Khi trời đất phân ngôi đã có Thái cực, Đấng duy
nhất đó ngự trên đài cao. (Linh tiêu nhất tháp thị Cao Đài). Đấng ấy phân thân
giáng trần dạy dỗ chúng sanh theo đường đạo đức. (Muôn kiếp có ta nắm chủ
quyền).
"Nhiên
Đăng Cổ Phật thị ngã, Thích Ca Mâu Ni thị ngã, Thái Thượng Ngươn Thỉ thị ngã, Kim Viết Cao Đài"
"Thầy
là Đức Jéhovah của dân Hébreux, vị thánh vô danh của dân Do Thái, đức Chúa Cha
của Chúa Jésus".
Trước nửa đầu thế kỷ XX, chính Đấng duy nhất đã
dùng huyền diệu cơ bút dạy nhân loại bài học đầu tiên là Thương Yêu và Công Chánh. Ngài dạy:
"Thầy cấm các con từ đây nếu không đủ sức Thương Yêu nhau thì chẳng đặng
ghét nhau nghe à !" (Thánh ngôn Hiệp Tuyển TNHT, trang 69) hoặc "Sự
thương yêu là chìa khoá mở cực lạc thế giới và Bạch Ngọc Kinh. Kẻ nào ghét sự
Thương yêu thì chẳng qua khỏi cửa luân hồi". (TNHT quyển II, trang 43).
Xem thế, sự Thương yêu là
mục đích tối thượng của nền tân tôn giáo Cao Đài. Ai bước ra ngoài sự thương
yêu thì chẳng thể phản bổn hườn nguyên được.
VÍA ĐỨC CHÍ TÔN NĂM XLIX.
CÀN KHÔN TRỜI ĐẤT
(Tựa lần tái bản)
Thờ quả Càn Khôn là thờ
Trời Đất. Càn (Trời) trên Khôn (Đất) dưới là quẻ Bĩ biểu tượng thời Mạt Pháp.
Nhưng tượng truyện viết : "Đại nhân chi cát, vị chính đáng dã". Nghĩa
là Đấng Chí Tôn lòng lành vời ngôi vị chính đáng nên làm tắt cuộc bĩ vận trên
thế giới.
Trong Kinh Dịch quẻ Bĩ
được cấu thành ba hào dương ở trên và ba hào âm ở dưới gọi là Thiên Địa Bĩ tức
bế tắc mạt kiếp. Thế thường càn vi thiên là Trời, Khôn vi Địa là đất. Trời đặt
ở trên, đất ở dưới là thuận lý sao gọi là Bĩ ? Do âm dương không giao hoà và
không tương hợp nên bế tắc.
Theo Đức Lão Tử trong Đạo
Đức Kinh thì vạn vật lấy âm bọc dương (lúc đó mới Thái). Bởi lẽ khí dương nóng
nhẹ dễ phát tán phải được khí âm nuôi dưỡng thành tượng thì khí dương mới có
thể xuất lộ độc lập. Thế nên, Đạo phải cần được bao bọc nuôi nấng bởi đức, mà
đức chỉ có thể trưởng thành được khi vào Ngôi Thờ Chí Tôn mà tu niệm. Nhờ đó
mới có thể đảo ngược Bĩ thành Thái (lớn, thông suốt) tức Khôn trên Càn dưới mà
tạo đời Thánh Đức.
Nói rõ hơn Khôn ở trên
(tượng tín hữu) giữ khí đức. Càn ở dưới (tượng Hội Thánh) mà lập ngôi. Ngôi
được khí đức nâng đỡ thì thái hoà bền vững (tức Thái). Như thế muốn hạnh thông
phải thực hành lời dạy của Đức Chí Tôn là "Thương yêu".
ĐẠI LỄ ĐỨC CHÍ TÔN NĂM LX
TVR
PHẦN THỨ NHỨT
THƯỢNG ĐẾ GIÁNG TRẦN
CHƯƠNG I
THỜ ĐỨC TIN CỦA NHÂN LOẠI
Sự xuất hiện của Đạo Cao
Đài đã được kinh sấm báo trước, là một tôn giáo được Đức Chí Tôn mặc khải toàn
diện. Đạo sinh ra là để cứu đời "tận độ chúng sanh" thoát khỏi bể
trầm luân.
Đạo Cao Đài sinh ra và lớn
lên trong cái nôi gò bó chật hẹp dưới hai tầng áp bức : nửa thực dân, nửa phong
kiến.
Thế mà, Đức Chí Tôn phán
truyền : "Độ dẫn hoài sanh" "Hòa bình dân chủ tự do" ,
"Luật thương yêu, quyền công chánh", Nam nữ bình quyền (có bao nhiêu
Chức sắc nam thì có bao nhiêu nữ), phá bỏ hủ lậu (Không vì nguyệt huyết kỵ anh
linh) để "tạo đời cải dữ ra hiền" (Những tiêu đề tóm lược này xin đọc
lại Thánh Ngôn Hiệp Tuyển). Và Đức Chí Tôn đã dùng huyền diệu qua cơ bút lập
Đạo :
Từ thủa nước Nam chẳng Đạo nhà,
Nay ta gầy dựng lập nên ra …
Đó là những chiếc gai nhọn
thọc thẳng vào chế độ thực dân và phong kiến, dù Đức Quyền Giáo Tông Thượng
Trung Nhựt bày tỏ với Thống Đốc Nam Kỳ lúc đó (1927) là Blanchard de la Brosse
là Đạo Cao Đài chỉ thờ kính Trời (Dieu) chớ không làm chính trị (Tiểu sử Đức
Quyền Giáo Tông. TN 1973, tr.53-54). Nhưng mật thám Pháp vẫn đàn áp nhiều tín
đồ, dẹp Thánh Tượng (Tiểu sử Đức Quyền Giáo Tông. TN 1973, tr.53-54).
Lalaurette, Thanh tra
Chính trị sự vụ và Hành chánh Nam kỳ, và Vilmont, Tỉnh trưởng Tây Ninh
(Administrateur des Services civils, Chef de la province de Tây Ninh) đã theo
dõi Đức Quyền Giáo Tông và Phạm Hộ Pháp rất gắt gao, được đúc kết trong tập
phúc trình "Le Caodaisme" (Le Caodaisme, Saigon 1933, 91 trang) gồm 2
phần :
- Phần I : (tr1-24) do
Lalaurette viết lược sử và giáo điều CĐ
- Phần II : (25-91) do
Vilmont viết gồm tài liệu về phái, kinh tế, xã hội, sự phân lý tôn giáo và
chính trị.
Còn triều Nguyễn ra dụ cấm
đạo : "Bảo Đại tự niên cấm truyền giáo Trung kỳ" vì Đạo Cao Đài hô
hào "Tự do dân chủ" làm lung lay chế độ quân chủ phong kiến.
Thật ra, đạo ở trong nước,
không thể tách khỏi xã hội nên Giáo lý Cao Đài dựa theo sinh hoạt của con người
hầu biến đổi cuộc sống ngày một tốt hơn. Bởi lẽ đó mà Giáo lý Đạo Cao Đài phù
hợp với ước vọng thầm kín từ lâu của nhân sanh. Đạo đã trở thành cái phao, con
thuyền cứu độ trong lúc họ bị phong ba bão táp bủa vây. Họ đến với Đạo Cao Đài
vì Đạo Cao Đài tận độ họ, vỗ về an ủi họ và tương lai sẽ giúp họ có một cuộc
sống tốt đẹp hơn cuộc đời cực khổ hiện hữu. "Thầy đến lập nền Chánh giáo
tại cõi Đông Dương là cốt làm cho kẻ bị hiếp đáp đặng mạnh mẽ, kẻ hiền lương
làm thầy kẻ hung bạo" (Đạo sử quyển II, TN 1957 tr.248)
Giáo lý Đạo Cao Đài là
những nguyên tắc hành động "Phổ độ chúng sanh" chớ không phải những
giáo điều suông. Người tín hữu nào cũng hiểu rằng tu là làm giảm bớt đau khổ
cho chính mình và cho những người xung quanh mình, chứ không phải tu vì Thượng
đế hay làm cho Giáo hội thêm uy quyền. Với quan niệm như vậy, người tín hữu Cao
Đài sẵn sàng đón nhận giáo thuyết Tam giáo, Ngũ chi với thành tâm thiện ý. Họ
đã thực thi lời Đức Chí Tôn dạy : Thương yêu và Công chánh (Amour et Justice)
mà không vì bản ngã tôn giáo.
Họ có một đạo tâm sinh
động và một nội lực mạnh mẽ để chịu đựng khảo đảo của cuộc đời. Dù đời nêu lên
"Cái Aùn Cao Đài", dù đời cho Đạo là những mảnh vỡ của nền văn hóa
truyền thống (Kim Định, Căn bản Triết lý trong văn hóa VN. Saigon 1967, tr.70).
Những việc đó là những thử thách trên đường tu học. Họ không trả lời nhưng có
những bạn hữu của họ hồi đáp cho khách bàng quan bằng "Cái Aùn Cao
Đài" và người tín hữu các tôn giáo trước cũng đã đi vào cuộc đời với những
nỗi "nhọc nhằn" như vậy. "Khi Thích Ca truyền đạo, dân Braman
cho là Bàng môn. Khi Lão Tử truyền đạo thì đời cho là phù phép mê hoặc. Khi
Chúa Jésus truyền đạo thì dân Israel gọi là Tả đạo" (Đạo sử II, sđd
tr.243).
Người ta bảo không thể nào
"Qui Tam giáo, Hiệp Ngũ chi" được. Bởi lẽ họ đã thâm nhiễm triết học
Tây phương. Theo Louis Millot, những ai muốn hiểu được người Đông phương thì
hãy xếp lại quyển "Phương pháp luận" (Discours de la Méthode)của
Descartes vì lý luận Đông phương và Tây phương không cùng bản chất. Đông phương
không có triết học mà chỉ có Đạo học. Tất cả các nền tôn giáo lớn đều xuất phát
từ phương Đông, Đạo học Đông phương không trong không ngoài, vừa là A mà vừa
không phải là A.
Thần học Cao đài cũng mang
tính hư hư thực thực đó. Guglielmo Ferreco khi so sánh giữa nền văn minh phẩm
và nền văn minh lượng của Tây phương có viết :
"Dường như cái lý
tưởng tiến bộ càng mập mờ bao nhiêu thì càng có sức mạnh được nhiều người tin
tưởng bấy nhiêu". Thêm vào đó, G.Monod Herzen nhận xét : "Sự tổng hợp
Đông phương và Tây phương, nền tảng của sự thuần nhất loài người là một vấn đề
sinh tử, có lẽ là vấn đề khẩn thiết nhất của thời đại" (La Synthèse
Orient, base de l'unite humaine, est une nécessité vitale, probablement la plus
immédiatement nécessaire à notre époque) (Confluences Orient-Occident, France
Asie N0100)
Có người cho rằng không
thể nào làm như Tôn giáo Cao Đài, để chung Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử cùng trên
một thiên bàn được. Thật ra, "Tam giáo tuy có khác nhau ở chỗ lập giáo và
hành đạo nhưng đến chỗ cùng tột tuyệt đối thì cũng gặp nhau ở chỗ lý tưởng, cho
nên vẫn dung nạp được nhau. Đó là cái đặc sắc của Tôn giáo Á Đông." (Trần
Trọng Kim, Phật giáo, Saigon 1958). Đức Khổng Tử đã nói : "Thiên hạ đồng
qui nhi thù đồ, nhất trí nhi bách lợi" (Thiên hạ tuy có nhiều đường khác
nhau nhưng về một chỗ; dẫu có trăm lo cũng gom về một mối). Cái một ấy là Thái
cực, là tuyệt đối, còn vạn tượng chỉ là sự biến hóa của cái một đó, mà cái một
ấy là Thiên Nhãn, tượng trưng cho Đấng Duy Nhứt.
Trong "La Fin d'un
Mythe", Carlo Suarès nhận định một cách sáng suốt như vầy : "Chân lý
là sự tổng quảt của hai đối cực, chớ không phải sự đề cao cái này mà phủ nhận
cái kia. Đạo học Đông phương và Khoa học Tây phương đều cùng sống trong một ảo
tưởng như nhau". (La vérité est la synthèse des deux pôles, mais non pas
l'affirmation de l'un au détriment de l'autre. L'Orient métaphysique est dans
la même illusion que lOccident scientifique).
Đông phương và Tây phương
đều sống trong ảo tưởng nên đều sai lầm như nhau. Nhân loại ngày nay đã xích
lại gần nhau vì "càn khôn dĩ tận thức" và "Đồng qui nhi thù
đồ", cùng gom về một mối Đại Đạo mà mỗi bên đi theo con đường riêng của
mình : Thống nhứt mà không đồng nhứt.
Theo Hubert Benoit :
"cả vạn vật trong vũ trụ đều do sự tổng hợp của Tam nguyên (ngôi Trung
hòa), có hai nguyên lý
mâu thuẫn, một cái thuộc
Dương (Thiện), một cái thuộc Aâm (Ác) cả hai cùng đứng trên một bình diện và có
giá trị bằng nhau, được một nguyên lý tối cao (Trời) điều hòa lại, hòa giải
hoặc chỉnh lại, bằng không, chúng sẽ tự hủy diệt lẫn nhau". (Tout l'univers est ainsi créé par la synthèse
trinitaire, deux principes opposés, l'un positif, l'autre négatif, situés sur
la même plan et ayant la même valeur, sont harmonisés, concillíes arbitré par
un principe suprême, sans lequel, ils s'annuleraient) (H.Benoit, metaphysi que
ét Paychanalyse, Paris 1945, trang 40).
Thánh Mahatma Gandhi đồng quan điểm với tôn
giáo Cao Đài, đã nói : "Tất cả những chân lý khác biệt nhau, khác nào số
lá trên cây, tuy mỗi lá có sắc thái riêng nhưng chung qui ở trên một
thân cây, cùng một gốc sống chung với nhau". Chẳng khác chi ý bài Khai
Kinh "Một cội sanh ba nhánh in nhau". Nếu những ai phê phán Thần học
Cao Đài bằng cách chia ra từng phần mà không xem là một toàn thể bất khả phân,
tất cả đều do một Đấng Duy Nhứt, tùy trình độ cao thấp của nhân sanh qua các
thời kỳ mà Ngài lập Đạo, là chưa hiểu được chủ trương tổng hợp của nền Đạo mới
này.
Đức Lão Tử dạy :
"Người rành đạo thì không thích biện lý, kẻ ưa biện lý là kẻ không rõ lẽ
Đạo" (Biện giả bất thiện, thiện giả bất tiện). Chân lý Đại học không thể
chứng minh như khoa học mà chỉ khêu gợi, giác ngộ : "Nói là không biết, mà
biết thì không nói". (Ngôn giả bất tri, tri giả bất ngôn). Đó mớilà Đạo
tâm sâu kín.
Biểu tượng tổng hợp và
thống nhất của tôn giáo hoàn cầu đó là "Con Mắt trái mở rộng". Đó là
đức tin chung đúc ngàn đời không những của dân tộc khác trên thế giới tôn sùng.
Thờ duy nhất một Con Mắt
là thờ Chân lý tuyệt đối :
"Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể.
Quang thi Thần,
Thần thi Thiên.
Thiên giả Ngã giả"
"Tượng Thầy chẳng
giống chi hết. Thầy vốn vô hình vô ảnh. Thầy tốt đẹp chưa ngọn bút phàm nào vẽ
đặng, nhưng vẽ như Tượng thường tốt hơn là Tượng Ngũ chi" (Đạo sử II,
tr.229).
Trên thế giới, nhiều tôn
giáo, nhiều dân tộc sùng kính Con Mắt. Trong Thánh Kinh Tân ước của Kitô giáo
có nhiều đoạn nói về Con Mắt. Thánh Mathieu, nơi chương 6, điều 22,23 và Thánh
Luc, nơi chương 11, điều 34, 35 đều viết : "Con Mắt là ngọn đèn rọi sáng
thể xác. Nếu con mắt lành thì cả thể xác được minh mẫn. Nếu Con Mắt xấu thì cả
thể xác sẽ ở trong U Minh (bóng tối)". (L'Oeil est la lampe du corps. Si ton oeil est en bon état, tout ton corps
sera éclairé. Mais si ton oeil est en mauvais état, tout ton corps sera đans
les ténèbres).
Ở Hoa Kỳ, vào năm 1776, Ủy ban soạn thảo triện
gồm 3 nhà lãnh đạo Mỹ quốc là Thomas Jefferson, Benjamin Franklin và John Adams
với hình Kim Tự Tháp mà trên chót có "Con Mắt" trong hình tam giác như các khung hình quanh Tòa Thánh hiện nay. Họ giải thích
rằng tiền nhân người Hoa Kỳ có nguồn gốc từ Thượng Đế nên sự tiến bộ của nước Hoa Kỳ luôn
cần được sự phù hộ của Đức Thượng Đế.
Vì thế, người tín hữu Cao
Đài theo chủ thuyết Đại Đồng nhân loại, không hành động cái gì riêng cho mình
mà "quên mình làm nên cho người, giúp người nên Đạo" (Theo Tứ đại
điều qui).
Thật ra cái nguyên lý tối
cao nhất điều hòa những mâu thuẫn là Đạo, là Đấng Tuyệt Đối (Một Con Mắt), là
Đấng vĩnh cửu … vô ảnh giúp nhân loại khỏi rã rời và chia rẽ. (G.Gobron, Histoire et Phylosophie du
Caodaisme, Paris Dervy 1949, tr.196)
Thiên Nhãn cũng chỉ là một tượng trưng mà
thôi, tùy nước tùy nơi mà con mắt khác nhau về hình thể nhưng thống nhất về giáo lý :
Tin Đấng Duy Nhất.
Đức Chí Tôn đã dạy : Đạo Thầy là vô hình, vô
dạng, nhưng cái lý vô vi ấy cần phải nương với hữu hình. Chẳng nên lấy cái Có mà bỏ cái Không, mà
cũng chẳng nên giữ gìn cái Không mà quên cái Có. Bổn nguyên của Đạo Cao Đài là
duy nhất Thần với biểu tượng Thiên Nhãn. Còn những cách thể bày biện ngoài Thiên Nhãn chỉ là sự biểu lộ lòng tôn
kính đối với hàng giáo lãnh của các tôn giáo đã có trước, cũng nhằm để phổ độ
chúng sanh bằng hình tượng siêu thoát.
CHƯƠNG II
THƯỢNG ĐẾ HẰNG HỮU
Thật sự có Trời (Dieu)
không ? Trời ở đâu ?
Ta hãy nghe ông Trời phán
truyền :
"Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền" Hay: "Cùng nhau một (Đại) Đạo tức một Cha
(Trời)" (TNHT.I.TN1964 tr.5)
Đó là tuyên ngôn của nền
Đại Đạo gồm tất cả các mối Đạo để tiến tới Đại Đồng Nhân loại vì con một nhà,
anh em một cha.
Lúc nào Đức Chí Tôn cũng
có mặt dưới những hình thức lập giáo khác nhau, Ngài cho biết :
"Nhiên Đăng Cổ Phật thị Ngã
Thích Ca Mâu Ni thị Ngã,
Thái Thượng Ngươn Thỉ thị Ngã,
Kim viết Cao Đài" (TNHT.I. tr.13)
"Thầy là Đức Jévovah
của dân Hébreux, vì Chúa tể của quân dân Israel, vị Thánh Vô danh của dân Do
Thái, Đức Chúa Cha của Chúa Jésus. Con chỉ cần cầu nguyện Thầy với danh hiệu
Cao Đài thì sẽ có cảm ứng ngay". (TNHT.I. tr.124)
Như vậy, đặt vấn đề có
Trời, có Thượng Đế, có Chúa Cha hay không thì nên quay lại tìm hiểu các tôn
giáo mà Đạo Cao Đài tổng hợp. Sự hiện diện của Đạo Cao Đài là tiếp nối đạo
Giatô và đạo Phật sắp mạt pháp vào năm 2000. mạt pháp theo Đức Hộ Pháp dạy
không phải Tận thế mà đúng một giáp tới một nền văn minh tôn giáo mới, một chu
kỳ Đạo [ Bài thuyết Đạo (Quyển I), tr.132]
, lúc đó, Đức Di Lạc ra
đời cứu rỗi con người. Ngài là biểu tượng của nền văn hóa tổng hợp hoàn cầu.
Ngài đầy đủ nhận định về xã hội và kiến thức về con người để dẫn dắt nhân loại
đi trên con đường Đạo tâm Thánh Đức. Sự xuất hiện của Đức Di Lạc như cuộc vận
động mới làm sống dậy những gì Đức Cao Đài đã phán truyền : Nhân loại hiệp
đồng, văn hóa khoa học chỉ là một.
Trở lại vấn đề có Trời hay
không ?Vào thế kỷ II, nhà thiên văn Ptolémé đã viết : "Có một sức mạnh nào
đó phóng ra từ ête vĩnh cữu của vũ trụ và truyền tới hết thảy những gì bao quanh
trái đất và có cái gì hoàn toàn phụ thuộc vào sự thay đổi. Đó là những điều mà
mọi người thấy rõ. Mặt trời cùng với môi trường bao quanh nó, bằng cách nào đó,
luôn luôn truyền cái trật tự của mình tới tất cả những gì ở trên mặt đất".
( Những bí mật của sự tiên đoán. Hà Nội 1977, tr.144)
Thầy Trang Tử cũng viết :
"Ta thấy Trời xoay vòng, còn đất thì duy trì mãi. Mặt trời, mặt trăng cứ
xoay vòng liên tiếp. Ta tự hỏi cái gì thống quản vũ trụ ? Cái gì nối liền vũ
trụ ? Cái gì tồn tại vô cùng và giữ cho các hành tinh chuyển động mãi mãi như
vậy ?" Nhứt định phải có một Đấng thống ngự vạn vật. "Khi chưa có chi
trong Càn Khôn Vũ Trụ thì khí Hư Vô sanh có một mình Thầy". ( TNHT.II.TN
1963, tr.62)
Vậy Đức Chí Tôn là Đấng
Nguyên Thủy.
Vũ trụ không ngẫu nhiên mà
có. Trái đất tự quay mà không có điểm tựa, lại phân bốn mùa tám tiết, không
ngừng nghỉ, không sai một ly. Những hiện tượng đó buộc ta phải nghĩ rằng có một
vị Chúa tể thiêng liêng là Vô vi Thái cực, cái "Vô danh thiên Địa chi
thỉ", cái không tên mà là nguồn gốc của Trời Đất. Cái Chân Hư ấy qui tụ
điểm Chân nhứt (Jésus) và ánh sáng nguyên thủy (A Di Đà Phật) mà nay gọi là Đức
Chí Tôn (Le Très-Haut).
Đứng trước vũ trụ huyền bí
bao la, không ai mất đức tin hoàn toàn. Hãy để cho tiếng lương tâm vang lên,
thì đức tin sẽ ló dạng. Sự hiện hữu của Trời là nhờ kinh nghiệm trong cuộc
sống, chớ không phải nhờ từ bên ngoài hay nhớ lý luận. Rõ ràng nhất là khi công
lý loài người vắng bóng thì động lòng Trời, ta sẽ thấy sự diệu hữu của Ngài.
"Có lắm người tưởng rằng ta phải thấy Trời y như Trời đứng bên này, còn ta
đứng bên kia, đâu phải vậy. Trời với tôi chỉ là một động tác thấy Trời của
tôi" (Eckhart).
Đức Chí Tôn đã dạy :
"Tuy con không thấy Thầy nhưng nghe Thầy dạy thì con nên tin đó là sự
thật". Vả lại cơ thể của Tiên Phật là tinh tế, mắt thường đâu thể nhìn
thấy dễ dàng được.
Lắm người ngoài miệng nói
không có Trời, nhưng gặp khó khăn bất hạnh lại "kêu Trời" vì Trời là
một Đấng Công bình, toàn thiện toàn năng. Do đó, "nơi lòng Thầy ngự động
Thầy hay" (TNHT.I.tr.87). Thế nên, muốn tin có Trời, phải sống phù hợp với
Đạo lý để tâm ta có đủ tri giác nhận thức một điều gì đó. Miễn sự tư duy đó là
vô ngã biết thương yêu kẻ khác vì cùng một cha chung, rồi lần lần ta sẽ thấy có
Trời ngự trong lòng ta.
"Ta chuẩn nhận Đức
Thượng Đế như một anh linh tuyệt đối, vô thỉ vô chung, toàn thiện toàn hảo, vô
hình mà hiện thực, như một thực thể toàn tri, vô sở bất tại. trong đời tôi, hơn
một lần, mỗi khi cõi lòng đau khổ, cái anh linh toàn năng, cái LÝ tuyệt vời,
cái hình ảnh Từ bi ấp đã phát lộ đến với tôi đầy xót thương, an ủi, dường như
để cho tôi thấy là có Trời. TÔI CHO LÀ CÓ TRỜI, không phải như trường hợp một
thầy tu có đức tin vì có học Đạo, mà đây là trường hợp của kẻ vô tín ngưỡng
buộc lòng phải tin có Trời như người bại trận." (Dieu existe-t-il?Saigon
1972, tr.88 và 174)
Theo Théologia Germanica :
"Trời là một và phải là một. Trời là tất cả và phải là tất cả. Vậy cái gì
có nhưng không phải là Một không phải là Trời và cái gì có nhưng không phải là
Tất cả không phải là Trời. Bởi vì Trời là Một và trên Một, là Tất cả và trên
Tất cả. Người nào mà vạn hữu không phải là Một đối với mình, kẻ đó không thể
tìm thấy sự thỏa mãn nơi Trời" (trang 184).
Tóm lại, Trời không cao,
không xa, không lạ với bất cứ ai. Trời ở ngay trong lòng người "trong lòng
Thầy ngự" hay "Nhãn thị chủ tâm" cũng vậy. Thượng đế hằng hữu ở
khắp mọi nơi, nhất là nhữngnơi trầm luân khổ hải, mất công lý. Nhờ thế người đa
nghi mấy cũng phải tin, người ác mấy cũng phải hiền, người yếu mấy cũng thấy
mạnh. Trong Thánh ý : "Các con nhỏ noi mà các con to lớn, các con nhịn
nhục mà các con hình phạt". (TNHT.I.tr 36)
Nhờ tin có Trời, sợ Trời,
con người mới làm lành lánh dữ để khỏi bị Trời hình phạt.
CHƯƠNG
III
Ý NIỆM VỀ THƯỢNG ĐẾ
Tôn giáo Cao Đài phản ánh
phong hóa xã hội Việt Nam. Tín đồ đa số thuộc giới bình dân. Vậy ta tìm hiểu
nơi mà Đạo Cao Đài xuất hiện và trưởng thành xem dân chúng ấy có ý niệm như thế
nào về Đấng Toàn năng.
Sau khi khảo sát tục ngữ,
phong dao Việt Nam, Thanh Lãng đã lược ghi như sau :
1/ - Ông Trời tự có, không
ai dựng nên, nhưng tất cả vũ trụ đều là tạo phẩm của ông Trời.
2/ - Ông Trời điều động
guồng máy vũ trụ, không việc gì xảy ra trên đời này, dù việc thầm kín trong
lòng người, mà không do ông Trời.
3/ - Ông Trời không cay ác
độc địa, trái lại rất nhân từ, nhất là đối với người lương thiện. (Thanh vãng,
Văn chương bình dân, Saigon 1957, tr.227)
Trong ngôn ngữ dân gian
không thiếu những từ ngữ : Lạy Trời, Ơn Trời, nhờ Trời, Trời giúp … Thế nên, họ
rất thương, rất mến ông Trời. Vì đó mới có danh từ : Đại Từ Phụ, Cha, Thầy …
rất gần gũi thân thương cảm hóa được tấm lòng quần chúng. Nhờ đó, họ cảm ứng
nồng nhiệt Đạo Mới mà không có mãnh lực nào ngăn cản nổi.
Theo Lê Văn Siêu,
"quan niệm siêu hình về Thượng Đế thời xưa chỉ chất phác là có một Đấng
Vạn năng ngồi trên chín từng mây mà dưới này ai nói gì cũng nghe, ai nghĩ gì
cũng biết cả (Lê Văn Siêu, Nguồn gốc Văn học VN, Saigon 1956, tr.76) rất phù
hợp với giáo lý Cao Đài.
Léopold cadìere có quan
niệm gần giống như vậy : "Ý nghĩa về một Đấng Toàn năng đã được phát triển
với ảnh hưởng của các tư tưởng Trung Hoa, nhưng ngay từ khởi thỉ, trong ý thức
VN đã có sẵn mầm móng của ý niệm đó rồi" (Nguyễn Đăng Thục, Tư tưởng VN
(dẫn lại), Saigon 1964, tr.258)
Có lẽ Hoàng Trọng Miên
viết rõ về ông Trời :
"Ngày xưa, trước tất
cả mọi sự, đã có ông Trời. Trời là một bậc quyền phép vô song, ở trên cao, làm
ra tất cả : Trái đất, núi non, sông biển, mưa nắng; sinh ra tất cả : Loài
người, muôn vật, cỏ cây … Từ mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao trên Trời cho
đến vạn vật ở mặt đất, tất cả đều do Trời tạo nên.
Trời có Con Mắt, thấy tất
cả, biết hết mọi sự xảy ra ở thế gian. Trời là cha đẻ của muôn loài, xét đến
muôn việc, thưởng phạt không bỏ ai. Do đó mà con người tin có đạo Trời, nhờ
Trời, cho là Trời sinh, Trời dưỡng và đến khi chết thì về chầu Trời . . . .
"
Giang sơn của Trời từ mặt
đất lên đến trên cao có Chín Tầng Trời và chỗ giáp với đất, ấy là chân Trời.
Trời vô hình, không nói, nhưng người ta tin là ở đâu đâu cũng có mặt của Trời,
không một ai tránh khỏi lưới Trời, mọi việc đều do Trời định.
Ông Trời của Việt Nam thời
cổ cũng gọi là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Ngọc Hoàng ở trong Cung điện giống như
Cung điện nhà vua dưới trần đã bắt chước làm theo. Ở cửa điện có một vị Thần
mặc áo giáp cầm côn giữ cửa.
Ngọc Hoàng hợp triều tại
đây, triều đình cũng không khác gì hạ giới, chư Thần Thiên cung, đạo quân nhà
Trời để trừng phạt những Thần linh ngỗ nghịch.
Vợ Ngọc Hoàng là Tây Vương
Mẫu ở núi Côn Lôn, cùng một đàn Tiên nữ. Tây Vương Mẫu có một vườn Đào, cứ 3000
năm trái chín một lần, ăn vào thì được trường sanh bất tử.
Cõi trời chia ra 9 tầng,
các vị Thần tùy chức tước mà ở theo thứ tự mỗi tầng. Ngọc Hoàng là bậc tối cao,
ở tầng thứ nhất" (Hoàng Trọng Miên, VN Văn học toàn thư (Q.I) Saigon 1959,
tr.61)
Đó là ông Trời theo quan
niệm của dân gian.
Đọc kinh điển Cao Đài
giáo, ta thường thấy câu này: "Tùy theo trình độ tiến hóa của nhân sanh mà
thay đổi cho phù hợp". Thế nên, Đức Chí Tôn của Đạo Cao Đài không da vàng
mũi tẹt hay da trắng mũi cao mà vô hình vô ảnh "Vô vi nhi dịch sử quần
linh" ( Kinh Lễ. Paris Gasnier 1952, tr.18) không hình mà điều khiển cả
nhân sanh. Đức Chí Tôn không hề có vợ hay con như quan niệm thấp thỏi của dân
gian.
Dưới tay của Đức Chí Tôn
có cả một triều nghi tức là Thiên triều, còn gọi là Ngọc Hư Cung, cầm quyền cai
trị toàn cả thế giới vô hình và hữu hình, chẳng có mảy lông nào lọt qua lưới
Trời. Đó là về mặt "Công", về mặt "Tư", Thượng Đế là Đại Từ
Phụ, Đấng Cha Lành của mọi chúng sanh. Lúc nào Ngài cũng Đại từ, Đại bi, Đại
hỷ, Đại xả, thương toàn nhân loại và "Thầy cấm từ đây các con nếu không đủ
sức THƯƠNG YÊU nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau" (TNHT.II, tr.69).
Thượng Đế là Thiên Thượng, còn nhân loại là thiên hạ. Hai khối ấy luôn luôn
tương hiệp, tương sanh để thế giới vĩnh hằng. Tuy hai mà một, tuy một mà hai,
trong ý niệm "Thầy là các con mà các con là Thầy". Nói cách khác,
Thượng Đế là Đại Linh Quang, con người là Tiểu Linh Quang do Ngài phân tánh cho
ta. Nói rộng hơn, Thượng Đế là khối Đại Lương Tri (Conscience universelle) gồm
tất cả Lương tri của nhân loại.
Thượng Đế là Thái Dương,
chủ Dương quang. Phật Mẫu là Thái Aâm, chủ Aâm quang. Phật Mẫu chuyển hóa Aâm
Dương tạo thành chúng sanh :
"Hiệp Âm Dương hữu hạp biến sanh,
Càn khôn sản xuất hữu hình
Bát hồn vận chuyển thành chúng sanh".
( Kinh Lễ. Paris Gasnier 1952, tr.101)
Trên đây là ý niệm về Trời của người bình dân Việt Nam. Còn đối với các tôn giáo mà
Đạo Cao Đài tổng hợp có quan niệm thế nào về Thượng Đế ?
Kitô giáo cho Đức Chúa
Trời chỉ là một cá nhân siêu phàm, có xác thịt nhưng toàn năng. Ai ai cũng phải
chịu phán đoán tối hậu của Đức Chúa Trời, làm lành thì được hưởng phước, làm dữ
sẽ bị hình phạt đời đời.
Đạo Phật cho Phật là chân
lý siêu việt. Thật ra học thuyết Đại Thừa có ý niệm về Trời. Về hình thức suy
cứu với căn bản triết lý và dưới hình thức bình dân theo thuyết đa Thần giáo,
cho Phật chỉ là một khuôn mặt của Thượng Đế. Đại Thừa cũng cho rằng Bồ Tát ngự
ở vị trí cao nhất nên Bồ Tát vốn là một ngôi với Thượng Đế. Trong câu niệm :
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát", xác nhận Đại Bồ Tát là Đức
Thượng Đế.
A Di Đà Phật (Adi Boudha)
là vị Phật tối sơ, còn gọi là Tối Thắng Phật, đã lấy cái trí hóa ra 5 vị Phật
khác gọi là Dhyani Boudha. Năm vị này tự tính luân thân hóa ra 5 vị Bồ Tát, đó
là Phổ Hiền Bồ Tát, Kim Cương Thủ Bồ Tát, Quan Thế Aâm Bồ Tát, Văn Thù Bồ Tát
và Bảo Thủ Bồ Tát (Ratnapâni Bodhisattva).
Giáo lý của Bà La Môn giáo
(tức Aán Độ giáo) không giống giáo lý Kitô giáo và Phật giáo. Bà La Môn giáo
không phủ nhận có một Đấng điều khiển vũ trụ. Mọi người được tự do muốn tin Đức
Chí Tôn là Brahma, Siva hay Christna (Hiện thân của Vishnou) cũng được.
Phái cổ Phệ Đà tin có Đấng
Tối Cao, chẳng tùy thuộc không gian, thời gian và nhân quả. Phái nhứt nguyên
(advaita) dạy : Nhờ có Đức Brahma mà người Bà La Môn mới biết mọi việc. Không
có Trời ban hơi thờ cho ta thì ta không sống thêm một giây nào. Ta sống là nhờ
Trời. Trời là tinh túy của vạn vật trong hoàn vũ, là nguồn suối phát xuất linh
hồn. Không một ai ở thế gian tự hào là mình biết Trời.
Chuyển sang Trung Hoa, dân
tộc này tin có ngôi Thượng Đế thống ngự vạn vật. Đấng ấy ngự tại sao Bắc Đẩu
điều khiển cả thế gian, không tùy thuộc vào ngôi nào, có đầy đủ quyền uy.
- Thuận Thiên giả tồn,
nghịch Thiên giả vọng. (Theo ý Trời thì còn, trái ý Trời thì mất).
- Mưu sự tại nhân, hành sự
tại Thiên. (Tính việc ở người, thành việc do nơi Trời).
- Tác thiện, Thiên giáng
chi bá phúc, tác bất thiện, Thiên giáng chi bá ương. (Làm lành, Trời ban trăm
điều phước, làm ác, Trời cho trăm tai ương).
- Tri mạng chi nhân kiến
lợi bất động tâm, tử bất oán. (Biết mạng Trời, thấy lợi không động lòng, thấy
chết không oán hờn).
Xem thế, các dân tộc trên
thế giới như các tôn giáo đã ra đời đều tin có một Lý Tuyệt đối, tối cao, siêu
nhiên mà loài người không ý niệm nổi. Dù hoài nghi thế nào, vũ trụ và con người
đều bị một định luật khắc khe thống quản. Đấng điều khiển ấy là Đức Chí Tôn, là
Thế Tôn, là Ông Trời, là Đức Chúa Trời … tùy theo quan niệm của mỗi dân tộc.
CHƯƠNG IV
TRỜI NGƯỜI HIỆP NHỨT
Tôn giáo Cao Đài bám chặt
cội rễ vào đất nước, nơi mà Đạo xuất hiện và đơm hoa kết trái. Đạo cực lực phát
huy và triển khai các thành ngữ "Trời cao có Mắt. Ý dân là ý Trời"
"Ý dân là ý
Trời" nghĩa là sao ? Theo Kinh Cảm Ứng, cầu tất linh, cảm tất ứng. Nghĩa
là trong một đàn cúng lễ chẳng hạn, mọi người đều nguyện cầu "Thiên hạ
thái bình". Những ý tưởng đó bay lên cao động lòng Trời và Trời theo ý
muốn của nhân sanh mà ban ơn lành cho "Thiên hạ thái bình".
Người Đạo Cao Đài phát
triển "Ý dân là ý Trời" thành "Trời người hiệp nhứt". Khi
bước vào cửa chánh Đền Thánh, ta thấy hình Tam Thánh, đại biểu cho cả ba nước
"gần gũi" Việt Nam nhất, đứng ký Thiên Nhơn hòa ước, còn gọi là Đệ
Tam Hòa Ước.
Tiêu đề là :thiên Nhơn
hiệp nhứt (hai chữ Hán viết là Thiên thượng Thiên hạ và hai chữ Pháp là Dieu et
Humanité).
Nội dung là : Thương yêu
và công chánh (mà nguyên ngữ bằng chữ Pháp là : Amour et Justice).
Vậy muốn Trời Người hiệp
nhứt phải làm sao ? Phải nhờ đồng tử làm trung gian mà trong Đạo gọi là Thập
nhị Thời quân. Giáo lý Cao Đài xác nhận con người có linh hồn vì nếu không có
linh hồn thì cũng không có Đạo Cao Đài. Nói cách khác, linh hồn là một Tiểu
Linh quang của Đức Chí Tôn (Ngài là Đại Linh quang) phân tánh ban cho
(TNHT.I.tr.95) nên khi tâm ta động hay ước nguyện điều gì thì Đại Linh quang
của Ngài sẽ cảm ứng ngay vì cùng một tầng số vi ba, một nguồn gốc hóa thành.
Chẳng khác gì trung tâm điện toán, một tế bào quang điện nhiễu động thì trung
tâm có phản ứng ngay. Chính nhờ đó mà Đạo Cao Đài mới thông linh được các Đấng
vô hình qua cơ bút.
"Khoa học cũng làm
sáng tỏ việc não bộ của con người phát ra các làn sóng điện từ có cùng đặc tính
của những sóng đã ghi được trong bầu trời". (Những bí mật của sự tiên
đoán, Hà Nội 1977, tr.150)
Kinh Dịch có viết
"Dịch giả ? Thiên Nhơn tương hợp nhi dĩ hỉ" (Dịch là gì ? Cái lẽ Trời
Người cùng hiệp đó mà).
"Khởi nguyên của sự
sống là sinh lực (bióenergie) và là năng lượng khí (énergie). Chung quanh
khoảng không vũ trụ còn có trường hấp dẫn, trường điện tử, trường sinh học,
trên khoảng chân không còn có một dạng thứ tư của vật chất là Plasma của vũ trụ
và Bioplasma của sinh vật. Chính những dòng Plasma vận hành trong cơ thể con
người giao lưu cùng vũ trụ" (VS-Tinh Khí Thần của tư tưởng Đông phương).
Việc phù cơ thỉnh Tiên đã
có từ thời đại Lý Trần và có lâu đời ở Trung Hoa. Trước khi Đạo Cao Đài xuất
hiện, phái Minh Sư ở Trung Hoa do cơ bút đã truyền bá câu :
CAO như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng,
ĐÀI tại Nam phương đạo thống truyền"
Đến thời Pháp thuộc, báo
chí chữ Pháp phổ biến phương pháp xây bàn (la table tournante), các ông Cao
Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc theo đó mà làm và vô hình trung bắt điển thiêng liêng
truyền Đạo.
Ta có thể nói, Đạo Cao Đài
phát sinh dựa trên hai nền tảng :
1/ - Xã hội tính Việt Nam
chung đúc trên 4000 năm văn hiến. Đó là văn hóa Phật, Khổng, Lão, sau cùng là
Kitô giáo. Đạo Cao Đài cố gắng làm sáng tỏ phong hóa VN : Nam phong thử nhựt
biến nhơn phong.
2/ - Khoa học tâm linh như
Thần Linh học, Thông Thiên học, nhất là phong trào xây bàn ở Châu Aâu tràn vào
nước ta vào đầu thế 20. Như thế, đức tin người Cao Đài có cơ sở, đâu phải huyễn
hoặc mê tín. Đạo Cao Đài là một tôn giáo tiến bộ có đủ năng lực giải thoát con
người tiến đến cõi Thiêng liêng hằng sống.
Việc cầu cơ thỉnh Tiên
hiện nay trên thế giới, ngoài nước Trung Hoa lâu đời, còn có Pháp, Anh … nhất
là Mỹ. Theo báo Nation (1991) người ta cầu cơ nơi trống thuộc nhà thờ Đạo Do
Thái ở New York nhân ngày giỗ của cô đào Marilyn Monroe (tự tử ngày 5-8-1962),
hồn cô về cho biết "cô uất hận vì đã bị dòng họ Kenedy ám sát".
Việc xây bàn bắt đầu từ
năm 1847 ở nông trại Hydesville thuộc tiểu bang New York, Mỹ quốc, tại gia đình
họ Fox. Theo lời bà Fox, một hôm bà nghe tiếng đập cửa. Bà liền nói "Hãy
đếm đến 20" thì tiếng đập đủ số 20. Bà liền nói nếu hồn linh thì đập 2
tiếng, được đáp y như lời. Sau đó hồn linh cho biết mình tên là Charles Haynes,
làm phu khuân vác bị chủ nhà giết chết và chôn trong hầm trại. Ông Fox đào lên
thấy xương tóc của người chết.
Tiếng đồn người sống nói
chuyện với hồn linh vang khắp nước Mỹ.
Năm 1852, Hội nghị Thông
linh học (Congrès spirite) mở ra lần đầu tại Cleverland. Số người theo Thông
linh học lên đến 3 triệu người vào năm 1854, trong đó có hơn 1 vạn đồng tử.
Phái đoàn đồng tử Mỹ sang Anh, Đức, Pháp gây phong trào Thông linh rộng lớn tại
những nước đó.
Ở Pháp, bà Girardin phổ độ
cho văn hào Victor Hugo (Sau đắc phong Chưởng Đạo Hội Thánh Ngoại giáo Cao Đài)
về việc xây bàn khi ông ra đảo Jersey. Sau đó Allan Kardec hệ thống hóa Thông
linh học phù hợp khoa học chân xác ngày nay.
Non một thế kỷ, việc xây
bàn từ Pháp mới truyền sang nước ta, được các ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc,
Cao Hoài Sang tiếp nhận, học tập xây bàn. Vô hình trung họ đã làm trung gian
cho Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế khai Đạo ở Việt Nam.
Quay sang nước Nhật, từ
thời vua Minh Trị Thiên Hoàng Đạo OMOTO (Đại Bản) cũng được sáng lập bằng huyền
diệu cơ bút. Năm 1935, Hội Thánh Đạo OMOTO có phái giáo sĩ sang VN liên lạc với
ông Đầu Sư Thái Thơ Thanh. năm 1955, phái đoàn Cao Đài sang dự hội nghị tôn
giáo quốc tế tại Nhật, được ông Sao Deguchi, Giáo chủ Đạo OMOTO tiếp đón. Ông
nói cơ bút của Hội Thánh OMOTO cho biết Đạo Cao Đài sẽ xuất hiện tại VN (Lịch
sử Cơ bút Đạo Cao Đài, Sài gòn, Hồn Quê 1967, tr.37)
Bên Ý, vào năm 1984, Luật
sư Sados Albertini, một tín hữu Kitô giáo, có đứa con trai tên Andrea bị chết
oan. Hồn hắn về thông tin cha và bà đồng tử Anitac. Luật sư tổng kết những điều
kỳ diệu mà ông giao tiếp với con viết thành quyển "Thế giới bên kia tồn
tại". cuốn sách bán hết trong 10 ngày và phải in lại đến lần thứ 24. Sách
được dịch ra nhiều thứ tiếng : Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Pháp. Oâng
đã nhận được 5000 lá thơ chứng tỏ họ bị thuyết phục về huyền diệu của Thế giới
vô hình.
Luật sư Sardos Albertini
viết "Tôi tin ở Chúa. Tôi tin ở Giáo hội. Các thông báo của Andrea (linh
hồn người chết) đều hoàn toàn thích hợp với những điều Giáo hội răn dạy, chính
vì vậy, tôi tin vào Andrea".
Về Andrea cho biết
"Bãi chăn thả lớn các linh hồn đi theo ánh sáng vô tận của Thần Thánh …
Một linh hồn chỉ biết những gì mà Thượng Đế thông đạt". (Dẫn lại trong Đặc
san "Mùa xuân thi ca". Nhà XB Hội Nhà Văn VN năm 1992, tr.43-44)
Những điều vừa trình bày
trên chứng tỏ rằng thế giới vô hình và sẵn sàng liên lạc với người còn sống.
Ngay từ buổi đầu lập giáo, Đạo Cao Đài luôn luôn được Đức Thượng Đế phò trợ.
"Muốn đến với Thầy thì cầu nguyện. Thầy không bao giờ không cảm ứng với
những lời cầu nguyện chân thành" (TNHT.I.sđđ, tr.124) và "Thầy nhứt
định đến chính mình Thầy độ rỗi các con chẳng chịu giao Chánh giáo cho tay phàm
nữa". (TNHT.I.sđđ, tr.18)
Những lời phán truyền đó
nói lên "Trời Người hiệp nhứt" trong ý niệm lưu truyền lâu đời
"Có Trời mà cũng có Ta"
Đức Chí Tôn lại dạy :
"Sự nào về Đạo mà vừa lòng trong cả chư Chức sắc và tín đồ, ấy là hiệp
Thiên ý. Còn điều nào mà phần nhiều môn đệ của Thầy chẳng khứng chịu theo, ấy
là bất hiệp Thiên ý đó" (TNHT, sđđ, tr.47). Câu ấy có khác gì câu : Ý dân
là ý Trời.
Nhờ đó, bao nhiêu khó khăn
thử thách trong buổi đầu đều được Đức Chí Tôn hiển linh qua cơ bút chỉ vẽ, giải
quyết mọi vấn đề. Chỉ một thời gian rất ngắn, cơ chế Đạo đã hình thành : Pháp
Chánh Truyền, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng Đài .
Những điều huyền diệu linh
hiển của cơ bút thì vô ngần không kể xiết. Từ việc dạy Ngũ chi Minh đạo về hiệp
nhứt, tới việc trị bịnh điên, bịnh thời khí, đều đạt kết quả tốt. Nhờ đó, Đạo
khai không bao lâu, số người theo Đạo lên tới non triệu.
PHẦN THỨ HAI
NGÔI THỜ ĐỨC CHÍ TÔN
CHƯƠNG I
QUÁ TRÌNH XÂY CẤT TOÀ THÁNH
Đạo Cao Đài phát sinh
trong hoàn cảnh nước nhà bị lệ thuộc Pháp. Nhân dân nghèo đói thất học. Đa số
tín đồ là bần nông nên Đạo Cao Đài là tôn giáo của người nghèo. Đến ngày Khai
Đạo, họ chưa có đền thờ nên phải mượn tạm Chùa Từ Lâm (Gò Kén). Chùa nhỏ, người
đến dự lễ quá đông, do đó xảy ra việc tà quái trong đêm khai đạo (ngày
25-10-Bính Dần) , trước mắt viên đại uý Pháp Monet và các tên tình báo của Sở
Mật Thám Đông Dương, về sau chúng đúc kết in thành tập "Le
Caodaisme".
Chínhvì việc tà quái mà
Hoà Thượng Như Nhãn, chủ chùa Từ Lâm đòi chùa lại. Đức Thượng Phẩm Cao Quỳnh Cư
giữ việc Đạo lúc đó phải tìm đất xây dựng chùa mới. Nhà Ngài ở gần đình Hiệp
Ninh (nay gọi là Thảo Xá Hiền Cung). Năm 1915 Ngài làm thơ ký Sở hoả xa Sài
gòn. Năm 1925, nghỉ việc theo Đạo mới, Ngài mua được phần đất của Aspar, viên
kiểm lâm người Pháp. Đất này vốn là rừng cấm nằm trên đường dây thép,còn gọi là
đường trên (La route haute) phân biệt với đường quốc lộ 22, lúc đó gọi là đường
dưới (La route basse).
Trước tiên, Đức Thượng
Phẩm Cao Quỳnh Cư cho khai phá khu Bàu Cà Na tới sân bay (khoảng trước chợ Từ
Bi). Lúc đó, 1926 vùng này còn rừng cấm, âm u nhiều chướng khí. Nước hết sức
độc,uống vào chói nước. thú dữ như cọp, gấu, beo, rắn độc…nhiều vô kể. Loài
người và loài thú tranh nhau từng thế đất. Lúc khai phá rừng, người Miên, TàMun
xuống cả ngàn người làm công quả. Viên Chánh Tham biện Pháp nghi ngờ nên gọi
Đức Cao Thượng Phẩm ra toà bố hỏi rằng :
- Ông làm cái gì mà đông
đảo như vậy ?
- Tôi mua đất đặng trồng
caosu
- Trồng mấy mẫu ?
- Phá tới đâu, tôi trồng
tới đó.
Vì lúc đó việc trồng caosu
rất thạnh hành và là một nguồn lợi lớn cho Pháp nên họ làm ngơ. Khu khai phá
đầu tiên này trong vùng cây ba nhánh gồm 96 mẫu của Hội cựu chiến binh Pháp.
Bắc giáp lộ liên tỉnh 13, Đông giáp sân bay chiến lược của Pháp (chưa sử dụng),
Nam giáp Ao hồ, Tây giáp đường Mít Một.
Chùa mới cất tạm bằng cây
và tranh, có nhà thờ chính,Hậu điện, Đông lang, Tây lang , Trù phòng.
Đến tháng 10 năm Tân Sửu
(1933) khởi công xây cất bằng bêtông cốt sắt, do ông Nguyễn Ngọc Thơ trông coi.
Ông Thơ người Sài gòn, làm tri huyện Tân Định. Năm 1926 ông theo Đạo thọ phong
Đầu Sư. Ông và bà Lâm Ngọc Thanh (Nữ Đầu Sư) xuất tiền mua đất cất chùa mới và
một miếng rừng khác ở phía Tây Nam.chùa mới đất tên là Chùa Cực Lạc và phóng
nhiều con đường mới như Quan Âm Các, Phước Đức Cù, Long Nữ Điện….
Việc xây dựng Toà Thánh
của ông Nguyễn Ngọc Thơ, ông Lê Văn Trung bị dở dang, được ông Lê Thế Vĩnh mướn
kỹ sư Phan Hiếu Kinh lãnh làm lầu Hiệp Thiên Đài, đúc cột và đổ plafond chút ít
rồi cũng ngừng vì thiếu tiền.
Đến ngày 01-11-Bính Tý
(1936) Đức Phạm Hộ Pháp kêu gọi sự giúp đỡ của bà Lâm Ngọc Thanh quyết tâm xây
dựng Toà Thánh với khẩu hiệu "Bắt gió nắn hình". Đứng bên sau ông là
Phạm Môn phát hồng thệ và thủ trinh chấp hành sự chỉ dẫn xây cất của sư phụ.
Năm 1939, chiến tranh thế
giới lần hai bùng nổ, quân đội Pháp chiếm đóng Toà Thánh, việc xây cất đình
chỉ. Mãi đến ngày 24-01-Aát Dậu (1954). Toà Thánh được mở cửa lại do ông Lâm
Tài Khị lo xây dựng. Đến đầu năm Đinh Hợi (1947), tập thể thợ hồ và công quả,
đứng đầu là Tổng Giám Lê Văn Bàng, bàn giao cho Hội Thánh Cao Đài, Toà Thánh đã
kiến thiết xong. Nhưng mãi tới năm 1955 mới làm lễ Khánh Thành.
Toà Thánh là công trình
kiến trúc của nhân dân lao động tuyệt đại đa số là ít học hoặc thất học. Họ chỉ
với niềm tin sắt đá "Linh tại ngã" mà đã hoàn thành một công trình
kiệt tác ở miền Nam. Một nhà triết học nói : "Cho một niềm tin, tôi biến
rừng núi ra thành thị". Thật vậy, từ năm 1926, vùng núi u tịch, dân cư và
phố chợ vùng Đất Thánh phát triển không ngừng theo nguyên tắc phổ cập trên thế
giới : dọc theo trục lộ giao thông. Khởi đầu, vùng mà nay gọi là Cửa Hoà Viện,
hai bên đường trên (La route haute) dân Đạo lập chợ Từ Bi, chợ Thương Binh (nay
là chợ Hiệp Lễ). Dọc theo 20 nhà cửa mọc lên như nấm, dọc theo lộ Quan Âm Các,
nhà cửa san sát, chợ Ngã Năm trù phú, chợ cửa số 7 và chợ Mít Một, tới năm 1951
mới có chợ Long Hoa.
Số tín đồ ngày càng đông,
Hội Thánh Cao Đài phải mở rộng khu phía Đông Bắc 70 mẫu, tức khu Cực Lạc Thái
Bình ngày nay, giáp ngã ba Suối Đá. Đến năm 1932 tăng thêm 70 mẫu, những vùng
sau này được dân chúng kéo đến lập nghiệp, năm 1950 Trí Huệ Cung (tại Trường
Hoà hiện nay) khánh thành, vì lòng tin thoát được nợ trần, bổn đạo phải đi từ
Thiên Thọ lộ, qua cầu Đoạn Trần mới được vào Thiên Hỷ động tức Trí Huệ Cung. Ở
Qui Thiện thì có Trí Giác Cung, ở chân núi thì có Vạn Pháp Cung. Đến năm 1950, vùng
đất Thánh rộng 20.383 mẫu.
Toà Thánh dài 96 mét,
ngang 22,50 mét, cao 27 mét, nằm về phía Đông tỉnh lỵ Tây Ninh, cách 5km và
cách Sài gòn 95 km . Toà Thánh nằm
thiên về phía Tây gần cửa Hoà Viện. Đó là công trình kiến trúc của toàn thể tín
đồ Cao Đài, sáng tạo cả bê tông cốt tre. Hằng năm lượt các tín đồ Cao Đài từ
khắp Lục Tỉnh đi về Toà Thánh làm công quả xây dựng. Họ chịu đựng mọi gian khổ,
có người tự túc cả lương thực mà không ăn cơm Trại Đường. Các tầng lớp địa chủ,
thương buôn giàu có cũng đóng góp để xây dựng Toà Thánh. Sau 14 năm (1933-1947)
lao động ngày đêm của nhơn sanh, Toà Thánh mới hoàn thành.
Để tôn vinh toàn thể nhân
dân lao động, ngoài công trình đắp hình các Thánh, ông Bùi Aùi Thoại là người
bình dân ít học đã đắp Lao Động chi Đài ở bao lơn mặt tiền Toà Thánh,chỗ danh
dự nhất, tám hạng người lao động : Sĩ , Nông , Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh,
Mục . Ông Bùi Aùi Thoại được điểm công hàng đầu đắc phong Á Thánh.
Dưới đây, xin trích đoạn
đầu và đoạn chót của "Tờ Bàn Giao Đền Thờ Đức Chí Tôn cho Hội Thánh"
Toà Thánh, ngày mùng 3
tháng 1 năm Đinh Hợi.
(dl. ngày 24-1-1948)
"Chúng tôi đồng đứng
tên dưới đây là Tổng Giám, Tá Lý, Nhân công Nam Nữ xin dâng 3 bổn này lên Hội
Thánh.
Nguyên vào năm Bính Tý
(1936), các con có làm tờ trình nguyện làm Đền Thờ Đức Chí Tôn. Nay các con đã
hoàn thành, xin giao lại cho Hội Thánh…
VI BẰNG : Vị Tổng Giám xây Toà Thánh Lê Văn Bàng xin phép
Đức Hộ Pháp cho toàn nhân công Nam Nữ làm lễ ra mắt những vị Tiền vãng. Đoạn
Đức Hộ Pháp mời cả Chức sắc Nam Nữ vào lạy Chí Tôn ban ơn huệ cho cả gia quyến
các công thợ và những thiện tâm hỷ cúng vào sự tạo tác Toà Thánh.
Khi bái lễ xong, Đức Hộ
Pháp, nhân danh Hội Thánh, để lời cảm tạ tấm lòng thiết thạch của những môn đệ
chí hiếu và tận trung. Kẻ công, người của đã trải qua biết vao thời gian nguy
biến, gian lao, gìn giữ đức tin, mới lần hồi kiến tạo một Đền thờ vĩ đại oai
nghiêm tráng lệ dường nầy.
Vị Tá Lý Lê Ngọc Lời thay
mặt Tổng Giám Lê Văn Bàng đọc lời chúc mừng.
Toà Thánh là hồn của Đạo,
là khối đức tin lớn xuất hiện tại vùng Á Đông vào cuối kỳ Hạ ngươn. Nhờ nơi
huyền diệu thiêng liêng mà Đạo đặng phổ thông mau chóng. Nhiều tín đồ đã tùng
giáo, nên Đạo phải có Thánh Thể của Chí Tôn tại thế mà tụ khối đức tin của toàn
nhơn loại. Vì lẽ đó, Đức Quyền Giáo Tông, ba vị Chánh Phối Sư thi hành theo
tiếng gọi của nhơn sanh để làm Toà Thánh. Biết bao nhiêu người hăng hái vui
mừng chung hợp xây Toà Thánh cho mau rồi…
Khi vị Tá Lý đọc xong, Đức
Hộ Pháp đáp lời. Bần Đạo không ngờ mấy xem phái Nữ đã đạt được kỳ công. Nhớ lại
khi mới khởi công, Bần Đạo chỉ chọn phái Nam , sau vì nhân công không đủ nên
chọn thêm mấy em nữ. Ban đầu trộn hồ, gánh gạch, lần hồi xây đắp vách tường,
công việc của mấy em làm càng ngày càng tiến như phần đông Nam phái. Mọi việc
chi đủ Nam Nữ, Âm Dương mới tạo thành lý Đạo. Aáy là định ý của Đức Chí Tôn đó
vậy.
Khi ấy, vì dè dặt, Bần Đạo
mới buộc mấy em phải hồng thệ và thủ trinh cho tinh khiết mà xây Đền Thánh.
Ngay nay đặng hoàn thành, Bần đạo sẽ giải thệ cho mấy em nào muốn ra lập gia
đình tuỳ thích.
Đức Hộ Pháp kêu vị Tổng
Giám Lê Văn Bàng đem tờ Giao Lãnh mà khi xưa mấy vị nầy đã ký với Hội Thánh,
Đức Ngài ký tên với danh vị người thợ hồ. ( Ban Kiến Trúc : Lễ Giao Lãnh Đền
thờ Đức Chí Tôn 1948. Ấn hành 1971)
Thật vậy, chính người thợ
hồ Phạm Công Tắc đã hướng dẫn thiết kế xây dựng và đắp hình tượng trong ngoài
Đền Thánh lưu để mai sau.
CHƯƠNG II
KIẾN TRÚC TOÀ THÁNH
I .
MẶT TRƯỚC ĐỀN THÀNH
Tổng thể Đền Thánh rất
nguy nga tráng lệ, chiều dài 96 mét, và chiều ngang 22 mét. Mặt tiền day về
hướng Tây. Bên trái là Lầu chuông gọi là Bạch Ngọc Chung Đài, bên phải là Lầu
trống gọi là Lôi Âm Cổ Đài, cả hai đều cao 27 mét. Ngay giữa, phía trước có đúc
4 cây trụ rồng có quấn hoa sen chạm trổ rất tinh vi,màu sắc sặc sỡ,tượng trưng
Long Hoa Đại Hội.
Năm bậc thềm bước lên, mỗi
bậc cao độ 16 cm , tượng trưng Ngũ
Chi Đại Đạo. Ngước mắt nhìn ngay giữa thấy ngay bàn tay Đức Thượng Đế cầm Cân
Công Bình. Ngó sang bên phải là tượng ông Thiện, mình mặc giáp,đầu đội kim
khôi, tay cầm đại đao mà gương mặt hiền từ, tượng trưng cho điều thiện. Bên
trái là tượng ông Aùc , cũng mặc khôi giáp, nhưng gương mặt dữ dằn, trợn mắt
nhăn răng, một tay cầm búa, một tay cầm Ngọc ấn tỷ phù, tượng trưng cho điều
Aùc. Bởi lẽ ác đúng lúc là thiện, thiện không nhằm chỗ là ác.
Phía trên 4 cột rồng, xây
hình bán nguyệt, đó là Lao Động Đài, có đắp hình tượng 8 nghề trong xã hội :
Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh , Mục với ý nghĩa : dù làm nghề gì, khi
qui vị cũng phải về Toà Thánh mà xem phước tội.
Ngang đài nầy, bên phải
người xem, có tượng màu trắng của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, bên trái là
tượng Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh. Hai chức sắc Nam Nữ nầy có kỳ công khai mở Đạo
và xây dựng đền đài.
Phía trên hai tượng nầy có
tạc hình hai đóa hoa đỏ xanh trang nhã siêu thoát. Trong sự tích Vua U Vương
nhà Châu nằm mộng thấy bó hoa từ trên rơi xuống mà được Đạo Phật truyền sang.
Nơi lầu chuông, lầu trống,
mỗi lầu đều có 6 tầng. Trên đỉnh lầu chuông, dưới ngọn thu lôi có tạc tượng cái
hồ lô, là bửu pháp của Lý Thiết Quả. Trên đỉnh lầu trống có tạc hình giỏ hoa
lam, là bửu pháp của Long Nữ ( đồng tử của Quan Thế Âm). Hai hình nầy trên
tượng của Đức Quyền Giáo Tông và Bà Đầu Sư mà hai vị nầy vốn là ngươn linh của
Lý Thiết Quả và Long Nữ.
Chính giữa hai lầu chuông
trống là tượng Thiên Nhãn màu xanh tươi thắm, toả ra những tia sáng lunglinh,
tượng trương Đấng Thượng Đế toàn năng. Hai bên Thiên Nhãn có đắp 2 câu đối chữ
Hán.
HIỆP NHẬP CAO ĐÀI BÁ TÁNH THẬP PHƯƠNG QUI CHÁNH QUẢ.
THIÊN KHAI HUỲNH ĐẠO NGŨ CHI TAM GIÁO HỘI LONG HOA.
Nghĩa là :
Hiệp vào Cao Đài, trăm họ
mười phương sùng Chánh giáo.
Trời khai Đại Đạo, năm
nhánh ba giáo hộ Long Hoa.
Trên hai câu đối nầy có
hai chữ nho, bên phải là chữ Nhân, bên trái là chữ Nghĩa. Đó là triết lý của
Kinh Dịch mà Đạo Cao Đài phát huy thành giáo luật.
Trên hai chữ Nhân Nghĩa có
một hàng chữ Hán và một hàng chữ Việt đều viết : Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Phía trên, ngay giữa hàng
chữ nầy có Cổ Pháp Tam giáo là Bình Bát Vu (Phật), Phất chủ (Tiên) và quyển
Xuân Thu (Nho). Trên cùng là tượng Phật Di Lạc ngồi trên lưng cọp để làm kỷ
niệm năm Bính Dần khai đạo. Mặt khác, theo Thánh giáo, Đức Chí Tôn lập Đạo để
đưa nhơn loại đến Hội Long Hoa do chính Đức Di Lạc chấp chưởng.
Cách thềm ngoài trên 2 mét
là Tịnh Tâm Điện, nơi dùng để toàn Đạo tịnh tâm thần trước khi vào chầu Lễ.
Trên bức vách chắn tạc tượng Tam Thánh là :
1 . Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thánh danh Thanh Sơn Đạo Sĩ.
2 . Victor Hugo, Thánh danh Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.
3 . Tôn Dật Tiên, Thánh danh Tôn Trung Sơn.
Tam Thánh ở Bạch Vân Động
thay mặt nhơn loại ký với Thượng Đế đệä tam hoà ước : "Thiên Thượng, Thiên
Hạ" (Dieu et Humanité) : Trời Người hiệp nhứt qua trung gian cơ bút.
Hai bên Tịnh Tâm Điện có
đường lên Hiệp Thiên Đài, có bàn thờ Chức sắc Hiệp Thiên đài đã qui liễu.
Hai bên bàn thờ có hai
đường lên lầu chuông, lầu trống. Sở dĩ gọi lầu chuông là Bạch Ngọc Chung Đài là
vì tạc chuông theo hình ở Bạch Ngọc Kinh tứ thời, còn lầu trống là Lôi Âm Cổ
Đài vì tạc trống sấm theo hình ở Lôi Âm Tự.
Tiến lên tầng lầu chót,
đưa mắt nhìn phía Bắc là núi Bà Đen, phía Đông là núi Thị Vải làm hồn ta lâng
lâng xao xuyến.
II .
BÊN TRONG ĐỀN THÁNH
Mặt sau bức hoạ Tam Thánh,
bên trong Đền Thánh là 3 chiếc ngai thất đầu xà (rắn 7 đầu) tượng trưng cho
Thất tình : Hỉ, Aùi, Lạc, Nộ, Ố, Ai, Dục, trong mỗi con người. Thật ra, con người
không thể nào diệt được Thất tình, nên phải dưỡng 3 tính tốt : Hỉ, Aùi,Lạc
tượng trưng bằng ba đầu rắn đưa lên, và 4 tính xấu : Nộ, Ố, Ai, Dục bị đè xuống
tượng trưng bằng 4 đầu rắn còn lại.
Ngai chính giữa là ngai Hộ
Pháp. Trên vách tường sau ngai này là tạc một chữ KHÍ (Tam Tự nhất thể, xem
"Lý giải quả Càn khôn ) màu vàng, tức khí sanh quang nuôi sống vạn vật,
tượng trưng sự miên trường của vạn loại.
Ngai bên trái là ngai
Thượng Sanh và bên hữu là ngai Thượng Phẩm. Ba ngai này hiện đã tạc ba tượng của
ba vị Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh đã triều Thiên.
Bên trong Đền Thánh có 28
cột rồng tượng trưng cho Nhi Thập Bát Tú giáng trần giáo đạo đứng chầu Thượng
Đế. Các cột rồng sơn đủ các màu : vàng, xanh, đỏ, trắng là để tượng trưng cho
ba kỳ phổ độ.
Nhất kỳ phổ độ có Thanh
Dương Đại Hội để phán đoán đức hạnh và công quả tu hành của nhân sanh do Đức
Nhiên Đăng chưởng pháp.
Nhị kỳ phổ độ có Hồng
Dương Đại Hội có Đức Di Đà điều khiển.
Tam Kỳ Phổ Độ có Bạch
Dương Đại Hội do Đức Di Lạc tuyển phong Phật vị. Vì vậy các rồng trắng (Bạch
long) ở Bát Quái Đài dưới quả Càn Khôn là tượng trưng thời kỳ Bạch Dương và cột
rồng vàng (Huỳnh long) biểu tượng các vị Phật đến chứng Đại Hội Long Hoa.
Các cột rồng há miệng nói
lên "khẩu phát ngôn" đặc điểm của thời kỳ Đại Ấn xá này dạy Đạo cho
nhân sanh tầm theo đường chánh, chấm dứt thời kỳ "Phật giả vô ngôn".
Trên vòm trần nhà ở giữa
hai cột rồng có chạm hình rồng nhô ra 6 đầu,chung quanh sơn màu xanh da trời
lấy ý trong bài Ngọc Hoàng Kinh là : Thời thừa lục long, du hành bất tức ( Xem
phần thứ 2, chương V) tức xe Trời (Thiên xa).
Hai bên vách Đền Thánh tạc
hình hoa sen, gương sen và ngó sen trong khung hình chữ nhứt đứng, ở giữa có
khung tam giác tạc Thiên Nhãn phản chiếu các tia rẽ quạt rất sinh động. Thiên
Nhãn là Thái cực, bụi sen trên, bụi sen dưới là Âm Dương tức Lưỡng Nghi, 4 trái
sen hai bên là Tứ Tượng, 8 lá sen là Bát Quái, 12 ngó sen là Thập nhị Khai
Thiên; lấy hình ảnh sen để biểu tượng cho Dịch lý của vạn vật luân chuyển không
ngừng trong vũ trụ.
Nền của Đền Thánh có 9 bậc
thật dài, độ 63 mét, ngang tả ban hữu ban đều sơn trắng có tạc hình Tứ linh :
Long (biến dịch), Lân (hạnh phúc), Qui (trường cửu), Phụng (thái bình).
Gần ngang cửa hông, nhìn
lên trần nhà ở giữa, trổ lên nóc, có xây một cái đài hình tròn, cao 17 mét, gọi
là Nghinh Phong đài. Trên nóc đắp một nửa địa cầu có vẽ các châu lục trên thế
giới. Trên nửa địa cầu này, ngoài trời có tạc con Long Mã đem hàm ấn chạy về
hướng Tây, quay đầu về hướng Đông. Bởi lẽ Á châu là nơi chôn nhau cắt rốn của
nhiều tôn giáo như : Bái vật giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, Do Thái giáo, Kitô
giáo…"Đạo phát ư Đông, di ư Tây, phản hồi ư Đông" . Vả lại, long mã
tượng trưng cho sự hợp nhứt Âm Dương để phát khởi vạn loại vì theo Dịch lý rồng
thuộc dương, ngựa thuộc âm.
Dưới Nghinh Phong đài có 2
cột rồng uốn theo khuôn ốc. Cái miệng rồng phun ra 6 chia đỡ Giảng đài, nơi để
chức sắc đứng giảng Đạo, tượng trưng người tu phải biết đè nén Lục trần, còn
gọi Lục tặc (6 kẻ cướp), nó lợi dụng sơ hở của ta mà xâm nhập vào thân xác. Lục
trần là : Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc
(đụng chạm nam nữ), Pháp
(phương cách nhập vào ý).
Ra cửa hông dọc lan can
mỗi bên có 6 cửa ra vào. Các bậc lên xây dựng như bậc thang mà hai bên có tượng
hai con Kim Mao Hẩu lông vàng gần giống con sư tử. Các tứ linh : long, lân,
qui, phụng, chim thú được tạc tượng y như thật, song ý tưởng vượt lên trên hình
tượng cụ thể mà biểu hiện bí pháp thiêng liêng tiềm ẩn bên trong.
Rời Giảng đài, trước Bửu
Điện là 7 chiếc ngai sơn son thiếp vàng hình long, lân, phụng. Trước 7 chiếc
ngai chắn bức bình phong chạm rồng mạ vàng rất linh động. Hai bên bình phong và
7 chiếc ngai thiết trí hai hàng lổ bộ bửu pháp của Bát Tiên :
1 . Bầu rượu của Lý Thiết Quả
2 . Quạt của Hớn Chung Ly
3 . Thư Hùng Kiếm của Lữ Đồng Tân
4 . Gậy của Trương Quả Lão
5 . Giỏ Hoa Lam của Lam Thể Hoà
6 . Hoa sen
của Hà Tiên Cô
7 . Oáng
tiêu của Hà Tiên Tử
8 . Cặp sanh
của Tào Quốc Cựu
Bảy chiếc
ngai thứ tự từ trong Bửu Điện ra là :
- Một ngai
Giáo Tông chạm rồng
- Ba ngai Chưởng Pháp chạm
phụng
- Ba ngai Đầu sư chạm lân
Cuối ngai Giáo Tông là hết
9 bậc của Cửu Trùng Đài. Mỗi lần đi qua một công trình kiến trúc là lòng khách
hành hương tiến dần vào nẻo Đạo.
III .
BÁT QUÁI ĐÀI
Đến bậc thứ 10 ngắn hơn
gọi là Cung Đạo. Trên nóc Cung Đạo đúc vòm bầu Trời, chạm hình Đức Hồng Quân,
Đại ngọc cơ và quyển Xuân Thu đều được chạm kiếng phản chiếu lung linh.
Mặt trước và phía trên
Cung Đạo có đúc bức hoành hình chữ M, tạc tượng các Giáo chủ Tam giáo, Tam Trấn
và Ngũ chi Đại Đạo.
- Hàng trên ba vị Giáo chủ
: Lão Tử, Thích Ca, Khổng Tử .
- Hàng giữa ba vị trong
Tam Trấn : Quan Âm, Lý Bạch, Quan Thánh.
- Hàng dưới Lý Bạch là
Jésus Christ và Khương Thượng.
Nếu kể từ Thích Ca xuống
thì đại diện Ngũ Chi Đại Đạo là : Phật (Thích Ca), Tiên (Lý Bạch), Thánh (Jésus
Christ), Thần (Khương Thái Công), Nhơn (Giáo Tông).
Bức hoành bên tả thờ Bát
Tiên như đã dẫn.
Bức hoành bên hữu thờ Thất
Thánh : Vương Tiễn, Na Tra, Vi Hộ, Lý Tịnh, Kim Tra, Lôi Chân Tử, Mộc Tra. Theo
Đức Hộ Pháp, đã tạc Thất Thánh. Lẽ ra đắp tượng Thất Hiền Hy Lạp phù hợp với tư
tưởng nhập thế của Đạo Cao Đài. Theo "Roman des sept Sages", Thất
Hiền ở vào thế kỷ trước Tây lịch là : Thalès, Pittacos, Bias, Solon, Cléobule,
Chilon và Périandre.
Thalès kêu gọi từ bỏ những
bất lương. Hãy trị chính bản thân mình trước khi ra lịnh cho kẻ khác.
Việc thờ quá nhiều Thần
như vậy là một kinh nghiệm tôn giáo trong quá khứ để thu hút nhiều tín đồ. Bởi
lẽ "Phật giáo nhiều Thần thoại phép mầu, có vô số vị Thần Thánh làm trung
gian giữa tín đồ và Đấng Tối Cao đã thắng Phật giáo Nguyên thuỷ; cũng như Thiên
Chúa giáo đa sắc thái chú trọng tới bề ngoài đã thắng Kitô giáo giản dị nghiêm
khắc thời nguyên thuỷ" (Qill Durant, Lịch sử Văn minh Ấn độ, Nguyễn Hiến
Lê dịch, Saigon 1971, tr 255)
Việc thờ Tam Trấn biểu thị
cho Tam Kỳ Phổ Độ có một triết lý thật sâu xa. Đó là thờ bi, trí, dũng của loài
người.
- Lý Thái Bạch, Nhứt Trấn
Oai Nghiêm biểu tượng cho Trí vì có lý trí mà Ngài để không để lôi cuốn vào
đường truỵ lạc. Cái trí của Ngài sáng rõ như Kim Tinh.
- Quan Thế Âm, Nhị Trấn
oai nghiêm biểu tượng cho Bi vì thương chúng sanh đau khổ mà bố thí cứu độ. Trí
và Bi lúc nào cũng đi đôi với nhau làm nền tảng cho cơ phổ độ.
- Quan Thánh Đế Quân, Tam
Trấn Oai nghiêm biểu tượng cái Dũng. Cái uy dũng, cái trung can nghĩa khí của
ngài là gương sáng cho người tu học.
Kế Cung Đạo là bàn thờ Đức
Chí Tôn hương trầm toả nghi ngút. Trên quả Càn Khôn ngay chính giữa có vẽ Thiên
Nhãn. Quả Càn Khôn không chỉ là trái đất mà bao gồm cả Thiên cầu. Vì Càn là
trời tức là Thiên cầu thuộc Dương; Khôn là đất tức địa cầu thuộc Âm mà
"Nhất âm nhất dương chi vị Đạo". như thế, thờ Thiên Nhãn trên quả Càn
Khôn là thờ Đạo. Thiên thượng (Thiên cầu), Thiên hạ (Trái đất có người) hiệp
nhứt đã thể hiện rõ trên quả Càn Khôn. Đó là chủ đích tối cao của nền Tân tôn
giáo. Quả Càn Khôn được đặt trên cái đài hình bát giác (8 cạnh). Từ dưới quả
Càn Khôn là những khuôn linh vị viết bằng chữ Hán thờ các vì Giáo chủ trong các
thời kỳ phổ độ trước.
Hai bên có cặp hạc thanh
thoát đứng trên lưng rùa (trường cửu), cổ vươn cao chầu Thượng Đế. Chung quanh
quả Càn Khôn có tạc nhiều con rồng sơn màu trắng, biểu tượng cho Bạch Dương Đại
hội ở kỳ Hạ ngươn này.
Dưới Bát Quái Đài có cái
hầm sâu xuống đất gọi là Hầm Tàng Bửu Khánh. Theo các Đền xưa,hầm này dùng chứa
châu báu, tiền của các người hảo tâm cúng hiến. Khi có Thiên tai đao binh đói
khổ thì khai ra bố thí cho dân nghèo.
Phía trên Bát Quái Đài xây
lên ba tầng : Tầng dưới từ nóc lên độ 15 mét, tầng giữa độ 10 mét và tầng chót
độ 5 mét. Trên đỉnh có tạc 3 tượng Phật day mặt về ba hướng (Thời Bà La Môn
giáo, 3 vị chỉ là Thần).
- Phật Brahma, cưỡi con
Huyền Nga, day mặt về hướng Tây, điều khiển Thượng ngươn Thánh Đức.
- Phật Shiva (Siva) đạp
trên thất đầu xà, day mặt về hướng Bắc, điều khiển Trung ngươn tranh đấu. Tại
sao Phật Shiva đạp trên rắn bảyđầu như Hộ Pháp vì "Thần Shiva còn giữ vai
trò của Dvaparala tức là các Hộ Pháp giữ các đền thờ" (Nghiêm Thẩm, Tôn
giáo của người Chàm tại VN, Saigon DHVK 1972 tr 18 và 30)
- Phật Christna (hay
Vishnou) cưỡi con giao long (trong thần thoại con Rồng cháu Tiên) dạy mặt về
hướng Nam điều khiển hạ ngươn bảo tồn hay Ngươn tái tạo (Mahabhrata (sử thi Ấn
độ), Hà Nội 1979). Đó là 3 vị Thần của Đạo Bà La Môn đã thành Phật trong kỳ ba
Phổ độ. Trong sử thi Ấn Độ "Mahabharata", Thần Vishnou cưỡi chim thần
Garuda, Shiva cưỡi bò thần Nanđin, mình quấn đầy rắn, Christna là Thần tình yêu
có sứ mạng bảo vệ hoà bình.
Tham quan xong, lửng thửng
bước ra ngoài, trong lòng còn luyến tiếc, quay đầu lại nhìn mái ngói :trùng
thềm điệp ốc", phía dưới có khung tròn vẽ đôi chim hạc bay trước ánh mặt
trời mông mênh khiến tâm hồn lâng lâng muốn lánh chốn hồng trần ràng buộc.
"Gà dù sẵn lúa mà bếp lửa cận kề; hạc dù thiếu ăn nhưng trời đất mênh
mông" (Lung kê hữu mễ than oa cận; dã hạc vô lương thiên địa khoan).
IV .
CÁC KIẾN TRÚC QUANH TOÀ THÁNH
Phần này chỉ giới thiệu
các dinh, đường, tháp mà không chuyên sâu vào giáo lý.
Sau Bát Quái Đài là Tháp
Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, xây ba tầng hình 8 cạnh. Sở dĩ táng liên đài
bát giác, xây tháp bát giác vì theo kinh có câu "Ba mươi sáu cõi Thiên
Tào, nhập trong Bát Quái Đài mới vào Ngọc Hư",nghĩa là muốn về chầu Thượng
Đế thì phải qua Bát Quái Đài.
Sau Tháp Đức Quyền Giáo
Tông là Hậu Điện, nơi ở của các Chức sắc phế đời hành đạo. Bên trái là Đông
lang, nhà ở của Chức sắc Nam. Bên trái Đông lang là 3 tháp của 3 vị Nam Đầu sư
Thái, Thượng,Ngọc.
Bên phải Hậu Điện là Tây
lang, nhà ở của Chức sắc Nữ. Bên phải Tây lang là Tháp Nữ Đầu Sư.
Đền Thánh, Hậu Điện, Đông
lang, Tây lang họp thành chữ Sơn (nghĩa là núi) biểu thị sự cao khiết.
Phía Bắc, cách Đền Thánh
độ 100 mét là Toà Nội Chánh,nơi làm việc của 3 vị Chánh Phối Sư và Cửu Viện
Hành Chánh. Phía Tây, cách mặt tiền Đền Thánh 30 mét có cột phướn cao 30 mét, ở
chân phướn có chạm rồng và hoa sen. Cách cột phướn 10 mét có cây Bồ Đề do Đức
Narada Théra, Phật giáo Tích Lan tặng. Dưới cội Bồ Đề có tượng Đức Phật Thích
Ca thiền.
Hai bên sân Đại Đồng Xã có
hai khán đài rất lớn, 12 bậc, ẩn vào trong hai cụm rừng Thiên nhiên. Sở dĩ gọi
như vậy, vì khi xây cất Toà Thánh, 2 cụm rừng này được chừa lại như nguyên
thuỷ.
Ơû giữa hai khán đài trên
sân Đại Đồng Xã có xây cái nền chơ vơ giữa trời hình bát giác, có 9 bậc, gọi là
Cửu Trùng Thiên , nơi dùng để thiêu xác các Chức sắc từ Đầu sư trở lên.
Hướng về Tây, tượng Xa Nặc
chạy bộ theo Đức Thích Ca cỡi ngưạ phía trước. Hai tượng này biểu hiện sự tích
tầm Đạo của Thái tử Sĩ Đạt Ta.
Về phía Nam Đền Thánh, dọc
Đại lộ Phạm Hộ Pháp có nhiều kiến trúc mỹ lệ. Khởi đầu là Nữ Đầu Sư Đường, nơi
thờ các Nữ Đầu Sư và cũnglà nơi làm việc của phái Nữ. Kế đến là Hạnh Đường, nhà
Huấn luyện Chức sắc đi phổ độ chúng sanh. Phía sau Hạnh Đường là Trai Đường,
nhà ăn chung của đồng đạo phế đời lo Đạo.
Đối diện với Hạnh Đường là
Giáo Tông Đường , nơi thờ Đức Quyền Giáo Tông cũng là nơi làm việc của chư Chức
sắc Đại Thiên Phong.
Cách Giáo Tông Đường một
con đường về phía bên phải Toà Hiệp Thiên Đài, đó là cơ quan bảo thủ luật pháp
chơn truyền của Đại Đạo, cũng là nơi thờ Đức Cao Thượng Phẩm, Cao Thượng Sanh
và 12 vị Thời Quân.
Đối xứng vời Hiệp Thiên
Đài qua con đường là Ban Tương Trợ cung cấp nhu cầu cần thiết cho mọi người.
Giáp rào Hiệp Thiên Đài về
phía bên phải là Hộ Pháp Đường, kiến trúc dạng khối chữ nhựt, nóc bằng. Xưa kia
là nơi làm việc của Đức Phạm Hộ Pháp, nay là nơi thờ tự và nhà kỷ niệm của
Ngài.
Sát bên phải Hộ Pháp Đường
là Báo Ân Từ tạm làm Đền Thờ Phật Mẫu. Đây là ngôi Đền dạng khối chữ nhựt, phân
ra 2 tầng : trệt và lầu, đài duy nhất cao vút gọi là Bạch Ngọc Chung đài.
Báo Ân Từ là nơi thờ
phượng những bậc đại ân, đại hiếu, nên mặt tiền đền này tạc sự tích Nhị Thập Tứ
Hiếu để răn đời. Bên trong Đền thờ phân làm 3 gian, gian giữa rộng hơn hai bên.
Từ ngoài vào tới cung thờ có tất cả 8 lồng căn, gọi là Bát Cảnh Cung. Trên hai
hàng cột phân lòng căn treo mặt nộm hình quả tim sơn vàng có cắm cờ vang mang ý
nghĩa "Phái vàng Mẹ lãnh dắt dìu trẻ thơ".
Trong Bửu Điện, bàn ngoài
thờ tượng Phật Thích Ca và bàn trong thờ Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật cưỡi chim
loan. Ngay từ buổi đầu dạy Đạo. Đức Phật Mẫu và Chín cô hết lòng dìu dắt 3 vị
Thiên sứ từng bước đi vào cửa Đạo.
Đức Phật Mẫu là Mẹ sanh
của toàn thể nhân loại, chưởng quản từng Trời Tạo Hoá Thiên. Đức Từ Mẫu còn
được gọi là Cửu Thiên Huyền Nữ, Thiên Hậu, Tây Vương Mẫu theo thần thoại Trung
Hoa, Thiên Mẫu, Cửu Trùng Thánh Mẫu theo tín ngưỡng dân gian. Nay Đạo Cao Đài
gọi là Đức Diêu Trì Phật Mẫu hay Kim Mẫu (gọi tắt của chữ Kim Bàn Phật Mẫu).
Như thế, quyền lực của Đức Phật Mẫu rất to lớn, chỉ có từ ngữ Đức Mẹ mà vừa là
Thiên, là Tiên, là Phật. Đức Phạm Hộ Pháp đã thuyết đạo trên Cửu Long đài hồi
16 giờ ngày 15-8-Đinh Hợi (1947) có câu :"Bần đạo tưởng cả thảy toàn Đạo
nên biết quyền hành ấy…".
"Phật Mẫu là chủ Âm
quang, Chí Tôn là chủ Dương quang, Âm Dương tương hiệp, Đạo Cao Đài nương theo
năng lực của hai khối Âm Dương ấy mà phát triển."
Như thế, quyền lực của Đức
Phật Mẫu đồng đẵng với Đức Chí Tôn.
Nơi Phật Mẫu ngự là Cung
Tạo Hoá Thiên Diêu Trì Cung, Tây Hoa Cung (Hoàng Xuân Hãn, Bích Câu Kỳ Ngộ, Đại
Học Huế 1964) hay Côn Lôn (Hoàng Trọng Miên, VN Văn học Toàn thư , Saigon 1959)
và theo văn chầu thì Thiên Hậu có nhiều cung ,lắm điện, mỗi nơi Ngài mặc một
sắc áo riêng (Nguyễn Đăng Thục, Tín ngưỡng dân gian, Saigon 1964)
Đức Phật Mẫu cho Nhị Nương
coi Vườn Đào. "Cứ ba ngàn năm trái chín một lần, ăn vào thì được trường
sanh bất tử, thường dùng để bày tiệc đãi các vị Thần Tiên" ( Hoàng Trọng
Miên, VN Văn hoạc Toàn thư , Saigon 1959) . bí pháp này được thể hiện hàng năm
vào ngày 15-8 âm lịch gọi là Đại Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung.
Như thế, Phật Mẫu là biểu
tượng cao cả phổ quát (trong ý niệm vừa là Mẹ, là Thánh, là Tiên, là Phật), của
nguồn sống (Vườn Đào),sức ần lao ( giữ Vườn Ngạn Uyển) và nguồn vui (đãi yến,
sum họp gia đình). Còn việc thay cung đổi áo là do vận hành theo thời gian, do
thời tiết, do trình độ tiến hoá của con người nhằm phổ độ, đúng với câu : "Cửu
kiếp Hiên Viên thọ sắc Thiên".
Từ vua Hiên Viên, Đức Phật
Mẫu thọ sắc Trời đã 9 lần thay hình đổi dạng giáng trần để phổ độ con cái của
Ngài.
Ta có thể kể như sau :
1 . Đời Hoàng Đế Hiên Viên
giáng trần độ người Trung Hoa và các nước lân cận.
2 . Đức Mẹ ISIS ở đền
Memphis nước Ai Cập, tay cầm Thiên thơ hoá sanh vạn vật.
3 . Thiên Hậu Héra (Junon)
nghiêm trang ngự trên ngai rực rỡ ở Hy Lạp.
4 . Đức mẹ Démêter là
Thánh Mẫu của vũ trụ.
5 . Mayâ, Mẹ sanh của Thái
tử Sĩ Đạt Ta tại kinh thành Ca tỳ la vệ được 7 ngày thì bà qui Tiên (563 trước
Tây lịch).
6 . Đức Mẹ Devi Bhagava
(hay Jagadambâ) ở Ấn Độ hiện thân tình mẫu tử, luôn chăm sóc chúng sanh.
7 . Thánh Mẫu Maria sanh
Chúa Hài Đồng ở hang Bêlem thuộc xứ Jérusalem.
8 . Đức Phật Mẫu giáng hạ ban cho vua Hán Võ Đế quả
đào Tiên và độ vua tu hành. Sự tích nầy được Đạo Cao Đài tạc tượng phụng thờ.
9 . Kỳ ba phổ độ này, Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên
giáng trần khai mở Đạo Cao Đài.
Khi tuần du trong Càn khôn
Thế giới, Đức Phật Mẫu ngự trên lưng chim thanh loan. Chim thanh loan là chim
mái có sắc xanh nhiều hơn, một loài linh điểu. Ngược lại chim phụng trống cũng
là giống chim ngũ sắc như chim loan mà sắc đỏ nhiều hơn "Phụng gáy Kỳ
Sơn" thì Thánh nhân ra đời.
Đức Phật Mẫu chưởng quản
Hội Kim Bàn gồm có chín Tiên Nương. Mỗi cô có 3 nhiệm vụ chính;
- Nơi trụ trì hành pháp
- Nhiệm vụ Hội Kìm Bàn
giao
- Vùng phổ
độ ở trần gian.
1 . Nhứt
Nương Hoàng Thiều Hoa, giữ Vườn Ngạn Uyển, chăm sóc sức khoẻ vạn linh, nhiệm vụ
phổ độ miền Bắc nước VN.
2 . Nhị Nương Cẩm Tú , coi
Vườn Đào, giữ gìn sự sống của loài người (bảo sanh), giáo đạo ở Campuchia.
3 . Tam Nương Kim Tuyến ,
ở tầng Thanh Thiên, siêu độ khách trần, phổ độ ở miền Trung VN.
4 . Tứ Nương Lê Thị Gấm, ở tầng Huỳnh Thiên, dạy
chân, thiện, mỹ cho loài người, phổ độ ở đồng bằng miền Bắc VN.
5 . Ngũ Nương Liễu Hạnh, ở tầng Xích Thiên,siêu độ
khách trần đắc đạo cho địa vị ngày càng cao thăng.
6 . Lục Nương Hồ Thị Huệ, ở tầng Kim Thiên, bảo toàn
sinh mạng cho chúng sanh, phổ độ Pháp quốc. Đó là Jeanne d'Arc.
7 . Thất Nương Vương Thị Lễ, ở tầng Hạo Nhiên Thiên,
độ dẫn người theo Đạo Cao Đài, giáo đạo ở Trung Hoa.
9 . Cửu Nương Cao Thoại Khiết , ở tầng Tạo Hoá Thiên
với Đức Phật Mẫu , dạy về khoa học, mỹ thuật, phổ độ ở miền Tây VN( Xem thêm
"Công đức Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật" cùng người viết.)
Sát rào Bá Huê Viên là Nam
Đầu Sư Đường, nơi thờ các vị Đầu Sư Thái Thượng Ngọc trên lầu, dưới nhà là nơi
hành chánh.
Đối diện với Đầu Sư
Đườnglà nhà Hội Vạn Linh, trước kia là Hội Thánh Ngoại Giáo (La mission
étragère) nên bên trong có thờ Tam Thánh vì Victor Hugo là Chưởng Đạo của Hội
Thánh Ngoại Giáo. Sau dùng làm nơi họp của Hội Nhơn Sanh. Nhà này có thời kỳ
thiết lập Viện Đại Học Cao Đài.
Bên kia đường Oai Linh
Thiên là Y Viện Hành Chánh. Cách rào Y Viện là Cơ quan Hàm phong. Đối diện với
Hàm phong là Cơ quan Phát thanh và phổ thông giáo lý gần cửa số 8 Nội ô.
Dọc đường Oai Linh Tiên,
kế nhà Hội Vạn Linh là Văn phòng Hội Thánh Tần nhơn, đối diện với Văn phòng này
là Văn phòng Ban Thế Đạo. Sát rào Ban này về phía Nam là Đạo Đức Học Đường,
ngôi trường xưa nhứt của Đạo.
Từ Ban Thế Đạo bước qua
đường Cao Thượng Phẩm là Văn phòng Đại Đạo Thanh Niên Hội, sát rào Hội này là
Văn phòng Trung Tông Đạo, kế là Bắc Tông Đạo, rồi văn phòng Hội Thánh Đường
Nhơn.
Đối diện với Bắc Tông Đạo
là Ban Lễ Nhạc, Ban Đồng Nhi.
Tại góc Ngã tư Oai Linh
Tiên và Cao Thượng Phẩm là Khách Đình (đúng ra là Trường Đình), nơi quàng quan
tài của Lễ sanh và Đạo hữu để cúng tế trước khi đem táng. Đối diện với Khách
Đình là Nhà Thuyền, nơi để Thuyền Bát Nhã và chỗ ở của nhân viên chèo thuyền và
đạo tỳ.
Trước Thuyền Bát Nhã có
câu đối :
1 . Vạn sự viết vô nhục thể thổ sanh hườn tại thổ
Thiên nhiên tự hữu linh
hồn Thiên tứ phản hồi Thiên
2 . Sanh tiền bổn vọng, phú quí công danh kim hà tại
Chơn linh thê sở, công hầu
cực phẩm bất đươngnhiên.
3 . Hữu thể sanh nhi từng tứ khổ,
Vô hình tử giả hoá tam đồ.
Chư Chức sắc trường trai
được chèo thuyền để độ thăng cả 92 ức nguyên nhân. Bởi lẽ , đời Thượng ngươn có
100 ức nguyên nhân xuống trần độ rỗi chúng sanh. Phật Tổ độ được 6 ức, Lão Tử
độ được 2 ức,còn lại 92 ức cho Tam Kỳ Phổ Độ.
Các nhân vật trong buổi
tối chèo thuyền là :
Tổng lái, là chơn linh Hắc
Sát Tinh, tượng trưng Bát Quái Đài.
Tổng mũi,là chơn linh Bạch
Hổ Tinh, tượng trưng Hiệp Thiên Đài.
Tổng Thương, là chơn linh
Huỳnh Long Tinh, tượng trưng Cửu Trùng Đài.
Tổng Khậu, tượng trưng cho
nhơn sanh, buồn vui thất thường.
12 Bá trạo, tượng trưng 12
con giáp của một lứa tuổi .
Bước qua đường nhỏ là Cơ
quan Phước Thiện , nơi giúp đỡ tương trợ người nghèo, bịnh tật, mồ côi, quan
quả cô đơn.
Kế bên là Dưỡng Đường
Phước Thiện, có nhiều người già nua ở đây nên còn gọi là Dưỡng Lão Đường. Sát
bên là Văn phòng Nữ phái Phước Thiện,cũng đồng nhiệm vụ giúp Đạo trợ đời như
Nam phái.
Có dự xem lễ chèo thuyền
mới thấy được sự trân trọng linh hồn con người của Đạo Cao Đài là nhường nào!.
V .
TRIẾT LÝ KIẾN TRÚC
Khi du khách đến thăm Toà
Thánh, cái lôi cuốn họ đầu tiên là hai lầu chuông và trống cao ngất. Một hệ
thống kiến trúc đền tháp nằm giữa hai khu rừng Thiên nhiên màu xanh biếc. Hệ
thống đền tháp này có giá trị về văn hoá lớn nhất ở miền Nam, bao gồm bờ thành,
đền điện, phủ đường, vườn cảnh…
Jeannine Anboyer trong
quyển "Mỹ thuật Viễn Đông" nhận định rằng : Người VN đã biết chọn
những cảnh thiên nhiên để xây những công trình kiến trúc thờ cúng của họ. (les
arts de l'Extrême Orient, Paris 1948, tr 83).
Một danh sĩ Nhật Bản cũng
cho rằng Toà Thánh được xây cất trên suối ngầm chảy qua 6 cửa gọi là "Lục
Long phò ấn" hay "Lục Long kết tụ". Vùng đất này rất phát triển
về Đạo pháp và nhân tài (Huỳnh Minh, Tây Ninh xưa và nay, Saigon 1972, tr 177).
Trước kia, Đức Lý giáng
đàn dạy :
"Lão khen Thái Thơ
Thanh, tưởng chư hiền hữu không thấy nữa. Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là
Thánh Địa (tức đất xây cất Toà Thánh hiện nay) : sâu hơn 300 thước như con sông
giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn làm như 6 con rồng đoanh châu.
Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là Lục Long Phò Ấn. Ngay miếng đất đó
đặng ba đầu : một đầu ra Giếng mạch Ao Hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên
kia".
Về Lục Long phò ấn, ta
thấy như sau : Viễn cảnh Toà Thánh, về phía Đông địa lý (cung Chấn) gối lên
giồng Sân Cu (Đất lành chim đậu), mặt trước phía Tây (cung Đoài) trông ra rạch
Tây Ninh. Phía tả (Nam) thanh long nước sông Cẩm Giang- Bến Kéo chảy cuộn
quanh. Phía hữu (Bắc) bạch hổ núi Điện Bà ôm vòng lại như cánh cung. Đó là điểm
kết long mạch sách gọi là hàm rồng. Phong thuỷ âm dương hội đủ.
Cận cảnh, hồ Động Đình
(bàu Cà Na) nước chảy không ngừng nghỉ (pháp luân thường chuyển) vào rạch Ao
Hồ, hướng Tây Nam (Càn). Trái phải rừng Thiên nhiên xanh biếc hài hoà cảnh trí.
Phía Bắc (cung Ly) suối Lâm Vồ. Phía Đông Bắc (cung Tốn) Suối Đá. Phía Đông
(Chấn) Suối cái chảy về Nam (Khảm) qua Đoạn Trần Kiều. Suối con lượn ra Giải
Khổ Kiều : bốn suối hợp sức tưới mát và bao quanh vùng Thánh Địa, kết tụ Lục
Long phò ấn.
Biểu hiện Tay Long
(dương), Tay H ổ (âm) không đối lập nhau mà còn hoà hợp lồng vào nhau nhiều
lần, viễn cảnh như cận cảnh. Bên trái (Thanh Long), bên phải (Bạch Hổ) thế sông
núi châu đầu vào nhau như hình móng ngựa (đại Kiết). Địa thế Lục Long phò Toà
Thánh đó, không đâu tốt đẹp bằng .
Đó là nhận xét về địa lý,
còn các cửa Nội ô Toà Thánh thì sao ?
Ta đem Bát Quái Cao Đài
(Trung Thiên Bát Quái) du di trước Đền Thánh. Để 12 cửa cài 8 cạnh phù hợp với
tám cạnh bát quái (giả sử ta bẻ 4 góc). Từ cửa số 2 qua cửa Chánh Môn hướng Tây
Bắc ( tức 2+3 =5) từ cửa số 4 qua cửa số 6 hướng Tây Nam (tức 4+6=10).
Bây giờ ta xét theo Dịch
lý. Cửa số 1 (cửa Hoà Viện) ngay hướng Bắc, nhìn lên Bát Quái Cao Đài là quẻ
Ly. Ly thuộc tâm hoả là CON MẮT, là minh (sáng suốt) để cai quản Đạo. Từ lúc
xây cất Đền Thánh, cửa Hoà Viện là cửa chính tấp nập nhứt. Đối xứng với cửa số
2 là cửa số 7 (nội ô) thuộc thuỷ, tẻ lạnh chỉ là cửa phụ (theo Trung Thiên Bát
Quái).
Hướng Tây Bắc theo Bát
Quái Cao Đài thuộc quẻ Khôn, Khôn thuần âm biểu tượng Đất là mẫu đạo, sanh hoá
và nuôi dưỡng vạn vật. Hướng Tây Bắc trùng cửa số 2 sung túc tấp nập và cửa
Chánh Môn. Cửa Chánh Môn xây theo Pháp Tam Quan. Không Quan (cửa bên trái) là
lối nhìn về lẽ không "Không tức thị sắc". Giả quan (cửa bên phải)
nhìn theo lẽ sắc :" Sắc tức thị không". Không sắc vào trung quan (cửa
giữa) tức Trung Đạo Trung Dung. Đó là cửa chính của Đạo Cao Đài. Cửa số 2+3 cửa
tam quan bằng 5. Theo Dịch Lý số 5 là số sinh đúng là cửa của Đức Mẹ (Khôn).
Hướng Tây Nam theo Bát
Quái Cao Đài thuộc quẻ Càn. Càn thuần dương biểu tượng Trời là Thiên Đạo phụ
đạo điều khiển vạn vật. Hướng Tây Nam trùng cửa số 4 sung túc tấp nập lúc chợ
Ngã Năm phồn thịnh và cửa số 6 khai thông về nam, nơi sinh hoạt của nhân sanh.
Cửa số 4 cửa số 6 bằng 10. Theo Dịch Lý số 10 là số thành đúng vào cung Càn. Mẹ
sinh, Cha đưa con đến thành tựu.
Những điều trên thể hiện
được mối quan hệ hài hoà giữa Trời Đất Người (Thiên Địa, Thiên Nhân, Nhân Địa).
Tắt một lời, các cửa Đền Thánh chỉ thể hiện qua ba hướng : Bắc Ly, Tây Bắc Khôn
và Tây Nam Càn đúng với Thiên Thơ nên phát triển không ngừng.
Đó là truyền thống kiến
trúc cổ VN theo lối kiến trúc cảnh vật hoá (Architecture paysagée).
Kiến trúc đền tháp và phủ
đường trong khuôn viên Nội ô Toà Thánh không vươn lên cao mà dàn trải theo
chiều Bắc Nam. Theo quan niệm hướng Bắc là nơi ngự của Đức Chí Tôn "Cao
như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng". Thế nên Toà Thánh không xây dựng ngay
trung tâm nội ô mà kiến trúc sát về phía cửa số 1 phương Bắc. Những công trình
lớn nhỏ kéo dài về phía Nam như Giáo Tông Đường, Nữ Đầu Sư Đường, Hiệp Thiên
Đài, Hộ Pháp Đường, Hội Thánh Ngoại Giáo, Nam Đầu Sư Đường vv…theo quan niệm
"Đài tại Nam phương Đạo thống truyền". Những kiến trúc này cách nhau
bằng những hàng rào và cổng. Mỗi dinh thự có chức năng khác nhau tạo nên những
không gian ấm cúng và tôn nghiêm.
Các kiến trúc ở đây mang
tính chất tổng hợp giữa Đạo (Religion) và Đời (Profane), giữa thần linh và con
người mà con người là chủ thể của kiến trúc và thiên nhiên ở đây. Theo quan
niệm chung của các tín hữu "Đời không Đạo không sức, Đạo không Đời không
quyền".
Vòng thành của Toà Thánh
hình vuông dài độ 4000 mét, gồm một Chánh môn và 12 cửa. Nhìn cửa Chánh môn
thấy rõ nét kiểu kiến trúc Đông Tây kết hợp. Trước sau và hai bên của Đền Thánh
là các ngôi tháp của các vị Chức sắc Đại Thiên phong như tháp Hộ Pháp, Thượng
Phẩm, Thượng Sanh nằm cạnh cửa Chánh môn. Tháp Giáo Tông ở ngay sau Bát Quái
Đài , còn hai bên là tháp vị Đầu Sư Thái Thượng Ngọc. Các kiến trúc tháp âm
phần có ngôn ngữ riêng biệt và ý nghĩa sâu xa của nó về mặt tôn giáo. Âm phần
này là cõi sống của người chết, các Chức sắc qui vị này luôn luôn hiện hữu bên
cạnh các người còn sống. Các kiến trúc hình tháp đỉnh có lộng kiếng đó, vì thế
nó không phải là những nỗi tang tóc mà là niềm vinh dự cho chư tín đồ.
Toà Thánh chịu ảnh hưởng
ít nhiều kiến trúc Trung Hoa, phương Tây và Ấn Độ. Kiến trúc tuy thể hiện sự du
nhập của phương thức kiến trúc và xây dựng nước ngoài, nhưng giá trị truyền
thống văn hoá vẫn được bảo tồn và bị địa phương hoá đến nỗi người ta không còn
phân biệt đâu là Đông, đâu là Tây.
Mái lợp cuả Toà Thánh uốn
cong nhẹ, mái kép kiểu "trùng thiềm điệp ốc" như các kiến trúc của ta
vào đầu thế kỷ 19. Hai lầu trống chuông cao 27 mét như tháp chuông nhà thờ. Ở
Đền thờ Phật Mẫu chỉ một tháp, ta thấy rõ ảnh hưởng phương Tây. Ngay giữa mặt
tiền trên nóc có hình Đức Di Lạc thể hiện tính triết lý của Đạo Phật phương
Đông. Nhất là các cột dưới bao lơn, tạc hình rồng và hoa sen, tượng trưng Long
Hoa Đại Hội. các tượng hình và hoa văn chuộng nét mềm mại quanh co của các nghệ
sĩ dân gian.
Rắn 7 đầu (Thất đầu xà)
ảnh hưởng cấu trúc Đế Thiên Đế Thích (Angkor Thom, Angkor Vat). Người được cử
đi tham quan Đế Thiên về xây dựng Toà Thánh là Đầu sư Nguyễn Ngọc Thơ. Những
con người Naga này bị địa phương hoá thành Thất tình : Hỉ, Nộ, Aùi, Ố, Ai, Lạc,
Cụ để phù hợp với việc giáo hoá về Đạo pháp cho chúng sanh.
Trên nóc Bát Quái Đài tạc
hình 3 vị Thần của Đạo Bà La Môn : Brahma vị Thần sáng thế, Christna (tức
Vishnou) vị Thần bảo tồn và Shiva vị Thần phá hoại để xây dựng cái mới. Nét đắp
vẽ sinh động và vút lên trời cao.
Trên nóc Cửu Trùng Đài là
một vòm tròn (Nghinh phong đài), kiểu kiến trúc Hồi giáo, nhưng bị địa phương
hoá, phía trên có tạc hình con long mã (con thú đầu rồng mình ngựa, khi nó xuất
hiện sẽ có Thánh nhân ra đời). Con Long mã chạy về hướng Tây (hướng mặt tiền
của Toà Thánh), quay đầu về hướng Đông, mang một ý nghĩa huyền bí về tôn giáo :
Đạo xuất tự phương Đông, mang truyền bá ở phương Tây và gốc Đạo vẫn ở phương
Đông.
Hai bên sau Toà Thánh còn
có hệ thống nhà ngang (lang) là Đông lang và Tây lang, tạo nên không gian mở
rộng cần thiết cho sinh hoạt đạo sự và cũng phù hợp với sinh hoạt của con người
vùng nhiệt đới.
Bên cạnh Đền thờ và các
ngôi tháp đều có vườn hoa cây cảnh, Bá huê góp phần quan trọng vào ngôn ngữ
kiến trúc truyền thống thể hiện quan niệm vũ trụ Á Đông. Tất cả các kiến trúc
trong Nội ô Toà Thánh đều được thiết kế, qui hoạch và thi công có chuẩn định về
trình độ mỹ thuật và kỹ thuật đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Ông Henri
Regnault trong Hội nghị Thần linh học tại Lausane, Thuỵ Sĩ (1948) phát biểu :
"Những vị nào có dự Hội nghị Assise, Haywards Henth, Bruxelles thì đã nhận
được cuốn di bút của M.Gobron nói về lịch sữ và giáo lý Đạo Cao Đài. Cuốn sách
đó có nhiều tranh ảnh. Điều đó cho thấy rằng trong tôn giáo này, nghệ thuật có
một địa vị rất quan trọng. Kiến trúc trong và ngoài Toà Thánh là một mỹ thuật
đáng được chú ý đặc biệt"
CHƯƠNG III
Ý NGHĨA THỜ THIÊN NHÃN (TƯ GIA)
1 .
ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ là gì ?
tức là Đại ân xá kỳ ba, từ
khi có loài người đến giờ.
a) NHẤT KỲ PHỔ ĐỘ : tức nhứt thiết Long Hoa
thiên khai tý hội, các vị Thánh nhân sau đây ra đời cứu thế.
- Nhiên Đăng Cổ Phật
(Thích Giáo)
- Thái Thượng Đạo Tổ ( Đạo
Giáo)
- Văn Tuyên Đế Quân (
Thánh Giáo) theo Kinh Lễ.
b) NHỊ KỲ PHỔ ĐỘ : tức nhị thiết Long Hoa
, Thiên khai Sửu hội. các vị sau đây ra đời :
- Thích Ca Mâu Ni (Thích
giáo)
- Lão Tử ( Lão giáo)
- Khổng Tử (Thánh giáo)
b) TAM KỲ PHỔ ĐỘ tức tam thiết Long Hoa
Thiên khai Huỳnh đạo hay dần hội.
Ba vị sau đây đại diện cho
Tam Giáo : Lý Thái Bạch (Tiên), Quan Thánh Đế Quân (Thánh), và Quan Âm Bồ Tát
(Phật) gọi là Tam Trấn.
2 .
CAO ĐÀI LÀ GÌ ?
tức tên gọi riêng Đại Đạo
Tam Kỳ Phổ Độ, đài mà nơi Chí Tôn hằng ngự, cao nhất trong ba đài : Bát Quái
Đài, Cửu Trùng Đài,và Hiệp Thiên Đài nên gọi là Cao Đài.
Có thi rằng :
Linh tiêu nhất pháp thị Cao Đài
Đại Hội quần Tiên thử ngọc giai
Vạn Trượng hào quang tùng thử xuất.
Cổ danh hữu cảnh LẠC THIÊN THAI.
Nghĩa là : Nơi Linh Tiêu
Điện có một cái tháp tên gọi Cao Đài quần Tiên thường đến Đại Hội, hào quang
muôn trượng nơi ấy chiếu ra, mà tên cũ là LAÏC THIÊN THAI.
CÁCH XẾP ĐẶT TRÊN THIÊN BÀN
Tân Kinh viết "Lập vị
Thượng Đế thì phải lựa nơi nào cho tinh khiết tốt hơn hết là giữa nhà lập trang
Thờ cho cao và treo màn cho khuất chỗ thờ phượng" xếp đặt theo hình chữ
chủ ( ) là chúa tể 12 phẩm vật tượng trưng cho thập nhị khai thiên.
Thích chữ :
1) Thiên Nhãn,
2) Đèn Thái cực,
3) trái cây,
4) Bông,
5) Nước trà (để bên phải
ấy là âm),
6, 7, 8 ) 3 ly rượu,
9) Nước trắng (để bên trái
ấy là dương)
10 và 12) Hai cây đèn,
11) lư hương.
Ý NGHĨA
THÁNH TƯỢNG THIÊN NHÃN
Người đầu tiên được dạy
thờ Thiên Nhãn là Ngài Ngô Minh Chiêu ( từ năm 1921) mãi đến năm 1925 Chí Tôn
mới giải thích cho quý ngài Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư… như sau :
Nhãn thị chủ tâm
Lưỡng quang chủ tể
Quang thị thần
Thần thị thiên
Thiên giả, ngã dã
Nghĩa là : Mắt là chủ cái
tâm con người, hai ánh sáng là chúa tể (vì hướng dẫn mọi sự vật) mà ánh sáng là
Thần, Thần là Trời mà Trời là Ta vậy. Nhớ thờ con mắt trái thuộc dương mà dương
là Trời.
Hiện nay hai loại tượng
được thờ là tượng Ngũ Chi và tượng Tam Trấn. Thờ tại tư gia như sau :
TƯỢNG NGŨ CHI XẾP
ĐẶT NHƯ SAU
THIÊN NHÃN
LÃO TỬ - - - - - -
- - - THÍCH CA - - - - - - KHỔNG THÁNH
QUAN ÂM - - - - -
- - - THÁI BẠCH - - - - - QUAN THÁNH - -
- - - - - - - - -
- - - - - - - - -- GIÊ SU - - - - - - - - - - - - - - - - - - - -
- - - - - - - - -
- - - - KHƯƠNG THƯỢNG - - - - - - - - - - - - - - -
- - - - - - - - -
- - - - - - GIÁO TÔNG - - - - - - - - - - - - - - - - - -
+ TƯỢNG TAM TRẤN (
có 3 hàng chữ Hán)
THIÊN NHÃN
QUAN . . . THÁI .
. . . QUAN
ÂM . . . . . BẠCH
. . . THÁNH
BỒ . . . . . . KIM
. . . . . . ĐẾ . ..
TẤT . . . . .TINH
. . . . . QUÂN
A) TAM GIÁO là : Thích Ca, Khổng Thánh,
Lão Tử.
- THÍCH CA : tức Thái tử
Sĩ Đạt Ta, Giáo chủ Phật Giáo đạo, phát sanh ở Ấn Độ. Ngài giáng sanh lối 503
trước Tây Lịch, có vợ có con, xuất gia năm 29 tuổi và đắc đạo năm 35 tuổi viên
tịch tại xứ Câu Thi Na thọ 84 tuổi.
- LÃO TỬ tức Lý Nhĩ
(570-490 TTL) người đồng thời với Khổng Tử, Giáo Thuyết Ngài nằm trong bộ Đạo
Đức Kinh,vì thế mới gọi Ngài là Giáo Chủ Đạo Giáo.
- KHỔNG TỬ tức Khổng Khâu,
hiệu là Trọng Ni sanh năm 551 TTL, châu du khắp các nước trên đất Trung Hoa, sau
ngài về dạy 3000 môn đệ chỉ có 72 người xuất sắc, rồi biên soạn Kinh Xuân Thu
và san định Kinh Thi.
b) NGŨ CHI là : Phật Đạo (Thích Ca),
Tiên Đạo (Thái Bạch) Thánh Đạo (Giêsu) Thần Đạo (Khương Thượng), Nhơn Đạo (Giáo
Tông). Theo hàng dọc.có người cho Phật đạo là :
- QUAN ÂM là một vị Bồ Tát
nhiều lần hiện thân trong cõi Ta bà (trần gian này) để tận độ chúng sanh, cần
Ngài cứu độ thì tụng kinh Cứu Khổ.
Trong các lần hiện thân
quá khứ Ngài có khi làm Phật, khi Bồ Tát, Duyên Giác, Thinh văn, khi làm Tiên,
Thần, làm Quốc Vương, Đại Thần, Trưởng Giả, Tỳ Kheo, Cư Sĩ nghĩa là thiên biến
vạn hoá…
- QUAN THÁNH tức Quan Võ
tự Vân Trường sanh vào thời Đông Hán dưới triều Vua Hoài Đế, người tỉnh Sơn
Đông (Trung Hoa), Ngài kết nghĩa với Lưu Bị và Trương Phi dựng cờ dẹp giặc
Huỳnh Cân.
Sau làm trấn thủ Kinh Châu
, bị thất thủ, Ngài không hàng nên bị bắt và bị giết ngày 18-2. năm Kiến An thứ
24, thọ 58 tuổi.
- LÝ BẠCH tự là Thái Bạch
(701-762) Đại thi sĩ đời Đường (Trung Hoa) hiệu là Trường Canh, Lý Trích Tiên,
Ngài rất thông minh, lên 5 tuổi đã đọc lục giáp, lên 10 thông hiểu kinh thi,
thư, và thường xem sách bách gia, lên 15 tuổi thích kiếm thuật. Ngài là người
hào hiệp, trọng người, khinh tài, nhẹ phú, thích làm hiệp sĩ.
- GIÊSU tức Jésus Christ
là giáo chủ Gia tô giáo sanh vào năm 749 niên hiệu cổ La Mã tại thành Bétnléem
trong 1 máng cỏ. Khi chúa ra đời thì bên phương Đông 3 tu sĩ thấy xuất hiện một
vì sao chói sáng nên tiến đến xứ Judée (Do Thái) gặp chúa rồi trở về phương
Đông, nhưng vua Hérode ra lịnh tìm giết Ngài, sau Ngài bị Đại Giáo Sĩ Caiphe
lên án tử hình trên thập tự giá giữa hai tên ăn trộm.
- NOURN DINH nguyên họ tên
là Nour…el….Din…Mahmoud người Hồi giáo sinh năm 1117 làm vua Thổ Nhĩ Kỳ
(1146-1173). Một trong những địch thủ đáng kinh sợ của quân Thập tự chinh. Khi
chiếm cứ Damas thủ đô nước Syrie (1155) ông đã mở ra con đường tới Ai Cập. Nhờ
đó tướng Saladin chiến cứ thủ đô Le Caire (1169)
Bên Long vị các Thánh Tử
Đạo Nam phái nơi Đền Thánh có long vị Noum Dinh được truy thăng là Thánh Tử Đạo
Cao Đài, đại diện cho Hồi giáo trong kỳ ba phổ độ này.
- KHƯƠNG THƯỢNG tự Tử Nha,
sanh vào khoảng đời Tổ Cảnh nhà Thương (Ngài học đạo với Đức Ngươn Thỉ Thiên
Tôn tại núi Côn Lôn hơn 40 năm khi xảy ra Thương Châu dấy động, Ngài hội chư
hầu 800 trấn tại Sông Mạnh Tân phạt Trụ, rồi treo ấn từ quan về non tu luyện.
Tương truyền khi phạt Trụ, Ngài dâng lịnh lập bảng Phong Thần.
2) ĐÈN THÁI CỰC
Đèn Thái Cực được Đấng Chí
Tôn dạy như vầy :"Trước khi chưa phân trời đất thì khí hư vô bao quát càn
khôn, sáng soi đầy trong vũ trụ,nó là một trung tâm điểm tức là đạo. Đạo ấy mới
phát sanh ra thái cực, hoá lưỡng nghi, lưỡng nghi là âm dương (động với tịnh)
có âm dương rồi mới hoá sanh muôn vật.
"Ngọn đèn các con thờ
chính giữa, đó là giã mượn làm tâm đăng. Phật Tiên truyền đạo cũng do đó các
con không thànnh đạo cũng tại đó, nó ngay chính giữa không lai động, xao xuyến
chiếu thấu khắp cả càn khôn.
"Mặt nhựt, mặt nguyệt
, có lúc sáng lúc tối, chớ nó thì giờ khắc nào cũng tỏ rạng không lu mờ, nhơn
vật nhờ đó mà sanh,nhờ đó mà thành, nhờ đó mà an vui, trời đất nhờ đó mà mà an
ninh trường cửu, người tu hành nhờ đó mà tạo Phật tác Tiên, siêu phàm nhập
Thánh, hễ chinh bên tả thì tả đạo, xê qua bên hữu gọi là Bàng Môn, ngày chính
giữa là chính Đạo.
"Các con nên tường lý
ấy trong tâm, tâm an tịnh vô vi bất động là chánh đạo; tâm còn tính mưu thần
chước quỷ độc ác, hiểm sâu ấy là Bàng môn Tả đạo chớ chi các con".
3 VÀ 4 TRÁI VÀ BÔNG :
Tượng trưng cho bốn mùa ,
trái cây tượng trưng cho ngũ vị đối với tiên thiên ngũ khí, còn biểu hiện cho
người tu đắc đạo; bông tượng trưng cho xanh tươi tốt đẹp, chỉ về tinh là hình
thể con người. Năm sắc bông tượng trưng cho ngũ hành và tinh hoa trên thế giới
tức ngũ châu : Á châu, Aâu châu, Mỹ châu, Phi châu, Đại dương châu. Thế nên,
Cao Đài giáo không phân biệt lãnh thổ chủng tộc, vì tất cả là con chung của
Thượng đế.
5 VÀ 9 NƯỚC CÚNG : âm dương
- a) Nước trà : ( số 5) để bên hữu ấy
là âm.
Nước âm là nước trong lòng
đất, biển cả, sông rạch, suối nguồn, chúng sanh nhờ nước để uống mà sống.
Nước trà tượng trưng cho
thần tức là linh hồn khi cúng rót đúng tám phân, chỉ bát hồn vận chuyển nơi Bát
Cảch cung của đức Phật Mẫu.
- b) Nước trắng : ( số 9) để bên tả ấy là
dương.
Nước dương là nước trên
trời sa xuống, tinh khiết do đấng Thượng Đế ban cho, nếu nguồn, nước âm cạn
phải cần nước dương chan rưới. Trời Đất tương hoà, âm dương tương hiệp loài
người mới thịnh vượng vững bền.
Nhớ nước trắng không được
nấu, nếu nấu sôi thì hết dương, tuyệt cơ sanh hoá ( Thánh huấn số 1 NCPS/TH)
- 6 , 7 VÀ 8 - 3 LY RƯỢU
Rượu tượng trưng cho khí,
tức hư vô chi khí. Ba ly rượu tượng trưng cho 3 cõi : hạ giới, trung giới và
thượng giới, rượu trong ly chỉ rót 3 phân tượng trưng cho bậc tu hành; hạ thừa,
trung thừa, và thượng thừa và 3 hạng người là hạ lưu, trung lưu và thượng lưu.
Khí là trí não tương hợp với tinh và thần gọi chung là tam bửu : Tinh, Khí,
Thần để cúng hàng ngày biểu hiệu cho cơ hiệp nhứt. Có vậy con người mới mong tu
hành đắc đạo đặng.
- 10 VÀ 12 - HAI CÂY ĐÈN
Gọi là lưỡng nghi quang,
tượng trưng cho ánh sáng nhựt nguyệt soi khắp Càn Khôn vũ trụ,cũng soi thấu
lòng chư môn đệ, quét sạch tà tâm để hướng về thái cực.
- 11 - LƯ HƯƠNG Năm cây hương tượng trưng
cho "tham thiên (3) lưỡng địa (2) bao gồm cả âm dương tức 3 x 3 = 9 là
thái dương và 3 x 2 = 6 là thái âm.chín lẻ thuộc dương, sáu chẳn thuộc âm bên
phải. Khi dâng lễ phải đốt đủ năm cây hương,tức đủ âm dương thay Càn Khôn.
Khi thắp 3 cây nhang hàng
trong gọi là án tam tài với ý nghĩa.
- Vũ trụ có tam tài là :
Thiên (Trời), Địa (đất), Nhơn ( người).
- Trời có tam ngươn là :
Thượng, trung và hạ ngươn hoặc : Nhựt, nguyệt, tinh.
- Đất có tam báu là :
thuỷ, hoả, phong (gió)
- Người có tam bửu là :
tinh, khí, thần
Năm cây hương còn tượng
trưng cho năm bậc tiến hoá của người tu hành.
- a- GIỚI HƯƠNG : Người giữ
5 giới cấm, không chê kẻ khác, không hung dữ, không giận, không tham…
- b. ĐỊNH HƯƠNG : người tu
thiền, giữ lòng tự nhiên không phiền luỵ vì thiện ác ở đời, tâm chẳng loạn
động, thiền định.
- c. HUỆ HƯƠNG : Người đắc
trí huệ, không chạy theo danh lợi, không sa vào thất tình, tâm sáng suốt phân
biệt thiện ác.
- d. GIẢI THOÁT HƯƠNG
Người được giải thoát không nghe theo bọn tà thuật, chăm lo hành thiện.
- e. TRI KIẾN GIẢI THOÁT
HƯƠNG : Người tự biết mình, tâm tự tại, thấy bản tánh Như Lai của mình, Đề bạt
Bát nhã Tam muội (chánh thọ).
Ngũ hương còn gọi là ngũ
phần pháp thân hương. Năm sự thân lành hiệp lại làm cái pháp thân. Ngũ hương
còn là năm thứ hương thơm để dâng lễ : đàn hương, trầm hương, đinh hương, uất
kim hương, long não hương.
CÁCH HIẾN LỄ
Cách hiến lễ tức việc cúng
kiến Đấng Chí Tôn và các Đấng, mỗi ngày cúng 4 lần gọi là tứ thời.
Thời Tý từ 23 giờ (đêm)
đến 01 giờ (khuya).
Thời Ngọ từ 11 giờ trưa
đến 13 giờ (chiều)
Thời Dậu từ 17 giờ(tối)
đến 19 (tối)
Thời Mẹo từ 05 (sáng) đến
07(sáng).
1) TẠI SAO PHẢI CÚNG TỨ THỜI ?
a) Thời Tý : Thời cực âm
sanh dương, là thời ngươn khi của Đức Chí Tôn phát khởi do nhứt điểm sanh dương
chi Khí, vận chuyển càn khôn hoá sanh vạn loại nên dạy Dâng Rượu. Nên hiến lễ
giờ nầy cho khí phách người được mạnh mẽ, trí óc sáng suốt.
b) Thời Ngọ : Thời ngươn
khí của Chí Tôn cực thịnh, đầy đủ dương quang soi sáng khắp vũ trụ nên dạy Dâng
Rượu. Nên hiến lễ giờ nầy ta hưởng được khí sanh quang của Đức Chí Tôn.
c) Thời Dậu : Thời ngươn
thần của Đức Chí Tôn giáng hạ và tịnh dưỡng âm dương giao thời, thuỷ hoá ký tế,
vạn loại yên tĩnh, nên dạy Hiến Trà , ta hiến lễ giờ nầy để hàm dưỡng chơn thần
thanh tịnh.
d) Thời Mẹo : Thời ngươn
thần của Chí Tôn phát khởi biến hoá,thuỷ hoả ký tế vạn loại hữu sanh, nên dạy
Hiến Trà. Nên hiến giờ nầy để hưởng quyền lực của Chí Tôn cho chơn thần con
người được khang kiện.
2)
TẠI SAO PHẢI LẠY ?
Theo Thánh ngôn dạy thì
lạy là tỏ bề ngoài (thể pháp) để kính trong lòng đối với các đấng thiêng liêng
(bí pháp). Pascal nói : "Muốn có đức tin phải quỳ xuống mà đọc kinh"
- a) Chấp hai tay lạy là sao ?
Tả là nhựt, hữu là nguyệt vị chi âm dương, âm dương
hiệp nhứt, phát khởi càn khôn, sanh sanh hoá tức là đạo. bắt ấn tí là kết thành
quả, xoè là kết thành hoa (bông).
Bắt ấn tý : là ngón cái
của bàn tay trái chỉ vào góc ngón tay áp út, bàn tay phải bao ngoài, ngón cái
của bàn tay phải chỉ vào góc ngón trỏ tay trái (dần), ám chỉ sự chủ tâm kính
trời, tức "Nhân sanh ư tý, đạo khai ư dần".
Nếu tầm nguyên thì khi Lão
Tử dạy đạo Tiên bảo chắp hai tay kiết nhị, như bông sen búp, khi lạy thì xé ra,
hai tay úp xuống đất cúi đầu lạy ba lạy gọi là khế thủ. Khi Thích Ca dạy đạo
thì dạy chấp tay hiệp chưởng hoa khai, nghĩa là khi lạy thì ngửa hai bàn tay ra
để xuống đất mà cúi đầu , gọi là hoà Nam. Khi Khổng Tử dạy đạo Thánh thì cung
tay đến mày mà lạy gọi là Phủ Phục. Còn nay Cao Đài giáo chấp tay thành quả
sen, hai tay là âm dương tức Lưỡng Nghi, khi lạy bàn tay úp xuống, hai ngón tay
cái gát lên nhau biến sanh Tứ Tượng, tám ngón còn lại là chỉ Bát Quái, Bát Quái
biến sanh càn khôn vũ trụ. Thế nên Tam Kỳ Phổ Độ là độ rỗi hết cả 92 ức nguyên
nhân về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống chẳng bỏ sót một ai.
b) Lạy Tiên, Phật chín lạy
là sao ?
Là lạy Đấng Cửu Thiên khai
hoá, còn lạy Thầy 12 lạy là thập nhị khai thiên là thầy, chúa tể cả càn khôn
thế giới nắm trọn thập nhị thời thần trong tay.
Mỗi lạy phải niệm câu chú
của Thầy (trừ những bài Kinh có câu niệm riêng) : Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại
Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam Mô (NAMAH) là qui y,
qui mạng, quyết chí dâng theo.
Cao Đài thuộc Nho giáo vì
có câu : "Đầu thượng viết Cao Đài".
Tiên Ông là ông Tiên thuộc
Lão Giáo.
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát là vị
Bồ Tát lớn, thuộc Thích giáo.
Câu niệm này đã chỉ rõ sự
qui nguyên Tam Giáo.
3) TẠI SAO MẶC ĐỒ TRẮNG ?
Vì Cao Đài là một tôn giáo
tổng hợp mà màu trắng là tổng hợp của 7 màu : đỏ, cam, vàng, xanh, lam,chàm,
tím. Trong Thích giáo chí tâm kinh có câu: Thổ khí thành hồng nhi nhứt trụ xanh
thiên : hà hơi thành mống ( 7 màu) làm trụ chống vững cõi trời.
Màu trắng nhắc nhở mọi tín
đồ, luôn luôn phải trau sửa tâm tánh cho thanh khiết và trong trắng.
Riêng các Chức sắc Cửu
Trùng Đài thì mặc Thiên phục màu Tam giáo : vàng (Thích giáo), xanh (Lão giáo),
đỏ (Thánh giáo).
CHƯƠNG IV
NGÔI THỜ ĐỨC CHÍ TÔN
Trong Tòa
Thánh, trên Cung Đạo, có Bát Quái Đài xây thành 12 bậc, tượng trưng cho Thập nhị
Khai thiên. Từ lúc giáng trần, Đức Chí Tôn ngự tại Tòa Thánh. Nếu có nơi nào
nói là Ngài giáng, đó chỉ là phân tánh của Ngài do lời cầu khẩn của nhơn sanh
mà thôi.
Trên mặt Bát Quái có vẽ
các quẻ và tạo quẻ Càn Khôn tượng trưng cho sự thống nhất các tôn giáo trên
hoàn vũ (vạn thù qui nhứt bổn) , ở giữa quả Càn Khôn vẽ thiên Nhãn (con mắt
trái mở rộng).
Đức Chí Tôn dạy việc thờ
Ngài như sau :
"Một quả Càn Khôn như
trái đất tròn quay. Bề kính tâm (đường kính) 3,33 mét, sơn màu xanh da trời.
Cung Bắc Đẩu và tinh tú vẽ lên quả Càn Khôn,. Thầy kể Tam thập lục thiên, Tứ
Đại Bộ Châu ở không không trên không khí, còn Thất thập nhị Địa, tam thiên Thế
giới đều là tinh tú (hành tinh). Tính lại 3072 ngôi sao, liệu vẽ trên đó cho
đủ, trên sao Bắc Đẩu vẽ con Mắt Thầy. Đáng lẽ quả Càn Khôn phải bằng pha lê,
đúc bên trong một ngọn đèn thường sáng. Aáy là lời cầu nguyện rất quí báu cho
cả nhơn loại".(Đàn cơ đêm 17-6-1926)
Xem thế, quả Càn Khôn
không chỉ là trái đất mà gồm cả Thiên cầu (Quả Càn Khôn chỉ tạc thờ tại Tòa
Thánh, còn các Thánh Thất thờ Thiên Nhãn). Các tinh tú nói trên xa gần khác
nhau, nhưng trong đêm mắt ta thấy như ghi trên một hình cầu màu xanh rất lớn (
Do hiệu quả của phép phối cảnh.), đó là Thiên cầu, vì người ở nước VN (gần địa
xích đạo) nên thấy sao Bắc Đẩu nằm ngang trên đường chân trời (tức ngang tầm
mắt) chớ không phải Thiên Nhãn vẽ trên địa xích đạo.
Còn ngọn đèn thường sáng,
đó là giả mượn Tâm đăng, Phật Tiên truyền Đạo cũng do đó, nhân loại thành Đạo
cũng ở đó. Ngọn đèn Thái Cực để ở ngay chính giữa Thiên cầu, không lay động,
không xao xuến, chiếu soi khắp cả Càn Khôn. Mặt trời, Mặt trăng có lúc sáng lúc
tối (đối với con người) chớ đèn Thái Cực, nơi Thầy ngự thì giờ khắc nào cũng tỏ
rạng. Nhơn vật từ đó mà sanh, từ đó mà thành, nhờ đó mà an vui. Vũ trụ nhờ đó
mà tạo Phật tác Tiên, siêu phàm nhập Thánh. Đó há không phải là lời cầu nguyện
rất quí báu cho cả nhơ loại hay sao ?
Mặt khác, ngọn đèn cũng
biểu trưng nguồn sáng nuôi sống nhơn loại. Đèn tắt là thời kỳ mạt kiếp tới.
Khoa học nhận vũ trụ hiện đang ở thời kỳ nở ra (période de dilatation). Mọi vật
đều dãn ra cùng một nhịp (Đường dài nào trong vũ trụ cũng nở thêm chừng
0,000.000.01% mỗi năm). Do đó, các tinh tú ngày càng xa nhau, đến một lúc nào
đó, điều kiện sống không còn, vạn loại sẽ đến thời kỳ mạt kiếp. Cho nên người
tín đồ Cao Đài luôn luôn thắp sáng (sưởi ấm) trên Thiên Bàn để cầu nguyện cho
nhơn loại trường tồn.
Tại sao Thiên Nhãn tượng
trưng cho Thượng Đế ?
Đức Chí Tôn dạy như vầy :
"Chưa phải hồi các con biết đặng tại sao vẽ Thánh tượng con Mắt mà thờ
Thầy, song Thầy nói sơ lược :
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quang chủ tể,
Quang thị Thần,
Thần thị Thiên
Thiên giả ngã giả"
Nghĩa là :
Mắt là chủ cái Tâm
Hai yếng sáng trong mắt là chủ tể,
Yếng
sáng là Thần,
Thần
là Trời
Trời
là TA vậy.
Đức Chí Tôn lại dạy :
"Từ ngày Đạo bế, tu thì nhiều mà người đắc Đạo rất ít
vì Thần là cơ mầu nhiệm mà lại bị
hiếm. Nay Thầy đến hườn nguyên Tam Bửu cho các con đắc đạo. Các con hiểu thần
cư tại nhãn, thì nên bố trí cho đạo hữu các con hiểu. Nguồn Tiên Phật yếu nhiệm
tại đó".
Cổ thư có nói : Mắt là nơi
chứa Thần. Ngoài con Mắt ra không thể chỉ Thần ở đâu cả, nếu không thì Thần
người không chỗ nào là không có Thần. Lông tóc không có Thần thì xỉn nháp mà
vàng, răng không Thần thì không sáng bóng, tiếng nói không có Thần thì không
thể hài hòa, móng tay chân có Thần mới sáng sủa". (Hải Thượng tập Đạo Lưu
Dư Vận, Saigon, Khai Trí 1972).
Như vậy, thờ Thiên Nhãn
(tức thờ Thần) là cách diễn đạt bí pháp muốn đắc đạo phải có Thần mới hườn
nguyên với đệ nhị xác thân mà nhập cảnh Thiêng liêng hằng sống.
Đức Chí Tôn đã dạy :
"Con Mắt là gốc ở Tâm". Dân Pháp cũng nói "Con Mắt là kiếng soi tâm" (L'oiel est miroir
du coeur).
Như vậy, con Mắt tượng trưng cho lương tri, lương tâm
(conscience). Cả vạn vật hợp lại thành khối đại lương tri, đại lương tâm
(conscience universelle) tượng bằng Thiên Nhãn, nên thờ Thiên Nhãn là thờ Đức
tin của nhân loại.
Trong Tứ thời lễ bái, lúc
nào người tìn hữu cũng nhìn thẳng lên Thiên Nhãn để soi tâm mình mà kiềm chế
tục tánh tội lỗi vì "Hoàng Thiên hữu nhãn" (Trời cao có mắt).
Trong Tam giáo Thích, Lão,
Nho đều lấy tâm tánh giáo hóa con người. Tâm tánh có biết được là do
"Lưỡng quang chủ tể" tức cửa ngõ tâm hồn chủ đạo. Thế nên,
Phật giáo dạy : Minh tâm
kiến tánh
Lão giáo dạy : Tu tâm
luyện tánh
Nho giáo dạy : Tồn tâm
dưỡng tánh
Trong Kinh Dịch cũng có
câu : "Nhất nhơn chi tâm, tức Thiên Địa chi tâm, nhân vật chi lý, tức vạn
vật chi lý". (Cái tâm của mỗi người là cái tâm của Trời Đất, cái lý của
mỗi người là cái lý của vạn vật).
Phải nhận rằng Đạo Cao Đài
liên quan nhiều với các truyền thuyết và tôn giáo Trung Hoa, nhưng không có
tham vọng làm y như người phương Bắc mà giản dị nó vừa tầm vóc với mọi sắc dân.
Người đệ tử Cao Đài có ước vọng tôn giáo mình sẽ rộng hơn Di Hòa Viên và dài
hơn Vạn Lý Trường Thành.
Dưới Bát Quái Đài có cái
hầm gọi là Hầm Tàng Bửu Khánh, tượng trưng nới chứa châu báu để cứu khổ nhơn
sanh.
Trên nóc Bát Quái Đài thờ
3 ngôi Thần của Đạo Bà La Môn (Ấn giáo) là Brahma, Siva (Shiva). Christna (hay
Vishnou) tượng trưng cho Tam Thanh : Thái Thanh, Thượng Thanh và Ngọc Thanh, ba
phái trong Đạo Cao Đài. Ba Thần vâng lịnh Đức Thượng Đế điều khiển ba ngươn,
công thành quả mãn nên đắc Phật vị.
- Phật Brahma, hướng mặt
về phía Tây, điều khiển Thượng ngươn tức ngươn Thánh Đức.
- Phật Siva hướng mặt về
phía Bắc, điều khiển Trung ngươn tức ngươn Tranh đấu, như lời cầu khẩn Đức Chí
Tôn (vì Thượng Đế ngự tại ngôi Bắc Đẩu) tế độ nhơn sanh thoát vòng trầm luân.
- Phật Christna, hướng mặt
về phía Nam, điều khiển Hạ ngươnt tức ngươn Bảo Tồn.
Đức Hộ Pháp có giảng về
nhiệm vụ cao trọng của Phật Christna : "Dầu cho những chơn linh nào chết
nơi chân trời hay góc bể đi nữa, nếu đầy đủ công nghiệp tâm đức thì được Phật
Christna (Vishnoun) lãnh lịnh Đức Chí Tôn mà rước chơn linh ấy về ngay nơi Bạch
Ngọc Kinh" .Đức Hộ Pháp giảng thêm : "Tòa Thánh là hình ảnh của Bạch
Ngọc Kinh tại thế, tương quan bí pháp nơi cõi thiêng liêng".
Tóm lại Cao Đài giáo chọn
biểu tượng Thiên Nhãn để tôn thờ vì lẽ Đấng Tối cao vô hình, vô ảnh. Nếu một vị
Giáo chủ bằng xương bằng thịt là người Tây phương sẽ làm người Đông phương mặc
cảm và ngược lại. Thế nên, hình ảnh thi phàm mắt thịt là hàng rào ngăn cách khó
có thể thực hiện một tôn giáo đại đồng nhơn loại.
Lẽ đương nhiên, Cao Đài giáo
nhất Thần tượng trưng bằng CON MẮT TRÁI MỞ RỘNG. Còn những thể thức bày biện
bên ngoài Thiên Nhãn chỉ là sự biểu lộ lòng tôn kính đối với hàng giáo lãnh của
các tôn giáo, đồng thời giúp việc truyền đạo được mau chóng.
Bình tâm mà nhận rằng,
không tôn giáo nào chỉ duy nhất một vị Thần mà phải nói là các tôn giáo có một
vị Thần độc tôn mà còn không còn biết bao nhiêu vị Thần khác bao quanh.
Hãy bình tâm nhìn cách thờ
phượng chính thống tại Tòa Thánh Tây Ninh. Ta thấy có hai phần rõ rệt : cái
nhìn ngang thấy được và cái ngẩng đầu lên mới thấy được.
1/ - Cái ngẩng đầu lên là
nơi thờ Thần Thánh Tiên Phật trong Nhứt Kỳ và Nhị Kỳ Phổ độ. Những Thần linh đã
có sẵn trong nhân dân các nước. Tam Kỳ Phổ độ tạc tượng thờ là để kính trọng
(Kính nhi viễn chi) để xác nhận các tôn giáo đều có chung nguồn gốc. Các thức
giả chắc thấy được mỹ ý đó.
2/ - Cái nhìn ngangđều
thấy được là ngôi thờ các Thần linh của Đạo Cao Đài. Từ Tam Thánh, Tam vị thiên
sứ, Bảy ngai : 1) Giáo Tông, 2) Chưởng Pháp, 3) Đầu Sư tới Thiên bàn thờ quả
Càn Khôn trên có Thiên Nhãn đều là thần linh của Tam Kỳ Phổ độ.
Thánh thi, Thánh ngôn dạy
hợp với trào lưu tiến hóa sau thời Khai Đạo Cao Đài mới được chấp nhận. Lời của
các bậc Giáo lãnh phù hợp với tôn chỉ, mục đích của Đạo Cao Đài được trân trọng.
Thế thì, Đạo Cao Đài là
Đạo Cao Đài, có bản sắc riêng của mình. Khi làm lễ, Đức Chí Tôn dạy các đệ tử
nhìn ngay vào Thiên Nhãn mà không nhìn nơi nào khác. Lời dạy ấy có ai còn dám
bảo Đạo Cao Đài đa thần không?
"Không ai chối cãi
rằng Đạo Cao Đài đã làm sống lại cái quyền hạn tối thiêng liêng của con người
với những tư tưởng quảng đại và nhân từ. Họ đã đem đến cho dân chúng Đông Dương
một sự hấp dẫn mãnh liệt, nên đến năm 1931, họ đã tập hợp trên một triệu tín
đồ" ( Báo Progrès Civique ngày 19-12-1931).
1/ -
Càn Khôn là gì ?
QUẢ CÀN KHÔN không phải
chỉ là Trái đất (Khôn) mà gồm cả Thiên Cầu (Càn) trùm lên nhau, biểu tượng âm
dương hợp nhứt chi vị đạo". Vậy Đạo bao gồm cả Âm Dương, mà Âm Dương là
Thái Cực, mà Thái Cực là ngôi Đức Cao Đài. Chung qui thờ Quả Càn Khôn là thờ
Đức Chí Tôn. Thờ Âm Dương là thờ sự biến dịch của vạn loài. Đó là triết lý cao
khiết về mặt tôn giáo và cả khoa học nữa. Bởi lẽ đời người ngắn ngủi, con người
chỉ là hiện tượng nhất thời phát sinh do tác động giữa âm dương mà sinh thành.
Nguyên tử cũng chỉ do sự hóa hợp điện tử âm và điện tử dương mà sinh thành. Tất
cả mọi việc trong vũ trụ đều lấy Càn (Dương), Khôn (Âm) làm điều kiện cơ bản.
Vậy Càn Khôn là gì ? Càn Khôn là Đạo, là Thái Cực, mà "Đạo sinh nhứt, nhứt
vi Thái Cực" (Thiệu Tử, Văn Ngữ Lục). Lí giải đơn giản :
- CÀN là Trời, là Vua, là
Cha, là Chồng, là đầu, là cứng, là lãnh đạo, là vàng, là băng, là thiên thể …
- KHÔN là Đất, là nhân dân, là vợ, là mẹ, là
thuận tòng, là mềm, là sắc vàng, là văn, là bụng …
Càn Khôn là âm dương trong Trời Đất.
"Một âm một dương quanh đi quẩn lại cái vòng tròn không đầu mối. Nói rằng
âm dương là Một (Thái Cực) cũng được, mà bảo là âm dương thiên biến vạn hóa vô
cùng tận cũng được" (Nhất âm nhất dương nhi hoàn vô đoan. Vị âm dương khước
thị thiên biến vạn hóa nhi vô cùng diệc khả) (Hồ Cư Nhân, Dịch Tương Sao, quyển
II, tr.8).
Chu Hy trong "Chu
Dịch Bản Nghĩa" giải thích cụ thể hơn "Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn rũ áo
xiêm mà thiên hạ trị; đó là lấy tượng ở quẻ Càn, quẻ Khôn" (Hoàng Đế,
Nghiêu Thuấn thùy y thường nhi thiên hạ trị, cái thủ như Càn Khôn).
Trong Dịch Hệ thượng
(Chương IV), Chu Tử chú giải về Càn Khôn như vầy: "Đạo dịch chỉ là Âm
(Khôn) với Dương (Càn) mà thôi. U uẩn hay rõ ràng, sống hay chết, quỉ cũng như
Thần, tất cả đều là biến tướng của âm dương, là cái Đạo của Trời Đất". Và
ông quả quyết : "Cái Khí (mà khoa học gọi là ÉTHER) bàn bạc khắp trong
trời đất để biến hóa tạo lập ra muôn loài, thực ra chỉ là hai khí âm dương
trước sau, suy thịnh mà thôi" (Doanh Thiên Địa chi giab, sở dĩ vi tạo hóa
giả, âm dương nhị khí chi thủy chung thịnh suy nhi dĩ). Đức Chí Tôn cũng dạy :
"Đạo Thầy không chi lạ, không ngoài hai lẽ âm (Khôn) dương (Càn).
Như vậy, hai động lực căn
bản tạo thành vũ trụ là âm dương. Nếu dương cực thì âm sinh, âm cực thì dương
sinh. Khoa vật lý cũng chứng minh rằng : một nguyên tử có hai yếu tố căn bản là
âm điện tử (électron) và dương điện tử (proton) hoạt động nhộn nhịp chứ không
im lìm. Nếu nguyên tử chỉ có thuần một âm tử hay dương tử thì nguyên tử ấy
chẳng thể nào phóng xạ sinh hóa được. Giả dụ, nếu mạch điện bị cắt một dây
dương thì không thể nào tạo ra điện năng được. Như thế, âm dương không thể tách
rời. Âm dương chỉ là hai trạng thái tịnh động của Lý Thái Cực, chu hành trong
vũ tụ cùng tác động với nhau để biến hóa vạn vật.
Chung qui "đạo vốn
chỉ một âm một dương mà thôi. Trước sau, đầu cuối, động tịnh, tối sáng, trên
dưới,tiếnlui,qua lại,đóng mở, đấy vơi, tiêu tưởng, tôn ti, quí tiện,biểu lý, ẩn
hiện, hướng bội, thuận nghịch, tồn vong, đắc thất, xuất nhập, hành tàng; có cai
gì thích hợp mà chẳng phải một âm một dương?" (Trần Thúc Lượng và Lý Tâm
Trang, Tống nguyên học án, quyển III, tr.643) Vậy "Vật có gốc ngọn, việc
có trước sau" và có "Biết được trước sau mới gần được đạo" (Tiền
Mục, Tứ Thư thích nghĩa, tập II, tr.2)
2/ - Kinh Dịch giải về Càn Khôn ra sao ?
Trong Kinh Dịch phần Thoán
truyện do Đức Khổng Tử viết có đoạn : "Đức nguyên, Càn lớn, vạn vật bắt
đầu từ Càn (nảy nở) thống cả Thiên Đạo, Càn làm mây mưa khiến cho vạn vật hình
thành sinh trưởng. Bậc Thánh Nhân thấy cả trước sau, cả 6 hào của quẻ thuần
Càn, mỗi hào có một vị nên thuận thời mà hành Đạo như cưỡi 6 rồng (ám chỉ 6 hào
dương của quẻ thuần Càn) mà thống ngự cả vùng Trời. Đạo Càn biến hóa khiến cho
Bậc Thánh Nhơn đứng đầu muôn vật, theo Đạo Càn thì muôn nước đều bình an"
(Đại tai càn nguyên, vạn vật tư thủy, nãi thống thiên, vận hành vũ chí phẩm vật
lưu hình. Đại minh chung thủy, lục vị thời thành, thời thừa lục long dĩ ngự
thiên. Càn Đạo biến hóa, các chánh tính mệnh, bảo hợp thái hòa nãi lợi trinh, thủ
xuất thử vật, vạn quốc hàm ninh)
Trong Hệ từ truyện, Thiên
Thượng, chương 1 có viết "Đạo Càn tạo thành người Nam, Đạo Khôn tạo thành
người Nữ" (Càn Đạo thành Nam, Khôn Đạo thành Nữ).
Câu : "Thời thừa lục
long dĩ ngự thiên" như câu : "Thời thừa lục long du hành bất
tức" trong bài "Ngọc Hoàng Kinh" , lại nữa Càn Khôn còn tạo ra
con người. Vậy ta xét Đạo Càn Khôn theo Kinh Dịch như sau :
Theo quẻ Thuần Càn thì Càn
có 4 đức tính : nguyên (đầu tiên), hanh (thông), lợi (thích đáng), trinh (chính
bền). Trời có đức nguyên vì là nguồn gốc của vạn vật, có đức hanh vì làm ra mây
mưa để cho vạn vật sinh trưởng, có đức lợi và trinh vì biến hóa làm cho mọi vật
giữ được bẩm tính và nguyên khí đặng thái hòa. Càn còn tượng trưng cho người
quân tử với 4 đức tính nhân, nghĩa, lễ, trí.
Chu Công giải ngĩa 6 hàm
của quẻ Thuần Càn thành 6 rồng, con vật ngự của Đấng Chí Tôn như sau:
HÀO ĐẦU : Rồng còn ẩn náo chưa (đem tài) dùng được (tiềm
long vật dụng), tức rồng còn dưới vực sâu chưa lên mây nên chưa biến hóa được.
Ý nói : người chưa gặp thời thì nên trau dồi hạnh đức, luyện thêm tài trí, ở ẩn
không cần danh, không ai biết mình thì cũng chẳng buồn.
HÀO HAI : Rồng đã hiện ở cánh đồng, ra mắt đại nhân thì lợi
(hiện long tại điền, lợi kiến đại nhân). Người giúp đời mà không khoe công lao,
giữ được lòng thành tín và được trung chánh gặp đại nhân thì lợi.
HÀO BA : Người quân tử suốt ngày hăng hái tự cường, đến
tối vẫn còn thận trọng, dù nguy hiểm nhưng không tôi lỗi (quân tử chung nhật,
càn càn tịch tịch nhược. Lệ vô cửu) Người quân tử giữ lòng trung tín mà tiến
đức lập ngôn, lấy lòng thành lập nên sự nghiệp. Ở địa vị cao mà không tự kiêu,
ở địa vị thấp mà không lo lắng.
HÀO BỐN : Như rồng có khi bay lượn, có khi nằm vực, tùy
thời mà không lầm lỗi (hoặc được, tại uyên vô cửu)
Thận trọng tùy thời cơ,
nên tiến thì tiến (như rồng bay) nếu không thì chờ đợi (rồng nằm vực) chuẩn bị
cho kịp lúc ra giúp đời.
HÀO NĂM : Rồng bay trên ttrời ra mắt đại nhân thì lợi (Phi
long tại thiên lợi tiến đại nhân). mây bay theo rồng, gió bay theo cọp. Ý nói
Thánh nhân ra đời người người trông theo.
HÀO CUỐI : Rồng lên cao quá có hối hận (kháng lạng hữu
hối). Rồng bay cao quá khó xuống, nếu hành động sẽ xảy ra điều đáng tiếc vì cực
thịnh tắc suy nên lui bước để giữ đạo người quân tử.
Trên đây, quẻ Thuần Càn
dạy người Nam, dưới đây quẻ Thuần Khôn dạy người Nữ. Thật ra hai quẻ Càn Khôn
đều dạy chung con người.
Đạo Khôn có đức đầu tiên
và lớn, hanh thông, thích đáng, đức chính và bền của con người cái (nguyên hanh
lợi, tấn mã chi trinh) vì Văn Vương cho con ngựa cái có tính thuận theo đực,
như Khôn thuận theo Càn.
Càn tạo ra vạn vật ở cõi
vô hình thuộc Khí, mà phải nhờ Khôn, vạn vật mới tượng hữu hình rồi sinh
trưởng. Cho nên công của Khôn (Mẹ) cũng lớn như công của Càn (Cha), chỉ khác là
Khôn phải ở sau Càn, tùy theo Càn, bổ túc cho Càn. Thế nên, các đức nguyên,
hanh lợi, Khôn có đủ như Càn. Riêng về đức trinh thì Khôn hơi khác : tuy chính
và bền mà phải thuận.
Chính vì Khôn có đức thuận
mà mọi việc khởi xưởng đều là Càn. Khôn chỉ tiếp tục công việc của Càn. Người
đời nếu ở địa vị Khôn thì phải tùy thuộc theo người trên mà làm, không nên khởi
xướng mà lầm lỡ. Như thế, Đức Mẹ chở được vạn vật cũng lớn sánh bằng Đức Cha.
Cái lý của 6 hào Thuần
Khôn gần ý như vậy nên không bàn thêm.
Thế thì, người xưa
"Thấy Trời cao, Đất thấp mà lập ra quả Càn Khôn động và tĩnh nhất định nhờ
đó mà phân biệt được cương nhu" (Thiên tôn, Địa ti, Càn Khôn định hỉ, động
tĩnh hữu thường, cương nhu đoán hỉ, Hệ Từ Thượng Truyện).
Tóm lại, "Đạo Càn lúc
tĩnh thì chuyên nhất, lúc động thì tiến thẳng, cho nên sức sinh của nó lớn. Đạo
Khôn lúc tĩnh thì nhu lại, lúc động thì mở ra, cho nên sức sinh của nó
rộng" (Phù Càn kỳ tĩnh dã chuyên, kỳ động dã trực, thi dĩ đại sinh yên.
Phù Khôn kỳ tĩnh dã hấp, kỳ động dã tịnh thị dĩ quãng sinh yên. Hệ Từ Thượng
Truyện, chương 6).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét