Nhan
Uyên Kỳ là lá cờ của Thầy Nhan Hồi tự là Nhan Uyên, học trò thứ nhứt của Đức
Khổng Tử. Ông là người cần mẫn, thức khuya dậy sớm, học Kinh Thi, chuộng kinh
Lễ, làm việc gì không lầm lỗi hai lần, nói điều gì không cẩu thả. Khổng Tử khen
là người có nhân. Nhưng cuộc đời ông chỉ sống đến 31 tuổi thì mất. Sử ký của Tư
Mã Thiên viết về Nhạn Hồi như sau:
“Trong 70 môn
đồ, Trọng Ni chỉ khen riêng Nhan Hồi hiếu học, mà Nhan Hồi thường xác xơ, ăn
hẩm hút mà cũng không được no, lại chết yểu. Trời kia báo đáp người thiện mà
như vậy ư?”.
Thật ra thì cờ
Nhan Uyên không có, chỉ có trong lý thuyết mà thôi. Một hôm trước hàng Môn đệ,
Đức Khổng Tử đưa ra một đề tài để thảo luận. Giả thiết rằng trong nước có loạn
thì làm cách nào để trị loạn hay nhất? Trong hàng Môn đệ người trả lời cách
này, kẻ trả lời cách kia. Chỉ có Nhan Hồi là đưa ra ý kiến: “Làm một Cây Cờ Trắng xông vào chốn ba quân,
kêu gọi hai tiếng trách nhiệm chấm dứt đổ máu”.
Ý kiến đó được
Đức Khổng Tử cho là kế hay hơn cả. Kết luận câu chuyện của Đức Hộ Pháp nói với
ông Đinh Công Trứ, Cai Quản trường Qui Thiện là: “Mấy em nếu có chí can đảm đến Thái Bình Dương sẽ gặp Thầy là buổi sau
này kìa. Dầu cho Thượng Sanh chừng đó có can đảm đến đó sẽ gặp. Bằng chẳng vậy,
cây Cờ Cứu Thế của Thượng Sanh về tay kẻ khác hay là Qua sẽ đến giữa trận giặc
toàn cầu thứ ba”.
Trong câu
chuyện của Đức Hộ Pháp nói với ông Đinh Công Trứ, Cai Quản trường Qui Thiện
ngày 12/8 Đinh Hợi (1947) như sau: “Nhan
Hồi buổi nọ cố công thật hành lý thuyết bình đẳng nhân loại, tránh nạn tương
tàn tương sát nòi giống, nhưng rốt cuộc chưa làm được thì chết”.
Ngài lại nói
tiếp: “Em biết Cây Cờ Trắng trương nó lên
để làm gì? Biểu hiện ấy có phải để cứu nhân loài không? Chỉ một ngày kia,
Thượng Sanh ra mặt Đời là cây Cờ Cứu Thế, còn Thượng Phẩm cây Cờ Cứu Khổ. Qua
đã thay cho Thượng Phẩm gầy dựng đào tạo. Thầy trò ta đã chung chịu cực khổ, từ
khoảng rừng xanh ít người lai vãng. Mà buổi nọ Qua vắng mặt, em đi ngược Thánh
ý của Qua”. (Xin đọc thêm phần ghi chú Ông Đinh Công Trứ bên dưới).
“Cây Cờ Trắng dùng để khi nước nhà nòi giống
ta xô xát, cốt nhục tương tàn khốc liệt, vô phương cứu chữa, thì ngày ấy là giá
trị của nó. Ngày giờ nào có kẻ thất thế, yếu cô, rách rưới, lang thang, đói
cơm, khát nước, khổ não tâm hồn của nòi giống, không ai binh vực che chở. Chừng
ấy nhiệm vụ trọng yếu của Thầy trò ta phải ra gánh vác. Đó là Cờ Cứu Khổ thực
hiện”.
Là Cờ Màu
trắng đây chính là biểu tượng mang ý nghĩa đầu hàng. Các nhà sử học cho rằng
chiếc cờ trắng dễ gây sự chú ý bởi màu sắc phân biệt trên chiến trường. Sau
này, chúng dần trở nên phổ biến hơn ở phương Tây, cờ hiệu màu trắng đã được sử
dụng rộng rãi để chỉ ý định đầu hàng trong thời Trung cổ ở Tây Âu. Màu trắng từ
lâu đã gắn liền với cái chết và tang tóc ở Trung Quốc, vì vậy những người lính
Trung Hoa có thể dùng cờ đầu hàng màu trắng để tỏ sự buồn bã khi thất trận. Dần
dần lá cờ trắng đã trở thành một biểu tượng được quốc tế công nhận không chỉ
cho việc đầu hàng mà còn cho mong muốn bắt đầu ngừng bắn trên chiến trường.
Những lời nói
của Đức Hộ Pháp với ông Đinh Công Trứ làm chúng ta giật mình, suy ngẫm. Chúng
ta không thể ngờ đây là sự việc đang xảy ra và vai trò trách nhiệm thiêng liêng
vô cùng “huyền diệu” của Ban Thế Đạo
ở hải ngoại. Như Đức Hộ Pháp đã nói bên trên:
“Mấy em nếu có chí can đảm đến Thái Bình
Dương sẽ gặp Thầy là buổi sau này kìa. Dầu cho Thượng Sanh chừng đó có can đảm
đến đó sẽ gặp. Bằng chẳng vậy, cây Cờ Cứu Thế của Thượng Sanh về tay kẻ khác
hay là Qua sẽ đến giữa trận giặc toàn cầu thứ ba”. Thượng-Sanh có sứ mạng
tạo Thế và chuyển Thế.
Thể-pháp của
Đại-Đạo đâu đâu cũng thấy sự hoà-hiệp một cách khít-khao, do vậy mà thể-pháp đã
hiện hình bí-pháp làm chơn-truyền để phổ-thông nền chơn-đạo của Chí-Tôn trong
buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ. Hòa là sự hỗn-hợp của âm dương, đến mức độ quân-bình nhau,
gọi là “âm dương tương-hiệp”. “Theo bí-pháp chơn-truyền của cơ sanh hoá
phải có đủ âm-dương. Nền Tôn-giáo nào có đủ âm-dương thì mới vĩnh-cữu”.
Trong “Bí Pháp Cao Đài”, Đức Hộ-Pháp có nói: “Chỉ Qua biết phận sự của Qua là ĐạiTừ-Phụ
(Đức Chí-Tôn) giao phó với một lời yếu thiết như thế này:
- “Tắc,
đời quá khổ
chẳng phải khổ về xác thịt mà thôi, mà lại khổ đến tinh thần nữa, nạn của nhơn
loại tương tàn tương sát sắp đến. Thầy giao cho con một cây Cờ Cứu Khổ, chẳng
phải cứu khổ tinh thần mà thôi, lại lẫn cả thể xác nữa. Trọng hệ hơn hết là
điều ấy Thầy giao phó cho con, nhưng mà con phải hiểu:
Có khổ về tinh
thần mới biến sanh ra khổ của thể xác.
Thầy nói rõ
Thầy giao cho một gánh Đạo (Cờ Cứu Khổ) và Đời (Cờ Cứu Thế)”.
Thực sự ra Bần
Đạo xin thú thật, gánh của Đạo chẳng hề khi nào làm cho Bần-Đạo khủng khiếp.
Duy có gánh của Đời, Ngài giao phó nó nặng nề hơn hết...” (Bí Pháp Cao Đài).
Bí-quyết của
Đạo Cao-Đài là luôn luôn có quyền “Thiên-Thượng
và Thiên-Hạ” tức là quyền Chí-linh và Vạn-linh hiệp một. Thánh-ý Đức
Chí-Tôn muốn để con cái của Ngài tự lập Luật, tùy theo sức khép mình vào con
đường tu-luyện để khỏi than rằng Luật quá mắc mỏ rồi không đoạt thành phẩm-vị
sanh ra chán nản, hoặc viện lẽ rằng quá rẻ mà sanh dạ dễ-duôi.
Thượng Sanh là
ai? Vật chất hữu sanh, thảo mộc hữu sanh, cầm thú hữu sanh, nhơn loại hữu sanh
tức là chúng sanh.
Trong chúng sanh có nguyên sanh và
hóa sanh. Nguyên sanh là gốc từ khai Thiên đã có. Hóa sanh là khai Thiên
rồi mới biến hóa ra. Tỉ như Nguyên nhân là khi khai Thiên rồi thì đã có các
chơn linh ấy. Còn Hóa nhân là chơn linh vật loại đoạt đến phẩm vị nhơn loại.
Trong các kiếp hữu sanh, duy có phẩm người là cao hơn hết, nên gọi là Thượng Sanh.
Lập Tam Kỳ Phổ Độ, Thầy (Đức Chí Tôn) đem các chơn linh, dầu nguyên sanh hay
hóa sanh lên phẩm vị nhơn loại mới trọn nghĩa câu phổ độ.
Chơn linh các
Nguyên nhân bị đọa trần hay là của Hóa nhân thăng cấp đều nhờ Thượng Sanh độ
rỗi. Ấy là Thế độ, nên Thượng Sanh làm chủ của Thế Đạo (Thể Pháp và Bí Pháp),
nắm Thế Luật nơi tay mà dìu dắt cả chúng sanh vào đường Đạo. Ai làm cho cản
bước đường tu của thế gian thì Thượng Sanh đặng quyền kiện cùng Tòa Thánh. Chư
Chức sắc phạm luật làm cho chúng sanh phải xa lánh Đạo thì người có quyền xin
trị tội tức thì. Thượng Sanh là chủ phòng Cáo Luật.
Dưới quyền
người có bốn vị Thời Quân: Bảo Thế, Hiến Thế, Khai Thế và Tiếp Thế (bốn vị Thời
Quân chi Thế đặng cùng quyền cùng Thượng Sanh, khi người ban lịnh hành chánh;
song mỗi vị có mỗi phận sự riêng).
Đức
Thượng Sanh Cao Hoài Sang
Pháp Chánh
Truyền dạy “Thượng Sanh thì lo về phần
Ðời. Do đó mỗi sự chi thuộc về Đời thì về quyền của Thượng Sanh”.
Thượng Sanh là
Cây Cờ của Thế, tức là Ðời, ấy vậy Đời nơi nào thì Thượng Sanh nơi đó. Người có
quyền xem xét kẻ hành đạo coi Thánh Ðức có đắc nhơn tâm cùng chăng, nhược bằng
kẻ ấy thể Ðạo không đủ tư cách, thì người có quyền dâng sớ cầu xin thuyên bổ.
Thượng Sanh đối quyền với Chưởng Pháp bên Cửu Trùng Ðài.
Hiệp Thiên Ðài
là luật lệ, mà Thượng Sanh lại là Chánh Trị, ấy vậy là người của Cửu Trùng Ðài
nơi Hiệp Thiên Ðài.
Thượng sanh lo
về phần Đời là người thay mặt Hộ pháp chưởng quản chi Thế có nhiệm vụ kiểm soát
nhân phẩm cung cách hành đạo của chức sắc, và dìu dắt, độ rỗi nhơn sanh vào
Đạo.
Thượng Sanh và Thư Hùng Kiếm
Trong Đạo Cao
Đài, Đức Cao Thượng Sanh sử dụng Thư Hùng Kiếm là Bửu pháp của Ngài trong sứ
mạng tạo Đời và chuyển Thế.
Ngài Phạm Khai
Đạo nói về Thư Hùng Kiếm: “Khi Đức Thượng
Sanh mới về hành Đạo (15-4-Đinh Dậu), tôi chưa kính sợ cho lắm. Đến khi trấn
thần Thư Hùng Kiếm rồi, Đức Ngài ra “Rừng Thiên Nhiên” thử Kiếm báu, thấy rõ sự
huyền diệu của Bửu Kiếm, từ đó tôi bắt đầu kính phục vô cùng”.
Đây là Kiếm
Trấn Pháp, làm bằng cây dầu gần 100 năm ở làng Thanh Điền (Tây Ninh) dâng hiến,
mà còn biến hóa huyền bí đến thế. Vậy Bửu Kiếm Thư Hùng nơi Thiêng Liêng còn
huyền diệu thế nào nữa…
Bửu Kiếm Thư
Hùng là Bửu Pháp của Lữ Đồng Tân (Thuần Dương Lữ Tổ).
Bài thơ sau
đây cũng nói lên được nguơn linh của Đức Thượng Sanh là Lữ-Đồng-Tân, một vì
Tiên trong Bát Tiên. Ngày nay Ngài được Đức Chí Tôn ban cho phẩm Thượng Sanh là
đứng đầu của nhơn sanh, tức nhiên chủ quyền Đời, xem như bậc Vương Đế. Ngày xưa
Ngài cũng mộng Đế Vương, nhưng nay mới là Đế Vương thật sự. Đức Hộ-Pháp có lời
tiên tri qua bài thi sau đây:
Bài thơ này
đặc biệt nhứt là hai câu cuối
Cao-Đài khai hội tại Tây trường,
Cải cựu hoán tân chế Lệ Thương.
Qui chánh cải Tà huờn miếu võ.
Tòng chơn khử giả định phong cương.
Hồng Môn thử nhựt tri thành bại,
Xích-Bích kim triêu biện nhược cường.
Phụng tấn Long hồi huờn Nhứt thổ.
Lập cân hiển hiện buổi Huỳnh Lương.
Bài này là một
trong số nhiều bài thơ của Đức Hộ Pháp. Ngoài lời tiên tri về vấn đề thời cuộc
qua các điển xưa tích cũ làm dẫn chứng cho sự việc ngày nay, người viết không
đủ khả năng bàn luận thêm. Duy chỉ hai câu cuối là dùng lối chữ Hán chiết tự
cũng rất là lý thú nên xin ghi lại để hiến cho chư độc giả:
Câu “Phụng tấn Long hồi huờn Nhứt thổ”:
Phụng là loài
điểu, trong Dịch chỉ thời gian là tháng, năm Dậu.
Long là chỉ vì
Vua: người đứng đầu một quốc gia, một lãnh thổ. Huờn là hiệp lại. Nhứt 一 và Thổ 土 đặt lên nhau thành ra chữ VƯƠNG 王
Câu “Lập cân hiển hiện buổi Huỳnh Lương” (câu cuối):
Lập 立
là đứng, ở trên, cân 巾
là cái khăn, ở dưới. Hai chữ nầy đặc lên nhau thành chữ Đế 帝 (có
nghĩa là đứng mà đội khăn, chỉ Đạo phục của Đức Thượng Sanh có hình ảnh này mà
thôi). Như vậy cả hai chữ mới tìm thấy đọc thành VƯƠNG ĐẾ nghĩa là có Vua Trời.
Hình ảnh người
đứng trên Ngai mà đội khăn đây là Đức Thượng Sanh khi mặc phẩm phục thì Ngài
đội khăn, gọi là “bao tải xanh” là
hình ảnh của Vua Đời đó vậy.
Câu Tỉnh Huỳnh
Lương là nhắc lại câu chuyện về tiền kiếp của Ngài, khi Ngài được Đại Tiên đến
độ Ngài qua giấc chiêm bao, Ngài thấy toàn mộng công hầu khanh tướng, vợ đẹp
con xinh rồi lại bị vỡ mộng. Thời gian ấy chỉ trong thoáng chốc; khi ấy thì chủ
quán nấu nồi kê chưa chín, nên cuộc đời giả tạm như giấc “mộng Huỳnh Lương”. Ngài nắm phần Thế Độ.
Thượng Sanh Cờ Cứu Thế và Màu Trắng Đạo Cao
Đài Rồng Màu Trắng Tượng Trưng Cho Tam Kỳ Phổ Độ. Trong Đền Thánh có tất cả
28 cột rồng. Đức Chí Tôn cưỡi rồng tuần du. Rồng tượng trưng cho sự biến hóa.
Đó là ý nghĩa tượng trưng và thay thế cho “Nhị
Thập Bát Tú” tức các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật chầu Thượng Đế nơi Bạch Ngọc
Kinh.
Các con Rồng
trong Đền Thánh được sơn đủ các màu sắc (Xanh, Đỏ, Vàng và Trắng) còn có ý
nghĩa tượng trưng đủ 3 thời kỳ phổ độ chúng sanh. Rồng màu Trắng nơi Bát Quái
Đài tượng trưng cho Bạch Dương Đại Hội trong Tam Kỳ Phổ Độ, do Đức Di Lặc Khai
Hội Long Hoa. Bạch Dương Đại Hội, mục đích cũng phán đoán tội lỗi chúng sanh
như Nhứt kỳ và Nhị kỳ phổ độ. Còn tượng cột hình Rồng sơn Vàng chung quanh Bát
Quái Đài là ý nghĩa tượng trưng và thay thế chư Phật chứng Hội Long Hoa (giải ý
nghĩa Hội Long Hoa ở bài viết khác).
Trong Tam Kỳ
Phổ Độ Đức Di Lạc làm chủ điểm Đạo nên Rồng Trắng ở tại Bát Quái Đài, ấy là
chánh thời kỳ của Sắc Trắng (Đạo Phục Bạch Y, Áo Dài Trắng).
Rồng
màu Trắng nơi Bát Quái Đài tượng trưng cho
Bạch
Dương Đại Hội trong Tam Kỳ Phổ Độ
Màu trắng là “Màu của Tình-Thương”. Màu trắng là màu
tượng trưng cho tình yêu thương, cho sự thanh khiết, thanh cao trong sạch, sự
ngây-thơ không chút bợn-nhơ của trẻ thơ. Màu trắng tượng-trưng cho con người
đạo-đức hiền-lương không làm gì tội lỗi. Màu trắng còn là màu tổng-hợp của bảy
màu trong sắc cầu vồng, đó là màu Đại-đồng, mục-đích của Đạo Cao-Đài là phải
thực hiện ra cho đến Đại-Đồng Thế-Giới. Có đó rồi không có. Màu trắng biến
thành bảy màu, rồi trở lại màu trắng, tức là “Sắc Sắc Không Không, Hư Hư Thiệt Thiệt”. Màu Trắng là không màu,
vậy Đạo tức là “Vô”.
Người tín-đồ
Cao-Đài-Giáo mặc áo dài trắng là nói lên cái “Vô của Đạo, vì Đạo chính là Vô”. Nói cách khác “Màu Trắng thể-hiện cái Đạo”. Do đó màu trắng có ý nghĩa rất sâuxa
và còn có thể nói là rất “huyền-diệu” trong
Đạo Cao Đài. Như Đức Hộ Pháp đã nói với ông Đinh Công Trứ “Em biết cây Cờ Trắng trương nó lên để làm gì? Biểu hiện ấy có phải để
cứu nhân loài không?. Chỉ một ngày kia, Thượng Sanh ra mặt Đời là cây Cờ Cứu
Thế...” và ... “Cây Cờ Trắng dùng để
khi nước nhà nòi giống ta xô xát, cốt nhục tương tàn khốc liệt, vô phương cứu
chữa, thì ngày ấy là giá trị của nó.” Thượng-Sanh có sứ mạng tạo Thế và
chuyển Thế.
Cao Đài là một
Tôn Giáo Đại Đồng. Tôn chỉ của Đạo Cao Đài là “Tam Giáo Quy Nguyên, Ngũ Chi Hiệp Nhất. Triết Lý Cao Đài “Nhứt Bản Tán
Vạn Thù” và “Vạn Thù Quy Nhứt Bản”.
Đạo Cao Đài
chủ trương “Vạn Giáo Nhất Lý”: tất cả
các tôn giáo đều cùng một chân lý, tất cả tôn giáo đều từ một gốc mà ra và tuy
có khác nhau về hình tướng nhưng cái chân lý cùng đều giống nhau, cùng chung
một mục đích cứu rỗi nhân loại.
Khi mặc áo dài
trắng, người tín-đồ Cao-Đài tâm niệm phải nên hiểu là mình đang mang trong
người không biết bao nhiêu ý nghĩa sâu-xa của Đạo của mình mà Đức Chí-Tôn đã
kín-đáo gởi vào đó. Chúng ta phải hiểu bổn phận và trách-nhiệm của chúng ta khi
ta mặc chiếc áo dài trắng nầy để không làm trái Thánh Ngôn của Đức Chí-Tôn.
Người Cao Đài
mặc đạo phục màu trắng như nhắc nhở luôn giữ tâm hồn giản dị, khiêm tốn, giữ
đạo đức cá nhân thanh cao trong sạch. Ngoài ra, mỗi tín đồ cũng luôn nhớ tư
tưởng của nền Đạo: “một là tất cả, tất cả là một” (nhất bổn tán vạn thù, vạn
thù qui nhất bổn )
Bộ đạo phục
màu trắng như một bông sen trắng mà người Cao Đài cần gìn giữ trong cõi đời
nhiều ô trược, như Thầy đã từng khen “ngoài
trong sạch tợ bạch liên”. Đó cũng chính là Bộ Thiết Giáp mà Thầy cho chúng
ta mặc.
“Thầy nói
trước cho các con biết mà giữ mình. Chung quanh các con, dầu xa, dầu gần, Thầy
đã thả một lũ hổ lang ở lộn với các con. Thầy hằng xúi chúng nó thừa dịp mà cắn
xé các con; song trước Thầy đã cho các con mặc một Bộ Thiết Giáp (đạo phục Áo
Dài Trắng), chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức của các con. Vậy ráng
gìn-giữ Bộ ThiếtGiáp ấy hoài cho tới ngày các con hội hiệp cùng Thầy (TNHT).
Đức Chí-Tôn
dạy rằng: “Giáo-lý của Thầy là Đại-Đồng”.
Lấy sự thương yêu làm gốc và nếu không có sự thương yêu thì Đạo không thành.
Đức Chí-Tôn dạy mọi người phải thương yêu nhau như ruột-thịt. Sự thương-yêu đó
thể-hiện tình huynh-đệ đồng-đạo, ở tình nhơn-loại giữa con người với nhau. Tình
yêu thương của Đức Chí Tôn dành cho chúngsanh trong đó có loài người thật là
vô-lượng, vô-biên, Đức Chí-Tôn đã xác-nhận điều này như sau:
" Thầy thường nói với các con rằng:
Thầy là cha của sự thương yêu. Do bởi thương yêu, Thầy mới tạo thành càn-khôn
thế-giới và sinh-dưỡng các con" (TNHT).
Đức Thượng
Sanh Qui Thiên ngày 26 tháng 3 năm Tân-Hợi (1971) tại Sài gòn, hưởng thọ 71
tuổi. Hội-Thánh rước về Toà-Thánh làm lễ Thánh Tang cho Ngài. Một đám tang lớn
nhất trong nước, kể cả Đời lẫn Đạo. Nhất là toàn Đạo để tang Ngài như một “rừng tang” trắng xoá. Sự triều tiên của
Đức Thượng Sanh đã gieo vào lòng Hội Thánh và toàn Ðạo một nguồn bi thương dào
dạt như muôn lượn sóng trùng dương.
Thánh Ngôn của
Đức Chí Tôn tại Cung Đạo Đền Thánh, Tòa Thánh Tây Ninh đêm mùng 6-5-Tân Hợi (dl
29-5-1971) dạy:
Các con,
Hôm nay vì có
cuộc vui mừng nên Thầy đến khuyên các con nên để tâm lực vào sự xây dựng nền
Đạo cho kịp thời kẻo tội nghiệp cho nhơn sanh. Nay ba vị tướng soái lớn đã về
thiêng liêng, đó cũng vì thiêng liêng định đặng thử coi các con có làm nên trò
gì chăng?
Thượng Sanh có
sứ mạng về để độ dẫn những “bậc thượng
sanh tại thế”, rồi đây các con sẽ thấy nhiều trang trí thức đến với Đạo, vì
chẳng lẽ ôm bằng cấp trí thức để cho mai một hay sao?
Thầy ban ơn cho các con.
Thăng.
Sau năm 1975, một số đông tín đồ Cao
Đài vượt biển Thái Bình Dương định cư trên đất Mỹ, Canada, Australia, Âu Châu
(và nhiều nơi khác), trong đó có trên 100 Hiền Tài, Ban Thế Đạo.
Đức Hộ Pháp nói “…đến Thái Bình Dương sẽ gặp Thầy là buổi sau
này kìa”. Đọc câu nầy chắc hẳn là dạo đó ai cũng tử hỏi tại sao phải làm
như vậy “buổi sau nầy kia”? và dạo đó cũng không ai để ý đến lới nói nầy hay
chỉ hiểu “lờ mờ” đây là lời tiên tri
của Đức Hộ Pháp về tương lai Đạo. Chử Thầy ở đây không thể nào hiểu hay nghỉ
đơn giản được. Chử Thầy trong câu chuyện với ông Đinh Công Trứ là Đức Hộ Pháp;
còn trong cả câu thì chử Thầy ở đây chính là Đức Đại Từ Phụ (Đức Chí Tôn) vậy.
Như đã trình bày trong các bài viết
trước, Ban Thế Đạo được thành lập bởi Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông. Hai
Quyền Giáo Tông và Hộ Pháp là Quyền Chí Tôn tại Thế, hay Quyền Chí Linh. Như
vậy Ban Thế Đạo được gián tiếp thành lập bởi Đức Chí Tôn (Thầy).
Ở hải ngoại, Ban Thế Đạo Hải Ngoại
là tổ chức duy nhất của Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh Tây Ninh còn tồn tại tại hửu
hình hiện nay, đang hoạt động, tiếp tục vai trò sứ mạng mà Đức Hộ Pháp &
Đức Lý Giáo Tông đã ủy nhiệm khi thành lập Ban Thế Đạo năm 1965, mang cây Cờ
Cứu Thế của Thượng Sanh tiếp tục phổ Đạo.
Ban Thế Đạo thuộc chi Thế Hiệp Thiên
Đài và Đức Thượng Sanh là Chưởng Quản Chi Thế.
Như đã trình bày, Thượng-Sanh có sứ
mạng tạo Thế và chuyển Thế. Gần 45 năm qua, mặc dầu trong tình trạng khó khăn
trăm bề, Ban Thế Đạo đã hết lòng, thành Tâm thi hành sứ mạnh của Đức Thượng
Sanh, vương cao Cây Cờ Cứu Thế (ĐỜI) như Đức Hộ Pháp đả nói để tiếp tục phát
triển và phổ độ nền Đại Đạo ở hải ngoại.
Thượng Sanh làm chủ của Thế Đạo bao
gồm cả Thể Pháp và Bí Pháp, nắm Thế Luật nơi tay mà dìu dắt cả chúng sanh vào
đường Đạo. Ban Thế Đạo thuộc chi Thế Hiệp Thiên Đài, dưới quyền Thượng Sanh,
thi hành cả cả hai Thể Pháp và Bí Pháp (chi tiết ghi trong bài viết khác).
Về mặt Thể Pháp Thế Đạo, xin hiểu
một cách đơn giản là các phẩm cấp hửu hình trong Ban Thế Đạo, được qui định
trong Qui Điều Ban Thế Đạo gồm 4 phẩm: Hiền Tài, Quốc Sĩ, Đại Phu, Phu Tử, để
chức sắc Ban Thế Đạo có cơ hội, theo trách nhiệm Đạo Đời tương đắc phổ Đạo, lập
công bồi đức để lập vị nơi hửu hình, và trên đường Thiên Đạo (Thiêng Liêng Hằng
Sống), con đường phản bổn hoàn nguyên “trở
về”, nhập lại với Đại Linh Quang của Đức Chí Tôn ở vô vi và được Đức Ngài
định vị nơi cỏi vô vi (Bí Pháp).
Phần Đạo trong Thế Đạo thì phải hiểu
là theo con đường tấn hóa, lập vị từ hửu hình đến vô vi. Con đường tu thân từ
Thế Đạo dẩn đến Thiên Đạo mà Giáo Tông thay quyền cho Thầy dìu dắt các con cái
Đức Chí Tôn trong Đường Ðạo và Đường Ðời, tức là con Đường đi từ Thế Đạo dẩn
đến Thiên Đạo (con đường Thiêng Liêng Hằng Sống).
Trong phần Đạo nầy, chức sắc trong
Ban Thế Đạo được Giáo Tông thay mặt Đức Chí Tôn hướng dẩn đường tu để “trở về”, con đường “Thiêng Liêng Hằng Sống”, con đường dẩn đến Thiên Đạo tức là con
đường qui hồi cựu vị. Đây là con đường tu thân, con đường “Đạo Đức” để cho cái “Tiểu
Linh Quang” của nhân sanh “trở về”
trong cái “Đại Linh Quang” của Đức
Chí Tôn ở vô vi.
Thay Lời Kết:
Ban Thế Đạo chính là Thư Hùng Kiếm
và Cờ Cứu Thế của Thượng Sanh xuất hiện, biến tướng để bảo hộ toàn con cái Đức
Chí Tôn và hiệp cùng mặt Đời đặng đem lại sự trật tự thái bình trong cảnh nghĩa
nhân Đạo đức. Chúng ta vì cơ bảo sanh của tạo hóa, Hội Thánh từ chức sắc thiên
phong đến chức việc, đạo hữu đều có phận sự bảo vệ cho cơ sanh hóa trong Đạo và
ngoài Đời (hiệp cùng Đời xây cơ chuyển thế làm cho Đạo Đời tương đắc giữa bạch nhựt
thanh thiên).
Thượng Sanh làm chủ của Thế Đạo (Thể
Pháp và Bí Pháp), nắm Thế Luật nơi tay mà dìu dắt cả chúng sanh vào đường Đạo.
Thượng Sanh là cây cờ của Thế, tức là Ðời, ấy vậy Đời nơi nào thì Thượng Sanh
nơi đó. Như đã trình bày bên trên, Thượng sanh lo về phần Đời là người thay mặt
Hộ Pháp chưởng quản chi Thế có nhiệm vụ kiểm soát nhân phẩm cung cách hành đạo
của chức sắc, và dìu dắt, độ rỗi nhơn sanh vào Đạo.
Nếu kẻ vô lương bất đức còn tàn sát
phá hoại cơ sanh hóa của Đức Chí Tôn thì Thượng Sanh có nghĩa vụ đưa cây Thư
Hùng Kiếm và Cờ Cứu Thế cho quần chúng hiểu rõ nhiệm vụ của mình rồi sẽ thi
hành phận sự bảo sanh và nghĩa hiệp một cách quang minh sáng suốt.
Lời Thuyết Ðạo của Ðức Hộ Pháp tháng
Giêng năm Ðinh Hợi (dl. 29-01-1947) “lá
cờ của Thượng Sanh (Cờ Cừu Thế) ra mặt với Đời cùng cây Thư Hùng Kiếm của nó, y
theo lời hứa của Ðức Chí Tôn lập cho nước Việt Nam một nền Quốc Ðạo, cơ quan
cứu sanh cho vạn loại”. Vì do sở định thiêng liêng và huyền diệu của Ngài
nên người đời dễ chi biết được.
Tìn đồ Đạo Cao Đài phải hiểu cái
mạnh của mình, mạnh vì lòng nhơn nghĩa và tánh nghĩa hiệp cứu Đời. Vậy muốn dẹp
được cái mạnh của “chiến tranh, chia rẻ”
thì chúng ta chỉ dùng cái mạnh của nhơn nghĩa và tính nghĩa hiệp mà thôi. Ban
Thế Đạo Hải Ngoại phải giữ gìn “thanh
gươm nghĩa hiệp (Thư Hùng Kiếm), lá cờ nhơn nghĩa (Cờ Cứu Thế)” cho vững
vàng. Ðược như thế thì quyền năng và tình yêu thương của Chí Tôn lúc nào cũng
hiện hửu trong Ban Thế Đạo Hải Ngoại. Như đã trình bày, Ban Thế Đạo được gián
tiếp thành lập bởi Đức Chí Tôn.
Phần Đạo trong Ban Thế Đạo thì phải
hiểu là theo con đường tấn hóa, lập vị từ hừu hình đến vô vi. Con đường tu thân
từ Thế Đạo dẩn đến Thiên Đạo mà Giáo Tông thay quyền cho Thầy dìu dắt các con
cái Đức Chí Tôn trong Đường Ðạo và Đường Ðời, tức là con Đường đi từ Thế Đạo
dẩn đến Thiên Đạo: thực hành Thể Pháp và Bí Pháp Thiên Đạo (Thiêng Liêng Hằng
Sống).
Trong phần Đạo nầy, chức sắc trong
Ban Thế Đạo được Giáo Tông thay mặt Đức Chí Tôn hướng dẩn đường tu để “trở về” con đường “Thiêng Liêng Hằng Sống”, con đường dẩn đến Thiên Đạo tức là con
đường Phản Bổn Hòan Nguyên, qui hồi cựu vị. Trong phần Đạo, còn có nghỉa là con
đường tu thân, con đường “Đạo Đức” để
cho cái “Tiểu Linh Quang” của nhân sanh “trở
về” trong cái “Đại Linh Quang”
của Thầy (Đức Chí Tôn).
Ghi chú: Ông
Đinh Công Trứ là Chủ trưởng của Minh Thiện Đàn do Đức Lý Giáo Tông lập năm 1928
tại làng Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho; đến năm 1929, Đức Lý Giáo Tông bàn giao Minh Thiện
Đàn cho Đức Hộ Pháp cai quản. Nơi đây có lập một Thánh Thất gọi là Thánh Thất
Khổ Hiền Trang và một Sở Thảo Đường, do lời dạy của Đức Phật Mẫu giáng cơ năm
1928 với bài thi “Thảo Đường”, chép
ra như sau:
Thảo Đường phước địa ngộ tòng hoa
Lục ức dư niên võ trụ hòa.
Cộng hưởng phàm gian an lạc nghiệp,
Thế đăng Bồng đảo định âu ca.
Do đó Đức Hộ Pháp có dạy Ông Đinh
Công Trứ lập bàn thờ Đức Phật Mẫu nơi Sở Thảo Đường. Sự thờ phượng Đức Phật Mẫu
nơi đây còn rất đơn sơ. Thời gian kể từ năm 1941, giặc giã bắt đầu nổi lên và
cuờng độ chiến tranh càng lúc càng lớn. Nơi làng Phú Mỹ không còn được an ninh
như trước, nên từ năm 1943 đến năm 1945, Ông Đinh Công Trứ cùng với các bạn đạo
trong Minh Thiện Đàn, rời bỏ Phú Mỹ, tản cư về Tây Ninh, lập ra Trường Qui
Thiện để làm cơ sở tiếp tục tu hành. Tại Trường Qui Thiện, Ông Đinh Công Trứ
tạo lập một Đền Thờ Đức Phật Mẫu khang trang hơn nhiều so với lúc còn ở Phú Mỹ,
gọi là Đền Thờ Phẫt Mẫu Qui Thiện.
Năm 1941-1946
là thới Pháp nạn. Ngày mùng 4-6 nhuần-Tân Tỵ (dl 27-7-1941), chánh quyền Pháp
đã đưa Đức Hộ Pháp và 5 vị chức sắc lưu đày 5 năm ở hải đảo Madagascar bên Phi
Châu.
QS-TS Nguyễn Thanh Bình
Ban Thế Đạo Hải Ngoại
Tòa Thánh Tây Ninh
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Quyển I & II, Ấn
Bản Năm Nhâm Tý (1972).
2. Tân Luật (1972); Đạo Luật; Kinh Thiên Đạo và
Thế Đạo.
3. Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài (1932) và Vai Trò
Của Hiệp Thiên Đài (2015)
4. Luật Pháp Cao Đài (2012)
5. Qui Điều và Nội Luật Ban Thế Đạo (1969)
6. Pháp Chánh Truyền và Tân Luật (1972)
7. Hiến Chương Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (1965)
8. Tiểu sử và lời thuyết Đạo của Đức Thượng
Sanh (1973)
9. Đạo và Đạo Tại Tâm – Hửu Hình và Vô Vi Huyền
Diệu Hiện Tướng Hiệp Thiên Đài, Quốc Sĩ Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Bình (2017).
10. Đạo Tâm - Tịch Đạo - Chơn Pháp Đạo Tâm,
Quốc Sĩ Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Bình (2017).
11. Đại Đạo Cao Đài và Nền Văn Minh Nhân Loại –
Ban Thế Đạo Hải Ngoại Nhập Cuộc, Quốc Sĩ Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Bình (2017).
12. Đạo Cao Đài và Nền Văn Minh Thế Giới – Ban
Thế Đạo Hải Ngoại Nhập Cuộc, Quốc Sĩ Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Bình (2019).
13. Văn Hoá Thiên Đàng, Hòa Bình Thế Giới, Phục
Hồi Ánh Sáng (HWPL) và Đại Đạo Cao Đài (Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ - Tòa Thánh Tây
Ninh), Quốc Sĩ Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Bình (2017).
14. Ý Nghĩa Màu Trắng Và Áo Dài Trong Đạo Cao
Đài, Quốc Sĩ Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Bình (2018).
15. Bạch Ngọc Kinh Nơi Đức Chí Tôn Ngự, Quốc Sĩ
Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Bình (2018).
16. Huy-Hiệu Của Đức Hộ-Pháp Ngôi Sao Sáu Cánh
và Quyền Hành Hộ Pháp, Quốc Sĩ Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Bình (2019).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét