bóng quạ : hay bóng Ô : là bóng mặt trời.

- Hỡi Quân tử đã hành nợ trần (quằn quại)
Hứng tuyết Trời thường trải với gió sương,
Cuộc trần gian người mắc phải cảnh bi thương
Nầy nghe rõ hẳn tường đen, trắng.
- Hứa Do (1) bực Triết hiền còn tích dặn,
Nghiêu cám tài đến cầu Do đặng giao gánh giang san,
Do lóng nghe dường như một giấc mơ màng,
Bèn xuống suối rửa hai tai, chẳng muốn cho danh lợi tràn thâm nhiễm.
- Sào Phủ thấy hỏi cho tường đỏ tím
Do dứt lời, Phủ e phải nhiễm nước danh lợi vào lòng trâu,
Phủ chê Do còn lóng nghe những tiếng Công hầu,
Bèn kíp dẫn bầy trâu đi lên trên dòng nước.
- Hỡi bạn tri âm chán xem trong thế cuộc,
Cũng rõ tường cảnh trược vốn trần lao,
Nên lấy Ca-Sa mặc đổi dứt Long Bào,
Dùng Trí Huệ thắng gươm đao lòng vật chất,
- Bịnh phong trần gặp thuốc Tiên, chịu khổ truân, đắng cay mới đã tật,
Dứt trừ căn, khỏi dờ dật trọn lành,
Lời đá vàng ôi ! là chí sĩ hỡi anh hùng !
Lo cho nhơn quần đặng thuần phong (sao nỡ tay, khoanh, không lo hành Thánh giáo)

(1) Hứa Do Sào Phủ : là hai cao sĩ đời Thượng Cổ chí muôn thanh nhàn, không màng danh lợi, vua Nghiêu nghe tiếng mến tài, muôn dời đến để nhường ngôi, nhưng hai người sợ sự cao sang quyến rũ lòng mình, nên rửa lỗ tai, không cho trâu uống nước, thật cổ nhân quá nghiêm khắc để làm chủ với ý nguyện mình ư ?

- Đã muốn sửa cho đời hết cơn đường gió bạo,
Nỡ yên ngồi mặt trợn tráo, đành ngơ ngáo sao thành
Bực triết hiền sao lơ lảng không lo gánh nợ Quần sanh,
Chen danh lợi khiến cho giống từ lành không gieo cho nhơn sanh nhuần gội.
- Trống Lôi Âm (2) đà giục khởi,
Tỉnh giấc Hòe ôi ! hỡi nầy người Trượng phu,
Lấy kiến Tinh Thần đeo vào mắt cho sáng tỏ vẹt ngút mù.
Dùng Trí huệ mà xa lánh bóng phù du, muôn việc đời mau như tên xạ,
- Phương thế thái nhơn tình càng châu rơi lã chã,
Thảm than phiền cho Đời quá giết lẫn nhau,
Hết mến thương cốt nhục tình nghĩa đồng bào,
Dùng lời nói, rèn bạc ra gươm đao, giết nhau trong con đường Danh cao với Lộc cả,
- Kìa gương Bá Đào (1) còn bia nào dối giả,
Bạn Giác Ai lời hẹn đã chẳng phai mòn,
Giấc chiêm bao còn tưởng mến nghĩa đồng tôn.
Cơn tỉnh lại mượn ngọn đao, mà dứt trần thế cho hai hồn là bạn xưa đặng liên hiệp.
- Hỡi nguyên sanh là người Lý Triết.
Há lảng lơ không đặc biệt đàng Chánh với nẻo Tà,
Nghe Bạch Ngọc Chung đà giục khởi, tua thức giấc Nam Kha,

(2) Trống Lôi Âm : Đời Đường Tam Tạng qua thỉnh kinh nói Lôi Âm Tự ở nước Phật, Ý nói Trống Lôi Âm là tiếng trống của Phật thức tỉnh.

Lóng nghe sáo không lỗi thổi giọng thiết tha trầm cung oán.
- Tỉnh giấc mê rõ tiếng kêu nhau rủ bạn,
Lấy Tinh Thần nên xa ngán cuộc trần ai,
Lực kim tiền như lửa đốt nơi mày,
Mồi vật chất có lưỡi câu hay, hễ táp sâu mắc ngạnh dài ôi ! kó day cùng trở.
- Thương hoàn cảnh mộng trường mà than thở,
Xót dạ vàng nên phải tỏ khuyên đời,
Thả chiếc thuyền Bát Nhã cứu kẻ đắm trần vơi,
Ra sứt vớt kẻ còn hụp hơi, nơi biển khổ,
- Chí Lương Tử ôi ! là người đại độ,
Cảnh nguy nàn "há ngồi một chỗ, mà ngóng xem người lụy đổ châu rơi,
Trải gan vàng xử sao, cho vẹn Đạo người,

(1) Bá Đào, Giác Ai : Bá Đào ở đời chiến quốc, người huyện Tân Cương cùng Giác Ai ở Châu ung kết làm bạn thiết đi đầu vua Sở. Vì không chịu nổi sự kham khổ dọc đường, Bá Đào bị đói lạnh mà chết. Giác Ai chôn lại bên đường, đến đầu vua Sở được trọng dụng, mà xin về chôn cất Bá Đào cho tử tế và truy phong quan chức. Một đêm nằm thấy Bá Đào về cảm ơn, và xin dời mả mình đi nơi khác, vì nơi ấy gần Kinh Kha, nên bị người hiế đáp. Sáng ngày Giác Ai đến miễu Kinh Kha mà mắng và hăm dọa còn hiếp đáp sẽ đào mồ phá miếu. Đêm ấy Bá Đào cũng hiện về xin dời một, vì bộ hạ Kinh Kha đông, nên hiếp đáp mình không cự lại.

Giác Ai thức dậy tức thì viết biểu tâu hết sự tích cho vua hay, rồi đòi làng xóm tới nói rằng : Kinh Kha làm bức anh ta, nên ta phá mồ mả nó thì làng xóm không vui, vậy ta quyết xuống dạ đài để đánh nó, nói rồi rút gươm tự vận. Đêm ấy, giữa lúc nửa đêm mưa gió sấm sét tưng bừng, đến sáng ai nấy ra coi thấy mồ Kinh Kha bể nát, cây cối gần một tróc gốc như đào bới. Sau Sở Vương sai quan lập miếu thờ 2 anh em vì ở với nhau hết lòng, dám chết với nhau.

Thì mới cảm động thấu đến Trời ban phước nhuận.
- Nghe tiếng chuông cứu thế, đánh tỉnh giấc hồng mà rõ Đạo Trời tạo dựng,
Nếm thuốc Thần đặng lòng vững cho hết chứng mờ hồ,
Buổi cuối cùng đà muốn khuất bóng vừng ô, (1)
Đời mạt kiếp cõi cơ đồ tan rã.
- Nầy Nguyên Nhân nghe lời khuyên, mà chạm xương ghi dạ,
Tiếng ngọc châu lời đã rạnh đề,
Kết Đại Đồng toan sửa cảnh ủ ê,
Đừng thay đổi mà phai lạc, khó lần theo đường de cùng dấu thỏ.
- Trải sương tuyết độ đời nại chi nhọc khó,
Sửa thế tàn cho đặng rõ Đạo Vô Vi,
Này Trượng Phu, Hỡi Quân Tử, còn rõ sử Tử Kỳ, (2)
Đờn khoan nhặt Bá Nha xiết chi là thâm cảm.
- Giọng phù trầm tỉnh tỉnh hết cơn mờ ám,
Bạn tình thâm người rõ chán cuộc đời,

(1) Đại Từ Phụ dạy rằng : con ôi ! bóng đã xế, ác muốn gần chính, mà thân con hãy còn bơ vơ giữa quãng đường, gai gốc, con phải biết rằng : thân con đâu vẹn khi giông gió bất tường, thì ra chưa là, gì ích nước lợi dân, mà đã dĩ vãng cỏi đời vô danh vọng !...

(2) Tử Kỳ-Bá Nha : Chung Tử Kỳ ở đời Xuân thu là người tiều phu nhưng có tài nghe âm nhạc. Một hôm quan đại phu Bá Nha, nhân một đêm trăng trên thuyền về quê, ngồi khảy đàn Tử Kỳ ngồi trên bờ lắng nghe nức nở khen Bá Nha cho mời xuống thuyền khảy đàn mà bụng nghĩ trên núi, thì Tử Kỳ khen : "Tiếng đàn chót vót như núi cao". Kịp khi Bá Nha đang đánh đàn, lại nghĩ xuống dưới sông, thì Tử Kỳ lại khen : "Tiếng đàn cuồn cuộn như nước chảy". Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha bứt dây đập đàn đi nói rằng : "Trong thiên hạ không còn ai nghe được đàn ta nữa".

Cõi Thanh sơn chòi tranh mà thanh nhã, vui thắng cảnh của Đất Trời,
Mồi phú quí tợ hoa rơi lá rụng,
- Sóng văn minh dẫy tràn, nền luân lý hoại hư mà tuyệt chủng,
Người sa mê vật chất như đèn lụn hết tim,
Khiến trần gian bảy nổi ba chìm,
Người mê mẩn khó tìm đường chánh đại.
- Phật, Thánh, Tiên thở than cho nhơn loại,
Kiếp hồng gian thế thái ôi ! lại với nhân tình,
Giấc mơ màng rồi môt kiếp phù sanh,
Lằn tên xẹt lo nẻo lợi danh, Ôi ! đành buông theo miền âm cảnh.
- Tội dương trần nay xem dường như một đảnh,
Cõi thế gian vì không lo tu tánh, nay phải chịu luôn một cảnh đoạn trường.
Luật công bình nhiều tội phải vấn vương,
Lời chánh trực, ghét thương tại người chiêu tập.
- Nhắn nhủ khuyên đời tỉnh giấc hồng mê, đường quang minh sẽ gặp,
Đuốc Đại Đồng đã rọi khắp thế gian,
Lời nhủ khuyên chẳng dứt tiếng hỡi đồng bàn,
Đừng ngơ ngáo mà lỡ khoa tràng, chẳng kịp Bát Nhã thoàn đưa qua bến tục.
- Tìm thấu rõ gươm tinh thần, diệt cho hết loài ma tham dục.
Lấy kiến quang minh mà soi, coit rong đục lòng ta,
Tỉnh lương tâm phân biệt chánh tà,
Minh trí huệ phân đoán Phật cùng Ma, vậy mới là người Thánh triết.
- Hỡi nguyên sanh ôi ! Là người có tai mà làm tuồng ngơ điếc.
Nghe tiếng đờn tri âm rủ bạn, nên rõ biết đà lên giọng Tinh Thần.
Tiếng nhặt khoan kêu lánh quán Sở với lầu Tần, (1)
Nầy hỡi bạn đã sa chân, nay nghe đờn giác ngộ nên bước lần ra cho khỏi
- Thương cảnh chán thay còn lặn lội,
Cõi gian hồng ôi ! Độc khói nó bay tràn,
Người lâm nhầm, hít hơi mất tài khôn thành bịnh mơ màng.
Oâi ! là cảnh ủ dột, một cuộc điêu tàn chốn cảnh thanh khách trần gian đành ngơ ngẩn.
- Hỡi tri âm đã chào đời, thấy tuồng chen chen lấn lấn,
Chước Quỉ Vương dắt dẫn cho sái bước lạc đường,
Mến mùi đời, hơi bay dậy thể vật đà ươn,
Mùi tàn nhẫn vển vương, mau mượn nước nhành dương, mà tắm cho hết mộng trường nơi cõi tạm.
- Lực Kim Tiền, kẻ bua Quan Tinh Thần đành suy giảm,
Người không suy lòng hà lạm mà quên thương cảm kẻ đê hèn.
Cất giọng cao nhảy nót múa men,
Ra kế độc sang hiếp hèn, lấn chen tuồng dua bợ.
- Tiếng rên siết ôi ! nghe rõ là nghèo hèn thanh thở,

(1) Quán Sở :Tìch vua Tương Vương nước Sở đi chơi ở đầm Vân Mộng, nằm chiêm bao thấy một thiếu nữ xin hầu chăn gối và tự xưng là thần nữ ở Vu Sơn. Sau vua cho lập Quán (như đền thờ, am, miễu) ở chân núi Dương dài.

Lầu Tần : tích vua Trần Mục Công thấy Tiêu Sử thổi ống sáo rất hay nên làm cái lầu cao để Tiêu Sử dạy con gái là Long Ngọc, sau hai người lấy nhau, hai tích nầy ý tả những tình dục, hoặc sự mộng tưởng mỹ sắc.

Giọng thảm thương người trắc trở lương tâm.
Hỡi Trượng Phu, nên khêu đèn chánh đại cho sáng chớ đi thầm,
Nầy Quân Tử đốt đuốc huệ trở lại đường chánh kẻo đi lầm nơi chước quỉ.
- Ai là gánh vai tuồng Hiếu Trung nên xét kỹ,
Cho lưỡng toàn, chớ học sách ruồi nọ nương đuôi ngựa, Ký, (1) toan múa mỏ gọi đi xa đường,
Bay ba thước đà hết sức cánh trương,
Nương đuôi ngựa chớ khoe bướng rằng sức giỏi.
- Trong Võ Trụ, hỡi người thông minhc ùng là thấp thỏi,
Biết ăn cơm uống nước, nên biết ơn tạo dựng trong cõi thế gian nầy.
Đừng mê man vật chất lại quên hẳn ơn nghĩa tớ thầy,
Chờ an thân yên ổn vui vầy, mà mắc lưới trần vây, khó thoát bầy yêu lộng.
- Gội ơn Trời cao mà đặng sống,
Chớ phui pha phải hiểu lộng lộng bủa lưới Trời giăng,
Nầy mỗi người đều sẵn trí lương năng.
Lấy Tinh Thần mà diệt tánh kiêu căng, kẻo đến cuộc ăn năn đà rất muộn.
- Màu sua se đỏ đen, người chóa mắt lòng ưa chuộng,
Chẳng ngờ lòng ham muốn mà phải chịu luống đoạn cam go.

(1) Ruồi nương đuôi ngựa ký : Ký là con ngựa hay, câu nầy ý nói "Ruồi đeo đuôi ngựa Ký đi xa, lạ lấy công người làm công mình, khoe khoan sức giỏi. Để ví người đời chỉ biết có mình, chứ không biết nhớ ai mà nên".

Cảnh bể dâu như bể nóng nơi lò,
Đường lao lý chịu quanh co, ráng lần mò ra đường ngay nẻo thẳng.
- Lấy tinh thần hườn lại hột Định Phong Châu (1) khá trương ra cho biển trần êm gió lặng.
Mượn nước Dương mà tưới sạch lửa hồng gian,
Sẵn dù Trời che chở cơn mưa lạnh nắng chang,
Ây là phước trời ban, chớ mơ màng, phải thở than cơn kiếp chót.
- Cây tuy lõi cứng nhưng cũng phải rán lừa loài mọt,
Chớ ỷ mình mà không xem trước coi sau,
Ham trèo cao hớp tớp sẫy chơn té nặng phải chịu cảnh đớn đau,
Lời hòa hượt cẩn thận vậy mới anh hào ra độ thế.
- Trong nhơn loại khá lần lần ráng lóng nghe câu Thần kệ.
Chạm nơi lòng, chớ khinh để, khó thoát bể trầm luân,
Chốn trần gian cay đắng khổ truân
Miền phàm tục tưng bừng lời không ra Đạo Đức.
- Cõi thế giới không Đạo Trời một ngày kia phải tuyệt dứt,
Bởi vì giấy trắng tươi làm đổ mực ắt phải khó chùi,
Kẻ quáng mù khéo tài khôn dẫn đứa mù đui,
Hai tánh mạng ắt khó dời là kề nơi ao rộng.
- Hỡi trí tài nhờ Tạo Hóa nấng nuôi nên mới sống,

(1) Định Phong Châu : là một hột minh châu trong sáu hột Trân Châu Liệt Hòa Kỳ ở nước Tây Hạ tấn công cho nhà Tống. Triều vua Nhơn Tôn, sai Địch Thanh đi lấy, hễ gặp gió lớn mà trương cờ ấy ra, nhờ hột Định Phong Châu mà gió liền tạnh.

Trong mấy thu vùng vẫy trong cảnh rộng chốn phù sanh, (2)
Than ôi ! Còn hoi hóp lướt giọng bực hùng anh,
Ngừng trống ngực, trước không chứa đức lành, nay phải chịu tan tành thêm khổ não.
- Lời khuyên dạy xiết chi là quí báu,
Tiếng dạy đời, ráng uống hườn thuốc cứu khổ cho qua bịnh Tử Lão nơi cõi trần nầy,
Xuất thanh hồn cỡi hạc nương mây,
Nơi Tiên cảnh vui vầy cùng bạn cũ.
- Hỡi khách trần thế đứng trong Hoàn Vũ,
Khuyên lóng nghe cho đều đủ lời Phật, Tiên khuyên nhủ từ lành,
Phòng lửa to táp mặt, trước lánh mời khỏi lúc tàn canh,
Ngừa lánh trước, kẻo nước kề chơn mà nhảy lộn quanh e khó khỏi.
- Phật Thánh Tiên chẳng nài nơi trần chốn trược kề tai hỏi,
Hỡi nguyên sanh nhìn cảnh ủ dột vậy mắt có mỏi cho chăng ?
Lực kim tiền màu đen đỏ rực rằn,
Thế vật chất lắm khó khăn, thêm bạn kim bằng khó kiếm.
- Mấy lời vàng, ráng để vào tâm mà triêm nghiệm,
Khuyên tạc lòng lánh nơi chốn nguy hiểm chông gai,
An phận nhàn thông thả ráng học sách Xích Quày, (1)

(2) Phù Sanh : Chỉ đời người sống gởi trong chốc lát (vie éphémère)
(1) Xích Quày : Lý Xích Quày hay là Lý Thiết Quả tên là Lý Ngưng Dương đứng đầu trong hàng Bát Tiên

Chớ ăn cơm Huỳnh Lương như Lữ Động Tân (2) chưa hay là giấc ngủ.
- Kìa loạn luân là gương Thương Trụ, (3)
nọ thanh liêm Văn Vương an nhủ, nhà khôn đóng cửa, rất thuần hậu cho phụng gáy non kỳ,
Bảy thu trường nơi Dũ Lý chẳng phiền chi,
Trụ ám hại sau sầu bi, vô nghì cùng ngọn lửa.
- Cuộc cùng cuối thành xiêu tường ngã, thấy hoàn cảnh càng thêm chan chứa,
Sóng Văn Minh, người mê mẫn, kẻ lụy ứa luống sầu bi,
Hỡi sung sướng vật chất thấy người đói cơm khát nước có vui chi,
Kẻ than thở, cảnh sanh ly cùng tử biệt
- Miếng chung đỉnh (1) khiến giành chen vựt người vào hang hổ huyệt,
chước quyến rù người mê mẫn nên khó biết thoát cảnh phiền ưu.

(2) Lữ Động Tân : Quán Lữ xem chú giải Huỳnh Lương.
(3) Thương Trụ : Vua Trụ Vương là ông vua ở cuối đời nhà Thương (1.154-1.135 trước TL) người dũng mãnh có trí, nhưng mê đắm nàng Đắc Kỷ. Đặt ra thuế khóa nặng nề, dựng lâu đài, xây ao hồ, chơi bời rất dâm dật. Dùng những hình phạt thảm khốc, đến các ông Ví Tử, Cơ Tữ, và Tỷ Can là hoàng thân cản ngăn, đều bị thọ cực hình. Bắt Tây Bá Hầu là Cơ Xương (Văn Vương) giam bảy năm nơi ngục Dũ Lý. Sau con là Phát lên hội 800 nước Chư hầu, vào đánh vua Trụ. Quân nhà vua trở giáo mở đường cho quân Tây Bá Phát tiến. Vua Trụ biết cơ nguy ôm bảo ngọc đốt mình mà chết, làm vua được 32 năm.
(1) Chung đỉnh : đỉnh là vạt, chung là chuông. Đây nói nhà sang trọng khi ăn phải dùng vạc (nồi đồng lớn) nấu cơm, lúc ăn phải đánh chuông cho ai nấy nghe xúm lại mà ăn.

Luồng gió cạnh tranh, người thảy mắc mưu,
Khiến cắn xé hận cừu, dụng thầm mưu, mà hại đồng lưu trong màng chung đỉnh.
- Nợ trần ai phủ rồi, chớ cho dấp dính,
Lấy tinh thần soi tỏ một lòng chí kỉnh ơn cao dày.
Thức giấc hồng trời đã rạng đông mai,
Tỉnh ảo mộng, mau kíp quày chơn lại, mới gọi trí tài thanh quân tử.
- Rộn rực bấy lấn chen quán Lử,
Nhộn nhàn thay tưlực cho khách giang hồ,
Hãy rõ nước mấy đời động trên chốn gò mô,
Cửa trần kẻ đẩy xô, cảnh cơ đồ là ô hô một giấc !
- Lời châu ngọc Phật Thánh Tiên khuyên đời nên xa mùi vật chất,
Tiếng đá vàng đã dạy rõ đành rành,
Khuyên khách trần lánh nơi u trược mà tầm cảnh nhàn thanh,
Lòng nghe rõ giọng chim Oanh, khuyên nhạn sầu tình, tỉnh giấc mộng, rọi kiến Hồi minh khử tiêu muội ám.
- Thuốc Trời cứu bịnh trần, người uống vào ắt mười phần thuyên giảm,
Hoàn Linh Đơn cứu dứt chứng cảm phong trần,
Trái Phan Đào (2) mời khách nên xa lánh chả Phụng khô Lân
Nếm một miếng rửa cõi trần cho người nguyên nhân muôn kiếp.
- Trống Lôi Âm đổ thức người đương cơn hồ điệp, (1)
Tỉnh giấc Hòe hươn chạy cho kịp thoa kỳ,
Đã đăng bài Công Bình Bác ái với Từ Bi,
Để rành rõ hiệu Vô Vi Đại Đạo.
- Hỡi khách trần có nhớ bạn tri âm nơi miền Bồng Đảo,
Cõi giang hồ người ham dạo cảnh chứa chan,
Kiếp phù sanh như hoa, mai nở chiều tàn,
Mùi trần thế mơ màng, gẫm xem càng ức lụy.
- Thiên Địa tuần huờn, châu nhi phục thỉ,
Sửa cho đời đặng khỏi chước mị kế tà,
Đạo Tam Kỳ qui Tam Giáo chung hiệp một nhà,
Thêm năm nhánh giáo hóa, cho Đời đặng phong hòa, đoạt thành lý nhiệm.
- Khuyên quần sanh lánh nơi cõi giang hồ chông gia nguy hiềm,
Tiếng chuông vàng ai khéo động, bay thấu nhiễm vào tâm
Đờn Tạo Hóa lên đúng dây giọng thanh nhã phù trầm,
Trống tỉnh mộng hỡi người lạc lầm, mau nghe tiếng khá chỉ châm bước quày trở lại.
- Khuyên khắp cả Hoàn Cầu Thế Giái,
Đứng trong trần người người phải có lý chánh đại quang minh
Đạo Đời đừng xa phải thể bóng với hình,
Đời không Đạo Luân Lý phải nghiêng chinh, luật Công bình tán khuynh xiêu đổ.

(2) Trái Phan Đào : hay Bàn Đào là Đào tiên của Bà Tây Vương Mẫu, cây ấy ba ngàn năm mới trổ bông, ba ngàn năm mới đậu trái, ăn được một trái thì sống ngàn năm, ý nói nên tìm đạo đức, xa lánh tình đời, rửa sạch bụi trần, trở về cựu vị.

(1) Hồ Điệp : là giấc bướm. Tích Trang Tử ngày xưa, nằm chiêm bao thấy mình hóa ra con bươm bướm, lượn đi lượn lại rất thỏa thích, tới khi tỉnh dậy bàng hoàng không biết ban nãy mình mơ hóa bướm hay bây giờ bướm đang mơ hóa ra mình.

- Đời nương Đạo đặng thuần phong gặp ân Võ Lộ,
Thế Hòa Bình người khỏi hổ với lương tâm,
Buổi thế xây tuyết bủa sa dầm,
Đời cùng cuối kẻ lạc lầm, ráng lóng nghe rõ giọng phù trầm đờn cứu khổ.
- Nước Từ Bi chảy tràn cứu bịnh trần khắp chỗ,
Đèn Quang Minh tế độ vớt sanh chúng đồng cả hoàn cầu,
Cây sung chồi, siêng bắt độc sâu,
Thì bông nờ đậu trái ngọc châu sai quằn quại.
- Khuyên khắp cả thế gian nhân loại,
Sĩ, Nông, Công, Thương đều thảy vùng vẫy trên mặt địa cầu
Lấy Tinh Thần mà suy nghiệm Lý Cơ Mầu
Dùng trí huệ vẹt cho sâu, mới rõ tiếng ngọc châu lời vàng đá.
- Cuộc trần thế sự đời không lạ,
Nẻo vinh hoa người há hưởng lâu dài,
Sao bằng yên cảnh nhàn mùi Đạo Đức vui say
An thanh tịnh là chốn Bồng Lai tại thế.
- Thấy cảnh điêu tàn kẻ châu rơi người giọt lệ,
Lời Thần Tiên dạy chẳng nệ, cứu người cho qua khỏi bể hồng trần.
Đời cuống cùng trời đất xoay vần
Cuộc thế mãn hỡi Nguyên Nhân tỉnh mộng lần, ráng ân cần tu phước đức.
- Miếng đỉnh chung bớt cơn rộn rực,
Mồi trần gian nên dứt, tua gắng sức theo Thánh Tiên,
Lướt sông mê sang Bát Nhã thuyền,
Qua biển khổ, Phật, Thánh Tiên chờ kẻ duyên mà đưa qua miền siêu độ.
- Hỡi sanh chúng dang nắng dầm mưa mồ hôi dường tuyết đổ,
Lo từ trẻ đến già cho đầy rương muôn chỗ, đến lâm chung khó lo hối lộ cho quỉ Vô Thường.
Tội mình làm mang một gánh nặng, đe, nạp đến Diêm Vương,
Dây oan nghiệt khéo vấn vương mà tai ương phải vương lấy.
- Còn hoi hóp lăng xăng vùng vẫy,
Hồn lìa thân mới thấy luật thiên nhiên.
Aên năn dường nước chảy, lương tâm bứt rứt khó yên,
Phải tích đức nay động Đào Nguyên, (1) chờ khách hữu duyên ở nơi miền trần thế.
- Hỡi Nhân Sĩ ! Đèn sách mấy thu nơi lòng ghi để.
Đạp ngao đầu (1) nơi hoàng bệ thưởng ban,
Chiếm bảng vàng thọ lãnh tước quan,

(1) Động Đào Nguyên : Đời nhà Tấn, ông Đào Tiềm chép bài Đào Nguyên ký : kể chuyện người đánh cá ở đất Vũ Lăng nhân theo dấu hoa đào trôi trên khe, đi lần đến một nơi thấy dân cư chạy loạn từ đời Tần. Sau tìm lại mấy lần không được, nên cho đó là cảnh Tiên.

(1) Đạp ngao đầu : chỉ người thi đậu Trạng nguyên thời xưa. Tích theo thần thoại ở phía đông biển Bột Hải giữa khe lớn có năm hòn núi là : Thoại Chi, Viên Kiều, Phương Hồ, Doanh Châu và Bồng Lai, đều là chỗ ở của Thần, Tên thường theo dòng nước lớn, ròng để chảy lên xuống. Thần Tiên tâu Ngọc Đế sợ chảy ra bốn phía mới sai mười con ngao to, thay phiên nhau mà đội năm hòn núi ấy, cứ sáu vạn năm thì thay phiên nhau một lần, cho nên người nay thi đậu Trạng nguyên thì gọi là đạp ngao đầu hay chiếm ngao đầu.

Lòng khắc bạc, thảm cho kẻ cơ hàn luống thở than, chẳng an người hèn thấp.
- Quan thanh liêm đốt đuốc rọi kỹ mà khó gặp,
Người vô lương tâm chất ngất tợ Thái Sơn,
Gặp cò bay dạ đưa đẩy tặng là ơn,
Thấy phụng gáy giả tâm luống oán thầm chước độc.
- Ngậm mồi ngon nọc thể như rắn độc,
Hỡi khách trần hưởng lộc, mà có dòm cho kẻ mai khóc chiều than.
Cuộc vinh huê như hoa nở chẳng mấy lâu rồi cũng phải xủ tàn,
Sánh với cơ đồ Tạo Hóa mau như nháy mắt rõ ràng cõi trần gian thấy hiện
- Sao bằng Đạo Đức kia, như Tông Bá muôn năm hưởng phước trời không rung chuyển.
Tiết Đông Thiên đăng miên viễn hoài hoài,
Lá sum xuê, nhành sung tốt, đời có một không hai,
Oâi ! là Quân Tử hỡi Anh tài, lẽ không biết hai chớ cũng tường rõ một.
- Nầy Nông Nhân hưởng ân Trời lập nên rường cột,
Đổ mồ hôi, xót con mắt, tom góp cho đủ đầy
Kẻ hữu dư người bất túc, lo lắng tay lấm chơn lầy,
Chịu nắng mưa sương tuyết ngày ngày, luống cực nhọc đắng cay, nhờ phước Cao Dày đặng hưởng đầy ơn đức trọng.
- Than ôi ! Cháy da phỏng trán chẳng mấy thu rồi cũng ô hô một giấc mộng,
Eùm cho đầy rương gìn giữ cực thân noi kiếp sống, nhắm mắt rồi cũng hai bàn tay trắng, chẳng dính theo tay một mảy hào ly
Hồn xa xác đà bước đến cảnh sầu bi,
Đành than thở cho cây roi vô nghi của Quỉ sứ.
- Hồn mới rõ : phải chi sanh tiền tu âm chất tích trữ,
Đến lìa cõi trần khỏi bảy lự ba lo,
Aên năn đã muộn, lòng rối tợ tơ vò,
Không thế gỡ, ráng lần mò, ôi ! Rất đắn đo mà không đặng.
- Sao bằng lúc sanh tiền lập âm chất cho đủ sẵn,
Đã hữu dư trợ người bất túc nơi Tiên bảng rạnh đề.
Sống thương đồng loại mà cứu giúp cảnh ủ ê,
Hồn lìa khỏi xác, nơi Bồng Đảo đặng về, danh bia tại thế chẳng hề phai lợi.
- Nầy Công Nhân lao nhọc, cuộc đời kể xiết bao là thứ lớp,
Dầm tuyết sương, chải mưa gió, một kiếp vùng vẫy trong cảnh mê sông,
Aên không ngon lo lắng nơi lòng,
Ngủ chẳng được luống mong trông chờ đợi.
- Của một đồng công một lượng, chỉ quanh lo đường danh lợi,
Mảng thu tàn xuân tới, lo lặn lội mà qua khỏi cuộc biệt ly chăng ?
Nhọc khó cam trong giấc mơ màng,
Vô Thường đến tam canh, của muôn ngàn khó lót lo cho đặng.
- Sao bằng tích phước đức sanh tiền cho đầy đủ, tâm phàm đà êm lặng,
Phướn Thanh Phước Thần (1) chờ sẵn mà rước trực thẳng Tây Phương.

(1)Phướn Thanh Phước Thần : Thanh Phước Thành tên Bá Dám, là Nguyên soái của vua Hiên viên Huỳnh Đế vì đánh giặc Xi Vưu mà chết. Khi Khương Tử Nha vâng lịnh lập Bảng Phong Thần, được phong chức Thanh Phước Thần, cầm Bá Linh Phan để rước các vong linh đưa lên bảng Phong Thần lãnh chức.

Kiếp sanh tiền một mảy Thiện Lương,
Hồn khỏi xác Thiên Đường vầy hiệp.
- Rượu Quỳnh Tương (2) uống vào đặng sanh trường kiếp kiếp,
Đờn cứu khổ đúng dây thẳng nhịp, hỡi khách trần còn đương giấc Hồ Điệp, nghe đờn không dây ru linh hồn tỉnh mà lánh kiếp trần ai.
Gánh mộng trường trả đừng vay,
Nợ oan nghiệt sẵn trí huệ, ta trổ tài mau bước quày trở lại Bồng Lai Phật cảnh.
- Nầy thương nhân chịu nắng mưa rõ tuồng đời ấm lạnh,
Chốn thương hồ một cảnh buồn than,
Thợ khéo hay cho mấy không thể đổ thau ra vàng.
Mang một kiếp sống trần gian, trước chẳng lo toan, hồn khỏi xác, xuống chốn suối vàng, tiền muôn bạc ngàn, khó lo khỏi tội.
- Chốn dương trần vợ con dầu rướt trăm sãi tụng muôn ngàn khó trong độ rỗi,
Cảnh than phiền nhiều nỗi chịu đắng cay,
Chốn chốn cô độc chịu bi ai, luống than dài thở vắn.
- Sao bằng lúc sanh tiền tu tâm hành theo kinh kệ Phật, Thánh Tiên bảo dặn,
Buổi lâm chung đã sẵn Quỉ phục Thần khâm.
Chốn thanh nhàn bạn cùng Tiên Thánh, cờ rượu ca ngâm,
Nơi thanh nhã muôn năm còn mãi mãi.
- Cả khuyên hết thế gian nhơn loại,

(2) Rượu Quỳnh Tương : Rượu bằng nước Ngọc Quỳnh, là thứ rượu quí và ngon của Tiên, uống vào đặng thì trường sanh bất tử.

Lời đá vàng lóng nghe rõ, dùng trí huệ tinh thần mà phủi rảy chốn trần ai,
Mến thương nhau cốt nhục đồng loài,
Thương cầm thú cũng biết sống mà dưỡng dục hôm mai với nhau trong bốn phương trời rộng.
- Hỡi nguyên sanh, cả thế gian người đồng trí dõng,
Sẵn muôn nghề ngàn nghiệp, ba vạn sáu ngàn ngày ít ai sống nơi cõi trần mộng nầy chăng ?
Khuyên trước buông nơi ngọn mà tìm cho đến cội căn,
Tu phước đức thuyền Từ Lành mới khỏi lằn sóng trần lao tràn bủa.
- Vùng vẫy lo bạc vàng tiền của,
Màu đỏ đen nhảy múa lăng xăng,
Chẳng mấy thu hưởng cuộc trần gian,
Kiếp khổ não buộc ràng chịu tai nàn, luống thở than, than thở,
- Ráng tu hành phước hiểm nguy Thánh Thần phò trợ,
Lúc gian truân Phật tiên giúp đỡ khỏi nàn.
Chí công phu càng trổi nước vàng,
Hành Chánh Đạo, nơi chốn thanh nhàn, Tây Phan an cảnh tịnh.
- Cơ Tạo Hóa tuần hườn luật thiên nhiên đã định,
Cuối Tam ngươn quì Tam giáo chấn chỉnh Lý Chơn Truyền,
Dạy nhơn sanh trở lại Đức Hiền,
Đời mỹ tục rất nhuần yên trong Thế Giái.
- Chiếu Nhựt Nguyệt quang đồng cho nhơn loại,
Thế hoa bình đức hà hải ơn trên,
Mở chơn truyền người un đúc trí huệ tăng lên,
Gieo giống tốt lập cao nền Đại Đạo.
- Đời Nghiêu Thuấn vẹn tròn thuận thảo,
Bủa phước lành Lý Đạo Vô Vi,
Ban nhơn đức chiếu tỏ rạng quang huy,
Mưa gió thận đời xiết chí ân Võ Lộ.
- Hữu duyên phước mới gặp đặng Tam Kỳ Phổ Độ.
Đức Háo Sanh tạo Hóa cứu khổ cả muôn loài,
Khắp bốn phương đang ngưỡng vọng bái Linh Đài,
Tám hướng gọi Đức Cao Dày ban rưới.
- Cơ cảm hóa cả Hoàn Cầu hưởng thanh nhàn khương thới,
Cõi trần gian phới phới Tinh Thần.
Nghĩa nhân trọn đời Từ Thiện rất hoan hân,
Trung hiếu vẹn thế muôn phần hòa hảo.
- Nước Cam Lộ (1) dẫy tràn người gội nhuần rất nên quí báu.
Đời thuần phong người thể Tiên Phật nhờ Đại Đạo hoằng khai
Tánh ôn lương hòa nhã Đức Tài
Trí minh, huệ rạng râu mày thanh triết.
- Lời Thánh Huấn khuyến tu rất đặc biệt,
Cả khuyên đời nên rõ Lý Thuyết Huyền Vi,
Mến thương nhau liên kết nghĩa tương tri,
Yêu cả trọn Đạo Tam Kỳ Phước Thiện.
- Đời Nghiêu, Thuấn người un đúc tinh thần càng phát triển,
Thế Hòa Bình điễn tuyến rất bay xa,
Cảnh Thiên Nhiên sơn thủy đặng diềm đà,
Màu thanh nhã nước Ma Ha càng thêm nhuận.
- Cảnh Trời dương ánh vàng đà chói rựng,
Đạo sửa Đời rất cảm ứng Thần Linh.

(1) Nước cam lộ : nước sương ngọt. Sách xưa thường nói : Hễ thiên hạ thái bình, thì Trời rơi xuống nước sương ngọt.

Dạy nhơn sanh kiến tánh tâm minh,
Sửa thế cuộc đặng an bình nhân loại.
- Đờn KHẢI NGỘ tiếng kêu xa tỉnh thức người quày bước lần mà trở lại.
Trống GIÁC MÊ đổ mãi khai đường Chánh Đại quang minh,
Gió mưa hòa trong Hoàn Vũ đời gặp phước Hư Linh.
Vẳng vẳng rõ tiếng kình (1) càng nghe rạnh.
- Khuyên nhơn loại khá tu tâm cùng dưỡng tánh,
Đức Hạnh tròn nơi Tiên cảnh đề danh,
Lọc nước trong mà rửa lần đặng bạch thanh,
Trau trí huệ vẹn tài lành, rạng sử xanh còn hoài không dứt.
- Khuyên trong Thế giới người khá lo tròn Đạo Đức,
Cảnh thanh nhàn đà sẵn chực kề đưa,
Đại Đạo khai tua khá lập chí Thượng Thừa,
Tam Kỳ Phổ Độ chực đưa người tròn Nhơn cùng vẹn Đức.

(1)Tiếng kình : Kình là con có Kình. Đại hồng chung ở chùa có chạm hình con cá Kình nên tiếng Kình là tiếng chuông chùa ngân dài.

CHUNG

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét