Nói cách khác
"Đạo Càn mạnh nhất trong thiên hạ, đức hạnh của Càn là làm việc gì cũng dễ
dàng, bình dị mà vẫn biết được chỗ nguy nan. Đạo Khôn nhu thuận nhất trong
thiên hạ, đức của nó đơn giản mà vẫn biết được được nơi trắc trở" (Phù Càn
thiên hạ chi chí kiện dã, đức hạnh bằng di, dĩ tri hiểm. Phù Khôn, thiên hạ chi
khí thuận dã, đức hạnh bằng giản, dĩ tri trở.
Hệ Từ Thượng Truyện, chương 12).
Hệ Từ Thượng Truyện, chương 12).
Qua lý giải trên ta nhận
rằng : Đức Chí Tôn chọn quả Càn Khôn tạo Thiên Nhãn làm ngôi thờ thiêng liêng
cho toàn Đạo đã nói lên ý tưởng cao xa huyền nhiệm vô biên. Càn Khôn biến đổi
vô thường như Dịch lý không ngừng tạo ra vạn loài và "thống ngự vạn
vật", hữu thỉ vô chung.
Xem thế, "Sự biến
dịch của Càn Khôn uẩn ảo quá : Khi Càn Khôn hình thành thì đã có dịch ở trong.
Nếu Càn Khôn bị hủy thì không thể có dịch, nếu dịch không thể phát hiện thì Càn
Khôn tắc nghỉ" (Càn Khôn hủy tắc vô dĩ hiện dịch. Dịch bất khả hiện, tắc
Càn Khôn hoặc, cơ hồ hỉ) (Chu Hy, Chu Dịch Bản Nghĩa, Hệ Từ Thượng, chương
XII).
Muốn Càn Khôn (âm dương)
không xung khắc phải theo học thuyết Trung Dung của Đức Khổng Tử mà Albert
Einstein gọi là "Thuyết Tương Đối" là đại biểu cho tính sáng tạo của
khoa học hiện đại và cả tính thống nhất (Trương Kỳ Quân, Trung Hoa Ngũ Thiên
Niên Sử, quyển II, chương XII, tr.25). Trong Hệ Từ Thượng, Khổng Tử viết
"Thiên hạ cùng qui về tuy khác đường, một mối mà trăm lo" và trong Hệ
Từ Hạ, Ngài viết : "Đạo cùng đi mà chẳng chống đối nhau, muôn vật nuôi
nhau mà chẳng hại nhau" (Đạo tịnh hành nhi bất tương bội, vạn vật tịnh dục
nhi bất tương hại) (Chu Hy, sđđ, Hệ Từ Hạ)
"Đạt được trung hòa
thì trời đất định vị, muôn vật đều hóa dục … Trung là gì? Trung là cái gốc lớn
của thiên hạ. Hòa là gì ? Hòa là sự đạt Đạo của thiên hạ" (Trí trung hòa,
thiên địa vị yên, vạn vật dục yên … Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã. Hòa
dã giả, thiên hạ chi đạt Đạo dã). Đạo đó là Đạo Trung Dung mà Đức Khổng Tử cho
là không thể phút giây nào rời xa được (Đạo dã giả, bất khả tu du ly dã) (Tiền
Mục, Tứ Thư thích nghĩa, tập II, tr.31-36). Đạo Trung Dung quan trọng như vậy
nên vua Thuấn phải dặn dò ông Vũ : "Lòng người dễ khuynh nguy, lòng mến
Đạo lại yếu cho nên phải xét cho tinh một mực mà quyết giữ cho bằng được Trung
Dung" (Nhân tâm duy nguy, Đạo tâm duy vi, duy tinh duy nhất, doãn chấp
quyết trung) (Couvreur Seraphin, les Annalesde la Chine, Paris 1950, tr.39).
Tóm lại, Đạo Cao Đài mục
đích là Qui Tam giáo, mà đời Lý Trần gọi là Tam Giáo Đồng Nguyên là Quốc Đạo,
đã bắt nguồn từ hai luồng tư tưởng lớn trên bán đảo Ấn Trung : Phật giáo, Lão
giáo, Khổng giao, mà "nhiều người tin tưởng trong tương lai những luồng tư
tưởng này có thể dung hợp thành một ý thức hệ kiêm đủ chân thiện mỹ, khả dĩ đem
lại được cho Đông phương và toàn thể nhân loại một cuộc sống tinh thần cũng như
vật chất đầy đủ, tốt đẹp, luôn luôn khai phóng và hướng thượng.
Sự tin tưởng cũng là một
liều thuốc linh nghiệm để đối phó với bệnh tình cấp bách hiện tại của Tây
phương. Thức giả Tây phương đã nhân thấy sự kém cỏi của mình, hơn một lần tự hạ
mong học hỏi và cầu xin Đông phương giải cứu cho họ. ( Nguyễn Hữu Lương, sđđ,
tr.27)
ĐẠO DỊCH VÀ LÂN MÃ
Vào ngày 15/6/1997, Bảo
tàng Vĩnh Long đã "Phát hiện lân mã ở Vĩnh Long" trong báo cáo có ghi
rõ :
"Theo một số bô lão
bà con trong vùng cho rằng cách nay trên dưới 80 năm, có cụ Đức Lợi là người
chuyên về đúc đồng, có thể cụ là người đúc ra con LÂN MÃ này, mà thực tế cụ đã
đúc ra nhiều con như vậy. Một số khác còn cho biết, hiện nay trong Tòa Thánh
Tây Ninh cũng có một con tương tự, nhưng đã bị hỏng, sứt mẻ còn lại ở đâu đó
trong Thánh địa (?) …
"Lại có một tin nữa,
cho rằng trong thời kỳ Pháp thuộc, trong tỉnh Vĩnh Long có bà Hương Thanh,
người có vai vế trong Hội Thánh Cao Đài, nên trong Thánh Thất (Vũng Liêm) nơi
bà ở có để con LÂN MÃ này, nên ngày nay có ngưởi nhận là chính con LÂN MÃ hiện
nay là con LÂN MÃ của bà" (Báo cáo Bảo tàng Vĩnh Long, trang 23)
Trong "Đại nam Quốc
Âm Tự Vị" của Huỳnh Tịnh Của giải thích về chữ Kỳ lân như vầy : "Kỳ
thú có nhơn, chính là con đực, lân là con cái … Lân con thú giống sư tử mà hiền
lành, người ta gọi là linh vật, đem vào tứ linh là long, lân, qui, phụng. Vua
chúa có nhơn đức mới thấy nó". (HUỲNH TỊNH CỦA, Đại nam Quốc Âm Tự vị (Tập
I) Sài gòn 1895, tr.510 và 538)
Trong "Hán Việt Từ
điển" của Đào Duy Anh giải thích thêm : "Kỳ lân, con thú có tính lành
giống con hươu mà lớn hơn, đuôi trâu vút ngựa, không ăn sinh vật, nên người ta
gọi là nhân thú" (ĐÀO DUY ANH, Hán Việt Từ điển, Hà nội 1992, tr.435-436
và 334-513). Về con Long Mã ông viêt : "Long Mã, ngựa cao trên 8 thước,
người Tàu gọi là Long Mã, con rồng hình dáng ngựa ….. Hà Đô xưa truyền rằng,
đời vua Phục Hy, trong sông Hoàng Hà có con Long Mã xuất hiện, trên lưng nó có
vẽ nét từ số 1 đến 10, Phục Hy mới theo đó mà vạch ra Bát Quái" (ĐÀO DUY
ANH, Hán Việt Từ điển, Hà nội 1992, tr.435-436 và 334-513)
Năm 1919, L .Cadière công bố về "mỹ thuật ở Huế"
trong tạp chí Bulletin des Amis du vieux Hue (những người bạn cố đo Huế) giới
thiệu về nhiều con Kỳ Lân, nếu đem đối chiếu với lân đồng ở Vĩnh Long thì chính
là lư Kỳ Lân dùng để đốt trầm, Lân Mã này cao 1,36m dài 1,48m, cân nặng 323 kg . Đó là vật cổ quý hiếm thuộc mỹ thuật thời Nguyễn
có niên đại vào khoảng đầu thế kỷ XX (Tạp chí xưa và nay số 88 tháng 3 năm
2001, tr.37-38).
Số là năm 1936 Đức Phạm Hộ
Pháp tái xây dựng Tòa Thánh có đến Vũng Liêm xin bà Lâm Hương Thanh tài trợ vì
bà rất giàu có nhờ thừa kế của người chồng Pháp là Perrier gốc Thụy Sĩ. Bà
không đủ tiền mặt nên đưa châu báu cho Đức Hộ Pháp, Ngài không nhận và nói : "Sau
khi Tòa Thánh cất xong phải có lư lân mã xông trầm". Vì thế mà bà Hương
Thanh mới làm con Lân Mã để tại Thánh Thất Vũng Liêm và một con Lân Mã bằng
đồng đen (?) nặng 3 kg để tại Đại Điện
Tòa Thánh. Năm 1941, Pháp chiếm đóng Tòa Thánh thì con Lân Mã bị thất lạc. Ngày
nay Hội Thánhlàm con Ngọc Kỳ Lân thay thế (Ngọc đây ám chỉ cái quí của đồng
đen) để múa trong các dịp lễ.
Về bí pháp của Lân mã ta
thấy :
- Cao : 1,36m à 1+3+6 = 10 chỉ Hà Đồ : con Rồng
- Dài : 1,48m à 1+4+8 = 13 giờ Ngọ chỉ con Ngựa
- Nặng : 323 kg à 3+2+3 = 8 chỉ Bát Quái Cao Đài
Nếu đem so BQ Cao Đài với hai BQ trước, ta thấy những
nét đặc thù sau :
Đệ I BQ Phục Hy - Hà Đồ -
Long Mã 10 (cộng từ 1 đến 10) = 55
Đệ II BQ Văn Vương - Lạc
Thư - Linh Qui 9 (1à9) = 45
Đệ III BQ Cao Đài - Thiên
Thư - Lân Mã 8 (1à8) = 36
Số 36 là Tam Thập Lục
Thiên với không gian bốn chiều 4 x 9 tầng bằng 36 tầng trời. Theo Dịch lý giảm
dần từ 10,9,8 đến 1 (Thái Cực) biểu hiện con người xa dần vật chất tiến tới
tinh thần.
3/ -
Phạm trù Càn Khôn :
Dịch Hệ Từ viết : "Cương
nhu tương dịch, duy biến sở thích". Trong Thái Cực, âm dương bên nhau
đương nhiên có sự trao đổi lẫn nhau. Âm hút Dương, Dương hút Âm để thể hiện sự
quân bình của vũ trụ. Trong Hậu Thiên Bát Quái chẳng hạn, khí Dương của Càn hút
khí Khôn âm để biến thành các quẻ Khảm, Cấn, Chấn, còn khí âm Khôn đoạt khí
dương Càn để biến thành các quẻ Tốn, Ly, Đoài. Đó là luật nhị khí giao cảm, hóa
sinh vạn vật. Mọi việc trên đời đều có cặp mâu thuẫn đối đãi mang tính tất
nhiên và phổ biến như âm dương.
Bàn về quan niệm vũ trụ,
Dịch Hệ Thượng viết : "Dịch có Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng
Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái". Thánh Ngôn của Đạo Cao Đài
cũng dạy : "Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ
Tượng sinh Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng" (TNHT quyển II, tr.62).
Hai ý trên nhứt định có cùng một gốc.
Trong Dịch Hệ Thượng, Đức
Khổng Thánh lưu ý : từ chất co giãn vô hình, Thái Cực chia ra hai Nghi là Âm
Dương rồi biến hóa ra Tứ Tượng thành Bát Quái. Bát quái biểu tượng cho vạn vật.
Thế thì, vũ trụ được hình thành từ vô thỉ đến vô chung, từ vô hình qua hữu hình
với quá trình biến hóa đi lên của nó. Quả thật, "vũ trụ có những mãnh lực
bí mật lớn lao đã hợp nhất lại và vô số hình thể sống động của nó đã đảm bảo sự
liên tục cho chúng". (Les
grands forces mystérieuses de la Nature étaient désormais unifiées. Les
innombrables formes vivantes affirmaient leur enchainement) ( RÉNE JUDRE, Les
Nouveles Enigmes de I'Univers, Paris 1951, tr.14)
Vì thế, Kinh Dịch mới nói : "Sinh rồi lại
Sinh thì gọi là Dịch". Cái gì sinh ? Chu Hy lý giải : "Âm sinh Dương, Dương sinh
Âm, sự biến hóa của chúng vô cùng" (Âm sinh Dương, Dương sinh Âm, biến hóa
vô cùng) (CHU HY, Chủ Dịch Bản nghĩa, Hệ Từ Thượng, Chương V.). Đức Chí Tôn
cũng dạy : "Đạo Thầy không chi lạ, không ngoài hai lẽ Âm Dương". Tắt
một lời, quan niệm vũ trụ theo phương Đ6ng, trời đất, vạn vật chịu ảnh hưởng
của hai yếu tố căn bản là Âm Dương, biến hóa luôn luôn, chảy quanh khắp nơi,
khắp chốn một cách vô thường. Đó là Đạo, Đạo vốn không có hình, nhưng ở đâu
cũng có Đạo, thiếu Đạo thì không có sự vật nào tồn tại được.
Theo
Soothill : "Trong vũ trụ đều là Âm hay Dương. Trời, ánh sáng, khí
nóng, đàn ông, cha, sức mạnh, sự sống là dương - Đất, bóng tối, hơi lạnh, đàn
bà, mẹ, sức yếu, sự chết là Âm" (Tout est Yin ou Yang dans la Nature. Le
Ciel, la lumière, la chaleur, l'homme, le père, la force, la vie Yng. La Teere
l'obscurté, le froid, la faiblesse, la ncort sont Yin) ( W.E.SOOTHILL, Les rois
religions de la Chine. Paris 1946, tr.161).
Âm Dương là Thái Cực là
Đạo vì "nhất âm nhất dương chi vị Đạo". Trước Thái Cực còn có khảng
trống không gọi là Vô Cực. Thánh Ngôn dạy : "Khí Hư Vô sinh một Thầy, Thầy
là Thái Cực , Thái Cực phân cực Âm Dương, Âm Dương sinh Ngũ Hành mà tạo thành
vạn vật. Châu Liêm Khê viết trong Thái Cực Đồ thuyết như sau :
"Vô Cực mà là Thái
Cực. Thái Cực động thì sinh Dương, động cực thì tĩnh, tĩnh thì sinh Âm, tĩnh
cực lại động, một động một tĩnh cùng làm căn bản cho nhau. Rồi khi đã phân chia
ra Âm Dương thì Lưỡng Nghi thành lập. Đến lúc Dương biến, Âm hợp, thì Thủy,
Hỏa, Mộc, Kim, Thổ sinh ra. Năm khí đó nếu được xếp đặt thuận lợi thì bốn mùa
sẽ vận hảnh đều đặn.
Ngũ hành nếu hợp nhất thì
thành Âm Dương. Âm và Dương nếu hợp nhất thì thành Thái Cực. Thái Cực có gốc Vô
Cực. Ngũ Hành sinh hóa đều có tính chất duy nhất. cái chân không của Vô Cực,
cái tính chất của Âm Dương và Ngũ Hành, tất cả phối hợp một cách kỳ diệu và kết
tụ lại với nhau. Thế rồi, Đạo Càn làm thành trai, Đạo Khôn làm thành giá, hai
khí giao cảm mà sinh ra muôn vật, muôn vật sinh rồi lại sinh, sinh sinh mãi mãi
và biến hóa vô cùng." (Trần Thúc Lượng, Lý Tâm Trang, Tống Nguyên học án,
Tập I, quyển 9, tr.131)
Thật vậy, "Trong lịch
sử, có lẽ không có gì chính xác hơn việc biến dịch. Vật đổi thay. Người đẩi thay.
Đất đổi thay. Phong tục, quan niệm đổi thay" và tôn giáo cũng đổi thay cho
phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại. (Perhaps nothing is more certain in
history than change. Animals change. Men change. The Earth changes. Customs,
opinions ideas change) ( Platt N. and Drummond M.J. Our world through the ages,
New York 1959, tr.6).
Về nhân sinh quan, sự hình
thành con người cũng do sự giao thoa của âm dương mà hóa thành, nên trong mỗi
con người đều có gien âm dương. Chu Hy quả quyết rằng : "Người người đều
có một Thái Cực, vật vật đều có một Thái Cực" (Nhân nhân các hữu nhất Thái
Cực, vật vật các hữu nhất Thái Cực) (Chu Hy, Ngữ loại). Chu Hy còn viết thêm :
"Thái Cực tự nó bao gồm cái lý động tịnh, chứ không thể lấy trạng thái
động tịnh mà phân thể dụng. Bởi vì tịnh là thể của Thái Cực, còn động là dụng
của Thái Cực" (Trần Thúc Lượng, Lý Tâm Trang, Tống Nguyên học án, tập II
quyển 44, tr.505). Nếu ta coi động tịnh là hai trường hợp khác nhau của Thái
Cực thì "Âm Dương chỉ là một khí. Khí âm lưu hành tức là khí dương , khí
dương ngưng tụ tức là khí âm. Thực chẳng có chuyện hai vật chống đối nhau bao
giờ" (Hồ Cư Nhân, Dịch Tượng Sao, quyển I, tr.2)
Thật vậy, luật "đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" của âm dương trong Kinh Dịch rất tâm
đắc. Theo G.Lakhousky trong thuyết "Dao động tế bào" (Oscillation
cellulaire), mỗi vật đều phát ra một luồng sóng đặc biệt : có cảm mới có ứng,
có tương đồng mới có thể giao cảm. Đó là nguồn gốc cơ bút và cách trị bệnh bằng
nhân điện trong Đạo Cao Đài buổi đầu.
Cặp Âm dương giống như cặp
Aùc Thiện, tuy thấy như mâu thuẫn nhưng chẳng bao giờ rời nhau. Khi ta gọi là
dương vì phần dương lấn phần âm. Khi ta gọi là âm vì phần âm lấn phần dương.
Thế nên, ta khó tìm được thuần âm hay thuần dương cũng như thuần thiện hay
thuần ác. Không có người tốt nào không mang trong mình một tật xấu. Thế nên,
người ta phải biết vượt lên trên Thiện Aùc, Thị phi mới thanh thoát. Nếu còn bị
ràng buộc trong giả tướng của hiện tượng giới thì chưa có thể giác ngộ vào cõi
Phật. Nên nhớ, "Những kẻ đại
gian ác là những kẻ đại Thánh thiện" (Les grands pécheurs seront de grands
Saint). Madeleine trước khi thành Thánh là người đàn bà sa đọa, Thánh
Augustin thuở nhỏ cũng là một kẻ nhiều lầm lỗi, còn Thập Bát La Hán nguyên là những kẻ trộm cướp giết người. Trong
"Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống", Đức Hộ Pháp xác nhận "Quỉ
Vương là phần trược của Thượng Đế" (Satan est la doublure de Dieu)
Xem thế, Thần hay Quỉ ở
tại bản thân của mỗi chúng ta. Hồ Cư Nhân cũng nói : "Thần của mộc, hỏa
sinh vật ở hướng Đông Nam. Quỉ của kim , thủy diệt vật ở hướng Tây Bắc"
(24). Nói một cách khác "U uẩn hay rõ ràng, sống hay chết, Quỉ cũng như
Thần, tất cả đều là biến tướng của âm dương1. Như thế, quỉ thần không xa ta,
Thiên đàng hay Địa ngục đều nằm trong tâm của mọi người. Tránh hạng người
"Thân Công Báo", kẻ mở cửa Ma giới trần gian đó. Họ gây xáo trộn
trong mỗi con người : hữu vi (xác), vô vi (hồn) lìa nhau, Đạo Đời không còn
tương đắc, Âm (xác) Dương (hồn) rời rã …
Hãy nghe Pháp Chánh Truyền
giải thích về ĐẠO ĐỜI TƯƠNG ĐẮC. "Hội Thánh có hai phần tại thế. Phần hữu
hình là Cửu Trùng Đài tức là Đời, nghĩa là xác, một phần bán hữu hình là Hiệp
Thiên Đài, là chơn thần, nghĩa là nửa Đời nửa Đạo, còn phần vô vi là Bát Quái
Đài tức là hồn, ấy là Đạo". Rõ ràng PCT phân giải Đạo là Bát Quái Đài, còn
Cửu Trùng Đài là Đời (nhân sanh của Đạo), chớ không phải Đời là chỉ người ngoại
Đạo. Chẳng hạn Thế Đạo là Đời của Đạo, chỉ những người Đạo còn sống lẫn lộn với
Đời. Đọc tiếp PCT ta sẽ thấy rõ hơn : "Thầy là chús tể của sự vô vi, ắt Bát
Quái Đài là của Hồn. Hồn hiệp với xác bởi chơn thần. Aáy vậy, chơn thần là
trung gian của Hồn và Xác. Xác nhờ Hồn mà nên, thì Cửu Trùng Đài cũng nhờ Hiệp
Thiên Đài mới mong đạt Đạo", nói cách khác "nếu muốn cho sự vô vi
(Đạo) và sự hữu hình (Đời) đặng TƯƠNG ĐẮC thì cả hai ông chúa (Đạo, Đời) phải
liên hiệp với nhau". (Chu Hy, Dịch Hệ Thượng, chương IV)
Xem thế, ĐẠO ĐỜI TƯƠNG ĐẮC
rõ ràng là chỉ cách luyện Đạo. Thế mà người sau xa rời kinh sách lại hiểu méo
mó là người Đạo và quyền Đời phải tương đắc ! Sự lầm lẫn đó phải trả giá của nó
khá cao !." Sự ngạc nhiên của chúng ta quả lớn khi chúng ta thấy điều mê
tín kém nhất lại là một điều phổ biến rất lâu dài". (… la superstition la
plus basse a été, pendant si longtemps, un fait universel) ( André Ruffaf, La
superstition à travers les ages. Paris 1952, tr.211)
Chúng ta phải làm như thế
nào như Lord Acton nói : "Tôn giáo là cái chìa khóa của lịch sử". (La religion est la clé de 1'histoire)
(Christopher Dawson, La religion et la formation de la civilisation Occidentale,
Paris 1953, tr.9). Bởi lẽ, nếu không có tôn giáo thì lịch sử hẳn hoang lương tiêu điều,
cuộc đời hẳn cũng giảm sinh thú. Ngoài tính chất thẩm mỹ, tôn giáo còn có một
ảnh hưởng quan trọng đối với nền văn minh nhân loại" (Nguyễn Hữu Lương,
sđđ, tr.58. xem "Lý giải Quả Càn Khôn" cùng người viết.)
CHƯƠNG V
VÍA ĐỨC CHÍ TÔN
Tại sao chọn ngày mùng 9
tháng giêng làm lễ vía Đức Chí Tôn ?
Theo tục lệ, mùng 7 hạ nêu
để chấm dứt Tết Nguyên Đán thì nhân sanh mở ngay ngày Tết Khai hạ. Theo Dịch
lý, ngày mùng 7 ứng vào con ngựa trong Thập Nhị Chi, ngày mùng 8 ứng vào lúa,
ngày mùng 9 ứng vào Trời. Cho nên lấy ngày đó làm lễ Vía Đức Chí Tôn. Mặt khác,
số 9 là số thái dương, số 8 là số của thiếu âm, số 7 là số của thiếu dương, và
số 6 là số củathái âm Theo thứ tự trong Tứ tượng thì thái dương là ngôi số 1,
lấy 1 trừ 10 còn 9 dùng làm số đặc biệt của Thái dương, tức Trời vậy.
Thờ quả Càn Khôn là thờ
CỬU THIÊN KHAI HÓA vì Càn 3 hào, Khôn 6 hào cộng lại là 9. vả lại, quẻ Khôn
chồng lên quẻ Càn thành quẻ Thái có nghĩa là thông suốt. Quẻ Thái làm chủ tháng
giêng. Kết hợp lại, mùng 9 tháng giêng là Vía Trời.
Thêm vào đó, trong Kinh
Dịch gọi số 9 = 3 x 3 là SỐ Tham Thiên hằng số. Nhà toán học Pythagore cũng nói
: Chín là số hoàn hảo, là bình phương của ba, tam hợp hài hòa trọn vẹn". (Neuf est le nombre parfait en tant que carré
le trois qu'est le trinité de l'harmonie complète).
Vả lại, các ngày hội lễ trong năm nảy sanh từ
nền văn minh nông nghiệp. Mùa xuân, tháng giêng lễ Cha, tức Vía Đức Chí Tôn,
mùa thu, tháng 8 lễ Mẹ tức Vía Đức Phật Mẫu. Các ngày lễ này, các Chức sắc phải
về triều lễ tại Tòa Thánh.
Ngoài nghi lễ tôn nghiêm, Hội Thánh còn cho tổ
chức các cuộc vui như dưng cộ bông, lửa trại, thai đố, ngâm thơ … vừa nâng
cao đời sống tâm linh, vừa buông thả tình cảm để thư giãn. Thế nên, lễ Vía xen lẫn cái huyền nhiệm và cái thực
tế, cái chính thống tôn giáo và cái buông thả của nhân gian.
Trong ba ngày lễ Vía Đức Chí Tôn, trừ ngày mùng
9 chánh lễ, còn các ngày khác là lễ tạ ơn tổ tiên hoặc tổ chức các cuộc vui, trong đó Văn
Minh điện thu hút nhiều người nhứt.
Trong nắng xuân ấm áp, Hội
Thánh cho dựng một cái đài lục giác giữa Đại đồng xã, gồm tầng trệt và tầng cao
để mọi người đứng xa đều thấy rõ người điều hành. Ban tổ chức gồm một Trưởng
ban cầm cái mõ (thường là Phối Sư Thái Đến Thanh) Một ban cổ nhạc trần thiết ở
tầng trên giữa căn nhà lục giác. Phía trước Văn Minh điện có một cái cầu thang
duy nhứt lên và xuống, phía bên trên có đề 3 chữ : Văn Minh Điện, tức nhà văn
minh về đạo đức, văn học, mỹ thuật …
Các cuộc vui gồm : Thai
đố, thi thơ, hát vè, ngâm thơ. Ai trúng thì được thưởng kinh sách có giá trị.
Văn Minh Điện bắt nguồn từ
hai câu thơ giáng cho của bà Đoàn Thị Điểm được sửa từ và rút ra trong truyện
"Chinh phụ ngâm" như sau :
Chín tầng ngôi báu trao tay,
Nửa đêm truyền lịnh định ngày xuống ngai.
Xuất nhứt nhơn (một
người). Rõ ràng đây là câu đố. Mãi đến cách mạng tháng tám năm 1945, Bảo Đại
xuống ngôi, người ta mới biết nhứt nhơn đó là Vĩnh Thụy. Từ đó, thú chơi thai
đố ngày càng thạnh hành. Cái vui của Văn Minh Điện là những câu thai đố được
lý, hò, ngâm, diễn, đọc với điệu bộ dễ cười của các diễn viên nghiệp dư. Chính
nhờ điệu bộ đó, người xem đoán được phần nào nội dung câu đố.
Một diễn viên đọc với điệu
bộ câu này :
Cất mình qua ngọn tường hoa,
Lần đường theo bóng trăng tà về Tây.
Xuất nhứt điểu (một con
chim), âm điệu thơ Kiều mà lại là câu đố hóa búa. Một tín hữu mặc áo dài trắng
giơ tay xin giải đáp. Trưởng ban cuộc thi mời anh lên thang gác. Anh nọ đứng
lựng chựng cầu thang đáp : Con chim cút. Viên giám khảo giơ cao tay đánh vào mõ
cái cốc. Mọi người đều biết sai, cười ồ lên. Anh nọ bẽn lẽn xuống cầu thang.
Nếu ai đáp đ1ung mõ được đánh một hồi. Ban nhạc tiếp thanh âm hòa tấu một bài
để tuyên dương người đáp đúng. Một thiếu nữ giơ tay trả lời là con quạ vàng.
Ban giám khảo yêu cầu giải thích. Cô gái đáp : "Lần đường theo bóng trăng
tà về Tây" thì chỉ có Mặt trời, mà Mặt trời là Kim Ô. Ban ngày đôi khi có
Mặt trăng nhưng do ánh sáng của Mặt trời làm ta không thấy trăng. Một hồi mõ
dài được gõ lên. Ban nhạc hòa tấu khúc "Trạng nguyên hành lộ". Cô gái
được thưởng một chồng kinh sách với những tràng pháo tay vang dậy.
Kế đến là cuộc thi ngâm
th, thí sinh có thể lấy thơ trong "Thi văn Hiệp tuyển" hay tự biên tự
diễn.
Một nhà thơ trẻ với giọng
ngâm ngọt ngào truyền cảm hòa lẫn tiếng đàn cò, tiếng tiêu, dìu dặt như bay
bổng giữa tầng không :
VỊNH TÒA THÁNH
Tòa Thánh vút cao đứng giữa trời
Aùnh vàng tỏa rộng khắp nơi nơi.
Hiệp Thiên vang tiếng Lôi Âm Cổ.
Bát Quái lặng thinh Bạch Ngọc ngời.
Cung đạo thiêng liêng miền thượng giới.
Cửu Trùng dung tục cõi người đời.
Htoáng nhìn tru phướn, bồ đề cội.
Tòa Thánh vút cao đứng giữa trời.
Trên đây chỉ là những
trích đoạn về thai đố, thi thơ để người đọc hiểu phần nào thú vui tao nhã nhân
ngày Vía Đức Chí Tôn, vừa phù hợp với truyền thống lễ nghi huyền nhiệm, vừa tác
động cuộc vui chơi dân đạo, thích đáng với quan niệm cổ truyền "Trời Người
hiệp nhứt". Tiếc thay, Văn Minh Điện không vĩnh tồn với thời gian.
Tắt một lời, ngày Vía Đức
Chí Tôn là ngày hạnh phúc lớn của đại gia đình nhà Đạo, không phân biệt sang
hèn, màu Đạo sắc tộc, mọi tín hữu khắp mọi nơi, trên mọi nẻo đường, hướng về
Tòa Thánh mừng lễ Đấng Cha Lành.
Người Đạo Cao Đài luôn
luôn tâm niệm và thực hành lời Đức Đại Từ Phụ dạy : Tất cả nhơn loại là con một
cha. Tất cả mọi tôn giáo có cùng một gốc. Thế nên, người tín hữu Cao Đài không
thấy ngại ngùng khi vào lễ trong một chùa Phật hoặc nhà thờ Thiên Chúa, hoặc
đền thờ Hồi giáo. Bởi lẽ, người tín hữu Cao Đài biết rằng các Đấng Giáo chủ ấy
đều do Đức Chí Tôn phân tánh giáng sanh nên chịu dưới quyền điều khiển của
Ngài.
Người tín đồ nào cũng
thuộc làu câu : "Cùng nhau một Đạo tức một cha". Thế nên, họ không kỳ
thị tôn giáo và không kỳ thị chủng tộc, coi tất cả mọi sắc tộc trên thế giới dù
khác màu da sắc tóc, ngôn ngữ hoặc chánh kiến đều cùng chung huyết mạch.
Khi nói Đức Cao Thượng
Phẩm là ngươn linh Hớn Chung Ly hay Thanh Sơn Đạo Sĩ là ngươn linh của Hồng Y
Richelieu, là xác nhận Đạo Cao Đài tin có Luật chuyển luân. Ngày trước là người
Trung Hoa, ngày nay đầu kiếp làm người VN hay ngược lại. Điều ấy nói lên mọi
sắc dân, trước mặt Đức Chí Tôn đều là con cái, là đồng chủng. Nếu tiền kiếp là
người Ấn Độ thì theo đạo Phật, hoặc người Tàu sao tránh khỏi theo đạo Lão hay
đạo Nho. Vậy ta đã từng là môn đệ của các vị đó trước kia, nay tôn vinh các vị
đó làm thầy là lý đương nhiên.
Với tinh thần ấy, người
tín hữu Cao Đài lúc nào cũng tôn kính các tôn giáo khác và đặt các vị Giáo chủ
ngang hàng nhau, không có sự đặt biệt trọng khinh nào.
Thế thì tôn thờ Đức Chí
tôn là tôn thờ đức tin của nhơn loại.
Lễ Vía Đức Chí Tôn lúc 0
giờ ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch hàng năm (Nghi thức thờ Đức Chí Tôn. Xin
xem "Ý nghĩa thờ Thiên Nhãn" của Hiền tài Nguyễn Kim Anh) . Đây là
buổi lễ trang nghiêm nhất, tất cả mọi sinh hoạt đều im lặng nhường cho tiếng
trống tiếng chuông và lời cầu kinh.
Sau khi Lôi Âm Cổ (trống)
dứt hai hồi, vị Tả Phan Quân cầm phướn Thượng sanh hướng dẫn các phẩm Lễ sanh,
Giáo thiện nam nữ lên lan can lầu Đền Thánh, nam tả nữ hữu (trong Bửu điện nhìn
ra), đồng thời cho 6 vị Lễ sanh và 6 vị Giáo thiện nam nữ vào hầu Bát Quái Đài.
Khởi Bạch Ngọc Chung
(chuông), vị Hộ Đàn Pháp Quân cầm cờ Tam Thanh (cờ Đạo) và vị Hữu Phan Quân cầm
phướn Thượng Phẩm hướng dẫn chư Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện
vào Đền Thánh (Hoán đàn). Hai bên Chức việc, Đạo hữu nam nữ cũng đi vào Hoán
đàn. Đoạn phân ban nam nữ. Đồng thời 3 vị Chánh Phối Sư và Nữ Chánh Phối Sư vào
Nội Nghi. Một vị Phối sư ở Ngoại Nghi.
Tiếp Lễ Nhạc Quân lên
Giảng đài nữ cầm hiệu. Một vị Giáo sư phái Ngọc lên Giảng đài nam xướng lễ.
Dứt chuông, Hộ Đàn Pháp
Quân ra cờ lịnh nhập đàn.
Vị Giáo sư phái Ngọc xướng
1/ - Nội Nghi, Ngoại Nghi
tựu vị
2/ - Thiên phong dĩ hạ các
tư kỳ vị.
3/ - Nhạc tấu huân Thiên :
nhạc đờn 7 bài.
- a/ - Xàng xê : nghĩa là
đưa qua trộn lại, biểu tượng chothời kỳ hỗn độn sơ khai.
- b/ - Ngũ đối thượng : là
năm từng trên Trời tức khí thanh bay lên làm bầu Trời.
- c/ - Long ngâm : là rồng
xuống, tượng trưng cho Âm. Nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo.
- d/ - Vạn giá : là muôn
việc đã định an, muôn loài vạn vật đều có tên.
CHƯƠNG
VI
THIÊN ĐẠO VÔ BIÊN
Tại sao thờ Đức Chí Tôn
nơi Bát Quái Đài ?
Thánh Ngôn dạy rằng :
"Khi chưa có Trời Đất thì khí Hư Vô có sanh một Thầy và ngôi của Thầy là
Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng
biến ra Bát quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mà tạo lập ra Càn Khôn Thế
giới".
"Từ vô hình ra hữu
hình là do khí hóa mà ra. Khí hóa hình, hình hóa khí, từ đó có mọi vật hiện
hữu".
Khoa học Vật lý nguyên tử
ngày nay cũng xác nhận : "Vật chất (la matière) là khí đọng lại mà thành,
khí là vật chất tan ra mà thành khí, hay nói cách khác : Khí lực (énergie) và
vật chất là một hoặc hai của một thực thể". (Conquête de la Science,
p.195, p.Rousseau).
Lời Thánh Ngôn cho ta thấy
rõ : Khí Hư Vô (Khí hư Vô là khí khi vũ trụ chưa hình thành)sanh có một mình
Đức Chí tôn. Ngài ngự trên ngôi Thái Cực mà sanh ra Âm Dương thì sinh khí hóa
mới tạo Thiên lập Địa muôn màu muôn vẻ : Nhất bổn tán vạn thù là vậy.
Bà Bát Nương dạy thêm :
"Trong vũ trụ bao la, không gian ở trên là thượng tầng bí pháp của quyền
năng thiêng liêng. Đức Chí Tôn vi chủ Thần, Thánh, Tiên, Phật hộ trì. Thời gian
ở dưới có đủ khí chất, để tạo dựng thế giới hữu vi và vật chất hữu hình. Phép
mầu nhiệm ấy do quyền năng tuyệt đối của Đức Chí Tôn vận chuyển, khiến cho
không gian phối hợp với thời gian thành cơ huyền nhiệm mà tạo lập Càn Khôn, hóa
sanh vạn vật, và Đức Chí Tôn còn hiệp lập Thiên thơ định thành Thiên điều, là
luật pháp thống trị Càn Khôn vạn vật".
Không gian, thời gian đưa
tới nhân quả. Ba hiện tượng đó không mà có, có mà không. Nó lảng vảng theo ta
ta như bóng với hình mặc dù ta không hề thấy. Quan sát biển (không gian) và
sóng biển (tác nhân của thời gian) nổi cao khi có gió rồi biến mất, rõ ràng ta
thấy nhân và quả, hiện tượng tuần hoàn của sóng. Thế mà giờ đây ta không thấy
gì, ảo ảnh chăng ?
Cái đó là Đạo, là sự chuyển luân. Đạo không có
hình nhưng ở đâu cũng có mặt. Thiếu Đạo thì không có sự chi trên đời tồn tại.
Chữ Đạo gồm 2 phần : Chữ
xước có nghĩa là đi, tượng trưng nguyên lý động, tức nguyên lý Dương, chữ Thủ
là đầu tương đối bất động của thân thể, tượng trưng nguyên lý tịnh, tức nguyên
lý Âm. Cái đầu hình tròn, cái chân đi hình vuông mà Trời thì tròn, Đất thì
vuông, tượng trưng cho Dương Âm, Trời Đất.
Thế thì Đạo bao gồm mọi
mâu thuẫn trên đời : Động và Tịnh, Thị và Phi, Thiện và Aùc, Sáng và Tối, Trong
và Ngoài, Vinh và Nhục, Trời và Đất … nên phải biết quân bình để tường tồn
trường sanh.
Khi Đạo Cao Đài chủ trương
Qui Tam giáo : Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo và hiệp Ngũ chi : Thần đạo,
Thánh đạo, Tiên đạo, Phật đạo. Thế thường, người ta cho giáo lý các tôn giáo
này mâu thuẫn nhau. Nhưng người ta quên rằng mâu thuẫn để sinh tồn và tiến bộ.
Sách cổ Hy Lạp Kybalion viết gần giống Kinh Dịch :
"Tất cả đều có hai
mặt, những chân lý nói ra chỉ là những phân nửa chân lý mà thôi, tất cả mọi
nghịch thuyết đều có thể dung hòa" (Tout est double … Touts les vérités ne sont que des demivérités,
tous les paradoxes peuvent être conciliés) (Le Kybalion. Traduction del'Anglais
par André Durville, 23 Saint Merri, Paris, tr.29)
Đạo học Đông phương có đồng quan điểm đó, về
bên ngoài thấy mâu thuẫn, nhưng bên trong không bao giờ có sự mâu thuẫn.
Hai bên vách Đền Thánh tạc
hình hoa sen, gương sen và ngó sen trong khung hình chữ nhật đứng, ở giữa có
khung tam giác tạc Thiên Nhãn phản chiếu các tia rẽ quạt rất sinh động. Thiên
Nhãn là Thái Cực, bụi sen trên, bụi sen dưới là Âm Dương tức Lưỡng Nghi, 4 trái
sen hai bên là Tứ Tượng, 8 lá sen là Bát quái, 12 ngó sen là Thập Nhị Khai
Thiên. Lấy hình ảnh sen để biểu tượng cho Dịch Lý của vạn vật luân chuyển không
ngừng.
Theo Lão tử : Tổng hợp
những mâu thuẫn để biến thành một thể mới phong phú hơn. Đó là mục đích của Cao
Đài giáo.
Trình Di cho rằng :
"Không có sự đi nào mà không trở lại . dương xuống đất ắt trở lại mà lên
trên. Âm trở lại mà lên trên, Âm lên ở trên ắt trở lại mà xuống". Đó là tư
tưởng phản phục của Đông phương.
Hãy gác lại phương pháp
luận của Descartes và đôi mắt phân tích của Tây phương, ta sẽ thấy các tôn giáo
ở Đông phương thống nhất tuy không đồng nhất. Ta đừng bắt chước kiểu lý luận
Tây phương chỉ thấy cây mà không thấy rừng, thì ta không thể thấy được triết lý
siêu việt tổng hợop văn hóa toàn cầu của Đạo Cao Đài.
Trong Đền Thánh có tất cả
28 cột rồng. Thượng Đế cưỡi rồng tuần du. Rồng tượng trưng cho sự biến hóa, về
sau người ta lấy rồng làm biểu tượng cho Dịch lý.
Ròng màu xanh tượng trưng
cho Thanh Dương Đại Hội trong Nhứt kỳ phổ độ, do Đức Nhiên Đăng hành khiển.
Rồng màu đỏ tượng trưng
cho Hồng Dương Đại Hội trong Nhị kỳ phổ độ, do Đức Di Đà hành khiển.
Rồng màu trắng tượng trưng
cho Bạch Dương Đại hội trong Tam kỳ phổ độ, do Đức Di Lặc khai hội Long Hoa.
Đức Thượng Đế khi hành
pháp cưỡi rồng :
"Thời thừa lục long,
Du hành bất tức.
Khí phân Tứ Tượng
Oát triền vô biên" (Kinh lễ, Paris, Gasnier
1952, tr.18)
Nghĩa là : Trời ngự xe sáu
rồng hành pháp không ngừng nghỉ, từ Thái Cực phân chia tới Tứ Tượng mà biến hóa
vô thường. Rồng còn là biểu tượng của cội nguồn dân tộc, trong ý "Con Rồng
cháu Tiên". Thế nên, Đạo Cao Đài bắt nguồn từ lòng dân tộc.
Kinh Dịch lập ra 6 hào
tương ứng với 6 Rồng trong quẻ Thuần Càn thuộc Dương.
1/ - Hào sơ cửu tiềm long
(rồng nằm)
2/ - Hào cửu nhị hiện long
(rồng ruộng)
3/ - Hào cửu tam tích tịch
(rồng ruộng cố vùng lên)
4/ - Hào cửu tứ tại huyền
(rồng nhảy lên khỏi vực)
5/ - Hào cửu ngũ Phi Long
(rồng bay lên Trời)
6/ - Hào thượng cửu Càn
long (rồng mạnh bay xa)
Từ hào sơ cửu đến hào
thượng cửu, Dịch lý biến hóa diệu diệu huyền huyền. Đức Cao Đài nhờ đó mà nắm
trọn Thập nhị Khai Thiên mà tạo dựng chúng sanh.
Sự chuyển dịch đó ta thấy
ghi rõ trong Tân luật và kinh điển "Tùy theo sự tiến triển của nhơn sanh
mà sửa đổi". Bởi vì vũ trụ luôn luôn biến động, xã hội luôn luôn thay đổi
thì đâu có giáo điều vĩnh hằng với thời gian. Chỉ có một chân lý thực tại, mà
thực tại thì sinh động và phong phú mầu nhiệm vô cùng. Những lời Thánh dạy chỉ
là ngôn ngữ gợi mở giác ngộ, nếu định kiến hiểu một cách chật hẹp thì chưa đáp
ứng được nhu cầu con người đang biến đổi hằng ngày. Chính Đức Chí Tôn dạy rõ :
Sau tịch đạo Thanh Hương là tịch Đạo Tâm, há không phải là một tiên triệu về
biến dịch của nhơn loại ư ?
"Nhân tâm duy nguy,
Đạo tâm, duy vi". Cái lòng người (nhân tâm) thì đem đến nguy hại, còn Đạo
tâm thì rất yếu. Thiếu thời, con người vô tâm mang chất trọn lành của Thiên
tính. Lớn lên, sống chung với xã hội nảy ra óc tự cao. Đến tuổi già (Ngũ thập
tri Thiên mạng), cái tâm vô sai biệt, cái tâm bình đẳng bát nhã. Vào tuổi đó,
người chưa hòa vào Đại hồn vũ trụ là việc giáo hóa của tôn giáo coi như thất bại.
Tính đến nay, nền Đạo đã
trên 60 năm, người tín hữu phải đạt được vô ngã nhi hành để đáp ứng lại Thiên
điều vô vi nhi trị (cái tự nhiên không cần luật pháp). Tấm lòng hỷ xả bỏ tất cả
để được tất cả. Khi hành Đạo, không còn cái Ta (vô ngã) không phân biệ thân
thuộc hay xa lạ, không phân cách nghèo khó hay giàu có. Mọi người với Đạo tâm
không không, được vậy đó chẳn gphải là Thiên đàng tại thế ư ? Đức Hộ Pháp nói :
"Thiên đàn tại trần thế này chớ không nơi nào khác".
Toàn Đạo bước vào thời Đạo
Tâm để sửa soạn đón Đức Di Lạc mở Hội Long Hoa. Ngài sẽ xuất hiện vào cuối thế
kỷ này.
Chủ trương tổng hợp tôn
giáo của Đạo đưa đến tổng hợp văn hóa toàn cầu. Ngài là một bậc minh triết,
chánh biến tri, thông suốt văn hóa sử chúng sanh, thấu đạt mọi ước muốn của loài
người. Ta phải sửa soạn Đạo Tâm để đón rước Ngài. Một tâm hồn hướng thượng, một
tư tưởng tinh khiết trong mỗi con người. Nếu không, Ngài xuất hiện mà ta không
thấy vì ta thiếu đạo tâm, mắt bị vật dục ám ảnh. Thầy đã dạy : Cơ thể Phật Tiên
trong lành phải có huệ nhãn mới trông thấy được. Bình minh Thánh triết hay
hoàng hôn u tối là tùy thuộc vào Đạo tâm của mỗi chúng ta.
Tại sao ta phải thờ Đức
Chí Tôn trên nền Bát Giác ?
Xin nhắc lại, Thầy đã dạy
: "Ngôi Thầy là Thái Cực, Thái Cực sanh Lưỡng Nghi, …. Tứ Tượng, …. Bát
Quái".
"Âm Dương là cái pháp
nhiệm màu sâu kín của Thiên cơ. Âm Dương hiệp nhứt thì phát khởi Càn (Trời)
Khôn (Đất). Khí Âm cướp một phần chơn dương của ngôi Càn, Càn mới hóa ra Ly (Ly
là Thái Dương, mặt nhựt). Khôn đặng chơn dương biến thành Khảm (Khảm là Thái
âm, mặt nguyệt). Càn lìa ngôi mà thất vị. Tiên Thiên mới biến ra Hậu Thiên, Hà
Đồ phải hóa Lạc Thư mà gọi rằng Tứ cá Âm Dương cộng thành Bát Quái. Âm Dương
lúc ấy giáng thăng, động tịnh mà dưỡng dục muôn loài".
Người ta cho rằng vua Phục
Hy đã tạo ra Tiên Thiên Bát Quái. Theo "Từ Hải" thì Phục Hy có tên là
Bào Hy, Thái Hạo, 1 trong 3 vị vua thời thái cổ. Hai vị kia là Toại Nhân và
Thần Nông. Phục Hy sống vào thế kỷ 43 trước Tây Lịch (có sách nói thế kỷ 34
TTl) . Ông làm vua được 115 năm, day dân săn bắn, đánh cá, nuôi súc vật và đặt
ra Bát Quái.
Kinh Dịch nói về việc vua
Phục Hy chế ra Bát Quái như sau : "Ở sông Hà hiện ra bức đồ, ở sông Lạc
hiện ra trang chữ, Thánh nhân phỏng theo đó". (Hà xuất đồ, Lạc xuất thư,
Thánh nhân tắc chi). (Thiên Hệ Từ Thượng truyện), chương 11
Như vậy, Phucï Hy phòng
theo bức đồ hiện ra ở sông Hà và vua Vũ thấy chữ hiện ra ở sông Lạc mà vạch ra
Bát Quái.
Thiên Hệ Từ Thượng truyện,
chương 2 ghi rõ hơn : "Ngày xưa, họ Bào Hy (tức Phục Hy) cai trị thiên hạ,
ngửng lên thì xem các hình tượng trên trời, cuối xuống thì xem các phép tắc
dưới đất, xem sắc của chi muông cùng những thích nghi của từng miền, gần thì
lấy ở thân mình, xa thì lấy ở vật, rồi làm ra Bát Quái để thông suốt cái đức
của Thần minh và điều hòa cái tình của vạn vật".
Do đó, người ta mới nói
quẻ của Phục Hy vạch ra là Tiên Thiên Bát Quái.
Kinh dịch chép rằng :
"Long Mã là vật linh kết hợp bởi 8 tinh anh của Trời Đất, xuất hiện dưới
huệ nhãn của vua Phục Hy là một bậc Chí Thánh, xem được các vật trong cõi vô
hình, thấy rõ linh vật của Trời Đất". Long Mã đội bản Hà Đồ là sách Trời
ban cho vua Phục Hy để trị thiên hạ. Mãi tới thời Hán Võ Đế (140-86 TTL), Khổng
An Quốc, cháu thứ 12 của Đức Khổng Tử là đại thần của vua Hán Võ Đế lập lại Hà
Đồ, nhưng phải đến 12 thế kỷ sau, đời Tống Huy Tông (1101-1125) hai hình đó mới
được in trên sách.
Còn về lạc Thư, tương
truyền vua Võ sanh khoảng 2206 năm trước Tây lịch, thủy tổ nhà Hạ. Mùa nước
lụt, vua ra giữ nước ở bờ sông Lạc, một chi nhánh của sông Hoàng Hà. Khi nước
rút, vua thấy một con rùa Thần hiển hiện, trên lưng có 9 số, vua Võ theo đó mà
vạch thành Cửu Trù Hồng Phạm.
Tóm lại, Tiên Thiên Bát
Quái vẽ tượng Âm Dương tức Thái Cực sanh lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng,
Tứ Tượng biến ra Bát Quái.
PHẦN THỨ BA
BỔN NGUYÊN LỜI DẠY CỦA ĐỨC CHÍ TÔN
CHƯƠNG I
THÁNH THI, THÁNH NGÔN
Bất cứ một tôn giáo nào,
muốn việc truyền giáo thành công đều phải tạo được đức tin và cảm hứng trong
nhơn sanh. Chư Chức sắc biết đồng lao cộng khổ với các tín hữu, biết khinh thường
địa vị và quyền lợi để làm gương sáng cho những ai muốn làm công quả để đổi lấy
cái quả tốt đẹp hơn cuộc đời hiện tại. Nếu được những Chức sắc hành đạo có đức
độ như vậy, cơ đạo sẽ sớm phổ truyền khắp năm châu.
Tuy nhiên, người đệ tử Cao
Đài phải biết nhẫn nại chờ đợi Đức Chí Tôn đến dạy Đạo. Ba vị Thiên sứ phải
trãi qua nhiều đem học hỏi với Thất Nương, với các chơn linh khuất mặt, với ông
AĂÂ rồi mới biết ông Trời là ai ! Chữ Nhẫn đối với người tín đồ rất quan trọng,
vì biết nhẫn mới học được nghĩa lý sâu xa, mà Đạo vốn hư hư thực thực, cần trì
chí bền lòng.
Mặt khác, Thánh ngôn, kinh
điển của Đạo Cao Đài rất khác biệt nhiều tôn giáo, với lới hành văn nôm na, vắn
tắt, không lý luận, không chứng minh dài dòng. Những chữ chỉ cốt để khiêu gợi
cho một lý lẽ cao thâm, để người đạo nghe tiếng vọng trong lòng của mình mà
giác ngộ.
Sự lưng chừng, sự tối tăm
của lời văn và cách lập lập nửa vời kích thích óc tò mò để tìm hiểu cái bí
nhiệm của thiêng liêng. Nhờ đó mà gợi mở được những ý tưởng thâm sâu tiềm tàng
trong mỗi người ưa suy luận.
Văn trong Thánh ngôn và
Kinh điển tràn đầy "Văn dĩ tải Đạo" (Văn để chở Đạo), và "Thi dĩ
ngôn chí" (Thơ chứa lời giới thiệu), lẫn lộn giữa Thánh dạy và thi ca
giông giống như Nam Hoa Kinh của Trang Tử hay Đạo Đức Kinh của Lão Tử.
Do cái tri và hành đi đôi
như vậy nên có người đã nhận định rằng "Đông Phương không có triết gia mà
chỉ có hiền giả và thi nhân" ( Triết học Đông Phương, Saigon 1971,
tr.135). Trong Thánh giáo ta thấy nhan nhản thi ca với lời lẽ của bậc hiền triết.
1/ - Về Thánh Thi :
Đạo Cao Đài chọn Đường thi
làm Thánh Thi chuyển tải Đạo lý. Bởi vì đời Đường (618-907) là thời đại hoàn
kim của thơ ca, lấy nguồn cảm hứng từ "Tam giáo đồng nguyên", nên nảy
sanh Thi Tiên Lý Thái Bạch, Thi Phật Vương Duy (tức thơ thiền) và Thi Thánh Đỗ
Phủ vì người đời coi thơ ông như chân lý cuộc sống. Nội dung Đường Thi phù hợp
với mục đích của Tôn giáo Cao Đài, trong ý niệm đồng văn hóa. Tuy nhiên, ta vẫn
thấy có nhiều thể thơ đặc biệt Việt Nam như song thất lục bát chẳng hạn.
Trong Đạo Cao Đài, về
Thánh Thi các Đấng giáng cho đa dạng. Đừng đầu là tập NỮ TRUNG TÙNG PHẬN, viết
theo thể song thất lục bát gồm 350 vế 1400 câu, thêm câu kết là 1401 câu :
"Đời đời danh chói
Cao Đài"
Mục đích của tác phẩm là
"Giục tài nữ sĩ sánh bì cùng Nam".
Tác phẩm bị hạn chế về
thời phong kiến. Bà dạy phận con gái, làm vợ, công việc trong nhà ngoài ngõ,
bổn phận dạy trẻ, thờ kính cha mẹ, kính thầy cô …
Khi tác phẩm ra đời, nước
ta còn lệ thuộc nên Bà dạy :
Nào quốc thể người khi kẻ thị,
Nấu sôi cái máu anh phong,
Nào dân đen phép quỉ hớp hồn.
An bang tế thế một lòng lo âu.
Ngoài tác
phẩm tràng thi đó, còn những tác phẩm vừa như GIÁC MÊ KHẢI NGỘ, NGỤ
ĐỜI của Đức Lý Thái Bạch, DÒNG BÍCH LẶNG của Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng, TÌNH ÁI của Thất Nương …
Trên đây chỉ sơ lược về
thi ca trong Đạo vì mục đích chính của bài nghiên cứu này là viết về những lời
dạy của Đức Chí Tôn.
Ngay từ những ngày đầu dạy
Đạo, có người hỏi hình dạng của Ngài như thế nào, Ngài trả lời không những tự
vịnh phong cách của mình mà Ngài còn tiên tri việc Đạo như sau :
Tròi trọi một mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náo nương chân.
Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,
Đỡ gót nhờ con hạc trắng ngần.
Bố hóa người đời gây mối Đạo,
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân.
Chừng nào đất dậy Trời thay xác,
Chư Phật Thánh Tiên xuống ở trần.
(TNHT 1, tr.79)
Có người lại hỏi Bạch Ngọc
Kinh như thế nào ? Ngài liền "Tân tả Bạch Ngọc Kinh" :
Một tòa Thiên các ngọc làu làu
Liền bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,
Muôn trùng nhiếp khảm hiệp Nam Tào.
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao.
Sau cùng, các đệ tử biết
đó là Ngọc Hoàng Thượng Đế Giáo Đạo Nam phương.
NGỌC ẩn thạch kỳ ngọc tự cao,
HOÀNG Thiên bất phụ chí anh hào.
THƯỢNG ban phúc hạnh nhơn đồng lạc,
ĐẾ tạo lương phương thế cộng giao.
GIÁO hóa nhơn sanh cầu triết lý
ĐẠO truyền thiên hạ ái đồng bào.
NAM nhơn tỉnh cảm sanh cao khí,
PHƯƠNG tiện tu tâm kế diệt lao.
Đức Ngọc Đế đã thật sự
giáng trần dạy Đạo ở Nam bang thì ách dân nạn nước sắp mãn.
Hảo Nam bang ! Hảo Nam bang !
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
Thi ân tế chúng thiên tai tận.
Nhược thiệt nhược hư
vạn đại an.
Chí bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng tri giác thế trí cao ban. (TN1, tr.80)
Bổn nguyên lời dạy của Đức
Chí Tôn nằm trọn trong Thánh Ngôn. Như thế, những điều gì không có trong Thánh
Ngôn thì phải không có trên Thiên Bàn và không có trong Giáo lý Đại Đạo. Thánh
Ngôn lại hư hư thực thực, có thật mà cũng có giả, nên Đức Chí Tôn dạy :
"Điều gì hợp với lòng chư môn đệ là Thánh ý, điều gì không hợp là của tà
quái". Nếu hiểu được như vậy, độc giả sẽ thấy rõ Đạo Cao Đài là một tôn
giáo thuận khoa học tiến bộ, khi đã loại bỏ những điều trái với đời thường.
Một ít nhà nghiên cứu cho
rằng Giáo lý Cao Đài có nhiều mâu thuẫn là do họ đọc cơ bút của nhiều chi phái
hay nhiều đồng tử khác nhau, nhưng những mâu thuẫn đó làm nổi bật cái bổn
nguyên lời dạy của Đức Chí Tôn, chớ không làm lu mớ Thánh chất. Vả lại, Đạo Cao
Đài chỉ truyền bá hơn một giáp nên Giáp lý còn trong tình trạng hồng mông, chưa
được hệ thống hóa. Đức Chí Tôn đã ban cho loài người một tôn giáo Đại đồng
huynh đệ, một nền văn hóa tổng hợp thì nhân loại có bổn phận phải làm cho nó
trở thành cao thượng tốt đẹp vì : "Đại Đạo truyền thế giả. Thiên hạ vi
công quả" và "Nhân năng hoằng Đạo, phi Đạo hoằng nhân" (Con
người mở rộng Đạo chớ không phải Đạo mở rộng được người) ( Vệ Linh Công XV,
Luận Ngữ), chớ Đức Chí Tôn không làm thay cho loài người. Nếu Thầy làm thay thì
loài người còn gì để trao dồi mình trở thành Thánh thiện.
Xét lại quá trình tiến
triển Phật giáo trong Tam Tạng Kinh thì Kinh Tạng và Luật Tạng có trước giống
như Cao Đài giáo. Còn luật Tạng vào khoảng 400 năm sau Đức Thích Ca tịch diệt
mới xuất hiện và tư tưởng hình nhi thượng học nghiên cứu về "Không
luật" mới phát sinh, đưa đến sự ra đời của Phật giáo Đại Thừa.
Như thế, bổn nguyên lời
dạy của Đức Chí Tôn chưa được triển khai và hệ thống hóa đúng mức là chuyện
bình thường. Ai thắc mắc thì chính người đó sẽ làm cho Giáo lý Cao Đài sáng
chói trên hoàn vũ, chẳng hạn như nhà văn Pháp Gabriel Gbron, ông cũng mới
nghiên cứu chừng mực nào đó thôi, chưa kể những chỗ còn sơ lầm.
Những người nghiên cứu về
Đạo Cao Đài đương đại thấy những điều chưa vừa lòng là tại người viết thiểu trí
chớ không phải giáo lý không siêu việt. Đạo Cao Đài rất tự do về mặt tư tưởng
(phải trái đôi đường tùy ý chọn), những bài nghiên cứu về Đạo Cao Đài của các
học giả trong và ngoài nước đều được trân trọng. Bởi lẽ Đạo Cao Đài chủ lấy trí
tuệ hiểu biết làm nền tảng chớ không cầu lấy sự mê hoặc chúng sanh làm lợi khí.
Vì chính Thầy đã dạy :
"Thầy đến lập cho các con một nền chơn Đạo, tức là mọi sự chi dối trá đều
chẳng phải của Thầy" (TNHT, QI, tr.77)
2/ - Về
Thánh Ngôn :
Bổn nguyên lời dạy của Đức
Chí Tôn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có thể chia làm 9 phương diện :
I/ -
Quyền lực Đức Chí Tôn :
1/- Khí hư vô sanh có một
Thầy … Nếu không có Thầy thì không có chi torng Càn Khôn thế giới này, mà nếu
không có hư vô chi khí thì không có Thầy. (Tr.31-Q,1)
2/ - Một chơn thần của
Thầy mà hóa sanh thêm chư Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn bộ nhơn
loại trong càn khôn thế giới nên chi các con là Thầy, Thầy là các con.
(Tr.30-Q,1)
3/ - Khai Thiên Địa vốn
Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy, Thầy đã nói một chơn thần mà biến càn khôn thế
giới và cả nhơn loại.
Thầy là chư Phật, chư Phật
là Thầy, các con là chư Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có
các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật. (Tr.48-Q,1)
4/- Thầy khai Bát Quái mà
tác thành càn khôn thế giới nên mới gọi là Pháp, Pháp có mới sanh ra càn khôn
vạn vật rồi mới có người, nên gọi là Tăng.
Thầy là Phật chủ cả Pháp,
Tăng, lập thành các D(ạo mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy. (Tr.48-Q.1)
5/ - Thầy là Đức Jéhovah
của dân Hébreux, vị chủ tể của quân lực dân Israel, vị Thánh vô danh của dân Do
Thái, Đức Đại Từ Phụ của Chúa Jésus cứu thế. Con chỉ cần cầu nguyện Thầy với
danh hiệu Cao Đài thì sẽ có sự cảm ứng chấp thuận. (Tr.124-Q.1.dịch)
6/- Chi chi hữu sanh cũng
do bởi chơn linh Thầy mà ra, hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là cha của sự sống, vì
vậy mà lòng hóa sanh của Thầy vô cùng tận. (Tr.62-Q.2)
7/- Cái mạng sống là Thầy.
Mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy."
(Tr.62-Q.2)
8/ - Thầy các con là ông
Thầy Trời, nên biết một ổng mà thôi, thì đủ, nghe à! (Tr.45-Q.1)
9/ - Nơi Bạch Ngọc Kinh cả
thảy đều là con cái Thầy tức là anh em với nhau. (Tr.57-Q.1)
10/ - Chẳng một ai dưới
thế này còn đặng phép nói rằng thế quyền Thầy mà trị phần hồn cho nhân
loại" (Tr.3-Q.1)
II/ - Trời Người hiệp nhứt
1/ - Lập "Tam kỳ phổ
độ" này duy Thầy cho "Thần" hiệp "Tinh Khí" đặng hiệp
đủ Tam bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh. (Tr.12-Q.1)
2/ - Thầy đến đặng hườn
nguyên chơn thần cho các con đắc Đạo. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại
đó. (Tr.12-Q.1)
Cái chơn thần ấy mới đặng
phép đến trước mặt Thầy. (Tr.6-Q.1)
3/ - Cái chơn thần buộc
phải tinh ấtn trong sạch mới nhẹ hơn không khí ra ngoài càn khôn được. Nó phải
có bổn nguyên chí Thánh chí Tiên chí Phật mới xuất Thánh Tiên Phật đặng.
(Tr.29-Q.1)
4/ - Phải có một chơn linh
tinh tấn mới mầu nhiệm, huyền diệu, phải đặng trường trai mới đặng linh hồn
tinh tấn, phải tập tành chí Thánh Tiên Phật mới phò cơ dạy Đạo cả chúng sanh.
(Tr.7-Q.1)
5/ - Các con phải bỏ xác
trần, mà bông trái thiêng liêng các con sanh hóa chơn thần, chơn thần lại biến
hằng muôn thêm số tăng lên hoài. Aáy là Đạo. (Tr.30-Q.1)
6/ - Đạo cũng do nơi phàm
mà phát ra và tiếp lấy cái thiêng liêng của Thầy mà hiệp đồng mới sanh sanh hóa
hóa thấu đắc càn khôn. (Tr.79-Q.1)
Lành dữ nơi mình chiêu phước họa
Thành tâm ắt thấy hết thần minh. (Tr.114-Q.1)
Người dưới thế này muốn
giàu có phải kiếm phương thế mà làm ra của. Aáy là về phần xác thịt, còn Thần,
Thánh, Tiên, Phật muốn cho đắc Đạo phải có công quả. (Tr.26-Q.1)
7/ - Muốn đến Thầy thì
phải cầu nguyện. Thầy không bao giờ không cảm ứng với những lời cầu nguyện chơn
thành. (Tr.124-Q.1) (dịch)
8/ - Thầy cho một quyền
rộng rãi cho cả nhơn loại càn khôn thế giới nếu biết ngộ một đời tu đủ trở về
cùng Thầy đặng. (Tr.70-Q.1)
9/ - Lương tâm của các con
là một khiếu thiêng liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội
lỗi và ban thưởng trong việc nhơn đức, làm một việc phải tức là do ý Trời, phạm
một nét vạy tà là cãi nơi Thiên luật. (Tr.73-Q.1)
10/ - Sự thương yêu là
chìa khóa mở Tam Thập Lục Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh, kẻ nào
ghét sự thương yêu thì chẳng hề qua khỏi cửa luân hồi. (Tr.43-Q.2)
11/ - Sự hành tàng nào về
Đạo mà vừa lòng trong cả chư Chức sắc và chư tín đồ, ấy là hiệp Thiên ý. Còn
điều nào mà phần nhiều môn đệ của Thầy chẳng khứng chịu theo, ấy là bất hiệp
Thiên ý đó. (Tr.47-Q.2)
12/ - Kinh điển giúp đời
siêu phàm nhập Thánh chẳng khác chi đũa ăn cơm, chẳng có đũa, kẻ có đủa bốc tay
ăn cũng đặng. (Tr.5-Q.2)
III/ -
Quan niệm về vũ trụ và con người :
1/ - Đạo tức là con đường
để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần dò theo mà hồi cựu vị. Đạo là đường của các
nhơn phẩm dò theo mà lánh khỏi luân hồi. (Tr.8-Q.1)
3/ - Khi chưa có chi trong
càn khôn thế giới thì khí hư vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái
Cực.
Thầy phân Thái Cực ra
Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến
hóa vô cùng mới lập ra càn khôn thế giới.
Thầy lại phân tánh Thầy mà
sanh ra vạn vật là vật chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm gọi là chúng sanh.
(Tr.62-Q.2)
4/ - Có Thầy mới có các
con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật (Tr.48-Q.1)
5/ - Nên chi các con là Thầy, Thầy là các con.
(Tr.30-Q.1)
6/ - Trần là cõi khổ để
đọa bậc Thánh, Tiên có lầm lỗi. Aáy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi
cũ, hoặc trả không xong quả, phải mất cả chơn linh là luân hồi, nên kẻ bị đọa
trần gọi là khách trần. (Tr.3-Q.2)
7/ - Đài Nghiệt cảnh sẽ là
nơi rọi sáng các việc lỗi lầm. (Tr.83-Q.1)
IV/ -
Huyền Diệu Thiêng Liêng :
1/ - Thầy chưa giáng cơ
lậo Đạo tại nước Nam chứ chư Thần, Thánh, Tiên, Phật dùng huyền diệu này mà
truyền Đạo cùng vạn quốc. (Tr.57-Q.1)
2/ - Đạo mới khai lập, tuy
xuất hiện chưa đầy một năm chứ chư Tiên, chư Phật đã lập cùng cả năm châu.
(Tr.57-Q.1)
3/ - Thầy chẳng dùng sự
chi mà thế giới gọi là tà quái, dị đoan mà nếu xảy ra một ít dị đoan trong Đạo
đã dùng lỡ thì ấy là tại nơi tên của một vài môn đệ đó, nếu chẳng giữ theo lẽ
chánh mà hành Đạo và bày biện nhiều sự vô lối thì torng ít năm sau đây sẽ trở
nên một mối Tả Đạo mà các con đã từng thấy. (Tr.42-Q.2)
V/ - Huyền Cơ Lập Giáo :
1/- Thầy nhứt định đến
chính mình Thầy độ rỗi các con chẳng chịu giáo chánh giáo cho tay phàm nữa.
Nhưng mà phải buộc lập chánh thể có lớn có nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt
lẫn nhau anh trước em sau mà đến nơi Bồng-Đảo. (Tr.18-Q.1)
Il faut que je me serve
moi-même maintenent d'un moyen plus spirituel pourvous convainere. Vous ne
pourres pas nien devant le grand Judgenment-Général que je ne sauve pas
I'humanité partous moyens plausibles. (Tr.50-Q.1)
Dịch : Nay Thầy phải tự
tìm lấy một phương pháp huyền diệu hơn để thâu phục các con. Các con sẽ không
còn chối cãi nữa được trước Tòa Phán xét chung rằng Thầy không cứu vớt nhơn
loại bằng những phương pháp công hiệu. (Tr.122-Q.1)
Ta vì lòng đại từ, đại bi
vẫn lấy đức hiếu sinh mở dựng nên mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ, tôn chỉ để vớt
những kẻ hữu phần vào nơi địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi và
nâng những kẻ tánh đức bước vào cõi nhàn cao hơn phẩm hèn khó nơi trần thế này.
(Tr.64-Q.1)
Nơi xứ này dân tình rất
thuần hậu ôn hòa nên Thầy đếnc ũng như Chúa cứu thế đã đến với chúng con để bài
trừ tà thuyết và truyền bá chơn Đạo trên toàn cầu. (Tr.123-Q.1)
2/ - Thầy lại đến lập
trong nước các con một nền chánh Đạo đủ tư cách độ rỗi chúng sanh. (Tr.77-Q.1)
3/ - La nouvelle doctrine que j'enseigne a pour but de
vous nettre dans une communauté d'intérêt et de vie. Soyez done unis par ma
volonté et préchez su monde la paix et la concorde. (Tr.51-Q.1)
Dịch : Giáo lý của thầy có
mục đích dạy dỗ các con hòa hợp nhau trong sự sống chung cộng đồng quyền lợi và
sinh hoạt. Vậy các con hãy chung hiệp nhau mãi mãi theo ý muốn của Thầy và hãy
truyền bá khắp hoàn cầu thuyết hòa bình tương thân tương ái. (Tr.122-Q.1)
4/ - Hãy đọc Thánh Ngôn
của Thầy. Giáo lý của Thầy sẽ là đại đồng. Nếu nhân loại tu hành thì đó sẽ là
nền hòa bình hứa hẹn chung cho tất cả các dân tộc. (Tr.122-Q.1)
5/ - Chánh sách cộng hòa
yên tịnh là chánh sách của các con đặng dụng lập Đạo mà thôi. (Tr.61-Q.2)
6/ - Mở một mối Đạo chẳng
phải là sự thường tình mà sanh nhằm đời đặng gặp một mối Đạo chẳng phải dễ.
Muốn lập thành tất phải có điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục
lòng kẻ có công, có phạt mới răn đặng lòng tà vạy. (Tr.53-Q.1)
7/ - Khi Ngọc Hư định cho
Hiệp Thiên Đài cầm số mạng nhân sanh, lập thành chánh giáo thì Đại Từ Phụ lại
trở giáp giao quyền ấy cho Cửu Trùng Đài. (Tr.86-Q.2)
8/ - Từ đây trong nước Nam
duy nhất có một Đạo chơn thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con gọi là
"Quốc Đạo" (Tr.43-Q.1)
VI/ -
Đối Với Các Tôn Giáo :
1/ - Vốn từ trước Thầy đã lập ra Ngũ Chi Đại Đạo là :
Nhơn Đạo
Thần Đạo
Thánh Đạo
Tiên Đạo
Phật Đạo
(Tr.17-Q.1)
2/ - Từ trước ta giáng
sanh lập Phật giáo gần 6000 năm thì Phật giáo chánh truyền gần thay đổi. Ta
thường nghe chúng sanh nói Phật giả vô ngôn. Nay nhứt định lấy huyền diệu mà
giáo Đạo, chớ không giáng sanh nữa đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn.
(Tr.19-Q.1)
3/ - Chúa cứu thế đã đến
với các con. Người đã phải chịu đổ máu Thánh để chuộc tội cho loài người. Trong
2000 năm nữa vắng mặt người các con làm gì hữu ích ? Các con truyền bá Đạo
Người nhưng chính các con cũng không hiểu chi cả. Các con lại làm sai lạc bản
chất tôn chỉ của nền Thánh giáo, nhân loại phải chịu đau khổ vì sự biến thể của
các Thánh tông đồ. (Tr.120-Q.1)
4/ - La Sainte doctrine du Christiannisme ne
sert qu'à envenimer l'ambition des fort contre les derniers.
Il faut une nouvelle doctrine capable de
maintenir l'humanité dans l'amour des créetures. (Tr.46-Q.1)
Dịch : Thánh Đạo của Chúa cứu thế (vì sự hiểu
lầm) làm tăng gia dục vọng của kẻ mạnh đối với người yếu thế và giúp giáo cho
bọn trên hiếp dưới.
Phải có một giáo lý mới mẻ
đủ khả năng kiềm chế nhơn loại trong sự thương xót chúng sanh. (Tr.121-Q.1)
5/ - Cette doctrine eu lieu d'apporter à
l'humanité la paixet la concorde, lui apporte la dissension et la guerre. Voi
là pourquoi je viensvous apporter moi-même la paix tant promise. (Tr.23-Q.1)
Dịch : Giáo lý ấy đáng lẽ phải đem lại hòa bình
và tương
ái cho loài người, nhưng trái lại nó gây mầm chia rẽ và chiến tranh. Bởi thế
nên nay chính thầy phải đến để đem lại cho các con nền hòa bình đã từng hứa
hẹn. (Tr.120-Q.1)
6/ - Người sống trên thế
gian này dầu thuộc giống dân nào cũng chỉ có một cha chung mà thôi. Aáy là
Trời, đang chế ngự số mạng của các con. Tại sao các con lại chia rẽ nhau vì sự
bất đồng Đạo lý mà chính các con đều phải chung chịu đau khổ rửa tội của các
con ở cõi thế gian này. (Tr.123-Q.1)
VII/- Thờ Tự Và Tế Lễ :
1/- Lạy là gì ?
Là tỏ ra bề ngoài lễ kính
trong lòng. (Tr.11-Q.1)
2/- Khi bái lễ, hai tay co
chắp lại, song phải để tay trái ấn tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp
lên trên.
Chắp hai tay lạy là tại
sao ?
Tả là Nhựt, Hữu là Nguyệt,
vị chi Âm Dương, Âm Dương hiệp nhứt, phát khởi càn khôn. Sanh sanh hóa hóa tức
là Đạo. (Tr.11-Q.1)
3/- Thầy lập Phật giáo vừa
khi khai Thiên lập Địa nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo rồi mới tới Nho
giáo. Nay là hạ ngươn hầu mãn, phải phục lại như buổi đầu nên phải phản tiền vi
hậu.
Tỉ như lập Tam giáo qui
nhứt thì :
Nho là
trước
Lão là giữa
Thích
là chót
Nên Thầy phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần
mà đưa chúng nó lại vô vi chi khí, chính là Niết Bàn đó vậy. (Tr.48-Q.1)
Thầy dặn các con như đàn
nội chẳng nghiêm, Thầy không giáng. (Tr.51-Q.1)
5/ - Thiên phong là là để
cho bậc Thánh, Tiên, Phật lìa trần phải lắm dày công cùng chúng sanh mới trông
mong hồi cựu phẩm đặng. (Tr.40-Q.2)
VIII/- Hạnh Người Tu :
1/ - Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng luyện
Đạo. (Tr.30-Q.1)
2/ - Một giọt máu là một
khối chơn linh. Như các con dâm quá độ thì sát mạng chơn linh ấy. Khi các con
thoát xác thì nó đến tại Nghiệt-Đài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội
cho đặng.
Vậy phải giữ gìn giới cấm
ấy cho lắm. (Tr.33-Q.1)
Hạnh ngay thật là nét yêu
dấu của Thầy. (Tr.10-Q.2)
3/ - Các con phải cẩn
ngôn, cẩn hạnh, thà là các con làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con dối
mà phải trọng hình đồng thể. (Tr.66-Q.2)
Nho nhã con tua tập tánh
tình,
Dưới đời đừng tưởng một
mình lanh.
Một câu thất đức thiên
niên đọa,
Nhiều nỗi trầm luân bởi
ngọn ngành. (Tr.112-Q.1)
4/ - Hạnh khiêm nhường là
hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Các
con phải khiêm nhường sao cho bằng Thầy. (Tr.41-Q.1)
5/ - Các con hiền mà các
con dữ, các con yếu mà các con mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con
nhịn nhục mà là hành phạt, cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế
tình thì là gần ngôi Tiên Phật đó. 6/- Các con phải giữ gìn đức hạnh đối với kẻ
trên bằng chữ khiêm hòa, đối với kẻ dưới bằng chữ khoan dung. (Tr.95-Q.1)
7/ - Chẳng những phải cứu
trợ kẻ ngoại đạo mà lại cứu kẻ nghịch cùng mình trong cơn nguy nữa. (Tr.93-Q.2)
8/ - Phải dồi lòng trong
sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm gương soi mình hằng bữa, phải thương yêu nhau, giúp
đỡ nhau dường như con một nhà, rồi cái thương yêu sự giúp đỡ nhau ấy sẽ dìu các
con vào tận chốn Cực Lạc thiêng liêng để tránh khỏi nơi cùng khổ tiều tụy.
(Tr.14-Q.2)
Quyền biến dầu dùng khi
buổi ngặt
Dằn lòng nhớ tránh kế mưu
gian. (Tr.15-Q.1)
9/ - Sự thương yêu là
giềng bảo sanh của càn khôn thế giới. Có thương yêu nhơn loại mới hòa bình, cán
khôn mới anh tịnh.
10/ - Các con thường để
mắt dòm lên thấy kẻ cao sang thì các con cho rằng các con vô phúc, còn nhìn
xuống thấy đồng chủng thấp hèn thì các con lại đem lòng khinh bạc. Aáy là một
điều vô Đạo. (Tr.94-Q.1)
11/ - Các con đã rõ Đạo
thì phải biết đức cần kiệm là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian
này. Những sự lãng phí se sua ở đời này Thầy cũng cho là một việc tổn đức vậy.
(Tr.48-Q.1)
Mình Thánh mình Hiền mình biết lấy
Tặng phong quá tiếng chớ nhờ ai. (Tr.111-Q.1)
12/ - Các con thương mến nhau, dìu dắt nhau, chia vui
sớt nhọc nhau, ấy là các con hiến cho Thầy một sự vui ve đó. (Tr.90-Q.1)
13/ - Đạo tại lòng bác ái
và chí thành.
Bác ái là hay thương xót
sanh linh hơn thân mình cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà
coi thiên hạ bằng Trời Đất.
Còn chí thành là mỗi việc
lấy lòng thành thật mà đối đãi trong đời và trong Đạo dù kẻ phú quý đến bậc nào
đi nữa mà không có lòng bác ái và chí thành thì không làm chi nên việc.
(Tr.45-Q.2)
14/ - Tham gian nhập vào
nhà thì nhà không chánh giáo, tham gian nhập vào nước thì nước hết chơn trị,
tham gian đã lộng toàn thế giới thì thế giới hết Thánh Thần. (Tr.63-Q.2)
15/ - Ngày nào các con còn
trông thấy một điều bất bình ở đời này thì Đạo chưa thành vậy. (Tr.98-Q.1)
IX/- Luật Phản Diện :
1/ - Quỉ Vương là tay diệt hóa. (Tr.69-Q.2)
2/ - Ngày nay, Đạo đã khai
tức là tà khởi. (Tr.34-Q.1)
3/ - Buổi Bạch Ngọc Kinh
và Lôi Âm Tự lập pháp "Tam kỳ phổ độ", Quỉ Vương đã khởi phá khuấy
chơn Đạo, đến danh Ta nó còn mượn, duy ngai Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.
Lại còn hiểu rằng Ta đến
với huyền diệu này, mượn cơ mầu nhiệm, hiệp Tam Thập Lục Động đổi gọi Tam Thập
Lục Thiên. Các bên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật bị mạo nhận mà lập nên Tả Đạo.
(Tr.38-Q.1)
Thầy nói trước cho các con
biết mà giữ mình, chung quanh các con dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ
lang ở lẫn lộn với các con. (Tr.13-Q.1)
4/ - Thầy thả một lũ hổ
lang ở lộn cùng các con, lại hằng ngày xúi biếu nó cắn xé các con, song Thầy
cho các con mặc một bộ thiết giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức các
con. (Tr.69-Q.1)
5/ - Đạo là vật rất hữu
ích như giáp hữu ích cho thân các con. Nếu các con bỏ giáp thì thân các con
trần lỗ còn bỏ Đạo thì các con ở dưới phép Tà Thần. (Tr.34-Q.1)
6/ - Những sự phàm tục đều
là mưu kế của tà mị yêu quái cốt để ngăn trở bước đường Thánh Đạo của các con.
Những mưu quỉ quyệt ấy do lịnh của Thầy dùng để thử các con. (Tr.34-Q.1)
7/ - Các con không Đạo thì
là tôi tớ ủy mị. (Tr.70-Q.1)
8/ - Thầy đến lập cho các
con một nền chơn Đạo, tức là mỗi sự chi dối trá là chẳng phải của Thầy.
(Tr.77-Q.1)
9/ - Thầy đến là chủ ý để
dạy cả nhơn sanh đặng hòa bình chớ chẳng phải đến đặng giục thêm nghịch lẫn
nhau. (Tr.77-Q.1)
Thầy lại thấy nhiều đứa
chưa hiểu thấu huyền diệu là gì, bị người chê rồi còn biếm nhẻ nữa phải nghịch
chánh lý chăng ?
Trong phần đông các con có
nhiều kẻ ấy. (Tr.45-Q.1)
CHƯƠNG II
THỐNG HỢP VĂN HÓA
Thời khoa
học điện tử đã đưa nhân loại đến chỗ hợp đồng, trộn lẫn nhiều văn hóa đa dạng.
Đạo Cao Đài chủ trương đại đồng tiểu dị,thống nhất mà không đồng nhất trong nề văn hóa các
dân tộc.
Việc "Qui tam
giáo,hợp ngũ chi", đó là du nhập văn hóa bên ngoài để biến thành của mình.
Thánh chỉ của Đức Cao Đài nhằm mục đích nối tiếp truyền thống của nền văn hóa
Việt Nam.Thật vây, thử hỏi các nhà ngôn ngữ có bao nhiêu tiếngViệt có gốc từ
chữ Hán, Pháp…Các nhà dân tộc học hãy trả lời cho ta rõ có bao nhiêu nghi lễ
Trung Hoa thành nghi lễ Việt Nam. Đạo Cao Đài theo truyền thống tổ tiên, du
nhập, gạn lọc "biến của người thành của ta"và phát triển lên tầm cao
mới. Đó không phải là lắp ghép tạm bợ "hổ lốn" các Thần Thánh thế
giới lên trên một Thiên bàn Cao Đài mà là cả quá trình công phu công quả của
hằng triệu tín đồ qua mặc khải của Đấng Toàn Năng. Việc phượng thờ nơi Tòa
Thánh Tây Ninh xác nhận điều đó.
Chuyện du nhập văn hóa
không riêng nơi người Việt Nam nói chung, đệ tử Cao Đài nói riêng mà các nước
trên thế giới, không nền văn hóa lớn nào mà không trải qua quá trình chế biến
văn hóa. Nền văn hóa Pháp chẳng hạn : Chủ nghĩa nhân văn thời Phục Hưng
(Renaissance) ảnh hưởng sâu đậm văn hóa La Mã, chủ nghĩa cổ điển thì in dấu
thời cổ Hy Lạp, còn "thế kỷ ánh sáng" lấy nguồn từ văn hóa
Anglo-Saxon và chủ nghĩa lãng mạn Pháp rút từ nền văn hóa Germanie.
Vậy quá trình "qui
tam giáo,hiệp ngũ chi" của Đạo Cao Đài không những nằm trong truyền thống
dân tộc Việt Nam mà cũng nằm trong thông lệ của nhiều nền văn hóa khác nhau trên
thế giới.
Đạo Cao Đài chủ trương qui
hợp các tôn giáo trên thế giới đưa đến thống hợp văn hóa. Muốn đạt được một nền
văn hóa nhân loại, người tín hữu Cao Đài phải biết quên mình là người VN, quên
cả mình là người Đạo Cao Đài nữa : "Quên tất cả để được tất cả". Hãy
thực hiện Thương yêu và Công Chánh, bác ái và công bằng của Đức Chí Tôn dạy.
Hãy "từ bi hỉ xả" quên mình mà làm nên cho người, giúp người nên
Đạo" làm cho cuộc đời an lạc, thiên đàng tại thế.
Thực tế, "không có
những vấn đề triết học nào để giải quyết cả,chỉ có cuộc sống mà thôi". (Il
n'y a pas de problèmes philosophiques à résoudre, il n'ya que la vie à vivre.),
một nhà Đạo học Ấn đã nói như vậy. Giai đoạn
này không cần bàn đến việc qui hợp nữa. Bản thân mỗi người tín hữu hãy giang
rộng tay ra tiếp thu mọi văn hóa nhân loại, tháo tung ranh gới văn hóa.
"Ngàynay mối tương
quan giữa Đông Phương và Tây Phương không còn là một vấn đề đưa ra thảo luận ở
đại học nữa" (Jean Herbert, Ce que l' occident peut apprendre de l'orient)
Trong quyển La Fin d'un
Mythe, Carlos Suarès cũng viết : "Chân lý là sự tổng quát của hai đối cực,
chớ không phải là sự đề cao cái này, phủ nhận cái kia".
Henri Regnault, Phó Chủ
Tịch Ủy ban quốc tế của Đại Hội Thần Linh học thế giới đã phát biểu: "Cao
Đài giáo xây dựng trên căn bản Thần linh học có thể giúp ta thống hợp tôn giáo,
triết lý,khoa học, tâm lý học và nghệ thuật.Cao Đài có thái độ khoan dung rộng
rãi đối với những tôn giáo khác, tôn trọng tín ngưỡng của mọi người cũng như
tôn trọng chơn lý, nguồn cội của Đấng Chí Tôn vô biên, vô thường, vô danh, vố
đối. Nếu ta phải tổng hợp tôn giáo,khoa học,triết học,tâm lý học, nghệ thuật để
tìm hiểu Thần linh thì tôi cho Cao Đài giáo có thể rất có ích cho chúng ta để
đạt tới mục đích ấy.
Người có đức tin như người
không có đức tin đều có thể vào trong Thánh Thất Cao Đài để trầm tư mặc tưởng
và cầu nguyện theo sở vọng. Đó chẳng phải là một lý thuyết tâm lý sâu xa hay
sao? Cai đó chẳng có gì lạ.Vì Cao Đài giáo nguồn gốc là ở chỗ siêu trần mà lại
là sự nghiệp của thế nhân" ( Comment réaliser l'universalisme religieux,
Le Caodaisme et réincarna)
Đức Chí Tôn giáng dạy :
"Quốc Đạo kim triều thành Đại Đạo ,
Câu đầu hàm
ý tổng hợp các nền văn hóa như đã bàn giải ở trên. Câu dưới được Đức Phạm Hộ Pháp
giảng như thế này :
"Phong đây là phong
tục Chí Tôn muốn nói phong hóa nước nhà sẽ trở nên phong hóa của loài người .
Chúng ta suy gẫm coi phải Đức Chí Tôn mà quá lời không ? (trang 7)
Chúng ta thử coi nền Quốc
Đạo sẽ trở nên nền tôn giáo của toàn cầu chăng ? Và phong hóa chúng ta có thể
thay thế cho cả nhân loại trên mặt địa cầu này chăng ?
Chí Tôn đã nói "Từ
thử cho sắc dân ấy (VN) chỉ biết nô lệ, chưa biết vi chủ, vì vậy mà ta đến bồi
thường sự bất công ấy."Đạo đã dạy chúng ta chí thiện, chí nhơn, đại từ,đại
bi. (trang 8)
May thay, tổ phụ chúng ta
để lại món thuốc cứu cả tinh thần nhơn loại… Phong hóa nhà Nam không lúc nào sơ
thất sự phụng tự, từ phong hóa trong nhà, phong hóa trong làng, phong hóa trong
nước, phong hóa chung xã hội nhơn quần (tr 9). Nền tôn giáo chơn thật buộc vạn
quốc phải nhìn nhận là một tôn giáo đặc sắc của các sắc dân chơn thật hơn hết
(tr.42)
Tổ chức xã hội của chúng
ta khéo léo làm sao đâu ! Bần đạo dám chắc rằng cao thượng hơn hết. Hại thay,
quốc dân ta ôm của báu mà không biết quí trọng, lại liệng đi rồi chạy theo ăn
mót đồ bỏ của thiên hạ lấy làm của mình. Thế nên, Đức Chí Tôn thức tỉnh nhơn
sanh với câu : "Nam phong thử nhựt biến nhơn phong", ý rằng phong hóa
của chúng ta nó sẽ biến thành phong hóa của toàn nhơn loại". (Quốc Đạo Nam
Phong,Kiến phong 1971)
Cái Nam phong đó,Thanh Sơn
Đạo Sĩ là người tiêu biểu. Nhân cách Nam phong biểu hiện qua Tam giáo đồng
nguyên trong máu huyết người. Người không màng danh lợi, từ quan, ảnh hưởng Lão
Giáo, yêu dân, đau nỗi đau của dân, ảnh hưởng thuyết từ bi bác ái của Phật
giáo; sâu đậm nhất của Khổng giáo. Đạo nhân len lõi vào tận thớ thịt buồng tim
của Thanh Sơn Đạo Sĩ. Học thuyết tôn quân trong Kinh Xuân Thu không phù hợp với
ngày nay, nhưng "Chánh sách của Đạo Cao Đài giúp quân chủ tạo dân
quyền". (Lời thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp , Q.1 tr.41)
Nhưng chủ trương Đức trị
trong Luận ngữ còn có giá trị : tu thân, trị quốc, bình thiên hạ. Khổng tử lấy
đạo nhân làm căn bản. Nhờ có Nhân mà con người khác con vật. Lý tưởng chính trị
cao nhất của khổng giáo là chính sách "Vô vi nhi trị" tương đồng với
chủ trương "trị bình" của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
"Cư kính nhi hành
giản" (ăn ở chơn chánh hành động giản đơn). "Người có nhân hễ muốn tự
lập thì lo lập cho người, còn muốn thông đạt thì cũng lo cho người thông đạt ;
hễ xử với mình thế nào thì cũng xử với người như thế".(Nhân giả kỷ dục lập
nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân, nhân cận thủ thị; khả vị nhân chi phương
dã dĩ( (luận ngữ).
Chủ trương "Quyền
Công Chánh" là nhằm thức tỉnh Chánh Quyền Pháp hãy giáo dục quần chúng sao
cho có ý thức trách nhiệm hơn là kềm kẹp, bắt buộc họ. "Nếu nhà cầm quyền
chuyên dùng pháp chế và hình phạt để trị dân thì dân sợ mà không phạm pháp đó
thôi, chớ thật lòng họ đâu biết xấu hổ". (Luận ngữ), nghĩa là lấy đức độ
mà trị, tự nhiên dân sẽ trở nên hiền tốt.
Tóm lại, Nguyễn Bỉnh Khiêm
thấm nhuần học thuyết Tam giáo mà Nho giáo là nền tảng. Nhân cách của Thanh Sơn
Đạo Sĩ tiêu biểu cho Nam Phong .Cái phong hóa mà Đạo Cao Đài đề cao để đạt tới
mức Thượng Đức thi đua và Trấn áp Thượng Lực, Thượng Mưu ( Xem "Đại Đạo
Giáo Lý " cùng người viết)
Thượng Lực mà thời đại
dùng sức mạnh để xâm chiếm nước ngoài, buộc người làm nô lệ. Thượng mưu là dùng
trí xảo của mình để bắt kẻ khác lệ thuộc . Chỉ có Thượng Đức , cái mà Đức Hộ Pháp
nói "phong hóa tổ tiên để lại ", và Thanh Sơn Đạo Sĩ tiêu biểu : rất
thương người , hợp lòng người, chỉ dùng đạo tâm , đức độ của mình để cảm hóa
người.
Nếu cả thế giới biết hồi
đầu hướng thiện, chính là lúc "Nam phong thử nhựt biến nhơn phong:, lấy văn
hóa người Việt Nam làm văn hóa nhân loại.
Ngày đó là ngày
"thiên hạ thái bình" và đại đồng thế giới vậy . Bởi lẽ,thầy đã phán
truyền : "Giáo Lý của Thầy là ĐẠI ĐỒNG. Nến nhơn loại biết tu thì đó là
nền hòa bình hứa hẹn chung cho tất cả các dân tộc". (TNHT.I tr.122)
CHƯƠNG III
GIÁO LÝ HƯỚNG THIỆN, TIẾN BỘ
Đạo Cao Đài có một giáo lý
bao dung rộng rãi, coi nhân loại đều có một Đấng cha chung trong một đại gia
đình với thuyết đại đồng, lấy tình thương xóa bỏ hận thù ."Thầy cấm các
con từ đây nếu không đủ sức THƯƠNG YÊU nhau thì cũng chẳng đặng ghét nhau, nghe
à !" (TN 2, tr.69)
Giáo lý cao thượng, tiến
bộ, diệt mê tín dị đoan, coi cõi Hằng sống (Thiên đàng) và thế gian (Địa đàng)
chỉ là một. "CẢNH NHÀN chẳng phải đâu xa, chỉ ở nơi ĐỊA ĐÀNG
đây."(Đàn đêm 21-2 -1927) hoặc "Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa".
(Đàn 28-1-1926).Thầy chỉ rõ : " Hễ cái tâm sáng suốt thiện từ đạo đức là
thiên đàng, cón tâm mê muội vạy tà hung bạo là Địa ngục cũng chỉ tại cái
tâm". Chính cái tâm của một số môn đệ thấp kém mà Thầy răn dạy : "Đạo
Thầy không mê tín dị đoan , một số môn đệ bài biện vô lối, chẳng bao lâu thành
ra mối bàn môn Tả Đạo". Một số người đã đưa lên bàn thờ những Thánh Tiên
thần thoại lý tưởng có từ lâu trong dân gian, nhằm lấy biểu tượng siêu thoát
đạt đạo của các Đấng ấy mà tế độ chúng sanh,chớ các Đấng ấy không phải là chủ
tể và chủ động trong việc giáo hóa nhơn sanh trong kỳ Ba phổ độ này. Dù vây,
điều đó không phù hợp với nền Tân Tôn giáo nên Đức Chí Tôn cho là "Bày biện vô lối"
"Không có nhà thờ nào có ma thuật cả, vì ma thuật
luôn giấu diếm, còn nghệ thuật, tôn giáo mở toang cửa mời gọi mọi người"
"Cái đẹp tự thân tôn giáo không đồng nghĩa với
bất kỳ cái đẹp lý tưởng nào, nhưng nó thể hiện một cách đặc thù của một nghệ
thuật chân tính về nó".
"Thế nên, nghệ thuật và tôn giáo đều mang chức
năng phục vụ xã hội hay một cộng đồng. Điều đó, khiến cả hai không thể bị phân
hóa hay chia cắt thành những bộ phận rời" (E.Durkheim).
Người tín hữu Cao Đài nào
cũng thông suốt lời dạy sau đây của Đức Chí Tôn : "Thầy đến đặng hườn
nguyên chơn thần cho các con đắc đạo". (TNHT .I, tr.12) Nói thế không phải
ai nhập môn vào đạo đều đắc đạo dễ cả mà phải dày công tu luyện. Một đằng khác,
Đức Chí Tôn nói rõ hơn ; "Than ôi ! Đã bước vào đường đạo hạnh mà chẳng để
công tìm kiếm,học hỏi cho rõ ngọn nguồn thì làm phận sự môn đệ như thế có ích
chi cho nền thánh giáo đâu/ Đạo trời khai ba lượt, người tục lỗi muôn phần,sanh
đứng vào thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng, đặng chờ đến kết quả
hồn qui Thiên ngoại : Lánh khỏi xác phàm trở về nơi khởi hành. Phận chưa xong
phận, thân chẳng nên thân, thân phận lo tính chưa rồi còn mong mỏi chi dụng
mình vào đường đạo đức để cho có ích chung nữa đặng.
Lương tâm của các con là
một khiếu thiêng liêng của Thây ban để sửa trị riêng các con trong đường tội
lỗi và ban thưởng để hành việc nhơn đức.Làm một việc phải tức là do theo ý
Trời, phạm một nét vạy tà là phạm nơi Thiên luật. Phải quấy Thần Thánh chép
biên, thưởng phạt duy đợi ngày chung cuộc, khá biết vậy!"
Theo Thánh ý, dù có quyền
thiêng liêng giúp đỡ, nhưng con người phải tự cứu lấy mình : "Tận nhơn luật tri Thiên mạng" hay
"có Trời mà cũng có Ta", chớ không phải mọi việc đều buông xuôi phó
thác cho số mạng.
"Hạnh khiêm nhường là hạnh của mỗi đứa, phải noi
theo gương Thầy mới độ rỗi thiên hạ đặng. Nếu đời không tội lỗi, đâu phải nhọc
đến công Thầy". (TNHT.I, tr.33)
'Thầy khuyên các con hãy mỡ rộng trí ra mà thương nhơn
loại,thì mới hạp ý thầy.Các con phải giữ gìn đức hạn, đối với kẻ trên bằng chữ
khiêm hòa, đối với kẻ dưới bằng chữ khoan dung". (TNHT.I tr.71)
Đức Chí Tôn dạy ta xử
ngược lại thế đời: " Các con hiền mà các con dữ, các con yếu mà mạnh,các
con nhỏ nhoi mà quyền thế, các con nhịn nhục mà hành phạt. Cử chỉ của các con
khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì gầnngôi Tiên Phật
đó".(TNHT. I tr.46)
Nho nhã con tua tập tánh tình,
Dưới đòi đừng tưởng một mình lanh.
Một câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều nỗi trầm luân bởi ngọn ngành (TNHT.I, tr.122)
Đó là hành trang tối thiểu
để người đạo đi vào cuộc đời (nhập thế). Cuộc sống trong xã hội luôn luôn thay
đổi và biến động. Cách tu, lối tu vì thế cũng phải tiến bộ cho phù hợp với đời.
Thời còn ăn lông ở lỗ, núi hang là nơi ở thiên nhiên nên con người chọn lối tu
núi tức là tu Tiên. Khi con người biết quần tụ cất nhà để ở thì con người nảy
ra lối tu chùa tức tu theo phật.
Trong luật cạnh tranh sinh
tồn, người đẻ mà đất không đẻ nên thức ăn thiếu thốn, người ta giành giật nhau
từng miếng ăn manh áo. Đức Khổng Tử ra đời kêu gọi con người phải biết phải học
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín và tu thân, tề gia,trị quốc, bình thiên ha. Từ đó nảy
sinh lối tu tề của Nho giáo.
Xã hội ngày càng văn minh,
tiếnbộ, nếp sống sinh hoạt cũ không còn thích hợp nữa. Thành thị hay nông thôn,
chỗ nào cũng có người, cũng có chợ. Người ta sống giữa chợ đời, trò đời thì
cũng phải có lối tu chợ tức tu tâm. Đó là lối tu của người tín hữu Cao Đài hiện
nay, mỗi người đều tự giác tha,và điều rõ câu: "Ngô thân bất độ hà nhân
độ". Đạo ẩn trong lòng mọi người, nó sẳn sàng trấn áp mọi "nộ, ố,bi,
ai".Họ có một nội tâm sinh động và một nội lực thâmhậu để chống trả mọi
cơn khảo đảo từ ngoài đưa vào. Thế mới gọi là "đại ẩn ẩn thành thị"
tức tu giữa thành thị mới gọi là đại ẩn. Lại có câu : "Nhất tu thị, nhị tu
sơn".
Xét về quá trình các
phương pháp tu, từ tu núi, tu chùa, tu tề, tu chợ, chắc chắn tu giữa chợ là lối
tu khổ luyện nhất . Người tín hữu không bỏ nhà ẩn thân nơi non cao ,không vào
chùa để tham thiền nhập định mà tiếp xúc với mọi người, chung đụng với mọi
người, gần gũi với mọi cám dỗ chực đưa bất cứ tín hữu nào vào đường tội lỗi,
nếu chưa luyện đạo tâm vững vàng.
Đạo lập ra để cứu đời, tận
độ chúng sanh toát khỏi nguy nàn. "Mở
một mối đạo chẳng phải thường tình,mà sanh nhằm đời gặp đặng mối đạo chẳng phải
dễ". (TNHT .I,tr.53) "Đạo
Trời mở ra cho một nước, tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn".
(TNHT.II, tr.114)
"Các con vì Đạo là
việc công lý, mà công lý đánh đổ cường quyền thì đạo mới phải đạo". (TNHT.I,
tr.98)
Thế nên, ngay từ đầu, Đạo
Cao Đài nêu rõ chủ trương của mình là vì hòa bình, dânchủ,tự do.
"Cao Thượng Chí Tôn
Đại Đạo hòa bình dân chủ mục, (*)
Đài tiền sùng bái Tam Kỳ
cộng hưởng tự do quyền."
(* Đúng là chữ CHÁNH ,
giáo sư Latapie (Phó quản lý nội viện) sợ pháp làm khó dễ nên xin đổi ra chữ
MỤC )
Bởi lẽ, "Ngày nào các
con còn trông thấy một điều bất bình ở đời này thì Đạo chưa thành".
(TNHT.I, tr.98)
Làm thế nào để khỏi thấy
một điều bất bình? Đức Chí Tôn dạy phải thi hành "Luật Thương yêu, quyền
công chánh". Vì "Sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn Khôn thế
giới . Có thương yêu, nhơn loại mới hòa bình, Càn Khôn mới an tịnh".
Giáo lý Đạo Cao Đài đề cao
gia đình một vợ một chồng. "Cấm người trong Đạo, từ ngày ban hành luật này
về sau, không được cưới hầu thiếp. Rủi có chích lẻ giữa đường thì được chấp nối
…Vợ chồng người Đạo không được để bỏ nhau.(Tân Luật, TN 1966, tr.12)
Tuy vậy, Đức Chí Tôn hằng
nhắc nhở chư mộn đệ : Tà dâm là một trọng tội.
"Phàm xác thân con
người, tuy con người coi thân hình như một, chớ kỳ trung nơi bổn thân vốn một
khối chứa vàn vàn, muôn muôn sinh vật. Những sinh vật ấy cấu kết nhau mà thành
khối. Vật chất ấy có tính linh…
Các vật thực nào tì vị,
lại biến ra khí, khí mới biến ra huyết. Nó có thể hườn ra nhân hình, mới có
sanh sanh tử tử của kiếp nhơn loại. Vì vậy mà một giọt máu là một khối chơn
linh.
Như các con dâm quá độ là
sát mạng chơn linh ấy. Khi các con thoát xác, nó đến tại Nghiệt Đài mà kiện các
con. Vậy phải giữ gìn giới cấm ấy cho lắm". (TNHT.I, tr. 26)
Vì nhận nơi con người điều
có tính dục do cha mẹ truyền lại nên chấp nhận người Đạo phải có vợ chồng nhưng
tuyệt đối cấm dâm dục. Kh trở thành chức sắc, Tân Luật "Cấm vợ chồng bỏ
nhau" nên chức sắc Đạo Cao Đài có vợ có chồng là vậy. Không làm điều chi
trái với thiên nhiên để rồi phải vụng trộm như các hàng giáo sĩ của các tôn
giáo khác.
Vả lại,nếu đi tu mà bỏ nhà
để vợ, không làm điều gì có ích cho gia đình, tìm chỗ thanh vắng lo cho riêng
mình thì có ích chi cho xã hội. Đó không phải là chủ trương của Đạo Tam Kỳ. Vào
Đạo tu tâm sửa tánh để trở nên người hiền lành nhân đức, làm điều ích nước lợi
dân mà phổ độ chúng sanh vào đuờng ngay nẻo phải.
Người tín đồ nào cũng hiểu
lời nói của Mạnh Tử "Bất hiếu hữu tam vô hậu vi đại". Ngài than không
có người hiền nối mối Đạo, đó là tội vô hậu lớn. Về sau, Châu Tử chú giải theo
phong kiến "Tội không con là lớn hơn cả" để cưới hầu thiếp. Vả lại,
cổ nhân có dạy : "Trong sử hay bút ký, mấy điều gian hại chẳng luận chữ
hiếu có con hay không con".
Năm 1923, Đức Vân Trung Tử
giáng đàn dạy : "Chẳng phải ông MạnhTử nói không con là bất hiếu. Nếu
không con bất hiếu sau Lục Tổ trước còn thành Phật đặng?" (Hội Lý Xiển
Chơn, TN 1959, tr.13)
Trong gia đình vợ chồng
"Các con hòa hợp nhau trong sự sống chung cộng đồng quyền lợi và sinh
hoạt". (TNHT.I,tr.51) Nam Nữ bình đẳng : "Giục tài nữ sĩ sánh bì cùng
nam" (Nữ Trung Tùng Phận ). Trong một xã hội nữa phong kiến, nữa thuộc địa
mà giáo lý Đạo dạy Nam Nữ bình quyền, đó không phải là cuộc cách mạng đổi mới
cho thân phận người phụ nữ ư? Trong khi đạo Kitô, phụ nữ không được làm Linh
Mục, đạo Hồi phụ nữ không đuợc đến nhà thờ.
Thêm vào đó, theo cổ tục,
khi có kinh nguyệt, người phụ nữ tránh ra ngoài thì giáo lý Đạo dạy :
"Không vì nguyệt huyết kỵ anh linh". Sự tiến bộ của khoa học ngày nay
đã giải thích được điều đó.
Vốn là một tôn giáo tiến
bộ nên : " Việc tang không nên xa xí, không nên để lâu ngày, không dùng đồ
âm công loè loẹt, chỉ dùng toàn đồ trắng. Trong việc tế vong linh, không nên
dùng vật hy sinh, nên dùng toàn đồ chay thì được phước". Việc cầu siêu
vong linh trong tuần cửu cửu (81 ngày), tiểu tường (200 ngày) đến Đại tường (300
ngày) là mãn tang". (Tân Luật, sđđ, tr.13)
Xem thế, thời gian mãn
tang khó trong Đạo chỉ có 581 ngày trong khi phong tục cũ phải mất 3 năm (1095
ngày) gấp đôi thời gian trong Đạo, choáng hết thời gian làm ăn, ngăn trở sinh
hoạt.
Đạo cấm hẳn vọng ngữ (Ngũ
giới cấm) : "Các con nói dối dù chưa dối người, các con đã dối lương tâm
mà lương tâm tức là chơn linh". (Đạo Sử II,tr.273) Năm Mậu Thìn (1928),
Đức Chí Tôn cấm tham lam: "Tham vào tâm, tâm hết Đạo, tham vào chùa, chùa
hết chánh giáo, tham vào nước, nước hết chánh trị, tham lam lộng klhắp thế
giới, thế giới hết Thần Tiên. Lòng tham có thể giục lỗi Đạo cùng Thầy".
(TNHT.II, tr.63)
Nhất là bối toán, đồng
cốt, giết sinh vật để tế lễ,trong Đạo Cao Đài rất cấm kỵ. (TNHT.I,tr.86)
Những điều mê hoặc dị kỳ,
Các con nên phải xa đi đừng làm.
Kho tàng là chuyện bá xàm,
Nộm hình, tà khí, độn nham tà quyền.
Bỏ vòng vàng bạc, giấy tiền,
Thánh Thần đâu có quá điên lấy xài!
"Thầy dạy con đừng
cúng chi hết, vì chơn nhơn chẳng hưởng của phàm bao giờ. Còn làm việc đãi,
chẳng nên gọi là cúng". (Đạo Sử II, tr.123)
Tắt một lời, Đạo Cao Đài
là một tôn giáo hướng thượng tiến bộ. "Thầy chẳng dùng sự chi mà thế gian
mà thế gian gọi là tà quái dị đoan, nếu có xảy ra một ít dị đoan trongĐạo đã
dùng lỡ, ấy là tại nơi tâm của một vài môn đệ, nếu chẳng giữa theo lẽ Chánh mà
hành Đạo và bày biên nhiều sự vô lối thì trong ít năm sau sẽ trở nên một mối Tả
Đạo". (TNHT.II, tr.42)
Việc tế lễ Đức Chí tôn của
Đạo Cao Đài hết sức tiến bộ. Xét quá trình các tôn giáo từ xưa tới nay, ta thấy
rằng : Vào thời thượng cổ, quan niệm về Thượng Đế còn mơ hồ. Con người thờ Tô
tem gần như rộng khắp mặt đất.
Trong Cựu ước, người ta
hiến lễ lên thần linh bằng đồng nam đồng nữ làm vât hy sin. Đạo giáo thì độc
tôn, Thánh Moise là Đấng hằng hữu và phải tàn sát tất cả sắc dân nào có tín
ngưỡng riêng.
Qua thời Trung Cổ, người
ta quan niệm Thuợng Đế có quyền tác họa , ban phước. Kẻ nào làm lành được lên
Thiên Đàng hay Cực Lạc, còn đứa dữ bị đày vào hỏa ngục hay Địa ngục. Tôn giáo
nào cũng cho mình là Chánh là Phải . Do đó mới gây ra chiến tranh tôn giáo như
ở Ấn Hồi hoặc kỳ thị tôn giáo ở Âu Châu
Về tế lễ Trời Đất, thay
đổi những con vật lớn bằng những con vật nhỏ gọi là Tam sanh mà không còn dùng
con người làm vật hy sinh như trước nữa.
Thời kỳ hiện đại, ngoài
những kinh sấm truyền báo trước Đạo Cao Đài xuất hiện (Xem "Đại Đạo Sử
Cương" ,quyển I), ở Châu Aâu có Hội thông thiên học , Hội Baha'i tuyên
truyền thuyết tôn giáo Đại Đồng (La religion universelle) và báo tin cho toàn
nhân loại sẽ có một nền tôn giáo chủ trương Đại Đồng thế giới ra đời . Đến năm
1926, Thượng Đế đã giáng trần lập Đạo Cao Đài và đã có Giáo hội, giáo pháp,
kinh lễ chuẩn định.
Đạo Cao Đài cũng quan niệm
rằng : Việc hiến lễ lên Đức Chí Tôn không còn chi bằng sanh mạng của mình.
Nhưng thay vì dùng đồng Nam, đồng Nữ hoặc dùng sinh vật để cầu phước , cầu danh
lợi cho riêng mình, người tín hữu Cao Đài dùng Tam Bửu là ba món quí báo nhất
của con người gồm tinh khí thần hay bằng Bông Rượu Trà dâng lên Đức Đại Từ Phụ.
-Bông tượng trưng cho hình
thể hữu vi(thể xác) tức là Tinh.
-Rượu tượng trưng cho trí não khôn ngoan tức là Khí.
-Trà tượng trưng cho linh hồn tức là Thần.
Việc hiến lễ của Tính hữu
Cao Đài không cầu mong phước lộc cho riêng mình mà chỉ nguyện dâng cả thân này,
từ thể xác, trí não đến linh hồn làm con vật hy sinh để phục vụ, thi hành
lịnhcủa Đức Đại Từ Phụ đưa nhân loại đến cảnh huynh đệ đại đồng . Tắt một lời,
xét việc hiến lễ từ xưa đến nay, cách hiến lễ của Đạo Cao Đài có ý nghĩa cao
thượng và tiến bộ nhứt.
Khi bước vào làm lễ Đức
Chí Tôn, ta gặp bức bích họa Tam Thánh (Bức bính họa này do họa sĩ Lê Minh Tòng
vẽ vào năm 1947 (thời kỳ trang trí Tòa Thánh) do ý của Đức Hộ pháp.) Chặn ngang
đường. Chỉ một bức tượng này thôi đủ nói lên tôn chỉ, mục đích, tuyên ngôn,
giáo lý của Đạo Cao Đài. Nội dung bản Thiên Nhơn Hòa Ước gồm có năm đề cương
khiết lãnh như sau:
1/ - Tôn chỉ : Vạn giáo
qui nhứt bổn. Trong đó Thanh Sơn Đạo Sĩ đại biểu Lão giáo, Nguyệt tâm chơn nhơn
(Victor Hugo) đại biểu Thánh giáo, Tôn Trung Sơn đại biểu Phật giáo (Vì tiền
kiếp là Nguyễn Trãi) ( Xem "Tam Thánh Bạch Vân Động" cùng người
viết.). Tuy biểu tượng Tam giáo nhưng bao hàm vạn giáo vì ba tôn giáo trên
Thiên bàn xếp hàng ngang nên còn chấm lửng đến vô tận dẫn đến Đại Đồng Tôn
giáo.
2/ - Mục đích : Đại Đồng
nhân loại, trong đó, TSĐS là người Việt Nam. NTCN là người Pháp và TTS là ngưới
Trung Hoa . Tuy ba sắc dân mà biểu trưng cả nhân loại.
3/ - Tuyên ngôn : Nhân
loại cùng Đấng cha chung. Hiện tượng hóa thân từ Nguyễn Bỉnh Khiêm là người
Việt Nam chuyển kiếp là người Pháp Richelieu… Hoặc trước ta ở Ấn Độ theo Ấn
giáo khi đầu thay sang Israel ta sẽ theo Do Thái giáo. Thế thì ta thay đổi, tôn
giáo thay đổi, nhưng Đức Thượng Đế chỉ có MỘT mà thôi.
4/ - Triết lý :Trời còn
hiệp nhứt. Trong bản hòa ước có 4 chữ Thiên Thượng Thiên Hạ (Dieu et Humanité)
"Thiên Nhơn vốn hiệp nhứt rồi bất tất phải nói hợp" (Trình Hiệu).
Trong Đạo Cao Đài, Trời người hợp nhất qua trung gian đồng tử tức phò cơ, chấp
bút .
5/ - Giáo lý :Trong bản
hòa ước ghi rõ: bác ái, công bình,thương yêu và công chánh. Loài người chỉ cần
thực hiện hai chữ THƯƠNG YÊU là sẽ thấy ĐẠI ĐỒNG HUYNH ĐỆ.
Tóm lại, Đức Chí Tôn đã
dạy, Thầy đến dạy sự thương yêu va diệt mê tín, chẳng dùng điều chi tà giáo dị
đoan. Thật là một tôn giáo hướng thượng và tiến bộ. Đạo Cao Đài làm sáng lại
truyền thống Nam Phong chớ không phục cổ. Xây dựng tương lai Nhơn phong với mô
thức xã hội văn minh giản dị phác thực chớ không phải thứ văn minh mưu xảo phồn
tạp.
PHẦN KẾT
THÍCH NGHĨA BÀI "NGỌC HOÀNG KINH"
Đức Thượng
Đế đã thật sự giáng trần, Ngài đã ký "Thiên Nhơn hoà ước" với Tam
Thánh, đại diện loài người nêu rõ thuyết Đại Đồng : Dieu et Humanité. Triều nghi
của Ngài là Toà Thánh Tây Ninh, Ngọc Hư Cung tại thế; ngôi vị của Ngài thờ nơi Bát Quái
Đài. Từ đây, Đức Chí Tôn dùng huyền diệu mà phổ độ chúng sanh và phân tánh dạy
Đạo nhiều nơi. Đức Chí Tôn là :
"Vì Đại La Thiên Đế.
Ngôi Thái Cực Thánh Hoàng, hoá nuôi các chúng sanh, thống trị cả muôn loài vật.
Xa xa cửa Huỳnh Kim
Khuyết, vọi vọi kinh thành Bạch Ngọc, như dày đặc như trống không. Ngài chẳng
nói mà lặng lẽ giải bày sinh hoá to lớn, không không có có; tuy không mà sai
khiến các bậc Thần linh. Khi cỡi 6 rồng du hành giáp trời mà không ngừng nghỉ.
Một khí phân ra 4 hình
tượng (Tứ tượng là Thái Âm, Thiếu Âm, Thái Dương, Thiếu Dương) chuyển xây không
cùng. Ngôi Càn cứng mạnh, cao và sáng; muôn loài lành dữ Ngài đều thấy tỏ rõ.
Phép huyền diệu của Ngài
rộng lớn, chỉ một bài tính, hoạ phước đều được phân chi rành.
Ở trên, Ngài Chưởng quản
36 cung Trời, ba ngàn thế giới. Dưới, Ngài cầm nắm 72 quả Đất, bốn bộ châu lớn
(Tứ đại bộ châu), ngôi Tiên Thiên (Bát Quái) và ngôi Hậu Thiên (Bát Quái).
Là Chúa Cha hay thương yêu
muôn vật. Xưa ngưỡng lên mong, nay ngưỡng lên mong. Ngài tế độ rộng khắp và tóm
thâu cả pháp tông.
Là vua mặt Trời, mặt
trăng, sao, tinh thần, làm chủ tể các vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ngài rộng mở
nền đạo rộng lớn mù mù, xứng đáng là vì Tôn Nghiêm.
Ngài biến hoá vô cùng,
thường truyền kinh sách thức tỉnh người đời. Oai Linh khó lường, thường xuất
thần dạy lợi ích cho chúng sanh.
Oai nghiêm lớn, hiền từ
lớn. Không cùng tột, không chi trên nữa. Đó là Thánh đức lớn, lời nguyện lớn,
Đức Tạo Hoá lớn, Đức Từ bi lớn.
Chính vị Huyền Khung Cao
Thượng Đế, Đức Ngọc Hoàng ban phước xá tội, là vì Đại Thiên Tôn" (Kinh Lễ,
sđđ, tr.18 (Dịch bài Kinh Ngọc Hoàng Thượng Đế))
Tóm lại, "Thầy đến
chẳng phải lập một nền Đạo mới mà thôi, đến đặng nhắc các con rằng :Ngày tận
thế đã hầu gần. Thánh ngôn các Đạo khai từ thuở khai Thiên, không đủ kềm thúc
nhơn sanh đặng trọn lành. Đời ngày càng trở nên hung bạo, nhân loại giết lẫn
nhau, cả hoàn cầu giặc giã, bịnh chướng biến sanh, Thiên tai rắp đến. Aáy là
các điều Thầy đã tiên tri. Thầy đã tạo Thánh giáo trọn đủ Pháp luật. Thầy đến
độ kẻ VÔ ĐẠO, cớ không phải SỬA ĐẠO" ( Đạo Sử II, sđđ tr.125 (27-12-1926)
Mạc hậu Càn khôn đồng nhứt đại,
Thiên môn vạn giáo cộng qui căn
(Theo "Tỉnh thế ngộ chơn")
(Rốt sau Trời Đất cùng một dãy.
Muôn Đạo ngàn nhà một gốc chung.)
PHỤ TRANG
GIẢI THÍCH
NỘI TÂM VÀ NGOẠI TÂM ĐỀN THÁNH
HIỆP THIÊN ĐÀI LÀ CHƠN THẦN
Đền Thánh có ba đài ấy là
Tam Bửu, Bát Quái Đài là linh hồn, Cửu Trùng Đài là hình thể, Hiệp Thiên Đài là
chơn thần. Như Trời có Nhựt Nguyệt Tinh; Đất có Thuỷ, Hoả, Phong; Người có
Tinh, Khí, Thần; Đạo có tam giáo : Phật, Thánh, Tiên. Ba hiệp một mới thành
hình thể mới có sự khôn ngoan và sáng suốt được. Chữ Khí thờ ở Hiệp Thiên Đài
là biểu tượng của Tam tự nhất thể.
Nếu như con người thiếu
linh hồn là phải chết, thiếu chơn thần phải điên, thiếu hình thể thì không
thành người; ấy vậy vật bất ly tâm.
Toà Thánh cất là thay thế
hình thể Chí Tôn tại thế cho chúng sanh, nhìn Thầy, tức là Chí Tôn đến cứu vớt
chúng sanh kỳ trong thứ ba. Theo lời tiên tri của Đức Chúa Giêsu đã nói trong
hai ngàn năm thì có Chúa xuống thế. Nhưng ngài đến như kẻ trộm đi đêm. Ngài sẽ
huyền diệu hơn ta, nhiều người kính mến hơn ta và không chịu đổ máu như ta; khi
Ngài đến có nhiều tiếng còi kêu inh ỏi trên thin không, ấy là cơ bút ngày nay
đó vậy.
GIẢI THÍCH TÁM KHUÔNG HÌNH
TRƯỚC
BAO LƠN ĐỀN THÁNH
1/ Vua Hạ Võ trị thuỷ : Lúc Ngài chăn dân đốc sức dân khai
thách sông Lương và sông Vị cho dân khỏi bị lụt ngập.
2/ Vua
Nghiêu tầm hiền : Lúc Ngài đi du sơn gặp ông Thuấn đang cày voi chim lượm cỏ thì Ngài biết
ông nầy là người hiền nên Ngài rước về nhường ngôi và gả con.
3/ Thoại Hữu và Hữu Sào :
Là hai vị Tổ Công nghệ đầu tiên, Đức Hữu Sào dạy dân cất nhà làm tổ , Đức Thoại
Hữu tầm cách làm ra lửa mà dạy dân nấu nướng và tạo ra các đồ kim khí.
4/ Phạm Lãi và Tây Thi :
Là hai nhân vật đời Chiến quốc, đây là lúc Tây Thi làm xong sứ mạng rồi gặp
Phạm Lãi. Vợ chồng giữ lời hứa hẹn trong buổi sơ giao, hôm nay được toại chí đi
du hồ.
5/ Khương Thượng và Võ
Khiết : Lúc Khương Thượng ngồi câu nơi sông vị thì Võ Khiết gánh củi đến nghỉ
nơi Bàn Khê ,thấy Khương Thượng câu không mồi và lưỡi câu ngay đót thì nói rằng
ông câu không có mồi làm sao được cá. Khương Thượng trả lời : Ta câu đây là câu
thời vận chớ phải câu cá đâu. Võ Khiết cười và nói : Ông đến tuổi đó mà nói câu
thời vận tôi bắt nực cười. Khương Thượng nói : ngươi chớ cười ta, hôm nay ngươi
gánh củi xuống chợ đụng nhầm người ta mà thường mạng. Thật như lời, Võ Khiết
gánh củi xuống chợ đụng nhầm người ta té chết,lính bắt giải đến Vua Văn Vương.
Võ Khiết khóc nói còn mẹ già xin được tha về nuôi mẹ, ba năm sau sẽ xuống mà
thọ tội. Vua thấy người có hiếu bèn cho về nuôi mẹ. Đó là lúc, Khương Thượng
gần nên công hầu.
6/ Bá Nha và Tử Kỳ : là
bạn tri âm. Bá Nha làm quan nước Tần, lúc đi sứ nước Sở về đến cửa sông Hán
Dương nhằm tiết trung thu trăng sáng. Ngài bèn ra lịnh cắm thuyền lại nghỉ.
Ngài bèn lấy cây Dao cầm mà đàn một khúc, bỗng đứt dây. Ngài biết có người nghe
lén. Ngài sai kẻ tả hữu lên bờ xem, thấy Tử Kỳ ngồi dưới chân núi Mã Yên. Hai
người đối đáp vừa tai hiệp ý bèn xin kết nghĩa anh em, hẹn năm sau ngày này
tháng này sẽ hội ngộ nơi đây. Đúng như lời hứa hẹn, năm sau Bá Nha đến cắm
thuyền dưới bến, chờ hoài không thấy Tử Kỳ, Ngài buồn quá bèn lấy cây Dao cầm
ra mà đàn. Tiếng đàn kêu ai oán nên Ngài biết Tử Kỳ gặp nạn. Ngài và tuỳ tùng
lên núi Mã Yên mà tìm, mới hay Tử Kỳ đã chết. Ngài đến mộ và tế lễ xong, Ngài
lấy cây Dao cầm ra mà đàn khúc đoản ca để tế người tri âm mạng yểu, rồi Ngài
đập cây đàn vào đá tan tành.
7/ Sào Phủ và Hứa Do : đây
là lúc Hứa Do gặp vua Nghiêu đi tầm hiền, nghe Hứa Do là người hiền triết có
tiếng, bèn kêu mà nhường ngôi. Hứa Do trả lời : tôi không ham phú quí không
thích công danh, chỉ muốn thong thả ngao du. Nhưng tiếng nói của Vua Nghiêu vẫn
còn văng vảng trong tai nên xuống suối mà rửa. Sào Phủ dẫn trâu cho uống nước,
thấy vậy hỏi rằng : anh Hứa Do làm gì mà anh rửa lổ tai vậy ? Hứa Do trả lời
tôi đi gặp Vua Nghiêu. Ngài kêu tôi mà nhường ngôi, vì tôi không thích công
danh mà nghe tiếng nói ấy vẫn còn văng vẳng trong tai, sợ nhơ lỗ tai và ô nhiễm
nên tôi phải rửa, Sào Phủ nói : tôi không hỏi anh thì trâu của tôi nó cũng uống
nhằm nước của anh rửa lổ tai cũng nhơ bụng nó. Nói xong bèn dẫn trâu lên phía
trước dòng nước cho uống.
8/ Châu Mải Thần : là
ngươi nho sĩ nước Lỗ. Ngài có vợ mà vẫn còn ham học, lúc gánh củi lúc chăn
trâu, không giờ phút nào Ngài quên học, cứ lo đọc sách ngâm thi, khônglo việc
giàu nghèo. Người vợ thấy vậy khuyên Ngài lo làm ăn, nhưng ngài cố chí học
hành. Người vợ khuyên không được bèn trốn bỏ nhà đi. Sau ngày thi đỗ ra làm
quan. Người vợ xin về ở lại, Ngài múc tô nước đầy đổ xuống đất bảo vợ hốt lại cho
đầy thì ở lại. Người vợ thất chí bèn tự tử mà chết. Ngài chôn vựa bên đường và
dựng mộ bia đề như vậy :
Thanh thảo trị biên mộ
nhứt khu,
Thiên niên mai cốt bất mai
tu.
Đinh ninh ký giả nhơn gian phụ,
Tự cổ tào khang đáo bạch
đầu.
GIẢI THÍCH ÔNG THIỆN VÀ ÔNG ÁC
Tích Vua Tuỳ Kheo sanh
đặng hai người con trai, người lớn tên là Tuỳ Vân, người nhỏ tên là Tuỳ Vũ.
Vua Tuỳ Kheo có lòng mộ
Đạo nên muốn truyền ngôi cho Tuỳ Vân đặng đi tu nhưng sợ Tuỳ Vũ chiếm đoạt. Nên
Vua Tuỳ Kheo mới sai Tuỳ Vũ qua nước Hàng Châu mà chiêu mộ anh tài. Khi Tuỳ Vũ
đi rồi, Vua Tuỳ Kheo mới truyền ngôi lại cho Tuỳ Vân sửa trị trong nước. Rồi
vua Tuỳ Kheo đến Am Vân lo tu niệm. Khi Tuỳ Vũ chiêu mộ anh tài xong trở về vào
bái yết, thấy anh mình đã lên ngôi kế vị, mới hỏi tự sự. Tuỳ Vân thuật lại vì
cha muốn xuất gia tu niệm mới truyền ngôi lại cho anh. Tuỳ Vũ nói anh hiền đức
trị dân không sợ, vậy anh đưa ngọc ấn lại cho tôi, sửa trị thiên hạ mới sợ. Tuỳ
Vân không chịu bèn ôm Ngọc Ấn Thuỷ Phù chạy lên Am Vân tầm cha phân định. Tuỳ Kheo
thấy con hiếu để bèn rước về Tây Phương thành Phật. Khi Tuỳ Vũ theo đến, thấy
anh mình đã thành Phật, thì ăn năn, tỉnh ngộ, bỏ hết giang san không màng danh
lợi, bèn trục thất tình gát bỏ ngoài tai, rồi đi tu cũng cũng đắc đạo ( ấy là
tu nhứt kiếp ngộ nhứt thời).
GIẢI THÍCH HÌNH TAM THÁNH
Đức Thanh
Sơn, Nguyệt Tâm và Tôn Sơn Chơn Nhơn.
Trước khi chưa khai Đại
Đạo làm lắm tội tình, nên thiên điều đem ra mà trị tội. Nhơn sanh kêu nài mãi
mà không chịu thọ hình, nói rằng : các nền Tôn Giáo ngày trước, Chí Tôn đã bế
còn Phật giả vô ngôn, ,không có lời dạy bảo, mà Chí Tôn không khai mối Đạo nào
thì nhơn sanh biết đâu làm lành lánh dữ, cho khỏi phạm tội với Thiên điều. Nên
ba ông mới ra đứng trước Chí Tôn khai Đại Đạo. Ba ông ký tờ hoà ước đến năm
Bính Dần, Chí Tôn khai Đại Đạo. Ba ông đắc lịnh làm hướng đạo dìu dắt chúnh
sanh đem bác ái công bình làm nền tảng mà độ rỗi chúng sanh từ Á chí Aâu.
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
(Victor Hygo) cầm bút lông (biểu tượng vũ hịch) cần kíp lắm để truyền bá Đệ Tam
Hoà ước cứu đời.
GIẢI THÍCH CÂN CÔNG BÌNH
Con người sanh trên mặt
thế. Những vật gì hữu hình tức hữu hoại, đều là giả tạm hết, chỉ có linh hồn là
thiệt tướng, bất tiêu bất diệt, khi hồn lìa khỏi xác chỉ đem theo có cái tội và
phước. Dầu chủng tộc nào cũng đồng chung một luật của tạo hoá, thì chính bàn
tay thiêng liêng của tạo hoá mới cầm cân công bình đặng, chớ nơi mặt thế nầy
mắt thấy tai nghe thì không khi nào cầm cân cho đúng lý như Tạo Hoá đặng.
GIẢI THÍCH : BÓ HOA
TRƯỚC MẶT LẦU CHUÔNG & LẦU TRỐNG.
Tích Đời Vua
U Vương nhà Châu nằm chiêm bao thấy một bó hoa trên không rớt xuống biển vào
lúc mặt trời vừa mọc.
Sáng ra Đức
Vua đem chuyện chiêm bao thuật lại cho vị quân sư nghe và bảo đoán xem
lành dữ. Vị Quân sư đoán rằng : Bệ hạ thấy biểu ấy là nước của Bệ hạ. Thấy mặt
trời mọc ấy là mối Đạo, thấy bó hoa là sự tinh tuý. Ấy vậy trong nước của Bệ hạ
ba ngày nữa sẽ có một mối Đạo mới. Quả nhiên trong ba ngày có Đức Phật Thích Ca
đến mở đạo Phật.
NGÔI HIỆP THIÊN ĐÀI
Ngôi Hiệp Thiên Đài thờ
chữ KHÍ của Đức Lý viết là "Tam tự nhứt thể", tức tổng hợp ba chữ KHÍ
; 1) Khí là hơi vô hình, 2) Khí là hơi nước bán hữu hình, 3) Khí là dụng cụ hữu
hình như nhạc Khí. Nên chữ Khí của Đức Lý không có trong tự điển.
Hiệp Thiên Đài có ba chi
là chi Đạo, chi Pháp, chi Thế, Hộ Pháp Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài để thông công
cùng các đấng thiêng liêng và Chưởng quản chi Pháp tức là năm giữ chơn truyền
luật Pháp của Đạo. Dưới quyền của Hộ Pháp có bốn vị Thời quân là Bảo Pháp, Hiến
Pháp, Khai Pháp và Tiếp Pháp.
Thượng Phẩm : Chưởng quản
chi Đạo. Chi Đạo có phận hoá nhơn sanh về mặt Đạo và độ rỗi phần hồn nơi cõi hư
vô. Đức Thượng Phẩm là Ông Hớn Chung Ly trong Bát Tiên giáng trần, đã làm xong
phận sự đắc đạo thành Tiên. Ông cầm cây quạt Long Tu Phiến để quạt đưa chơn hồn
vào Bạch Ngọc Kinh. Đây là hình kỷ niệm vị môn đệ đầu tiên đã khai sáng nền Đạo
độ dẫn chúng sanh khỏi luân hồi chuyển kiếp. Dưới quyền của Thượng Phẩm có bốn
vị Thời quân là Bảo Đạo, Hiến Đạo , Khai Đạo và Tiếp Đạo.
Thượng Sanh : Chưởng quản
chi Thế. Chi Thế có trách nhiệm giao thiệp với Đời, dìu dắt nhơn sanh vào cửa
Đạo. Dưới quyền của Thượng Sanh có bốn vị Thời quân là Bảo Thế, Hiến Thế, Khai
Thế, Tiếp Thế, ba chi hiệp lại là Thập Nhị Thời Quân, cầm giềng mối Đạo để
thông công cùng các đấng thiêng liêng truyền dạy, tức là phò cơ thỉnh Tiên.
GIẢI THÍCH THẤT ĐẦU XÀ (rắn bảy đầu)
Rắn Naga là loại cám dỗ
con người. Bảy đầu tượng trưng cho thất tình. Ba đầu ngưởn lên là Hỉ, Aùi, Lạc
ấy là ba mối lành. Bốn đầu cụp xuống là Ố, Nộ, Ai, Dục ấy là bốn mối xấu. Rắn
là giống độc, hại mạng người. Thất tình lôi cuốn con người vào đường tội lỗi,
hại linh hồn con người phải chịu đoạ trầm luân khổ ải.
Người tu phải cũng diệt
thất tình mới mong đắc Đạo.
GIẢI THÍCH RỒNG HẢ MIỆNG
Rồng hả
miệng là thời kỳ bày truyền bí pháp. Thế nên Đức Chí Tôn và Thần Thánh dùng
huyền diệu tiên gia giáng cơ kêu dạy chúng sanh làm lành lánh dữ thực hành nhơn
nghĩa bác ái công bình cho khỏi bị tội tình trầm luân khổ ải. Ấy vậy Rồng
hả miệng để kêu chúng sanh mà chúng sanh không nghe, sau nầy mắc tội lỗi không
còn đổ thừa Phật giả vô ngôn nửa.
GIẢI THÍCH
THIÊN NHÃN CHUNG QUANH ĐỀN THÁNH
Thiên nhãn
là ngôi Thái Cực tức là Trời. Nhãn là chủ của tâm nên tâm ta động thì Trời đã
biết. Tâm ta tưởng Trời tức có Trời trước mặt, dầu ở phương nào cũng vậy. Ấy là Phật tức
là tâm, tâm tức Phật, Đức Chúa cũng chỉ tâm là nguồn cội của con người vậy.
GIẢI THÍCH KHUÔNG CỬA SỔ
CHẠM HÌNH BÔNG SEN VÀ THIÊN NHÃN
Thiên nhãn là ngôi Thái
Cực, thời kỳ chưa phân Trời Đất vẫn còn mờ mờ. Khi Thái cực nổ mới có ánh sáng
khí thanh bay lên làm Trời, khí trược chìm xuống làm Đất, ấy là lưỡng nghi, tức
là hai buội sen tượng trưng âm dương.
Lưỡng nghi sanh tứ tượng
ấy là bốn cái trái, khi có Trời Đất mới phân định bốn phương Đông, Tây, Nam,
Bắc.
Tứ tượng biến thành Bát
Quái ấy là tám cái lá. Khi định bốn phương rồi mới chia ra tám hướng Càn, Khảm,
Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Mười hai ngó sen ấy là
Thập Nhị khai Thiên, là số 12 của Trời tức 12 con giáp : Tý, Sửu, Dần, Mẹo,
Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Mười cái bông ấy là Thập
phương chư Phật. Vì nơi Niết Bàn mới có Toà sen,ấy là cõi Phật. Các Đấng Thần
Thánh trước kia cũng mang xác phàm ở nơi cõi trần mà không nhiễm trần, lại tìm
chơn lý mà độ rỗi chúng sanh nên họ đắc vào bậc Thần Thánh, Tiên Phật. Tuy sen
ở dưới bùn mà không nhiễm bùn, lại "có cái thanh danh là Tiên Hoa hay là
Toà sen" nên gọi là cõi Phật.
Giải thích hình tam giác
và 16 cái tia trong khuông Thiên nhãn
Thiên nhãn là Trời, hình
tam giác là Tam Giáo, Tôn giáo nào cũng do nơi Trời mà có, Tôn giáo nào cũng có
qui cũ chuẩn thằng.
Mười sáu cái tia bao quanh
Thiên nhãn. Chín tia trên là Cửu thiên khai hoá. Bảy tia dưới là thất tình, cho
con người nương theo Cửu thiên khai hoá mà về hiệp với Trời rời bỏ thất tình
phàm tục.
GIẢI TÍCH DÂY NHO
Dây nho là
tinh, trái nho là Khí, rượu nho là Thần.
Nho là Nho tông chuyển
thế. Nho là Lễ, mọi sự chi đều dùng lễ tức là Đạo Trên thế gian nầy không có
người nào là không Đạo cả.Vì nhơn đạo đứng đầu. Trong Đạo Cao Đài thực hành về
quan hôn tang tế đều căn cứ theo đạo Nho mà làm cơ bản.
GIẢI THÍCH PHẦN BÁT QUÁI ĐÀI
Bát Quái Đài là nơi thờ
các Đấng thiêng liêng.
Trên hết thờ Trời bằng quả
Càn khôn và Thiên nhãn.
Quả càn khôn tức là vũ
trụ, trong quả Càn Khôn có ba ngàn bảy mươi hai ngôi sao (3.072) thay thế cho
Tam Thiên thế giới và Thất thập nhị địa.
Thiên nhãn là sự soi xét
thấy cả mọi việc trong càn khôn vũ trụ tức là Trời. Trời huyền diệu biến hoá vô
cùng bao quát cả thế gian chớ Trời không hình ảnh nhưngngười đời lầm tưởng.
Bát Quái biến ra Càn Khôn,
nên trái Càn khôn để trên Đài Bát Quái, Càn Khôn sanh vạn vật ấy là Đấng tạo
hoá.
Thời kỳ hạ ngươn nầy Đức
Thượng Đế gom các vị giáo chủ hiệp lại đến mà kêu các vị môn đệ nhìn Thầy lần
thứ ba, xuống cứu thế rước đệ tử đem về cõi thiêng liêng. Nếu đệ tử nào không
chịu nhìn Thầy thì sau nầy không mong gì gặp lại. Kế dưới các Long vị các vị
Giáo chủ các thời kỳ phổ độ trước.
GIẢI NGHĨA
TAM GIÁO NGŨ CHI PHỤC NHỨT
TAM GIÁO : giữa là Đức
Phật Thích Ca, Giáo chủ đạo Phật giáng sanh ngày 8 tháng 4 năm thứ 24, vào đời
Chiêu Vương nhà Châu. Bên mặt Đức Lão Tử, giáo chủ đạo Tiên, giáng sanh ngày 15
tháng 3 năm Đinh Dậu, đời Võ Đinh nhà Thương. Bên trái Đức Khổng Phu Tử , giáo
chủ đạo Nho,giáng sanh ngày 15 tháng 9 năm Kỷ Dậu, vua Linh Vương đời nhà Châu
ấy là tam giáo qui nguyên ngũ chi phục nhứt là Nhơn đạo, Thần đạo, Thánh đạo,
Tiến đạo và Phật đạo. Nhơn đạo : Từ ngôi Giáo Tông đổ xuống, Giáo Tông là anh
cả của Đạo là người cầm giềng mối và chưởng quản Cửu Trùng Đài do Đức Lý Thái
Bạch chấp chưởng. Đức Ngài là người công bình chánh trực, nên Đức Chí Tôn chọn
Ngài làm nhứt trấn oai nghiêm và thay mặt cho Tiên giáo.
Thần đạo : Đức Khương Thái
Tông (Khương Thượng) là giáo chủ. Ngài vâng mạng lịnh Ngọc Hư để lập bản phong
thần vào đời nhà Châu. Bên trái Khương Thượng có Thần vị NOURN DINH, người Hồi
giáo Vua Thổ Nhĩ Kỳ (1146-1173). Vùa là địch thủ đáng kinh sợ của quân Thập Tự
Chinh. Vua đại diện cho Hồi giáo trong kỳ ba phổ độ.
Thánh đạo : Đức Jésu
Christ là giáo chủ, Ngài vâng mạng lịnh Đức Chúa Trời xuống thế chuộc tội cho
nhơn loại kỳ thứ nhì Ngài mở Đạo Thánh xứ Aâu Châu.
Tiên đạo : Đức Lão Tử là
giáo chủ, Ngài lập đạo Tiên tại nước Trung Hoa, để độ rỗi chúng sanh đời nhà
Thương.
Phật đạo : Đức Thích Ca là
giáo chủ, Ngài lập Đạo Phật tại nước Ấn Độ để độ rỗi chúng sanh.
Ấy vậy năm mối đạo hiệp
lại là ngũ chi hiệp nhứt.
GIẢI THÍCH TAM TRẤN
Giữa là nhứt trấn oai
nghiêm ông Lý Thái Bạch. Đời nhà Đường vốn người thi sĩ, ông là người công bình
chánh trực, không ham công danh, không màng phú quí, ông có chí đi tu để ngao
du thiên hạ, ông đắc Đạo thành Tiên nên Đức chí Tôn chọn cho cầm quyền Giáo
Tông để nắm giữ luật thiên điều, vô tư thưởng phật trong buổi hạ ngươn này vậy.
Bên hữu là nhị trấn oai
nghiêm là bà Công chúa Diệu Thiện con vua Sở Trang Vương. Bà là người hiền đức
và trinh liệt tu đắc đạo thành Phật Quan Âm Như Lai . Bà hay thương người mến
vật cứu vớt chúng sanh. Nên Đức Chí Tôn chọn thế cho Phật giáo và làm gương mẫu
cho bên Nữ phái.
Bên tả là tam trấn oai
nghiêm là ông Quan Công sanh đời nhà Hớn. Ông là người trung cang nghĩa khí
được đắc Thánh nên Chí Tôn chọn thế cho Thánh giáo và làm gương mẫu cho Nam
phái.
GIẢI THÍCH HÌNH ĐỨC HỒNG QUÂN LÃO TỔ
NƠI CUNG THƯỢNG THIÊN
Thích nghĩa : Hồng Quân :
Hồng là lớn, quân là cái bàn xoay của người thợ đồ gốm. Hồng quân là cái bàn
xoay to lớn nặng ra mọi vật. Đó là Đấng tạo hoá trong Văn T uyển có câu :
"Hồng Quân đào tạo vạn loại, Địa Khối bẩm quần sanh", có nghĩa là
trời tạo muôn loài, đất nuôi sống chúng sanh.
Đức Hồng Quân là đấng phân
định âm dương, khai nên trời đất, tức là Trời biến thân, làm thầy Tân giáo.
Ngài lập ra ba nền tôn giáo là Nho, Thích, Đạo tạo cổ pháp và bí pháp tức là
biểu hiện của Tôn giáo.
GIẢI THÍCH HAI CÁI ĐÀI THUYẾT ĐẠO
Tích vua Phò Dư lập đài tế
cáo Trời Đất .
Khi Đức Khổng Phu Tử đi
truyền giáo đạo Nho, qua nước Phò Dư gặp phải ông vua tánh tình tàn bạo không
ưa tôn giáo không thích tu hành. Vua ra lịnh bắt Đức Khổng Phu Tử giam vào ngục
thất, ngoài hai năm trời mới phóng xá và cấm trong nước nếu ai theo đạo của
Ngài thì tru di. Vua lại ra sáu điều như vầy:
1/ Mắt ta không muốn trông
thấy Khổng Phu Tử.
2/ Tai tai không thèm nghe
những lời của Khổng Phu Tử bày
3/ Mũi ta không chịu hơi
hôi tanh của Khổng Phu Tử.
4/ Lưỡi ta không nói
chuyện với Khổng Phu Tử.
5/ Thân ta không muốn gần
gũi thân mật với Khổng Phu Tử.
6/ Ý ta không muốn cho
Khổng Phu Tử qua nước ta lần thứ hai. Nếu cãi lịnh sẽ gia hình không thứ. Ấy là
sáu cái chia trong miệng rồng phun ra tức là lục căn : Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt,
Thân, Ý.
Bởi vua Phò Dư vô Đạo bạo
tàn, nên Trời phạt trong nước phải bị thiên tai hạn hán. Vua thấy trong nước
nguy biến bèn ra giữa Trời lập cái bàn mà cầu nguyện (tướng tinh Vua Phò Dư là
con thanh long : Rồng xanh).
Vua Phò Dư quì dưới đài mà
cầu nguyện thấu đến Ngọc Hư Cung. Đức Thượng Đế sai ông Hứa Chơn quân xuống
đứng trên đài cho rằng ấy là tại nhà vua vô đạo không kể thánh hiền, nên Trời
phạt như vậy. Nếu nhà vua muốn trong nước mưa thuận gió hoà, dân cư lạc nghiệp
thì qua nước Lỗ tìm Đức Khổng Phu Tử rước về mở Đạo dạy dân thì trong nước hết
tai nạn. Ngài nói rồi đằng vân bay mất.
Vua nghe theo lời qua nước
Lỗ cầu Đức Khổng Phu Tử đến mở trường Đạo dạy dân. Không bao lâu trong nước
được mưa thuận gió hoà, dân lạc nghiệp âu ca. vua thấy vậy truyền lĩnh trong
nước ai không theo Đạo của Đức Khổng Phu Tử sẽ bị gia hình trọng trị.
GIẢI THÍCH KIM MAO HẨU
Trong âm Hán
Việt, chữ hẩu là hống, có nghĩa là tiếng rống của sư tử . Kim Mao Hẩu là con
sư tử lông vàng được tạc hình hai bên cửa hông Đền Thánh. Sư tử vương là danh
xưng tôn kính của Phật, sư tử hống (tiếng rống của sư tử) biểu tượng cho sự
chuyển pháp luân của kỳ ba phổ độ. Kim Mao Hẩu theo Đức Hộ Pháp để bảo vệ đạo
Cao Đài chống mọi bạo quyền vi phạm đạo.
Kim Mao Hẩu là linh vật
cưỡi của Văn Thù Bồ Tát (Marjusri) để hỗ trợ cho đạo pháp. Theo dân gian, Thần
Tử Vi trấn môn tay cầm bùa bát quái, thân cưỡi Kim Mao Hẩu để trừ quỉ quái bảo
hộ gia đình; chung quanh Đền Thánh có tạc 8 con Kim Mao Hẩu để xua đuổi bọn Tả
đạo Bàng môn (cửa hông).
GIẢI THÍCH HÌNH ĐỨC DI LẠC CƯỠI CỌP
Đức Di Lạc là vị Phật cầm
quyền làm chủ Hội Long Hoa kỳ thứ ba. Ngài ngồi trên nóc Hiệp Thiên Đài để
truyền lịnh dạy của Chí Tôn và quan sát chấm công điểm Đạo đem vào Bạch Ngọc
Kinh mà dự hội.
Tượng trưng hình Ngài cưỡi
cọp là ám chỉ nền Đại Đạo TKPĐ khai năm Bính Dần (1926) tại Tây Ninh.
GIẢI THÍCH CON LONG MÃ
ĐỨNG TRÊN QUẢ ĐỊA CẦU
Tích đời Vua
Phục Hi (Đời Tam Hoàng Ngũ Đế) nơi sông Mạnh Tân có nổi lên một con quái vật
mình ngựa đầu rồng làm cho nước dâng lên và sóng gió. Khi Vua Phục Hi ra xem và
nói rằng nếu ngươi đem báu vật cho ta thì vào, thì con Long mã từ từ đi xuống
đến qùi xuống mà dân ấn kiếm và Bát Quái Hà đồ, cho Ngài làm vua trị thế. Ngài
lấy Bát Quái Hà đồ mà phân định phương hướng, toán định mà lập đạo dạy dân. Ấy
là Đạo phát khai tại cõi Đông trước hết, lần lần truyền qua cõi Tây.
Long mã là vật đem tin
truyền đạo, nên từ hướng Đông chạy sang hướng Tây rồi quay đầu lại hướng Đông.
Ấy là Thiên Địa tuần huờn châu nhi phục thỉ thì Đạo trở lại hướng Đông lập đời
Thánh Đức.
GIẢI THÍCH CHỮ VẠN
TRÊN NÓC LẦU CHUÔNG, TRỐNG
Hai chữ Vạn
( ) tạc trên nóc lầu chuông lầu trống các Thánh thất là hình tượng (không phải
chữ viết) của Ấn Độ Cổ thời Bà La Môn mà nhiều tôn giáo đã sử dụng
không riêng gì Phật giáo.
Đời Đường,
thời Võ Tắc Thiên có thời chữ Vạn đọc là chữ NHẬT tượng trưng cho mặt trời,
chữ đó ngoặc sang bên trái . Ngoài việc coi chữ Vạn là Trời, Đạo Cao Đài còn ý
nghĩa thứ hai cầu mong "Thánh Vương giáng thế chuyển luân cai trị thế
giới"
Trong cuốn " Học Phật
quần nghi" do NXB Đông Sơ Đài Loan 1987, Hoà Thượng Thích Thánh Nghiêm đã
viết : "Gần đây thỉnh thoảng có sự tranh luận về chữ Vạn ngoặc sang phải
hay ngoặc sang trái…Vì trong những năm 40 của thế kỷ XX, Hitler Châu Aâu cũng
dùng chữ Vạn để làm phù hiệu cho chủ nghĩa Đức Quốc Xã. Có người nói Hitler
dùng chữ Vạn ngoặc sang trái, Phật giáo dùng chữ Vạn ngoặc sang phải"
(trang 144).
Hoà Thượng Thích Thánh
Nghiêm cho biết thêm : "Theo truyền thuyết cổ Ấn Độ, phàm là Thánh Vương
chuyển luân cai trị thế giới đều có 32 tướng tốt. Điều này được ghi trong kinh
Kim Cang Bát Nhã, chữ Vạn là một trong 32 tướng tốt của Phật. Theo Kinh Trường
A Hàm thì đó là tướng tốt thứ 16 nằm trước ngực của Phật".
Trong Bách Khoa toàn thư
The World Book 1999 của Hoa Kỳ đã vẽ hình hai chữ Vạn như hình vẽ. Joseph Ward
Swain đã viết : "Chữ Vạn có dạng dấu thập mà phần cuối các cánh tay đòn
của nó được bẻ gãy vuông góc theo một chiều xác định, thường là chiều kim đồng
hồ. Năm 1920, chữ Vạn theo chiều kim đồng hồ đã được Đức Quốc Xã chọn làm biểu
tượng". Như vậy theo J.W. Swain chữ Vạn có thể quay theo cả hai chiều. Một
trong hai chiều đó trùng với chữ thập ngoặc của Đức Quốc Xã.
Như vậy, sự trùng lặp biểu
tượng chữ Vạn của tôn giáo và chữ thập ngoặc của Đức Quốc Xã là có thật.
Thật vậy, trong Ấn Độ giáo
lấy chữ Vạn ngoặc bên phải biểu thị thần nam giới và ngoặc bên trái biểu thị
thần nữ giới. Đạo Lạt Ma ở Tây Tạng dùng chữ Vạn ngoặc sang bên phải. Còn Đạo
Bonpa dùng chữ Vạn ngoặc sang trái.
Chính vì sự hiểu lầm chữ
Vạn mà Toà Thánh Tây Ninh bị đóng cửa (1941), Đức Hộ Pháp và 5 vị chức sắc bị
Pháp bắt tù đày. Thật ra Đạo Cao Đài chẳng hề có quan hệ gì với Đức Quốc Xã.
GIẢI
THÍCH BẦU GẬY VÀ GIỎ HOA LAM
(Trên nóc lầu chuông và lầu trống)
Bầu và gậy
là hai món bửu pháp của ông Lý Thiết Quày (gậy sắt) trong Bát Tiên hôm nay
giáng trần dìu dắt chúng sanh, làm đầu bên Nam phái. Ấy là
chơn
linh Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.
Giỏ hoa lam là món bửu
pháp của bà Long Nữ, đệ tử của Phật Quan Âm Như Lai. Hôm nay đã giáng trần dìu
dắt nhơn sanh làm đầu bên Nữ phái,ấy là chơn linh của bà Nữ Đầu Sư Lâm Hương
Thanh. Hai Đấng nói trên là hai vị môn đệ của Chí Tôn trong buổi ban sơ Khai
Đại Đạo. Hai vị này là ân nhân của nhơn loại và Đại công với Đạo trong thời kỳ
thứ ba.
GIẢI THÍCH BA VỊ PHẬT
TRÊN NÓC BÁT QUÁI ĐÀI.
Ba vị Phật là Brama,
Civa,và Christna Phật, là tam vị thế tôn trị đời nhằm thời kỳ thượng ngươn là
ngươn Thánh Đức tức là ngươn vô tội. Ông Brama cưỡi con thiên nga(con ngỗng)
bay khắp cả hoàn cầu nhằm cuộc thế.
Civa Phật (day mặt về
hướng Bắc) ông ra trị đời nhằm thời kỳ trung ngươn là ngươn tranh đấu tức là
ngươn tự diệt. Ông đứng trên con thất đầu xà ấy là diệt thất tình. Ông thổi ống
sáo để dục tỉnh nhơn sanh trở về ngôi vị.
Christna Phật (day mặt về hướng Nam), Ông ra
trị đời nhằm thời kỳ hạ ngươn là ngươn tận diệt tức là bất đầu ngươn tái tạo. Ông cưỡi
con Giao long đi khắp cùng chơn trời gốc biển mà rước các chơn hồn đem về Bạch
Ngọc Kinh dâng lên Chí Tôn định vị.
Tóm lại, các kiến trúc
mang các điển tích của Đền Thánh là do nơi Đức Giáo Tông thiêng liêng (Đức Lý
Thái Bạch giáng cơ) và sự chỉ đạo của Đức Hộ Pháp. Lễ an vị ngày 8 tháng giêng
năm Định Hợi (1947).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét