Mười Hai Đệ Tử Đầu Tiên Của Đạo Cao Đài - 2 / 2 (HT. Trần Văn Rạng)


Đức Phạm Hộ Pháp còn coi các thợ hồ, nông phu là con của Thượng Đế. Trong một lời phê năm Tân Sửu, Đức Ngài viết :
"Qua đã biết trước thế nào trong mấy em cũng có đứa ngồi ngục. Gấm bị trước vì Phối Thánh Thoại muốn cho nó trả quả đối với Thánh lúc ở phàm. Đáng kiếp, Gấm đã đụng đầu xe lửa, cũng như mẹ con Út Giáp đụng đầu xe lửa Màng (cũng Phối Thánh) buổi trước vậy. Mấy em ráng cẩn thận coi 

chừng đừng ăn hiếp mấy ông Thánh ẩn thân bất ngờ, phải ngồi cửa Phong Đô mà khóc đa nghe". Việc này, trùng hợp với việc Thánh Gandhi nâng đỡ giai cấp paria, cùng đinh của Aán Độ, hết lòng thương họ vì họ không được Nhà nước đối xử bình đẳng, bị ghét bỏ, cho là cặn bã của xã hội. Thánh Gandhi cho họ là "Con của Thượng Đế". Nhờ đó mà xóa bỏ được thành kiến giai cấp ở Aán quốc.

Đức Phạm Hộ Pháp trong câu văn ngắn đã nhắc lại 2 lần "đụng đầu xe lửa". Thật vậy, nhóm bình dân, thợ thuyền khác nào xe lửa. Nhất là quý ông Bùi Aùi Thoại, thợ hồ đấp vẽ và Phạm Văn Màng công quả tạo tác Đền Thánh. Họ là những người như chiếc xe lửa đã định hướng, chỉ biết đi về một phía. Ai có đàn áp, chửi mắng thế nào, họ vẫn giữ lòng đạo đạo đức để làm công quả. Khi mới ra đời nhị vị này hiển Thánh. Đức Phạm Hộ Pháp mới cảnh tỉnh cho những ai lấy quyền tước, khôn ngoan khinh khi kẻ nghèo hèn bình dân, rồi thế nào cũng bị trả quả nhãn tiền.

6/ - Có hấp lực mãnh liệt :
Đức Ngài có một nhân điện mãnh liệt và một sức lôi cuốn trong thuyết Đạo. Ngoài cái khẩu khí của một chơn linh lâm phàm, Ngài còn am tường thủ thuật nói trước công chúng và "phương pháp của Socrate" là đặt những câu hỏi làm thế nào cho khách bàng quang chỉ có thể đáp có mà thôi. Chính nhờ vậy, đến ngày nay, chưa thấy ai phản đối hành động của Đức Ngài chỉ trừ biến cố thiếu suy (?) cuối năm 1955.

Nhờ có giọng nói ôn tồn mà Đức Ngài thuyết Đạo ròng rã hàng tháng về "Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống" và "Bí Pháp" vào ban đêm. Đêm nào cũng đông chật tín hữu, giờ mà mọi người ngoại Đạo đang yên giấc. Nếu không có một mãnh lực hấp dẫn lôi cuốn được người nghe, mấy ai có thể theo dõi được những đêm triền miên thuyết giảng đó.

Nhân điện của Đức Ngài mạnh đến nỗi kẻ đối diện, đừng nói đến tín đồ, ít dám nhìn thẳng tạng mặt. Lời Ngài xuống là răm rắp làm theo, dù là Chức Sắc Đại Thiên Phong đương quyền. Tất cả kính mà hành theo, chớ không phải sợ. Bởi vì kính, dù Đức Ngài đã qua đời mà không ai dám cải sửa điều gì còn nếu vì sợ mà làm theo thì khi Ngài triều Thiên chắc người ta sẽ bơi móc và chối bỏ những di sản của Đức Ngài. Sự kính trọng ấy thành khối và trở thành ấn tượng trong đầu mỗi tín hữu, coi lời Đức Ngài nói là một định đề hằng đúng.

7/ - Công bình và chính trực :
Đọc những lời phê bình của Đức Phạm Hộ Pháp về việc Đạo, ta thấy rõ đức tính công bình và chính trực. Hai đức tính này ảnh hưởng nơi Nho Giáo, cách hành xử đối với các tông đồ của Đức Khổng Phu Tử.

Ngày 17/3/Nhâm Thìn, Đức Ngài phê về việc đánh lộn như sau : "Xem rõ vụ đánh lộn đã nêu gương xấu cho đám trẻ nơi Long Hoa Thị do một vị Lễ Sanh và một Giáo viên trường Đạo Đức. hai người như thế mà làm gương như thế. Lễ Sanh Hoàng đã dạy đàn em đánh lộn võ sĩ chớ không phải một vị Lễ Sanh của Hội Thánh. Hoàng không nên phận đàn anh có đâu làm Chức sắc.

"Giáo viên Thới là một giáo viên dạy dỗ đoàn thiếu sinh trong trường Đạo Đức mà thô lỗ, không lễ nghi khiêm tốn, hỏi dạy sắp nhỏ học gì ?

"Bần Đạo định án ;
"Ngưng chức Lễ Sanh trong 6 tháng và buộc phải cầu khẩn một vị Đại Thiên Phong cho phục vụ và bảo lãnh giáo Đạo cho Hoàng trong 6 tháng mà không thuần nết thì sa thải xuống hàng tín đồ. Giáo viên Thới thì không cho dạy nơi trường Đạo Đức nữa và nếu từ nay còn sanh sự với ai nữa là bị đuổi ra khỏi Thánh Địa".

Đức Ngài lại phê về việc cầu xin chế giảm phẩm Thính Thiện và Hành Thiện thuộc cơ quan Phước Thiện :
"Đạo luật chơn pháp của Đức CHÍ TÔN đã dạy, không được phép chế sửa. Nam phái thật hành chơn pháp, đúng lý ra Nữ phái cũng tùng Nam Phái mà thật hành luật định. Nghĩ lúc ban sơ, nếu thi hành y luật thì phải thất phận, nên Bần Đạo chế giảm cho Nữ phái mà thôi".

Đức Ngài đã áp dụng đúng câu : "Tư vô tà" của Nho Giáo và nhất định hành luật Nho Tông chuyển thế tức lấy công bình chánh trực mà an trị thiên hạ.

8/ - Khoan hồng và từ bi đại độ :
Nói đến khoan hồng và từ bi là nói đến tấm lòng, nói đến cái tâm của nhà Phật. Đức Hộ Pháp chơn linh là Hộ Pháp Di Đà. Dù gặp kỳ Nho Tông chuyển thế, nhưng là một Đấng tu hành, Đức Ngài vẫn hằng thương con cái của Đức CHÍ TÔN, hạ mình mà dìu dẫn toàn chư môn đệ.

Năm 1955, Quí Ngài Thái, Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư cầu xin Đức Hộ Pháp truy phong tướng Trình Minh Thế vào phẩm Thế Đạo, Đức Ngài phê như sau : "Truy thăng Trình Minh Thế vào hàng phẩm Quốc Sĩ và đặng thờ nơi Báo Quốc Từ cùng Đức Thành Thái và Đức Kỳ Ngoại Hầu Cường Để".

Xem vậy, không những phong tặng phẩm vị Quốc Sĩ đầu tiên Thế Đạo mà còn đặc ân cho thờ chung các vì vương thì rõ lòng yêu mến người chiến sĩ của Đức Ngài như thế nào !

Khi Hội Thánh Phước Thiện trình về việc Ông Giáo Thọ Nguyễn Văn Tường, đại diện Ông Đạo Nằm, Phật Giáo Thiền Lâm (Long Xuyên) xin về hiệp nhứt vào Phước Thiện, Đức Ngài phê :
"Cửa từ bi Phước Thiện vẫn mở rộng. Nhứt là Phạm Môn là nơi hội ngộ của Cửu Thập Nhị ức Nguyên nhân, thì có chi ngăn trở sự hiệp nhứt của các Đạo mà xin làm gì. Cứ thong dong vào cửa đặng lập vị mình.
"Bần Đạo lấy làm vui đẹp và hân hạnh mà tiếp đón họ chỉ khuyên họ đừng quá mê tín mà thôi."

Do phúc trình số 329/PT ngày 7/11/1952 dâng lên Đức Hộ Pháp về việc Thiếu Tá Khanh xin nhường chức Lễ Sanh cho thân phụ là Cựu Chánh Trị Sự Đỗ Văn Cầm, 73 tuổi, được Ngài phê :
"Phê y và tư cho quyền Ngọc Chánh Phối Sư lập Thánh Lịnh ân phong cho cụ Đỗ Văn Cầm vào hàng Lễ Sanh phái Ngọc (Hàm phong). Còn Thiếu Tá Khanh chỉ là một vị tín đồ mà thôi.
"Bần Đạo để lời khen lòng hiếu thảo của Khanh đáng ghi nơi Đạo Sử".

Đại Đạo không phải là nơi nhường tước phẩm thiêng liêng. Đây là trường hợp biệt lệ. Thứ nhất, cụ Cầm đã là Cựu Chánh Trị Sự, tức đủ điều kiện lên Lễ Sanh. Thứ hai, cụ đã 73 tuổi không biết thăng Thiên lúc nào, có thể không đợi Hội Nhơn Sanh phán xét kịp. Đây chỉ có "phụ từ, tử hiếu" lòng hiếu thấu động đến lòng Trời mà thôi.

Bát tính trên xin tóm lược bằng câu : "Tâm vô quái ngại, đại hùng, đại lực, đại từ bi".

ĐỆ TỬ THỨ MƯỜI HAI
CAO QUỲNH CƯ
(1887-1929)

MỘT NGƯỜI ĐỨC HẠNH
(1887-1924)

Miền sông dài núi thẩm Tây Ninh được Đại Nam Nhất Thống Chí ghi là : Tứ tân phù khánh, giang thủy đắc chung, một miền rất thuận cho đạo pháp và có mầu nhiệm phát sinh.
Vào mùa thu năm Mậu Tý (1887) một chơn linh do khí thiêng chung đức giáng phàm. Đó là Cao Quỳnh Cư hạ trần vào năm Đồng Khánh thứ hai, bên nhánh sông Vàm Cỏ Đông, chảy về làng Hiệp Ninh, tỉnh Tây Ninh.

Ngài là con ông Cao Quỳnh Tuân và bà Trịnh Thị Huệ (đắc phong Giáo sư, một cấp chức sắc của Cao Đài giáo, năm 1927). Cụ ông là Cai Tổng Hàm Ninh Thượng (qui vị trước khi Ngài Cao Quỳnh Cư ngộ đạo). Nhờ đó, Ngài thọ bẩm khí chất của thân sinh nên tính tình điềm đạm, nho phong, "nối dòng trâm anh, vốn nhà thi lễ, phẩm hạnh mực thước, tính chất siêng năng, học hỏi thông minh, thành danh khi tuổi trẻ. Lúc ở thế xử tròn nhân đạo" (Theo bia kỷ niệm Đức Cao Sĩ Thượng Phẩm). Bởi lẽ, Ngài đối xử rất khoan hòa tử tế với các bạn đồng sở, việc nào có thể giúp được là giúp ngay, không câu nệ, rất mực thương yêu bằng hữu, không khinh thường ai. Dù có một người nào làm phật lòng Ngài hoặc sai lệch ý kiến của Ngài, Ngài từ tốn giải bày hoặc cười nhẹ nếu thấy không cải sửa được.

Vào năm 1907, Ngài thành lập gia đình với bà Nguyễn Thị Hiếu (thọ phong Giáo Sư năm 1927, thăng lên Đầu Sư năm 1968, chức sắc cao nhất bên Nữ phái và qui vị ngày 3-6-1971. Nếu phải kể Đầu Sư chánh vị lúc còn sanh tiền thì bà là người thứ nhứt, vì bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh lúc qui vị rồi mới được Đức Chí Tôn ân tứ, còn bà Hương Lự chỉ là Đầu Sư hàm phong). Hai năm sau khi lập gia đình bà sanh được 1 người con trai là Cao Quỳnh An. Cậu An khi trưởng thành du học tại Pháp, nhưng chưa thành danh thì qua đời.

Năm 1915, Ngài vào làm thư ký Sở Hỏa Xa Sài Gòn và đưa gia đình xuống ngụ ở 134 Bourdais (nay là calmette, Sài Gòn). Đời công chức xuôi dòng trên 10 năm lên đến ngạch cò mi, được triều đình Huế ban cho huy chương Kim Tiền đệ tam hạng (sapèque d'honneur) năm 1925, thì ngộ đạo, rồi có ý định bỏ sở làm. Các bạn đồng sở thấy Ngài chưa tới tuổi hưu trí, nếu đi hành đạo lấy tiền đâu để chi dụng, mới khuyên Ngài :

- Thầy tư, sao thầy quá tin dị đoan, con còn đang học bên Pháp, mà Thầy đi như vậy thì việc học của con phải dở dang sao ?

Đã quá suy tư giữa hai con đường đời và đạo phải chọn một. Kiếp phù sinh có bao nhiêu, tạo tiền tài danh vọng thì phải bất chánh, càng chồng chất thêm tội lỗi, lúc chung qui vẫn trắng tay. Ngược lại đường đạo an ủi vỗ về tinh thần con người thơ thới khỏi bon chen trục danh cầu lợi, lại là cơ cứu khổ siêu độ cho toàn thể nhân loại : hơn là quanh quẩn với đầu óc hẹp hòi chỉ nghĩ đến tư lợi cho cá nhân và gia đình. Tất nhiên Ngài chọn con đường vĩnh cửu, loại bỏ cái hào nhoáng nhất thời của thế sự, thế nên Ngài lẳng lặng không đáp, chỉ nghe theo tiếng gọi của thiêng liêng, dù một mai bị khảo đảo ngần nào cũng không thối thân lui bước.

NGỘ ĐẠO VÀ ĐẮC PHONG THƯỢNG PHẨM
(1925-1926)

Năm Ất Sửu (1925) là năm việc xây bàn hay "sai ma" rất thịnh hành trong các giới tại miền Nam Việt Nam, nhất là tại Thủ Đô Sài gòn.

Trước hết, vì sự háo kỳ mà ba ông bạn chí sĩ Cao Quỳnh Cư (sau đắc phong Thượng Phẩm), Phạm Công Tắc (sau đắc phong Hộ Pháp) và Cao Hoài Sang (sau đắc phong Thượng Sanh) mới nghĩ ra việc xây bàn để tiếp chuyện với những người khuất mặt, thế giới bên kia. (Theo Đạo Sử cơ bút của Trương Hiến Pháp).

Do đó, vào ngày 25/7/1925 (ngày 5/6/Aát Sửu) hai Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đến nhà Ngài Cao Hoài Sang bên cạnh chợ Thái Bình (phố hàng dừa Sài Gòn) để thăm viếng và hàn huyên tình đời thế sự. Càng lúc càng khuya, vì thần linh thúc giục, các Ngài mới nghĩ đến việc xây bàn. Ba Ngài đem ra trước hiên nhà một cái bàn vuông bốn chân (bàn này hiện để tại Nữ Đầu Sư Đường) kê cho 1 chân hỏng đất rồi đồng để tay lên bàn khấn vái. Lúc sơ khởi gặp nhiều khó khăn, ba vị đốt nhang khấn nguyện từ 21 giờ tối đến 2 giờ đem, có nhiều vong linh nhập bàn viêt tiếng Anh, Pháp và Hoa ngữ, cũng có một vong linh học sinh Hà Nội viết tiếng quốc ngữ. Cái bàn gõ khi chững chạc, khi lựng khựng, dường như có nhiều vong linh tranh nhau để nói chuyện. Do đó, các Ngài nản lòng ngưng xây bàn.

Việc xây bàn thật vất vả vì chỉ có khẩu ước với các Đấng vô hình trong vần quốc ngữ. Như nhịp 1 cái là "A", hai cái là "Ă" và ba cái là "Â" … Khi chân bàn ngừng lại chỗ nào thì người ngồi biên chữ ấy (người ngồi ngoài lúc bấy giờ là bà Nguyễn Thị Hiếu) rồi nhiều chữ ghép lại thành 1 tiếng, nhiều tiếng mới ghép lại thành lời văn hay câu thơ. Nhưng về sau nhờ thuần điển và quen việc nên sự tiếp chuyện với các Đấng Thiêng liêng càng mau lẹ và dễ dàng.

Qua đêm thứ nhì (26-7-1925), ba Ngài lại xây bàn, đúng 24 giờ có một vong linh nhập bàn, nhập bàn ráp thành bài thi bát cú Đường luật.

THI
Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa lên ước đặng người.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép
Tình thương căn dặn gắng tâm đời
Bên màn đôi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.
                                               Ký tên CAO QUỲNH TUÂN
                        (Thiên đình)

Cụ Cao Quỳnh Tuân là thân phụ của Ngài Cao Quỳnh Cư qua đời đã 25 năm, Ngài đọc tới câu thứ 7 quá ngậm ngùi, nên thưa :
Thưa Thầy, ngày mai con xin nấu mâm cơm cúng, con kính thỉnh Thầy về chứng lòng thảo của con.

Vong linh của cụ Tuân liền chuyển cái bàn gõ hai cái, tỏ ý nhận lời.
Đến đêm 30/7/1925 (10-6-Aát Sửu), ba Ngài lại họp nhau tại nhà Ngài Cao Hoài Sang mở cuộc xây bàn. Hôm ấy có 1 nữ vong linh giáng bàn cho thi :

THI
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trúc mai.
Dồn dập tương tư quằn một gánh,
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai ?
Ký tên ĐOÀN NGỌC QUẾ

Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi :
- Hồi tại thế xứ ở đâu ?
- Ở chợ Lớn.
Ngài Phạm Công Tắc hỏi :
- Cô học ở đâu ?
- Học trường Đầm.

Tên Đoàn Ngọc Quế chỉ là tên mượn (tá danh) tên thật của cô là Vương Thị Lễ, cháu ông Vương Quan Kỳ (theo Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống). Nhưng tầm nguyên còn nhiều bí hiểm hơn nữa.

Theo lời của Đức Hộ Pháp thuật lại thì tiền kiếp của cô Quế là một vị công chúa con một vị vua. Trong triều có một vị quan thầm yêu cô nhưng thấp hèn, vì lẽ môn đăng hộ đối không được ngôi phò mã nên cô thất tình sầu muộn mà chết.

Đến kiếp này, cô đầu thai vào gia đình Tổng Đốc Phương là bên ngoại của cô. Đến tuổi cập kê cô lâm bịnh trầm kha, chạy đủ thầy đủ thuốc mà không hết bịnh. Thân mẫu cô mới nói, ai cứu được cô thì bà gã cô cho.

Lúc bấy giờ một ông thầy thuốc Tây học ở hà Nội (Médecin Indochinois) chưa vợ mới bổ đến Sài gòn. Gia đình cô rước đến chữa bệnh cho cô. Thoạt nhiên, cô mạnh. Nên biết vị lương y này là ông quan trẻ tuổi thầm yêu cô trước kia vì tiền duyên mà hai người cùng đi đầu kiếp để nên nghĩa đá vàng.

Nào ngờ, thân mẫu cô quên lời hứa cũ, chỉ trả tiền cho người thầy thuốc rồi thôi. Còn cô giữ dạ keo sơn âm thầm nhớ thương vị lương y mà "phủi nợ xuống tuyền đài".

Ba người đều có họa bài thi trên, riêng bài của Ngài Cao Quỳnh Cư như vầy :

HỌA VẬN
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai,
Mộ người quốc sách lẫn thiên tài.
Nhìn văn độ phẩm hàng khuê các
Xót bạn tri âm cõi dạ đài.
Ngàn dặm hoa trôi sầu cụm trước.
Một mồ cỏ loáng ủ nhành mai.
Cửu tuyền hồn Quế linh xin chứng
Rằng liễu khóc oanh có mấy ai.

Cũng đêm đó, Ngài Cao Quỳnh Cư hỏi cô bệnh chi mà chết, cô đáp bằng hai bài thi như vầy :

THI
Trời già đành đoạn nợ ba sinh
Bèo nước chia hai một gánh tình
Mấy bữa nhăn mày lăm chước quỉ
Khiến ôm mối thảm tại Diêm Đình.
Người thời Ngọc mà với Kim đàng
Quên kẻ dạ đài nỗi thảm mang
Mình dặn lấy mình, mình lại biết
Mặc ai chung hưởng phận cao sang.

Nhờ tìm được mộ cô Vương Thị Lễ nên ba Ngài càng tin (1). Hôm sau Ngài Cao Quỳnh Cư mời hai Ngài Phạm Công Tắc và Cao Hoài Sang qua tư gia mình để xây bàn, mời cô Đoàn Ngọc Quế về dạy làm thi. Nhân tiện ba Ngài hỏi cô Quế về Thượng giới, cô tiết lộ đôi điều khiến các Ngài thêm mê học hỏi. Rồi cô gọi Ngài Cao Quỳnh Cư là anh cả, Ngài Phạm Công Tắc là Nhị ca, Cao hoài Sang là Tam ca, còn cô là Tứ muội.

Đến ngày 3/8/1925 (15/7/Aát Sửu) thiết đàn xây bàn, các Ngài được cô Đoàn Ngọc Quế báo tin có một Đấng đến tiếp xúc.

( Chỉ có mộ cô Lễ chớ không có mộ cô Quế vì Đoàn Ngọc Quế là tên mượn.)

THI
Ớt cay cay ớt gẫm mà cay,
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại
Aân bòn chẳng chịu tấp theo ai.
                                                           A-Ă-Â

Ngài Phạm Công Tắc nghe dứt bài thơ lấy làm khó chịu. Ngài Cư hiểu ý liền nói với Ngài Phạm Công Tắc rằng :

- Ấy, em ngồi lại cho qua hỏi, vị nầy không phải tầm thường đâu em.
Ngài Cao Quỳnh Cư liền hỏi :
- Ông A-Ă-Â mấy chục tuổi ?
Đấng A-Ă-Â gõ bàn hoài không ngừng, đếm đến mấy trăm cái mà cũng không thôi. Ngài Cao Quỳnh Cư sợ không dám hỏi nữa. Ngài Phạm Công Tắc hỏi ông ở đâu, thì được cho bài thi :

THI
Tròi trọi một mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náo nương chân.
Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,
Đỡ gót nhờ con hạc trắng ngần,
Bố hóa người đời gây mối đạo
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân
Chừng nào đất dậy trời thay xác,
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

Đến 18/8/1925 (1/8/Aát Sửu), cô Đoàn Ngọc Quế giáng bàn, các Ngài hỏi rằng:
- Em còn có chị em nào nữa biết làm thi, xin cầu khẩn đến dạy ba anh em qua làm thi.
Cô Đoàn Ngọc Quế nhịp bàn trả lời :
- Có chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương, Nhứt Nương làm thi hay lắm. và cô lại thêm:
- Ba anh muốn cầu thì ngày đó : ba anh phải ăn chay, mới cầu được.
Ba Ngài lãnh ý cô Đoàn Ngọc Quế , ngày cầu ba ông ăn chay.

Đến ngày 25/8/1925 (8/8/Aát Sửu), Đấng A-Ă-Â giảng dạy ba ông, vào rằm tháng 8 đó thiết tiệc chay thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và chư vị Cửu Nương đến dự. Đến 14 âm lịch thì Đức Nhàn Aâm Đạo Trưởng giáng cho thơ mời các Ngài họa.

THI
Rừng tòng ngày tháng thú quen chừng
Nhướng mắt dòm coi thế chuyển luân
Rượu cúc một bầu trăng gió hứng
Non sông dạo khắp lối đem xuân.
Ông Cao Xuân Lộc liền giáng họa nguyên vận :
Sống thác từ xưa đã có chừng,
Nơi trần mẫn tính trọn nhơn luân
Đò đưa phút chịu vùi ba tấc,
Tay trắng phủi rồi một tuổi xuân.

Bài của Ngài Cao Quỳnh Cư họa như vầy :
Cõi thọ là đâu khó độ chừng
Aån tàng lội lạcbậc kinh luân,
Buổi già ước đặng đem thân gởi,
Biển Thánh rán dò lúc tuổi xuân.

Đến ngày 15/8/Aát Sửu (1/9/1925) tại nhà Ngài ở số 134 Bourdais (nay là Calmette, Sài gòn), giữa nhà lập bàn hương án, chưng các hoa thơm và xông trầm trọn ngày. các Ngài mặc quốc phục quì trước bàn hương án cầu nguyện xin các Đấng Tiên Nương đến dự tiệc, lễ bái xong các Ngài ngồi vào bàn tiệc. Bà Nguyễn Thị Hiếu (tức bà Cao Quỳnh Cư) gắp đồ ăn để vào chén cho chín vị và trên bàn thờ Đức Phật Mẫu. Đó là thể pháp tượng trưng cho bí pháp của Đạo Cao Đài, mà hằng năm về sau đến ngày tháng này Tòa Thánh Tây Ninh đều tổ chức lễ Hội Yến Diêu Trì Cung.

Sau đó các Ngài xây bàn, Đấng A-Ă-Â giáng cho bài thi rồi đến Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương mỗi vị đều giáng cho thêm 1 bài (1) và mời ba Ngài làm thi liên ngâm.

LỤC NƯƠNG :
Trót đã mang cái nợ đời.
Gánh đời nặng lắm khách trần ơi.

CAO. Q. CƯ :
Oằn vai thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.

PHẠM. C. TẮC :
Thương hải tang điền xem lắm lúc
Công danh phú quí nhắm trò chơi

CAO. H. SANG :
Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm dễ khó đời.

 (Xem Đại Đạo Sử Cương quyển I trang 35)

LỤC NƯƠNG :
Ở thế sao chê tiếng thế buồn
Buồn vui hai lẽ lấy chi đong ?

CAO-Q-CƯ :
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.

PHẠM-C-TẮC :
Chiếc bách dập dồn dòng bích thủy
Phồn hoa mờ mệt giấc quỳnh lương

CAO-H-SANG :
Bờ đương chừ đặng phong trần rảnh
Quảy gánh thơ đờn dạo bốn phương.

Nhờ tình thân mật đó Lục Nương cho ba vị biết cô Đoàn Ngọc Quế là Thất Nương Diêu Trì Cung.

Đêm 14/9/1925 (29/8/Aát Sửu), khi xây bàn, Đấng A-Ă-Â giáng, ba vị hỏi sao lâu quá không đến. Ngài đáp rằng vì tiết lộ thiên cơ cho ba vị nên bị Ngọc Hư bắt tội. Ba Ngài phải lập hương án giữa trời để chịu tội thay cho Đấng A-Ă-Â. Ngài Cao Thượng Phẩm có làm bài thi đọc trước hương án như vầy :
Vái van xin quí Cửu Thiên Nương,
Tâu với Ngọc Hư rõ ngọn nguồn
Vì nghĩa Ă-A mang trọng tội,
Nghĩ tình đồng đạo để tình thương.

Đến ngày rằm năm đó Đấng A-Ă-Aâ giáng cho một bài thi :

THI
Một tòa thiên các ngọc làu làu
Liên bắc cầu qua nhắp nhóa sao.
Vạn trượng then cài ngăn Bắc Đẩu
Muôn trùng nhịp khảm hiệp Nam Tào
Chư Thần chóa mắt màu thường đổi
Liệt Thánh kinh tâm phép vẫn cao
Dời đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi.
Vững bền vạn kiếp chẳng hề xao.

Việc xây bàn của các Ngài lan rộng trong quần chúng kẻ hiếu kỳ đến xem cho biết, người không tin muốn thử coi chân giả. Một phật tử hỏi Đấng A-Ă-Â làm thế nào để phân biệt thiệt giả. Đấng A-Ă-Â nhịp bàn cho thi :
Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường,
Chẳng để mũi gần chẳng biết hương
Hiền ngõ rủi sinh thời bạo ngược
Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.

Người Phật tử ấy hỏi tiếp : "Làm sao biết được chánh tà?". Đấng A-Ă-Â đáp :
Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà,
Chánh tà hai lẽ đoán sao ra
Sao Tiên Phật người trần tục
Trần tục muốn thành phải đến ta.

Cũng hôm ấy (14/11/1925) ông Nguyễn Trung Hậu (Sau đắc phong Bảo Pháp) đến tìm hiểu hư thực, được Đấng A-Ă-Â giáng cho thi :
THẦN văn chất ĐỨC tài cao,
Tên tuổi làng thơ đã đứng vào
Non nước muốn nêu danh tuấn kiệt,
Gặp thời búa Việt, giục cờ Mao.

Ông Trương Hữu Đức (sau đắc phong Hiên Pháp) cho các bạn thơ cố ý giả ngộ chơi. Thế nên về nhà đem bàn ra một mình đặt tay lên, miệng vái các chơn hồn ứng hiện. Tức khắc có vong linh của lịnh huynh ông giáng cho hai vị thuốc trị ông lành bịnh. Rồi có vị Minh Nghĩa Tiên Ông giáng cho thi :
THI
Minh đức mừng nay đã gặp Thầy,
Chẳng còn ao ước cái không hay.
Mừng câu Aâu Á càng thêm mặt,
Mừng cậu côn đồ đã chịu chay.

Từ đó ông Đức hết sức tin tưởng và ăn chay trường luôn. Còn ông Hậu vì điểm danh đúng bút hiệu nên xin làm đệ tử Đấng A-Ă-Â.

Đến ngày 12-12 năm đó (27/10/Aát Sửu), Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng dạy :
"Mùng 1 tháng 11 này tam vị đạo hữu VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO"

Bà thăng rồi, ba Ngài hội ý vẫn không hiểu cầu đạo là thế nào. Thế nên hôm ba Ngài mới cầu Thất Nương hỏi.
- Thất Nương dạy dùm cầu đạo là gì ?
Thất Nương đáp :
- Không phải phận sự của em, xin hỏi ông A-Ă-Â giáng dạy.
"Ngày 1/11 này (16/12/25) tam vị phải VỌNG THIÊN CẦU ĐẠO.
Tắm gội cho tinh khiết, ra quì giữa trời cầm chín cây nhang mà vái rằng : ba tôi là
- Cao Quỳnh Cư
- Phạm Công Tắc
- Cao Hoài Sang
Vọng bái Cao Đài Ngọc Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh.
Tịnh tâm quỳ đến tàn hết chín cây nhang mới vào, rồi đến nhà (ông) Tý mượn đại ngọc cơ, học cách dùng để Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng.

Thế là việc xây bàn đến đây chấm dứt và việc cầu cơ bắt đầu để khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nghĩa là thời khai nguyên dẫn dắt vào đường Đạo đã cáo chung.

Khi ba Ngài Vọng Thiên cầu đạo, ngoài đường kẻ qua người lại dập dìu, nào xe cộ lượn qua, nào người người đi coi hát về, họ hiếu kỳ DỪNG CHÂN LAÏI COI BA Ngài cúng vái ai mà quì ngoài sân. Bỗng đâu có thi sĩ Bồng Dinh (tức Giáo Sỏi) đến vịn cái bàn chỗ ba Ngài quì mà ngâm thi. Mọi người càng đến coi đông hơn. Nhưng các Ngài cũng tâm nguyện, chờ cho 9 cây nhang tàn mới vào nhà, đoạn thiết đàn cầu cơ :

Đấng Cao Đài giáng viết :
Ngọc Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Tiên Oâng Đại Bồ Tát Ma Ha Tát giáo Đạo Nam Phương.
THI
Thiên đàng nhứt thế biến lôi âm
Tận độ nhơn sanh thoát tục phàm,
Chánh giáo phát khai thiên thế mỹ,
Thâu hồi hiệp nhứt đạo tam kỳ.
                                                                       CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ

Các Ngài không thông suốt được bài thi nên thỉnh Đấng A-Ă-Â xin giải nghĩa, được giải như vầy : Ngọc Hoàng Thượng Đế là Trời, viết là dạy rằng : Cao Đài chỉ Nho giáo, Tiên ông chỉ Đạo giáo, Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Thích giáo, giáo đạo Nam Phương là dạy Đạo ở phương Nam. Nghĩa là Trời giáng trần qui Tam giáo Nho Thích Đạo dạy Đạo ở phương Nam".

Vì có nhiều vị chưa vững đức tin đêm mồng 8/11/Aát Sửu (23/12/1925), Lục Nương giáng giải đáp thắc mắc cho các Ngài. Sở dĩ chỉ có Thất Nương, Lục Nương và Bát Nương thường giáng đàn là vì các Tiên Nương khác có nhiệm vụ riêng (1). Sau đó Huệ Mạng Trường Phan (thầy tu núi Bà Đen) giáng :

1/ - Trước ước cùng nhau sẽ hiệp vầy
Nào dè có đặng buổi hôm nay
Gìn lòng tu niệm cho bền chí
Đông đảo ngày mai đặng hiệp vầy.

2/ - Tây Ninh tu luyện động Linh Sơn
Chẳng quản mùi trần thiệt với hơn,
Trăm đắng ngàn cay đành một kiếp,
Công hầu vương bá dám đâu hơn.

- Xin chư vị gắng tu, thấp thỏi như tôi nhờ trọn tin Trời Phật, còn được ân thưởng Huệ mạng Kim Tiên, huống hồ chơn linh cao trọng như quí vị, nếu chịu tu ngày sau phẩm vị còn cao đến bực nào.

Lời báo tin mai của Huệ Mạng làm, cho các ông nửa mừng nửa sợ, nên đêm sau thiết đàn để thỉnh Đấng A-Ă-Â về giáng dạy. Lục Nương giáng đàn báo phải chỉnh đàn nghiêm để rước Đấng Cao Đài Thượng Đế.
THI
Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân thiên
Đạomầu rưới khắp nơi trần thế
Ngàn tuổi muôn tên giữa trọn biên.
                                                           CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ

"Đêm nay, 24 Décembre phải vui mừng vì là ngày Ta xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây (Europe).

"Ta rất vui lòng mà độ đệ tử kính mến ta như vậy. Nhà này (nhà ông Cư) sẽ đầy ơn ta, giờ ngày gần đến đơi lịnh Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính Ta hơn nữa".

 (Xem "Công đức Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật")

Nên biết thưở đầu việc xây bàn cầu cơ phần lớn thiết lập ở nhà Ngài Cao Quỳnh Cư. Vì thế, khi đi làm việc về, Ngài Phạm Công Tắc thường ghé luôn ở đây ăn cơm xong rồi cầu cơ thỉnh Tiên. Các Ngài muốn mau biết việc Thượng giới nên đi làm việc chỉ mong mau tối để về thiết đàn.

Cũng đêm ấy, Đức Lý Thái Bạch giáng đàn cho thi :
Đường trào hạ thế hưởng ma quan,
Chẳng vị công danh chỉ hưởng nhàn.
Chén rượu trăm thi đời vẫn nhắc
Non tiên vạn kiếp thế chưa tàn.
Một bầu nhựt nguyệt say ngơ ngáo,
Đầy túi thơ văn đổ chứa chan
Bồng đảo còn mơ khi múa bút,
Tả lòng thế sự vẽ giang san.
                                                           THÁI BẠCH TIÊN TRƯỞNG

Đêm 31/12/1925 (15/11/Aát Sửu) Đấng A-Ă-Â giáng:
Ba con thương Thầy lắm hả ?
Con thấy đặng sự hạ mình của A-Ă-Â như thế nào chưa ? Con thấy thấu đáo cái quyền năng của Thầy chưa ? Người quyền thế lớn nhất như vậy có thể hạ mình bằng A-Ă-Â chăng ?

A-Ă-Â là Thầy, Thầy đến các con thế ấy, con thương Thầy không ?
Sự nhỏ nhẹ của Thất Nương đó, con bằng mảy múng gì chưa ? Học hỏi sự nhỏ nhẹ ấy.

Sự cao kỳ của Lục Nương, con có đặng mảy múng gì chưa ? Học sự cao kỳ ấy.

Sự nhân đức của Thất Nương, con có chút đỉnh gì chưa ? Phải học sự nhân đức của Thất Nương.

Tình nghĩa yêu mến của các con có bằng Bát Nương không ? Phải hocï.

Phải học tình nhân ái, trung tín cứu giúp của Cửu Thiên Nương (tức Đức Phật Mẫu) ba con có đặng như vậy chăng ? Phải học gương.

Sự kính nhượng của ba con bằng Cửu Nương chăng? Phải học.

Hạ ngươn tận diệt, Thầy sai Thần Thánh, Tiên Phật và chính mình Thầy, vì thương chúng sanh cũng hạ mình đến với các con, mượn việc xây bàn đùa giỡn với các con, để các con vui mà học Đạo, hầu khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt chúng sanh"

Tuyên ngữ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đến nay mới được khải chúng. Năm 1920, Đấng Thượng Đế đến dạy Đạo ông Ngô Văn Chiêu ở Phú Quốc chỉ xưng là Cao Đài Ngọc Đế. Nhưng các Ngài lúc bấy giờ chưa rõ mối Đạo lớn thế nào và giáo lý ra sao hay lấy giáo lý các tôn giáo đã có.

Thế nên, đêm 2/1/1926 (13/11/Aát Sửu) Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng dạy :

"Cư, Tắc hai con đừng lấy làm việc chơi nghe. Thầy dặn hai con một điều : nhứt nhứt phải đợi lịnh Thầy, chẳng nên lấy tư riêng mà phán đoán nghe.

Phận sự hai con, trách nhiệm hai con Thầy đã định trước, song ngày giờ chưa đến, phải tuân lời Thầy nghe. Từ đây Thầy khởi sự dạy Đạo".

Ngày 2/1/1926 là ngày lịch sử trong khoảng đời tâm linh của Ngài Phạm Công Tắc và Cao Quỳnh Cư, vì từ đây Đức Chí Tôn mới thực sự dạy Đạo cho Ngài. Vì vậy các Ngài gặp điều gì khó khăn thì triệu thỉnh các Đấng Thiêng liêng. Đêm mồng 4 tháng đó, Đức Chí Tôn giáng cơ quở rằng :

"Thầy đã nói A-Ă-Â là Thầy, còn cung Diêu Trì là cung Diêu Trì, các Thánh đều có quả. Aáy là những Đấng Thầy sai đến dạy dỗ mấy con, đừng triệu thường vì mỗi vị đều có phận sự riêng.

Chư Tiên và chư Thánh đều có quả, song đừng triệu về mà chơi, kỳ dư có điều gì học hỏi".

Đến ngày 9/1/1926 (25/11/Aát Sửu), Đấng Thượng Đế giáng cơ dạy các Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đến đường Quai Testard (Chợ Lớn) độ ông Lê Văn Trung, Ngài Phạm Công Tắc có vẻ không bằng lòng vì :

"Buổi nọ ông Lê Văn Trung làm Thượng Nghị Viện Hội Đồng Thượng Nghị viện đời Pháp lớn lắm. Oâng là người Nam làm đến bực đó thôi. Oâng là người quá sức đời, tôi và Đức Cao Thượng Phẩm (tức ông Cao Quỳnh Cư) không hạp chút nào. Tôi kỵ hơn hết, nhứt định không làm điều đó được. Một ông quan trong thời mất nước không thể tả hết.

"Khi chúng tôi ôm cái cơ đến nhà Ngài đặng Đức Chí Tôn độ. Mục đích của chúng tôi là Đức Chí Tôn bảo đâu làm đó vậy thôi. Khi vô tới nhà thú thật Ngài rằng : "Chúng tôi được lịnh Đức Chí Tôn đến nhà anh Phò loan cho Đức Chí tôn dạy Đạo". Oâng biết Đấng đó hơn chúng tôi (1). Lo sắp đặt bàn ghế, sửa soạn buổi phò loan, rồi bắt ông nhập môn.

"Trong nhà có 1 người con nuôi tên là Thạnh còn nhỏ độ 12 tuổi, hai cha con kiếm được cơ đâu không biết, vái rồi cầu cơ. Khi phò loan thằng nhỏ ngũ, ông thì thức. Cơ chạy hoài ông hỏi thi Đức Chí Tôn trả lời, chỉ có hai người biết với nhau mà thôi. Từ đó ông mới tin có Đức Chí Tôn". (Theo bài thuyết Đạo đêm Giáp Ngọ của Đức Phạm Hộ Pháp)

Dù đã theo học Đạo với Thầy Trời, nhưng tấm lòng thương dân yêu nước vẫn chưa nguôi. Khi chánh quyền Pháp đàn áp các phần tử ái quốc, dòng máu cách mạng của Ngài lại bừng sôi. Bà Thất Nương giáng cơ đêm 27/1/1926 (13/12/Aát Sửu) khuyên:

"Em xin quý anh coi lại đời là thế nào ? Bông phù dung sớm còn tối mất còn hơn kiếp con người. Vì dù nó sống ngắn ngủi dường ấy, nhưng mà lúc sống còn có cái sắc, chớ đời người sanh ra chỉ để khổ mà thôi, dù sống trăm tuổi chưa 1 điều đắc chí, rồi chết. Cái đời này đúng là 1 khổ hải.

"Em xin quí anh coi sự trường sanh của mình làm trọng, người không có phải kiếm, mình có sẵn nỡ bỏ đi. Em tiếc dùm đó thôi.
"Đã vào đường chánh, cứ do đó, theo đó bước tới hoài thì trở về cựu vị đặng".

 (Vì vào 15/5/Aát Sửu (6/6/1927), tại Chợ Gạo (Chợ Lớn) có thiết đàn thỉnh Tiên, ông Nguyễn Hữu Đắc cố đưa ông Lê văn Trung đến hầu đàn nhiều lần. Khi ông Trung ngộ Đạo thì Chợ gạo bị bế. Nghĩa là dù ai có cầu các Đấng vẫn không giáng).

Từ lúc chấm dứt việc xây bàn thay vào phò cơ thì hai Ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc làm đồng tử, nên tất cả những bài từ trước của các Đấng giáng cho đều do cặp nguyên thủy này viết ra. Vì vậy, Ngài Cao Hoài Sang thấy mình hơi thừa, rồi lần lần ít chịu đi hầu đàn. Các Ngài mới xin với Đấng Cao Đài để lời dạy bảo. Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng rằng :
"Nó thật thà, vả lại nó còn mang xác phàm. Ai dưới thế này đặng trọn vẹn, các con chỉ cho Thầy coi?"

Các Ngài đã thọ làm môn đệ Đấng Cao Đài đã lâu nhưng chưa thờ vì chưa biết cách thức thờ thế nào, nên mới xin cách dạy để thờ, thì Đấng Cao Đài Thượng đế dạy "Đến Chiêu xem cách thức nó thờ Thầy, bảo nó hiệp một với các con"

Vâng lịnh Đấng Cao Đài, các Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc đến nhà ông Ngô văn Chiêu ở số 110 đường Bonard (nay là Lê Lợi, Sài gòn) để quan sát cách thờ. Oâng Ngô Văn Chiêu thờ Thầy rất kỹ, tận trên cao và ngay chính giữa nhà, thật kín đáo. Có ai đến chơi nhà, không chỉ khó mà biết được vì ông là người rất dè dặt không phải là bạn tu thì không bao giờ chỉ dẫn".

Vào năm 1921 lúc làm chủ quận Phú Quốc, một buổi sáng lối 8 giờ tối, Đức Chí tôn đã hiện con mắt (Thiên nhãn) nhiều lần và buộc ông phải thờ. Năm 1924, ông đổi về Sài Gòn thì cũng tiếp tục thờ Thầy (Thiên nhãn) và tự đơn như trước. Kịp đến khi Đức Chí Tôn chuyển cơ phổ độ cho nhóm Ngài Phạm Công Tắc thì các Ngài đến đây để quan sát cách thờ phượng về tuyền bá trong đạo hữu.

Vì nhà Ngài Lê Văn Trung rộng rãi, ngày 15/12/1Aát Sửu, Ngài thượng Thánh tượng Thiên Nhãn có mời các ông Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu, Vương Quan Kỳ, Đoàn Văn Bản, Nguyễn Văn Hoài, Trương Hửu Đức, Võ Văn Sang, Lê Văn Giảng, Lý Trọng Quí, Lê Thế Vĩnh … Đấng Cao Đài giáng cơ dạy :

- Thầy vui thấy các con thuận hòa cùng nhau. Thầy muốn các con như vậy hoài. Aáy là lễ hiến cho Thầy rất trang trọng.
Chẳng quản đồng tông mới một nhà
Cùng nhau một Đạo tức một cha
Nghĩa nhân đành gởi thân trăm tuổi
Dạy lẫn cho nhau một chữ hòa.
                                                           CAO ĐÀI TIÊN ÔNG

Đêm 30/12/Aát Sửu (12/2/1926) quan phủ Ngô văn Chiêu đi với hai Ngài Cư , Tắc đến nhà một vị đặng mừng xuân. Đến nhà ai thì cặp cơ Cư -Tắc phò loan, trước hết là nhà ông phán Võ Văn Sang, sau cùng là Ngài Lê Văn Trung. Mỗi người đều được một bài tứ tuyệt mà bài của Ngài Cao Quỳnh Cư như vầy :
Sắp út thương hơn cũng thế thường
Cái yêu cái dạy ấy là thương
Thương không nghiêm trị là thương dối
Dối dạ vì chưng yếu dạ thương.

Khuya mồng 1 Tết, Đấng Cao Đài giáng dạy : "Hôm nay là ngày trọng đại Thầy chính thức khai Đại Đạo tam Kỳ Phổ Độ cứu vớt 92 ức nguyên nhân đang bị đọa trầm luân :
Phụng gáy non Nam Đạo trổ mòi
Trổ mòi nhân vật bốn phương trời,
Trời Aâu, biển Á chờ thay sắc,
Sắc trắng mây lành phủ khắp nơi.
                                                           CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ

Đó là ngày Khai Đạo Cao Đài về cơ Phổ hóa.

Qua đến mồng 9/1 nhằm vía Đức Chí Tôn, ông Vương Quan Kỳ thiết đàn tại nhà riêng ở số 80 đường Lagrandière (nay là đường Gia Long). Đức Thượng Đế giáng cơ :
Bửu tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp rán vun nền đạo đức
Bền lòng son sắc đến cùng ta.

Quan phủ Ngô Văn Chiêu xin Đức Thượng Đế lấy tên mấy người đệ tử mà cho bài thi. Đức Thượng Đế thuận cho :
CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành.
HẬU ĐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh,
Quờn Minh Mân đáo thủ đài danh.

12 chữ lớn trong ba câu đầu là tên của 13 vị môn đệ đầu tiên, vì hai ông Cao Hoài Sang và Võ Văn Sang điểm chung một tên.

Tùy theo Đạo nhưng các ông còn ngỡ ngàng trước cách lễ bái, đạo phục, nhất là cách thờ Thiên Nhãn. Ngày 12/1/Bính Dần (24/2/1926), Đấng Cao Đài giáng dạy :

"Thập Nhị khai thiên là Thầy, chúa tể cả càn khôn thế giái, nắm trọn Thập nhị Thời thần trong tay. Số 12 là số riêng của Thầy.

"Chưa phải hồi con biết đặng tại sao phải vẽ Thiên Nhãn mà thờ Thầy. Song Thầy nói sơ lược cho hiểu chút đỉnh :
Nhãn thị chủ tâm,
Lưỡng quan chủ tể
Quang thị thần
Thần thị thiên
Thiên giã ngã giã

"Thần là khiếm khuyết của cơ mầu nhiệm từ ngày Đạo bị bế. Lập Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ này, Thầy cho Thần hiệp tinh khí đặng hiệp đủ tam bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh".

Lần lần khách bàng quang hiểu được chủ đích của Cao Đài giáo là qui Tam giáo, hiệp Ngũ chi, người ta trích điểm lập chi Đạo mới cho thêm khó khăn phiền toái. Đức Cao Đài giáng dạy ;

"Vốn từ trước Thầy lập Ngũ chi Đại Đạo là : Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo. Tùy theo phong hóa của nhơn loại mà gây chánh giáo, là trước càn vô đắc khán khôn vô đắc duyệt, thì nhơn loại chỉ có hành Đạo nơi tư phương mình mà thôi.

"Còn nay thì nhơn loại đã hợp đồng, càn khôn dĩ tận thức thì lại bị phần nhiều Đạo, mà nhơn loại bị nghịch lẫn nhau nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục nhứt. Lạ nữa, Thầy giao Thánh giáo cho tay phàm, càng ngày lại càng xa Thánh giáo mà lập ra phàm giáo".

Oâng Vương Quan Kỳ bạch :
-Bạch Thầy, anh cả (ông Ngô Văn Chiêu) bảo Thầy giao cho ảnh làm chủ mối Đạo dạy dỗ chư môn đệ, mà ảnh không chịu tiếp xúc với chúng con, thì làm sao ?

"Chẳng ai dưới thế này được phép nói thế quyền Thầy mà trị phần hồn nhơn loại được.

Ai có hạnh lớn mới mong được Thầy ban thưởng ngôi vị. Chiêu có công tu, lại là môn đệ trước tiên của Thầy. Thầy định ban chức Giáo tông cho nó, nhưng nó không giữ lời nguyền với Thầy lại sợ tà quyền mà xua đuổi môn đệ của Thầy, chẳng còn xứng đáng làm anh cả của các con".

Các Ngài Lê Văn Trung, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc … và chư môn đệ đồng quì xuống xin tội cho Ngô Văn Chiêu.

Đến ngày 25/4/1926 (15/3/Bính Dần) thì thiết lễ Thiên phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn, Thầy dạy :
"Cư nghe dặn : con bảo Tắc tắm rửa sạch sẽ, xông trầm hương cho nó, biểu nó lựa một bộ đồ tây cho sạch sẽ, ăn mặc như thường, đội nón, cười …

"Đáng lẽ nó phải sắm khôi giáp giống như hát bội mà mắc nó nghèo nên Thầy không bảo. Bắt nó lên đứng trên ngó mặt vô ngay ngôi Giáo Tông, lấy 9 tấc vải điều đấp mặt nó lại, biểu Đức Hậu đứng gần, kẻo nó xuất hồn té tội nghiệp.

"Lịch, con viết một lá bùa Gián Ma xử cho Tắc cầm. Hai con mặc đồ thường, chừng nào Thầy triệu Ngũ lôi và Hộ Pháp về rồi. Thầy biểu mặc Thiên phục vô mới mặc, thế mới đặng".

Hôm ấy, có các vị được thọ phong là Ngài Phạm Công Tắc thọ phong Hộ Pháp, Ngài Cao Quỳnh Cư thọ phong Thượng Phẩm, Ngài Lê Văn Trung thọ phong Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, Ngài Lê Văn Lịch thọ phong Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt.

Các vị sau đây được phong vị để phò cơ :
Đức, Hậu phong Tiên Đạo phò cơ Đạo sĩ
Cư phong Tá cơ Tiên hạc Đạo sĩ
Tắc phong Hộ giá Tiên đồng Tá Cơ Đạo sĩ.

"Hai ông Thượng Phẩm và Hộ Pháp hợp thành một cặp đồng tử chấp Cơ Phong Thánh, truyền giáo, lập Pháp chánh truyền và Tân luật, tức là Hiến chương của nền Đạo hiện giờ.

"Chúng ta phải nhìn nhận đầu công của hai ông này vào bực nhứt. Trước hết và trên hết, Đức Chí tôn mượn tay và thần lực của hai ông mà lập thành Đại Đạo cho đến ngày nay. Nếu không có bàn tay xây dựng của hai ông thì:
- Đâu có Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
- Đâu có chức sắc Thiên phong nam nữ
- Đâu có Hội Thánh và các cơ quan trong Đạo
- Đâu có Pháp chánh truyền và Tân luật
- Đâu có đại nghiệp hiện giờ cho nhân sanh thừa hưởng" (theo Đạo sử cơ bút của Trương Hiến Pháp)

Ngoài cặp cơ Cư - Tắc còn có cặp cơ : Sang - Diêu, Hậu - Đức, Nghĩa - Tràng, Tươi - Chương, Kim - Đãi, Mai - Nguyên, Mạnh - Phước, Thân - Vĩnh.

Cầu cơ là phò loan gồm có hai vị đồng tử, ngồi hai bên cái giỏ cơ, tay cầm vào miệng cơ. Một lát sau điển các Đấng giáng rồi Ngọc cơ tự động mà viết ra. Chính vì đó, người ta có thể nhờ người bên trái hay bên phải viết ra. Thế nên, cơ bút có thiệt mà cũng có giả. Người trong cuộc mới hiểu rõ được việc đó.

Dưới đây là danh tánh các Đấng giáng cơ giúp việc khai mở Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, từ năm Aát Sửu đến khi Ngài Thượng Phẩm được đắc phong.

1/- Xuất Bộ Tinh Quang, 2/- A-Ă-Â, 3/- Cửu Vị Tiên Nương, 4/- Cửu Thiên Huyền Nữ, 5/- Thiên Hậu, 6/- Liên Huệ Tiên, 7/- Đại Tiến Sĩ Tải Trương Vĩnh Ký, 8/- Nhàn Aâm Đạo Trưởng, 9/- Quan Thánh Đế Quân, 10/- Thần Sơn Quan Diệu Võ Tiên ông, 11/- Đỗ Mục Tiên, 12/- Minh Nguyệt Tiên ông, 13/- Bách Nhẫn Đại Tiên, 14/- Thánh Pierre, 15/- Huệ Mạng Trường Phan, 16/- Tả quân Lê Văn Duyệt, 17/- Quí, Cao, 18/- Thổ Địa Tài Thần, 19/- Lý Thái Bạch, 20/- Oâng Môn, 21/- Cao Xuân Lộc, 22/- Cao Quỳnh Tuân, 23/- Cao Hoài Aân.

Vì có nhiều cặp cơ, hơn nữa Đàn Cầu Kho không cung ứng cho hoàn cảnh, nên có thêm 5 đàn nữa là Chợ Lớn, Tân Kim (Cần Giuộc), Lộc Giang, Thủ Đức và Tân Định mà cặp cơ Cư - Tắc phò loan ở đây. Chính đàn này đã thâu được ông Lê Thiện Phước (sau đắc phong Bảo Thế).

Để việc phổ độ chúng sanh khỏi bị ngăn trở, các Ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc … tất cả 28 vị đứng tên đưa tờ Khai Tịch Đạo lên Thống Đốc Nam Kỳ là ông Le Fol (nhằm triều Bảo Đại) vào ngày 7/10/1926. vì nằm trong chế độ cai trị của Pháp bấy giờ, Tờ Khai Tịch Đạo coi như thông báo chánh thức rồi hành giáo và truyền giáo chớ không đợi phúc văn của Pháp. Thế nên, không có văn kiện nào trả lời hoặc cho phép về Tờ Khai trên cả.

*  *  *
Nơi tu tịnh của Đức Cao Thượng Phẩm gọi là Thảo Xá Hiền Cung, rút từ cơ của Bà Thất Nương giáng cho năm 1925, sau khi Ngài bị cơn khảo của Tư Mắt (xem chữ Hán nơi trang 51).

Thảo xá tuỳ nhơn ngu muội bần cùng nghinh nhập thất.
Hiền cung trạch khách thông minh phú quý cấm lai môn.

Nhà này vốn của cụ Cao Quỳnh Tuân (đắc vị Xuất Bộ Tinh Quân), thân sinh của Đức CTP. Sau khi dời chùa Từ Lâm Tự về chùa Mới thì Đức CTP chọn nơi đây làm Tịnh Thất. Sau đó hiến làm Thánh Thất châu đạo Tây Ninh. Một phần vẫn dùng làm TXHC. Đầu năm 1992, vì tu sửa nới rộng Thánh Thất Thị xã nên TXHC được tách rời thành một ngôi thờ riêng biệt.

XÂY DỰNG NỀN TẢNG ĐẠO
(1926-1928)

Sau khi lập tờ Khai Tịch Đạo với chánh phủ Pháp, thì việc phổ độ các tỉnh bắt đầu từ tháng chín Bính Dần. Ngài và quí Ngài Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc đi phổ độ trong các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ (nay là Phong Dinh), Sóc Trăng, Bạc Liêu (nay là Ba Xuyên), Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá (nay là Kiên Giang). Nhóm thứ hai truyền đạo các tỉnh Tiền Giang. Nhóm thứ ba các tỉnh miền Đông.
Đêm 14 rạng 15 tháng 10 năm Bính Dần (18/11/1926) là đêm chánh thức khai Đạo Cao Đài tại Gò Kén (Tây Ninh) và lễ khánh thành Thánh Thất Từ Lâm đầu tiên của nền Đại Đạo. Đêm hôm ấy vì quá đông, nên cuộc lễ bớt phần trang nghiêm. Khi cầu cơ Đức Chí Tôn chỉ để ít lời quở trách rồi thăng. Thừa dịp tà quái nhập vào 1 nam và nữ bổn đạo mà quấy phá. Họ mạo xưng là Tề Thiên Đại Thánh và Quân Aâm Bồ Tát.

Vịn vào việc đó, một số đồ đệ của Như Nhãn xúi đòi chùa lại. Hội Thánh phải hẹn trong ba tháng (tức đến ngày 15/1/Đinh Mão) sẽ trả chùa lại. Dù vậy, ngay đêm khai Đạo, Thầy vẫn giáng cơ lập tịch đạo nữ phái.
Hương tâm nhứt phiến cận càn khôn
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Aâm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn.

Đêm 16/10 (20/11/1926) thì lập Pháp Chánh Truyền (tịch đạo Nam phái cho mồng 9/8/1926 tại Vĩnh Nguyên Tự)
Thanh Đạo tâm khai thất ức niên,
Thọ như địa huyền thạnh hòa thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh khí,
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên.

Đạo dưới thời Lý Giáo Tông thì Nam phái lấy chữ Thanh, Nữ lấy chữ Tâm. Khi nào hết tịch đạo thì Đấng Chí Tôn sẽ giáng cơ cho tịch đạo khác. Lớn nhỏ, trước sau nhờ chữ tịch đạo này mà phân biệt.

Vào ngày 2/11/Bính Dần (6/12/1926) Đức Chí Tôn ra lịnh hội chức sắc thành lập Tân luật. Để tiếp cho trọn bộ Pháp Chánh Truyền. Đến ngày 13/2/1927 (12/1/Đinh Mão), Đức Chí Tôn giáng cơ thành lập Hội Thánh Hiệp Thiên Đài.

Sở dĩ, việc thành lập các cơ chế Đạo có nhiều khoảng trống thời gian vì cặp cơ Cư -Tắc còn bận làm việc tại Sài gòn, ngày nghỉ cùng nhau lên xe Ngài Lê Văn Trung mới về Gò Kén hành pháp.

Tuy đáo hẹn trả chùa mà vẫn chưa tìm được đất mới nên chư vị chức sắc được Đức Lý dạy rằng : "mai này chư hiền hữu lên đường dây thép (tức đường route haute) nhắm địa thế dài theo cho tới ngã ba Ao Hồ (hồi đó chưa có đường vào trường Nữ Trung Học) coi như hiền hữu có thấy đặng chăng ?"

Qua ngày sau quý vị lên xe đi tìm đất, khi chạy tới khoảng cửa số 2 ngày nay, cạnh góc ngã ba có cây vừng, Đức Cao Thượng Phẩm ngó thấy trên cây này có 1 tấm bảng treo đề tên Cao Văn Điện, một người bạn học của Ngài thuở nhỏ. Đức Cao Thượng Phẩm nói với chư vị chức sắc rằng :
- Để tôi đi tìm ông Cao Văn Điện, nhờ chỉ dẫn giùm chủ đất này.

Oâng Điện mới cho biết đất này của ông Aspar, Kiểm lâm người Pháp. Đêm hôm ấy chư vị cầu Đức Lý thỉnh giái Đức Lý dạy : "Phải đó tưởng chư hiền hữu không thấy. Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh địa, sâu hơn 30 thước như con sông, giữa trung tâm đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn, làm như 6 con rồng đoanh châu. Nguồn đất ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là lục long phò ẩn. Ngay miếng đất ấy có 3 đầu: một đầu ra giếng mạch Ao hồ, hai đầu nữa bên cụm rừng bên kia".

Về khuôn viên Tòa Thánh tạm thì Đức Lý dạy : "Thánh Thất tạm thời phải cất ngay miếng đất trống. Còn Hiệp Thiên Đài phải trước Thánh Thất tạm. Đạo hữu phải khai phá đám rừng, cách miếng đất trống chừng ba thước rưỡi, đóng 1 cây nọc, đo Hiệp Thiên Đài như vầy, ngoài Bàu Cà Na đo vào chừng 50 thước đóng một cây nọc. Aáy là khuôn viên Tòa Thánh".

Lúc khởi công để phá rừng, người Miên, Tà Mun xuống cả ngàn người làm công quả. Viên Chánh Tham Biện người Pháp nghi ngờ, nên mời Đức Cao Thượng Phẩm ra Tòa bố (tức Tòa hành chánh), hỏi rằng :
- Ông làm cái gì mà đông đảo như vậy ?
Đức Cao Thượng Phẩm trả lời :
- Tôi mua miếng đất đó đặng trồng cao su.
- Trồng mấy mẫu ?
- Tôi trồng hết sở đất tôi mua, phá tới đâu tôi trồng tới đó.

Vì lúc đó việc trồng cao su đang thịnh hành và là một nguồn lợi lớn cho Pháp, nên họ làm lơ. Các cây cao su còn lại nơi vùng Bá Huê Viên hiện nay là di tích của Đức Ngài.

Đến ngày 20/2 năm đó (23/3/1927) mới thỉnh Thánh Tượng, Chư Phật về đất mới thuộc làng Long Thành. Khó khăn nhất là việc di cốt Phật Tổ cỡi ngựa Càn Trắc. Đức Cao Thượng Phẩm phải tập trung nhiều người để đưa cốt lên chiếc xe bò, kết lại. Viên Chánh Tham Biện cho một toán lính mặc đồ đen núp ngoài mương ruộng chờ có gì khác thường là bắn. Khi rõ thật sự thỉnh cốt Phật thì họ rút lui êm.

Đức Ngài đứng trên xe bò vịn cốt Phật Tổ, khởi hành lúc 18 giờ đến 2 giờ sáng mới đến Thánh Thất tạm. Khi đến khoảng cửa Hòa viện ngày nay, bị một cái mương lớn quá, Đức Ngài phải khó nhọc tìm thế lót ván để xe qua, thì đã mệt lữ, Đức Ngài ném mình xuống đống lá khô trong rừng mà nghỉ. tất cả chức sắc cũng nằm xuống đó. Bà Nguyễn Thị Hiếu điều động nữ phái khiêng cháo và nước đến cho mọi người ăn để lấy lại sức. Sau đó, cốt Phật Tổ được an vị giữa hai cụm rừng gần cây ba nhánh (tức chỗ an vị hiện nay).

Đức Ngài tiếp tục xây cất Tòa Thánh tạm, nào Hậu điện, Đông lang, Tây lang, trường học, Trù phòng. Tất cả đều bằng tranh rồi đào giếng nước, tức mấy cái giếng gần Tòa Nội chánh hiện nay.

Biết được chủ đích việc làm của Đức Ngài, Viên Chánh Tham Biện làm khó đủ điều. Họ buộc phài rào xung quanh Tòa Thánh lại, không ai được vào lễ bái. Trong chánh điện chỉ có Lễ sanh Thượng Xường Thanh hành lễ mà thôi. Ai muốn cúng thì phải quỳ ở ngoài mà lạy vô bửu điện. Họ còn làm tình làm tội Đức Ngài, gọi ra Tòa bố ngày một. vì lúc này Đức Ngài đã bỏ sở mà phế thân hành đạo trước nhất. Dù vậy Đức Ngài vẫn một lòng giữ đạo, yêu sanh chúng. Nhận thấy công phá rừng đau yếu, Đức Ngài cầu nguyện Đức Chí Tôn ký pháp nước âm dương tạo thành cam lồ thủy trị bịnh cho mọi người. Tuy bị ngăn cản không có 1 nơi tôn nghiêm để hành pháp các Thổ nhơn đem ve chai để trên sạp cầu xin nước Thánh. Lạ một điều chỉ có một thứ nước mà trị bá bịnh. Nhờ sự huyền diệu này , tiếng đồn vang xa, các làng xã, nhơn sanh tấp nập kéo tới làm công quả, thỉnh nước Thánh càng đông giúp cho việc phá rừng tạo tổ đình càng được dễ dàng.

Có lẽ vì chuyện này, một số báo Pháp ngữ xuyên tạc là Cao Đài Tây Ninh lấy nước suối ở núi Điện Bà về bán. Rồi người này chuyền miệng người kia "tam sao nhất bổn" đem đến sự khó khăn hành đạo của Đức Ngài về sau.

MÙA PHÁP NẠN
(1928-1929)

Đời hành đạo của Đức Ngài tuy có kham khổ nhọc nhằn vì phải xây dựng nền tảng đầu tiên cho nền Tân Tôn giáo, nhưng cũng được an ủi tinh thần qua nét mặt tươi vui của chư tín hữu nhất là số tín đồ theo đạo ngày càng đông.
Bổng đâu đất bằng sóng dậy. Vào tháng 3 năm mậu Thìn một nhóm người từ Thủ Đức do ông Tư Mắt tức Nguyễn Phát Trước dẫn dụ về Tòa Thánh đặt điều nước lã khuấy nên hồ. Họ đuổi Đức Ngài ra khỏi Tòa Thánh trong 24 giờ, nếu không đi cột trong rừng mà bắn. Ngài quá uất ức nhưng không thể giải bày cho những người bạo hành rõ được nỗi oan khiên của mình. Đức Ngài quá buồn, kẻ lo đạo không mấy người, phá đạo lại đông., thật đúng câu "Đạo cao nhứt xích, ma cao nhứt trượng" Đức Ngài ngọa bịnh phải về thảo xá Hiền cung (tức Thánh Thất Tây Ninh ngày nay). Nhớ ngày nào, Đức Ngài nguyện làm con tế vật cho Đức Chí Tôn sai khiến, mà trò đời quá cay nghiệt để lỡ bước đường hành đạo. Đức Ngài thống khổ mà nảy ra bài tự thán như sau :
THI
Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh,
Bằng địa sóng xao khiến rập rình
Tà mị phàm rung rinh chất Thánh
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh
Xưa Tòa Thánh dập dìu lai vãng
Nay Bửu đình hiu quạnh lụy nhìn
Thương Đạo mến Thầy xin sớm liệu
Cộng tâm chung trí chớ làm thinh.

Thông cảm được nỗi oan khiên của Đức Ngài, Đức Cao Thượng Sanh đã họa bài thi trên như vầy :
HỌA VẬN
Dập dìu nào buổi Thất Tây Ninh,
Hiu quạnh hôm nay gió rập rình
Trước ngõ lơ thơ vài đạo hữu
Sau hiên meo mốc mấy pho kinh
Rừng xơ vẻ thắm chim không đỗ
Cảnh lợt màu tươi khách biếng nhìn
Xây dựng là ai, ai phá hoại
Sụt sùi để bước khó làm thinh.

Thất Nương Diêu Trì Cung cũng giáng cho Ngài bài thi để an ủi :
THI
Nghĩ giận mà ra bắt nực cười
Nhờ ai an vị lại an nơi
Trăm năm chưa giữ bền thân sống,
Một kiếp đã gây lắm tội đời,
Phẩm Phật ngôi Tiên an dẫn nẻo,
Ngai Thần vị Thánh kẻ toan dời,
Nhắn lời nói với phường đen bạc,
Đến cửa thiêng liêng ngó mặt trời.

Nỗi oan tình đó, không những Diêu Trì Cung rõ thấu mà thi phàm mắt thịt của toàn đạo bấy giờ ai cũng biết. Mọi việc là do bà Nguyễn Thị Hiếu (do bà kể lại lúc sanh tiền). Bà thấy những người công quả bị chói nước, ăn không tiêu, bà có bổ thuốc tiêu để bán lại cho ngừơi làm công quả phá rừng. Những kẻ ganh tị cho bà làm tiền chư tín hữu.

Việc thứ hai, một buổi sáng trên cầu ván nơi Thảo xá Hiền cung bà để một số hàng bông rau cải, để đem ra chợ bán. Một ít người đi qua thấy không biết cho là hàng bông của chùa.

Việc thứ ba, bà có lấy một số chai nước tương rỗng đem về Thảo xá Hiền cung để đựng nước cho Đức Cao Thượng Phẩm uống vì sợ chói nước (Tây Ninh thuở trước nước rất độc). Người ta cho bà lấy chai còn nước tương.

Ba việc ấy khiến cho kẻ kém vị tha làm đơn thưa lên Hội Thánh. Việc này chưa ngã ngũ thì một vài người đưa tin này về Sài Gòn, thêu dệt thêm này nọ. Rồi họ kéo lên Thủ Đức xúm lập vi bằng. Trong đó có ông Nguyễn Phát Trước tính nóng nảy, nhứt quyết đưa một số người về Tòa Thánh vấn nạn. Hậu quả của việc bạo hành đó, ông Trước sau khi về Sài gòn, một thời gian bị đèn Manchon phựt xăng cháy, người ông bị thiêu.

Nguyễn Phát Trước tự Tư Mắt mà các tay giang hồ thời bấy giờ quen gọi là anh Tư Đại Ca. khi ông được tin nhà ông Đốc học Đoàn Văn Bản có đàn cơ thỉnh tiên ông đến xem thực giả. Chính Đàn Cầu Kho này đã thâu nhận ông là môn đệ của Đức Cao Đài (1926).

Một hôm ông viết một cái khải (sớ không ai được đọc) vái rồi đốt tại Thánh Thất Cầu Kho (nhà ông Bản). Thình lình có ông Trần Văn Tạ (sau đắc phong Hộ Đàn Pháp Quân) một nhân viên chính quyền bước vào. Oâng Tư Mắt sợ cơ về trả lời bức mật khải thì ông nguy tính mạng. Vì trong cái khải ấy ông xin giết De la Chevrotière, Thượng nghị viện đồng thời với ông Lê Văn Trung. Điều lo lắng của ông không xảy ra vì cơ không đáp mà ông Trần Văn Tạ đã là đạo hữu đến hầu đàn chớ không phải với tư cách mật thám.

Tính khí ông ngang tàng, là trùm du đãng vùng Sài gòn - Chợ Lớn, chính quyền Pháp cũng nể vì ông. Cũng có điều lạ, ông rất sợ Đức Chí Tôn sau khi theo đạo ông lập Thánh Thất Chợ Lớn tại nhà ông, trên lầu thờ Thầy, dưới dùng làm nhà ở và tiếp khách. Đạo hữu đến cúng kiến tại Thánh Thất của ông rất đông, có lẽ họ dựa vào ông để được che chở khỏi bị các tên du đảng bắt nạt hay một lý do huyền nhiệm nào khác. Sau khi khai đạo ở Gò Kén (15-10-Bính Dần) Ông được ân phong Lễ sanh Mắt Mục Thanh (phái Thái). Ông vâng mệnh Ngài Thượng Đầu Sư lập Thánh Thất trước Lý Minh Đài. Tại đây, quyển "Đại Thừa Chơn Giáo" ra đời (1936), làm nền tảng cơ vô vi gốc từ CĐ phổ độ mà ra.

Vì tính khí ngang tàng mà nhiều lần ông đã đề nghị với Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt với sự hậu thuẫn của Đạo nổi lên chống Pháp và chiếm phủ Toàn quyền. Vì là một bậc chân tu, Ngài Đầu Sư từ chối. Ông Tư Mắt tuyên bố hành động một mình, sẽ giết toàn quyền Alexandre Varenne (1925-1928). Với tính nóng nảy, thiếu kế hoạch và trì chí, rốt cuộc mọi lời tuyên bố của ông đều trôi qua.

Nghe tin đồn Ngài Cao Quỳnh Cư lạm dụng, ông vốn nóng nảy bồng bột vội về Tây Ninh bạo hành. Hậu quả cách đó không lâu Đức Chí Tôn đem ông về. Cái chết của ông thật thê thảm. Lúc bấy giờ ở Chợ Lớn các nhà sang trọng dùng đèn Manchon treo giữa nhà nhưng cái bơm hơi chuyền xuống đất, ông lại nằm gần cái bơm hơi này, quấn chăn. Không rõ vì lẽ nào, cái bơm phát nổ, đèn phựt cháy luồn xuống cái bơm bắt lửa qua cháy cái khăn. Hạ bộ của ông bị phỏng nặng hỏa nhập, nên vừa đến bệnh viện thì ông chết (1929).

Ngài Thượng Đầu Sư có đến phúng điếu và chia buồn cùng bà Nguyễn Phát Trước và có nói câu "Thầy đem em Tư về sớm là cái hay cho cơ Đạo". Ngay đêm hôm đó, đồng tửTrần Văn Hoằng (con ông Trần Văn Tạ) chấp bút. Thái Mục Thanh nhập đàn, tỏ vẻ hối tiếc những việc làm đã qua và ông khuyên gia đình nên tu niệm.

Nhằm tạo một giải pháp danh dự cho Đức Cao Thượng Phẩm, Ngài Đầu Sư Thượng Trung Nhựt đề nghị bỏ thăm kín việc ở lại Tòa Thánh hay về Thảo xá Hiền cung của Đức Cao Thượng Phẩm. Trong 45 chức sắc nam nữ có mặt : 27 thăm chống ở lại, 15 thăm thuận và 3 thăm trắng. Đức Hộ Pháp tuyên bố : "Dù 3 thăm trắng nhập vào 15 thăm thuận vẫn ít hơn 27 thăm chống. Vậy Anh Tư nên về TXHC". Chính Đức Hộ Pháp cũng đi an dưỡng nơi Thánh Thất Thủ Đức, đàn cơ 26/2 Mậu Thìn (1928), Đức Chí Tôn giao cho Thượng Đầu Sư chưởng quản Tòa Thánh dàn xếp cơ khảo đạo vì Tư Mắt là người do Ngài Thượng phổ độ nên rất kính trọng Ngài.

Nỗi oan khiên của Đức Cao Thượng Phẩm được đồng đạo đến thăm và chia xẻ nỗi buồn. Trong số đó có Phồi Sư Thượng Tông Thanh - người Trung Hoa tặng Đức Ngài hai bức khảm xà cừ có chạm bài thơ tứ tuyệt. Trong bài thơ có ba chữ "Độc huyên nghiên" (hoa mai đơn độc) hợp với tâm sự nên Đức Cao Thượng Phẩm cho treo tại TXHC. Nội dung như sau :
Nguyên văn
Chúng hoa dao lạc độc huyền nghiên
Chiêm đoán phương tình nội tiểu viên
Sơ ảo hoành tà thiểu thanh đạm
Aùm hương phù động nguyệt hoàng hôn.

Dịch thơ
Ngàn hoa rơi, đóa hoa đẹp còn vương
Lặng ngắm vườn con tình ngát hương
Bóng nhạt khẽ mơn làn nước lạt
Hương thầm khơi nhẹ trăng chiều hôm.

Bài thơ này của Lâm Bô (967-1028) đời Tống, nguyên bản là bài Bát cú. Phối sư Tông chỉ chọn 4 câu đầu có sửa 5 chữ "Chiếm tận phong tình hưởng" và "thanh thiển" ra "thanh đạm" (xem nguyên bản trang 4)

Một hôm, Đức Ngài cùng Đức Phạm Hộ Pháp phò loan được Đức Chí Tôn dạy : "Nếu con không rét thì có yếu như vậy đâu. Con ráng nhịn cơm chừng ba bốn bữa nữa đặng Thầy dùng huyền diệu pháp mà trị cho con thiệt mạnh, lần này mới dứt bịnh, miễn đừng ăn món chi nó phạt tì thì thôi". (Đức Ngài đau bao tử).

Một đàn cơ đêm kế, Đức Chí Tôn cho biết bịnh của Đức Ngài là cơ thử thách : "Phải, con có bịnh vậy đặng trừ bớt thử thách của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật đương lo lập vị của mỗi đứa."

Thầy thấy con bịnh phổi và bao tử, nên cho huyền diệu pháp cho con khỏi ăn đôi lúc để thiệt mạnh. Hai cơ khí ấy vốn là hình chất, nên khó lấy huyền diệu mà trị nó theo lẽ thường Thầy buộc ngưng phận sự nó đặng tiếp dưỡng hườn nguyên.

Không ăn mà sống. Trong không khí tuy phàm nhãn không thấy đặng. Không khí chứa đầy vật chất tiếp dưỡng (Matières nutritives) của xác trần vì nhờ nó biến hóa chúng sanh đặng.

Vật chất phải tiêu, mà khí pháp vẫn còn, tỷ như đá núi xay ra bột làm ciment mà khí phách đá vẫn còn giữ tánh cứng của nó, trộn nước cho đóng khô lại thì nó hườn như đá thường. Thảo mộc dầu phải chặt rã ra thì khí phách cũng vậy. Con tưởng xác chôn rồi, trong xác ấy cho hườn nguyên khí phách mà hiệp lại cùng không khí chăng ?

Các khí con hớp hằng ngày ấy thì như bữa cơm con ăn đó vậy. Thầy chỉ sửa cơ khí phàm các con, nhứt là bao tử cho nó có huyền diệu pháp mà tiếp cho đặng cái khí phách ra làm vật thực nuôi nấng lấy mình. Vì vậy, nhiều đứa phàm xác vẫn còn mà đắc Đạo tại thế, tuyệt cốc xác thân chẳng hại chút nào"

Bịnh của Đức Ngài là tâm bịnh, từ khi về Thảo xá Hiền cung thân thể ngày càng mòn mỏi, sắc diện âu sầu. "Sự nhận thức có lẽ Ngài bị bịnh thất chí, vì hành đạo không được y theo sở nguyện nền đạo trong buổi sơ khai, lo truyền giáo phổ độ chúng sanh, mà Ngài lại an ổn tại tư gia nên Ngài bực tức vì Đạo vì Thầy mà lo họ ngăn trở bước đường hành Đạo.

Thiết tưởng, người có đủ đức tin nơi Chí Tôn, thì dầu có sản nghiệp triệu phú cũng không thể ngồi an hưởng riêng cho được. Huống chi Đức Cao Thượng Phẩm là môn đệ tin Đức Chí Tôn Đức Phật Mẫu đầu tiên.

Khi Đức Chí Tôn giáng trần khai Đạo, cũng giáng huyền diệu cơ bút thâu môn đệ, dạy thờ Thiên Nhãn trước hết cũng tại nhà Ngài (tức sau khi quan sát cách thờ phượng nhà ông Ngô Văn Chiêu), nên lòng thành kính Đạo thật đầy đủ. Các Đấng Thiêng Liêng giáng cơ dạy Đạo, thì Đức Cao Thượng Phẩm cùng Đức Hộ Pháp phò loan. Hai Ngài lãnh hội giáo lý nhiều hơn hết.

Đến khi gặp cơn khảo đảo, bị nhơn sanh bạc đãi buộc phải lui về tư gia, thì dầu đủ nghị lực tinh thần cũng phải buồn lòng thất chí, nên lâm bịnh lương y khó phương điều trị" (Theo Đạo sử xây bàn của Bà Nguyễn Đầu Sư).

Vì lẽ ấy mà Hội Thánh lập một Tịnh Thất nơi cụm rừng gần Báo Aân Từ ngày nay, để rước Đức Ngài về tịnh luyện hầu di dưỡng tinh thần qua cơn khảo đảo. Bảy giờ sáng ngày 15/10/Mậu Thìn (1928) một đoàn xe hơi gồm chư chức sắc Đại Thiên phong đến Thảo Xá rước Đức Ngài về nhập Tịnh Thất.

Vào tịnh thất một thời gian, bịnh trạng không thuyên giảm lại biếng ăn, mất ngủ. Thế nên 18 giờ ngày 26 tháng 12 năm đó, bà Giáo sư Hương Hiếu và Giáo Hữu Thượng Trí Thanh kêu một cổ xe ngựa đưa Ngài trở lại Thảo xá Hiền cung, vì Ngài không muốn cho Hội Thánh hay.

Đến 11 giờ ngày 1-3 Kỷ Tị (1929) Đức Ngài cho mời Đức Phạm Hộ Pháp, Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu (tức bào huynh của Ngài), Bà Giáo sư Hương Hiếu, Giáo hữu Thiện Trí Thanh, Giáo hữu Thượng Kỳ Thanh, Lễ sanh Thượng Ngươn Thanh, đức Ngài nhìn Đức Phạm Hộ Pháp mà trối rằng :

-Nay Qua về chầu Đức Chí Tôn, em ở lại hiệp với chư chức sắc chung lo nền Đạo của Thầy cho được vẹn toàn mọi sự.

Kế day qua nói với người bạn đời của Ngài :
- Anh dầu có nhắm mắt thì sự mất cũng như sự còn.

Đức Ngài nói xong tuôn hai hàng nước mắt rồi xuất hồn êm ái, nét mặt cũng như người đang ngủ. Có điều lạ thường là lời trối của Ngài có hàng có chấm cũng như lúc mạnh khỏe. Chư chức sắc có mặt đều bùi ngùi cảm động.

ĐẮC VỊ KIM TIÊN
(1-3-Kỷ Tỵ)

Thi thể của Đức Ngài được liệm trong liên đài hình bát quái, quàng tại Thảo xá trong ba ngày. Chư chức sắc và đạo hữu nam nữ đến tế lễ rất đông.
Trong lúc tang lễ, chư chức sắc Hiệp Thiên Đài cầu cơ, Đức Ngài giáng đàn tỏ vẻ vui mừng, được bái mạng Đức Chí Tôn nơi Bạch Ngọc Kinh và Đức Phật Mẫu nơi Diêu Trì Cung. Thiên đình đã nhận công tròn quả mãn trong buổi đầu khai nguyên của nền Đại Đạo của Ngài. Đức Ngài cho một bài thi tứ tuyệt.

THI
CAO thanh miệng thế mặc chê khen
THƯỢNG trí màn chi tiếng thấp hèn,
PHẨM cũ ngôi xưa dầu rõ giá,
Từ bi tập tánh được thường quen.

Ngày 3-3-Kỷ Tỵ (1929), Hội Thánh rước liên đài Đức Ngài về Tòa Thánh, đông đủ chư chức sắc từ Đức Hộ Pháp, Thượng Sanh, chư vị Thập Nhị Thời Quân đến chức việc đạo hữu đi thỉnh vong dài đặc. Thuyền bát nhã đến Đền Thánh mà đoạn chót còn ở Thảo xá đường dài trên 4 cây số.

Đến ngày 8 lúc 8 giờ thì đi lên đài nhập bửu tháp. Đại diện chức sắc Hiệp Thiên Đài đọc ai điếu, đến Ngài Thượng Đầu Sư Cửu Trùng Đài trạng tỏ công nghiệp, sau hết là điếu văn tỏ lòng cảm mến của Bà Chánh Phối Sư Lâm Hương Thanh, đại diện Nữ phái.

Khi liên đài ra bửu tháp, Đức Ngài có giáng cho hai bài thi mà ngay nay dùng để thày dâng lễ.

THI
Xủ áo trần hoàn đã rảnh tay,
Thung dung nhờ núp bóng Cao Đài,
Rừng tòng nhựt rọi khi mờ tỏ,
Sớm lạc trăng lồng kẻ tỉnh say.
Phi thị mặc đời nơi quán tục,
An nhàn rảnh dạ khách thiên thai.
Ngậm cười nêu quạt chờ sanh chúng,
Biển khổ ngày qua đếm một ngày.
Ngảnh lại mà đau cảnh đoạn tràng,
Cõi Thiêng mừng đặng dứt dây oan.
Nợ trần đã phủi lòng son sắt,
Ngôi vị nay vinh nghĩa đá vàng.
Cỗi tấm chơn thành lòa nhựt nguyệt.
Phơi gan chí sĩ nhuộm giang san.
Bốn mươi hai tuổi sanh chưa phi,
Để mắt xanh coi nước khải hoàn.

Vào đêm 7-3-Kỷ Tỵ (16-4-1929) Đức Chí Tôn giáng cơ dạy :
"Thầy đã nói rõ : Thượng Phẩm phải về Thầy trước các con, nhưng hại thay, vì biếng nhác, các con không đọc Thánh ngôn của Thầy mà kiếm hiểu.

Đạo vốn vô vi, nếu Thượng Phẩm không trở lại Thiêng liêng chi vị, thì ai đem các chơn hồn các con vào cửa Thiên giùm đó con. Lại nữa các con vốn là kẻ dẫn đường cho cả chúng sanh, thay mặt cho Thầy nơi thế này về phần đời còn phần Đạo cũng có đôi đứa con mới đặng.

Con đừng phiền mà trách mấy anh con, nhứt là đừng nói rằng : Chúng nó giết Thượng Phẩm nghe. Vì Thiên cơ đã định, các con biết chi mà hờn trách lẫn nhau.

Con phải xây cái tháp của Thượng Phẩm phía trước cây ba nhánh, phải day mặt về đông, giống như ngó vào điện mà hầu Thầy vậy. Song ba từng phải lợp ngói như nóc chùa của Đường nhơn vậy.

Đừng làm như tháp của Bảo Đạo, vì hai đức phẩm vị khác nhau. Chung quanh Bát Quái Đài phải làm như hình có cột tại chính giữa tháp phải có lỗ cho nhựt quang rọi vào tới liên đài".

Xem thế việc qui thiên của Đức Ngài là thiên thơ dĩ định. Tuy hành Đạo ngắn ngủi có 4 năm nhưng công nghiệp Đức Ngài đáng nêu vào Đạo sử cho người sau noi dấu.

1/ - Nhà Đức Ngài là nơi phát tích xây bàn để tiếp nhận những thiên điệp đầu tiên của Bạch Ngọc Kinh. Thế nên, vào đêm 25-12-1925 Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế phán rằng : "Nhà này (nhà Ngài) sẽ đầy ơn Ta, giờ ngày gần đến đợi lịnh. Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa".

Lễ Hội Yến đầu tiên, lập đàn cầu đạo, giai đoạn xây bàn cũng ở tại nhà Đức Ngài.

2/ - Đức Ngài phế thân hành Đạo trước nhứt và vững niềm tin hơn cả. Chính Đức Phạm Hộ Pháp đã thố lộ trong bài thuyết Đạo đêm 17-8-Quí Tỵ như vầy : "Bần Đạo không có đức tin gì hết, nghe nói Tiên giáng đi theo nghe thi chơi". Còn Đức Cao Thượng Sanh thường ít đi hầu đàn vì không tin. Một hôm xây bàn, Ngài Cao Quỳnh Diêu thưa với chơn linh cụ Cao Hoài Aân (thân sinh Ngài Cao Hoài Sang) rằng : "Anh đề thi mà khuyên dạy nó (ông Diêu là chú ông Sang) và lấy vận voi, mòi, còi, roi, thoi của bài Tứ Thứ qui Tàu mà họa lại". Chơn linh cụ Aân cho thi :
THI
Thuyền khơi gió ngược khá nương voi,
Vận thới hầu nên đã thấy mòi.
Vườn cúc hôm nay muôn cụm nở,
Rừng tòng buổi trước một cây còi.
Hồng nương dặm gió chi sờn cánh,
Ngựa ruỗi đường hòa khá nhọc roi.
Nín nằm chờ qua cơn bỉ cực
Thìn lòng chứng có lượn đôi thoi.

3/ - Kiểu mẫu áo mão đầu tiên làm tại nhà Đức Ngài do bà Nữ Đầu sư Hương Hiếu (bạn đời của Ngài cắt may).

4/ - Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung cũng nhập môn theo Đạo tại nhà Ngài vào 11-1-1926.

5/ - Đức Chí Tôn mượn đôi tay của Ngài chấp nhang để trục thần của Ngài Phạm Công Tắc ra để chơn linh Hộ Pháp nhập vào đêm 13/5/Bính Dần tại nhà Ngài Lê Văn Trung.

6/ - Cất Tòa Thánh (tạm) đầu tiên bằng tranh, di cốt Phật Tổ và an vị nơi Đại Đồng Xã.

7/ - Bàn tay Đức Ngài đã dựng các cơ chế Đạo, Đức Ngài qui là cơ Phong Thánh đã gãy.

"Cái cơ Phong Thánh, cơ lập thánh cơ truyền giáo Ngài đã đem theo, nên ngày giờ này, thảng có cơ Phong Thánh thì Ngài cậy mượn Cao Tiếp Đạo nâng loan có Ngài trợ lực, chớ cây cơ Phong Thánh hiển nhiên giờ phút này không còn. Cái tiếc của Bần Đạo có hay chăng là ở điều đó". (Theo lời thuyết minh của Đức Phạm Hộ Pháp ngày 1-3-Canh Ngọ, 1930).

Trong bài ai điếu của Đức Hộ Pháp đọc trong buổi chung qui của Đức Cao Thựong Phẩm đã nói lên tấm lòng thương tiếc ấy qua bài thi.

THI
Thượng Phẩm ôi, hỡi anh ôi
Chưa xong trách nhiệm vội về Trời
Bốn năm công quả vun nền Đạo
Mấy đoạn chông gai chịu nước đời
Ngọn bút Thần cơ Trời nở đoạn
Nắm xương Thánh chất lấp chôn vùi
Mực hòa huyết lệ đề câu điếu,
Thượng Phẩm ôi, hỡi anh ôi.

8/ - Nhìn tượng Bát Tiên, ta thấy có một vị cầm Long Tu Phiến (quạt) đó là Hớn Chung Ly ngươn linh của Đức Cao Thượng Phẩm . Đức Hộ Pháp giải thích tại sao thờ Đức Cao Thượng Phẩm tại Báo Aân Từ như sau : "Nguyên căn của Hớn Võ Đế là Hớn Chung Ly giáng sanh thành lập quốc gia. Kỳ Hạ ngươn này, Đức Cao Thượng Phẩm cũng là chơn linh của Hớn Chung Ly tái thế lập thành quốc Đạo nên tạc hình Đức Cao Thượng Phẩm thuận hơn".

Đến năm 1945 Đức Ngài có giáng cho một bài thơ ý tứ súc tích :
Đường mây sẵn lối gặp may duyên,
Nặng gánh xa thơ sửa mối giềng
Anh tuấn đất gìn nung khí phách,
Uy linh trời giữ tạc đài liên.
Hồn về nước cũ đời nương thế
Hạc lại tùng xưa đức lập quyền.
Đảnh Việt chờ qua cơn bão tố
Muôn năm tỏ rạng mối chơn truyền.

ĐỆ TỬ THỨ MƯỜI BA
CAO HOÀI SANG
(1900 - 1971)

I/ - PHẦN ĐỜI :

Đức Cao Thượng Sanh quí danh là Cao Hoài Sang, sinh năm 11/9/1900 tại xã Thái Bình, tỉnh Tây Ninh. Thân sinh là cụ Cao Hoài Aân, một vị Thẩm Phán đầu tiên tại Miền Nam, và thân mẫu là Bà Hồ Hương Lự (được ân phong Nữ Đầu Sư). Đức Ngài là con út trong gia đình có ba anh em. Người anh cả là Ngài Cao Đức Trọng. Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài và chị là Giáo Sư Cao Hương Cường Giám đốc Cô nhi viện Tây Ninh.
Sau khi thi đỗ bằng thành chung, Đức Ngài vào làm việc tại Sở Thương Chánh (tức Quan thuế Sài gòn) cho đến chức Tham Tá Thương Chánh rồi hồi hưu.

Trong thời gian làm công chức, Ngài còn là một nhạc sĩ củs trường Quốc Gia Aâm Nhạc, được khen tặng là một công chức thanh liêm mặc dù làm ngành quan thuế có nhiều cám dỗ.

Ngài có chín người con, năm trai, bốn gái. Người con đầu lòng là giáo sư dạy toán Cao Hoài Hà và con út là Cao Minh Tâm.

II / PHẦN ĐẠO :

ĐAU LÒNG VÌ NỀN ĐẠO BỊ PHÂN CHIA
(1937-1940)

Trước sự bành trướng và lớn mạnh của Đạo Cao Đài, chính quyền Pháp sợ Đạo trở thành một phong trào ái quốc (Gouvermement Géúeral de l'Inaochine, contribution à l'histcire des nouvement collitunes de l'Indochine francsise, quyển VII la Caodaisme Hà Nội 1934), sẽ gây khó khăn cho họ, họ tìm đủ mọi cách để ly gián làm cho người Đạo nghi kỵ lẫn nhau mà chia rẽ. Từ năm . Từ năm 1931, khởi đầu là ông Nguyễn Văn Ca tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh về lập phái đạo ở Cầu Vỹ (Mỹ Tho) rồi Nguyễn Ngọc Tương về Bến Tre lập Ban Chỉnh Đạo, đến năm 1940 thì đủ 12 chi phái.
Trong tình trạng các nhà hướng đạo ý hướng bất nhứt, Ngài Thượng Sanh Cao Hoài Sang tập hợp lại đa số Thập Nhị Thời Quân để chấn chỉnh và thống nhất lại nền đạo.

Ngày 10/11/1937 Ngài Thượng Sanh đứng đầu danh sách ra tờ Kỉnh Cáo như sau :

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
KỈNH CÁO

"Hiện thời, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Đô đã sai biệt với Chơn Truyền, bất đồng tín ngưỡng, mất trật tự tôn ti, kém tinh thần liên lạc. Điều ấy dù không giải rõ tưởng chư Đạo hữu cũng chán biết.
"Đem chúng sanh trở về Chánh giáo, nối chặt dây thân ái đặng cùng chung một tín ngưỡng chơn chánh, một tôn chỉ bác ái từ bi, ấy là trách nhiệm hiện thời của Chức sắc HTĐ do theo mạng lịnh Đức Lý Đại Tiên, Nhứt Trấn Oai Nghiêm ngày 22 .......1937

"Không thái quá mà cũng không bất cập, Chức sắc HTĐ sẽ cẩn thận từ ly từ bước một trong việc hành đạonguyện đem hết dạ vô tư chí thành liêm khiết đặng bảo thủ Chơn Truyền và nêu cao danh thể Chí Tôn nơi cõi Việt.

"Ngày ......Novembre 1937, Chức sắc Hiệp Thiên Đài vì muốn giữ trọn nghĩa vụ Chức sắc đối với ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc nơi Tòa Thánh Tây Ninh, nên lần cuối cùng có gởi cho người một bức thơ. Ông Phạm Công Tắc không lấy chánh danh mình trả lời, lại để cho một kẻ khác đứng tên trả lời.

"Vậy chiếu theo điều lệ thứ ba trong Hiến Pháp và ................ Luật Hiệp Thiên Đài lập tại Tòa Thánh ngày ........................ chức sắc Hiệp Thiên Đài không nhìn nhận ông Phạm Công Tắc là Hộ Pháp Hiệp Thiên Đài nữa.

Phú Nhuận, ngày 10 Novembre 1937
HIỆP THIÊN ĐÀI
"THƯỢNG SANH CAO HOÀI SANG"

Hầu hết Thập Nhị Thời Quân đều ký tên vào tờ Kỉnh Cáo này, trừ có bào huynh của Ngài Cao Thượng Sanh là Tiếp Đạo Cao Đức Trọng và Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.

Thật ra, điều thứ ba Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài ghi như vầy : "Nếu Hộ Pháp chuyên quyền không do theo phần đông thì phần đông ấy đặng phép không tuân lịnh của Hộ Pháp và công bố cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài biết đặng đợi ngày cầu xin Đức Chí Tôn phán xét". (Theo Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài năm Nhâm Thân 1932)

Đầu xuân 19..........., tôi có đến Giáo Tông đường, nơi Ngài Cao Thượng Sanh làm việc để tỏ về việc viết tiểu sử của Ngài. Ngài rất từ tốn không nói gì nhiều, chỉ cho tôi một ít bài mà trong buổi đầy học Đạo Ngài đã xây bàn với Ngài Bảo Văn Pháp Quân, vì các sách trong Đạo hiện chưa có những bài này. Trong suốt quá trình công phu, công quả, Ngài tùy cho nhơn sanh định lượng, Ngài chỉ nhấn mạnh về tờ kỉnh cáo năm 1937 mà Ngài cho là bị nhiều người trích điểm nhất, nhưng chẳng bao giờ Ngài chính thức biện hộ cho mình, mà để công luận và lịch sử soi xét. Ngài nói :

"Khi có sống trong những năm tháng nền Đạo suy vi chia rẽ thì mới thấy những nỗi khổ tâm, lo lắng của những người có sứ mạng lúc bấy giờ. Bao nhiêu Thánh Thất .............. thuộc về ông Tương. Các vị Thời Quân thì bấp bênh trước lời kêu gọi của ông Tương đang ......... một bộ phận Hiệp Thiên Đài, chư Đạo Hữu chẳng biết ngã về đâu ? Tờ kỉnh cáo có tác dụng trấn an các vị Thời Quân và chư Đạo hữu từ vùng Sài Gòn trở xuống Hậu Giang. "Chư đạo hữu muốn hỏi điều chi về việc Đạo xin do nơi Văn phòng tạm thời của HTĐ ở Từ Vân Tự, Phú Nhuận, Gia Định". Câu này hàm ý ngăn chặn không để một ai ngã về Chi phái. Theo Ngài con đường nào rồi cũng về Tòa Thánh Tây Ninh.

Thật vậy, ngày 27/11/1930, ngày lễ Khai Đạo tại Bến Tre, ông Nguyễn Ngọc Tương cò mời Ngài Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân đảm nhiệm cơ quan Hiệp Thiên Đài. Ngài Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân không ai đến Bến Tre dự lễ cả, nhưng Ngài có gởi Chương Trình Hành Đạo ()........"Lịch sử Cao Đài" Sài Gòn Cao.......1972, Xuyên tạc là "Ông Thượng Sanh Cao Hoài Sang hành đạo tại Hội Thánh Bến Tre".) , coi như một lời cảnh giáo, một lời khuyên bảo đạo đức, chớ không phải khế ước hiệp tác, vì Ngài không có đến dự hội.

Chương trình hành đạo gồm 10 khoản như sau :
"1. - .................... sự giáo hóa tín đồ bằng cách thuyết đạo và xuất bản sách Đạo.
"2/ - ......... lập hàng sản mà thi hành các điều cần ích hiện thời các nhơn sanh nhờ.
"3/ - Lập cơ sở và tạo tác công cuộc có ích về hình thức và tinh thần như trường học, thư viện, ấu trĩ viện ...
"4/ - Thâu nhận những tín đồ thất nghiệp vô sản đặng cố dụng vào các cơ quan của đạo.
"5/ - Lo lắng về phần nhơn đạo, quan hôn, tang tế chẳng cang phân biệt giai cấp, "nhứt gia hữu sự bá gia ưu" đặng thật hành tròn câu phổ độ.
"6/ - Lo trau dồi chức sắc về nghĩa lý đạo đức, lấy chủ nghĩa thương đời un đúc cho ra một chức sắc của đạo.
"7/ - Nơi nhà tu nữ phái phải Giáo hóa về tinh thần đạo đức.
"8/ - Mở cửa rước nhân tài, những tín đồ này được biệt đãi.
"9/ - Mỗi thời kỳ ba tháng phải có một "Ban Vấn An" đi khắp các Thánh Thất xem xét tình hình cơ Đạo.
"10/ - Lập Hiến Pháp hai đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng".

Lời cuối cùng của "Chương trình hành Đạo" là một lời ............. : "Chủ trương của Ban Chỉnh Đạo lúc nào cũng phải thiên về việc trở về Tòa Thánh Tây Ninh, là nơi nguồn cội của Đạo".

Như thế, Ngài Cao Thượng Sanh đã thi hành nhiệm vụ của Ngài là đưa những người lầm đường lạc lối trở về nguồn Đạo.

Thế thường người ta giải thích việc phân chia chi phái có cái lợi là chia vùng ảnh hưởng để phổ thông Đạo trời, Pháp đóng chi này thì con chi kia, có người lại đổ lỗi cho các nhà hướng đạo ham quyền cố vị. Những giải thích đó là phiến diện, không bới tạn gốc của vấn đề, không minh thuyết một cách biện chứng khách quan.

Là người Đạo, chúng ta đều chấp nhận "mọi chi chi đều có Thầy ở trong". Đó là định luật an bày của Đấng Tạo Hóa, sanh rồi diệt "nhánh có trái bông nhánh cụt còi". Đã bao nhiêu chi phái cụt còi, Tòa Thánh Tây Ninh thì một ngày một tươi sáng và phát triển, là tại sao ? Tại vì Tòa Thánh là Thánh Địa "nơi nào Thầy ngự, nơi đó là Thánh địa". Thầy xác nhận trung tâm quyền lực Tôn giáo ở Tây Ninh chớ không nơi nào khác (Tân Luật ... tr 117.) .

Người ta không giải thích vấn đề chia rẽ chi phái một cách công bằng và khoa học, mà đổ lỗi cho người này, người nọ, chỉ gây thêm niềm thù lẫn nhau mà không giải quyết được vấn đề gì. Toàn bộ quyển hai "Lịch sử Cao Đài ĐĐTKPĐ" của ĐT (xuất bản 1972) là nhằm triệt hạ hai cơ đạo lớn nhứt là Tòa Thánh Tây Ninh và Tòa Thánh Bến Tre, sao người ta không nói đến mấy ông Hộ Pháp, Thượng Sanh, Thượng Phẩm ở ....................(Bạc Liêu) hay một vài ông nơi khác ?

Gần 50 năm (tính đến 1972), tất cả tín đồ trực thuộc Tòa Thánh Tây Ninh và những Thánh Thất ..................... có cảm tình với Tòa Thánh Tây Ninh, không ai mắc lừa ! Không một vị Thập Nhị Thời Quân nào bỏ Tổ Đình Tây Ninh.

Chưa kể nhiều Thánh Thất cũng qui về Tây Ninh, trong đó có Từ Vân Tự, nhiều chi pháo lớn như nhóm Nguyễn Bửu Tài, nhiều anh lớn nổi danh cũng trở về thọ phong như Bác sĩ Trương Kế An được Thiên ân Bảo ...... Quân ... Nếu Tòa Thánh Tây Ninh không theo luật pháp Đạo, sao phát triển mau lẹ, sao có nhiều vị đại chơn tu, đại khoa bảng đến tìm hiểu và xin nhập môn như Luật sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Lộc.

Ông ĐT rất sai lầm khi viết : "Trên thực tế các chi phái Đạo Cao Đài (ngoài Tây Ninh) đều không tôn thờ ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc như ở Tòa Thánh Tây Ninh". (ĐỒNG TÂN, sđđ, tr .......) "Hai ông Thượng Phẩm và Hộ Pháp hợp thành một cặp đồng tử chấp cơ phong Thánh, truyền giáo, lập Pháp Chánh Truyền và Tân Luật, tức là Hiến Chương của nền đạo hiện giờ.

"Chúng ta phải nhìn nhận đầu công của hai ông này vào bực nhứt, trước hết và trên hết, Đức Chí Tôn mượn tay và thần lực của hai ông mà lập thành Đại Đạo. Nếu không có bàn tay xây dựng của hai ông thì :
" - Đâu có Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
" - Đâu có chức sắc Thiên phong nam nữ
" - Đâu có Hội Thánh và các cơ quan trong Đạo
" - Đâu có Pháp Chánh Truyền và Tân luật
" - Đâu có đại nghiệp hiện giờ cho nhân sanh thừa hưởng"
(TRƯƠNG HIẾN PHÁP, Đạo sử Cơ Bút - Tây Ninh 1969)

Và một người tín đồ Cao Đài chân chính không ai nhận định như ĐT, theo đạo mà chối bỏ người lãnh đạo, người Đạo thì trước sau như nhứt, chớ không phải là người đời : vừa là ông Hộ Pháp, vừa không là Hộ Pháp, không biết góc ở đâu mà có ngọn, có chi. Mặt khác, đã theo đạo phải chấp nhận đời sống tâm linh là cao trọng. Ông Phạm Công Tắc ngươn linh là Ngự Mã Thiên Quân Hộ Pháp Vi Đà , khi niệm danh Ngài thì đã tôn sùng Ngài rồi, chẳng lẽ ĐT muốn nói có nhân (?) thì phàm xác thịt của ông Phạm Công Tắc ? Thầy đã dạy : "Ai dưới thế này hoàn toàn đâu, con chỉ Thầy coi ?"

Ông ĐT để cả một quyển sách đề cao Ngài Ngô Minh Chiêu, đến nỗi gán cho Ngài nhiều thành tựu không phải của Ngài, vô tình làm giảm uy tín Ngài. Ngài là bậc chơn tu : "Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất dương phong lập", đâu cần sắc tướng bề ngoài. Ở Tây Ninh không ai chiếm ngôi Giáo Tông, trong lịch sử Đạo (**** ?) đâu có ai quên Ngài. Ngài Lê Văn Trung là Quyền Giáo Tông, chỉ có quyền về phần xác thôi. Nhiệm vụ của các Ngài xây dựng nền tảng Đạo đã xong, Đạo có Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, nền Đạo có trên, có dưới, có vô vi, có hữu hình, bỏ một chối hai thì què quặt (thống nhất lại).

Thế hệ chúng ta phải phát triển cái tinh túy của Đạo, phải nhớ câu : "Nhơn vô thập toàn" mà dẹp qua những điều không đáng nói. Không ai dưới thế này được nhân loại tạc tượng thờ mà sống trong nhung lụa, không làm điều gì cho nhơn sanh có nghĩa là biến thiên theo sự thăng trầm của sanh chúng, có lên có xuống, có vinh có nhục. ...............

Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Ngài rất lo âu khi nhận nhiệm vụ lịch sử của nhân sanh và Hội Thánh Cao Đài trao phó, nhưng nếu sợ trở ngại, sợ trích điểm thì làm sao bảo vệ được Đạo, làm thế nào để có nền đạo ngày hôm nay. Đó là việc Đại hội 3 ngày 8,9,10 tháng 11 năm 1935 đã đồng thanh tín nhiệm Đức Hộ Pháp cầm quyền thống nhất Chánh trị Đạo cho đến ngày có Đầu Sư Chánh vị.

"Đại hội đồng bỏ thăm tín nhiệm Chánh sách độc tài của Đức Hộ Pháp và xin đem hết tâm trí giúp Ngài đưa cả chúng sanh đi trên con đường Thánh Đức của Đức Chí Tôn".

"Thuận nhơn tân ắt thuận Thiên lý", hợp với chủ trương cố hữu của nền Tân Tôn giáo : "Trời người hiệp nhứt" mà ĐT thường nhắc đi nhắc lại trong quyển lịch sử của ông sao ?

Thuận nhơn tâm chỗ nào, giải thích được điều này là giải thích được nguồn gốc sâu xa cua việc phân chia chi phái.

Trước hết ta phải chấp nhận qui luật lịch sử cũng là luật của Tôn giáo : "Luật tương quan nhân quả", nhân nào quả đó và giá trị thành tựu của một tổ chức, một cuộc cách mạng, một cuộc kháng chiến tại sao Nguyễn Huệ kháng Thanh thành công mà Hồ Quý Ly chống Minh thất bại, có phải lòng dân không theo không ? Tại sao phái Cầu Vĩ của ông Nguyễn Văn Ca tiêu vong, khi gọi ông Phạm Công Tắc là độc tài lại bảo vệ, xây dựng và phát triển cơ đạo ngày càng tiến bộ, có phải hiệp lòng nhơn sanh không ?

Qui luật thứ hai là triết thuyết của Karl Marx "xã hội nào con người ấy", xã hội phong kiến thì con người phong kiến gồm hai giai cấp chính là nông dân và địa chủ.

Đạo Cao Đài phát sinh, phát triển trong lòng xã hội phong kiến, từ năm ............. đến năm 1945, Việt Nam dưới sự cai trị của nhà Nguyễn và thực dân Pháp. Như thế, Việt Nam không có truyền thống dân chủ nào, còn thực dân Pháp nhỏ giọt loại dân chủ què quặt, lai................ thuộc địa loại dân chủ lạ lùng của kẻ thống trị.

Trong khi Pháp Chánh Truyền của đạo Cao Đài đưa ra một loại siêu dân chủ, nghĩa là một loại dân chủ chưa có trong xã hội loài người. Ngoài ba quyền Lập Pháp, Tư Pháp, Hành Pháp như chế độ dại ngai của Phương Tây, nền Hành Chánh Đạo, trên hết "có Giáo Tông vị lãnh đạo tôn giáo, dưới có ba vị Chưởng Pháp có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành" ( Tân Luật, Pháp Chánh Truyền) . Vì việc chi chi đều phải có ba cái ấn của ba vị mới được thi hành. ba vị này như thế giữ vai trò của Viện Bảo Hiến.

Dưới ba vị Chưởng Pháp là ba vị Đầu Sư, có Đầu Sư Đường riêng, không làm việc chung ở Giáo Tông Đường. Nói một cách khác : "Đầu Sư ..........quyền luôn cả chính trị và luật lệ... Đầu Sư có quyền cai trị phần Đạo và phần Đời của chư môn đệ" ( Tân Luật, Pháp Chánh Truyền) . Đạo lịnh nào cũng phải đủ ba cái ấn của ba vị Đầu Sư mới được thi hành, ba vị Đầu Sư giữ vai trò Tam ........... như một Thủ Tướng.

Xem thế, tổ chức guồng máy Đạo Cao Đài quá ư dân chủ, .......bảo hiến có ba vị "Chủ........." phần hành pháp cũng có ba vị "Thủ Tướng" đồng quyền, nếu một trong ba vị không đồng ý thì Đạo Lịnh đó coi như bãi bỏ. Tổ chức guồng máy như vậy không thể nào linh động ứng phó tình thế khó khăn được .................. còn những hội nghị . . . . . .

Là quá trình ban quyền cho con người, Đức Chí Tôn đã thấy rõ 'Kẻ nào nắm cả trọn phần hữu hình và phần thiêng liêng thì là độc chiếm quyền chính trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chính trị và luật lệ vào tay thì nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế" (Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, sđđ, tr 22-23). Do đó mà Thầy tách quyền hành ra nhiều vị ............. kiềm chế lẫn nhau. Nhưng hại thay, nhân sanh còn nặng đầu óc tôn ......... (tức chấp nhận độc tài) và chưa có quá trình dân chủ nào. Những vị lãnh đạo tôn giáo phát xuất từ địa chủ, công chức của Pháp, nên có tính lấn áp Thiên mạng, ai cũng muốn có một sản nghiệp riêng, xuống phục tùng nhau : "Tôi là Đốc Phủ Sứ, tôi không chịu dưới quyền tên thu lại". Các vị buổi đầu có sứ mạng thiêng liêng nhưng chưa được tu, lại ảnh hưởng sâu đậm xã hội phong kiến, thích kẻ khác đề cao mình thay vì hạ mình để độ rỗi kẻ khác. Đó là đầu dây mối nhợ của sự phân chia chi phái. Những vị lãnh đạo có thiêng mạng hơn người nhưng vẫn ở trong vòng chế độ phong kiến, cái hạn chế đó là mắc mứu cho sự thống nhất nền Đạo. Chớ không phải lỗi tại ông này bà kia, các vị đã nhận lãnh cái bộ áo mão Thiên Phong quá cao rộng hơn tài vóc của mình thì tránh sao kẻ có tham vọng lại không muốn mặc thử ?

Người ta không lấy cái quằng xiên cao van của mình mà giải thích cho tận gốc như trên, trái lại nhiều khi còn gây mâu thuẫn nội bộ Thập Nhị Thời Quân, ông ĐT dùng xảo thuật cám ơn "Anh lớn Thượng Sanh Cao Hoài Sang, chị lớn Chánh Phối Sư Hương Hiếu" ( Đồng Tân - sđđ, tr . . .) coi như những vị này đã góp phần cho nội dung quyển sách. Chẳng qua các Ngài thấy một kẻ hậu sinh muốn tìm hiểu Đạo mà các ngài muốn dạy Đạo cho, chớ tuyệt nhiên các Ngài có đọc chữ nào trong một quyển sách của ĐT mà người tu theo chủ nghĩa vị tha đại đồng Tôn giáo không bao giờ nên đọc.

Mâu thuẫn hơn nữa là lời tựa của Ngài Cố Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu viết ngày ......................, mãi đến năm 1972 ông ĐT mới in thành sách. Chúng tôi được người trưởng nam của Ngài Bảo Pháp là Hiền tài Nguyễn Trung Ngôn, chủ nhiệm nhựt báo Tiếng Việt gởi một bức thư cho Ban Thế Đạo, nhiệm Giáo lý, giải lý rõ vụ này như sau :

"Vào giữa năm 1961, ông ĐT có đến học hỏi việc Đạo nơi Thân Phụ tôi, nghiêm từ có gởi tặng ĐT một số Thánh ngôn dạy Đạo buổi đầu. Tập bản thảo lúc đó không dày như sách in và cũng không có những chú thích có "định kiến" nào. Mười năm sau đó (năm 1971), ông ĐT còn đi hỏi việc Đạo với nhiều người khác nữa như ông Mai Thọ Truyền bà Bạch Tuyết (. . . ?) . Những điều đó chứng tỏ sau khi thân phụ chúng tôi qui tiên, ông ĐT còn thêm thắc sửa chữa theo ý đồ của mình. Thế nên, chúng tôi (. . . ?) xác nhận lời tựa của thân phụ chúng tôi là vô hiệu lực, vì không đúng với nội dung bản thảo ban đầu".

Trong quá trình phân chia chi phái, ông ĐT cũng bóp méo sự thật khi giúp người ngoại cuộc hiểu về Đạo Cao Đài như ông H.B Smith giáo sư trường Viễn Đông và Phi Châu thuộc Viện Đại Học Luân Đôn vẽ một sơ đồ phân chia chi phái (. . . ?) mà Ngài ................Bảo Đạo cho là "nhận định không chính xác". Đến nỗi sau đó, một người Mỹ nghiên cứu về Đạo Cao Đài phải từ Wasington đáp máy sang Sàigòn nhờ ông Khâm Châu Đạo Sài Gòn huớng dẫn lên Tây Ninh tìm hiểu sự thật và có đến tư gia tôi hỏi về nguồn gốc Đạo Cao Đài. (Lúc đó, tôi đã hoàn thành xong tiểu luận Cao học sử về Tôn giáo Cao Đài sau nhiều năm nghiên cứu). Trong câu chuyện, tôi luôn luôn quan niệm Cao Đài chỉ có một nguồn gốc chung, một khối duy nhứt.

Các hàng Giáo phẩm lãnh đạo Cao Đài là những bậc chơn tu. Sự xích mích nhau giữa các thi phàm là một đương nhiên, chỉ có những kẻ xấu miệng hiểu cục diện mới lấy bé xé ra to. Sự phân chia chi phái nên coi đó là một hiện tượng chớ không phải bản chất. Vì bản chất Đức Cao Đài là duy nhất, vạn vật đều từ Ngài mà có, sự thiện ác trên đời cũng do Ngài tạo ra, điều ác thúc đẩy điều thiện lên, có việc tà thuật mới làm nổi bật nền Chánh giáo, hãy nhìn đại thể nền Đạo rồi nghiền ngẫm mới thấy được triết lý cao siêu của Đức Cao Đài ban cho nhơn loại trong thờii kỳ tận thế này.

Sau đó, vào ngày khai Đạo (..............) năm........ .................... thủ lãnh Hưng Đạo..........., Trung Hưng Bửu Tòa .................... hướng dẫn phái đoàn về dự lễ, có gặp tôi tại sân lễ Đại Đồng Xã (cũng nên biết ĐT xuất thân từ THBT), đạo huynh có khen ngợi tôi viết sử với tâm tư người chánh đạo không đụng chạm chi phái nào (có lẽ đạo huynh muốn so sánh với quyển sử ĐT). Sau đó, từ Sài Gòn đạo huynh có gởi cho tôi một bức thư khá dài nói về việc đạo. Trong đó anh có hỏi về nguồn cội Thập Nhị Bảo Quân mà trong Sử ĐT chưa viết tới, còn trong tập "Sử đại cương" của tôi, tôi đã xác nhận đây chỉ là những văn kiện lịch sử Đạo chớ chưa viết lịch sử Đạo Cao Đài, vì Tòa Thánh Tây Ninh đã co Ban Đạo Sử làm việc đó. Tôi chỉ góp phần vào kho tài liệu chung. Tuy nhiên, vẫn có liệt kê về Thập Nhị Bảo Quân rồi ( TRẦN VĂN RAÏNG, Đại Đạo Sử Cương II, Tây Ninh 19711, tr 14).

Tóm lại, viết lịch sử Đạo là một điều khó, cần nhiều năm nghiên cứu cảm thể, triết lý để thấy việc phân chia chi phái là một thực thể giáo vụ, nên phải giải quyết bằng hiện trạng xã hội, do tri thức những thi phàm còn thấp so với Giáo pháp, chớ thật ra nền Đạo xét theo bí pháp Tôn chỉ và cơ cấu tổ chức buổi đầu Đức Chí Tôn ban cho thì còn nguyên vẹn. Những người nắm bí pháp thông công với các đấng vô hình vẫn còn nguyên vẹn, vẫn là một khối thống nhất.............. chung chỉ một. Đó là tam .................của Hiệp Thiên Đài vàThập Nhị Thời Quân, chỉ có những vị này mới được cầu cơ lập giáo, phong Thánh và phổ độ. Sự phát sanh ba vị Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh không phải do tham vọng mà có, thiên cơ chuyển các vị từ việc ngâm thi nhàn tản rồi các đấng dẫn vào đường Đạo. Trái lại, các chi phái thành hình cơ quan đồng tử có mục đích tham vọng theo một quá trình ngược lại (nghĩa là lập giáo hội rồi mới phong đồng tử), họ bất đồng chính kiến với một số giáo lãnh tại Tòa Thánh, tách rời lập Hội Thánh như Hội Thánh Bến Tre chẳng hạn.

Ông G. Gobron trong quyển "L'historire du Caodaisme" liệt kê 11 chi phái. Rồi sau cứ tưởng như thế là đúng mà nói theo. (?)

Ta nên xem đó chỉ là biến cố Đạo sự hoặc một cuộc khảo dượt ".......lấy gạo trơn bỏ trấu ra" hoặc đó là cái xác không hồn (vì thiếu bộ phận HTĐ) trước sau gì rồi cũng tiêu tán với thời gian ...

Ơû đây ta xét bản chất, xem những việc trên chỉ là hiện tượng, vì nền Đạo cho tới nay vẫn thống nhất. Bộ phận HTĐ vị nào cũng có về Tòa Thánh Tây Ninh hành Đạo. Chỉ có một ít chức sắc Cửu Trùng Đài phân ly mà thôi. Việc phân chia chi phái gọi từ ngữ cho đúng là một "thực trạng giáo vụ" giữa con người với nhau, nên con người phải ngồi lại với nhau, nhơn ý đã lấn Thiên ý trong địa hạt này. Chừng nào con người chưa giác ngộ cao, chưa thấy rõ mình mất nguồn, còn ràng buộc với tư phương mình, thì chừng ấy "thực trạng giáo vụ" (chi phái) chưa giải quyết được.

Nhân tấm lòng ưu tư vì nền Đạo bị ý phàm lấn át phân chia của Đức Cao Thượng Sanh, người chép sử mạo muội xét lại vấn đề như trên để nói lên sự phiền muộn của Ngài là chính đáng. Ngài cố gắng hàn lại tấm gương bể, cho đến lúc Ngài cầm giềng mối Đạo cũng cho triệu tập nhiều hội nghị để thống nhất việc ban giao hành Đạo. ( Xem thêm Đại Đạo Sử Cương III)

Một trong những hàng giáo lãnh Hiệp Thiên Đài, một cơ quan trọng đại nhất trong nền Đạo Cao Đài, Ngài tỏ thái độ của mình trước biến cố là trở về sống cuộc đời Thế đạo, tạo một truyền thống nhơn đạo tốt cho nhiều tín đồ noi theo.

TẠO TRUYỀN THỐNG
CHO CON ĐƯỜNG TU NHƠN ĐẠO
(1941-195......)

Đây là giai đoạn khó khăn nhất của Đạo Cao Đài, Đức Hộ Pháp và năm vị Chức sắc bị Pháp bắt lưu đài. Thắng-1941, Tỉnh trưởng Tây Ninh hỏi mượn Tòa Thánh cho lính vào ở, Đức Thượng Sanh rất ưu tư, nhiều người đến gặp Ngài ở Sài Gòn mong được Ngài về Tây Ninh lèo lái nền Đạo, Ngài thấy thời cơ đen tối, vai trò Ngài chưa tới nên Ngài vẫn tiếp tục con đường thế đạo, độ đời đưa vào cõi Đạo.
Có người viết sử cho Đạo Cao Đài có hai phần vô vi và hữu hành (phổ độ) như vậy là mất cân đối mà vô vi thì không phổ độ hay sao ? Phổ độ theo kiểu của vô vi chứ thật ra, Đạo Cao Đài theo luật "nhất dĩ hoán chi', chỉ có một, nhưng PHƯƠNG TU ĐẠI ĐẠO (. . . ?) theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, con đường nào cũng đưa về cõi thiêng liêng hằng sống, con đường hành đạo theo Cửu Phẩm Thần Tiên, hay Tam Thừa vô vi (hạ thừa, trung thừa và thượng thừa) tức tu tỉnh .....???...........ngộ.

Phương tu thứ nhất là con đường Hành Đạo, tu theo hàng Giáo phẩm, phổ độ chúng sanh, đây là mặt nổi của nền đạo, chư vị các Đạo theo con đường này là Phạm Hộ Pháp, Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung ...

Phương tu thứ hai là con đường Thiên Đạo vô vi hay con đường tu luyện tắt. Con đường vô vi lặng lẽ nhưng rất trù phú về tâm linh. Người đắc đạo theo lối tu này là Đức Ngô Minh Chiêu, Đức Cao Thượng Phẩm ....

Đức Thượng Sanh là hình ảnh, là mô thức con đường Thế Đạo. Pháp Chánh Truyền ghi : "Trong các kiếp hữu sanh, duy có phẩm người là cao hơn hết, nên gọi là Thượng Sanh". mặt nổi Lập Tam Kỳ Phổ Độ này, Thầy............. các chơn linh ......... nguyên sanh hay là hóa sanh lên phẩm vị nhơn loại mới trọn câu phổ độ : mặt nổi "Chơn linh các nguyên nhân bị đọa trần nay hóa nhân thăng cấp đều nhờ Thượng Sanh độ rỗi (ấy là Thế Độ) nên Thượng Sanh làm chủ của Thế Đạo, nắm luật thế nơi tay mà dìu dẫn cả chúng sanh vào cửa Đạo.
"Thượng Sanh là cây cờ đầu của ..........thì Thượng Sanh nơi đó" (24 ?).

Đức Cao Thượng Sanh một trong những hàng giáo lãnh buổi đầu của nền Đạo, Ngài cũng có bổn phận thi hành Thiên mạng mà Đức Chí Tôn giao phó. Nếu Đức Phạm Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm để lại những gương hành đạo tận tụy, vô ưu, đại độ cho chư tín đồ thì Đức Cao Thượng Sanh tạo ra một truyền thống về phần Nhơn Đạo, Ngài là điển hình mẫu mực cho con người Thế Đạo, làm khuôn thước cho người đời noi theo. Thế nên, từ năm 1941 đến 1956, Ngài ở lẫn lộn với đời để độ đời, vì "đời nơi nào thì Thượng Sanh nơi đó".

Cái nếp sống nhơn đạo, giữ gìn thế luật thể hiện qua những nét lớn như sau ; vừa làm vừa tu, giữ gìn thế luật , độ Đời vào Đạo, làm tròn nhơn đạo mong được cứu rỗi. Chữ NHƠN trong chữ Nhơn Đạo gồm chữ Nhơn đứng và chữ Nhị, có nghĩa là từ hai người trở lên mới thấy được lòng nhơn, nói cách khác nhơn đạo là cách đối xử giữa người này và người kia trong mối tương quan tam cang ngũ thường, tứ đức tam tùng, thành ý, chánh tâm ... Muốn được vậy "ăn ở chơn chánh, hành động đơn giản" (cư kính như hành giản) và "người có nhân hễ muốn tự lập thì họ lập cho người còn muốn đạt đích thì làm cho người cùng đạt, hễ xử với mình thế nào thì cũng xử với người như thế" (Luận Ngữ). Thế thì lối tu giữa chợ Sài Gòn mà Đức Cao Thượng Sanh thử nghiệm là lối tu khó nhất, bị quyến rũ và khảo đảo hơn lối tu núi (Lão), tu Chùa (Phật), tu tề (Nho) còn Đạo Cao Đài là tu tâm,trị cái tâm bướng bỉnh, phải lo tròn Nhơn Đạo mới bước qua Thiên Đạo. Giáo lý Cao Đài không từ chối cuộc sống hiện tại, không mơ ước một Thiên đường xa mờ mà trái lại, Thần học Cao Đài vẫn coi cuộc sống này là một phần của đời sống vĩnh cửu phải làm cho nó tốt đẹp : Thiên đường trần gian. Con người đang sống trong hiện tại, cũng là sống trong trường cửu. Nói một cách khác ý niệm về thời gian hiện tại và trường cửu vẫn là một. Cho nên giá trị về nhơn đạo trong Đạo Cao Đài rất tinh tế và siêu thoát. Chưa sống giữa con người, chưa chịu sự khảo đảo của thế gian thì tu không thể thành đạt, vì "tu thân dĩ Đạo, tu Đạo dĩ nhân".

Đặc điểm đầu tiên của Đức Cao Thượng Sanh là vừa đi làm việc đời vừ tu tại gia cho đến lúc hồi hưu dưỡng lão. Nhiều vị theo chân Ngài như Trương Hiến Pháp, Phạm Hiến Đạo ... và đa số các phái Đạo.

Khi làm việc tại cơ quan Nhà nước, Ngài luôn luôn giữ gìn thế luật : "ra giao thiệp với đời thì giữ tánh ôn, lương, cung, khiêm, nhượng" (25 ?). Còn "đối với hàng đạo hữu nuôi nấng cái tính thù tạc với nhau cho khắng khít cái cây liên lạc' (26 ?). Đối với hàng tín đồ, trong những việc tang, hôn, Ngài đều đến thăm viếng. Đối với những vị Thời Quân cư ngụ tại Sài Gòn, Ngài đến bang giao hành Đạo rất tương thân tương ái, phải nói cả số vị Thời Quân .......... quan điểm về việc hành Đạo của Ngài. Đối với hàng Giáo lãnh Hiệp Thiên Đài và như Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Hộ Pháp, Ngài cũng cộng ưu chung sự.

Năm 1928, Đức Cao Thượng Phẩm bị nạn, Ngài về Tòa Thánh viếng thăm và chia buồn, an ủi, Đức Cao Thượng Phẩm cám cảnh nảy ra rồi tự thán :
THI
Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh
Bằng địa sóng xao khiến rập rình
Tà mị phàm rung rinh chất Thánh
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh
Xưa Tòa Thánh dập dìu lai vãng
Nay Bửu đình hiu quạnh lụy nhìn
Thương Đạo mến Thầy xin sớm liệu
Cộng tâm chung trí chớ làm thinh (27 ?)

Thông cảm được nỗi oan khiên của Đức Ngài, Đức Cao Thượng Sanh đã họa bài thi trên như vầy :
HỌA VĂN
Dập dìu nào buổi Thất Tây Ninh,
Hiu quạnh hôm nay gió rập rình
Trước ngõ lơ thơ vài đạo hữu
Sau hiên meo mốc mấy pho kinh
Rừng xơ vẻ thắm chim không đỗ
Cảnh lợt màu tươi khách biếng nhìn
Xây dựng là ai, ai phá hoại
Sụt sùi để bước khó làm thinh.

Tuy Ngài không ở tại Tòa Thánh hành đạo buổi đầu, nhưng tâm tư Ngài lúc nào cũng hướng về Tổ Đình. Cảm nhận niềm đau của Đức Cao Thượng Phẩm làm cái đau của Ngài, vì "con ngựa đau cả tàu bỏ không ăn cỏ", niềm vui của Đức Hộ Pháp là niềm vui của Ngài, của toàn Đạo.

Năm 1946, Đức Phạm Hộ Pháp được chính phủ Pháp trả tự do từ Madagascar về Việt Nam rồi về Tây Ninh. Ngày 4-8-Bính Tuất, ngài về Tòa Thánh đến thăm Đức Phạm Hộ Pháp và có làm một bài thơ cảm tác như sau :
CẢM TÁC
Nhành lá rừng tòng đã điểm tươi,
Còn non còn nước lại còn người.
Xa nhà bỏ lúc thương pha hận,
Gặp oan vầy khi khóc lộn cười.
Nguồn Đạo xưa trông, đôi cảnh nghịch
Thuyền từ nay lướt một dòng xuôi.
Trời Nam thử điểm trang tân sử,
Đổ lệ cùng nhau gượng để lời.
                                                                       CAO THƯỢNG SANH

Đức Cao Thượng Sanh ở lại cúng Hàm, dự lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, bà Bát Nương giáng cơ cho Đức Hộ Pháp bài thi :
THI
Đào Nguyên lại trổ trái hai lần
Ai ngõ Việt Thường đã thấy lân.
Cung Đẩu ví xa gươm xích quỉ,
Thiên cung mở rộng cửa Hà Ngân.
Xuân thu định vững ngô-lương-tề,
Phật chủ quét tan lũ nịnh thần.
Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc,
Mở đường quốc thể định phong vân.
                                                                       BÁT NƯƠNG (28)

HỌA VẬN
Dựng gầy xã tắc bấy nhiêu lần,
Mong mỏi vùng Nam đặng thấy lân.
Đảnh Việt Trời cho gìn cảnh trí
Thuyền Nam Đạo vững lướt dòng ngân.
Đài hoa tạc để gương anh kiệt,
Thiên khiên dành riêng đám tội thần.
Gặp phải nước nhà cơn loạn lạc,
Làm trai tua vẹn chí thanh vân.
                                                                       CAO THƯỢNG SANH

Cái phong cách vừa làm việc đời vừa tu của Đức Cao Thượng Sanh không những phù hợp với tuyệt đại đa số tín đồ mà còn ảnh hưởng đến nhiều hàng Giáo lãnh, nhất là ở các phái Đạo. Ở các Thánh Thất tự lập người ta không phế đời hành đạo, ly gia cắt ái mà sống giữa dòng đời để độ đời vào Đạo. Nhưng ai ai cũng giữ gìn Thế luật : trai kỳ 10 ngày, tiếp tục sống chung lộn với vợ con, "rủi có chích lẻ giữa đường thì được chấp nối' (29 ?). Đức Cao Thượng Sanh đã thực hiện điều thứ 9 của Thế Luật, tuy đã được Thiên Phong từ năm 1925, nhưng đến năm 1946 vợ vẫn còn sanh người con út và nhiều Chức sắc khác đời sống vợ chồng vẫn được tiếp nối.

Đây là quan niệm rất nhân bản, và rất mới mẻ của giáo lý Đạo Cao Đài, vì thế giới loài người phải tồn tại, các ngươn Đạo là chu trình kín tiếp nối nhau, con người phải luôn luôn luân lưu chuyển kiếp để được thánh thiện. Đạo Cao Đài xác định quan điểm trên bằng cách thờ Thần Shiva (Civa), Thần tình ái mà nhân dân Ấn Độ tôn sùng để hộ trì cho nước họ được miên trường, Thần có vợ là Parvati phò trợ cho tình yêu của thanh niên nam nữ Ấn Độ (30 ?). Đến kỷ nguyên Cao Đài thì Thần Shiva được các vị Phật, được tạc tượng thờ trên nóc Bát Quái Đài, quay mặt về hướng Bắc, chân đạp trên thất đầu xà tượng trưng cho diệt thất tình, khỏi hôn mê tình ái như lúc còn là Thần (nên đọc tiểu sử Thần Siva để biết rõ hơn).

Việc thờ Phật Shiva bên ngoài Tòa Thánh xác nhận Đạo Cao Đài coi việc bảo tồn giống nòi là cần thiết (chớ không noi theo cả hành vi của Thần Shiva), nhưng đó không phải là căn cốt của giáo lý Đạo Cao Đài, mà giáo lý chính truyền nằm trong nội điện Tòa Thánh.

Bàn những điều trên để thấy rằng Đạo Cao Đài rất nhân bản, gần gủi con người, thuận khoa học, tôn trọng luật tự nhiên của Tạo Hóa. Thượng Sanh theo Pháp Chánh Truyền thì "Trong các kiếp hữu sanh, duy có con người là cao hơn hết nên gọi là Thượng Sanh". Vậy Cao Thượng Sanh chỉ là một người biểu hiện đầy đủ tính người, nghĩa là cũng có đầy đủ đời sống tình ái vợ con, công ăn việc làm như mọi người. Nhưng Ngài có cái khác hơn là mang Thiên lịnh "độ dân các nguyên nhân đọa trần vào cửa Đạo", Ngài phải mặc áo màu tu sĩ để dẫn dắt người đời từ giữ gìn thế luật sang Thiên luật Đạo Pháp, mà muốn độ được đời thì phải giống đời, sống trong đời, nếu khác người thì người làm sao theo đạo được.

Vả lại luật đạo không ngăn cấm tu sĩ lập gia đình, hoặc theo Đạo thì đứt tình vợ con, nhưng Đức Chí Tôn cũng không bao giờ buộc con cái Ngài phải trầm luân mãi trong vòng trần tục. Thế nên, chữ nhơn đạo của Ngài không bắt buộc phải thỏa mãn vấn đề tình dục giữa một nam và một nữ.

"Cái quyền tự chủ định phận lấy mình, Ngài đã giao trọn nơi tay chúng ta ... cái trí não tinh thần của một cá nhân vốn chẳng đồng nhau nên chẳng có sự buộc ràng nào về mặt sinh lý giữa một nam và một nữ. Trong quyển "Phương tu đại đạo", Đức Hộ Pháp khi luận về đạo vợ chồng, Ngài đã công khai nhắc nhở thanh niên nam nữ rằng : liệu như hoàn cảnh mình không đủ sức đùm bọc đời sống cho nhau thì đừng tạo thêm vòng oan trái.

"Như vậy nhơn đạo không nằm trong sự ràng buộc về sinh lý giữa hai thể xác nam nữ mà nằm trong mối tương quan có tính cách giao tế giữa hai con người, khi hai kẻ ấy đã tự mình ký thỏa ước chung về cùng nghiệp là lập gia đình....

"Vòng thê tử luôn luôn có cái nhân của nó, cái nhân ấy do chính chúng ta gây ra, nhưng chúng ta lại sợ hãi quả nghiệp nên cái trí tinh ranh, xảo quyệt của ta mới tìm ra những luận lý sắc bén để trấn an tâm thức rằng đó là cái đạo làm người, rằng Đức Chí Tôn muốn thế. Cái trí xảo quyệt của chúng ta còn tìm cách xuyên tạc Thánh giáo. Đại ý nói rằng nhơn đạo tròn mới bước qua Thiên Đạo, như là một điều kiện bắt buộc ai ai cũng phải có vợ, có chồng rồi mới có thể tu theo đường Thiên Đạo.

"Buổi mới khai đạo, nhiều người vừa thức tỉnh mộng tràn, toan tìm đường lên non luyện thuốc trường sanh, phế bỏ việc làm ăn sinh sống của gia đình, trút hết gánh nặng của mình đã tạo ra, bỏ mặc cho xã hội, tìm đường chạy trốn cho được yên thân, gọi là tu hành (?). Ngài thấy vậy, biết chắc kết quả chẳng đến đâu, bởi luật công bình không dung thứ cho kẻ trốn nợ đời, nên mới có lời khuyên như trên, tuyệt đối Ngài không hề khuyến khích tiếp tục cuộc ân ái gối chăn ...

"Tuyệt nhiên Ngài không hề xác nhận rằng việc nối dõi tông đường là một bổn phận về nhơn đạo mà Ngài chỉ cho phép nếu ý chúng ta như vậy. Đây là một điểm trọng hệ, vì nếu điều luật này hiểu một cách máy móc thì học thuyết Cao Đài sẽ có những điểm mâu thuẫn nội tại, hai tiếng Đại Đạo sẽ thành ảo tưởng, cái cơ duyên ........... dung hợp tất cả ............giáo thuyết sẽ không còn nữa" (31 ?)

Khi tâm thức bừng sáng ánh Đạo ở điểm nào thì ta bước ngay sang đường Thiên Đạo ở điểm đó, mà không chút ngần ngại.

Tóm lại, Phương Tu Đại Đạo có ba con đường : Vô Vi Thiên Đạo, Đạo Pháp Thiên Đạo (Hành Đạo) và nhơn đạo, thì con đường nhơn đạo trù phú vì gần gũi với dục tâm con người hơn cả. Đức Cao Thượng Sanh là một người phản ảnh đầy đủ sắc thái của nếp sống nhơn đạo : thi hành Thế luật ................giữ ngũ giới cấm, tứ đại điều qui, tam cang ngũ thường và những bổn phận con người trong xã hội. Hạng tín đồ và tuyệt đại đa số các phái Đạo đã coi Ngài là cái gương phản chiếu trong cuộc sống, vì lo tròn nhơn đạo là được cứu rỗi rồi.

Thật vậy, Đức Cao Thượng Sanh đã để lại cho hậu thế một truyền thống tu theo đường nhơn đạo, làm nền nếp cho mọi tín đồ khi bước chơn vào cửa đạo noi theo

HÀNH ĐẠO TẠI TÒA THÁNH
(1956 - 1971)

Thiên mệnh của Đức Cao Thượng Sanh là độ đời vào cửa đạo, Ngài đã tạo xong mẫu mực của con đường nhân đạo, nhưng cái gốc của Ngài là một Chức sắc Đại Thiên Phong, ngươn linh là Lữ Đồng Tân trong Bát Tiên, Ngài cần phải lo cho phần Thiên Đạo, cầm giềng mối Đạo lèo lái thuyền Từ lướt qua mọi thác ghềnh trong cơn đột biến.
"Số là vào đầu tháng ......... năm Ất Mùi, vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội Đạo Cao Đài khi đã được quốc gia hóa, ra lịnh lập Ban Thanh trừng bắt nhiều Đạo hữu giam cầm. Còn chính Đức Hộ Pháp cũng bị giam lỏng tại Hộ Pháp Đường từ .......... Aát Mùi (19.....) đến ngày .......1-Bính Thân (19....). Vì quá buồn tủi cho cảnh đồng đạo tương tàn, đức Hộ Pháp buộc lòng cùng nhiều Chức sắc tùy tùng rời Thánh Địa nhắm thủ đô ........... quốc trực chi (Diễn văn của Đức Cao Thượng Sanh đọc nhân lễ kỷ niệm Triều thiên của Đức Phạm Hộ Pháp năm 1964)

Khi Đức Hộ Pháp sang Campuchia thì công việc tại Tòa Thánh tạm thời do vị Thời Quân Bảo Thế Lê Thiện Phước nắm giữ ngày 17 tháng Giêng năm Bính Thân (1956) Ngài Bảo Thế đại diện Hội Thánh ký với đại diện chính quyền Ngô Đình Diệm "Bản thỏa ước Bính Thân" nhằm xác nhận là Đạo Cao Đài từ đây tách rời chính trị ra khỏi Đạo.

Đến ngày 10-3-Đinh Dậu (dl 9-4-1957) do vi bàng của Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Phước Thiện nam nữ yêu cầu Đức Cao Thượng Sanh và các vị Thời Quân về Tòa Thánh cầm giềng mối đạo.

Trong thời gian hành đạo tại Tòa Thánh, Đức Ngài đã làm nhiều việc lưu hậu thế đáng kể như sau :
- Đưa Đạo Cao Đài ra ngoài các ảnh hưởng chính trị, trở về hoạt động thuần túy tôn giáo.
- Tạo tư cách pháp nhân cho nền Đại Đạo theo Hiến chương ngày19 tháng 12 năm Giáp Thìn (21 tháng 1 năm 1965 d.l.) và được ông Tổng Thống VNCH ký sắc luật số 003/65 ngày 12 tháng 7 năm 1965 d.l thừa nhận.
- Cuối năm 1965, Ngài ký ban hành Qui điều Ban Thế Đạo. Ban Thế Đạo manh nha từ trước ngày............... Quí Tỵ, Đức Lý Giáo Tông cho phép thành lập và được Đức Phạm Hộ Pháp duyệt qua Qui điều ngày ...........(......).

Vì cây cờ Thế nằm trong tay Đức Thượng Sanh nên mãi đến lúc Ngài nắm quyền mới ra mặt đời. Ban Thế Đạo là cơ quan thuộc về phần đời, bắt nguồn từ cửa đạo phát xuất làm dây nối liền cho Đạo Đời tương đắc, tương liên, ngõ hầu tạo lập một đời sống thanh bình cho nhân loại trong thời chuyển thế. Chức sắc Ban Thế Đạo tuy có 4 phẩm : Hiền Tài, Quốc Sĩ, Đại Phu, Phu Tử, nhưng Hội Thánh HTĐ chỉ chọn Chức sắc các bậc Hiền tài. Đợt tấn phong đầu tiên đồng loại vào ngày 7/8/Bính Ngọ nhằm ngày 21/9/1966 và đợt tấn phong do Ngài chủ trì lần thứ 3 là ngày 8/2/Canh Tuất (19/3/19.......) trước khi Ngài qua đời Ngài huấn dạy trong buổi lễ tấn phong :

"Quý vị may duyên sanh nhằm thời trên đất nước được có nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do Đấng Chí Tôn khai sáng với tôn chỉ tận độ chúng sanh, cứu vớt 92 ức nguyên nhân đọa trần thoát vòng khổ hải.

Mở rộng trường thi công quả để tiếp đón nhân tài, Hội Thánh chỉ mong ước cho quí vị thấm nhuần đạo đức, lập chí tu thân, trước là tròn bổn phận làm người, sau nữa có thể thi thố tài năng giúp đời trợ Đạo tùy theo địa vị và hoàn cảnh của mỗi người.

Một đấng Hiền tài là một nhân vật có phẩm giá đặc biệt, đầy đủ đức độ và chân tài. Cái tài do sự học, cái đức là do lập chí tu thân theo Đạo Thánh hiền mà được.

Nếu có tài mà không có đức thì cũng như đóa hoa có sắc mà không hương, cái tài đó cũng không phải là tài hữu dụng.

Những ông hiền được đời mến phục vì những đấng ấy có tư tưởng cao siêu, hành vi xuất chúng, lúc nào cũng cứ ngay thẳng mà làm điều lành, điều phải, không vì tư tâm tư lợi mà hại đạo lý. Giàu sang không thể làm cho đổi được cái chí của mình, uy quyền võ lực không thể làm khuất được cái khí của mình.

Lúc nào bậc hiền nhân cũng không tự dối với mình và dối thiên hạ, cho nên ngẩng lên không xấu với Trời, cúi xuống không thẹn với người, cùng khổ không mất nghĩa, hiến đạt không lìa Đạo "Ngưỡn bất quí ư Thiên, phủ bất tạc ư nhân, cùng bất thất nghĩa, đạt bất ly Đạo".

Các bậc hiền thời xưa được có cái tiết tháo như vậy là nhờ biết phân biệt cái tước của Trời cho và cái tước của ngừoi cho.

Nhân. Nghĩa, Trung, Tín, vui làm điều lành không mỏi mệt là cái tước của Trời cho tức là Thiên Tước; công khanh, đại phu là cái tước của người cho tức là Nhơn Tước.

Người xưa lo sửa cái Thiên Tước, thì cái Nhơn Tước theo sau và được bền bỉ. Người đời nay chỉ lòe mình có cái Thiên Tước để cầu cái Nhơn Tước. Khi đã được cái Nhơn Tước rồi thì dẹp bỏ cái Thiên Tước. Không màng đến nữa. Như thế thật là quá nông nổi, vì rốt cuộc thành ra mất hết, cái Nhơn Tước cũng không giữ được bao lâu.

Mở rộng Ban Thế Đạo, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài do theo nhã ý của Đức Hộ Pháp, ban phẩm Hiền Tài cho những bậc hữu học để khích lệ hạng trí thức nhập vào trường công quả hầu có dịp tiến đức tu thân theo chí hướng của mình.

Thật ra sự giúp Đạo của quý vị không có tính cách bắt buộc. Hội Thánh để cho quý vị thư thả định liệu, phải tùy cơ hội, tùy dịp may mà thực hành.

Là Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, chúng tôi cần có thật nhiều bậc nhơn tài để làm bạn đồng chí giúp sức với chúng tôi trong việc thức tỉnh nhơn tâm quay về với THIÊN LƯƠNG và ĐẠO ĐỨC.

Chính quý vị là những đồng chí đó, chính quý vị là những gạch nối liền làm cho Đạo, Đời tương đắc, tạo cảnh thuận tiện cho Chức sắc Hành Chánh Đạo nêu cao ngọn cờ cứu khổ khắp đất nước".

Sau đó Ngài cho chấn chỉnh lại guồng máy Đạo cho xây hoặc tu sửa lại các Thánh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu cho các Châu Đạo, Phận Đạo. Tại Tòa Thánh Ngài cho xây cổng Chánh Môn và mười hai cổng phụ chung quanh Tòa Thánh.

Ngài chấp thuận cho xây Văn phòng Ban Thế Đạo, nên vào trung tuần tháng 3/1970 toàn thể Chức sắc Ban Thế Đạo Nam Nữ các nơi đều về tề tựu tại giảng đường lớn để hội thảo và kiểm điểm công tác trong năm qua và đặt kế hoạch hoạt động, kiến thiết Văn phòng Ban Thế Đạo, Ngài đã đến chủ tọa và ban Huấn Từ.

Ngài chấp thuận giải pháp Ban Thế Đạo đưa Hiền tài ra tranh cử Hội Đồng Tỉnh năm 197.... tại 4 quận trong tỉnh Tây Ninh và một vài nơi trong toàn quốc. Riêng tại .......... Phú Khương đã có 5 Hiền Tài được chọn làm đại diện Ban Thế Đạo ra tranh cử đều đắc cử vẻ vang.

Nhằm phát triển tình hữu nghị và thắt chặt tình hòa hợp nhân loại giữa một Giáo phái ở Thổ Nhĩ Kỳ và Đạo Cao Đài ở Việt Nam, Ngài đã cho thiết lập sự liên lạc giữa Tòa Thánh Tây Ninh với Thành Phố Xeynia nước Thổ Nhĩ Kỳ.

Năm 1970, Ngài đặt nặng việc cứu trợ Việt kiều hồi hương từ Campuchia và chư Đạo hữu ở Thánh Thất Kiêm Biên về Tây Ninh hoặc vùng Thánh Địa Cao Đài. Ngài đã chỉ thị cho Truyền Trạng ........ gởi cho ông Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một bản văn về Việt kiều bị thảm sát tại Campuchia.

"Aø son Excellence secrétaire général de I'C.N.U - New York
Froiondément émus massacre commis contre Vietnamiens Résidents campodge stop.
Klerton CNU pour inteiventin an faveur Vietnamiens au conscience et Droit de I'home - stop.
Frions excellence agir en son nom personnel en Vue arrêtar acte similare - stop"

SỨ MẠNG LÀM XONG

1/- Bữa tiệc cuối cùng :
Ngày 18-1-Tân Hợi (13/2/1971) tại Hạnh Đường (đối diện với Giáo Tông Đường), Hội Thánh đãi tiệc chư chức sắc, chức việc và nhơn viên công quả, Đức Thượng Sanh đến dự và ban huấn từ :
"Năm canh Tuất chấm dứt, gieo cho dân tộc Việt Nam biết bao nhiêu thảm họa đau buồn …
trong khi chào xuân mới, người Đạo Cao Đài hy vọng và cầu nguyện Đức Chí Tôn mở lượng từ bi xoay trở thế cuộc, ban ân huệ cho dân tộc Việt Thường chóng thoát nạn chiến tranh, sớm vui hưởng đời thanh bình vĩnh cửu. Được vậy, người sứ mạng thiên hành hóa mới có cơ tận tâm lo dìu dắt nhơn sanh trên đường giải thoát.

Trong buổi tiệc ủy lao này, sự hiện diện đông đủ toàn thể Chức sắc cao cấp và nhơn viên công quả, chứng tỏ mối dây thân ái đã thắt chặt tình huynh đệ thiêng liêng giữa con cái Đức Chí Tôn. Hôm nay đoàn tụ trong bầu êm ấm vui tươi dưới mái gia đình Đại Đạo. Sự đoàn kết chặt chẽ này tiêu biểu một sức mạnh phi thường có thể dời non lâp biển. Nếu những quả tim của tất cả bạn Đạo đều cùng đập một nhịp yêu thương và cương quyết làm tròn nhiệm vụ. Chúng ta cố gắng giữ gìn cái sức mạnh tinh thần đó còn nguyên vẹn mãi mãi, để làm nền tảng kiên cố cho cơ quan phổ độ trường tồn đến thất ức niên …

Phần đông Chức sắc có đức tin vững chắc, có quan niệm rõ rệt về sứ mạng thiêng liêng của mình nên nhứt quyết không để cho ai chi phối. Mặc dầu giọng kèn tiếng huyễn vẫn luôn to nhỏ bên tai để chực lôi cuốn theo đường bất hảo …

Hội Thánh quyết giữ vững lập trường tôn giáo thuần túy, không ra ngoài phạm vi đạo đức vượt mình lên cao hơn những nghị luận của thế gian, nên phải vướng vào cuộc phiêu lưu chính trị. Nhờ vậy, thanh danh Tòa Thánh Tây Ninh được nâng cao. Hội Thánh nắm vững những luật pháp chơn truyền điều khiển bước đạo được điều hòa êm ấm …

Được nuôi dưỡng trong tình thương Đức Chí tôn, Chức sắc Thiên Phong là bậc Thánh Hiền trong cửa Đạo. Hễ muốn làm bậc Thánh Hiền thì phải có chức sắc thanh cao, tánh tình phong nhã, phải trau dồi tâm trí cho ra bậc phi thường, bậc phi thường không sân, si, hỉ, nộ như kẻ phàm phu, phải đi ngược với thế tình, tức là trọng tinh thần khinh vật chất, ham nhơn nghĩa tránh tà vạy, bỏ thói kiêu sa, bỏ lòng tự ái. Đó là giữ đúng đức siêu nhiên của một phần tử trong hàng Thánh Thể Đức Chí Tôn …

Chúng ta phải đồng tâm nhất trí tiếp lực giữ thanh danh của Tòa Thánh Tây Ninh, uy quyền của Hội Thánh và nhân cách phi thường của người tu thì dù gặp khó khăn cũng sẽ lướt qua để xây dựng cho nền Đại Đạo một tương lai sáng lạng và tươi đẹp hơn" … (1)

(1) TT22, ra ngày 20/2/1971)

Đây coi như bản di ngôn dài nhứt (trên chỉ lược trích) của Đức Thượng Sanh, nói lên tâm huyết về lập trường cố hữu của Ngài là phi chính trị, thuần đạo đức. đâu ai ngờ buổi tiệc tân niên này là buổi họp mặt cuối cùng của Ngài với Chức sắc, công thợ và tín đồ.

2/ - Hội Thánh báo tang :
Ngày 27 tháng 3 năm Tân Hợi (DL 22/4/1971) Hội Thánh báo tang như sau :
"Hội Thánh lấy làm cảm xúc thông tri cho toàn thể Chức sắc, Chức việc và Đạo hữu nam nữ trong toàn quốc hay tin buồn : Đức Thượng Sanh Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài vừa qui Thiên hồi 17 giờ ngày 26/3/Tân Hợi, liên Đài quàn tại Giáo Tông Đường Tòa Thánh . lễ tang sẽ cử hành trong 9 ngày theo chương trình ấn định kể từ ngày 27/3/Tân Hợi cho đến ngày 6/4/Tân Hợi (30 tháng 4 năm 1971) sẽ nhập Bửu Tháp.

Đây là tang chung cho Hội Thánh và toàn Đạo. Để tỏ lòng tri ân ái kính vô biên, nồng nàn mến tiếc Đức Thượng Sanh, một bậc tiền bối đại ân nhân đã dày công khai sáng nền Đại Đạo, để tạo hạnh phúc cho nhơn sanh, trong buổi Tam kỳ phổ độ.

Hội Thánh quyết định cho tất cả Thánh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu cùng các văn phòng của Đạo tại địa phương cũng như tại Tòa Thánh phải treo Đạo Kỳ rũ. Toàn Đạo nên chay lạc tịnh tâm "Di Lạc Chơn Kinh" suốt trong những ngày Thánh lễ để cầu nguyện ơn trên, Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng thiêng liêng ban hồng ân cho Chơn linh Đức Ngài được cao thăng Thiên vị".

HỘI THÁNH
Sau khi đài phát thanh Sài gòn phát tin "Cáo phó" nêu trên loan khắp miền Nam, ở các Châu Tộc Đạo, Chức sắc, Đạo hữu lũ lượt đi về Tòa Thánh Tây Ninh thọ tang Đức Cao Thượng Sanh. Ai không về được thì tổ chức thọ tang tại chỗ, từ miền Trung đến miền Nam đều tổ chức thọ tang trọng thể. Chính quyền địa phương đến điếu tang. Đặc biệt nhất là tại Tỉnh Thừa thiên, phái đoàn của Bà Từ Cung đã đến Thánh Thất sở quan, hiến lễ một mâm quả phẩm và số tiền mặt hai nghìn đồng (rất lớn đối với thời bấy giờ). (1)

Đây là đám tang lớn nhất từ trước đến nay không phải vì số ngày lễ lâu (Vì theo nghi lễ, Chức sắc cùng phẩm thì cùng số ngày tang) mà to lớn vì số người tham dự rất đông. Đến nỗi phóng viên báo DÂN MỚI cho đây là một "Quốc tang" (2) Uy tín Đạo thực sự đã được nâng cao hơn bao giờ hết.

Đám tang Đức Cao thượng Sanh còn là dịp cho các nhà lãnh đạo miền Nam hòa thuận với nhau. Trong ngày liên đài nhập Bửu Tháp, ta thấy Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, tướng Dương Văn Minh, tướng Nguyễn Cao Kỳ … họ im lặng đi bên nhau. Thường ngày họ vốn là đối nghịch nhau.

Các chính khách, các thân hữu với Tòa Thánh đều có mặt đông đủ. Đây cũng là dịp cho những ai lầm lỗi với Đạo, với Đức Hộ Pháp quay về. Ta không lấy làm lạ khi thấy những bộ mặt bỡ ngỡ vì lầm lỗi cũng âm thầm đưa đám như tướng Nguyễn Thành Phương, tướng Nguyễn Văn Thành v.v… Họ đeo băng tang để tỏ lòng ăn năn hối tiếc.

3/ - Tuyên dương công nghiệp Đức Cao Thượng Sanh
Có rất nhiều điếu văn tuyên dương đời hành đạo của Đức Thượng Sanh. Ta có thể kể : Điếu văn của Hội Thánh Cửu Trùng Đài Nam phái, điều văn của Hội Thánh Cửu Trùng Đài Nữ phái, điếu văn của Hội Thánh Phước Thiện, điếu văn của Hội Thánh Hàm phong và các ban bộ …

Điếu văn của các tôn giáo bạn có : Văn tế của Minh Thiện Đạo, Diêu Trì Phái (Sài gòn), Giáo Hội Phật Giáo Bửu sơn Kỳ Hương v.v…

Dưới đây là bản tuyên dương công nghiệp của Hội thánh Hiệp Thiên Đài :
"Nhơn cuộc lễ này, tôi (Trương Hiến Pháp) xin tuyên dương công nghiệp của Đức Cao Thượng Sanh về cả hai phương diện Đạo lẫn Đời.

Về mặt đời :
Nói đến ông, ai ai trong giới công chức và đồng bào tại thủ đô đều hiểu rõ thanh danh của ông là một công chức đúng mực thanh liêm (3).

Là nhà chí sĩ thương dân yêu nước, ông thường giao du với hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc. Cả ba ông là nhạc sĩ lừng danh trong giới âm nhạc tại Thủ đô Sàigòn. Hai ông Cư và Sang được coi như các bậc Thầy. Sau khi ông Cư đăng Tiên, ông Sang được coi như bậc "hậu tổ". Ban Aâm Nhạc Đạo Cao Đài đã nhờ Ngài chấn chỉnh rành mạch thêm … Mất Đức Ngài, giới âm nhạc trong toàn quốc nói chung và trong Đạo Cao Đài nói riêng, đã mất một nhạc sư cự phách. Đáng tiếc thay.

 (3) Xem thêm "Thượng Sanh Cao Hoài Sang" cùng người viết. )

Về mặt Đạo :
Ngày rằm tháng 3 năm Bính Dần ông Cao Hoài Sang đắc phong Thượng Sanh một lượt với Đức Hộ Pháp và Đức Cao Thượng Phẩm. Từ đây về mặt hữu hình chưởng quản tối cao của Hội Thánh HTĐ không còn nữa.

Từ khi trở về tái thủ phận sự nơi Tòa Thánh, Đức Thượng Sanh đã tìm đủ mọi phương pháp để đem lại sự điều hòa trong cửa Đạo, để toàn Đạo được hưởng thái bình hạnh phúc.

Những tưởng Đức Ngài đến với sứ mạng Thiêng liêng để hoàn thành cơ nghiêp Đạo, thì chắc Ngài phải được sống lâu vớ bổn Đạo để tồn tại với Đại nghiệp Đạo đến cùng. Nào ngờ đâu, ta muốn vậy mà Trời đâu cho vậy….

Đã đành rằng chúng ta phải thương tiếc một Đấng Lãnh tụ anh minh như Đức Thượng Sanh. Thương tiếc bao nhiêu thì phải noi gương của Đức Ngài bấy nhiêu để gặt hái được một phần công quả hữu ích cho Đạo và chúng sanh nhờ ! Đó là sự đền đáp công ơn của bậc tiền bối đã dày công xây dựng, lưu lại một sự nghiệp vĩ đại cho chúng ta thừa hưởng.

Vậy chúng ta hãy đứng lên và đồng tâm hiệp lực tiếp tục xây đắp nền Đạo cao thêm mãi để khỏi phụ ơn của tiền nhân chúng ta …" (4).

 (4) Tuần báo Dân mới số 58, 1971. )

Để bổ sung cho phần công nghiệp Đời ở trên chúng tôi xin trích lời cảm tưởng của ông Nguyễn Văn Thinh, Giám đốc Trường Quốc gia Aâm nhạc Sàigòn, đọc trước khi hòa tấu cổ nhạc hiến lễ tại Cửu Trùng Thiên nhân ngày Đại tường của Đức Cao Thượng Sanh lúc 20 giờ ngày 15 tháng 10 năm Nhâm Tý (DL : 20/11/1972) nơi Đại Đồng xã :

"Đại diện nhóm thân hữu và tài tử quốc nhạc cổ truyền Đô Thành đến kính bái phủ phục nơi tôn nghiêm uy nghi này nhân lễ Đại Tường. Tôi tự nhận là một vinh hạnh tột bực trong đời tôi.

Vinh hạnh nhờ được hầu hết anh em lớn nhỏ trong giới tài tử tri âm đặt trọn lòng tin tưởng nơi tôi để nói lên nỗi lòng chơn thành của mình, của giới tài tử tri âm đối với Đức Thượng Sanh, người đã có công rất lớn với ngành mỹ thuật cổ truyền nước nhà.

Nhờ Đức Ngài khuyến khích và chẳng nệ công khó nhọc sáng tác để phổ biến truyền bá trong đại chúng hâm mộ cổ nhạc. Những ca phẩm đặc sắc về phương diện văn chương, nên đã cứu vãn và quân bình được một tình thế suy kém gần sụp đổ của nền nhạc cổ truyền trước sức lấn áp ồ ạt lôi cuốn của một loại nhạc ngoại lai.

Thật vậy, nếu Đức Ngài chẳng quan tâm lưu ý đến tiền đồ quốc nhạc thỉ chỉ trong vòng đôi ba mươi năm là cùng, môn mỹ thuật ca nhạc điệu thính phòng thuần túy Việt Nam của giới tài tử chắc chắn sẽ biến mất trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

Do vậy, để cụ thể hóa lòng tri âm đó và với trọng tâm nêu cao thiên tánh cùng công trình xây dựng trong quá khứ của Đức Thượng Sanh là bậc nhơn tài của đất nước, bậc hiền sĩ ôn hòa thuần chính. Đức cao trọng vọng hiếm có, một đồng môn phái cùng Đức Ngài và được duyên giao hảo hạnh ngộ với Đức Ngài trên 40 năm, đã soạn lời phổ vào nhạc phẩm Ngũ đối hạ. Nội dung bài ca gồm 5 đoạn gọi là Ngũ đối liên tiếp và tuần tự đều đạt sự trạng : Kim bằng, tri âm, tao nhơn, gia đình, đạo đức liên quan đến Đức Ngài, sẽ được tấu trình hiến dâng lễ nhạc. Thân hữu cũng xin trình bày kế tiếp bản Ngũ đối ai để tưởng niệm Đức Thượng Sanh.

Phần chót lễ vọng bái Đức Thượng Sanh được hoàn tất bằng một lớp diễn xuất ca nhạc kịch phỏng soạn nhờ cảm hứng bài ca Văn Thiên Tường tựa "Hạng Võ biệt Ngu Cơ" của Đức Ngài sáng tác từ lâu". (5)

4/ - Đức Cao Thượng Sanh giáng cơ :
Ngày hôm sau quy Thiên, Đức Cao thượng Sanh giáng cơ tại Cung Đạo, Đền Thánh lúc 20 giờ đêm 27 tháng 3 năm Tân Hợi.

THƯỢNG SANH

Chào mừng chư Chức sắc Thiên phong
Chư Đạo hữu nam nữ.
Bần Đạo lấy làm vui sướng được thoát nơi phiền lụy cái kiếp sanh con người, chỉ có giải thoát là quý hơn hết.

Hôm nay, Bần Đạo đến để thỏa mãn sự yêu cầu của quý vị, Bần Đạo không có gì hơn là bài thi đã cho lúc Bần Đạo tái thủ phận sự, nhưng xin sửa hai câu đầu như vầy :
Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền
Nguyện đem thi thố tấm trung kiên.
Kỳ dư đều để y như cũ.
Bần Đạo còn rất nhiều Đạo sự, không tiện ở lâu, xin kiếu.
Thăng.

Bài thơ mà Đức Ngài làm vào tháng 7/1970 hai câu đầu như thế này :
Hội Thánh mời giao nắm Đạo quyền,
Mười ba năm một dạ trung kiên

Rõ ràng Đức Ngài biết mình chỉ giúp Đạo hơn 13 năm thôi. Và bài thơ trọn vẹn để dâng hiến lễ Ngài hàng năm là :
Từ lúc đưa tay nắm Đạo quyền
Nguyện đem thi thố tấm trung kiên
Độ đời quyết lánh vòng danh lợi,
Trau chí tìm noi bậc Thánh hiền.
Từ ái làm nền an thổ võ
Đức ân dụng phép tạo nhơn duyên,
Những mong huệ trạch trên nhuần gội,
SỨ MẠNG LÀM XONG giữ trọn nguyền.

 (5) TT số 65, ra ngày 30/11/1972, tr.9-10 )

Kể từ ngày mùng 9 tháng Giêng năm Bính Dần (1926) Đức Chí Tôn đã nhận 12 đệ tử đầu tiên của Đạo Cao Đài (Xin xem thêm "12 đệ tử đầu tiên của Đạo Cao Đài" cùng người viết. Đức Thượng Sanh xác nhận : "Qua được điểm đạo vô vi".), thì giai đoạn đầu đó do Đức Ngô Minh Chiêu dìu dẫn. Từ ngày khai Đạo (18/11/1926), cơ phổ độ do Đức Cao Thượng Phẩm (1926-1929), Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung (1929-1934) Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc (1935-1956), rồi đến Đức Cao Thượng Sanh (1957-1971) lãnh đạo. Tất cả là 5 vị (số 5 là số tham thiên lưỡng địa), nền Đạo tính vừa đủ 45 năm (1926-1971) là số đặc biệt của Lạc Thư. Lạc Thư gồm 9 số mà tổng số từ 1 -9 (1+2+3+4+5+6+7+8+9) là 45. Mồng 9 lại là ngày vía Đức Chí Tôn (Pythagore viết : "Neuf est le Nombre parfait en tant que carré le trois qu'est le trinité de l'harmonie complete" (chính là số hoàn hảo, là bình phương của ba, tam hợp hài hòa trọn vẹn). Theo Kinh Dịch số 9 là số Lão Dương về Tây, thời các Thánh Thần (règne du Saint Esprit) trị vì đã chấm dứt. Khoa tượng số học Tây Phương cũng nói về sự huyền bí của con số 9 trong cái chết của Jésus Christ ... "Notons également qu'aprè sa résurreection le Christ apparut 9 feis aux disciples et aux apôtres".) đem nhân với số 5 (5 vị cao đồ tiền khai Đại Đạo) 9 x 5 vẫn là 45. Điều ấy có huyền diệu gì không ?

Thế thường mỗi khi có Hà Lạc xuất hiện thì có Thánh nhân ra đời. Khi không thấy Hà Đồ xuất hiện, Đức Khổng Tử than : "Phượng điểu bất chi, Hà bất xuất đồm ngô dĩ hỉ phù" (Chim phượng không tới bức đồ chẳng hiện trên sông Hà, ta hết hi vọng rồi).

May thay ! Kỳ ba Phổ độ này ta thấy Long Mã tải Trung Thiên Bát Quái ( Xin xem thêm "Ngôi Thờ Đức Chí Tôn" cùng người viết.)trên có Lạc Thiên Thư xuất hiện là điềm lành cho toàn thể nhân loại. (Trên tay Đức Lý cầm quyền Thiê Thơ, Đức Hộ Pháp gọi "Thiên Thơ" là Thánh Ngôn" đó. (TĐ ngày 6-8-Tân Mão-1951). )

1/ - Ngô Minh Chiêu : (từ tháng 2 đến tháng 11/1926) dìu dẫn 9 tháng. Số 9 là số Cửu Trù (hay Cửu Thiên Khai Hóa) của Hà Đồ. Số 9 là số đặc biệt của Chí Tôn.

2/ - Cao Quỳnh Cư : (1926-1929) xây dựng nghiệp Đạo 4 năm là số Tứ Tượng trong Kinh Dịch hay Tứ Thời (Ngọ, Dậu, Tý, Mẹo trong 4 thời dâng lễ Đức Chí Tôn).

3/ - Lê Văn Trung : (1929-1934) chưởng quản Đạo sự trong 5 năm. Số 5 là số Tham Thiên (3), Lưỡng Địa (2).

4/ - Phạm Công Tắc : (1935-1956) 21 năm, trừ gần 1 năm an trí ở Di Linh, Sơn La và 5 năm hơn bị đày ở Madagasca còn lại là 15 năm. Số 15 là số sinh thành của Hà Đồ. "Số Trời 5 hợp cùng số đất 10 ở Trung ương mà sinh Thổ" (Thiên ngũ dử Địa thập hợp ư Trung nhi sinh Thổ - PHƯƠNG DỰC TÔN,Tung Sơn độc châu Dịch ký, quyển I, trang 3) tức là 15.

5/ - Cao Hoài Sang : (1957-1971) cầm quyền Đạo trong 14 năm (hay hơn 13 năm cũng vậy) báo hiệu cho thời Thái Dương của các Cao Đồ chấm dứt (12 giờ trưa là Cực dương của Thái dương tính theo Tứ Thời), bước sang 13 hay 14 giờ là bắt đầu thời Thiếu âm (vì cực dương sinh âm) của Thập Nhị Thời Quân mà khởi đầu là Thời Quân Hiến Pháp.

Đức Cao Thượng Sanh thay mặt các vị Cao Đồ chấm dứt thời khai nguyên Đại Đạo bằng câu:
"SỨ MẠNG LÀM XONG giữ trọn nguyền".

Những điều trên có tương quan và có bí pháp gì không ?

CHUNG
  Home         1 ]  [ 2 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét