Thay Lời Tựa.
Ngay trang đầu quyền THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN, nhân
vía Đức Chí Tôn mồng 9-1-Bính Dần (21-2-1926), Đức Cao Đài đã tiên tri trong
bài điểm đạo lần đầu tiên cho 12 đệ tử :
Câu 1 : CHIÊU,
KỲ, TRUNG độ dẫn Hoài Sanh,
2/ - BẢN đạo
khai SANG, QUÍ, GIẢNG thành.
3/ - HẬU,
ĐỨC, TẮC, CƯ Thiên Địa cảnh,
Bài tứ tuyệt này, người tín hữu nào cũng biết đó là
bài điểm đạo 12 vị cao đồ, nhưng chỉ ít phát hiện là bài thơ tiên tri về tổ
chức giáo hội Cao Đài, đường tu, tận độ chúng sanh ....
1/ - GIÁO HỘI CAO ĐÀI CÓ LƯỠNG ĐÀI :
Đức Cao Đài báo trước cái đài cao ấy là Bát Quái
Đài cai quản hai đài : Cửu Trùng Đài lập trước và đông nhân sanh (câu 1,2) Hiệp
Thiên Đài lập sau và ít hơn (câu 3).
2/ - ĐẠO CAO ĐÀI CÓ HAI ĐƯỜNG TU :
Tu chơn (Chiêu, Sang (Võ), Quí) thiểu số vì tâm
truyền và phổ độ (Trung, Kỳ, Bản, Giảng ...) đa số vì phổ cập quần sanh.
Thật ra, tu chơ vẫn có phổ độ (phổ độ kiểu tu chơn)
và phổ độ vẫn có tu chơn (tịnh luyện kiểu phổ độ) vì trong dương có âm và trong
âm cũng có dương theo Dịch lý. Đức Cao Đài đã dạy hai ông Phạm Công Tắc và Cao
Quỳnh Cư bên phổ độ tịnh luyện từ ngày 4-1-1926. Còn Đại Thừa Chơn Giáo được
các Đấng giáng cho ở trước Lý Minh Đài vốn là Thánh Thất bên phổ độ. Trong
Thánh Ngôn còn nhiều điều tuy ta đã đọc mà vẫn chưa thấy, chưa phát hiện hết
thì chớ vội nói : có có, không không.
3/ - ĐẠO LẬP RA ĐỂ CỨU ĐỜI : TẬN ĐỘ CHÚNG SANH :
Đạo đã được Đức Cao Đài lập ra (câu 1,2,3) là để
cứu đời (câu 4) vì các ông Hườn, Minh, Mân là người ngoài chưa vào Đạo, nhưng
Đức Chí Tôn tiên tri : đáo thủ Đài danh, sẽ theo Đạo. Đạo lập ra để tận độ
chúng sanh và độ đời từ lúc còn hoài sanh (trong bụng mẹ).
4/ - THẦY LẬP TAM TÀI :
"Lập
tam tài định Kiếp hòa căn
Chuyển
luân định phẩm cao thăng".
Bà Bát Nương dạy rằng : lập tam tài để định
Kiếploài người bằng thuyết chuyển luân đưa loài người cao thăng phẩm vị để đạt
câu tận độ chúng sanh, không còn quỉ quan, địa ngục.
Tam tài trong bài tứ tuyệt trên là Tam Vị Thiên Sứ
Hiệp Thiên Đài.
- Cao Quỳnh Cư tuổi Mậu Tý biểu hiện : THIÊN KHAI Ư
TÝ.
- Phạm Công Tắc tuổi Canh Dần biểu hiện : NHÂN SANH
Ư DẦN.
- Cao Hoài Sang tuổi Tân Sửu biểu hiện : ĐỊA TỊCH Ư
SỬU.
5/ - NHỮNG CON SỐ MẦU NHIỆM THỂ HIỆN DỊCH LÝ :
Trong bài thi có 12 vị cao đồ (phần dương) cộng 3
vị hầu đàn (phần âm) là 15. Số 15 là số đặc biệt của Lạc Thư, cộng chiều ngang,
chiều dọc, đường chéo đều là 15. Người phương Tây gọi là Ma Phương (Carré
magique).
Số 15 là số đồng tử Hiệp Thiên Đài, số đặc biệt vật
phẩm dâng cúng Đức Phật Mẫu, và là số Thái Cực vì số 5 là số sinh cộng (5 + 10
= 15) với số 10 là thành, thuộc thổ ở Trung ương.
Xem thế, số 15 ám chỉ Đạo Cao Đài thờ phần dương
Chí Tôn và cả phần âm Phật Mẫu. Đức Cao Đài hàm ý đặt tư tưởng Cao Đài trên
Kinh Dịch vì thế kiến trúc, thờ phượng nơi Tòa Thánh, Thánh Thất đều thể hiện
dịch lý bên trong.
6/ - GIÁO LÝ KHÔNG TRONG KHÔNG NGOÀI :
Bài tứ tuyệt điểm danh 12 vị cao đồ là : Ngô Văn
Chiêu, Vương Quan Kỳ, Lê Văn Trung, Nguyễn Văn Hoài, Đoàn Văn Bản, Võ Văn Sang,
Lý Trọng Quí, Lê Văn Giảng, Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức, Phạm Công Tắc,
Cao Quỳnh Cư. Thật tế, lúc đó Đức Cao Đài có tới 14 môn đệ. Trong "Tiểu sử
quan phủ Ngô Văn Chiêu" chép là "hai tên Võ Văn Sang và Cao Hoài Sang,
Thầy điểm chung một tên" (TSQPNVC, Sài Gòn 1926, trang 41). Việc này, tôi
được Đức Cao Thượng Sanh giải thích như sau : "Số là Qua bận việc cơ quan
về trễ. Về nhà, Qua cũng thiết đàn cúng vái. Khi Đức Chí Tôn điểm đạo Qua cũng
bị kích động như điện giựt. Vậy một Sang có mặt và một Sang vắng mặt đều được
điểm đạo". Mười hai hay mười ba ? Ông Sang ở trong hay ở ngoài. Ý niệm đó
đưa ta đến triết lý không trong không ngoài của Đông phương và cũng là nền tảng
giáo lý Cao Đài. Nếu là 12 thì Đạo đã thành, có đâu ban Giáo Tông (xong) rồi
lại Quyền Giáo Tông (chưa xong), giống như trong Kinh Dịch quẻ 63 là Ký Tế
nhưng đến quẻ cuối 64 là Vị Tế. Chính cái chưa xong biến dịch Đạo mới truyền
tới thất ức niên. Nếu Đạo đã toàn hảo lấy trở ngại gì để con người tu thân (sửa
mình). Vậy ông Cao Hoài Sang phải là con số 13 (phù hợp với Cư, Tắc, Sang), báo
hiệu cho thời Thái Dương của các Cao Đồ, của thời Thần Thánh trị vì đã chấm dứt
(12 giờ trưa là cực dương của Thái Dương tính theo Tứ thời), bước sang 13 giờ
là bắt đầu thời Thiếu Aâm. Chính Đức Cao Thượng Sanh cũng nhận như vậy và người
môn đệ cuối đã thay mặt các Cao Đồ báo tin "Sứ mạng làm xong".
"Mười
ba năm một dạ trung kiên ...
SỨ
MẠNG LÀM XONG giữ trọn nguyền".
7/ - MỘT NHÀ, MỘT ĐẠO, MỘT CHA:
Nhận định về lý lịch, 13 vị Cao Đồ rất chênh lệch
về tuổi tác và giai cấp xã hội. Oâng Lê Văn Trung (1876) và ông Cao Hoài Sang
(1900) cách tuổi nhau 2 con giáp. Về tông tộc thì "người dưng khác
họ", người họ Ngô kẻ họ Đoàn. Về địa vị xã hội, một ông tri phủ (Vương
Quan Kỳ), một người dân thường (Lý Trọng Quí) mà họ sống hòa hợp thương yêu
nhau như tình anh em trong một gia đình, nên Đức Cao Đài khen: "Thầy vui
vì các con thuận hòa cùng nhau. Thầy muốn các con như vậy hoài".
"Chẳng
quản đồng Tông mới một nhà
Cùng
nhau một Đạo tức một cha".
8/ - HAI CHỮ CUỐI LÀ ĐỀ BÀI THI :
Tóm lại, bài tứ tuyệt trên là một tuyệt bút độc
nhất vô nhị trong Thánh Thi Cao Đài. Bài thi ấy xứng đáng cái tên ĐÀI DANH mà
Đức Ngô Minh Chiêu, người đệ tử đầu tiên đã được ân ban:
"Cao Đài ứng hóa theo lòng chúng sanh,
Đố ai có biết cái Danh Cao Đài ?"
Bài thơ vừa điểm danh
vừa diễn ý phong phú như trên, nên nó không mang tính cách thứ hạng trong Đạo mà chỉ biểu hiện thứ
tự anh em trong một gia đình, với ý nghĩa : đôi khi anh lớn không làm nên sự
nghiệp bằng em nhỏ. Nếu không viết ý này, soạn giả e bình văn còn thiếu và cũng
nghĩ mình còn rất thiếu ...
Sau hết, xin cám ơn các bạn văn
trong Đạo có văn trích trong quyển sách này vì hoàn cảnh đặc biệt
không thể gởi thơ xin phép.
Tam Tê Anh, ngày lễ
Khai Đạo 49
TRẦN VĂN RẠNG
ĐỆ TỬ THỨ NHẤT
NGÔ VĂN CHIÊU
(1878 - 1932)
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Ngô Minh Chiêu quý
danh là Ngô Văn Chiêu sanh năm 1878 tại Bình Tây (Cholon) trong một gian nhà
nhỏ sau chùa Quan Thánh.
Sớm sống khỏi gia đình,
năm 12 tuổi đến nhà Đốc Phủ Sủng (Mỹ Tho) để xin học nội trú tại Trung học Mỹ
Tho. Sau lên trường Chasseloup Laubat thi đậu Thành Chung năm 21 tuổi và được bổ làm tại
Sở Tân Đáo Sài Gòn. Ngài thành gia thất với bà Bùi Thị Thân có được 9
con, làm quan tới Đốc Phủ (1)
Năm 1903, Ngài đổi đến
Dinh Thượng Thơ rồi về Tân An (1909), đầu năm 1920 thì ra Hà Tiên sau 8 tháng
đổi ra Phú Quốc. Chính nơi đây Ngài đã ngộ Đạo Cao Đài và là chứng nhân đầu
tiên của nền Tân Tôn giáo.
(1) Vương Hồng Sển, Hơn nửa đời tu. NXB Tp.HCM 1992,
trang 234)
II/ - PHẦN ĐẠO
Tại đàn cơ Tết Tân Dậu (8/2/1921) tại Chùa Quan Âm
(Phú Quốc) có vị Tiên Ông giáng "Chiêu tam niên trường chay". Ngài
bạch : "Bạch Tiên Ông đã dạy thì đệ tử phải vâng, song trường chay 3 năm
lâu quá biết đệ tử có chịu nổi không ?" . Ngài đã ăn chay từ đó để thọ
giáo.
Một buổi sáng đang ngồi trên võng, Ngài bỗng thấy
trước mặt lộ ra một con mắt thiệt lớn, chói ngời như mặt trời.
Ngài sợ hãi nhắm mắt lại trong 30 giây, mở ra vẫn
thấy và còn chói lọi hơn. Ngài bèn vái rằng "bạch Tiên Ông, đệ tử rõ huyền
diệu của Tiên Ông rồi. Như phải Tiên Ông dạy đệ tử thờ Thiên Nhãn thì xin cho
biết tức thì" . Vái xong thì Thiên nhãn lu dần rồi mất. (1)
Sau khi tu được 3 năm, Tiên Ông giáng cơ ban đặc ân
cho Ngài muốn tìm hiểu chi. Ngài bạch "Bạch Thầy nghe cảnh Bồng Lai xinh
đẹp vô cùng, xin Thầy cho đệ tử thấy cảnh ấy" Vào cuối tháng gi6ng năm
Giáp Tý (1924), Ngài ra biển hóng mát thì được thưởng ngoạn cảnh Bồng Lai trong
15 phút.
Năm 1924 đổi về Sài Gòn, Ngài liên lạc với Đức Phạm
Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm. Nhưng Ngài tu theo vô vi (2) nên không đi phổ độ
được. Dù rằng đàn cơ đêm 14/4/1926 Đấng Chí Tôn định ban cho Ngài phẩm Giáo
Tông. Ngài lập Chiếu Minh vô vi ở Cần Thơ rồi liễu đạo trên sông Cửu Long ngày
13/3/Nhâm Thân (1932) hưởng thọ 54 tuổi.
Sau đó ít lâu các đệ tử hầu đàn được Ngài cho các
bài thi :
Từ
ngày xa thế đến Tiên bang
Lo
lắng nhơn gian bước lạc đàng
Đức
rộng đạo dày là quí báu
Đặng
lên Bồng cảnh chép biên hoàng
Rồi
kinh rồi sám gặp chơn truyền
Chiêu
giáng độ phàm rõ ý Tiên.
Lo
lắng e khi quên đạo đức
Chí
thành chí kỉnh rõ lòng nguyền.
(2) Với chủ
trương "ngô thân bất độ bất độ hà thân độ" : thân mình chưa độ được,
lo độ ai.)
THỜ
THIÊN NHÃN
(THEO TS. QP. NVC)
Tuy Ngài chịu làm đệ tử của Tiên Ông chớ chưa lập
bàn thờ để thờ Tiên Ông, vì không biết phải thờ làm sao ? Một bữa kia Tiên Ông
dạy Ngài phải tạo ra một cái dấu hiệu gì riêng để thờ. Ngài bèn chọn chữ Thập,
Tiên Ông nói chữ Thập cũng được song đó là dấu hiệu riêng của một nền Đạo đã có
rồi. Phải suy nghĩ mà tầm cho ra, có Tiên Ông giúp sức, Ngài xin hưỡn lại để có
ngày giờ suy ngẫm. Mãn tuần Ngài tầm cũng chưa ra.
Một bữa sớm mai, lúc tám giờ, Ngài đương ngồi trên
võng phía sau Dinh Quận, bỗng đâu Ngài thấy trước mặt cách xa độ hai thước tây,
lộ ra một con mắt thiệt lớn, rất tinh thần, chói ngời như mặt trời, Ngài lấy
làm sợ hãi hết sức, lấy hai tay đậy mắt lại không dám nhìn, nửa phút đồng hồ
Ngài mở mắt ra thì cũng còn thấy con mắt ấy mà lại càng chói hơn nữa.
Ngài bèn chấp tay vái rằng :
"Bạch Tiên Ông đệ tử rõ biết cái huyền diệu
của Tiên Ông rồi, đệ tử xin Tiên Ông đừng làm vậy đệ tử sợ lắm. Như phải Tiên
Ông bảo thờ Thiên Nhãn thì xin cho biến mất tức thì". Vái xong con mắt lu
lần lần rồi mất.
Như vậy mà Ngài cũng chưa thiệt tin, nên chưa tạo
Thiên Nhãn mà thờ. Cách vài ngày sau Ngài cũng thấy y như lần trước nữa. Ngài
cũng nguyện sẽ tạo Thiên Nhãn mà thờ thì con mắt tự nhiên biến mất.
Đức
Cao Đài Tiên Ông xưng danh tại Quan Âm Tự.
Năm 1921, sau khi thấy Thiên Nhãn hiện 2 lần, Ngài
cầu cơ hỏi cách thờ phượng thì Tiên Ông dạy vẽ con mắt theo như Ngài đã thấy mà
thờ và xưng tên là "Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát" và dạy
Ngài phải kêu Tiên Ông bằng THẦY mà thôi. Từ đó Ngài chánh thức trở nên người
đệ tử đầu tên của Đức Cao Đài Tiên Ông.
Chư nho hầu đàn thảy đều lấy làm lạ vì thuở nay
chẳng hề thấy kinh sách nào nói đến danh Cao Đài Tiên Ông. Duy có mình Ngài xem
ý tứ trong mấy bài thi của Đức Cao Đài cho thì Ngài đoán chắc rằng Thượng Đế
giá lâm, Chúa tể càn khôn vũ trụ, Cha chung của nhân loại, mới dạy như thế mà
thôi.
Cũng như các tôn giáo thuở xưa, trong Giáo pháp của
Ngài có hai khoa :
(1) - Khoa công truyền tiệm giáo để độ đại chúng lập công bồi đức.
(2) - Khoa Tâm truyền đốn giáo để dắt dẫn người hữu
căn muốn tìm đường siêu xuất.
(Nhưng vì qui giới rất gắt gao, nghiêm nhặt, nên ít
được phổ biến).
NGOẠI
GIÁO CÔNG TRUYỀN
Khoa Giáo pháp công truyền của Ngài có thể phân ra
làm bốn phần cho dễ hiểu:
1/ - Phần LUẬN LÝ (Ethìque)
2/ - Phần CHẾ ĐỘ (Règime, statuts, Discipline)
3/ - Phần TRIẾT LÝ (Philosophie)
4/ - Phần SIÊU HÌNH hay (HUYỀN HỌC) (Métaphysique).
Như đã nói qua đoạn trên, Ngài
không có biện luận bao nhiêu về các phần này, và quan tâm về thưc hành nhiều hơn
: vì thế cacù tầng lớp trong xã
hội, cho đến hạng nghèo nàn ít học cũng tu theo được.
1/ - Về phần LUẬN LÝ :
Xưa nay bất cứ ở vào thời đại nào, thuộc về Tôn giáo nào, theo dân tộc,
phép tắc định ra để khép người trong đường ngay lẽ chánh, (nhơn luân : lois
morales) cũng chẳng khác nhau bao nhiêu.
Phần LUẬN LÝ trong giáo pháp của Đức NGÔ MINH CHIÊU truyền bá, tựa hồ như có tánh cách chiết
trung (éclectisme).
Ngài dạy :
a/ - Rèn lòng TỪ BI, BÁC ÁI làm bản tánh
b/ - Răn mình và hành động theo KINH CẢM ỨNG, là bộ
giới luật duy nhứt (Code moral).
c/ - Lo tròn NHƠN ĐẠO theo tam cang ngũ thường.
Lòng TỪ BI, BÁC ÁI luôn luôn phải thực sự, cụ thể,
tích cực, nhưng hành vi phải âm thầm kín đáo. Làm việc phước đức cho thường,
song chẳng cho người thấy biết. Thay vì dùng lời chỉ bảo, Ngài hằng lấy gương
lành mà dạy rõ : về mặt luân lý, chơn hạnh phúc gom ở trong việc tạo hạnh phúc
cho người quanh mình.
Riêng ra Ngài dặn phải biết NHẪN NHỤC, HAÏ MÌNH
TRỌNG NGƯỜI, luôn luôn (Khuất kỷ tôn nhơn, bình tâm hạ khí).
Một đặc điểm khác là Ngài có dạy rằng : Đạo mở kỳ
này là một mối Đạo chơn thường. Người hành trì phải giữ hai chữ ấy làm phương
châm (guide).
CHƠN là: Lời nói CHƠN THẬT (vérité)
Việc làm CHƠN CHÁNH (Drotiture)
Ý tưởng CHƠN THÀNH (Sincérité)
THƯỜNG là : Phải hành trì THƯỜNG TRỰC không gián
đoạn.
ĐỀU ĐẶN không lúc nhặt hồi thưa, phải NHỨT TÂM NHỨT
TRÍ.
TỰ NHIÊN, UNG DUNG không dục tốc không giải đãi
(Naturel - Régularité - Constance).
2/ - Về phần Chế Độ :
Giáo phẩm và hệ thống :
Mặc dầu lối tháng 9 DL năm 1920 (lúc còn tại Hà Tiên) Đức NGÔ MINH CHIÊU
đã phụng lãnh thiên mạng mở Đạo kỳ ba độ rỗi nhân sanh, mặc dầu sau khi về Sài
Gòn (năm 1924) Ngài chỉ huy giám định công việc xây dựng nền tảng Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ, mặc dầu Ngài ban truyền một Giáo lý qui tắc phân minh, mặc dầu Ngài
điều khiển cơ quan Vô vi Tâm Pháp có ấn chứng hiển nhiên, nhưng Ngài chẳng thọ
nhận chức Giáo Tông, ân phong tại Tòa Thánh Tây Ninh (14 tháng 4 DL năm 1926). Chẳng những thế thôi, Ngài còn không
nhận cho mấy vị học đạo trực tiếp với Ngài, gọi là "Thầy" nữa.
Ngài nói ở trần thế không người nào được làm thầy
người nào hết. Ngài chỉ là người truyền giáo mà thôi. Mấy người học đạo, là học
đạo với Đức THƯỢNG ĐẾ. Phép tu hành theo Ngài là phép "cư sĩ, tu tại
gia". Không lập Tòa lập Thất, không tạo Chùa chiền, Đạo viện. Không tổ
chức Giáo Hội, Tập Đoàn nơi Tu viện (Monachisme). Đạo của Ngài không có đặt ra
Giáo phẩm (Sacerdoce). Tất cả tín đồ nhứt thể đều là người còn đương học Đạo,
không phân giai cấp.
Khác nhau là cũ và mới : Tín đồ cũ có nhiệm vụ dẫn
dìu người mới, chỉ kiểu tu hành cho tường tận, cho họ được hiểu biết như mình.
Song tuyệt nhiên không bao giờ được dùng tiếng "DAÏY". Tín đồ mới có
phận sự phải hành theo lời chỉ vẽ và xem người cũ như người thay mặt Giáo chủ
trao bản đồ cho mình do theo mà hành đạo. Chính Ngài cũng không chịu ai tôn
trọng biệt đãi mình.
ĐỆ
TỬ THỨ HAI
VƯƠNG
QUAN KỲ
(1880 - 1940)
* Phần đời : Tri phủ Sở thuế thân
* Phần đạo : Giáo sư
Ông Vương Quan Kỳ (1880-1940), người tỉnh Chợ Lớn,
cháu nội Thống Chế Vương Quan Hạc. Ông ngoại là nhà Nho yêu nước Huỳnh Mẫn Đạt
(1807-1883), đậu cử nhân, làm quan hai triều Minh Mạng Tự Đức, rồi từ quan khi nhà
Nguyễn ký hòa ước 1862 với Pháp.
Song thân ông Kỳ là Vương Quan Để và Huỳnh Thị Bảy.
Oâng học Lycée Chasseloup Laubat, đậu diplôme, cùng làm việc với ông Chiêu ở
Dinh Thống Đốc Nam Kỳ, ngạch tri phủ.
BÀI
KỆ CHO ÔNG VƯƠNG QUAN KỲ
Nhựt
nhựt tân hề nhựt nhựt tân,
Niên
đáo tân hề đạo giữ tân.
Vô
lao công quá tu đương tác,
Niên
quá niên hề đạo tối tân.
Oâng có phát tịch, thuở nhỏ học ở Mỹ Tho rồi trường
Chasseloup Laubat, đậu Thành Chung, làm quan tới phủ sứ, thọ phong Giáo Sư ngày
26-4-1928. Oâng là bào đệ của Vương Quan Trân, thân sinh cô Vương Thị Lễ (kêu
ông bằng chú). Vương Thị Lễ tá danh là Đoàn Ngọc Quế tức Thất Nương Diêu Trì
Cung hướng dẫn các ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư học đạo buổi đầu.
Trong "Con đường thiêng liêng hằng sống"
Đức Phạm Hộ Pháp nói về ông như sau :
"Bần đạo nói rõ người ấy là Vương Quan Kỳ chú
ruột của Thất Nương người mở Đạo mà chẳng biết Đạo là gì hết và cả hành tàng
(người ấy) nếu chúng ta thấy sẽ lên án là Tả Đạo Bàng Môn chắc hẳn vậy.
"Người đó bận Thiên phục giấy hình đội mão
Giáo Sư, áo tốt lại dắt vai mão cầm nơi tay, bận quần cụt ở trần đi ngật ngờ
ngật ngưỡng cười một mình không biết cười cái gì, đi ngang qua Bát Quái Đài như
không vậy". Đó là ngươn lịnh của Hàn Tương Tử thích phóng túng tiêu dao. .
ĐỆ
TỬ THỨ BA
LÊ VĂN
TRUNG
(1876-1934)
- Phần đời : Thượng Nghị Viện
- Phần đạo : Thượng Đầu Sư kiêm Q. Giáo Tông.
MỘT
NGƯỜI KHẢNG KHÁI
(1875 -- 1925)
1. -
Thời thanh thiếu niên năng động
Ông Lê Văn Trung sanh ngày 12 tháng 9 năm Ất Hợi (
theo ông Diệp Văn Kỳ thì ông Trung tuổi Tý), nhằm ngày chủ nhật 10 tháng 10 năm
1875 trong một gia đình tiểu nông, ở làng Phước Lâm, tổng Phước Điền Trung,
tỉnh Chợ Lớn. Thân phụ của ông là Lê Văn Thanh, mất khi ông mới được vài tháng.
Thân mẫu là Văn Thị Xuân, một người đàn bà nhân hậu.
Thuở thiếu thời, ông nổi tiếng là một học sinh
thông minh đĩnh ngộ, học rất giỏi tiếng Pháp. Sau khi tốt nghiệp trường Trung
học Chasseloup Laubat, ông làm thơ ký ở Dinh Thống Đốc Nam Kỳ kể từ ngày
14-7-1983. Kế đến, ông coi việc
công tác và đấu thầu (la section des Travaux et Marchés) mà vẫn thiếu trước hụt sau.
Từ tháng 5-1905, ông xin nghỉ bốn tháng không ăn
lương, cùng với bào huynh Lê Văn Diêu thầu cung cấp đá và gạo cho ngành đường
sắt ở Nam Kỳ Lục Tỉnh. Công việc làm ăn phát đạt, nên ông quyết định xin nghỉ
làm công chức, dù ông đã là thơ ký thật thụ hạng ba (3-1906) để ra kinh doanh
độc lập. Nhiều người cho ông là kẻ thả mồi bắt bóng, ông im lặng và hành động
theo ý muốn của mình, mặc tiếng thị phi. Tính cương quyết đã hiện rõ nơi ông.
2. -
Nghị Viên Hội Đồng Quản Hạt
Nhờ năng động và uy tính, ông đã thành công trên
thương trường. Ông muốn bước xa hơn vào đường giúp dân. Ông nói : " Cái ma
lực buộc người có cao vọng về chánh trị nó mạnh lạ thường. Tranh cử lúc đó còn
phải tốn tiền hơn bây giờ gấp trăm, gấp ngàn lần. Vậy mà tiền không, thế lực nỏ
có, thì tranh cử cái gì, mà tôi cũng xin thôi việc quan đặng ra tranh cử
?".
Vào khoảng giữa năm 1906, ông ra tranh cử Hội Đồng
Quản Hạt Quận Nhì ( gồm Gia Định - Chợ Lớn - Tây Ninh - Thủ Dầu Một - Bà Rịa -
Cấp Saint Jacques), đắc cử vẻ vang.
Hội Đồng Quản Hạt thành lập từ năm 1880, dưới thời
Thống đốc Le Myre de Vilers có nhiệm vụ thảo luận ngân sách địa phương. Lúc
đầu, hội viên gồm có mười người Pháp, sáu người Việt. Sau tăng lên mười bốn
Pháp, mười Việt. Hội viên người Việt do đại diện các hương chức Nam Kỳ bầu lên.
(1)
1 NGUYỄN THẾ ANH
, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Sài gòn 1970, trang 134, 145.
Sau khi đắc cử , Hội Đồng Quản Hạt nhóm phiên họp
đầu tiên, Quyền Thống Đốc Nam Kỳ Ernest Outrey đưa ra Hội Đồng dự thảo về thuế
"lục hạng điền", yêu cầu thảo luận và thừa nhận. Ông Trung và Diệp
Văn Cương ( Hội Đồng Bến Tre ) cùng bốn người Việt, tất cả là sáu người phản
kháng dự thảo luật này. Các ông đã thất bại vì số nghị viên người Việt lúc đó
chỉ bằng phân nửa số nghị viên Pháp. Dù vậy, các ông dùng lợi khí của mình là
sáu người đồng loạt từ chức. Dưới chế độ cai trị hà khắc của chính quyền Pháp
mà các ông dám phản kháng tới cùng như thế là một hành động yêu dân yêu nước
đáng để đời.
Kỳ bầu cử sau, tất cả sáu ông lại ra ứng cử thì đắc
cử năm người. Trừ ông Hội Đồng Hoài bị Bùi Quang Chiêu xu phụ với E.Outrey xúi
người thân là Bùi Thế Khâm phá nên thất cử.
"Trong bước đầu tiên ấy, ông Lê Văn Trung là
người hướng đạo RẤT KHẲNG KHÁI. Thế lực chánh trị của ông từ đó về sau, mỗi
ngày một càng lớn thêm. Đối với cử tri là các hương chức, thì ông là người đã
bảo thủ quyền lợi của nông dân, điền chủ ; đối với chánh phủ (Pháp) thì ông là
một trong những người mà nhà đương cuộc khó khinh thường" ( Theo thư của
Trạng sư Diệp Văn Kỳ ngày 28-11-1934). Sau Hội Đồng Quản Trị Hạt (Conseil
Colonial), năm 1911 ông vào Thượng Nghị Viện Đông Dương ( Membre du Conseil
Supérieur de I' Indochine ). Tháng giêng năm 1912 được thưởng đệ ngũ đẳng Bắc
Đẩu Bội Tinh ( Chevalier de la Légion d' Honneur) rồi sau vào Hội Đồng Tư Vấn (
Conseil Privé) do Toàn quyền Cognacq chỉ định.
3. -
Lập Nữ Học Đường
Năm 1911, ông Lê Văn Trung cùng một số nhà trí thức
Sài gòn - Chợ Lớn đưa ra kế hoạch thành lập Nữ Học Đường.
" Giữa thời buổi mà bậc cha mẹ trong nước đều
nhận rằng : cho con gái có học thức là một mối hại lớn cho gia đình, cho xã
hội. Giữa buổi như thế mà đứng ra đề xướng nữ học, xin lập Trường Nữ học để dạy
bên gái bằng bên trai, có phải là việc làm quá bạo chăng ?
" Lúc bấy giờ, chánh phủ ( Pháp) cũng cho việc
ấy chưa hợp thời, lại trái phong tục cũ kỷ của người Việt. Tuy không ngăn cấm
mà cũng chẳng chịu xuất công nho, để những người xướng xuất mở cuộc lạc quyên
cất lên mấy toà nhà đồ sộ mà người ta còn thấy ở đường Le Grand de la Liraye
tức Trường Aùo Tím ( Collège de jeunes filles), sau đổi tên Trường Nữ Gia Long
ở đường Phan Thanh Giản. Toà nhà ấy đã đào tạo ra biết bao nhiêu nhân tài trong
nữ giới" ( Diệp Văn Kỳ, bản đã dẫn).
4. -
Hội Minh Tân
Nhờ hoạt động doanh thương phát triển, năm 1908,
ông Lê Văn Trung còn yểm trợ tài chánh cho phong trào yêu nước có tên Hội Minh
Tân do hai ông Lương Khắc Ninh và Gilbert Trần Chánh Chiếu lãnh đạo.
Theo tinh thần Minh Tân, bà Nguyễn Thị Của lập một
trường nữ, được ông Gilbert Chiếu đề hiệu là:
NỮ
NHI HỌC ĐƯỜNG, KHUÊ ANH HIỆU
KHUÊ
MÔN HÁO HỌC, ANH TUẤN NHẬT TÂN
Trường dạy đồ học, kim chỉ, cườm (2)
" Ông Lê Văn Trung được tờ Lục Tỉnh Tân Văn số
27 giới thiệu " là người Minh Tân", về sau nầy ông là vị Quyền Giáo
Tông của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, một tôn giáo mới tổng hợp Đông Tây thu hút đồng
bào Minh Tân, khiến thực dân lo ngại" (3)
Tóm lại, từ lúc chào đời, ông Lê Văn Trung sớm mồ
côi cha. Sống côi cút nghèo nàn không nơi nương tựa, ông vào làm thơ ký bị chèn
ép, cũng là người mà thơ ký người Pháp được hậu đãi, lương cao hơn thơ ký người
Việt. Nỗi bất công đó khiến ông bỏ sở làm ra làm nghề tự do. Thấy dân chúng bị
thuế khoá nặng nề ông ra ứng cử để sửa đổi nhưng sức người có hạn, thế lực
ngoại bang còn lớn. Ông không chịu làm Hội Đồng "oui" nên từ chức Hội
Đồng và sau này trả luôn Bắc Đầu Bội Tinh mà đứng về phía nhân dân, lo nâng cao
dân trí mở Nữ Học Đường, đề cao Minh Tân để đổi mới đất nước. Kịp khi đạo Cao
Đài với chủ trương chấn hưng (rénové) tôn giáo, ông liền theo đạo và phát triển
khắp Lục Tỉnh Nam Kỳ.
2- Lục Tỉnh Tân
Văn, số 27 ngày 21-5-1908
3 - SƠN NAM,
Thiên Địa Hội và Cuộc Minh Tân, Sài gòn 1971, trang 148
NGỘ
ĐẠO VÀ
ĐẮC
PHONG THƯỢNG ĐẦU SƯ
(1875 - 1925)
1. -
Ông Trung ngộ đạo
Để thực hiện phương châm : " Tam giáo qui
nguyên, Ngũ chi hợp nhứt", Đạo Cao Đài đã tiến từng giai đoạn trong sự
hình thành và bành trướng nền tân tôn giáo.
Từ 1920-1926 là thời Thiên Khai Hoàng Đạo. Trong
giai đoạn này có tính cách cầu cơ thỉnh tiên học hỏi về vô hình và đạo giáo,
nên các đồng tử được phong là Đạo sĩ hoặc Tiên đồng. Thời kỳ này, Đạo thu hút
nhiều kẻ ưu thời mẫn thế. Đó là những người lãnh đạo Cao Đài sau này. Ông Lê
Văn Trung cũng nằm trong trường hợp những người thích nghe tiên tri, lời thánh
dạy mà ngộ đạo.
Vào tháng tư nhuần năm Ất Sửu (6-1925), Đàn Chợ Gạo
thường đêm có thiết đàn thỉnh tiên. Đàn này thờ Quan Thánh thuộc chi Minh Lý
thuộc Ngũ chi Đại Đạo do các ông Nguyễn Hữu Lời, Nguyễn Hữu Đắc quen thân với
ông Trung thiết lập. Thế nên, ông Đắc mời ông Lê Văn Trung vào đàn, ông Đắc thắp
nhanh van vái, bỗng nhiên một hào quang từ bàn thờ Đức Quan Thánh bay lên. Đồng
tử Diệp cũng mê man. Ông Đắc đem giấy bút cho đồng tử chấp bút viết những chữ
mà không ai hiểu. Có người đọc được giản tự mới biết đó là Đức Lý Thái Bạch
giáng đàn, khuyên ông Trung nên đi tu.
Việc chi cũng có sự an bày của Ơn Trên. Kể từ năm
1920, công việc lãnh thầu của ông Trung ngày càng lụng bại, đến năm 1924 coi
như phá sản. Ngày 6-10-1925 ông từ chức khỏi Nghị Viện Đông Dương. Dần dần, ông
san vào chỗ nghiện ngập, hai mắt của ông như bị loà, đi đứng khó khăn. Nghịch
cảnh đó nhắc nhở đánh thức ông lìa khỏi hồng trần mê muội để quay về bến giác.
Thế nên, từ dạo đó, ở Chợ Gạo thiết lễ đàn là có
mặt ông tham dự. Gác bỏ dần chuyện kinh doanh, hút sách, ông dốc lòng đi tu. Khi
Đức Chí Tôn thâu ông làm đệ tử thì đàn Chợ Gạo bế luôn. Điều ấy thật huyền
nhiệm.
Đến mồng 5 tháng 12 năm Ất Sửu (18-1-1926), Đức Chí
Tôn giáng cơ dạy hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đem cơ đến nhà ông Lê
Văn Trung ( ở Quai Testard) độ ông ấy.
Đức Phạm Hộ Pháp kể lại rằng :
" Buổi nọ, ông Lê Văn Trung làm Thượng Nghị
Viên lớn lắm. Ông là người hết sức đời. Tôi và Đức Cao Thượng Phẩm không hạp
chút nào. Tôi kỵ hơn hết, ý định không làm điều đó đặng.
" Khi chúng tôi ôm cái cơ đến nhà Ngài đặng
Đức Chí Tôn độ. Mục đích của chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi.
Khi vô tới nhà thú thật với Ngài rằng chúng tôi được lịnh Đức Chí Tôn đến nhà
Anh phò loan cho Đức Chí Tôn dạy đạo. Ông biết Đấng đó hơn chúng tôi ( là nhờ
Đàn Chợ Gạo đã viết ở trên ) Lo sắp đặt bàn ghế sửa soạn buổi phò loan rồi ông
nhập môn.
" Trong nhà có một người con nuôi tên là Thanh
còn nhỏ tuổi. Hai cha con kiếm được cái cơ, vái cầu cơ. Khi phò loan thằng nhỏ
ngủ, ông thì thức. Cơ chạy hoài. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai
người biết với nhau thôi. Từ đó ông mới tin Đức Chí Tôn" (PHAÏM HỘ PHÁP,
Bài thuyết đạo đêm 13-10-năm Giáp Ngọ (1954))
Trong đàn cơ này, Đức Chí Tôn phán truyền : "
Trung nhứt tâm nghe con ! Sống cũng nơi Thầy, thác cũng nơi Thầy, thành cũng nơi
Thầy mà đoạ cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng mắt của con mà suy lấy".
Từ đó cho đến lúc qua đời, ông Lê Văn Trung được
sáng mắt trở lại. Đứa con nuôi tên Thanh khỏi dẫn dắt nữa. Sau đó, ông Ca Bảo
Đạo cũng được Đức Chí Tôn cho sáng mắt.
Đến ngày 21-1-1926, Đức Chí Tôn dạy ông Trung, Cư,
Tắc như vầy:
Mặt
Nhựt hồi mô thấy xẻ hai
Có
thương mới biết Đấng Cao Đài
Cũng
con cũng cái đồng môn đệ
Bụng
muốn phân chia hỏi bởi ai ?
Đức Chí Tôn dạy vô vi với phổ độ như dương với âm
vốn là một mà phân chi do đâu ? Thế nên, đêm 23-1-1926, Đức Chí Tôn phán
truyền:
Chín
Trời mười Phật cũng là Ta
Truyền
đạo chia ra nhánh nhóc mà.
Hiệp
một chủ quyền ta nắm giữ
Thánh
Tiên Phật đạo vốn như nhà.
Đêm 27-1-1926, ông Trung phân vân về việc tu luyện
tâm pháp, nên hỏi Cô Thất Nương rằng:
- Có duyên luyện đạo cùng chăng ? Xin em mách giùm
.
Thất Nương đáp :
- Đã gặp đạo tức có duyên phần. Rán tu luyện, siêng
thì thành, biếng thì đoạ. Liệu lấy mà răn mình. Phải sớm tính. Một ngày qua,
một ngày chết. Đừng do dự.
Do đó, Đức Lý Thái Bạch khuyến khích ông Trung
luyện tâm pháp:
Có
công phải biết gắng nên công (PHU)
Tu
tánh đã xong tới luyện lòng (TÂM)
Kinh
sách đầy đầu chưa thoát tục,
Đơn
tâm khó (THIỀN) định lấy chi mong ?
Hôm đó đủ mặt các cao đồ Chiêu, Trung, Kỳ, Cư, Tắc,
Sang, Đức, Hậu, nên Đức Chí Tôn cũng giáng đàn dạy :
Đã
để vào toà một sắc hoa
Từ
đây đàn nội tỉ như nhà.
Trung
thành một dạ thờ Cao sắc
Sống
có Ta, thác cũng có Ta.
* * *
Đài
sen vui nhành trổ thêm hoa
Một
đạo như con ở một nhà
Hiếu
nghĩa tương lai sau tựu hội
Chữ trung
Từ Phụ vốn là Ta.
Ngày 28-1-1926, Đấng Chí Tôn lại dạy riêng cho ông
Trung:
Một
ngày thỏn mỏn một ngày qua
Tiên
Phật nơi mình chẳng ở xa
Luyện
đặng tinh thông muôn tuổi thọ
Cửa
thiên xuất nhập cũng như nhà.
* * *
Cương
toả đương thời đã giải vây
Đừng
mơ oan nghiệt một đời này,
Hữu
duyên độ thấu nguồn chơn đạo
Tu
niệm khuyên bền chớ lá lay.
" Trung, con thờ Thầy trên hết là phải. Con
đem tượng Quan Vân Trường qua bên trái Thầy, Quan Âm bên mặt, còn Lý Thái Bạch
thì dưới Thầy. Đại Từ Phụ hiểu và thương con là bực nào ?
Một
trời một đất nhà riêng,
Dạy
dỗ nhân sanh đặng dạ hiền
Cầm
mối Thiên cơ lo cứu chúng
Đạo
Người vẹn vẻ mới thành tiên"
Ta thấy Đức Chí Tôn chú ý dạy ông Lê Văn Trung
nhiều nhất vì trọng trách hoằng dương Đại Đạo sau này do nơi tâm chí của ông.
Đức Cao Đài dạy ông Lê Văn Trung ba điều chính :
1 . Đạo vốn chỉ có MỘT : " Cũng con cũng cái đồng môn đệ".
2 . Dạy Tâm pháp thiền định :" Tiên Phật NƠI MÌNH chẳng ở xa". Đây
là quan niệm hết sức tiến bộ. Tiên Phật trong tâm ta, không nên tìm ở ngoài.
3 . Sống chết có Thầy : " Sống có Ta, mà thác cũng có Ta". Đừng lo
sợ điều gì, mà cứ thành tâm lo phổ độ chúng sanh, coi nhân loại là con chung
của Thượng Đế.
Thế nên, ngày 21-8-Bính Dần (27-9-1926), Đức Cao
Đài dạy: Đạo Cao Đài sẽ là quốc đạo. Bởi lẽ, Tam giáo là quốc đạo (đời Lý,
Trần) , mà Đạo Cao Đài qui Tam giáo, vậy Đạo Cao Đài là quốc đạo rất phù hợp
luận lý học (logique). Như vậy, Đạo Cao Đài đã thừa kế vốn sống chung của các
tôn giáo cổ xưa, từ đó phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc tiến lên tầm
cao mới: " Nam phong thử nhựt biến nhơn phong". Con người mở rộng
lòng bác ái, tình thương yêu với mọi người. Bởi lẽ, giáo lý Đạo Cao Đài là Đại
Đồng nên không thiên duy tâm mà cũng không thiên duy vật vì Tâm và Vật thực
tiễn không thể tách rời nhau mà chỉ là hai phương diện cùng một bản thể, tương
trợ lẫn nhau : tâm vật hình hành, theo con đường Trung Dung Khổng Thánh đã chỉ
rành! .
Làm người, ai cũng phải ngụp lặn trong biển trần để
tìm sống (nhập thế) và đến lúc nào đó, con người cảm thấy cần giải thoát vì con
người sinh ra không phải để lao vào chiếm lĩnh thế giới mà để tìm cách tháo gỡ,
thoát ly khỏi bản thân (xuất thế) đầy dục vọng và ham muốn của chính mình.
2. -
Thọ Thiên Ân Đầu Sư Thượng Trung Nhựt
Vào 30 Tết ( thứ sáu 12-02-1926), theo lịnh Đức Chí
Tôn các môn đệ đầu tiên đi thăm và chúc Tết gia đình các đạo hữu. Đêm đó, ông
Ngô Minh Chiêu pháp đàn. Phò loan là hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc. Mỗi
ông đều được Đức Chí Tôn cho một bài tứ tuyệt mà bài của ông Lê Văn Trung là một
lời tiên tri về cơ phổ độ sẽ phát triển :
Đã
thấy ven mây lố mặt dương,
Cùng
nhau xúm xít dẫn lên đường.
Đạo
cao phó có tay cao độ
Gần
gũi sau ra vạn dặm trường.
Sau đó, các ông vội trở về nhà ông Lê Văn Trung để
lập đàn giao thừa. Đức Chí Tôn phân nhiệm các môn đệ như sau :
"Trung, Kỳ, Hoài, ba con phải lo thay mặt
Chiêu mà đi độ người, nghe và tuân theo…
"Đắc, con phải hiệp vào đặng giúp đỡ Trung.
Nghe và tuân theo .
"Đức, Hậu tập cơ. Sau theo mấy anh con độ
người. Nghe và tuân theo"
Vào mồng 9 tháng giêng năm Bính Dần ( Chủ nhật
21-2-1926), các ông thiết lễ vía Đức Chí Tôn lần đầu tiên tại nhà ông Vương
Quan Kỳ. Đức Cao Đài giáng dạy:
Bửu
toà thơ thới trổ thêm hoa
Mấy
nhánh rồi sau cũng một nhà
Chung
hiệp rán vun nền đạo đức
Bền
lòng son sắt đến cùng Ta.
Ông Chiêu xin Đức Chí Tôn điểm danh các vị cao đồ. Cơ liền gõ:
Chiêu, Kỳ, Trung độ dẫn Hoài sanh
Bản khai sang Sang, Qúi, Giảng
thành
Hậu, Đức, Tắc, Cư thiên địa cảnh
Qườn, Minh, Mân đáo thủ đài danh.
Mười hai tên nhưng 13 đệ tử, hai ông Võ Văn Sang và Cao Hoài Sang ( Tiểu sử Quan phủ Ngô Văn Chiêu (in lần thứ
năm), Sài gòn 1962) điểm chung một tên. Còn Qườn, Minh, Mân là ba người
khách của ông Vương Quan Kỳ.
Đàn Phố Hàng Dừa ( chợ Thái Bình) lập tại nhà ông
Cao Quỳnh Cư không đủ cung ứng cho cơ đạo ngày càng phát triển nên mở thêm các
đàn khác ở nhiều nơi như Đàn Cầu Kho, Đàn Lộc Giang tại chùa Phước Long (Chợ
Lớn), Đàn Tân Định tại nhà ông Nguyễn Ngọc Thơ, Đàn Thủ Đức, Đàn Tân Kiêm ( Cần
Giuộc). Theo chính quyền Pháp, ở Nam Kỳ đã xuất hiện hai mươi mốt địa điểm là
nơi lập đàn của Đạo Cao Đài ( Gouvernement Général de I' Indochine,
Contribution à I' Histoire des Mouverment Politique de I' Indochine Francaise,
VII- Le Caodaisme - Hà nội 1934, trang 81 ).
Việc lập đàn cơ phổ độ lúc đầu đem lại nhiều kết quả
tốt. Nhiều người có địa vị và giàu sang theo Đạo như Đốc phủ Lê Bá Trang, Tri
phủ Nguyễn Ngọc Tường, Lê Văn Hoá, ông bà huyện Nguyễn Ngọc Thơ, Lâm Thị Thanh.
Các bậc chân tu như Lê Văn Lịch, Trần Đạo Quang, Nguyễn Văn Tường, Nguyễn Văn
Kinh, Hoà Thượng Như Nhãn, Yết Ma Luật, Nhung v.v…
Người nhập môn ngày càng đông, các ông Trung, Kỳ,
Bản lập đàn giảng đạo, ông Cao Quỳnh Diêu lo việc lễ nhạc, bà Mỹ Ngọc lập đồng
nhi, bà Nguyễn Thị Hiếu may áo mão kịp kỳ Thiên phong.
Để chuẩn bị Thiên phong tại nhà ông Lê Văn Trung,
Đức Cao Đài dạy ông Trung sắp đặt bốn cái ghế để tạm thay một ngai rồng ( Giáo
Tông) và ba ngai lân ( 3 Đầu Sư).
Bàn thờ Ngũ Lôi đặt phía trước Thiên Bàn, có bài vị
: " Cửu Thiên Cảm Ứng Lôi Thinh Phổ Hoá Thiên Tôn" và lá bùa Kim
Quang Tiên. Đối diện với Thiên Bàn lập bàn Vi Hộ Pháp ( Vi Đà Hộ Pháp, một
trong Tứ Thiên Vương, viết bằng chữ V bấm môi ( Xem "Chân Dung Hộ Pháp
Phạm Công Tắc" cùng soạn giả ) . Hai bàn thờ này cho đạo hữu ( Đạo hữu là
bạn đạo. Chức sắc và tín đồ mới là cấp bực người theo đạo ) lập thệ khi được
phong chức sắc hay khi mới nhập môn.
Đêm 13-3-Bính Dần (24-4-1926), Đức Chí Tôn dạy vì
sao phải lập các phẩm chức sắc như vầy :
" Thầy nhứt định chính mình Thầy đến mà độ rỗi
các con, chẳng chịu giao Thánh giáo cho tay phàm. Nhưng mà buộc phải lập Thánh
thể có lớn nhỏ đặng dễ bề cho các con dìu dắt lẫn nhau. Anh trước em sau mà đến
nơi Bồng Đảo"
Tuy vậy, Đức Chí Tôn nhấn mạnh : " Chẳng một
ai dưới thế này còn đặng phép nói rằng thế quyền của Thầy mà trị phần hồn cho
nhân loại".
Ngày 14-3 (25-4), Đức Chí Tôn dạy cách hành lễ
Thiên phong, về sau coi đó mà noi theo.
Trước bàn Ngũ Lôi, hai tay chấp trên trán, cúi
xuống lá bùa Kim Quang Tiên và thề :
" Tôi là Lê Văn Trung tự Thiên ân là Thượng
Trung Nhựt và Lê Văn Lịch tự Thiên ân là Ngọc Lịch Nguyệt, thề Hoàng Thiên Hậu
Thổ trước bửu pháp Ngũ Lôi rằng làm tròn Thiên Đạo và dìu dắt mấy em chúng tôi
đều là môn đề của Đức Cao Đài Ngọc Đế. Nhứt nhứt do lịnh Thầy phân định, chẳng
dám chuyên quyền mà lập thành tà đạo. Như ngày sau hữu tội thì thề Ngũ Lôi tru
diệt".
Rồi đến bàn thờ Vi Hộ Pháp thề rằng : " Như
ngày sau phạm Thiên Điều thề có Hộ Pháp hành pháp, đoạ tam đồ bất năng thoát
tục".
Đến thời Tý, ngày 15-3-Bính Dần (26-4-1926), Đức
Chí Tôn ân phong:
- Đầu Sư Thượng Trung Nhựt ( Lê Văn Trung )
- Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt ( Lê Văn Lịch )
- Thượng Sanh Cao Hoài Sang
- Thượng Phẩm, Tá Cơ Tiên Hạc Đạo Sĩ Cao Quỳnh Cư
- Hộ Pháp, Hộ giá Tiên Đồng Tá Cơ Đạo Sĩ Phạm Công
Tắc
- Tiên Hạc phò cơ Đạo Sĩ : Trương Hữu Đức và Nguyễn
Trung Hậu.
- Tiên Sắc Lang Quân Nhậm Thuyết Đạo Giáo Sư :
Vương Quan Kỳ.
- Tiên Đạo Công Thần Thuyết Đạo Sư : Đoàn Văn Bản.
Từ xây bàn đến đây chưa tròn một năm mà cơ chế Hội
Thánh đã manh nha hình thành hai đài : Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài. Đó là
niềm vui lớn cho giáo dân, nhưng là nỗi lo cho chính quyền bảo hộ. Vì thế, Ngài
Lê Văn Trung phải sắp xếp mọi thủ tục để khai tịch đạo để tránh mọi khó khăn
sau này.
3. -
Khai tịch Đạo với chính quyền Pháp
Tập trung nhiều người mà không có giấp phép hội họp
là nỗi lo lớn của Ngài Lê Văn Trung. Các đàn cơ đâu thể nào tránh khỏi sự theo
dõi của mật thám Pháp. Ông phủ Chiêu, Nguyễn Văn Hoài, Võ Văn Sang biết luật
pháp chính quyền đô hộ hơn ai hết. Dù được điểm đạo là môn đệ của Đức Cao Đài,
các ông vẫn lánh xa các cuộc tụ tập đông đảo. Trong tập Le Caodaisme, Thanh tra
Lalaurette đã nhắc đến các văn kiện lập qui thời đó về tín ngưỡng dân gian.
Điều 144 Hình luật, Quyển 6, Đoạn 6 bắt nạn nhân phải chịu xử giảo. Nghị định
ngày 22-4-1873 cho phép truy nã những tín dồ. Đô đốc La Font cho mật thám trà
trộn theo dõi các nơi đáng nghi ngờ ( LALAURETTE et VILMONT, Le Caodaisme, Sài
gòn 1933, trang 91).
Thế nên, Pháp cho thông dịch viên Nguyễn Văn Tường,
cảnh sát Trần Văn Tạ, quản Báo …. Trà trộn để theo dõi Đạo nhưng rốt cuộc các
người này lại theo Đạo và thọ Thiên ân.
Dự kiến trước những khó khăn sắp xảy đến, Ngài Lê
Văn Trung lo lắng nên ngày 16-8-Bính Dần (22-9-1926), Đức Chí Tôn dạy :
"
Các con xin chánh phủ Lang sa đặng khai (tịch) đạo, thì cực chẳng đã Thầy ép
lòng mà chịu vậy cho tùng nơi thiên cơ"
( HƯƠNG HIẾU, Đạo Sử, Tây Ninh 1969, trang 240-241)
Khi tái cầu, Đức Chí Tôn dạy hai vị Đầu Sư Thương
Trung Nhựt và Ngọc Lịch Nguyệt phải nhóm họp các môn đệ mà lo khai đạo( HƯƠNG
HIẾU, sách đã dẫn, trang 240-241) .
Gần tuần sau, ngày 28-9-1926, Đức Chí Tôn giáng dạy
:
"
Thầy các con,
"
Trung, con biết Thầy thương yêu nhân loại là dường nào chưa? Những điều ngăn
trở đều do nơi tiền khiên của chúng sanh. Đã vào trọn một thân mình nơi ô trọc
thì Thầy đây cũng khó mà rửa với một gáo nước cho đặng trong sạch. Nhân loại đã
thâm nhiễm vào tình luyến ái tà mị trên mười ngàn năm, thì thế nào gọi Thánh
Đức trong một lúc chẳng tới một năm cho tròn lành đặng.
"
Rất đổi Thầy là một bậc Chí Tôn đây mà còn bị chúng nó mưu lén cho qua Thánh ý
Thầy thay ; một đàng trì một đàng kéo, thảm thay cho các con chịu ở giữa.
"
Thầy dạy các con một điều là biết tranh đấu cùng Thầy, hễ nó tấn thì mình
chống, cân sức cho bằng hay trội hơn mới đắc thắng. Các con chịu nổi thì đạo
thành, các con ngã thì đạo suy, liệu lấy.
"
Cầm cả quyền hành vô lượng nơi tay, Thầy ngó một cái cũng đủ tiêu diệt nó đặng,
nhưng mà phép công bình thiêng liêng chẳng phải nên vậy. Ấy cũng là cơ mầu
nhiệm cho các con có thể lập công quả.
"Trung,
Lịch, hai con phải hội Chư Thánh mà xin khai đạo. Phải làm đơn dân cho Thầy xét
sửa trước nghe !"
( Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển I, trang 29 -30)
Ngày hôm sau, ngày 23-8-Bính Dần (29-9-1926), các
môn đệ họp tại nhà ông Nguyễn Văn Tường ở đường Gallíeni (nay là Trần Hưng Đạo)
để lập danh sách 240 đạo hữu đứng tên để xin khai tịch đạo. Trời mưa tầm tả,
dông gió kéo dài trong ba tiếng đồng hồ, làm ngập đường lộ nên giao thông bị bế
tắc. Đó là ơn Trên ám trợ để cuộc họp không bị mật thám Pháp phá vỡ.
Hai vị Đầu Sư triệu tập cuộc họp dự thảo đơn khai
tịch đạo. Các đạo hữu đồng ý về nội dung. Sau đó, Ngài Lê Văn Trung tu chỉnh
lại. Mãi đến ngày 1 tháng 9 năm Bính Dần (7-10-1926), thêm 27 vị nữa, đồng ký
tên trong tờ khai đạo gởi lên Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol.
Xem thế, công đầu khai minh Đại Đạo với chính quyền
với toàn dân là của Ngài Thượng Trung Nhựt. Nếu Đức Chí Tôn không giao cho Ngài
mà giao cho những người sợ Pháp thì chắc chắn cơ đạo sẽ trì trệ, giáo dân sẽ
gánh chịu nhiều tai nạn khó lường. Bởi vì " ngoài ông Trung ra, lúc bấy
giờ chắc không ai dám đương đầu để đệ đơn lên chánh phủ Pháp hết" ( ĐỒNG
TÂN, Lịch sử Đạo Cao Đài, Tập II, Sài gòn 1972, trang 144)
TỜ
KHAI TỊCH ĐẠO
( Xem nguyên văn tiếng Pháp trong "PHỤ - CHÚ
I") Sài gòn, ngày 7 tháng 10 năm 1926
Thưa ông Thống Đốc,
Những người ký tên dưới đây hân hạnh trình báo cho
ông biết những điều sau :
Ở Đông Dương, từ xưa đến nay đã có Tam giáo (Phật,
Lão, Khổng). Tổ tiên chúng tôi đã tu theo giáo lý Tam giáo và sống hạnh phúc
nhờ nghiêm nhặt noi theo những lời dạy làm lành của giáo chủ Tam giáo.
Ngày xưa, con người sống vô tư đến mức có thể ngủ
không cần đóng cửa và chẳng tham lượm của rơi ngoài đường, ( Gia vô bế hộ, lộï
bất thập đi là câu nói đã được ghi trong sử sách của chúng tôi).
Than ôi ! Thời đại tốt đẹp đó không còn nữa bởi
những lý do dưới nay:
1 . Tín đồ của các tôn giáo tìm cách chia rẽ nhau, trong khi vạn giáo điều có
chung một mục đích là làm lành lánh dữ, thờ kính Đấng Tạo Hoá.
2 . Họ lại canh cải chánh truyền làm sai lạc các giáo lý thiêng liêng qúi
báu.
3 . Sự ganh đua theo bả vinh hoa, phú qúi, lòng tham vọng của loài người, tất
cả là những nguyên nhân chính của những bất đồng tư tưởng hiện nay. Người Việt
Nam bây giờ đã từ bỏ hết mỹ tục và truyền thống ngày xưa.
Thấy tình cảnh đau lòng đó, một nhóm người Việt Nam
bao gồm những người có nhiệt tình với truyền thống và mộ tu hành đã nghiên cứu
canh tân tất cả các tôn giáo này lại làm một thành đạo Cao Đài hay là Đại Đạo.
Tiêu ngữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có nghĩa là Kỳ Ba
Đại Ân Xá, tên này do Đức Chí Tôn ban cho và Ngài đã giáng trần phò hộ cho
những người ký tên dưới đây thành lập nền Tân tôn giáo này.
Đức Chí Tôn ngự đến với danh xưng Ngọc Hoàng Thượng
Đế tức CAO ĐÀI hay " Đấng Tối Cao, THƯỢNG ĐẾ TOÀN NĂNG".
Qua cặp đồng tử phò loan, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế
truyền cho những người ký tên dưới đây các Thánh giáo cốt để truyền bá tôn chỉ
Tam giáo thời xưa.
Nền giáo lý mới sẽ dạy cho nhân sanh những điều
sau:
1 . Luân lý cao thượng của Đức Khổng Phu Tử.
2 . Đạo đức của Phật giáo và Lão giáo là làm lành lánh dữ, thương yêu nhân loại,
sống hoà thuận, xa lánh mọi sự chia rẽ và chiến tranh.
Chúng tôi hân hạnh gởi kèm theo cho ông xét :
1 . Một vài đoạn trích lục trong tập " Thánh Ngôn" của Đức Ngọc
Hoàng Thượng Đế, những lời dạy qúi báu hơn tất cả mọi điều hiện hữu trên thế
gian này.
2 . Một vài đoạn trong quyển Kinh cầu nguyện mà Đức Thượng Đế đã dạy chúng
tôi.
Những người ký tên dưới đây theo đuổi mục đích đưa
loài người trở lại thời xa xưa hoà bình và hoà hợp. Nhờ đó, con người sẽ hướng
tới một thời đại mới hạnh phúc khôn cùng.
Nhân danh đa số những người Việt Nam đã tán đồng
hoàn toàn sự những nghiên cứu này, có kèm danh sách đính kèm, những người có
tên dưới đây hân hạnh tuyên bố cho ông hay rằng chúng tôi sẽ phổ truyền cho
toàn thể loài người giáo lý thiêng liêng này.
Tin tưởng trước rằng nền Tân tôn giáo này sẽ mang
tới cho mọi chúng ta hoà bình và hoà hiệp, những người ký tên dưới đây yêu cầu
ông hãy chánh thức tiếp nhận tuyên ngôn (lập đạo) của chúng tôi.
Thưa ông Thống Đốc, xin ông ghi nhận những cảm tình
trân trọng và chân thành của chúng tôi.
DANH
SÁCH 28 MÔN ĐỆ KÝ TÊN
TỜ
KHAI TỊCH ĐẠO
1 . Bà Lâm Ngọc Thanh, nghiệp chủ Vũng Liêm
3 . Ông Lê Văn Lịch,
Thầy tu làng Long An, Chợ Lớn
4 . Ông Trần Đạo Quang,
Thầy tu làng Hạnh Thông Tây , Gia Định
5 . Ông Nguyễn Ngọc
Tương, Tri phủ, chủ quận Cần Giuộc.
6 . Ông Nguyễn Ngọc
Thơ, nghiệp chủ, Sài Gòn.
7 . Ông Lê Bá Trang,
đốc phủ sứ, Chợ Lớn.
8 . Ông Vương Quan Kỳ,
tri phủ Sở thuế tân, Sài Gòn
9 . Ông Nguyễn Văn
Kinh, thầy tu Bình Lý thôn, Gia Định
10 . Ngô Tường Vân,
thông phán Sở Tạo Tác, Sài Gòn.
11 . Ông Nguyễn Văn Đạt
,nghiệp chủ, Sài Gòn
12 . Ông Ngô Văn Kim,
điền chủ, Cần Giuộc
13 . Ông Đoàn Văn Bản ,
đốc học Cầu Kho, Sài Gòn
14 . Ông Lê Văn Giảng,
thơ ký kế toán, Sài Gòn
15 . Ông Huỳnh Văn
Giỏi, thông phán Sở Tân Đáo, Sài Gòn
16 . Ông Nguyễn Văn
Tường, thông ngôn Sở Tuần Cảnh, Sài Gòn
17 . Ông Cao Quỳnh Cư, thơ ký Sở Thương Chánh, Sài Gòn
18 . Ông Phạm Công Tắc,
thơ ký Sở Thương Chánh, Sài Gòn
19 . Ông Cao Hoài Sang,
thơ ký Sở Thương Chánh, Sài Gòn
20 . Ông Nguyễn Trung Hậu,
đốc học tư thục Đa Kao
21 . Ông Trương Hữu
Đức, thơ ký Sở Hoả Xa, Sài Gòn
22 . Ông Huỳnh Trung
Tuất, nghiệp chủ, Sài Gòn.
23 . Ông Nguyễn Văn
Chức, cai tổng, Chợ Lớn
24 . Ông Lại Văn Hành,
hương
cả, Chợ Lớn
25 . Ông Nguyễn Văn Trò, giáo viên, Sài Gòn.
26 . Ông Nguyễn Văn Hương, giáo viên , Đa Kao.
27 . Ông Võ Văn Kinh, giáo tập, Cần Giuộc.
28 . Ông Phạm Văn Tỷ, giáo tập, Cần Giuộc.
Trong danh sách có 28 vị đứng tên trong Tờ Khai
Tịch Đạo, hơn nữa là công chức Pháp nên họ hiểu luật lệ hơn ai hết. Thế mà,
ngoài bản tuyên ngôn chỉ kèm theo một bản sao lục Thánh ngôn và một bản dịch
Kinh. Điều ấy chứng tỏ rằng Thượng Đế mở đạo giáo dân thì không cần đặt vấn đề
xin phép. Trong tờ khai cũng không có từ ngữ nào chứng tỏ các vị xin phép mà
chỉ là Tờ Tuyên Ngôn khai đạo Cao Đài.
Thật vậy, Thống Đốc Le Fol không hề ký giấy phép
nào cho Đạo Cao Đài hoạt động. " Ngày 7-10-1926 Thống Đốc Nam Kỳ đã nhận
được tuyên ngôn chính thức về việc thành lập Đạo Cao Đài. Ông đã khôn khéo tiếp
nhận văn kiện, tuy nhiên không cam kết công nhận chính thức mối đạo". Ông G. Meillon gọi đó là Bản Tuyên Ngôn chánh
thức về sự thành lập Đạo Cao Đài ( La déclaration officielle de la fondation du
Caodaisme) ( GUSTAVE MEILLON, Le Caodaisme, in trong Les Messages Spirites
1962).
Trong Le Caodaisme au Cambodge, Pierre Bernardini đã gọi tên đích xác văn
bản đó là : " Déclaration officielle adresse par les fondateurs au
Caodaisme à M. Le Fol, Gouverneur de la Cochinchine" ( PIERRE BERNARDINI,
Le Caodaisme au Cambodge, Université de Paris VII, 1974, trang 282).
Thống Đốc Le Fol tuy không đàn áp Đạo Cao Đài, nhưng ra lịnh bằng mật điện
số 146C ngày 14-11-1926, lưu ý các chủ tỉnh về hoạt động đạo giáo của nhóm
ông Lê Văn Trung và ra lệnh cho các chủ tỉnh phải bí mật theo dõi việc truyền
đạo và báo cáo cho ông bằng "mật điện" (LALAURETTE, sách đã dẫn,
trang 15).
Khi Thống Đốc Blanchard de la Brosse kế nhiệm Le Fol bằng Thông tư số 52C ngày 7-3-1927 ra lịnh cho các chủ tỉnh phải
chấp hành mật điện 146 của Le Fol (LALAURETTE, sách đã dẫn, trang 19).
Toàn quyền Decoux cho rằng năm 1939 Bộ Trưởng thuộc địa Pháp Georges Mandel
mới công nhận sự hiện hữu của Đạo Cao Đài tại Việt Nam với danh nghĩa tôn kính
sự tự do tín ngưỡng (A. DECOUX, À la barre de I' Indochine, Paris, trang 235). Đó là sự
hiểu lầm hoàn toàn vì trong Journal Officielle de I' Indochine francaise vào
năm 1939 không thấy có nghị định này trong Thư viện ở Việt Nam (chính tôi tìm)
cũng như ở Pháp (do G. Meillon tìm giùm). Chỉ có một điện tín của G. Mandel,
Tổng Trưởng thuộc địa gởi cho luật sư Trịnh Đình Thảo, người đã bênh vực cho
Đạo Cao Đài như sau :
" Tôi đã ra lịnh để cho Đạo Cao Đài được tự do
khánh thành Thánh Thất Trãng Bàng ( vào năm 1939). Nếu có xảy ra việc gì, xin
ông (Trịnh Đình Thảo) lập tức báo cho tôi hay" (NGUYỄN KỲ NAM , Hồi ký,
Tập II, năm Giáp Thìn, trang 102).
Trên đây là những bằng chứng cụ thể giấy trắng mực
đen rõ ràng, không một ai có thể phủ nhận mà cưỡng chế mù quáng cho rằng Pháp
đã ký giấy phép cho Đạo Cao Đài hoạt động hay Đạo Cao Đài do Pháp lập ra, đều
võ đoán và phi lý.
Thế thì, Ngày 23-8 là ngày khai sinh đạo với toàn
thể chúng sanh, với quốc dân đồng bào. Nó có một ý nghĩa hết sức to lớn thì
công của người cưu mang đẻ ra nó cũng vĩ đại chừng ấy. Chính vì vậy, dù đã lập
Toà Thánh ở Tây Ninh. Ngài Thượng Trung Nhựt hằng năm vẫn về nhà ông Nguyễn Văn
Tường hay Thánh Thất Cầu Kho để làm lễ kỷ niệm. Trong ngày 23-8 năm Mậu Thìn
(1928), Ngài nói: " Tôi rất hân hạnh vì ngày nay được thay mặt Đại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ đặng thổ lộ ít lời, nhắc tích ngày kỷ niệm hôm nay…
Khi cầu cơ, Đấng Chí Tôn giáng kêu tôi dạy phải cho
môn đệ của Thầy tới tối 23 tháng 8 tựu tại nhà đạo hữu Tường đây.
Tôi không biết rõ Thánh ý, điều tôi vâng mạng cho
chư đạo hữu hay lời Thánh truyền tối 23-8- Bính Dần tựu tại đây rồi cầu Đấng
Chí Tôn giáng dạy tôi phải biên tên hết các nam nữ lưỡng phái đặng đứng tờ khai
đạo vơi chính phủ. Khi ấy có mặt tại đàn hết thảy là 240 vị đạo hữu. Tôi có nạp
tên mấy vị ấy tại chính phủ, khi tôi dâng tờ khai đạo là ngày 6-10-1926. tôi
bạch với Đấng Chí Tôn rằng tôi không có giờ đủ mà đệ tờ khai đạo cho ông Thái
Lão Trần Đạo Quang ký tên. Đấng Chí Tôn giáng dạy tôi cứ việc đem tên Trần Đạo
Quang vô Tờ Khai Đạo. Đấng Chí Tôn có phán rằng : " Con cứ đem tên nó vô
Tờ Khai Đạo, Đạo Quang nó không chối cãi đâu mà con phòng ngại".
Từ ngày ấy, anh Trần Đạo Quang hết lòng sốt sắng vì
đạo nên Đấng Chí Tôn phong cho chức Chưởng Pháp trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Ấy là sự tích ngày kỷ niệm hôm nay. Nhìn mặt nhau
đây, chúng ta thấy chúng ta phản lão hoàn đồng. Chúng ta trẻ lại hai tuổi vì
chúng ta trở lại công việc hai năm về trước.
Đó là ngày vui, ngày qúi báu của chúng ta. Biết vui
biết quí báu chừng nào thì phải nhớ về cái ân huệ của Đấng Chí Tôn ban thưởng
cho chúng ta chừng ấy. Muốn đền ơn qúi trọng ấy, phải làm sao ? Phải hết lòng
vì đạo, vì tín ngưỡng Đấng Chí Tôn và chư Phật, chư Tiên, vì đức háo sanh, vì
cuộc tuần hoàn mà gieo mối Đạo Trời Tam Kỳ Phổ Độ ngõ hầu độ rỗi sanh linh khỏi
trả vay nơi trầm luân khổ ải này…
Đấng Chí Tôn vì quá thương nhân lại nên cho chúng
ta được hưởng cái công khai đạo, cái công vẹn ngút mây xanh, làm chổ sáng sủa
bạch minh cho bước đường sau này, cũng theo dấu ấy mà tầm đến nơi yên tĩnh, làm
cho khắp cả nhân sanh đều được hưởng…
Theo Thánh ý, Đấng Chí Tôn muốn cho chúng ta kết
chặt nhân sanh nơi cõi Nam này đặng cùng nhau chung hiệp, tìm con đường hoà
bình, lần ra khỏi khốn khổ lao lung ở cõi trần này..
Ngày nào Đạo chưa hoà, chưa đồng nhứt tâm thì đèn
thiêng liêng chưa đủ tỏ mà soi mấy chục triệu dân sanh nơi đây… Ngày nay chúng
ta thành tâm làm lễ kỷ niệm nầy, tôi tưởng cũng nên thành tâm mà chọn một người
bàn hội cho đủ đạo đức. Bàn hội ấy đi dạy dỗ khuyên lơn đạo hữu từ lớn tới nhỏ
phải trau dồi hạnh đức. Bàn hội ( tức Bàn Trị Sự) ấy lo cho đạo hữu Thánh Thất
Cầu Kho đây. Mỗi tuần phải ra công xem xét bất bình trong Họ (Đạo), phải lo
phương cứu chữa cho được yên tĩnh. Mỗi tuần phải có tờ phúc cho ông Đầu Họ.
Tôi sẽ truyền cho mỗi Họ đều sắp đặt như vậy. Aáy
là phương châm chế ngự cho trong Đạo hoà bình. (Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu trữ)
ĐỨC
QUYỀN GIÁO TÔNG ĐĂNG TIÊN
1 . Từ một tiền đề
Người đệ tử Đức Cao Đài đầu tiên là Ngài Ngô Văn
Chiêu đạo hiệu là Minh Chiêu. Trong đàn cơ 14-10-1926, Đức Chí Tôn dự kiến
phong cho Ngài làm Giáo Tông nên dạy rằng :
"Trung, Cư, Tắc ba con lập tức lên Chiêu, biểu
nó sắm liền một bộ Thiên phục màu trắng, có các quẻ của bát quái y theo Thầy
vẽ, thêu bằng chữ vàng. Dặn nó mua thứ hàng thiệt tốt, mão cũng vậy".
Vốn là " Chiêu minh linh giác" (ngộ đạo
thấy rõ), Ngài biết Đức Cao Đài thử lòng đệ tử vì áo Giáo Tông chỉ vẽ là áo
tiểu phục dành cho Ngài Lê Văn Trung sau này. Đến khi ban hành Pháp Chánh
Truyền, toàn đạo mới biết : "Bộ đại phục Giáo Tông thì toàn trắng, có thêu
bông sen vàng từ trên tới dưới, hai bên cổ áo, mỗi phía có ba cổ pháp là Long Tu
phiến, Thư Hùng kiếm và Phất Chủ. Đầu đội mão vàng năm từng bát quái" (Ban
Đạo Sử : Tài liệu lưu trữ)
Như vậy, Ngài Ngô kiên định lập trường CHƠN TRUYỀN
VÔ VI mà Đức Cao Đài đã dạy. Thế mà có người truy phong Ngài Ngô là đệ nhứt
Giáo Tông, Ngài Lê Văn Trung là đệ nhị Giáo Tông, kế đến Giáo Tông Nguyễn Ngọc
Tương, Nguyễn Bửu Tài và Cao Triều Phát.
Đức Hộ Pháp đã thuyết đạo (1948) rằng : " Mỗi
vị tín đồ đều có cái mão Giáo Tông và Hộ Pháp, không lấy được là lỗi ở mấy em,
chẳng lẽ đạo chỉ có một người cầm đầu mà người đó chết thì diệt tiêu nền
đạo".
Nhưng phải lên ngôi Giáo Tông, Hộ Pháp thế nào cho
phù hợp với luật lệ đạo. Khi Ngài Ngô không tới thọ phong tại nhà Ngài Lê Văn
Trung, mãi đến ngày 29-10-1926 Đức Chí Tôn mới giao " quyền thưởng phạt đã
vào tay Lý Thái Bạch". Sau đó Đức Lý thấy không thể giải quyết mọi việc
phàm trần nhanh chóng nên "ban quyền cho Thượng Đầu Sư thay mặt cho Lão mà
thi hành các phận sự Q. Giáo Tông về phần xác, còn về phần Thiêng Liêng có
Lão" (Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu trữ) .
Hãy lưu ý mấy chữ "Q. Giáo Tông về phần
xác", tức là Ngài Lê chỉ được nửa Giáo Tông. Thế nên, Ngài Lê không bao
giờ mặc áo đại phục Giáo Tông. Thiên phục mà Đức Q. Giáo Tông được tạc tượng
trước lầu chuông Toà Thánh cũng chỉ là tiểu phục. Do đó, Ngài Lê không phải là
đệ nhị Giáo Tông. Nếu có đời Giáo Tông khác thì tịch đạo THANH HƯƠNG phải đổi
ra ĐẠO TÂM.
2 . Châu tri báo tang của
Hội Thánh
Vùng đất xây cất Toà Thánh vốn là rừng cấm nhiều
chướng khí, nước rất độc. Đức Q. Giáo Tông bị chói nước mang bịnh sốt rét rừng
phải nằm nhà thương. Vừa thuyên giảm đôi phần, vì đạo sự phồn tạp , Đức Ngài
rời bệnh viện về Toà Thánh để xử lý. Chẳng ngờ bịnh trở nặng, nóng nhiều, uống
thuốc vô ói ra hết, không ăn mà qui tiên.
Toà Thánh báo tin như sau :
" Kính chư hiền huynh, hiền tỷ.
Hội Thánh ĐĐTKPĐ rất đau đớn mà cho chư hiền huynh,
hiền tỷ hay tin buồn : Đức Q. Giáo Tông đã qui tiên tại Giáo Tông Đường ngày
13-10-Giáp Tuất (19-11-1934) hồi 3 giờ chiều hưởng thọ 59 tuổi.
Lễ tống chung định ngày 26-10-Giáp Tuất đúng 9 giờ
sớm mai".
ĐỆ
TỬ THỨ TƯ
NGUYỄN
VĂN HOÀI
- Phần đời : Thông phán
- Phần Đạo : Tu chơn
Nguyễn Văn Hoài, bạn tu của ông Ngô Văn Chiêu, hoạt
động hăng hái lúc đầu, nhưng đường đạo, bước đạo gập ghềnh khó tới, ông không
có giữ vai trò nào trong cơ phổ hóa. Đức Chí Tôn đã tiên tri vào ngày 12-2-1926
bằng bài thơ cho ông như sau :
Vô
vi tối yếu đạo đương cầu
Đệ
tử tâm thành bất viễn ưu.
Thế
sự vô duyên, vô thế sự
Tiêu
tư bất xuất ngoại giang đầu.
Như lời Đức Chí Tôn dạy, ông "bất xuất ngoại
giang đầu", không ra khỏi đầu sông nhà mình. Một thân tu đơn, trường dưỡng
tinh khí thần để "chiết khảm điều ly" mà trở về ngôi xưa cảnh cũ.
Người đến âm thầm (không tiếng oa) và về cõi thiêng
liêng hằng sống lặng lẽ (không tiếng kèn). Đó là tâm nguyện của những nguyên
nhân tu đơn.
Vật chất là của ngoại thân. Họ tên là của phàm
trần. Người tu chơn coi có như không, không như có. Năm sanh ngày mất chẳng qua
là hư ảo của cuộc đời, đâu cần quan tâm chỉ có linh hồn mới bất tử với không
thời gian.
ĐỆ
TỬ THỨ NĂM
ĐOÀN
VĂN BẢN
- Phần đời : Đốc học trường Cầu Kho
- Phần đạo : Giáo Sư
Ông Đoàn Văn Bản, tự là văn Long, người làng Tân
Uyên, tỉnh Biên Hòa. Học trường tiểu học Biên Hòa rồi nội trú trường Sư phạm
(sơ tiểu) tại Gia Định.
Đi dạy nhiều nơi, sau cùng về trường tiểu học Cầu Kho
(nay là trường Trần Hưng Đạo, đường Trần Hưng Đạo) làm Đốc học (Hiệu trưởng),
nên còn gọi là Đốc Bản. Oâng chỉ có một con gái là Đoàn Thị Quới.
Vì không có con trai nối hậu, ông Bản vẫn thường ưu
phiền. Khi ông đã vào Đạo Cao Đài, đêm 30 Tết Aát Sửu (thứ sáu 12/2/1926) trong
một đàn cơ tại nhà ông vào trước giờ giao thừa, Đức Cao Đài an ủi :
Thương
thay trung tín một lòng thành
Chẳng kể quan mà chẳng kể danh.
Thiệt thòi bấy phận không con nối,
Thấy rứa lòng Ta cũng chẳng đành.
Gia đình ông Đoàn Văn
Bản ngụ ở khoảng góc đường Nguyễn Tấn Nghiệm (nay là Phát Diệm) và đường
Général Leman (nay là Cao Bá Nhạ) rất gần trường Cầu Kho. Nhà này sau
trở thành Thánh Thất Cầu Kho (nay không còn).
Oâng Bản đến phố Hàng Dừa vào ngày mùng 1 tháng
Chạp Aát Sửu (thứ năm 14/1/1926), Đức Cao Đài dạy ông như sau :
Bút
nở mùa hoa đã có chừng,
Chẳng
như củi mục hốt mà bưng.
Gắng
công ắt đặng công mà chớ,
Buồn
bực rồi sau mới có mừng.
Theo bà Hương Hiếu (Đạo Sử, Quyển I, tr.38), vì ông
Bản muốn xin lập đàn cơ, Đức Cao Đài trả lời như vậy, ngụ ý ơn Trời cho ai mới
được hưởng.
ĐỆ
TỬ THỨ SÁU
VÕ
VĂN SANG
Phần đời : Phán
Phần đạo : Tu chơn
Đêm 30 tháng Chạp năm Aát Sửu (12-2-1926) ông phủ
Ngô Văn Chiêu đi với hai ông Cư - Tắc đến nhà mỗi vị đặng chúc mừng Tân Xuân
Ngài dặn hễ tới nhà mỗi vị thì hai ông Cư và Tắc phò cơ cho Đức Thượng Đế cho
thi dạy bảo. Trước hết lại nhà ông Phán Võ Văn Sang rồi lần lượf chót hết là
nhà ông Lê Văn Trung.
BÀI THI
Tân
dân hỉ kiến đắc tân niên
Phổ
độ Tam Kỳ bá thế hiền,
Nhứt
tịnh chủ tâm chơn đạo lý
Thăng
Thiên hượt địa chỉ như thiên.
Oâng
là người rất tâm Đạo, tin thờ Đức Tôn nhất mực
Đạo
Thầy con chớ buông trôi,
Đạo
qui nhứt thống phục lời linh căn
Đạo
thầy là ngọn bửu đăng
Đạo
soi sáng khắp như trăng đêm rằm
Đạo
thường ẩn núp nơi tâm
Đạo
đâu non núi mà tâm nhọc công
Nhờ đạt được lý đạo và Thánh Ngôn, mà công phu tu
luyện của ông thành chánh quả.
ĐỆ
TỬ THỨ BẢY
LÝ
TRỌNG QUÍ
- Phần đời : chủ điền
- Phần đạo : Tu chơn
Lý Trọng Quí người Cần Thơ, bạn tu của Ngô Văn
Chiêu, xem bài thơ Đức Chí Tôn cho ông vào đêm giao thừa Aát Sửu Bính Dần thì
rõ :
BÀI THI
Lỡ
một bước, lướt một ngày
Một
lòng thành thật chớ đơn sai.
Lôi
thôi buổi trước nhiều ân xá,
Lấp
lửng đừng làm tội bữa nay.
Tính ông cẩn mật e dè, chỉ tin vào Đức Chí Tôn và
một thân luyện Tinh, Khí, Thần.
Biết
căn tầm lối băng về
Đoạn
dây oan nghiệt đặng về Ngọc Kinh.
Bảo
tồn tinh luyện ngươn TINH
Hiệp
cùng THẦN, KHÍ, điển linh phục huờn.
Dùng
phương chế thuốc luyện đơn
Cho
thành đại giác chơn nhơn phi phàm.
Mùi
đời đừng có mến ham,
Phật,
Tiên, Thánh thiện lên làm khó chi (?)
Khuyên
cùng sanh chúng tu đi !
Thánh Ngôn.
ĐỆ
TỬ THỨ TÁM
LÊ
VĂN GIẢNG
- Phần đời : Thư ký hãng Hippolito
- Phần đạo : Thượng Giáo Sư
Lê Văn Giảng sinh năm 1926 làm tại hãng Hippolito,
Sài Gòn. Ngày 14/5/Bính Dần thọ phong Lễ sanh, 25/12 lên Giáo hữu rồi thăng lên
Giáo Sư phái Thượng. Oâng có nhiều công trong việc xướng lễ buổi đầu.
Vào Tết Bính Dần Đức Chí Tôn cũng giáng cơ cho ông
một bài tứ tuyệt như sau :
BÀI THI CHO ÔNG LÊ VĂN
GIẢNG
Trần
tục là nơi chỗ biển buồn,
Nghe
nơi Đại Đạo ráng nghe luôn.
Ở
trong nhà sẵn Thầy đưa khó,
Aùch
nạn chi chi cũng chảy tuôn.
Trong "Tờ khai tịch đạo", 28 người đứng
tên xin khai đạo, ông Lê Văn Giảng, thơ ký kế toán, Sài Gòn, đứng hàng thứ 14.
Rất tiếc, khi cơ đạo chuyển về chùa mới thuộc đất
Long Thành, ông bỏ dở không tiếp tục hành Đạo. Dù vậy, Đức Chí Tôn vẫn hộ trì
ông "Aùch nạn chi chi cũng chảy tuôn".
Mới hay, đường Đạo gập gềnh khó tới, kẻ thiếu đức
tin vô đối thường bỏ dở giữa đường. Ô hô ! biết bao người tu như vậy.
ĐỆ TỬ
THỨ CHÍN
NGUYỄN
TRUNG HẬU
(1892-1961)
Phần đời : Đốc học tư thục
Phần đạo : Bảo Pháp Hiệp Thiên Đài
I/ - PHẦN ĐỜI
Nguyễn Trung Hậu sinh ngày mùng 5 tháng 3 năm Nhâm
Thìn (01/04/1892) tại xã Bình hòa, tỉnh Gia Định (nay là quận Bình Thạnh), con
ông Nguyễn Phục Lễ, tức Nguyễn Văn Nhiêu, bút hiệu Tiết Văn, đông y sĩ, làm bốn
khóa Hội đồng địa hạt làng An Thịt, Gia Định, và bà Lê Thị Cơ người gốc Bình
Định. tốt nghiệp trường sư phạm Gia Định (Eùcole normale de Giadinh) tháng 2
năm 1911 Người được bổ làm giáo viên tại một trường ở đường Taberd mà hồi trước
gọi nôm na là trường "sở cọp". Sau trường này bị bãi bỏ mới về dạy
tại trường tiểu học đường Richaud, nay là đường Nguyễn Đình Chiểu. Đến năm 1919
làm thơ ký cho ông giám đốc các trường tiểu học Sàigòn. Năm 1922, từ chức để
giám đốc trường tư thục Internat primaire de Dakao tại đường D'Ariès, nay là
đường Huỳnh Khương Ninh. Đến năm 1926, vì làm ăn sa sút, ngày 23/6/1926
(14/5/Bính Dần), Người có cầu hỏi Đức Chí Tôn, coi nên tiếp tục hay để cho sụp
đổ, thì Thầy dạy :
Con
muốn làm sao tự ý con,
Nhà
nghèo nhơn nghĩa miễn vuông tròn.
Thầy
đâu nỡ để môn đồ cực,
Mối
đạo giữ cho ngàn thưở còn.
Đến ngày 04/08/1926 (21-7-Bính Dần), Người tự thấy
không thể đứng vững được nữa với cái trường "Internat de Dakao" nên
cùng với ông đốc Đoàn Văn Bản thỉnh giáo Thầy lần nữa (mỗi người thỉnh giáo
việc riêng của mình), thì Thầy giáng cho mỗi người một bài thi, trong đó bài
thi cho Thuần Đức như sau :
Cái
khiếu thông minh con ở đâu ?
Kêu
Thầy mà hỏi việc cơ cầu.
Hễ
là quân tử chi màng việc,
Hễ
biết điều cao bớt việc sầu.
Theo lời dạy của Đức Chí tôn, Người giao trường lại
cho ông Huỳnh Khương Ninh rồi gia nhập phong trào Tôn giáo Đại Đạo Tam Kỳ Phổ
Độ.
Những năm sau đó, thỉnh thoảng Người có làm giáo sư
Pháp văn trường Hưng-Việt, trường Nguyễn Anh Bổn (trường Nguyễn Phan Long cũ),
trường Nguyễn Du …
Năm 1930-1931, Người vừa viết báo cho Đuốc-Nhà-Nam,
Hoàn Cầu Tân Văn của ông Nguyễn Háo Vĩnh, vừa làm chủ bút tờ tạp chí Pháp văn
La Revue Caodaiste và năm 1932 làm chủ bút nguyệt san Đại Đồng của Liên hòa
Tổng Hội do ông Nguyễn Phan Long lãnh đạo.
Đến năm 1934, vì bệnh hoạn liên miên, nhờ ông Cai
tổng Trương Vinh Quy và ông Phán Của giúp đỡ từ Cầu Kho (Saigon) về nương ngụ
tại số 186/42 đường Ngô Tùng Châu (nay là 101/71, đường Nguyễn Văn Đậu, quận
Bình Thạnh) cho tới ngày qui vị, thọ 70 tuổi.
Người và Bà Diệp Thị Nguy (thường gọi là Diệp Thị
Quy con của ông Diệp Văn Chỉ và bà Dương Thị Kiển) kết hôn ngày 4/10/1919
(11/8/Kỷ Mùi) sanh được 8 người con, 5 trai, 3 gái. Các con cùng với hầu hết
dâu, rễ đều noi ý cha theo nghiệp Đạo (người con thứ tư Nguyễn Trung Hiếu không
có lập gia đình).
II/ - PHẦN ĐẠO
Vào đầu tháng giêng năm 1926, Người nghe tin quí
ông Phạm Công Tắc, Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang cầu cơ Tiên giáng cho thi hay
lắm. Người đến nhà ông Cư xem coi tình hình và được bài Thánh huấn đầu tiên của
Đức Chí Tôn đến với tá danh "A-Ă-Â" :
THUẦN
văn chất, ĐỨC tài cao,
Tên
tuổi làng thơ đã đứng vào.
Non
nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Đến
hồi múa bút vụt cờ Mao. (1)
Vì điểm danh đúng bút hiệu Thuần Đức, nên Người đã
có niềm tin. Một hôm khác, trong một buổi xây bàn, Người bạch cùng Đấng A-Ă-Â
rằng :"Tôi còn nhớ hai câu đối thuở nay chưa ai đối được, nên xin đem ra
nhờ Ngài đối chơi cho vui". Đức A-Ă-Â đáp : "Bần Đạo xin hầu đối, nhưng
nếu đối ra không chững, quí vị chớ cười mà niệm tình bần đạo mà chấn chỉnh lại
cho".
(1)Theo các tài liệu sử Đạo thì câu này là :
"Đến hồi
búa việt giục cờ mao" )
Nhưng theo thủ bút của
Thuần Đức thì ghi như trên.
Câu
đối của Thuần Đức ra :
"Ngồi
yên ngựa đừng bò con nghé"
Đức A-Ă-Â đối lại
:
"Cỡi
lưng trâu chớ khỉ thằng tê"
Thuần
Đức ra : "Ngựa chạy mang lạc"
Đức
A-Ă-Â đối lại : "Cò bay le bè"
Tất cả những người có mặt đều hết sức phục tài Đức
A-Ă-Â. Cũng vì đó Thuần Đức nhập môn theo Đạo Cao Đài từ thuở ban đầu và đêm 14
rạng rằm tháng 3 năm Bính Dần (25 rạng 26/4/1926) thọ Thiên phong Tiên Đạo phò
cơ Đạo sĩ, cùng với ông Trương Hữu Đức.
Người với ông Trương Hữu Đức lãnh lịnh đi phổ độ
trong các tỉnh Chợ Lớn, Gò Công, Tân An, Mỹ Tho, Định Tường, Bến Tre.
Ngày 13/2/1927 (12/1/Đinh Mão), Ngài thọ Thiên
phong BẢO PHÁP.
Nguyên Đức Chí Tôn có cho biết tiền thân của Ngài
Bảo Pháp là Xích Tinh Tử và của Ngài Hiến Pháp là Từ Hàn Đạo Nhơn, ngày
31/7/1027 (3-7-Đinh Mão) may được Quỉ Cốc đại tiên giáng đàn, hai Ngài mới xin
cho mỗi người một bài thi kỷ niệm.
Bài thi của Ngài Bảo Pháp như sau :
Đỏ
đỏ một vừng ấy Hỏa tinh,
Nhà
Châu tên tuổi đã rành rành.
Tam Kỳ tái thế an thiên hạ,
Hậu nhựt thành công hậu hứng tình.
Theo Châu tri ngày 1/4/1933 (7-3-Quí Dậu) Ngài giữ
Q . Chưởng Pháp Cửu Trùng Đài.
Năm 1934, Ngài về dưỡng bịnh tại Gia Định (Cây
Quéo).
Đầu tháng 5 năm 1957 (tháng tư Đinh Dậu) Ngài cùng
với Đức Thượng Sanh và quí vị Thời Quân về Tòa Thánh tái thủ phận sự. Ngày
14/5/1957 (15-4-Đinh Dậu) Ngài được Hội Thánh cử làm Giám đốc Hạnh Đường dạy
lớp bồi dưỡng Giáo Hữu và Lễ Sanh, đúng theo chơn truyền của Đạo. Cũng trong
thời gian này Ngài thành lập lại ĐẠO ĐỨC VĂN ĐÀN mà trước đây do Ngài Cao Tiếp
Đạo bút hiệu Huyền Quang, Chánh Đức đứng ra thành lập vào năm 1950 và chỉ hoạt
động được 2 năm. ngài dạy về niêm luật Đường thi được nhiều người hưỡng ứng nên
sau ngày cải táng Ngài về đất dành riêng cho Thập Nhị Thời Quân thì quí thi gia
trong Đạo Đức Văn Đàn có xuất bản tập HOÀI NIỆM THUẦN ĐỨC TIÊN SINH (năm 1974,
Giáp Dần). Tập Hoài Niệm này được Ngài Hiến pháp, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài
ghi "Lời hoài cảm".
Sau đó do bịnh hoạn và vì tuổi già sức yếu (bị
huyết áp cao) ngày 24 tháng 12 năm 1958 (Rằm thang11 năm Mậu Tuất) Ngài trở về
Gia Định dưỡng bịnh. Trong cuộc chính biến ngày 11-11-1960, do nhóm người tổ
chức đã tự ý để tên Ngài vào bản tuyên ngôn nên sau đó Ngài bị nhà cầm quyền
Sàigòn cũ tạm giữ một tháng năm ngày từ ngày 18/11/1960 đến 22/12/1960. Trong thời
gian bị tạm giam, Ngài có làm 12 bài thi. Trong bài cảm thuật có 2 câu:
Ai biết ta chăng ta tự biết,
Riêng hiềm có miệng cũng như câm.
Từ đó Ngài sống thanh đạm tại Gia Định với các con
an hưởng tuổi già. Ngài vẫn còn làm thơ và xướng họa với các bạn Đạo và các môn
sinh trong Đạo Đức Văn Bàn qua đường bưu điện. Ngài cũng thường làm thơ tự
thuật, tả cảnh, tả tình gói niềm tâm sự trong các vần thơ và cũng trong thời
gian này Ngài thường xướng họa thơ với các thi sĩ lão thành trong Nam Phong Thi
Xã.
Sau cơn bạo bịnh kéo dài đúng một trăm ngày, Ngài
thoát xác về với Thầy, Mẹ tại Gia Định vào lúc 16 giờ 50 ngày mùng 7 tháng 9
năm Tân Sửu (16/10/1961). Tang lễ được Hội Thánh cử hành theo lễ Đạo trong 5
ngày và tạm an táng tại nghĩa trang gia đình của ông Bảy Bích tại Cây Quéo.
Ngày mùng 4 đến ngày mùng 7 tháng 9 năm Giáp Dần
(18 đến 21/10/1974) Hội Thánh do Ngài Hiến Pháp, chưởng quản Hiệp Thiên Đài đã
đích thân ra lịnh tổ chức lễ cải táng di thể Ngài Bảo Pháp như sau :
Ngày 4-9-Giáp Dần : khai mộ do Trưởng Huynh Giáo sư
Ngọc Minh Thanh (bấy giờ là Khâm Trấn Đạo Sài gòn Gia Định) và Trưởng huynh
Giáo sư Thái Hồ Thanh, chưởng quản Nhà Thuyền Bát Nhã trực tiếp theo dõi đôn
đốc hành sự. Thi thể Ngài còn nguyên vẹn như lúc mới thoát xác, nên việc xếp
ngồi kiết già và liệm vào liên đài rất thuận lợi.
Ngày 4 và 5-9-Giáp Dần : Liên Đài quàn tại tư
đường, ở Cây Quéo - Gia Định, Hội Thánh hành lễ tế điện theo nghi thức Đạo.
Ngài Hiến Pháp cùng Hội Thánh lưỡng đài, Hội Thánh Phước Thiện và đồng đạo đến
tận nơi niệm hương cầu nguyện.
Ngày 6-9-Giáp Dần : 6 giờ sáng, di liên đài kỵ Long
Mã (bông Long Mã trên ô tô) về Thánh địa Tòa Thánh Tây Ninh, có hiền huynh Sĩ
Tải Khoan, lễ sĩ và đại diện gia đình đứng hầu trên Long Mã. Vào lúc 15 giờ 30,
liên đài quàn tại Báo Ân Từ . Hội Thánh tếp tục hành l64 tế điện và cầu siêu.
Ngày 7-9-Giáp Dần : 7 giờ sáng di liên đài qua Đền
Thánh, Thỉnh Bửu ảnh vào kỉnh lễ Đức Chí Tôn và sau đó liên đài kỵ Long Mã
thẳng ra đất Thập Nhị Thời Quân tại Ao Hồ theo nghi thức Đạo. Sau bài cảm tưởng
của Ngài Hiến Pháp và các bài tưởng niệm của Quí Chức sắc Thiên Phong, thứ nam
NGUYỄN TRUNG NGHĨA, quyền Trưởng nam, cùng toàn Đạo đã cử hành trọng thể lễ cải
táng di hài của tiên phụ. Tiếp theo Ban tổ chức hành lễ liên đài nhập bửu tháp,
đúng 13 năm sau ngày Ngài Bảo Pháp thoát xác.
III/
- SỰ NGHIỆP VĂN CHƯƠNG
1/ -
PHẦN ĐẠO :
Ngoài việc làm chủ bút tạp chí Pháp văn "La
Revue caodaiste" Ngài đã sáng tác những sách Đạo Cao Đài dưới đây :
- Luận Đạo vấn đáp (1927)
- Tiên Thiên tiểu học (1927), Hội Thánh tái bản năm
1955.
- Bài thuyết đạo
- Châu thân giải
- Ăn chay
- Đức Tin
- Chơn lý (1928)
- Đại Đạo căn nguyên (1930) Thánh Thất An Hội Kiến
hòa tái bản năm 1957
- Thiên Đạo (1955) cùng viết với Ô.Phan Trường
mạnh.
- Luân hồi quả báo (1956) cùng viết với Ngài Khai
Đạo Phạm Tấn Đãi.
2/ - PHẦN ĐỜI :
Ngoài việc viết báo như đã trình bày ở phần trên.
Ông Thuần Đức có dịch đăng báo một số ít tiểu thuyết từ Pháp văn ra Việt văn.
Nhưng sự nghiệp thi phú của Người là nổi bật hơn hết.
Người bước vào làng thơ năm 19 tuổi (1911) với bài
tự thuật có hai câu chuyển kết :
Cạn
trần chưa biết ai là bạn,
Liều
với xuân xanh bút một ngòi.
Và bài thơ cuối cùng của Người đề ngày 30/6/1961,
đúng 108 ngày trước ngày Người về chầu Đức Chí Tôn, là bài "THÔN CHIỀU
BUỒN", trong đó có cặp trạng báo trước tâm sự người sắp ra đi :
Khoanh
tay đứng ngóng thuyền xa bến,
Đứt
ruột ngồi nghe nhạn gọi đàn.
Sự nghiệp thi phú của Thuần Đức bao gồm ba thời kỳ
chủ yếu :
a/ - Thời niên thiếu :
Thời kỳ xướng họa với các thi hữu trong NGƯU GIANG
THỊ XÃ trong các năm 1918-1920. trong thời gian này người có sáng tác bài XUẤT
GIA (1919) mà ngay cả chúng tôi là các con trong gia đình cũng ngộ nhận rằng
Người sáng tác bài XUẤT GIA trong thời gian tái thủ phận sự Đạo vào năm
1957-1958. Sau này, khi thu tầm lại tài liệu, bút tích của Người để soạn quyển
Thuần Đức Thi Hiệp Tuyển, tôi mới tìm được sự thật của thời gian sáng tác bài
thi. Như vậy, Người đã có tư tưởng thoát tục trước khi được Đức Chí Tôn dưới tá
danh A-Ă-Â điểm danh, trùng hợp với khoảng thời gian Đức Ngô Minh Chiêu nghe
hồng danh Đức Cao Đài tại tỉnh Tân An khoảng tháng 12 năm Canh Thân (đầu năm
1920).
b/ -
Thời kỳ đã nhập môn Đạo CAO ĐÀI :
Trong thời gian này, Người sáng tác những bài thi
thuần tôn giáo, như bài DƯỚI CHÂN THẦY, ĐAÏI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ …
c/ -
Thời kỳ tái thủ phận sự Đạo :
Trong thời gian này, Ngài thường xướng họa với quý
vị Chức sắc Đại Thiên Phong, như Đức Thượng Sanh, Ngài Cao Tiếp Đạo, Ngài Bảo
Văn Pháp Quân … và quí thi gia trong Đạo Đức Văn Đàn.
ĐỆ
TỬ THỨ MƯỜI
TRƯƠNG
HỮU ĐỨC
(1890-1976)
- Phần đời : Thư ký Sở Hỏa xa - Phần đạo : Hiến
Pháp Hiệp Thiên Đài
I/ - PHẦN ĐỜI
Ngài Hiến Pháp tên thật là Trương Hữu Đức sanh ngày
mùng 2 tháng 2 năm canh Dần (1890) tại làng Hiệp Hòa, (Chợ Lớn) con của ông
Trương Văn Tựu (Thiên Phong Giáo sư phái Ngọc) và bà Lê Thị Nhụy.
Ngài làm việc tại Sở Hỏa Xa Sài gòn, sau bị buộc
sang làm thông dịch viên cho Sở Mật Thám Nam Kỳ. Đến năm 1952, Ngài về nghỉ hưu
ở Hiệp Hòa.
II/ - PHẦN ĐẠO
Năm 1925,Ngài sang nhà ông Cao Quỳnh Cư quan sát
các ông Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang và Cao Quỳnh Cư xây bàn. Ngài hoài nghi
nên về tập làm thử thì vong lunh người anh nhập bàn cho hai vị thuốc trị lành
bệnh hậu của Ngài trên 20 năm qua. Ngài lại bắt chước Đức Phạm Hộ Pháp chấp bút
chỉ được cho thi một lần duy nhất :
Minh
Đức mừng nay đã gặp Thầy
Chẳng
còn ao ước cái không hay
Mừng
câu Âu, Á càng thêm mặt
Mừng
cậu côn đồ đã chịu chay.
Ngài khai đạo (15-10-Bính Dần) Ngài đắc phong Hiến
Pháp, hợp cùng Bảo Pháp là cặp cơ truyền Đạo. Lắm lúc phải đi suốt đem, có đêm
Ngài phải lên tận chùa Gò Kén để chấp cơ cho nhơn sanh nhập môn cầu đạo.
Ngài cũng nhờ ơn trên bố hóa mà trị được các bệnh
phù thủng, dịch tả, cảm … huyền diệu trị bệnh bằng nhân diện chỉ xảy ra trong
giai đoạn đầu mà thôi và chấm dứt huyền diệu đó vào năm 1927 khi có lệnh ngưng
cơ bút.
Khi còn làm việc ở Sở Mật Thám Nam Kỳ Ngài đã cứu
Đạo ra khỏi sự hiểu lầm trầm trọng. Vốn là Đức Cao Thượng Phẩm ban hành bản
"Cáo phó chúng sanh", ngoài bìa có đề : Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ mà
không có chứa chữ Hán nên Nha Tổng Giám đốc Sở Mật Thám Hà Nội dịch là
"Đạo lớn cứu vớt ba kỳ". Ngài phải dịch là "Đạo lớn mở lần thứ
ba".
Năm 1955, khi quốc gia hóa quân đội Cao Đài, Ngài
mới trở về Tòa Thánh làm việc. Năm 1956 Ngài cùng Ngài Bảo Thế thay mặt Hội
Thánh ký thỏa ước Bính thân, cam kết Đạo không làm chính trị.
Mặc dù Ngài không nhận đại diện cho phong trào Hòa
Bình Chung Sống nhưng vẫn bị chánh uyền cấm trú 2 năm tại Sài gòn.
Năm 1962 Ngài về Tòa Thánh nhận chức vụ Chưởng Quản
Bộ Pháp Chánh, Trưởng Ban Kiểm Duyệt, Ban Đạo Sử rồi Quyền Chưởng Quản Hiệp
Thiên Đài, sau đó lên thực thụ.
Thời Trưởng Ban Đạo sử, theo Thánh giáo của Đức Hộ
Pháp (1969) Ngài chỉ đạo Hiền Tài Trần Văn rạng soạn quyển Đại Đạo Sử Cương,
quyển sử đầu tiên đươc in ấn trong Đạo Cao Đài.
Thời Chưởng Quản HTĐ, Ngài tiếp tục xây dựng cơ sở
Đạo, phò cơ với Ngài Khai Đạo phong ba vị Bảo Quân và ba vị Phối Sư. Vì tuổi
già sức yếu, Ngài quy Tiên năm 1976, hưởng thọ 86 tuổi.
ĐỆ
TỬ THỨ MƯỜI MỘT
PHẠM
CÔNG TẮC
(1890-1959)
I/ - PHẦN ĐỜI
1/ - Thưở Thiếu Thời.
Vào tiết Đoan Ngọ (5-5)
năm Canh Dần (21-06-1890), bên bờ sông Vàm Cỏ Tây, thuộc làng Bình Lập, tại
Tỉnh lỵ Tân An (nay là Long An), một chơn linh giáng lâm trong gia đình ông Phạm
Công Thiện, một công chức. Đó là Phạm Công Tắc (1). Ngài sanh nhằm năm Thành
Thái thứ hai. Lúc bấy giờ, Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, do Pháp trực tiếp cai
trị. Vì thế, Nam Kỳ coi như một phần lãnh thổ của Pháp. Phủ Thống đốc Nam Kỳ đặt tại
Sài Gòn.
Ông Phạm Công Thiện kết
hôn với bà La Thị Đường, sanh được 8 người con mà Ngài Phạm Công Tắc là người con thứ tám.
Song thân Ngài trước ở làng An Hòa, quận Trảng Bàng, Tỉnh Tây Ninh. Vì là công
chức, ông Phạm Công Thiện về sau được đổi đến Long An.
Thưở thiếu thời Ngài Phạm Công Tắc là một thiếu
niên khỏe mạnh, tư chất thông minh đĩnh ngộ. Có điều lạ, vì sanh nhằm ngày
Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, cũng là ngày Lưu Thần, Nguyễn Triệu
nhập Thiên thai, nên thỉnh thoảng Ngài ngủ thiếp đi như người chết, linh hồn
lạc khuất đâu đâu, khiến cho huyên đường lo âu, nhất là bà cụ cố tỏ vẻ buồn rầu
sợ Ngài mệnh bạc.
(1) Theo giấy tờ
hộ tịch thì Ngài sanh tại Bình Lập, và cũng được xác nhận trong quyển
"Tiểu sử Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc" xuất bản năm 1954 lúc Ngài còn
sanh tiền.
Cảnh trạng Ngài chết đi sống lại như thế, cả làng
xã đều biết (2). Người ta cố gắng lo thuốc thang cho Ngài, nhưng vốn tiền định,
lâu lâu Ngài ngủ lịm đi đôi ba giờ, có khi kéo dài nửa ngày.
Năm 1896, đến tuổi cắp sách đến trường tiểu học, có
lúc học chữ Nho rồi sau theo học trường Chasseloup-Laubat (nay là trường
Jean-Jacques Rouasseau, đường Hồng thập tự, Sài Gòn). Bằng hữu ai cũng thích
Ngài, vì tánh tình khoan hòa, ưa hoạt động, nhất là nhiều sáng kiến, bày biện
các cuộc chơi, hay đánh đổ một vài nhân vật trong lịch sử nước Pháp. Việc này
khiến cho các bạn ái ngại xa lánh Ngài. Từ đó, Ngài cảm thấy cô đơn, nhiều câu
tự vấn : Tại sao nước Pháp có nhiều anh hùng? Nhìn lại quê hương Việt Nam thì
rách nát, Pháp phân chia để trị. Bắc kỳ và Trung kỳ là hai xứ bảo hộ, nhà vua
có đó như bù nhìn. Viên Toàn Quyền Pháp là chúa tể, nắm tất cả quyền hành. Việt
Nam là người, mà người Pháp cũng là người, tại sao người Nam cuối đầu nô lệ,
chịu nhục. Mối hờn vong quốc bừng sôi trong huyết quản của tuổi trẻ Ngài.
(2) Nhật báo
Điện tín ra ngày 9/9/1971 có đăng tin : "Một thiếu niên 19 tuổi sau khi đỗ
Tú tài thì đôi mắt tự nhiên lòa hẳn đi, kéo dài trong 1 tháng thì thiếu niên
lâm trọng bịnh. Trong lúc mê sảng thiếu nêin cho cha mình biết là anh được
Thiên tướng xống đưa về Thiên đình chữa bệnh. Anh sẽ chết rồi khoảng 15 ngày
sau mới sống dậy, miễn đừng đem chôn và ngày ngày vẫn cho anh uống 3 lần nước
lạnh vào 6 giờ sáng, 12 giờ trưa và 18 giờ tối". Dẫn chuyện xảy ra ở Tân
Châu (Châu Đốc), để chứng tỏ chuyện thiếp đi của Ngài Phạm Công Tắc là một
chuyện thật.
Hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ hết sức sôi động.
Triều đình Huế, vua Thành Thái (1889-1907) bị phế (3-9-1907), vua Duy Tân
(1907-1916) lên kế vị (8/9/1907), nhưng từ bỏ ngôi hợp với Trần Cao Vân chống
Pháp và bị bắt (6/5/1916). Theo sách Việt sử của Trần Văn Rạng (ấn hành năm
1963) diễn tả lại việc Pháp bắt nhà vua như sau:
"Le Fol cất nón chào nhà vua :
- Thế nào, Hoàng Thượng ngự giá đến đây là hết rồi
chứ ?
Vua Duy Tân nhún vai rồi đáp bằng tiếng Pháp :
Các ông chẳng hiểu được đâu (Vous ne pouvez pas
comprendre).
Viên Khâm sứ Charles mỉm cười bắt tay Ngài :
- Bệ hạ bằng lòng cuộc du ngoạn chớ ?
Vua Duy Tân đã trả lời xẳng 1 câu bằng tiếng Pháp :
- Không, bởi vì nó đã thất bại. (Non, puisqu'elle n'a pas réussi).
Ngài giữ thái độ oai nghi lãnh đạm, cho đến khi bị đày qua đảo Rénion cùng
với vua Thành Thái (13/5/1916).
Cái chí khí kiêu hùng và bất khuất của vị vua 17 tuổi, nung thêm chí căm
hờn ngoại chủng của Ngài. Với khí thế tuổi trẻ, Ngài muốn vọt lên phá tan xiềng
xích nô lệ, để đòi lấy quyền sống và giải thoát gông cùm ngự trị trên giống
nòi. Nhưng tuổi nhỏ, Ngài đành chấp nhận hoàn cảnh, gia nhập phong trào Đông Du
năm 1907, khi vua Duy Tân nối ngôi, để mong học hỏi thêm kinh nghiệm tranh đấu
của nước người.
Phong trào Đông Du (1904-1907) do Kỳ Ngoại Hầu
Cường Để làm Minh chủ và hai nhà cách mạng Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
khởi xướng để nâng cao dân trí, bằng cách gởi các thanh niên du học ngoại quốc
nhất là Nhật Bản.
Tại sài Gòn phong trào Đông Du do hai ông Gilbert
Chiếu (tức Trần Chánh Chiếu) và Dương Khắc Ninh lãnh đạo. Các ông thành lập các
kinh thương hội như "Minh Tân công nghệ" và khách sạn "Nam
Trung" làm nơi lưu trú hội họp cho đảng viên. Ngài Phạm Công Tắc dù đang
theo học năm thứ hai trường Chasseloup-Laubat cũng lén bỏ học đến họp với anh
em.
Hai ông Gilbert Chiếu và Dương Khắc Ninh tập hợp
các đảng viên chia nhiều nhóm để xuất dương. Ba nhóm đã sang tới Nhật, Ngài
được ghi tên vào nhóm thứ tư. Lòng Ngài như mở hội, bao nhiêu mộng hải hồ viễn
phương kéo lũ lượt qua võng mô Ngài. Bút nghiên tạm xếp, hành trang sẵn sàng
chờ ngày lên đường. Đùng một tiếng phong trào bị khám phá. Mật thám đến tra xét
cơ sở Minh Tân công nghệ. Ông Dương Khắc Ninh đã lẹ tay hành động, tiêu hủy tất
cả hồ sơ và tài liệu nên không ai bị lôi thôi gì cả. Tuy nhiên, mật thám vẫn
chú ý, luôn theo dõi, dò xét các nhà lãnh đạo và chính Ngài cũng bị chúng để ý
và nhà trường lưu tâm. Buộc long Ngài phải nghỉ học về làng An Hòa (Tây Ninh)
tạm tránh sự dòm ngó của mật thám Pháp. Khi tình hình êm dịu, Ngài lại lăn mình
vào trường tranh đấu. Lần này Ngài hoạt động cẩn thận hơn, rồi tham gia viết
báo như : Công luận, La Cloche fêlée (Chuông rè) của Nguyễn An Ninh, La
voielibre … Tiếng nói tự do), Nông cổ Mín đàm, Lục Tỉnh Tân văn (Tờ Lục Tỉnh
Tân văn của ông Pierre Jeantet, ông Gilbert Chiếu làm chủ bút). Ngài cộng tác
thường xuyên với tờ này vì là đồng chí. Hơn nữa, ông Chiếu ngấm ngầm làm cơ
quan tuyên truyền chống Pháp và kích động lòng yêu nước của nhân dân rất đắc
lực. Các bài "Thượng bất chánh, hạ tắc loạn" (đăng ngày 12/12/1907),
bài "Dân tộc đoàn kết và thời đàm" (đăng ngày 23/1/1908) là những lời
thẳng thắng cảnh cáo nhà cầm quyền Pháp. Khi ông Chiếu bị bắt, tờ báo đình bản,
Ngài lại về quê.
Vì ảnh hưởng cách mạng và các Tiên Vương, về sau,
Ngài lập Báo Quốc Từ, bôn ba sang Nhật rước tro Cường Để, về Sài Gòn rước linh
vị Thành Thái và Duy Tân đem thờ nơi Báo Quốc Từ (gần chợ Long Hoa). Ngoài ra
cơ quan thông tin Cao Đài sưu tầm và phổ biến các hình ảnh Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Nguyễn Thái Học … Tất cả sự việc đó để tấm lòng nuôi dưỡng ý chí các
liệt sĩ bất khuất và di dưỡng vang bóng một thời của tuổi trẻ hào hùng.
Aâu cũng là thiên thơ dĩ định, mộng Đông Du không
thành, bạn bè cùng chí hướng mỗi người một ngã, Ngài chẳng lẽ ngồi đây nhìn quê
hương mỗi ngày thêm tan nát, hay chỉ biết làm bạn cùng cây cỏ gió trăng. Đêm
rằm tháng giêng năm Đinh Mùi, Ngài nhìn vầng trăng hư ảo mà khẽ ngâm bài
"Nhân nguyệt vấn đáp", rồi tâm thần dần dần tê mê theo cơn gió nhẹ
ru. Khi mở mắt ra Ngài đã lạc đến Thiên cung, rất có lợi cho cuộc đời hành Đạo
của Ngài sau này.
2/ - Thời trưởng thành :
Năm 1910, vì hoàn cảnh thanh bạch, Ngài vào làm thơ
ký Sở Thương chánh (Sài Gòn). Năm sau lên hai mươi mốt tuổi, Ngài vâng lệnh mẫu
thân thành lập gia đình với bà Nguyễn Thị Nhiều, hạ sanh được ba (?) người con,
hiện còn hai cô Phạm Hồ Cầm và Phạm Hương Tranh. Bà Hương Nhiều (tức Nguyễn Thị
Nhiều) đắc vị Chánh Phối sư, chưởng quản Nữ phái Phước Thiện, và cô Hương Tranh
thọ phong Giáo sư (là một phẩm chức sắc trong Cao Đài giáo).
Đời sống công chức không làm cho Ngài thích thú,
còn nếp sống gia đình điều điều buồn chán không trói buộc được Ngài. Ngài đam
ra mê lý tưởng hướng Đạo, "làm những việc thiện hằng ngày để giúp đỡ những
kẻ cô đơn xung quanh. Ngài giàu tình thương đời, nhất là những kẻ cô đơn trụy
lạc. Ngài đã làm một cử chỉ rất ý nghĩa. Đang làm công chức Sở Thương Chánh,
đồng tiền chẳng được dồi dào chi lắm, vậy mà Ngài dám vay nợ đặng giải phóng
một đoàn nhi nữ ra khỏi chốn thanh lâu, cho họ thoát vòng nhục nhã, được trở về
đời sống lương thiện, hưởng hạnh phúc gia đình". (Theo tiểu sử Hộ Pháp PCT
ấn hành 1954).
Người Pháp thấy Ngài có hành động khác thường, họ
liệt Ngài vào hàng có tâm huyết nên họ tìm cách đổi Ngài đi Cái Nhum (hậu
Giang) sau đó đổi ra Qui Nhơn (Trung phần), rốt cùng lại đổi về sài Gòn, để rồi
những ngày sẽ tới, Ngài hiến trọn cuộc đời cho Đạo Pháp.
3/-
Ngộ Đạo :
Vào năm Aát Sửu (1925) để tìm hiểu huyền vi và bí
mật Thiêng liêng, Đức Ngài cùng quý ông Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Cao Quỳnh
Diêu … họp nhau "XÂY BÀN" tại nhà ông Sang gần chợ Thái Bình. Vong
linh nhập bàn đầu tiên là cụ Cao Quỳnh Tuân (thân sinh của ông Cao Quỳnh Cư)
cho một bài thi bát cú thất ngôn. Trong các chơn linh giáng xuống cho thi phú,
có một vị không chịu xưng tên mà chỉ cho 3 chữ A, Ă, Â, (xin xem ĐAÏI ĐẠO SỬ
CƯƠNG cùng tác giả).
II/ - PHẦN ĐẠO
1/ - Thọ Thiên Phong :
mãi đến đêm 24 tháng 12 năm 1925, Ông A,Ă, mới cho
biết chính Ngài là Đấng Thượng Đế đến lập Đạo tại Nam Phương để giải thoát
chúng sanh, tá danh là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Vào ngày 25/4/1926 (14/3/Bính Dần) tại nhà Ngài Đầu
sư Thượng Trung Nhựt, Ngài thọ Thiên ân Hộ Pháp, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài,
đắc vị Thiên phong trước hết. Đức Ngài là người nắm cơ mầu nhiệm của Đạo, cả
luật của đời, xét xử chư Chức sắc Thiên phong và tín đồ, giữ dạ vô tư, tạo lập
bí pháp đưa các đẳng chơn hồn vào Bát Quái Đài để hiệp cùng Thần, Thánh, Tiên,
Phật.
2/ - Hành Đạo Kiêm Biên
(Kampuchia) :
Sau khi khai Đạo (14/10/Bính Dần) tại Thánh Thất Từ
Lâm, xảy ra việc tà quái ngoài ý muốn, nhưng người theo Đạo mỗi ngày một đông,
người Pháp dòm ngó, hăm he các Chức Sắc và lập hồ sơ đen các người theo Đạo.
"Riêng phần Bần Đạo là công chức, khi vâng
lịnh Đức Chí Tôn đến chùa Gò Kén mở Đạo, Bần Đạo có xin phép nghỉ 6 tháng đến
chừng trở lại làm việc, người ta đổi Bần Đạo lên Kiêm Biên. Nơi đó Bần Đạo vừa
làm việc vừa lo mở Đạo. Riêng phần mấy anh lớn trong hàng phủ, huyện bị người
ta dọa nạt đủ điều. Cả toàn con cái Đức Chí Tôn buổi nọ, còn lại có ba người.
Ba người ấy là Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng Phẩm và Bần Đạo. Chúng tôi
nhứt tâm nhứt trí quyết làm cho Đạo thành, cho vừa lòng Đức Chí Tôn"
(Trích bài thuyết Đạo ngày 13 tháng 10 năm Giáp Ngọ, 1954).
Nhờ làm việc tại Kampuchia mà Đức Ngài độ được Ngài
Tiếp Đạo Cao Đức Trọng, bấy giờ làm Phòng Chưởng Khế tại đây (1927), và anh em
vua Cao Miên là Sisowark qua trung gian Tổng Trưởng Sơn Điệp. Trong Hoàng Cung
hiện nay vẫn còn thờ Thiên Nhãn.
3/ - Xây dựng Tòa Thánh :
Công nghiệp lớn lao của Đức Ngài là xây dựng Tòa
Thánh. Đặt viên gạch đầu tiên năm 1933, qua năm 1936 mới khởi công xây cất và
đến năm 1941 công cuộc kiến trúc bên ngoài vừa hoàn thành. Nhưng chưa kịp trang
hoàng thì Đức Ngài bị lưu đày. Năm 1946, Đức Ngài trở về nước tiếp tục sửa
sang. Năm 1954 thì hoàn tất và lễ Khánh thành được tổ chức vào đầu tháng giêng
năm Aát Mùi (1955).
Đây là một công trình kiến trúc tân kỳ vĩ đại,
khiến cho người ngoại quốc thầm kính phục một khối óc vĩ nhân vượt hạn. Đền
Thánh dài 145 thước, rộng 40 thước, cao 36 thước về phía gác chuông Hiệp Thiên
Đài, 25 thước nơi Cửu Trùng Đài và 38 thước nơi Bát Quái Đài. Công trình tạo
tác đồ sộ nguy nga như thế mà Đức Ngài vẫn khiêm nhường cho rằng chỉ làm theo
lịnh dạy của Đức Chí Tôn ((1) Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu trữ).
4/ - Chưởng Quản Nhị Hữu Hình
Đài :
Sau khi Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt đăng tiên
(19/11/1934), vào ngày lễ Đại Tường (8/11/1935), một Đại Hội Đồng gồm Hội Thánh
và Hội Nhơn Sanh đồng bầu cử Đức Ngài cầm quyền thống nhất Chính Trị Đạo cho
đến ngày có Đầu sư Chánh Vị.
Từ đó Đức Ngài Chưởng Quản Nhị hữu Hình Đài, Hiệp
Thiên Đài và Cửu Trùng Đài hết lòng xây dựng nghiệp Đạo và đem phương sách hay
cho nhơn sanh.
5/ - Thời Pháp Nạn :
Vào ngày 23 / 7 / Canh Thìn (1940), lính mật thám
Pháp vào châu vi Thánh Địa xét giấy tờ và đóng cửa Báo Aân Từ.
Ngày 25/5/Tân Tỵ (1941), Chánh phủ Pháp ra lịnh cấm
công nhân tạo tác Tòa Thánh. Ngày 4/6/ năm đó, vào 8 giờ sáng, mật thám bắt Đức
Ngài. Ba ngày sau họ vào Tòa Thánh đuổi hết mọi người về tỉnh, về nguyên quán.
Chúng xung công tất cả Văn Phòng và chiếm đóng trong chu vi. Chúng đày Đức Ngài
sang Mã Đảo (Madagascar) trên chiếc tàu Compiège vào ngày 27/7/1941 cùng 5 vị
Chức Sắc. Trong chuyến tàu này ngoài Đức Ngài còn có các nhà cách mạng Nguyễn
Thế Truyền, Nguyễn Thế Sang … Khi đến Mã Đảo, Ngài và chư Chức Sắc bị giam đến
ngày 24/11/1944, mới được ra ngoài làm lụng.
Năm 1945, phe Đồng minh thắng, De Gaulle giải phóng
nước Pháp, Đức Ngài được đưa về Việt Nam ngày 1/10/1046. tính lại thời kỳ đồ
lưu hải ngoại là 5 năm, 2 tháng, 3 ngày.
6/ -
Việc thành lập Quân Đội Cao Đài :
Khi Đức Ngài trở về Tòa Thánh thì Quân Đội Cao Đài
đã lập từ năm 1945 với danh Nội Ứng Nghĩa Binh. Vì hoàn cảnh đất nước và đạo sự
lúc bấy giờ, Đức Ngài phải để quân đội thành hình và xuất quân ngày 8/1 ÂL
(1947).
"Quân đội các con thành lập đặng do toàn thể
trụ cả năng lực trên nền tảng Nghĩa Nhân, Đạo Đức. Ngọn cờ Cứu Khổ của các con
xuất hiện nơi nào thì nhân sanh nơi ấy đều phải đặng các con bảo vệ, cứu khổ
phò nguy mà làm rạng danh anh tuấn của non sông chủng tộc"
(trích bài huấn dụ các cấp chỉ huy Quân Đội Cao Đài
của Đức Phạm Hộ Pháp đầu xuân Giáp Ngọ 1954).
Trong bản tuyên ngôn tại Phnôm-Pênh, ngày 30/4/1956
Đức Ngài viết : "Khi Đức Bảo Đạo về nước, chính Bần Đạo đã giao trọn quyền
sử dụng Quân Đội Cao Đài cho Đức Ngài điều khiển trong hàng ngũ Quân lực Quốc
gia. Khi Đức Ngài đi Pháp mới tạm giao quân lực ấy lại cho Bần Đạo. Trong lúc
vắng mặt, Đức Ngài đã ra lịnh cho hai Chính Phủ Nguyễn Văn Tâm và Bửu Lộc thi
hành hợp pháp quốc gia hóa Quân Đội Cao Đài. Nhưng sự thi hành ấy kéo dài cho
tới ngày Chánh Phủ Ngô Đình Diệm thọ phong toàn quyền cũng chưa quyết định. Bần
Đạo buộc phải nhắc nhở và cầu cho Chánh Phủ Ngô Đình Diệm quốc gia hóa Quân Đội
Cao Đài một cách hợp pháp. Bần Đạo không buổi nào muốn giải quyết vận mạng nước
nhà với quân lực, mà chỉ dùng phương pháp Đạo Đức đặng đem hòa bình hạnh phúc
lại cho giống nòi mà thôi".
7/ - Chấn chỉnh các cơ quan
Đạo :
Đức Ngài lo chấn chỉnh nội bộ từ Cửu Trùng Đài, có
đủ 3 sắc phái (Đạo Nghị Định số 5), hiến thân hành Đạo, cơ quan Phước Thiện
thành Hội Thánh Phước Thiện có thập nhị đẳng cấp Thiêng liêng. Với toàn Đạo thì
Đức Ngài cho phá rừng lập chợ Long Hoa, một hình thức kiến trúc theo Bát Quái,
phố xá rộng rãi đường thênh thang dự trù cho hàng trăm năm sau. Công việc đang
tiến hành thì một biến động xảy đến cho Đức Ngài, niềm đau chung cho toàn Đạo.
8/ - Trên đất khách :
"Vào đầu tháng 8 năm Aát Mùi (1955), vị Tổng
Tư Lệnh Quân Đội Cao Đài, khi được Quốc gia hóa, ra lệnh thành lập Ban Thanh
Trừng, bắt nhiều đạo hữu giam cầm. Một số thiếu nữ trong Đạo cũng bị câu lưu
mấy tháng và bị ép buộc phải khai nhiều điều khiếm nhã cho Đức Ngài.
"Còn chính Đức Ngài cũng bị cầm lỏng tại Hộ
Pháp Đường chung quanh có quân đội võ trang canh phòng, từ 20 tháng 8 Aát Mùi
(1955) đến mùng 5 tháng 1 Bính Thân (1956). Vì quá đau buồn cho cảnh đồng đạo tương
tàn, Đức Hộ Pháp buộc lòng cùng nhiều Chức Sắc tùy tùng rời khỏi Thánh Địa lúc
3 giờ khuya ngày ấy nhắm thủ đô Miên quốc trực chỉ". (Trích diễn văn của
Đức Thượng Sanh, theo Đại Đạo nguyệt san số 5/64)
Việc ra đi được Đức Ngài tuyên ngôn như sau :
"Bần đạo buộc mình phải xuất ngoại đặng bảo
thủ tự do cá nhân của Bần Đạo, hầu đem ra một giải pháp mới mẻ có thống nhứt
hoàn đồ và chủng tộc là phương pháp Hòa Bình và Chung Sống".
Hành động rời Tổ Đình, không những để bảo vệ tự do
cá nhân để chủ thuyết của Đức Ngài được quảng bá sâu rộng trên toàn thế giới và
các giáo lãnh tôn giáo mà còn một sự hy sinh cao cả "tránh cảnh đồng đạo
tương tàn" như Đức Cao Thượng Sanh thuyết. Chẳng khác nào như Đức Jésus
Christ hy sinh trên Thập tự giá để cứu nhân loại. Người ta nói "Lấy nhục
làm vinh. Ở đây không hề có việc đó và Đức Chúa Trời cũng không hề làm như vậy.
Hy sinh mình để cứu người đó là hành động của vĩ nhân, của bậc cái thế siêu
phàm, của chơn linh có nguyên động lực mạnh. Phải lấy cái nhìn của một triết
nhân, của hàng cao đồ mới thấy sự ra đi của Đức Ngài ngụ nhiều ý nghĩa mà người
phàm khó hiểu được (ù Xem thêm "Chân dung Hộ Pháp Phạm Công Tắc" cùng
người viết).
9/ -
Trở về ngôi xưa cảnh cũ :
Dù sống trên đất Chùa Pháp an toàn, nhưng lúc nào
Đức Ngài cũng hướng về quê hương khói lửa, đang bị súng đạn dày vò. Lòng chịu
đựng có hạn, mà đời người lại có tuổi. Mặt khác Đức Chí Tôn có lẽ định đem Đức
Ngài giúp ích cho Đạo nhiều hơn. Thế nên, ngọa bịnh không bao lâu, Đức Ngài
liễu đạo nhằm mùng 10 tháng 4 Kỷ Hợi (17-5-1959), hưởng thọ 70 tuổi.
Việc qui Thiên của Đức Ngài được đài Thông Thiên
Học chứng nhận và thông báo trên mặt báo cho toàn thế giới biết. Ngay khi thi
thể chưa liệm Đức Ngài giáng cơ cho bài thi nhiều ẩn ý sau :
Trót
đã bao năm ở xứ người,
Đem
thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi cũng đủ rồi.
Nhớ
tiếc sức phàm thừa chống chỏi
Buồn
nhìn cội Đạo luống chơi vơi
Rồi
đây ai đến cầm chơn pháp
Tô
điểm non sông Đạo lẫn Đời.
THIÊN
TÍNH CỦA ĐỨC HỘ PHÁP
Thánh Ngôn thưở khai Đạo, Đấng CHÍ TÔN có lần hỏi
Đức Hộ Pháp : "Tắc! Thầy lấy tánh đức con mà lập Đạo được chăng ?".
Xem vậy, tính đức của Đức Ngài thật quan trọng tác dụng trong nền Tân Tôn Giáo.
Một Thánh nhân giáng trần có hai tính đức "một
là nhân tính, hai là Thánh tính." Nhân tính là tính làm người ở thế gian
vì mang thi phàm. Thánh tính là tính thiên định cho chơn linh khi lâm phàm. Dù
Đức Ki Tô cũng phải mang hai tính đức đó, nên Ngài ba lần bị quỉ Satan thử
thách mới đạt Đạo. Nếu không có nhân tính mà chỉ có thiên tính của Trời thì quỷ
vô thường làm sao dám bén mảng tới. Trường hợp Đức Hộ Pháp cũng vậy, vì mang
thi phàm mà phải chịu bao nhiêu thử thách để xứng đáng trở về ngôi xưa cảnh cũ.
Nhân tính của Đức Ngài phảng phất nhiều hương vị
hiền triết của Thánh Gandhi, Socrate, Ki Tô, Khổng Tử, Nostra-Damus … Bởi Đức
Ngài đã nghiên cứu về đời sống của các bậc siêu nhiên vũ trụ này. Bằng chứng là
lúc còn sanh tiền, ngoài lịch kỷ niệm Đạo, Đức Ngài còn cho thiết lễ kỷ niệm
các vị trên. Do đó vô hình trung con người của Đức Ngài được chung đúc qua các
Thánh chất đó, trở thành bát tính sau :
1/ -
Hy sinh thân thế và chịu đựng tù đày mưu tìm hạnh phúc nhân sanh:
Đức tính đầu tiên của Đức Phạm Hộ Pháp là hy sinh
và chịu đựng. Hy sinh một người để cứu trăm họ, chịu đựng một mình để cứu vớt
lấy sinh linh. Đó là gương hy sinh và chịu đựng của bậc Thánh nhân. về điểm này
đức tính của Đức Ngài phảng phất tư chất của Thánh Gandhi (1869-1946). Thánh
Cam Địa sinh ra đời thì nước Aán dưới sự đô hộ của người Anh. Ngài theo học
trường Anh đỗ Tiến sĩ Luật khoa nhưng chống lại sự áp bức của người Anh. Đến
thế chiến thứ I (1914-1918) trước lời hứa hẹn của chính phủ Anh, Gandhi hô hào
đồng bào đầu quân giúp chính quốc. Khi chiến tranh kết liễu, Anh quên lời hứa.
Gandhi đứng ra lãnh đạo phong trào quốc gia Aán, đề ra chính sách bất bạo động,
bất hợp tác, năm 1919, Anh ban bố hiến chương Aán Độ (India Act), dân Aán bất
mãn theo Gandhi chống Anh. Gandhi bị hạ nhục từ tháng 3/1922 tới tháng 2/1924.
Cuối cùng Gandhi bị bọn quá khích ám sát chết và đất nước vẫn còn chia Aán Hồi.
Cuộc đời Đức PHẠM HỘ PHÁP cũng hạ sanh lúc thời
Pháp thuộc và chống Pháp. Đến thế chiến thứ hai (1939-1945) theo lời hứa của
chánh phủ Pháp, Đức Ngài kêu gọi toàn Đạo đầu quân giúp Pháp và cũng bị Pháp
cầm tù ở Mã Đảo (1941-1946) trên năm năm.
Điều phi thường là cả nhị vị không ai giữ địa vị
cao trọng nào trong chính phủ và cũng không là chính khách nắm vận mệnh quốc
gia. Gandhi nói : "Tất cả những nhà Tôn giáo mà tôi gặp đều là những chính
trị gia trá hình. Tuy nhiên, tôi là người mang lớp áo chính trị, nhưng là một
nhà Tôn giáo". Nhờ lòng tin vào tôn giáo đã thúc giục ông nhận lấy hoạt
động chính trị.
Biết hy sinh và hy sinh đúng lúc là một việc hết
sức khó. Nếu không chịu đựng nổi những nhục nhằn, những tiếng thị phi mà quyên
sinh thì còn chi là một người. Trên năm năm chịu đựng ở Mã Đảo, mấy tháng bị
thanh trừng (1956) nhục nhằn nơi Hộ Pháp Đường, nếu không là bậc Thánh nhân, vì
sự liêm sĩ nhất thời, không liệu chước gỡ rối được thế tình thì danh dự của một
người dù muốn hay không cũng không bị sứt mẻ.
Chủ thuyết của Thánh Gandhi như quan niệm về quốc
gia của Đức PHẠM HỘ PHÁP : Chủ nghĩa quốc gia của chúng ta không thể làm hại
quốc gia khác, cũng như chúng ta sẽ không phá hoại ai, ngược lại không ai có
thể phá hoại chúng ta. Đức Ngài còn đi xa hơn phác họa một thế giới đại đồng
không biên giới, trong đó mọi sắc dân mọi tôn giáo sinh hoạt bình đẳng.
2/ -
Hành động tích cực và tận tâm :
Đức tính thứ hai của Đức PHẠM HỘ PHÁP là hành động
tích cực, quả quyết. Đề xướng một việc nhất định phải đi đến kết quả tốt và
nhất định vận dụng mọi kế hoạch để thực hiện cho kỳ được, tìm việc chứ không
đợi việc. Nếu không có đức tính đó thì chắc Tòa Thánh xây dựng không xong.
Không tiền, không vật liệu mà công thợ phải trường chay tuyệt dục, thì thử hỏi
không tận tâm và tích cực làm việc, tổ đình đồ sộ kia làm sao hoàn thành.
Thái độ tích cực này giống Théodore Roosevelt
(1858-1919) Tổng Thống Hoa Kỳ. Ông là một người tích cực, hoạt động không ngừng
và ăn nói hoạt bát, một người thợ đúc hình dung từ chua chát. Ông có ý kiến
trong hầu hết các vấn đề trên mọi địa hạt và diễn tả với khí phách như thác lũ.
Đức Phạm Hộ Pháp giống Roosevelt ở chỗ tích cực và phê kiến trong mọi vấn đề.
Sự kiện này, ai có đọc tập "Lời phê của Đức Phạm Hộ Pháp" thì rõ, từ
việc nhỏ như đắp dường đến việc chính trị Đạo to lớn, nơi nào cũng có Đức Ngài
ghé mắt. Nhưng khác hơn Roosevelt là không bao giờ dùng ngôn từ chua chát.
Trong hai tháng chấp chánh quyền Tổng Thống các công văn do Ông ký có thể nối
từ Mỹ Quốc đến Việt Nam, thì Đức Phạm Hộ Pháp, sau khi tái quyền chấp chánh từ
Mã Đảo về, Đức Ngài đã ban hành số Thánh lịnh và Thánh Huấn đáng kể (lưu giữ
tại Ban Đạo Sử).
3/ - Óc sáng tạo huyền bí :
Một tôn giáo có hai chánh pháp: thể pháp và bí
pháp. Thể pháp là hình thể bề ngoài, còn Bí pháp là huyền nhiệm thiêng liêng
bên trong. Thiếu một trong hai phép đó thì không là Tôn giáo.
Đấng CHÍ TÔN lập Đạo cứ trên tính đức của Đức Phạm
Hộ Pháp thì Ngài cũng giao Bí pháp Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nơi tay Hộ Pháp. Vào
năm 1948, Đức Ngài đã bỏ ra thời gian khá dài để giảng về Bí pháp của Đạo, được
các ký tốc viên ghi chép và in thành tập.
Ngoài ra, Đức Ngài còn tuyên bố nhiều yếu ngôn quan
trọng về nền Đạo, như về chính trị Việt Nam và Thế Giới. Những tài liệu tản mạn
và có thể thu thập thành "sấm Đại Đạo". Tác giả kêu gọi những tín hữu
biết hoặc giữ những tài liệu này xin liên lạc với "Nhóm Văn Hóa Đại
Đạo" để hầu làm sáng đường lối của Đức Ngài.
Tập tài liệu này, nếu thành hình chẳng thua gì
"Sấm Trạng Trình" của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ NGUYỄN BỈNH KHIÊM hoặc tập
"Centuries" của Nostradamus (1503-1566), nhà tiên tri nước Pháp thế
kỷ XVI.
Đức Ngài nắm giữ bí nhiệm các kiến trúc xây cất Tòa
Thánh, Thánh Thất, Báo Aân Từ, Điện Thờ Phật Mẫu. Những chi phái đã chấp nhận
giáo lý Đại Đạo cũng không thể phủ nhận về hình thể các thể thức kiến trúc.
Chưa kể đến, Đạo Cao Đài được phổ quát và truyền bá trong dân chúng là do cập
cơ Cao Thượng Phẩm và Phạm Công Tắc đã phong Thánh tất cả những tướng súy,
những Tông Đồ đầu tiên của nền Đại Đạo.
Rồi từ đó, vì lý do này hoặc lý do khác, các Tông
đồ đó lập Hội Thánh riêng, nhưng không thể chối bỏ Tân Luật và Pháp Chánh
Truyền, cũng do nơi cập cơ này viết ra và cũng chính Đức Phạm Hộ Pháp được lịnh
Ơn Trên chú giải.
Bí pháp Đại Đạo có đâu là một trò đùa, tặng ai thì
tặng, ban ai thì ban, mà phải xứng đáng địa vị cao trọng giữ mình thanh cao
trong sạch. Đấng CHÍ TÔN đã giáng dạy : thà làm một tín đồ trọn nhiệm còn hơn
mũ cao áo rộng mà phạm luật Thiên Điều.
4/ - Chịu nỗi thống khổ và
oan nghiệt của một người.
Vì còn mang thi phàm xác thịt thì còn bao nhiêu thử
thách và thọ khổ của một kiếp người. Như Đức Ki Tô bị quỉ Satan khai chiến ba
lần. Lần thứ nhất Satan vấn nạn : "Nếu ông là con Thiên Chúa hãy truyền
những hòn đá này trở thành bánh đi". Ngài đáp rằng: "Người ta không
sống bằng bánh, nhưng bằng mọi lời, bởi miệng Thiên Chúa phán ra". Satan
mở chiến dịch thứ hai : "Nếu ông là con Thiên Chúa hãy gieo mình
xuống". Chúa Ki Tô đáp : "Ngươi chớ thử Chúa là Thiên Chúa ngươi"
và lần thứ ba nó đem Ngài lên một núi rất cao, cho xem tất cả các nước trên thế
gian với những vinh quang trần thế và bảo Ngài rằng : "tất cả những vinh
quang phú quí đó ta sẽ cho Ông, nếu ông quỳ xuống lạy ta". Đức Jésus đáp :
"Hỡi Satan hãy cút đi vì có lời chép rằng : ngươi sẽ thờ phượng chính Chúa
là Thiên Chúa của ngươi". Kết quả là ác quỉ bỏ Ngài và Thiên Thần hiện ra
hầu hạ Ngài.
Đức Ki Tô chỉ chịu đựng và truyền Đạo trong ba năm,
còn Đức PHẠM HỘ PHÁP phải chịu lắm nỗi nhọc nhằn từ năm 1926 đến năm 1959, ánh
vinh quang chỉ lóe vào khoảng 1950-1955. Ngay từ ngày khai Đạo, trong bài
thuyết Đạo năm 1954, nhân lễ kỷ niệm Đức Quyền Giáo Tông, Đức Hộ Pháp nói :
"Khi vâng lệnh Đức CHÍ TÔN đến Gò Kén mở Đạo, Bần Đạo có xin phép nghỉ sáu
tháng (vì công chức). Đến chừng trở lại làm việc, người ta không cho Bần Đạo ở
Nam Việt nữa, đổi Bần Đạo lên Kiêm Biên. Nơi đó, Bần Đạo vừa làm việc, vừa mở
đạo mục đích làm thế nào cho Đạo chóng thành tựu.
"Từ
khi lập Đạo chịu khổ hạnh truân chuyên, chịu nhục nhãø, chịu mọi điều thống
khổ".
Rồi đến năm 1941, Đức Ngài bị chánh phủ Pháp bắt đi
an trí ở Di Linh, Sơn La, sau cùng đày sang Mã Đảo (Phi Châu) ròng rã 5 năm 2
tháng 3 ngày.
Trong thời gian đó, các Đấng có giáng cho Ngài bài
thơ sau :
BÀI 1
Hòn
đảo này đây trước nhốt tù,
Mà
nay làm khám khảo thầy tu.
Quả
như oan nghiệt vay rồi trả,
Thì
lũ Tây Man, Nhựt Bổn trừ.
BÀI II
Nô
xi Lao (1), tiếng đặt buồn cười,
Mi
đã rước ai hỡi hỡi ngươi.
Lượng
thảm bủa ghềnh tình ột ạt,
Gió
sầu xo đảnh ái tơi bời.
Yêu
phu, điểu gọi thương cành tím,
Giọng
ngạn, quyên khêu gợi buổi mơi.
Tổ
quốc đon đường bao dặm thẳng,
Đưa
xa thăm thẳm một phương trời.
(NOSY-LAVA một
đảo nhỏ ở về phía Tây Bắc Madagascar)
Năm 1946, Đức Ngài hồi loan, tái thủ quyền hành.
Đến năm 1955 xảy ra biến cố "Số là đầu tháng 8 năm Aát Mùi (1955) vị Tổng
Tư Lệnh Quân Đội Cao Đài do chính tay Đức Hộ Pháp thành lập, khi đã được quốc
gia hóa, ra lịnh lập "Ban Thanh Trừng" bắt nhiều đạo hữu giam cầm.
Một số thiếu nữ trong Đạo cũng bị câu lưu mấy tháng và bị ép buộc phải khai
nhiều điều khiếm nhã cho Đức Ngài.
"Còn chính Đức Ngài cũng bị cầm tại Hộ Pháp
Đường, chung quanh có quân đội võ trang canh phòng, từ 20 tháng 8 năm Aát Mùi
(1955) đến mùng 5 tháng Giêng năm Bính Thân (1956)". (Thuyết Đạo của Đức
Cao Thượng Sanh đọc nhân ngày lễ Triều Thiên Đức Phạm Hộ Pháp năm 1964, trích
theo Đại Đạo nguyệt san số 5/64).
Việc trên, chẳng khác nào Juda bán Đức Jésus cho
bọn giáo trưởng Caiphe. Một lãnh tụ Tôn Giáo mà bị chính tín đồ mình bêu xấu
thì thử hỏi đứng vị trí phàm nhân, thiếu độ lượng có lẽ xảy ra điều gì khác hơn
là tấm lòng đại độ phản tỉnh ra đi. Một đòn hằn tâm lý hết sức cao nhã. Nếu
những ai còn chút lương tri, còn chút hương vị đạo đức, chắc chắn không khỏi
tòa án lương tâm xét xử. Còn được sống lâu thì càng day dứt nhiều, càng tiếc
một hành động vội vàng, vị kỷ, quên hẳn nghiệp đạo chung, quên hẳn vị đại diện
tôn giáo mà bao nhiêu tín hữu đang thờ kính. Kính Đạo phải kính Thầy, không
Thầy thì ai giữ Đạo cho ta kính.
5/ - Người của bình dân :
Điều này quá hẳn nhiên, vì "ngày nay Thầy đã
khai Đạo nơi Đông Dương là cực đông của Á Châu, mà lại khai nơi xứ Nam Kỳ là xứ
thuộc địa, dân tộc yếu hèn, ngu xuẩn. Aáy là do nơi thiên cơ tiền định cả muôn
năm, lại để thưởng cái lòng tín ngưỡng của người Nam từ thử". (Bài thuyết
Đạo của Đức Quyền Giáo Tông năm 1933).
Đức CHÍ TÔN đã chọn hàng bình dân Việt Nam để giáo
Đạo và chọn hạng trung lưu để lãnh đạo. Hạng bình dân tấm lòng trong sạch, cơ
hàn đáng được đặc ân. Nhóm trí thức thì ảnh hưởng nhiều Tây Phương, phóng túng,
thái quá và nhiều thủ đoạn, mưu lược. Sự hiện diện của họ nhiều khi chỉ là sự
dựa thế hơn là sùng Đạo, vì Đạo mà cầu. Đức Phạm Hộ Pháp tuy xuất thân trong
đám trung lưu, nhưng lại đứng về phe bình dân, Đức Ngài thường nói "Không
cần người giỏi, chỉ cần biết làm và chịu làm là được". Sở dĩ, Đức Chí Tôn
thay vì chọn bậc bác học thông thái để giáo Đạo, lại chọn hàng trung lưu và
bình dân mà giáo, là để cho thế gian thấy rõ quyền năng của Đức Chí Tôn, bằng
không đời sau với tật sùng bái cá nhân sẽ cho rằng Đạo Cao Đài do các bậc thông
thái ấy bày ra chớ không phải Trời lập.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét