Phàm vạn vật hữu hình tại thế, đều sanh nơi nguyên do chí thiện của cơ tạo-đoan gầy dựng, và luật thiên nhiên
buộc phải tăng tiến trong đường chí thiện ấy cho đến cuối cùng.
Đời càng tới càng hay, vật càng ngày càng đẹp, dầu cho phép bảo tồn mạnh mẽ
buộc các loài động vật phải diệt lẫn lấy nhau đặng giữ gìn sanh hoạt đi nữa, là
khi
đã đặng trưởng thành, đủ trí-thức tinh-thần tự bảo, nghĩa là lúc chen lấn cùng đời mà lập phẩm, mới tranh đấu cùng sự hung bạo của thế tình. Vì sự xung-đột mà nãy sanh ác tánh, chớ còn buổi sơ sanh vẫn giữ nguyên bổn thiện.
đã đặng trưởng thành, đủ trí-thức tinh-thần tự bảo, nghĩa là lúc chen lấn cùng đời mà lập phẩm, mới tranh đấu cùng sự hung bạo của thế tình. Vì sự xung-đột mà nãy sanh ác tánh, chớ còn buổi sơ sanh vẫn giữ nguyên bổn thiện.
Chẳng cần chi luận đến vật chất, thảo mộc vì là loại vô năng, dầu cho cầm thú
với loài người cũng chưa hề thấy lúc sơ sanh mà có đủ sẵn-sàng nanh-vút”. (ĐHP
(Khuê bài thiêng-liêng vị) .
Ấy là lẽ tự nhiên của đất Trời, dù chúng ta có quan tâm đến hay không thì vạn
vật cũng phải đi theo chiều hướng đó (theo luật tấn-hóa).
Loài người khôn ngoan hơn vạn vật, là nhờ có điểm lương tâm dìu dắt, hiểu đặng
sống thác là gì; trí tuệ cứ tiềm tàng biết rằng Mình (con người) đứng trên hết
loài động vật là nhờ Thượng Đế ban cho điểm linh-quang, nếu ra sức học hỏi và
tu sửa lấy mình trở nên "chí thiện" thì con người sẽ được trở về ngôi
vị ban đầu "Chí linh" của mình.
Chúng ta cũng đã thấy: Những bậc ưu thời mẫn thế thường nghĩ-suy nhiều về
cuộc sống của muôn loài nên đã khám phá ra "luật tiến-hóa" của vạn vật
trong vũ-trụ:
Loài Kim thạch là vô-tri vô giác, tiến lên làm loài thảo mộc là đã có được
sinh hồn, loài thảo mộc tiến lên thành loài cầm thú mới có thêm được giác hồn,
từ cầm thú tiến hóa lên làm người mới có thêm được phần linh-hồn. Trong bát phẩm
chơn hồn thì con người đứng vào hàng phẩm tối-linh theo như kinh ‘Tắm Thánh’đã
nói:
“Giữa vạn-vật Âm Dương tạo
hóa
Dầu cỏ cây hoa quả biến
sanh,
Con người đứng phẩm tối
linh,
Nửa người, nửa phật nơi
mình anh nhi.”
Rồi từ con người phải nhiều khổ công tu luyện, trải qua không biết bao
nhiêu kiếp làm người chân-thật mới tiến-hóa lên địa vị Thần,Thánh, Tiên, Phật.
Phật-mẫu chơn kinh có câu:
“Càn-khôn sản-xuất hữu
hình,
Bát hồn vận chuyển hóa
thành chúng-sanh”
Nói chung thì đó là sự tiến-hóa tự nhiên trong "bát hồn", Riêng về loài người thì đã có một cứu cánh nhất
định, một giới hạn mà khi họ vượt qua thì họ sẽ bước vào một giai đoạn mới. Nói
một cách khác, trên loài người là đời sống Siêu Nhân Loại.
Luật tiến hoá vũ-trụ (Loi de Progression) định rằng: mọi vật đều thay đổi
theo thời gian để tiến trên những con đường định sẵn. Dĩ nhiên, đi nhanh hay chậm
còn tuỳ cá nhân và hoàn cảnh chung quanh.
Sự tiến hoá là sự trở về với Thượng-Đế, trở về với con người thật của mình,
phát triển Phật tính của mình trọn vẹn, để giác ngộ, sự hợp nhất với Thượng-đế nghĩa
là trở về với ngài vì chúng ta đều là một phần của ngài.
Theo sự hiểu biết của tôi về luật tiến hoá, thì với con người của thời đại
hôm nay (thời nguyên-tử lực) phần trí nảo phát-triển khá cao, thể xác họ đã
phát-triển khá hoàn-hảo, nhưng đa số vẫn chưa chủ trị được xác thân,vì họ biết
đủ thứ nhưng phần ‘biết về mình’ thì rất ít. Một người tiến-hóa cao là người đã
chủ trị được xác thân, đặt nó dưới sự kiểm soát của lý-trí và linh-hồn. Một người
kém tiến hoá là người còn nhiều thú tánh, chỉ lo nghĩ đến các đòi hỏi của thể
xác như ăn uống, ngủ nghê, dục tính. Những đòi hỏi thái-quá của thân xác mà ta
không đủ sức cung-ứng cho nó, do đó ta sẽ gặp nhiều đau khổ để học lấy sự chủ
trị xác thân.
“ Thế gian là một trường học mà trong đó, có yếu tố đau khổ. Sau khi chủ trị
được xác thân, là việc kiềm chế thể vía. Thể vía hay tư tưởng là điều rất khó
kiểm soát, chinh phục. Ta thấy nhiều người tuy đã kiểm soát hành động của xác
thân, nhưng vẫn còn để tư tưởng chạy lung tung như ngựa bất kham, không theo một
đường hướng nào nhất định.
Sự định trí: “ bắt tư tưởng phải theo một đường lối suy nghĩ” sẽ đưa ta đến
sự kiểm soát thể vía. Sau đó là sự kiểm soát thể trí, nghĩa là sử dụng trí tuệ
để suy nghĩ, phân biệt, phá tan các tà kiến, các màng che phủ của vô minh. Định
trí suy nghĩ là một việc, nhưng suy nghĩ chân chính, đứng đắn lại là một việc
khác. Chỉ khi nào cả ba thể (1) : xác, Vía ( hồn), trí hoàn toàn được kiểm soát
thì ta sẽ hoà hợp với Chân Ngã (QUI TAM BỬU: Tinh – Khí - Thần hợp nhất). Từ
đó, phàm nhân và Chân nhân hoà hợp làm một, con người sẽ tiến hoá đến một giai
đoạn mới, trở nên một bậc chân nhân. Khi đó, con người bước vào một đời sống
trường cửu của tinh-thần. Đó là một đời sống huy hoàng, tốt đẹp, vượt ngoài tầm
hiểu biết của chúng ta, và không thể diễn tả bằng ngôn ngữ.
Bạn có tin rằng tất cả đều phải tiến tới đời sống đó ?
- Dĩ nhiên, tiến hoá là một định luật vũ trụ và rồi ai cũng sẽ phải đi trọn
con đường đó (có nghĩa là ta phải TU: Se perfectionner rồi mới biết định luật
đó). Ta có thể làm ác, ích kỷ, đi ngược dòng tiến hoá, nhưng làm thế ta chỉ làm
chậm trễ sự tiến bộ của mình, nhưng không thể chận đứng được dòng tiến hoá của
nhân loại. Vấn đề đặt ra là thời gian, con người có thể đi đến mục đích trong
thời gian ngắn nhất hoặc dài nhất. Thí dụ như ta có thể bơi xuôi dòng, ngược
dòng hay chơi vơi ở một chỗ, nhưng dòng nước vẫn chảy và dù muốn hay không trước
sau gì ta cũng trôi từ nguồn đến biển cả. Sống thuận theo thiên ý là bơi xuôi
dòng, nghịch thiên ý là ngược dòng. Đa số con người thường chơi vơi, không nhất
quyết, lúc chìm đắm, khi nổi trôi, có lúc ngược dòng, có khi lại xuôi dòng vì
chưa ý thức sáng suốt để nhận định con đường phải theo.”
Người đời nhân chỗ ghét, thương biến dịch đối đầu mà sinh ra đức tánh: Do
chỗ kiêu mạn mà có đức-tánh khiêm-hòa , do chỗ sợ-hãi mà có đức tánh dũng-cảm,
do có ràng buộc mà có giải-thoát v.v..
Các đức tánh trên dù sao vẫn có giới-hạn ở trong tương-đối. Còn người khi
đã thông-triệt Dịch-lý âm-dương dù họ
không tu hạnh khiêm hòa mà thấy họ thật là khiêm hòa, vì không hề biết kiêu-mạn,
không nghĩ mình dũng cảm mà thật dũng cảm, vì không hề biết sợ-hãi. Không tìm
cách giải-thoát mà giải-thoát rốt-ráo vì không hề biết đến sự buộc ràng. Đó là
cái CHÂN-KHÔNG mà DIỆU-HỮU chứa đủ mọi công-đức vô-vi.
Hạnh-phúc hay sự bất-hạnh của cuộc đời chúng ta chỉ hoàn toàn tùy thuộc vào
kiến-giải của ta. Mọi vấn đề, mọi bệnh-tật, tai ương, hiểm-họa, tội ác.v.v…của
con người đều phát-sinh từ sự vô-minh, sự không thấu hiểu chân-lý.
Theo Dịch-lý tất cả những hiện-tượng của cuộc sống tương-đối đều phát sanh
từ sự sai-biệt của một Thực tại DUY-NHẤT
gọi là ĐẠO. Đạo sinh ra vạn sự vạn-vật bằng cách tự phân-cực ra dưới hai hình
trạng Âm Dương biểu thị dưới hình tướng Nam Nữ, động tịnh, tâm vật, tối sáng,
nóng lạnh v.v...Đây là hai hình tướng đối diện nhau và bề ngoài có vẻ tương-phản,
đối nghịch nhau, nhưng thực ra bổ túc cho nhau vì cùng phát sinh ở tại một nguồn
gốc: Vô-song nguyên-lý (Nguyên-lý duy nhất không có hai). Hai hình tướng này
không lìa nhau, trái lại cùng nương nhau mà có, cho nên chúng có thể biến đổi
hình tướng của nhau. Sự phân đôi trong vũ-trụ không phải là nhị-nguyên duy-nhất.
Tuy nghe ra thì có vẻ mâu thuẩn. Đối tính tùy thuộc vào Một và vì lẽ một mà thực
tại cứu cánh nên ta phải xem những mâu thuẩn không phải như những tương phản
hay địch thù mà như những gì bổ túc thêm hay, những người bạn, vì cái này cần
thiết cho cái kia. Thực tế do sự vô minh sâu-sắc của chúng ta, do cái nghiệp của
chúng ta nên chúng ta không hiểu ý nghĩa của hiện tượng phân cực này để rồi khởi
tâm bỉ ngã, phân biệt, chia rẽ, độc đoán, tranh đấu, hận thù… con người tự mình
tạo ra ý thức nhị nguyên (1). Khách quan mà nói thì nhị nguyên vốn chẳng có mà
chỉ có đối tính phát sinh từ nhất nguyên không có tranh đấu cũng như không có hận
thù thực sự bất kỳ ở mức độ nào.
(1): Nhị nguyên là một sự giả tạo, mơ hồ, chủ quan của nội tâm chúng ta. Giải
thoát ảo tưởng đó, có một chánh-kiến, đốn ngộ lý nhất như của pháp giới. Siêu
việt mọi sai biệt đối đãi của vạn sự vạn-vật ấy là GIÁC-NGỘ. Thực ra mà nói thì
một người có "tư-tưởng nhị nguyên" giống như người đứng chàn hảng, suốt
đời chỉ ở một chỗ không thế nào tiến-hóa được. họ chỉ biết sống trong nô-lệ của
dục-vọng xác thịt)
… Định mệnh con người luôn luôn có những thay đổi lớn, mặc dù không thấy rõ
nhưng chúng ta vẫn vô tình tiến đến mục tiêu đã vạch sẵn. Tất cả đều là những
thử thách cho sự nghiên cứu của các bạn. Một chân lý có giá trị thực sự phải chịu
nổi các thử thách của thời gian. Cuộc đi tìm chân-lý cũng thế, nó đòi hỏi một sự
cố-gắng và một tinh-thần khoa-học, suy xét để gạt bỏ các điều mê- tín, các
thành-kiến.
Sau đây soạn-giả xin trích-lục lời tiên-tri của Chí-Tôn qua 4 bài thi thất
ngôn tứ tuyệt và một bài bát cú đã in trong Thánh-ngôn hiệp-tuyển I và II, gới
đến quí bạn cùng chiêm- nghiệm.
THI:
“Trời hằng thương mến lũ
nhơn sanh,
Giận nỗi cưu cưu ở bạc
tình,
Ép trí sợ trôi, trôi khó
níu,
Thương thì để dạ, dụng
oai-linh.
“Dập-dìu lắm kẻ ngó
Thiên-đường,
Buổi thế không lo níu
nhánh dương,
Dương thạnh thì hay đời mạt
kiếp
Nêu thân ở giữa cuộc
tang-thương”
“Tang-thương đã biến cuộc
hầu gần,
Bắc-Hải rồi sau lại hóa
sân.
Thanh thế con người toan cải
ác,
Tùng theo nhơn cách đặng
phong thần.”
“Phong-thần đừng tưởng
chuyện mờ-hồ
Giữa biển ai từng gặp Lão
Tô?
Mượn thế đặng toan phương
giác thế,
cũng như nương viết của
chàng Hồ.”
Bốn bài thi trên là nói chung về lòng dạ con người, riêng nước Việt-nam
thì quý bạn hãy suy-gẫm bài thi sau:
“Biến chuyển trời Nam cuộc
đão huyền,
Trả vay cho sạch vết
oan-khiên.
Trường đời đem thử gan
anh-tuấn,
Cửa Đạo mới ra mặt
Thánh-hiền.
Đau khổ gắng gìn
nhân-nghĩa vẹn,
Tang thương chờ hưởng huệ
ân riêng.
Non-sông Việt chủng ngày
yên-lặng,
Chung sức cùng nhau đức lập
quyền”
Cùng chư vị "Đạo Tâm",
“Con đường vô-tư để tìm cứu khổ cho
chúng sanh là con đường đạo-đức mà đạo-đức là cần phải trau nơi tâm chỗ chẳng
ai thấy được, là ngọn đèn thiêng-liêng sẽ soi tỏ lối đi của chúng ta trên bước đường lập công bồi đức.
Sự tiến hoá chẳng qua chỉ là biểu lộ của sự sống thiêng liêng, con người
càng ngày càng trở nên tốt đẹp, tế nhị vì sự sống vô cùng cần được biểu lộ qua
hình thể đó. Một bậc toàn thiện là việc tự nhiên, hợp lý do sự kết tinh đến mức
tuyệt đỉnh của một con đường tiến hoá dài và liên tục.
Tây-Ninh Thánh-địa ngày vào Hạ. năm Canh-dần.
(Dl: 2010)
Soạn-giả
Nguyên Thủy.
ĐỀ TỰA QUYỂN Y-ĐẠO
Cụ Lê hữu Trác
đã nói: “Học Kinh Dịch đã rồi mới nói tới việc học thuốc”. Cụ Nguyễn đình Chiểu
cũng đồng ý kiến đó nên trong “Ngư Tiều vấn đáp Nho y diễn ca” có câu:
“ Đạo y nửa ở Dịch Kinh,
Chưa thông lẽ Dịch sao
rành chước Y?
Thực vậy, việc tìm hiểu thật sâu-xa những vấn-đề thâm-thúy của Nội-kinh là
một việc làm mà bất cứ nhà nghiên-cứu y-học cổ-truyền Đông phương nào cũng mong
ước. Bởi vì, từ cái lý của Dịch đến cái lý của Y, người thầy thuốc Đông phương
có thể tìm thấy nơi đây những nguyên-lý chung trong quan-hệ Thiên, Nhân, Địa để
phòng ngừa và trị bệnh.
Nhiệm-vụ cao cả của người học Y là để cứu con người thoát khỏi bệnh tật.. Để
đạt được mục đích đó, nền y-học cổ-truyền dựa vào lý luận "Kinh điển"
( bao gồm những tác phẩm như: Nội-kinh (Linh tố), Nan kinh, Tố-vấn, Linh-khu,
Thương-hàn luận, Kim-quỹ yếu-lược…) là chính yếu.
Kinh Dịch là quyển sách đứng đầu trong các tác phẩm nói trên, đồng thời
cũng là quyển sách được ứng-dụng trong nhiều lãnh-vực khoa học: vật-lý, hóa-học,
toán-học, điện-học và hiện nay là nguyên-tử học…cũng không ra ngoài nguyên-lý "Âm
Dương ngũ-hành".
Có một số hoc-giả cho rằng khi nói đến Kinh Dịch trong Y-học là nói về "Âm
Dương ngũ-hành". Nhưng xét cho cùng quan niệm trên vẫn còn thiếu, tức
nhiên chưa đủ để có thể giải-quyết được vấn-đề sinh-tử của con người về mặt "triết-lý
nhân sinh". Bởi vì Kinh dịch bao gồm vấn-đề Âm Dương ngũ-hành chớ không phải
chỉ có Âm Dương ngũ-hành mà thôi.
CHƯƠNG I
HỌC THUYẾT TAM TÀI
A - CĂN NGUYÊN ĐẠI-ĐẠO
Tức là CON SỐ 3 HUYỀN DIỆU
Những bậc
thông-minh thánh trí ngày xưa luôn quan tâm đến cuộc
sống của con người, nên thường ngẫng xem, cúi xét và quán nhân sự mà thông suốt
được Trời Đất mới thấy rằng:
Thiên – Địa – Nhân là ba lý lẽ đã làm nên thế giới hữu hình gọi là ‘Tam
tài’. Vậy ‘Tam-tài’ có ý nghĩa gì? Học-thuyết ‘Tam Tài’giữ vai trò gì trong cuộc
sống còn của con người ? biến-hóa của nó như thế nào ?
1) Khởi nguyên:
Trời (天) có: mặt trời (nhật), mặt trăng (nguyệt), các vì
sao (tinh tú).
Đất (地: địa) có: Thủy (Nước), Hỏa (Lửa), Phong (Gió)
Người (人: người): Tinh, Khí, Thần.
Trong thế-giới hữu hình, duy chỉ có con người được đứng vào hàng phẩm ‘Tối
linh” theo như Kinh “Tắm Thánh” đã viết:
Những vạn vật Âm Dương Tạo-Hóa,
Dầu cỏ cây hoa quả biến sanh.
Con người đứng phẩm tối linh,
Nửa người nửa Phật nơi mình anh nhi.
Phần ‘tối linh’ đó là do Thượng Đế ban cho con người ‘ điểm linh-quang’ mà
người biết cách trau-dồi, tu-dưỡng và phát triển nó đến chỗ tận thiện, tận mỹ mới
có được.
Kinh nói tiếp: sở dĩ có được cái ‘tối
linh’ đó là do:
Đại Từ-Phụ từ bi tạo hóa,
Tượng mảnh thân giống cả
Càn-khôn,
Và cũng bới thế,nên con người sống phải giữ sao cho được:
Vẹn toàn đủ xác đủ hồn.
Bấy giờ mới có thể:
Xây cơ chuyển thế bảo-tồn
vạn-linh.
Các bậc thánh nhân lấy thuyết ‘tam
tài’làm bài học hằng tâm để luyện ‘Tam bửu’
mà ‘Lập Đức, lập công và lập ngôn’ cho riêng mình đã nói lên sự kết-hợp chặc chẽ
không thể thiếu một. Đó là Trời (Thiên-lý, Đất (Địa-lý) và lý nhân
(Nhân-văn).Nơi con người, lý tam-tài này đã trở thành ngôi Tam-bửu, đó là
Tinh-Khí-Thần: (Trong mỗi con người có ba phần chính: 1- xác thân là phần hữu
thể. Linh hồn là phần khí thể bán hữu
hình thuộc về phần trí não. 3-Tinh-thần là điểm linh-quang tiềm tàng trong mọi
con người mà ta gọi bằng nhiều danh từ khác nhau như Phật tính, Chân Ngã, Thần
tính, v…v..)
“Học-thuyết tam-tài” là một học thuyết
khởi khai nền ‘Đại-Đạo’ vô cùng quan-trọng đối với con người trong cuộc sống.
Ta gọi đó là Ba (Cha), là cái nguồn gốc sinh hóa ra Trời Đất, vạn-vật và con người mà Lão
Trang gọi là ‘ĐẠO’.
Trong một ‘đàn cơ’ , Đức Hộ-Pháp có
hỏi Đức Nguyệt Tâm chơn nhơn : “ Cha và Thầy khác nhau. Tại sao Đại Từ Phụ cũng
xưng là Thầy.”
Ngài vừa là Cha vừa là thầy:
“Bởi vì con người chúng ta nhờ Ngài mà có.
Ngài nuôi dưỡng thân thể ta bằng những thức ăn trong sạch.
Và tạo dựng linh hồn ta bằng phẩm Thiên.
Nơi Ngài tập trung Khoa Học và khôn-ngoan,
Đại nghiệp của Ngài là không ngớt giục tấn linh hồn;
Những vật chất tồi tàn là châu báu trước mắt ngài,
Ngài biến các chơn linh hèn hạ thành Tiên Thánh.
Luật của Ngài là Thương Yêu, Quyền lực của Ngài là Công-lý.
Ngài quan tâm đến đạo đức, truất bỏ tật xấu.
Là "Cha", Ngài ban cho các con sinh lực của
Ngài,
Là "Thầy", Ngài di truyền cho Thiên Tính”
(theo bản dịch từ Pháp-văn của Sỉ Tải
Nguyễn Minh Ngời)
Ấy vậy "lý Tam-tài" đã khai nguyên cho một nền Triết-học Á-Đông
vô cùng thâm-diệu mà Dịch-lý là điểm xuất phát, là phương tiện, là điểm tựa
dành để cho những ai muốn tiến hóa nhanh cần phải quán-triệt trước hết:
- Phât-giáo gọi lý "Tam-tài" là ngôi "Tam bảo" gồm có: Phật số 1, ngôi Pháp số 2 và ngôi Tăng số
3. Chỉ có con người mới được đứng vào vị trí của con số 3 ( tức vào hàng "tam
tài") cho nên con số 3 đọc là "tam" cũng có thể đọc là "tham"
( dự vào). Khi nào 3 ngôi này hòa hợp với nhau làm một đó là ngôi của Thượng-Đế,
duy nhất bản thể ( gọi là phản bổn hoàn
nguyên hay thất phản cửu hoàn hay hòa nhập với 1) thì Người tu (theo Đạo
Cao-Đài) đã qui được tam bữu hay "luyện" tinh hóa ra "khí"
(tức luyện được tinh khí thần hiệp nhất là "đắc Đạo") thì linh hồn mới
được hòa nhập với Thượng-Đế, lúc bấy giờ việc của ta làm là do Thượng-Đế sắp
bày cho ta, nên mới có câu "Thầy là các con, các con là Thầy".
(Nho-Giáo lấy (lý tam-tài) làm TÂM,
Dich-lý gọi là quẻ Càn: (☰: Trời, là con số 1), Đạo Cao-Đài ngày nay tôn thờ
Trời bằng biểu tượng "THIÊN NHÃN" cũng là do lý đó.
Công-giáo gọi là: Đức chúa Cha, đức chúa con và chúa Thánh-thần.
Tiên đạo gọi là Tinh, Khí, Thần.
Người "Tu-chơn" gọi đó là "Tam bửu". hay "Tam thể xác thân".
Tam giáo tuy goi tên con số 3 này bằng nhiều danh từ khác nhau, nhưng nói về
Thiên-lý thì chỉ có một, cái MỘT này chính là TÂM của ta đó cũng là chỗ mà nhà
nghiên-cứu cho là “Tam-giáo đồng nguyên” là đầu mối của Đại-Đạo, là Trời đó vậy)
B - NHO–Y - LÝ-SỐ NỀN TẢNG
CON NGƯỜI
Phàm người học Dịch cũng như học về Đông-y , tất phải thấu hiểu lý-luận Đạo
Nho ( chữ 儒 có thể đọc là nhu: 需 là sự cần yếu của con người). ngày xưa ở Á-đông người ta rất chú trọng về
vấn đề học-vấn, người đi học cần yếu trước nhất là học Đạo ‘Nho’ rồi tới học Y
và sau cùng mới học đến Lý Số (tức là Kinh Dịch vậy). Ngày nay, thời ‘Tam-kỳ Phổ-độ’,
Đấng Thượng-Đế khai Đạo tại Việt-Nam nói rằng:“ Ngọc-hoàng Thượng-đế giáo đạo
Nam phương”xưng danh là ‘Thầy’ và gọi các tín-đồ là ‘môn-đệ’. Mục-đích của Thầy khai-đạo kỳ này
là lấy đạo Nho làm nền tảng để chuyển thế ( vì chữ Nho là một linh-tự có sự kết
hợp với Đạo Dịch rất khít-khao). Bởi thế chúng ta học Đạo không thể không thông
hiểu về Nho, Y, Lý-số vì nó có liên-quan với nhau như người một nhà) Có thông
lý ‘Nho’ thì học thuốc mới dễ, làm thầy trị bệnh mới linh-ứng.
a) - NHO
Kinh Dịch đã minh chứng rằng cuộc sống của con người được nối tiếp nhau bằng
sự ‘vận-hành’ uyển chuyển, bằng ‘thông Thiên Địa’, bằng biến-hóa. Con người là
cái ‘Tâm’ của Trời Đất, con người sinh
ra ‘là’ người, nhưng còn phải ‘trở
thành’ Người. Quá trình ‘trở thành’ đó buộc con người sống phải luôn đồng nhịp
với nhịp biến-hóa của Thiên Địa, của ngày đêm, của nắng mưa…Từ sự hiểu biết
‘thông Thiên Địa’ đó, Nho học đã đặt ra
vấn-đề ‘ thông nhân sinh’ tức là tìm hiểu quan-hệ giữa người và người.
Nhị khí Âm Dương biểu-lộ ra ‘ngũ-hành’: Thủy Hỏa Mộc Kim Thổ. Con người do bẩm thụ ‘tú khí’
của ngũ hành mà thành người, do đó con người phải sống hợp với ngũ hành.
Học Nho là học theo lối sống thuận với sự biến-hóa của ngũ hành.
Nho học là môn học nghiên-cứu ‘cách sống’, cách ‘quan-hệ giữa người và người.
Mỗi hành gồm có Âm và Dương, do đó mỗi luân cũng sống theo một ‘cặp người’ cùng
sống trong gia đình và xã-hội như:
Vua (chữ 王:vương) đối với Tôi (臣thần:bậc dưới) và ngược lại ‘tôi’ đối
với Vua (người làm chủ, đứng đầu một nước) như thế nào cho phải ‘Đạo’.
Cũng theo đó có sự tương-đối (từng cặp đối-đãi) về:
Cha đối với Con và Con đối với Cha,
Chồng đối vớiVợ và Vợ đối với Chồng
Anh đối với Em và Em đối với Anh,
Bạn bè đối với nhau phải như thế nào? Những cách đối xử trên dưới, qua lại
với nhau đó là phần ‘nhân đạo’ hay ‘Đạo nhân-luân’. Một cặp Âm Dương gồm 2‘cách
đối xử’ (đối nhân xử thế ) ta gọi là ‘luân’. Làm lộn-xộn một trong hai đạo đó gọi
là ‘loạn luân’, làm không đúng với một trong hai đạo gọi là ‘phi luân’…Trời có
ngũ-hành thì người có ngũ-luân hay ngũ
thường là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín đó vậy.
b) - Y:
Nếu ‘Nho’ và ‘Nho-học’ là phép sống, và cách nghiên cứu ‘phép sống’, sao
cho thuận với Thiên Địa, vạn-vật, thì cũng trên nguyên-lý đó, ‘Y’ và ‘Y-học’ là
Sự sống và tìm hiểu sự sống của ‘ngũ-tạng, lục phủ, khí huyết’ trong nội bộ của
thân thể con người.
Trong vạn-vật đa thù (nhiều hình dạng), con người được xem là TÂM của Thiên
Địa. Cũng vậy, trong ngũ-tạng, lục phủ đa dạng trái TIM chính là Tâm của con
người.
Thiên khẩu-vấn (Linh-khu 28) có dùng chữ ‘cư-xử’. Cư và xử được Nội-kinh
xem như là những cách sống ‘giữa người và người’ (Theo Nho là phần nhơn đạo),
giữa ‘tạng phủ’ với nhau (Y-đạo).
‘Cư-xử’ dù ở người hay giữa tạng phủ
với nhau đều phải thuận với sự vận-hành của Thiên Địa.(Trạng-thái đó gọi
là ‘HÒA’).
Sự sống nhịp nhàng giữa tạng phủ và con người cũng là ‘HÒA’. Sự nhịp nhàng
giữa con người với Thiên Địa cũng không ra ngoài lý ‘Hòa’. Sự nhịp nhàng từ tạng
phủ đến con người ra đến Thiên Địa gọi là Thái-hòa, gọi là ‘Đai Đức’.
Thánh ngôn đức Chí-Tôn có câu:
Chẳng quản đồng tông mới một
nhà,
Cùng nhau một Đạo tức một
Cha,
Nghĩa nhân đành gữi thân
trăm tuổi,
Dạy lẫn cho nhau đặng chữ
HÒA.
Thoán-từ truyện quẻ Kiền viết: “Các chính tính mệnh, bảo hợp thái-hòa nãi lợi
trinh”. (Mỗi người phải sống cho chính với Tính (1) và Mệnh, bảo-hợp được
‘Thái-hòa’, được vậy mới lợi và trinh.
Hệ-từ hạ truyên Chương I (kinh Dịch) viết:
“Thiên Địa chi Đại Đức viết Sinh”.
(Cái ‘Đại đức: đức lớn’ trong Trời Đất
là ý-nghĩa của ‘Sinh: sự sống’).
Y-học ở đây là một phương-pháp mang lại sự sống, duy trì sự sống bằng cách
chỉ cho con người biết cách “Hòa’ với cái ‘Thái-hòa’ của toàn bộ Thiên – Nhân –
Địa. Làm người phải biết thế nào là cách sống theo ‘Y-đạo’, là người thầy thuốc biết thế nào là ‘học Y’.
C -TỪ HỌC THUYẾT TAM TÀI ĐẾN
NGÔI THÁI-CỰC HỮU HÌNH.
1) PHẦN THIÊN-ĐẠO HAY ĐẠO-DỊCH là phần (Lý-số : Hà-đồ và Lạc-thơ) nói về quyền năng của đấng hóa-công, Đấng
vô-hình đã tạo ra Trời Đất mà người đời thường gọi Ngài là Đấng Thượng-Đế, là Đấng
hằng hữu, là Đấng Chí-tôn chí-linh, chí diệu.
Đại La Thiên Đế Thái-cực thánh hoàng
Hóa-dục quần sanh, thống ngự vạn-vật.
Diệu diệu Huỳnh Kim-khuyết,
Nguy nguy Bạch Ngọc-Kinh.
(67) - Hệ-từ thượng-truyện Chương 11 viết: “Thị cố Dịch hữu Thái-cực, thị
sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát-quái”. Đó là quá
trình biến-hóa từ Vô sang Hữu:( từ
Thái-cực sang lưỡng nghi, sang tứ tượng để đi đến bát-quái…). Quá trình này đi
từ khí-hóa ‘vô hình’ sang vạn-vật hữu hình, trong đó có con người. Con người là
một ‘vật’ hữu hình do bẩm thụ cái ‘tinh
khí’, cái tú khí của Âm Dương, của ngũ hành. Nghiên-cứu y-học tức là nghiên-cứu
con người bằng khí huyết, tạng-phủ. Khí huyết tạng phủ này thông với Thiên Địa.
Kinh Dịch là một tác phẩm tìm ra những nguyên-lý chỉ đạo cho vấn-đề trên.
Nó đi từ Hình nhi-thượng vô-cực đến hình-nhi hạ Thái-cực, để rồi đến vạn-vật hữu
hình.
2) CHÂN KHÍ CỦA VÔ-CỰC.
Hà-đồ (là phần Lý-số) là đầu mối của Kinh-Dịch, có Hà-Đồ (rồi mới có Lạc-thơ) sau này Thánh-nhân mới vẽ ra
Bát-quái. Hà-Đồ là phần cao-cấp của kinh-Dịch, là quyển kinh nói về Bí-pháp của
Phật-gia, đó cũng là con đường thứ ba của Đại-Đạo, là biểu-tượng của Tiên-thiên
hư-vô chi chí, là triết-lý đại-đồng đó vậy.
“Theo truyền-thuyết kể rằng: Đời Vua Phục-Hi, Ngài thấy con Long-mã nổi lên
trên sông Mạnh-Hà, trên lưng nó có nhiều điểm (Xem hình vẽ).
Nếu khí là cái gì khởi thủy của vạn-vật như ta đã nêu trên, người xưa lại
dùng chữ 道 Đạo để diễn tả con đường của quá trình khí hóa
toàn diện. Hai danh từ ‘Khí’ và ‘Đạo’ đã
diễn tả cái bắt đầu và cái chấm dứt của một chu kỳ sinh hóa của vạn vật, của
con người trong một cái vòng ‘không có bắt đầu’ và cũng ‘không có chấm dứt’ mà sách Hoàng-đế nội-kinh
gọi vòng này là ‘Chu nhi phục thỉ như hoàn vô đoạn’.
Khí và Đạo thực sự chỉ là một. Nó chỉ cái nguyên ủy từ đó đã sinh ra vạn-vật.
Tất cả các nỗ-lực nghiên-cứu và thành-tựu về mặt y-học đông-phương trong mấy
ngàn năm nay cũng chỉ đặt nền tảng ở nó mà thôi.
Quyển sách ‘Y-đạo’ được khai-triển từ nguyên-lý của Kinh Dịch để ứng-dụng
vào y-học tiêu biểu qua bộ Hoàng-đế Nội-kinh, bộ Thượng-hàn luận,, bộ Kim-quỉ yếu-lược.
Chúng ta lần lượt sẽ trình bày dưới đây.
Đạo “Vô-vi”là Thiên-lý để nói về phần
‘Tinh-thần’ hay ‘Tâm-linh’ của CON NGƯỜI (côn trùng thảo mộc loài nào chẳng
linh). Trong cái không gian vô-tận (cõi Đại-la thiên) mà loài người không thể
nào hình dung được biên-giới là đâu, lúc nào cũng có một đấng tối cao, tối diệu…mà
tôn giáo Cao-Đài gọi Ngài với danh hiệu là ‘Ngọc Hoàng Thượng Đế’ ( Đại-La
Thiên-Đế Thái-cực Thánh-Hoàng (Kinh Thiên-Đạo). Ngài là đấng duy nhất điều hành
Càn Khôn vũ-trụ và ban sự sống cho muôn loài vạn-vật. Ngài là đấng tự hữu và hằng
hữu giáng cơ lập Đạo Cao-Đài trong thời ‘Tam-kỳ Phổ-Độ này chúng sanh gọi ngài
bằng Thầy và tôn ngài là Đấng ‘Đai-Từ Phụ’ (xem lại số 3 đã nói trên mục (A).
- Vạn vật luôn biến chuyển không ngừng, đó là ý-nghĩa của chữ ‘Dịch 易 (Thuyết Tiến-hóa):
Muôn vật đều biến-động không ở một chỗ, như ta ngồi yên một chỗ trên một
cái ghế hàng giờ đồng hồ, theo quan năng của ta là “ngồi yên một chỗ” . Nhưng mặt
đất mang ta vận-chuyển chung quanh mặt trời, nên sự yên tĩnh của ta đối với
Thái-dương-hệ thì vẫn là ‘động’ vì quả đất xoay mang ta từ chỗ này qua chỗ
khác. Hóa cho nên ta có thể nói là muôn vật trên trái đất đều lúc nào cũng biến-động
mà không ở nguyên một chỗ. Cũng như ta
ngồi ở trong xe lửa hay xe hơi đang chạy. Ta vẫn ngồi yên mà xe mang ta từ xứ
này sang xứ khác.
Vì sự thay đổi không thường cho nên người làm dịch không thể như những người
làm ra toán học như Pythagore đã định cách tính của hình tam giác, bằng những định
lý nhất định. Nhưng người làm dịch không thể đặt ra những định lý cần yếu làm lệ
thường để tính một cách dễ dàng như những định-lý của Kỷ-hà-học, số-học, tóm lại
của Toán-học vì lẽ rằng trong đạo Dịch cái dịch lý cốt yếu và cần thiết nhất là
sự biến-hóa . Có biến-hóa thì mới gọi là Đạo Dịch, mà đã biến-hóa ắt theo
thiên-lý và đã biến-hóa thay đổi luôn luôn như vậy thì đến cho những định-lý đã
đặt cũng phải thay đổi theo nó . Hóa cho nên người làm dịch không thể đặt ra
cái lệ thường toát yếu mà chỉ lấy sự biến-hóa làm căn-bản để tính theo sự thay
đổi của Thiên-lý thôi vậy.( Để có được sự hiểu biết thật chính xác sự thay đổi
đó ta phải học ‘Dịch lý’ trong suốt cuộc đời mình).
Sách dịch tức là sách gồm ở trong cả một cái Đạo của trời đất gồm từ các tiểu
thiên-địa hay là cái đơn nguyên-tử (monade) của nhà Bác-học Einstein đến cái đại
thiên-địa gồm tất cả cái Vũ-trụ to lớn có những Thái-dương-hệ như cái thái-dương-hệ
mà trái đất ta vận-chuyển hiện tại. Như ta trông lên vòm Trời vào một đêm mùa
Hè trời trong trẻo, ta sẽ thấy hằng hà sa số ngôi sao, mỗi ngôi sao là một định
tinh, ta có biết đâu mỗi định-tinh cũng như mặt Trời là một “điện hạch” làm
trung tâm điểm cho một thế-hệ của các hành tinh khác. Hóa cho nên làm sách Dịch
đâu có phải lấy sự xa-xôi mà giải, phàm người ta đã hiểu như vậy ắt không thể
xa đạo Dịch được vì Đạo Dịch là đạo của muôn vật của trời đất.Trong thâm-tâm
ta, trước mắt ta đều có sự hành-động của Đạo Dịch. Ở cõi sinh-tồn này phàm từ
cái nhỏ bé mà mắt thường ta không trông thấy cho đến những vật to lớn đều phải
theo Đạo Dịch , nên muôn vật không thể xa Dịch vậy.
Dịch đã thành Đạo, nghĩa là đã thấy rõ ràng muôn vật ở trên cõi sinh-tồn
này lúc nào cũng đều có sự thay đổi luôn luôn, không có một giây phút nào ngừng
nghỉ được .
- Luật biến hóa phải theo cái Một (1)
hay là Đại-Đạo:
Đức Chí-Tôn dạy: “Các con nên nhớ hoài rằng” Thầy của các con là ông Thầy
Trời, nên biết một ổng mà thôi thì đủ. Nghe à!”
“Nơi trần nầy, thiếu chi bực giả dối,
các con có tin ai cho bằng tin cậy nơi các con? (cái một ở trong con người
chính là Tâm ta đó). Cơ mầu nhiệm đã định nơi Thiên thơ, Ðạo mở chủ ý dìu dắt
những kẻ hữu phần, đặng rán cùng nhau dắt lên khỏi con đường trắc trở, vẹt nẻo
chông gai, bước tận đến thang Trời hội hiệp cùng Thầy trong buổi chung qui, đặng
cùng không do nơi tâm chí của các con. Sự yên tịnh và sự hòa bình là hai điều
Thầy dụng mà gieo mối Ðạo (Đạo ở trong Tâm mới là chơn thật). Biết bao lần sanh
linh đã đổ máu vì Ðạo! Thế mà có thành được không?
Thầy vì đó mà phải để cho các con chịu phiền não mà hành đạo cho vẹn toàn.
Do đó Đức Chí-Tôn mới nhắc nhở chúng ta rằng:
“Cơ
lập Ðạo là nhiệm mầu vô giá, biết Ðạo, biết ta, biết người, biết thế, biết
thời, biết dinh hư, biết tồn vong ưu liệt rồi mới có biết hổ mặt thẹn lòng, biết
sự thế là trò chơi, biết tuồng đời là bể khổ, biết thân nô lệ dẫn kiếp sống thừa,
biết nhục vinh mà day trở trên con đường tấn thối. Có đâu đường đời còn lắm
giành xé, hại lẫn nhau, mong chi đặng tầm Tiên noi Phật.
“ Các con, mỗi đứa đã tự mở một con
đường, thì Thầy vẫn không vui được trong sự phân chia (phe phái), nên hay là
hư, phải hay là quấy, Thầy chỉnh để cho tâm các con liệu lấy. Tâm cứng cỏi, Ðạo
điều hòa thì cứ bước tới Thầy, tâm trí bất định, đạo hạnh không hoàn toàn, thì
con đường hám lợi xu danh tới hang sâu vực thẳm đó, vì sức các con đã rã rời
thì tài nào níu kéo đỡ nâng khuyên nhủ nhau được”.
“Con đường vô tư để tìm cứu khổ cho chúng sanh là con đường đạo đức. Ngọn
đèn thiêng liêng sẽ chực soi tỏ bước của các con; khác với con đường ấy là đường
của quỉ vương đem lối”.(Phân chia phe phái, vì danh lợi không thể gọi là chánh
Tâm) .
“Vậy nên nhớ mấy lời Thầy, chẳng phải đọc sơ qua mà coi làm chơi, cần chiêm
nghiệm kỹ lưỡng mà hiểu nghe”.
3) TỪ KHÍ HƯ-VÔ ĐẾN VẠN VẬT
HỮU HÌNH
Từ lúc Thái-cực tách thành động tĩnh, thành lưỡng nghi thì hai quẻ Kiền và
Khôn tượng-trưng cho sự bắt đầu biến-hóa để sinh ra vạn-vật: Thiên Địa là cha mẹ
của vạn-vật trong đó có con người.( xem lại Hà-đồ ở quyển SĐI).
Mở đầu quẻ Kiền Khổng tử viết trong Thoán-từ truyện: “Đai tai Kiền nguyên,
vạn vật tư thỉ” (大 哉 乾 元 萬 物 資 始) = To rộng thay! Cái nguyên-khí của quẻ Kiền, vạn
vật đều bắt đầu từ đó.
Hệ-từ truyện nói: Kiền tri thái thỉ…乾知太始 ( Đạo Kiền điều-hành cái Thái thỉ…) Rõ hơn nữa. Hệ-từ thượng truyện viết:
“ Hình nhi thượng giả, vị chi Đạo” ( 形 而 上 者 謂 之 道 ) = Phần thuộc ‘Hình-nhi thượng’ gọi là Đạo.
(Có thể nói, trong toàn quyển Kinh Dịch
đây là những câu-nhắc nhở rõ-ràng đến phần ‘lý-khí’ ‘bản-nhiên’, ‘chân nguyên’
mà Chu Liêm-Khê gọi là ‘vô-cực’và Lão tử gọi là ‘Thường Đạo’. và phải đợi đến
10 thế-kỷ sau Lão tử và Trang tử, với Chu Liêm-Khê, Thiệu Khang-Tiết…thì vấn-đề
‘Thường đạo’ và ‘khí vô cực’ mới có cương-lĩnh.
Tuy nhiên, về mặt nghiên-cứu và ứng-dụng thì đời Hán là thời-kỳ ứng-dụng rất
tuyệt-vời với bộ Hoàng Đế nội kinh dành
riêng cho y-học.)
1) PHẦN VÔ HÌNH (Lý).
Khí vô-cực là khí chân-nguyên. Quá-trình đi từ khí Vô-cực ‘hoá’ qua khí
Thái-cực để hình thành thế giới hữu hình và được Chu Liêm-Khê gọi là ‘Vô-cực
nhi Thái-cực’. Con đường chuyển-hoá đó được diễn-tả một cách tổng-quát là ‘Đạo’.
Lão tử gọi sự vận-hành của khí vô-cực là ‘Thường Đạo’, là ‘Vô’.
Mở đầu Đạo-Đức kinh ông viết:
“Đạo khả đạo Phi thường Đạo; Danh khả
danh phi Thường danh” (Cái ‘Đạo’ có thể
dùng lời để diễn tả được, đó không phải là cái ‘Thường Đạo’; cái Danh có thể
dùng lời để diễn tả được, đó không phải là cái ‘Thường Danh’.
‘Thường Đạo’ và ‘Thường Danh’ ở đây Lão tử muốn nói đến cái khí bản-nhiên, khí
‘Chân-nguyên’, cái ‘Đại-Nhất’ mà Huệ Thi nói là không thể diễn-tả được, nếu cái
mà lời nói diễn-tả được, đó không phải là ‘Thường Đạo’.
Ông nói tiếp: Vô danh Thiên Địa chi thỉ,
Hữu danh vạn vật chi mẫu.
(Câu nói này, trong lịch-sử đã được
các nhà học-giả lỗi-lạc nhất chia làm hai cách đọc, dĩ nhiên vẫn giữ một
ý-nghĩa giống nhau.
1) Cách đọc thứ nhất; theo Tư-mã Quang, Vương An-Thạch và Lương Khải-Siêu:
Vô, danh Thiên Địa chi thỉ;
Hữu, danh vạn vật chi mẫu.
Cái’Vô’ là dùng để gọi tên cho cái ‘ Thiên Địa’ chi thuỷ, cái ‘Hữu’ là để gọi
tên cho cái ‘vạn vật chi mẫu’.
2) Cách đọc thứ hai: Theo Vương Bật…
Vô danh, Thiên Địa chi thỉ;
Hữu danh, vạn vật chi mẫu.
Cái ‘Vô-danh’ là cái ‘Thiên Địa chi thuỷ’;Cái ‘Hữu-danh’ là cái ‘vạn vật
chi mẫu’.
Như đã nói, hai cách đọc tuy khác nhau, nhưng cũng đều diễn tả lý của Lão tử:
THƯỜNG ĐẠO, THƯỜNG DANH, VÔ, VÔ DANH. Những tự và từ này đều nhằm mô tả cái khí
‘chân-nguyên’, ‘Thái-nhất’, tức là cái bắt đầu của vạn vật.( còn gọi là
Tiên-thiên hư-vô chi khí)
Lão tử nói tiếp: Đạo thường vô danh, phác: (Cái “Đạo thường” không thể gọi
tên được, chỉ gọi là Phác 道 常 無 名 樸 ).
Ông nói tiếp (Chương 41): Đạo ẩn vô danh = 道隱無名: (Cái ‘Đạo ẩn’ không gọi tên được.)
Tóm lại, Lão tử gọi ‘Thường đạo’ là ‘Vô’, gọi vạn vật là’Hữu’ .
Phùng Hữu-Lan diễn tả thêm: “Đạo là vô danh, nhưng nó chính là nguồn gốc
sinh ra cái ‘Hữu danh’. Đó là ý nghĩa của câu nói ‘Vô, danh Thiên Địa chi thỉ’,
‘Hữu, danh vạn vật chi mẫu’. (PHL, Tân nguyên đạo, tr 64).
Tuy nhiên, như Lão tử đã nói “Thường Đạo” là cái gì không thể gọi tên,
nhưng cuối cùng vẫn phải gọi là ĐẠO.
Tác-dụng của Đạo là sự ‘tự vận-hành’
của khí. Nó vượt lên trên Thiên Địa, vạn vật, không âm-thanh, không hình-tướng,
tự nó tồn-tại mà không biến đổi, nó có trước Thiên Địa vạn vật con người và nó
cũng là nguồn của Thiên Địa vạn vật và con người.
Ông nói: “Thiên Địa, vạn vật sinh ra từ Hữu, Hữu sanh ra từ Vô.”
Đã gọi là Đạo thì Đạo chính là Thường Đạo, vì tự nó không biết đến từ lúc
nào và lúc nào nó cũng ‘tự vận-hành’ không thay đổi. Cũng chính vì thế mới gọi
nó là ‘Vô’ hoặc gọi là ‘Vô danh’.
Tóm lại, vạn-vật tuy thiên hình vạn trạng nhưng cũng từ ‘VÔ’, từ ‘Thường Đạo’
mà bắt đầu : ‘tư thỉ’. Vạn vật có thể có những sai biệt, nó biến-hoá đa đoan,
nhưng Đạo thì không thể sai lệch hoặc biến-hoá đa thù được. Có thay đổi là do
phần hữu hình của thời khí trong Trời Đất, của luân-lý trong xã-hội, của
khí-huyết trong cơ thể con người…Nhưng Đạo luôn luôn giữ được lẽ thường của nó.
(Các quẻ trong Kinh Dịch chỉ là sự công-thức hoá quy-luật biến thiên đối với
thế-giới hữu hình của vạn-vật có tính mô-phạm để từ đó chúng ta có thể hiểu được
Thường Đạo, hiểu được lẽ ‘tư thỉ’, ‘tư sinh’…
Đoạn này nói sự luân chuyển của âm dương trong 6 hào. Nếu ta nghiệm xét tất
cả trong 64 quẻ của Kinh Dịch, thì thấy cái âm dương lên xuống không thường
trong 6 hào.
Sự di dịch của âm dương là do theo từng quẻ đã thành để chỉ một hiện tượng
biến đổi nên mới nói là cái cứng cái mềm di dịch cùng nhau thay đổi.(Cương nhu
tương thôi nhi sinh biến hóa (Kinh-dịch).
2) - PHẦN HỮU HÌNH
Nghiên cứu Kinh Dịch là phải nghiên-cứu luôn từng hào, từng quẻ, nhưng
chúng ta phải biết thoát ra từ nguyên-lý của sự sắp-xếp, biến-hoá đó, nhất là
lãnh vực y-học cổ-truyền Đông-phương.
Thiên ‘Tiên thiên đồ thuyết’ sách “Y-học nhập môn” đã nói: “Học Kinh Dịch
đã, rồi sau đó mới có thể nói đến y-học được! (Nói như vậy) không phải bảo
chúng ta chỉ học ở vạch, học ở hào. Chúng ta thử ‘quan’:nhìn) Tâm của chúng ta
( thiền-học gọi là ‘Hồi quang phản chiếu’), trong đó quả thực có vạch nào không
? có hào nào không? Chỉ là ‘nguyên-lý’, nguyên-khí’ ‘hổn-hợp’ không gián-đoạn
mà thôi. Sinh ra Thiên, sinh ra Địa, sinh ra Nhân, sinh ra vật, tất cả đều do sự
‘tạo-hoá’ này làm chủ mà ra vậy…”
Chúng ta thấy cái gọi là ‘Hồn hợp vô gián’ là nguyên-lý, nguyên-khí, của sự
sống trong vũ-trụ. Trong đó thì thân thể chúng ta là một dạng hữu-hình cao-quý
nhất, cũng vận-hành đồng nhịp theo đúng với Thiên-lý, với chân-nguyên đó mà
thôi.
Nguyên-lý cao nhất của nền y-học cổ truyền là ở đây mà người học y
đông-phương phải nắm cho vững.
Sách Kiền-tạc-độ (Dịch-vĩ) viết: “…Ôi! Cái hữu hình sinh ra từ cái vô-hình,
còn Kiền Khôn được sinh ra từ đâu? (1). Cho nên mới nói: Có Thái-dịch có
Thái-sơ, có Thái-thỉ có Thái-tố. Thái-dịch là khí chưa hiện ra, Thái-sơ là cái
bắt đầu của khí. Thái-thỉ, là cái bắt đầu của hình. Thái-tố là cái bắt đầu của
chất. Khí, hình, chất đều có đủ nhưng chưa rời nhau, cho nên gọi là ‘hồn luân’
(渾淪 ). Hồn luân ý nói lúc vạn-vật còn đang trộn lẫn
vào nhau mà chưa tách rời nhau. Nhìn không thấy nó, quay quanh nó không được,
cho nên gọi là Dịch. Dịch không có hình-dáng, không có bờ-bến. Dịch biến để
thành Nhất”.
Đoạn văn trên cũng diễn-tả đúng với những ý-nghĩa mà chúng ta đã nói của
Kinh Dịch và Lão tử…
Chú giải (1): Bài‘Thái hư lý khí Thiên-Địa Âm Dương ca’ trong sách Y-tông kim giám
viết:
Vô cực Thái hư khí trung
lý,
Thái cực, Thái hư lý trung
khí.
Thừa khí động tĩnh sinh Âm
Dương,
Âm Dương chi phân vi Thiên
Địa,
Vị hữu Thiên Địa khí sinh
hình,
Dĩ hữu Thiên Địa hình ngụ
khí.
Tùng hình cứu khí viết Âm
Dương,
Tức khí quan lý viết Thái
cực.
( 78) - Bài thơ trên đây của sách ‘Y-tông kim-giám’ đã diễn tả quá trình
hình thành từ ‘vô-hình’ đến ‘hữu-hình’ của ‘lý’ và ‘khí’ của Vô-cực và Thái-cực.
Nội dung bài thơ chúng ta sẽ nói ở phần sau, ở đây, chỉ xin trình bày lại bằng
chính lời giảng-giải của tác-giả qua hai câu thơ có liên-quan đến ‘Vô-cực’ và
‘Thường Đạo’ mà thôi.
Sách ‘Y-tông kim-giám’ đã tự chú bài thơ trên như sau: “ Thái là ý nói
chí-đại, chí-cực. ‘Hư’ ý nói trạng thái ‘không hư’, ‘vô vật’. Ý nói rằng trong
cái cực Đại, cực hư, vô thanh, vô xú đều có đầy đủ cái lý-khí cực đại cực-chí.
Lúc lý-khí chưa phân ra, còn trộn lẫn vào nhau ta gọi đó là ‘Thái-hư’.
Khi gọi là ‘Thái hư mà vô-cực’ tức là nói đến cái ‘lý chủ-tể’ trong cái khí
lưu-hành của Thái-hư.
Khi gọi là ‘Thái-hư mà Thái-cực’ tức là nói đến cái ‘khí lưu hành’ trong sự
chủ-tễ của lý Thái-hư .” Cho nên Chu-tử nói rằng: “Vô-cực nhi Thái-cực” cũng
chính là lấy từ ‘cực vô’ mà suy ra cái ‘cực hữu’ vậy”.
Như vậy, trong cái ‘cực vô’ không có cái nào không mang cái ‘lý’ của nó, và
trong cái ‘cực hữu’ không có cái nào không mang cái ‘khí’ của nó. Nếu không đi
từ cái ‘lý của vô-cực’ để mà suy ra cái ‘khí của Thái-cực’ làm sao chúng biết
được ‘có’ cái khí ấy? Nếu chúng ta không đi từ cái ‘khí của Thái-cực’ để mà suy
ra cái ‘lý của vô-cực’, làm sao chúng ta biết được có cái ‘lý’ ấy?
Do vậy, chúng ta biết rằng ‘lý’ và ‘khí’, nếu phân ra một cách khác nhau
thì chúng là hai. Nhưng nếu nhìn trong trạng-thái ‘hồn hợp’ mà nói thì chúng chỉ
là một…có cái lý đó thì phải có cái ‘khí’ đó. Có cái khí đó thì phải có cái lý
đó. Danh xưng tuy là hai, kỳ thực chỉ là một mà thôi.
Chúng ta vừa trình bày một phần nhỏ về ý-nghĩa của bài thơ trong sách
Y-tông kim-giám, nói về khí vô-cực và Thái-cực.
Xin trình bày tiếp phần còn lại của bài thơ phần nói về khí Thái-cực và Âm
Dương hữu-hình.
PHẦN Y DỊCH
(Lý-khí:理器):
Trong khoảng trời đất có khí âm dương (mặt Trời và mặt trăng làm nguồn gốc
cho sự động và tịnh ,sáng và tối, thực chất của nó là khí sanh quang ). thường
ngâm người như nước ngâm cá vậy. Sở dĩ khác với nước ở chỗ có thể thấy và không
có thể thấy, nó lẳng-lặng vậy. Nhưng người ta ở giữa khoảng trời đất, cũng như
cá rời khỏi nước, giống nhau vậy.
Cái không gián cách thì như khí mà vẫn ở nước, (biểu tượng là quẻ Khảm ☵ có một hào dương ở giữa hai âm mà cuộc sống này không thể thiếu nó được)
nước ví với khí như bùn ví với nước . Đấy là khoảng trời đất như hư rỗng mà có
thật. Người ta thường ngâm trong yên lặng mà lấy cái khí TRỊ LOẠN cùng với nó
trôi chảy lưu thông trà trộn với nhau vậy.
VẤN-ĐỀ TOÀN (全 ) VÀ CHÂN (真)
(Đại nhất và Tiểu nhất)
Theo Kinh-Dịch, “KHÍ: 氣”(Énergie) là nguyên-uỷ của
vạn-vật hữu hình. Khí này đã bao trùm trong vũ-trụ ngay từ lúc còn trong trạng-thái
đầu tiên chưa ‘động tĩnh’. Huệ Thi nói: Chí đại vô ngoại vị chi Đại nhất, chí
tiểu vô nội vị chi Tiểu nhất. ( 至 大 無 外 謂 之 大 一 至 小 無 內 謂 之 小 一) = Lớn nhất không gì ra
ngoài nó gọi là Đại-nhất. Nhỏ nhất, không nơi nào, vật nào mà không có nó (bên
trong) gọi là Tiểu-nhất.
- “Chí đại” là một tiếng dùng để mô tả cái khí bao trùm vũ-trụ, là cái khí
đầu tiên ( 元 氣) gọi là nguyên khí, từ đó sinh ra vạn vật và
con người.
- “Chí-tiểu” là tiếng mô tả rằng : trong mỗi vât, dù là chỗ nhỏ đến đâu, nó
cũng chỉ là một dạng hoá-khí, khí này được Chu Liêm-Khê gọi là “Vô-cực”(2). (
mà con người đã định được hình của khí vô-cực:十 ‘Thập= 10 con số trong “Hà-đồ’ ). Nó là cái làm cho “vật là vật”, “người là người”. Từ đó người xưa đánh giá cấp bậc khí-hoá ở mỗi vật hay ở mỗi
người.
Chú-giải (2): Nguyên-khí (元氣) là “Toàn”, là “chân”, là “bản nhiên”.
Nguyên-khí (原氣) là vạn vật hữu-hình , là
thực”(chân), là “tự-nhiên”.
Chúng ta đọc lại chuyện “Thu thuỷ” của Trang-tử để có một khái niệm rõ hơn
về “Đại-nhất” và “Tiểu-nhất”. Nội-dung câu chuyện như sau:
“Mùa thu, nước dâng lên, tất cả các sông
nhỏ đều chảy dồn về sông Hoàng-hà. Nước sông Hoàng-Hà đột-nhiên rộng bao la. Đứng
một bên bờ nhìn sang bên kia không còn phân-biệt nổi con trâu và con ngựa. Thế
là, Hà Bá lấy làm cao-hứng, cho rằng tất cả những cái gì hay nhất, đẹp nhất
trên đời đều qui-tụ về với con sông lớn ấy. Sau đó, thần Hà Bá bèn xuôi theo
dòng sông hướng về phía đông đi tới. Khi đến Bắc-hải,Ông quay mặt về đông để
nhìn thì không còn thấy bờ bến đâu nữa cả. Thế rồi thần Hà Bá quay đầu lại than
thở với thần biển rằng: Tục ngữ có nói:
“Chỉ biết được một phần vạn của Đạo đã cho là không ai bằng mình.Đó là
câu nói đúng với tình cảnh của tôi trong lúc này. Nay tôi chứng kiến được sự to
rộng không lường của biển, nếu tôi không đến trước mặt ngài để thấy tận mắt kết-quả
sẽ rất là tai-hại, nghĩa là sẽ bị các bậc đại-sư cười cho.”
Thần Bắc-hải đáp: “Con ếch nằm dưới đáy giếng không thể bàn chuyện biển to,
bởi vì nó bị nơi ở chật hẹp của nó làm che lấp nó. Con sâu của mùa Hạ không thể
nói về mùa lạnh-lẽo bởi vì nó bị thời-lệnh làm hạn-chế…Nay Ông từ sông ra,
trông thấy biển lớn mới hiểu được cái nhìn sai hẹp của mình, vậy ông nên bàn
chuyện Đạo lớn đi là vừa…
Nước trong thiên-hạ không nơi nào lớn bằng biển…nhưng tôi chưa bao giờ cho
rằng mình là to rộng. Bởi vì ‘biển’ cũng chỉ là một hình-thể nằm trong Trời Đất
mà thôi. Nó cũng thọ khí Âm Dương để có. Riêng trong Trời đất, biển ví như một
viên đá nhỏ trên một núi to…
Thần Hà-Bá nhấn mạnh: “Thế thì tôi cho Thiên Địa là lớn nhất và cái đuôi của
sợi lông mùa thu là nhỏ nhất, được không?”
Câu chuyện đến đây cho chúng ta nhận-xét rằng chữ “Thiên Địa” mà hai vị Thần bàn luận như trên
chỉ thuộc “Thiên Địa hữu hình, hữu thể”. Bởi vì thông thường ai cũng cho Trời Đất
là lớn, đuôi của sợi lông mùa thu là nhỏ. Thiên Địa mà Bà Bá cho là lớn nhất
đây chỉ thuộc vào ‘thực-tế, thuộc vào kinh-nghiệm giác-quan của con người,
trong lúc đó, cái ‘Đại nhất’và cái ‘Tiểu nhất’mà Huệ Thi nói phải thuộc ‘chân-tế’.
Vì thế, khi thần Bà Bá trả lời thần Bắc-hải được vị Thần này kết-luận:”…Bởi
vì sự lớn nhỏ, nhiều ít của vạn-vật là vô cùng, thời-gian không bao giờ ngừng lại
, vạn vật bẩm-thụ khí (Âm Dương) không giống nhau, sự chung-thỉ không bao giờ
không biến…”
Qua câu chuyện trên, chúng ta có thể tóm-tắt như sau: Đại Nhất: Bản-nhiên,
chân-tế.(Đại-Đạo)
Vũ-trụ hữu hình: Tự-nhiên, Thực-tế.
Trang tử nói trong thiên Tề-vật luận: “Đã là Nhất thì còn có thể dùng lời để
nói được sao? Mà khi đã nói lên cái Nhất thì có thể cho là lời nói chưa nói gì
sao? ‘Nhất’ và ‘ngôn’ là hai việc khác nhau.”
Ví thế đối với cái ‘ Đại nhất’, cái ‘chân-tế’, cái ‘Thường Đạo’ chỉ có thể
là đừng nói, vì nói cũng vô ích, cũng không nói được gì. Cái ‘Nhất’ đó; cái
‘Nguyên-khí’(1) đó chúng ta không thể ‘nói’ và sờ mó được.
(1): Cái nguyên khí đó chính là “Tiên-thiên hư-vô chi khí”, là Đạo đó vậy).
Nhưng trong vũ-trụ cũng như trong thân-thể con người, nó lại là phần quan-trọng
nhất, là nguồn gốc của sự ‘sống’. Khí của vũ-trụ hay của con người đều không thể
làm bộc-lộ ra ngoài. Nếu không, vũ-trụ sẽ mất sáng, con người sẽ kiệt sức.
Thiên ‘ Tứ khí điều thần luận’ (Tố-vấn 2) viết: “ Thiên Đức ẩn tàng và vận-hành
không ngừng, cho nên không phải đi xuống. Thiên-khí nếu bộc-lộ cái sáng thì mặt
Trời, mặt trăng không còn sáng và do đó mà tà-khí lẻn vào làm hại các không khiếu.”
Sách Hoàng-Đế nội-kinh Tố-vấn dịch thích chú: “Đức ở đây là chỉ vào sức hàm
chứa trong khí tự-nhiên, nó đun-đẩy cho vạn vật và con người có tác-dụng
sinh-hoá. Chữ ‘tàng’ có nghĩa là ‘ẩn tàng’, không bộc-lộ ra ngoài”.
Trương Cảnh-Nhạc chú: “Thiên Đức không lộ ra ngoài gọi là ‘tàng đức’. Nó vận-hành
‘kiện’, không ngừng -nghỉ, gọi là ‘bất chỉ’ (a).”
(Kinh Thiên-đạo):
Thời thừa Lục long du hành
bất tức
Khí phân tứ tượng hoát
truyền vô biên,
Càn kiện cao minh.
Vạn loại thiện ác tất kiến.
Trương Chí-Thông chú: “ Khí ở trên Trời đến lúc sẽ thanh-tịnh, quang-minh,
dù rằng cái ‘minh-đức’(b) vẫn luôn luôn ẩn-tàng, nhưng lúc nào cũng ‘kiện vận’
bất tức(c). Ôi! Thiên-khí giáng xuống, Địa-khí thăng lên tạo thành quẻ Địa
Thiên Thái (d). Sự vận-hành và dụng sự của nó không bao giờ ngơi-nghỉ, cho nên không
cần đợi đến lúc hạ xuống mới gọi là ‘há’. Ở đây người xưa muốn nói rằng
Thiên-khí phân-bố ở khắp nơi hoá-sinh vạn-vật. Nhưng cái thể, cái vị của nó vẫn
tôn-quý và cao-thượng vậy.
Thiên-khí rất là quang-minh, đó là nhờ vào cái ‘minh-đức’ tàng ẩn, cho nên
ban ngày sáng là nhờ ‘nhật’, ban đêm sáng là nhờ ‘nguyệt’. Nay nếu minh-đức
không còn ‘tàng’ được nữa mà để lộ ra ngoài thì mặt Trời, mặt Trăng không còn
chỗ tựa để phát ra ánh sáng nữa. Đó là ý-nghĩa câu nói ‘Thiên minh nhi nhật
nguyệt bất minh’.
Thiên-đức không ẩn-tàng được sẽ làm ‘hư’ cái thể vốn thanh-tịnh và cao-minh
của mình, do đó tà-khí sẽ thừa ‘hư’ để làm hại. Vì thế mới nói rằng: ‘ Thiên vận
là phải lấy nhật làm quang-minh, Dương-khí nhân đó bốc lên. Vệ-khí nhân đó ra
ngoài. Nay nếu Dương-khí trong người không còn được giữ vững tức là không kín ở
trên, không bảo-vệ được bên ngoài, do đó mà tà-khí sẽ theo không khiếu vào để
làm hại.
Đây nói về Thiên bảo-bọc Địa. Dương bảo-bọc Âm (Vuông trong Tròn hay Lạc-thơ
trong Hà-Đồ), chính vì vậy mà Thiên Đức phải ẩn-tàng cho vững-vàng, kín-đáo,
không nên phô-trương ra ngoài để tiết thoát đi xuống dưới vậy.” ( Đây là pháp ẩn
thân của người TU).
Vương Băng chú: “Tứ thời vận-hành thành thứ-tự gọi là ‘thất diệu’ thành một
chu. Thiên vận-hành không hiện ra hình, cho nên nói là ‘tàng Đức’, vì cái ‘Đức’
ẩn cho nên ứng-dụng không hết, đó là ý-nghĩa của chữ ‘bất há’…Nếu Thiên-khí tự
lộ cái ‘minh’ của mình thì cái ‘minh’ của nhật nguyệt sẽ bị ‘bất minh’. Tất cả
nhằm nói lên rằng chân-khí của con người không thể để cho tiết-thoát ra ngoài.
Chúng ta phải dùng phép sống ‘thanh-tĩnh’ để bảo-vệ cái ‘Thiên-chân’ của mình.
Nếu chúng ta rời khỏi cái Đạo thì hư-tà sẽ nhập vào không khiếu vậy.
GIẢI NGHĨA: (a), (c): Chữ kiện: 健 nếu hiểu thông thường nó có nghĩa là sức khoẻ, sức mạnh, nhưng ở kinh Dịch
nó là sức mạnh của Dương-khí, nó giữ cho sự vận-hành của Thiên Địa bao giờ cũng
hài-hoà, không mệt-mỏi, không ngơi-nghỉ. Nó thuộc quẻ Kiền:
Đại Tượng truyện viết: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức (天行健君子以自強不息): Sự vận-hành của Thiên Đạo là theo lẽ ‘Kiện’. Người quân tử nên theo đó để
tạo đủ sức mạnh, đủ nhẫn-nại thi-hành theo Thiên Đạo không ngơi-nghỉ.
(b) Trương cảnh Nhạc dùng chữ ‘Thiên đức’, ‘tàng đức’, TC Thông dùng
chữ ‘minh-đức’. Tất cả ba từ này đều có nghĩa như chữ ‘minh-đức’ của sách Đại-học:
“Đại-học chi đạo tại minh minh đức…” Tất cả các từ này đều nhằm mô tả cái Đức
sáng của ‘Nguyên-khí’ ( Hà-Lạc) nơi Trời Đất cũng như nơi con người.
d) Quẻ Địa Thiên Thái: Thoán-từ truyện viết: “ Thiên Địa giao nhi vạn vật thông. (天 地 交 而 萬 物 通 ) = Thiên Địa giao nhau để
vạn vật được thông.
e) Theo Thiên ‘‘Thiên nguyên kỷ đại luận’ (Tố-vấn 66) thì ‘ Thất diệu’ gồm nhật, nguyệt,
kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ.
Trên đây, chúng ta vừa trình bày một cách khái-quát về vấn-đề ‘TOÀN’ và
‘CHÂN’, nó là nguyên-uỷ của Thái-cực, Âm Dương, Ngũ hành mà chúng ta sẽ lần-lượt
nói ở sau.
B) - PHẦN ĐỊA.( THUỘC CUNG
KHÔN ☷) HAY CỨNG VÀ MỀM
( CÒN GỌI LÀ LƯỠNG NGHI TỨC TAM DƯƠNG TAM ÂM)
NGUYÊN LÝ ÂM DƯƠNG:Thái-cực sanh ra lưỡng-nghi là hai bên: Âm và Dương.
Thái-cực là phần Dương, là Trời, biểu tượng là quẻ Càn:☰,là số 1, là tam Dương.
Lưỡng nghi là phần Âm, là đạo Đất, là biểu tượng con số 2, là quẻ Khôn: ☷, là tam Âm Âm-dương học tức Dịch học là một môn học cùng lý tận tính dĩ
chí ư Mạng. Cùng lý là muốn biết cái sở dĩ nhiên của sự vật với cái sở
đương-nhiên của sự vật mà thôi. Biết cái sở dĩ-nhiên cho nên cái chí không hoặc
(không nghi-ngờ), biết cái sở đương-nhiên cho nên việc làm không bị sai lầm .
Cùng lý là biết cho hết cái lý của từng sự vật, cho nên nói rằng: “Muốn biết
mười việc mà mới biết được 9 việc, dẫu có một việc chưa biết cũng không sao.
Nhưng nếu học một việc mà mới biết đến 9 phần , còn một phần nữa không biết
không được , phải biết cho đến hết cả mười phần mới được, như vậy thi sự hiểu
biết của ta mới hòan toàn. Phàm việc trong thiên-hạ không việc nào là không có
lý. Nếu ta xét cho đến cùng được , thì từ việc lớn của vua tôi , cho đến việc
nhỏ của sự vật, không có điều gì là không biết cái sở dĩ nhiên và cái sở
đương-nhiên của nó mà không nghi-ngờ chút gì, rồi cứ theo điều thiện bỏ điều
ác, mà không có cái lông cái tóc gì hệ lụy. Ấy bởi thế mà sự học lấy cùng lý
làm trước vậy. Cái thuyết cùng lý về sau thành ra một cái học rất thịnh. Nhưng
trong cái cùng lý nầy ta phải thông suốt ba chặn đường: Lý Thiên, lý Địa và Lý
nhân gọi là lý Tam tài, ba lý nầy không thể
biệt lập một mình mà phải hiệp lại thành một khối duy nhất thì mọi vật mới
thành-tựu được. theo đó ta có thể khẳng-định rằng: “ Vạn vật không có “Ba”(1)
thì không có sự thành hình buổi ban đầu.
CHÚ GIẢI (1): Con người gọi Ba nầy là Cha, là người sanh ra mình, đó cũng do sự
hòa-hợp của cái cơ ( số 1) và cái ngẫu (số 2) tức là sự giao-hợp giữa một Dương
và một âm ( 1+2= 3) mà thành. Kinh-dịch gọi lý này là ĐẠO: “Nhất Âm, Nhất Dương
chi vị Đạo”. Thánh-nhân làm thành sách Dịch-lý để lưu lại cho đời có đủ ý cho mọi
sự lý ở trong sách rồi, chỉ nên chú-trọng về sự đọc sách. Luận cái lý của
thiên-hạ thì những điều yết diệu tinh-vi đều chính đáng cả, xưa nay không di-dịch.
Duy có Thánh-nhân mới có thể biết hết được, mà những việc làm lời nói của
thánh-nhân không có điều gì là không làm phép tắc cho thiên-hạ và đời sau; Ai thuận theo là quân-tử mà cát, ai trái
không theo là tiểu-nhân mà hung. Cái điển tích rõ ràng, cái hiệu quả tất nhiên,
điều gì cũng đủ ở trong kinh huấn sử sách . Muốn cùng cái lý của thiên-hạ mà
không lấy đó dò tìm, thì chính là ngảnh mặt vào tường mà đứng vậy. Vì thế mà sự cùng lý phải bởi sự
đọc sách vậy.( tứ Thư và ngũ Kinh có kinh Dịch làm gốc) Tin rằng các lý tự
nhiên là thánh hiền đã nói cả trong sách , cho nên mới nói rằng: “Đọc sách để
xem cái ý của Thánh-hiền , nhân cái ý của thánh-hiền để xem cái lý tự nhiên .Thành thử hai chữ
cùng lý chỉ chủ ở sự đọc sách Thánh-hiền, sách của Tam giáo ( Nho, Thích, Đạo,
sách thánh ngôn, thánh-giáo của Đại-đạo Tam-kỳ Phổ-độ), vì đây là phần luyện
tinh hóa khí , là pháp môn tu-tập của đạo Cao-Đài ( luyện Tam-bửu: Tinh, Khí,
Thần) vậy. Cái ý kiến có phần hẹp-hòi , là vì lý thì có vô cùng chi lý, mà sách
thì chỉ bàn được những cái hữu hạn; lấy cái hữu hạn mà xét cái vô cùng, thì sao
cho xiết được. Bởi cái tư tưởng ấy cho nên người học đạo về sau thành ra câu
thúc, cố chấp không mở mang ra được ).
Quá-trình khí-hóa vạn-vật hữu hình đi từ ‘Vô-cực’ sang ‘Thái-cực’ rồi sang
‘Lưỡng-nghi’ như chúng ta đã trình bày trước đây, sự phát triển sinh-hóa đã rõ
nét từ lưỡng-nghi (Âm Dương) mà tiếp theo sau đây là phần trình bày quan-trọng
nhất về vấn đề ‘khí-hóa vạn-vật hữu hình’.
VẤN ĐỀ ‘KIẾN TÁNH’
Manh-tử cho rằng ‘Tính’, ‘Khí’ là cái mà con người bẩm thụ được của Trời Đất,
của ‘Đạo’. Sự vận-hành của khí là tự-nhiên,
là tốt không với riêng ai mà chung cho tất cả muôn loài có sự sống trong vũ trụ
nầy. Con người là linh vật đứng đầu trong ‘Bát phẩm chơn hồn’, cho nên trong
‘phép dưỡng-sinh’, trong cuộc sống, phải giữ gìn, phải tuân thủ theo sự vận-hành
của Thiên Đạo thì mới nên cho.
Về mặt luân-lý, nó là cái làm cho con người trở nên ngừơi ‘hoàn hảo’, làm cho con người khác với
cầm thú.
Về mặt vận-hành của khí-hóa trong thân thể, nó là khí chu lưu trong thân thể
không hề ngừng nghĩ ( đó là lục khí, là khí sinh thành của vạn vật, ứng với câu
: “Thiên nhất sinh thủy Địa lục thành chi”)
Manh tử nói: “Phù! Chí khí chi soái dã. Khí thể chi sung dã” = (Ôi! Chí (ý
tưởng) làm chủ soái của Khí. Khí thì tràn đầy trong con người vậy.
Mạnh tử nói tiếp: “Ta khéo dưỡng cái ‘khí hạo-nhiên của ta’.
Công-Tôn Sửu hỏi: ‘Dám thưa Thầy, khí hạo nhiên là gì?’
Mạnh tử đáp: ‘khó diễn-tả’. Khí ấy là chí đại, chí cương. Nếu chúng ta biết
nuôi nó một cách thuận-lợi, đừng làm thương-tổn đến nó, nó sẽ tràn đầy trong Trời
Đất.
Nguyễn Công-Trứ có câu:
“khí hạo-nhiên chí đại chí
cương,
So chính khí đã đầy trong Trời Đất…"
Tuy nhiên, theo Mạnh tử, trong quá-trình nuôi dưỡng khí ấy trong con người chúng ta, chúng ta không thể nóng-nảy, chúng ta
phải điềm-đạm nhẫn-nại, đừng bắt chước theo người nước Tống.
Mạnh tử kể: “ Nước Tống có một người, ông này cứ mãi lo-lắng lúa của mình
lâu lớn. Ông bèn đi ra ruộng để ‘nhổ’
cho lúa được mọc lên cao hơn. Công việc xong rồi Ông hăm-hở chạy về nhà khoe với
người nhà rằng: ‘Hôm nay ta mệt quá, vì ta đã giúp cho lúa mau lớn.’
Con ông nghe vậy, vội-vàng chạy ra ruộng để xem, thì ra lúa ở ruộng đã khô
hết cả.”
Mạnh tử kết-luận: “Hiện nay người trong thiên-hạ dù làm việc ngoài đời hay
trong khi ‘dưỡng khí’, số người không giống với người nước Tống đã giúp cho lúa
chóng lớn, thật là ít vậy.
Thiên Tận-tâm thượng viết: “Vạn-vật bị ư ngã, phản thân nhi thành, lạc mạc
đại yên” = (Vạn-vật có đầy đủ trong ta, nếu ta quay về với ta để ‘thành’, không
còn niềm vui nào hơn . ( Đây là một quan-niệm của Kinh Dịch: nối tiếp giữa con
người và Thiên Địa. ‘Vạn-vật có đầy-đủ trong ta’ ý nói ta là ‘tiểu vũ-trụ’.
Nhân đạo từ Thiên-đạo mà ra. Do đó, ta phải luôn-luôn hành-động cho đúng và cho
được với cái Đạo tự-nhiên ấy.
‘Phản thân’ là lời kêu gọi của Mạnh
tử để con người quay về với ‘nguyên-khí’
với cái Đạo để chúng ta hành-động đúng với Thiên-lý (mà cũng là thiên-ý vậy).
ÂM DƯƠNG LÀ GÌ?
Thiên : "Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận" (TVấn 5) ghi : "Âm
Dương giả, thiên địa chi đạo dã, vạn vật chi kỷ cương, biến hóa chi phụ mẫu,
Sinh sát chi bản thủy, Thần minh chi phủ dã, Trị bệnh tất cầu kỳ bản" (Âm
Dương là quy luật của trời đất, cương kỷ của vạn vật, nguồn gốc của mọi biến
hóa, Căn cội của sự sinh trưởng và hủy diệt, là kho tàng chứa đựng thần minh,
trị bệnh phải tìm rõ căn bản của bệnh).
Tiếp tục trình bày vấn đề “ Lưỡng nghi” hay nói rõ hơn là vấn đề “Âm
Dương”.
Kinh Dịch đã xác nhận :“ Nhất Âm, nhất Dương chi vị Đạo”, là phần quan trọng
nhất trong quá trình khí hoá hữu hình, từ Thiên Địa, vạn vật cho đến con người.
Đối với y-học Đông-phương, Âm Dương, ngũ hành, Can chi ( thập thiên-can và
thập nhị địa-chi) đóng vai trò then chốt trong lý-luận để tìm ra nguyên nhân
gây nên bệnh tật (tức là sự mất quân bình trong tiểu vũ-trụ của con người).
Danh từ “Âm Dương” được dùng nhiều hơn trong Y-học . Quá trình thay đổi
danh xưng từ “Lưỡng-nghi” sang Âm Dương là một quá trình của lịch sử Triết-học
Đông-phương được thành tựu qua nhiều thời kỳ từ “thời Cổ-đại” cho đến “thời Cận
kim”.
Trước khi đi sâu vào phạm vi Y-học của
“Nội-kinh”, chúng ta nên hiểu rõ phần định nghĩa về “”Âm Dương” trong
Kinh “Tố-vấn” vì nó là điều kiện ắt có để hiểu được, tính được bài toán tương ứng
giữa sự thay đổi của Vũ-trụ, khí huyết trong con người mà từ đó tìm ra cách giải-quyết
sự bế tắc giữa hai bên (lưỡng-nghi).
ĐẶC-TÍNH CỦA ÂM DƯƠNG
trực-giác mà các bậc hiền-thánh xưa của nền triết-lý Á-đông đã chia vạn-vật ra làm hai nguyên-tính
âm dương.
Hai nguyên-tính này mới xem qua thì thấy chúng tương-phản, đối-lập nhau. Nhưng
thật ra hai nguyên-tính này bổ-sung mật thiết với nhau: Nương nhau mà cùng có
như ngày và đêm, sáng và tối, nóng và lạnh, nam và nữ. Ấy là hai yếu-tố căn-bản
để sáng-tạo, khích-động, hòa-hợp phá-hoại và kiến-thiết vạn-vật trong vũ-trụ.
Âm-dương luôn luôn song hành là hai phương-diện của một hiện-tượng biến-hóa chứ
không phải là một khái-niệm hợp-lý và cố-định. Người Đông-phương nhận-định
vũ-trụ ở phương-diện biến-dịch, nhìn sự vật ở nội tâm cũng như ngoại cảnh, ở
quan-điểm chuyển-động, vô-thường: “Vạn-vật phù âm nhi bảo dương, xung-khí dĩ vi
hòa” (Vạn-vật không vật nào là không cỏng âm bồng dương, nhân chỗ xung nhau và
hòa nhau).
Quá trình hình thành:Để hiểu rõ nguồn gốc của hai khí Âm Dương do đâu mà
có, chúng ta vận-dụng hai phương pháp “Quy-nạp và diễn-dịch” để nhận-định về
nguyên-lý âm dương .
Trong phần Kinh của Dịch chỉ đề cập riêng lẻ từng trường hợp như: Thiên địa,
cương nhu, nam nữ, thượng hạ…Thế rồi trong phần “Dực” từ hệ-từ về sau lại nói rất
nhiều về âm dương, rõ ràng trong giai đoạn này Âm Dương đã trở thành “thông số”
chung để đại diện cho các khái niệm “Lưỡng-nghi” nơi vạn vật và con người.Các
đoạn văn này đã đến sau Trâu Diễn; riêng trong Kinh Dịch, con đường đi này đã
nương theo hai ngã: Quy nạp và diễn dịch.
1) Diễn dịch:
- Kiền cửu cương thượng phu quân-tử nam động Dương
- khôn lục nhu hạ thê tiểu nhân nữ tĩnh Âm
2) Qui nạp: Ngay trong Kinh Dịch, sau khi Âm và Dương mang vai trò mới , tất
cả các khí, hình, vật…đều có thể dùng Âm Dương để thay thế. Ví-dụ:
Hào Dương là hào một vạch (一) trước phải gọi là hào Cửu thì sau đó có thể gọi là “hào dương”; hào hai vạch
liền (-- ) trước đó phải gọi là hào “lục” thì sau đó có thể gọi là hào “Âm”.
Tất cả như : cương nhu, động tĩnh, đều có thể gọi chung là Âm Dương …Một
bài toán luận-lý đã được áp dụng rất tuyệt vời theo qui nạp như sau:
Động Nam Cửu Cương Dương
Tĩnh nữ Lục nhu Âm
Từ cách qui nạp trên, ta dùng lối diễn dịch như dưới đây:
Phủ biểu tả
Đởm nhiệt DƯƠNG
Tạng lý hữu
can hàn ÂM
ÂM DƯƠNG TƯƠNG XUNG ĐỂ TƯƠNG HÒA
Vạn-hữu do chỗ (Âm Dương) xung nhau và hòa nhau mà sinh-hóa vô
cùng.
Âm dương tương đối sai biệt bất-tận cũng như phương hướng Đông Tây, Nam Bắc. Những
gì có nhiều năng-lực âm hơn năng-lực dương thì gọi là Âm (vì vậy mà tiền nhân gọi
tên thiếu Âmlà Dương trong Âm, nó là Dương chứ không phải là Âm như một số nhà nghiên cứu
cho là Âm, nhưng là dương ở trạng thái tĩnh), và những gì có nhiều năng-lực
dương hơn âm thì gọi là Dương (Thiếu Dương:tức là Âm ở trạng thái động). Nói tóm lại âm-dương luôn luôn tương-đối chứ
không có một cái gì tuyệt-đối Âm hay tuyệt-đối Dương trong vũ-trụ này . Ông Giáp có thể âm đối với
ông Ất nhưng là dương đối với ông Bính. Quả đất dương đối với mặt trăng nhưng âm đối với mặt trời .
Trên văn-tự, người ta dùng chữ Âm để chỉ một cái gì lạnh-lẽo , tối-tăm, buồn-bả,
bất-động hay chết-chóc . Ví dụ như: âm-phong, âm-phần, âm-hồn, âm-phủ.Còn Dương
là để chỉ những cái gì sống-động, sáng-sủa,vui-tươi, như trong chữ dương-gian,
dương-minh. Âm còn dùng để chỉ một cái
gì huyền-diệu, thơ mộng, nên người ta gọi mặt trăng là thái-âm; Dương để chỉ một
cái gì nóng nảy , cuồng-bạo ví-dụ như mặt trời
người ta gọi là thái-dương .
(Ngày nay khoa-học chẳng những
khám-phá ra vạn-vật đều cấu tạo bởi các nguyên-tố cũng hợp thành bởi những điện-tích
âm dương mà cơ thể mọi sinh-vật chính
là một nhà máy phát-điện , các tế-bào
cũng là những thỏi nam-châm điện, những động-điện, những máy phát-thanh và
thu-thanh vi-tế .
Ở phòng thí-nghiệm “Général Électric”. Ở Hoa-kỳ người ta đã đặt hai điện-cực trong mình một con chuột cống. Một điện-cực bằng thép
(âm) dưới da, và một bằng Bạch-kim (dương) trong xoang của phúc
mô (Péritoine). Con chuột này cho thường xuyên một dòng điện 0,68 Volt để chạy
một máy radio tý hon. Người ta ước-đoán rằng thí-nghiệm này có thể tiếp-tục đến
suốt đời con chuột, vì có cả bầy chuột được đặt các điện-cực trong mình và
trong vòng 6 tháng , thỉnh-thoảng người ta lại đo cường-độ của dòng điện và thấy
lượng điện vẫn không thay-đổi gì.
Ba nhà Bác-học Pháp sadrow, Douzou
và Polowsky khám phá ra rằng nhân của tế-bào cơ-thể con người, đúng ra
là acit nucléic có đặc tính của những thỏi
nam-châm điện và những động-điện, và như vậy mỗi tế bào chứ không phải chỉ
riêng tế-bào óc đều có thể tiếp được những
tín-hiệu như những máy thu-thanh nhỏ để truyền cảm-xúc lên óc và nó cũng lại có
thể phát đi những tín-hiệu nữa..
Đâu đâu cũng âm dương , âm dương biểu hiện trong thiên hình vạn trạng từ vật-chất
đến tâm-linh…
Về phương diện vật-lý : thứ gì chứa nhiều nước (còn các điều kiện khác giống nhau ) thì Âm,
ít nước hơn thì dương .
Về phương-diện hóa-học: Mọi vật chất gồm nhiều H, C, Li, As,, Na …thì dương
hơn những hợp-chất gồm ít và chứa các chất như O, N, K, P, S.
Theo Dịch-lý, tất cả mọi vật đều có thể phân hạng vào một trong hai loại
tương-phản và sau đó xếp-đặt theo sự
thích-nghi hổ tương của những cấu-tử âm dương .
Tất cả mọi hiện-tượng và mọi đặc-tính
của vạn-vật đều tùy thuộc vào tỷ-lệ và cách hòa-hợp của hai nguyên-tính
âm dương cùng hai nền tảng Dương-lực hướng tâm và Âm-lực ly-tâm..)
C - PHẦN NHÂN
C1 - TINH KHÍ TẠO RA VẠN VẬT
Chương IV Hệ-từ truyện viết: “Tinh khí vi vật” (精 氣 為 物 ) = Tinh-khí tạo nên sự vật. Đây chính là vấn-đề then-chốt trong quá-trình
khí-hoá, bao-trùm về vũ-trụ hữu- hình.
Sách Hoàng đế nội-kinh lý-luận rất rõ về ‘Tinh’ và ‘khí’ này. Ở đây chỉ xin
trình-bày vài câu quan-trọng trong bộ sách trên nhằm làm sáng tỏ câu nói trong
Kinh Dịch
Thiên ‘Bản thần’ (Linh khu 8) viết “Cố sinh chi lai vị chi tinh. Lưỡng tinh
tương ‘bác’ vị chi Thần”
( Chữ ‘bác’ có nghĩa là giao-kết
nhau…)
Cho nên, khi con người bắt đầu ‘sinh’ hoặc bắt đầu có sự sống thì cái làm
cho người ‘sinh’ gọi là ‘tinh’. Hai tinh cùng đánh nhau gọi là ‘thần’.
Trương Cảnh-Nhạc chú: “Cái gọi là ‘tinh’ chính là cái ‘Thiên chi nhất’(
Thái-cực) và cũng là cái ‘Địa chi lục’.
a -Tam Dương phối với Tam Âm: Trời có 3 khí Dương : Thiếu-Dương, Dương
–minh, Thái-Dương, Đất có 3 khí Âm: Thái-âm, Thiếu-âm và quyết-âm . Chủ của 3
khí Dương là Kiền (☰), chủ của 3 khí Âm là Khôn (☷). Hai khí Kiền Khôn giao nhau thành ra‘Bát quái hậu thiên’ có hình dáng giống
‘chữ Điền: (田) mà vị-trí chỗ giao điểm gồm có 9 con số tương ứng
với ‘Bát-quái hậu-thiên: 1 là Khảm; 2 là Khôn; 3 là Chấn, 4 là Tốn; 5 là Trung
ương; 6 là Kiền; 7 là Đoài; 8 là Cấn; 9 là Ly ( bản đồ Lạc-thơ bên đây.
Trong phép luyện đạo có câu: “Luyện tinh hóa khí” chúng ta nên hiểu ‘tinh’ ở
đây chính là cái ‘Một’ mà cái một chính là ngôi ‘Thái-cực’, tức là ‘Kim-đơn’ của
nhà luyện đạo.
Như chúng ta đã biết Kinh Dịch là quyển sách diễn giải lại quá trình của vạn-vật
hữu-hình từ Thái-cực, lưỡng nghi, mà Thái-cực cũng chính là lưỡng nghi, tứ-tượng.
biến-hóa ra .(Xem hình sau đây):
Chúng ta không thể tách ra như những dữ-kiện nằm riêng-rẻ bên nhau để
nghiên-cứu. Nhưng vì nhu cầu cần trình bày cho rõ lý mà quyển sách đòi hỏi,
chúng ta tạm phân ra để theo dõi mà thôi.( Điều cần-yếu là khi đọc nó, chúng ta
đồng thời phải có cái nhìn quán-xuyến, quán-xuyến từ khí vô-cực, Thái-cực,lưỡng-nghi…quán-xuyến
từ Thiên đến Nhân đến Địa, quán-xuyến từ khí huyết trong thân-thể con người đến
ngũ-vận lục-khí của tuế nguyệt thịnh suy).
Thái-cực sinh lưỡng nghi…để rồi sinh ra vạn vật. Đây chính là tinh-khí của
Thái-cực là nguồn sinh ra vạn vật. Kinh Dịch đã phát hoạ ra một cách đại-cương
có tính-cách chỉ-đạo cho sự giải-thích sau này ở Hoàng đế nội-kinh. Chúng ta sẽ
dành vấn đề lưỡng nghi cho phần sau. Ở đây, chúng ta tạm đưa ra một vài ý tổng-quát
mà thôi.
(Thiên lấy cái ‘nhất’ sinh Thuỷ, Địa lấy cái ‘lục’ thành Thuỷ. Từ đó sinh
ra ngũ-hành sớm nhất. Chúng ta thấy rằng vạn-vật lúc còn sơ sinh đều chỉ là nước.
Ví-dụ những hạt của quả lúc chưa kết thực cũng chỉ là nước. Ví-dụ cái thai, cái
trứng lúc mới thành cũng chỉ là nước. Phàm cái bắt đầu của sự sống con người,
cùng với côn-trùng, thảo mộc, không gì không như thế. Đây chính là câu nói
trong Kinh Dịch: “Nam nữ cấu tinh, vạn-vật hoá sinh”. Lưỡng tinh ở đây là tinh
khí của Âm Dương. Phàm cái Đạo sinh
thành của vạn vật, không vật nào không do sự giao-cấu nhau của Âm Dương để rồi
sau đó thần-minh mới được hiện ra.
(Cơ sanh-hóa Càn Khôn đào tạo,
Do Âm Dương hiệp đạo biến thiên (Kinh ‘Hôn-phối’)
Cho nên, sự sinh ra của con người, tất nhiên là do sự hợp nhau của hai khí
Âm Dương. Do hai tinh khí của cha mẹ giao-cấu nhau rồi mới tạo thành ‘hình’ và
‘thần’. c2
- Thiên Địa hợp khí gọi là
‘人: nhân’.”
Trương Chí-Thông chú: “Tinh’ ở đây là ‘khí’ lúc vạn vật chưa thành hình và
còn đang thọ “Thiên chi nhất”.
Thiên Quyết-khí (Linh khu 30) cũng viết một câu tương tự như thiên Bản-thần:
Lưỡng thần tương bác, hợp nhi thành hình, thường tiên thân sinh, thị vị tinh. =
Hai thần cùng đánh nhau (giao nhau) hợp lại mà thành ‘hình’, thường ‘sinh’ (hiện
hữu) trước khi thân-thể thành ‘hình’. Đó gọi là ‘tinh’.
Quá-trình hình-thành ra vạn vật, như vậy, đi từ vô-cực, thái-cực. Khí-hoá
tiến từ Thái-cực, để rồi chính lưỡng-nghi (Âm Dương) mới là giai-đoan ‘tương
thôi’ thành vạn-vật mà chúng ta tiếp-tục trình-bày sau đây.
Vạn hữu trong pháp-giới mỗi mỗi đều có hai đức tính tương xung, tương phản nhưng tương liên, tương-trợ, tương-quan,
tương-phối. Vì vạn-hữu đều giả hợp do hai năng-lực đó: Âm và Dương.“Vạn-vật
cõng âm và bồng dương, nhân chỗ xung nhau mà hòa nhau.”.
Chính do sự tương-phản âm-dương,
nhân chỗ xung nhau mà Hòa nhau để hóa-sanh vạn-vật , tạo lập ra vũ-trụ Càn-khôn
.
Cô Âm hay độc Dương có nghĩa là chết. Sách xưa có câu: “Vô Dương tắc Âm vô
dĩ sanh, vô Âm tắc dương vô dĩ hóa”. Muốn sanh-hóa phải có đủ âm dương đắp-đổi
làm thể dụng lẫn nhau vì độc Dương chẳng sanh, cô âm chẳng trưởng.
(Như đã trình bày trên, quá trình khí hóa thành vạn vật hữu hình đi từ
“vô-cực” sang “Thái cực” rồi sang “lưỡng nghi”. Thực ra đây chỉ là lối nói còn
hạn hẹp trong phạm vi ngôn ngữ .
Không làm gì có những giai đoạn phân chia rõ-rệt giữa vô cực, thái cực và
lưỡng nghi (Âm Dương). Những từ ngữ này chỉ là cái “khả đạo”. Lão-Tử đã cho rằng
cái “khả đạo” không phải là cái “Thường đạo”. Thường đạo là một chuỗi “sinh
hoá” không hề gián đoạn.)
Dù sao sự phát triển sinh hoá cũng rõ nét từ lưỡng nghi “Âm Dương”, cho nên
bắt đầu từ đây tôi xin trình bày phần quan trọng nhất:
C3 - KHÍ HÓA VẠN VẬT HỮU
HÌNH.
Con người thọ khí của Trời Đất mà sinh (có nghĩa là lấy khí dương của Trời
làm khí (là phần nhiệm của HÀ-ĐỒ), lấy khí âm của Đất làm huyết (Là phần hành của
LAC-THƠ). Do đó khí thường hữu dư, huyết thường bất túc.
Như vậy, chúng ta thấy rõ : Trời Đất là cha mẹ của vạn vật. Trời rộng lớn
làm Dương mà vận hành bao trùm ra ngoài đất . Đất cư ở giữa Trời làm âm, nhờ
cái đại khí của Trời nâng đở lên. Mặt Trời thì thực thuộc dương , vận hành trùm
bên ngoài mặt Trăng. Mặt trăng thì khuyết thuộc âm, bẩm thụ ánh sáng của mặt Trời
làm sáng.
“Âm khí của con người tiêu trưởng
nương theo sự doanh hư của mặt Trăng . Vì thế trong cuộc sống của con người ,
con trai 16 (2x8) tuổi thì tinh khí được thông , con gái 14 (2x7) tuổi thì kinh
nguyệt vận hành. Đây là quá trình mà con người từ lúc hữu hình sinh ra, bú sữa,
ăn thuỷ cốc để nuôi dưỡng thì âm khí mới thành, bấy giờ âm khí mới phối với
dương khí . Tất cả con đường đó làm cho con người thành người và thành cha mẹ.
Người xưa ắt phải gần 30 tuổi và 20 tuổi mới giá (lấy chồng) và thú (lấy vợ), đủ
cho thấy âm khí rất khó thành . Điều này cũng nói lên rằng người xưa rất khéo
trong việc “nhiếp sinh” và “dưỡng sinh”. Duy đến tuổi 50 về sau mới gọi là dưỡng
âm. Nội Kinh nói: tuổi đến 40 thì âm khí tự còn phân nửa và việc ngủ thức bắt đầu
suy rồi vậy.
Ôi! Nhìn về mặt trưởng thành và suy yếu, âm dương chỉ cung cấp khoảng 30
năm để rồi bắt đầu khuyết dần trong việc nhìn, nghe, nói và hành động tình dục
của con người là vô bờ, đó là đủ thấy âm khí là cái gì khó thành mà dễ suy yếu.
Như vậy, làm sao cho phép chúng ta được “túng dục”?(Nội-kinh).
C4 - KHÍ LÀ SỰ SỐNG. (KHÍ
-SANH-QUANG)
“ Đức Jesus đã dạy rằng trong thiên
nhiên có chất liệu để làm đủ mọi vật, và người ta có thể tìm lương thực của
mình trong đó. Chúng ta chỉ cần rút các chất liệu này để tạo ra mọi thứ cần
dùng” (trích sách ‘Á-châu huyền-bí)
Nội Kinh viết: “Dương khí là Thiên khí chủ ngoại, Âm khí là địa khí chủ nội.
Cho nên, Dương đạo là thực, Âm đạo là hư.
Không có khí thì không có vạn vật,
mà không có Lý thì con người chưa thể thành người. Cho nên sự sống thật của con
người là Lý Và Khí mà ai cũng phải biết và sống sao cho hợp với nó thì mới có đủ
tư cách làm một bậc chính nhân thành đạt trong cuộc sống này vậy.
Thiên “Tiên Thiên Đồ thuyết” sách Y học nhập môn đã viết: “Học Kinh Dịch
đã, rồi sau mới có thể nói đến Y-học được. Bởi thế mà cụ Nguyễn-Đình-Chiểu
trong “Ngư Tiều vấn Đáp Nho Y diễn ca” có câu:
Đạo Y nửa ở Dịch-Kinh
Chưa thông lý Dịch sao
rành chước y
Tổ rằng muốn học Hiên Kỳ
Trước tua đọc quẻ Bào-Hy mới
tường.
Nói như vậy, không có nghĩa là bảo
chúng ta chỉ học ở vạch (hoạch) ở hào. Chúng ta thử nhìn Tâm của chúng ta,
trong đó quả thực có vạch, có hào nào không ?... Chỉ là “Nguyên khí”, nguyên lý hỗn hợp không gián đoạn
mà thôi. Sinh ra Thiên, sinh ra Địa, sinh ra Nhân, sinh ra Vật…tất cả đều do sự
“Tạo-hoá” này làm chủ mà ra.”.
Cái gọi là “hỗn hợp vô gián” chính là nguyên lý, nguyên khí, là cái nguyên
uỷ của sự sống trong vũ trụ, trong đó thì thân thể chúng ta là một dạng hữu
hình quý nhất, cũng vận hành đồng nhịp theo đúng với sự vận hành của Thiên lý,
chân nguyên đó mà thôi.
Các ý kiến trên của các nhà y học lỗi lạc Đông phương cũng tạm đủ để chúng
ta đánh giá được vai trò chỉ đạo của Kinh Dịch trong Y học Đông Phương.
D - ÂM DƯƠNG GIAO-CẢM ĐỂ ĐỊNH-VỊ
THÀNH HÌNH (210).
Qua phần ‘Tam-tài’, chúng ta đã cảm nhận được những luật biến dịch, biến
hóa, từ đó con người không thể không noi theo để sống (sao) cho thích hợp với lẽ
Đạo, đồng thời phải biết thêm cái đức lớn của Trời Đất (Thiên Địa chi đại đức
viết sinh) để sống hòa hợp một cách bền vững trước sự thăng trầm của vũ-trụ.
D1 - QUY-LUẬT VẬN-HÀNH của lưỡng-nghi hoặc Âm Dương ‘tạo hóa’ thành vạn-vật hữu hình và định vị
(1). Tất nhiên, chúng ta sẽ dành cho các phần sau nói riêng, vẽ riêng thành con
người với ‘thân thể, khí huyết, thủy hỏa, tạng phủ…’ một cách sống động, sống
toàn diện giữa ‘Thiên, nhân, địa. và vạn vật’.
Giải thích: (1) Âm dương có hòa hiệp thì càn-khôn mới yên-tịnh, vạn-vật mới
sinh-hóa phát-triển và thăng-hoa.
Thượng-Đế tạo ra phẩm con người là do lấy ngôi Phật phối hợp với ngôi Pháp
(tức ngôi 1+ ngôi 2 hay phật hợp với Pháp ra ngôi Tăng) thành ra ngôi Ba là phẩm
con người. Con người có đủ hai ngôi Trời và đất nơi mình cọng thêm ngôi ba nữa
thì mới được hoàn hảo(1: Phật + 2: Pháp+3: Tăng+Tam dương + Tam Âm)= 9( gọi là
‘cữu Thiên khai-hóa’ ). Như vậy mới có thể gọi
“con người đứng phẩm tối linh. Nửa người, nửa Phật nơi mình anh nhi”(
Kinh tắm Thánh.)
Từ Thái-cực sang lưỡng-nghi, Thiên-Địa đã được thành hình để rồi định được
sự tôn ty trong vũ-trụ, trong xã-hội và trong con người.
Mở đầu chương I Hệ-từ thượng truyện, ta đã thấy trình bày những nét thật
chính:
“ Thiên ở tôn, Địa ở ty, thế là Kiền
Khôn đã được định rồi vậy. Thấp và cao đã bày ra, thế là sự sang hèn đã được định.
Sự động và tĩnh có lẽ thường của nó, thế là cương và nhu đã được quyết đoán rồi.
Các loại đã tụ lại thành phương, các vật phân ra thành đàn , như vậy sự cát
hung đã sinh ra rồi vậy. Ở trên Trời thành tượng, ở dưới Đất thành hình, thế là
sự biến-hóa đã hiện ta rồi vậy.
Tất cả những nét đại cương vẽ nên hình và tượng của vạn vật như trên cho ta
thấy Thiên Địa, cao ty, quý tiện, động tĩnh, cương nhu, cát hung, hình tượng…chính
là những ‘vật’ đã được định hình và định vị để tạo nên vũ-trụ.
Con người, được định-nghĩa như một ‘vật’ bẩm thụ khí Âm Dương và ngũ-hành
hoàn chỉnh nhất thì: ‘phải biết sống đồng nhịp với sự sống của vũ-trụ’:
Đó là sự hòa hợp Âm Dương . Trong lý’Tam tài’: thiên, Địa, Nhân thì con người
thuộc phần nhân nên ở giữa tức đầu đội trời, chân đạp đất, con người ở giữa là
giữ chữ Hòa. Chữ “HÒA” ở đây không những chỉ nói đến con người ở lãnh vực trai
gái mà nói bao gồm tới ba lãnh vực là” Hòa Thiên, Hòa địa và hòa nhân. (1).
(1): Biểu thị của chữ Hòa. ( đó là
chữ vương (王): Trên đầu có một nét ngang (一) tượng cho Trời, dưới chân có một nét ngang (一) tượng cho Đất và ở giữa là chữ thập (十) tượng cho con người là do sự phối
hợp của Trời Đất vậy). Hình ảnh chữ Vương Trên Thiên bàn có thêm một nét ở trên
hết là hình thiên nhãn tạo thành chữ chủ 主( tức Trời là chủ tể trong vạn vật) là biểu hiện cho sự “thái-hòa” của Trời
đất vậy. (Qua biểu tượng chữ chủ này, ta có thể hiểu (suy đoán) được tại sao Đức
Di-Lạc được tôn danh là ‘Di-Lạc vương Bồ-tát’ ha ‘Di-Lạc Vương Phật’).
D1 - ÂM DƯƠNG GIAO-CẢM và
sự quan-hệ giữa NGŨ TẠNG LỤC PHỦ với THIÊN ĐỊA.
Âm Dương ngũ hành khi hữu hình nơi con người hay nơi vạn vật đều thể hiện
rõ cái ‘Tính’ của ngũ hành. Nói khác đi, mỗi vật hiện hữu được nhìn ở ‘ngũ’ ( tức
con số 5 ở trung-ương là MỒ KỶ Thổ) mà kinh Dịch đã nói’Các hữu Thái-cực’ là thế
) tức là ở Địa, ở phần hữu hình rõ nét của sự nuôi nấng của Địa-khí. Trong mỗi
‘hành’ lại được chia ra làm Âm và Dương . Tất nhiên phải có sự quan-hệ với ‘lục
khí’ của Thiên thì vạn-vật mới được thành hình. Chúng ta sẽ bàn tiếp vấn đề này
ở phần sau đây.
Sách ‘y-tông kim giám’ đã nói lên ý-nghĩa của sự quan-hệ này qua bài ‘Thái
hư lý khí Thiên Địa Âm Dương ca’:
Vị hữu Thiên Địa khí sinh
hình,
Dĩ hữu Thiên Địa, hình ngụ
khí.
Tùng hình cứu khí viết Âm
Dương,
Tứ khí quan lý viết Thái cực.
Khi ta nói khí là nói đến Âm Dương, khi nói hình là ta nói đến ngũ hành . Vấn
đề biến-hóa thật là vi-diệu, không thể nào trình bày hết được. Ở đây chúng ta
chỉ dựa vào Nội –Kinh phần nào để làm căn-bản trình bày nguyên-lý biến-hóa của
Âm Dương giao-cảm với ngũ hành. Trong Nội kinh có nhiều thiên bàn trực-tiếp đến
Âm Dương , các thiên khác dù không trực tiếp nói về Âm Dương nhưng vẫn lấy lý
Âm Dương làm căn-bản cho mọi vấn-đề của con người.
Thiên ‘Âm Dương ứng tượng đại luận’ mà Trương Chí-Thông đã giới-thiệu trong
(Tố-vấn 5) bàn về các vấn-đề Thiên Địa, thủy hỏa, tứ thời, ngũ hành, hàn nhiệt,
khí vị đều phù hợp với hình thân, tạng phủ của con người. Còn những vấn đề khác
như thanh trọc, khí huyết, biểu lý, thượng hạ, thành tượng, thành hình, không
có cái nào đi ngoài đạo-lý Âm Dương. Ngoài ra, như việc chẩn mạch, quan hình
sát sắc, trị liệu châm cứu cũng lấy phép theo lý âm dương . Bởi thế mới đặt tên
cho thiên này là ‘Âm Dương ứng tượng đại luận’.
Mở đầu thiên này viết:
“ Hoàng Đế nói: “Âm Dương là ‘đạo:
con đường’ của Thiên Địa, là ‘ cương kỷ’ của vạn-vật, là phụ mẫu của biến hóa,
là ‘bản thỉ’ của sinh sát, là ‘phủ’ của
thần minh.
Trị bệnh ắt phải tìm ở ‘bản: gốc’. Vì thế tích Dương để thành Thiên, tích
Âm để thành Địa. Âm thì tĩnh, Dương thì táo , Dương thì sinh, Âm thì trưởng.
Dương thì sát, Âm thì tàng. Dương hóa khí, Âm thành hình. Hàn cực sinh nhiệt,
nhiệt cực sinh hàn. Hàn khí sinh trọc, nhiệt khí sinh thanh. Thanh khí ở dưới,
thì sẽ sinh ra bệnh xôn tiết, trọc khí ở trên thì sẽ sinh ra bệnh phù trướng.
Đó là con đường Âm Dương phản tác và con đường ‘nghịch tùng’ của bệnh vậy.
Cho nên khí thanh dương thành Thiên, khí trọc Âm thành Địa. Địa khí lên
trên thành mây, Thiên khí xuống dưới thành mưa. Mưa xuất ra ở Địa-khí, mây xuất
ra ở Thiên-khí vì thế khí thanh Dương xuất ra ở thượng khiếu , trọc Âm xuất ra ở
hạ khiếu. Khí thanh Dương phát ra ở tấu-lý, khí trọc Âm chạy đến ngũ tạng , Khí
thanh Dương là ‘thực’ cho tứ chi, khí trọc Âm quy về lục phủ.
Giải-nghĩa: “Vạn vật chi cương kỷ”: Hai chữ
cương 綱 và kỷ 紀 đều có bộ ‘mịch 糸: tơ sợi’là muốn nói về vấn-đề
dệt có đầu mối lớn nhỏ. Bởi Dương đóng vai trò chính của khí để sinh, Âm đóng
vai chủ trì để lập. Nên mới có câu ‘Âm Dương là cương kỷ của vạn vật’. Mối tơ lớn
là cương (─) , mối tơ nhỏ là kỷ (- -). Đầu mối tổng (lớn), dài là cương, cái
vây quanh, ngắn và nhiều hơn gọi là kỷ.
Trương cảnh Thông chú: “Vạn-vật nhờ có Âm Dương mà ‘thống’lại nhau được gọi
là cương , phân tán ra nhỏ gọi là kỷ.”
Biến hóa chi phụ mẫu: Thiên ‘Thiên nguyên kỷ đại luận’ (Tố vấn 66) viết: “Vật
đến lúc sinh gọi là ‘Hóa’, vật đến lúc cực gọi là ‘Biến’.” Biến là con đường đi
dần đến của hóa, hóa là giai-đoạn thành của biến, Âm có thể biến thành Dương,
Dương có thể biến thành Âm. Dù cho sự biến hóa đa đoan, nhưng không ngoài sự
sinh ra của Âm Dương, cho nên gọi ‘Âm Dương là cha mẹ của sự biến hóa’.
Sinh sát chi bản thỉ: Thiên lấy Dương sinh Âm trưởng, Địa lấy Dương sát Âm tàng.
Thần minh chi phủ dã: Kinh Dịch đã mô tả ÂmDương biến hóa đến không đo lường
được thì gọi là ‘thần 神’, Âm Dương giao-hợp làm
cho vạn vật được sáng tỏ gọi là ‘minh:明’
Thần của Âm Dương đã hóa ngũ khí của Thiên, hóa ngũ hành của Địa để sinh ra
vạn vật, cho nên mới gọi ‘Âm Dương là phủ của thần minh’.
Trị bệnh tất cầu kỳ bản: Vương Băng chú: “Âm Dương và sự sinh sát biến hóa
của muôn loài đồng tham hợp với hình thân con người . Cho nên trong phép trị bệnh
ắt phải tìm về cái gốc tức là tìm về những qui-luật biến-hóa của Âm Dương.” Chữ
‘bản’ có nghĩa là gốc. Gốc ở đây là lấy gốc của Âm Dương, gốc ở tạng phủ, khí
huyết, thượng hạ của con người đều lấy gốc ở Âm Dương, trong lúc đó những khí
ngoại dâm như Phong Hàn Thử Thấp hoặc tứ thời ngũ hành cũng đều thuộc vào hai
khí Âm Dương.”
Cố tích Dương vi Thiên, tích Âm vi Địa: Tích Dương lên đến chỗ cao nhất
thành thiên, tích Âm đến chỗ dày nhất thành Địa. Đây là nối tiếp ý của câu
trên, ý nói trị bệnh phải theo cái lý của Thiên Địa Âm Dương.
Âm tĩnh Dương táo: Âm khí của Địa chủ về tĩnh cho nên theo lẽ ‘thường’.
Dương khí của Thiên chủ về động, cho nên vận-hành bất tức (không ngừng nghỉ).
Dương sinh Âm trưởng, Dương sát Âm tàng: Âm Dương lúc hướng về vượng và thịnh
thì Dương-khí sinh-phát, Âm-khí trưởng-thành. Âm Dương lúc hướng về suy và
thoái thì Dương-khí đóng vai trò thu lại, sát, Âm-khí đóng vai trò bế-tàng.
Mùa xuân và hạ thuộc Âm Dương của Thiên, cho nên chủ về Dương sinh Âm trưởng,
mùa thu và mùa đông thuộc Âm Dương của Địa cho nên chủ về Dương sát Âm tàng.
Dương hóa khí, Âm thành hình: Thiên chủ về ‘sinh’ ra vật, Địa chủ về
‘thành’ vật. cho nên Dương hóa khí của vạn vật thì khí ở con người chúng ta
cũng theo Dương hóa; Âm thành hình của vạn vật thì hình ở con người chúng ta
cũng theo Âm mà thành.
Hàn cực sinh nhiệt, nhiệt cực sinh hàn: Mã nguyên Đài chú: “Con người chúng
ta bị hàn, hàn cực thì sinh ra nhiệt. Ví-dụ như bị thương hàn sau đó lại biến
thành nhiệt chứng. Đây là một lẽ. Thân chúng ta bị nhiệt, nhiệt cực thì sinh ra
hàn, ví dụ như nội nhiệt đến cực sẽ sinh ra hàn. Đây lại thêm một lẽ nữa.
Trương Cảnh Thông chú: “Âm hàn và Dương nhiệt, đó thuộc về chính khí của Âm
Dương. Hàn cực sinh nhiệt có nghĩa là Âm đã biến thành Dương. Nhiệt cực sinh
hàn có nghĩa là Dương đã biến thành Âm. Thiệu tử nói ‘cái thỉ của động sinh ra
Dương, khi động đến cực thì âm sinh. Cái thỉ của tĩnh sinh ra nhu , tĩnh đến cực
thì cương sinh .’Đây chính là ý nghĩa mà sách Chu Dịch đã nói rằng ‘Lão thì biến
còn thiếu thì không biến’. Cho nên cái lý của Âm dương hễ đến cực thì sẽ biến
sinh. Bệnh của con người cũng thế, khi nhiệt thậm thì phát hàn, hàn thậm thì phản
nhiệt. Đạo trị bệnh cũng thế, nếu như uống lâu ngày về thuốc khổ hàn sẽ hóa Hỏa.’
Hàn khí sinh trọc, nhiệt khí sinh thanh, thanh khí hạ tắc sinh xôn tiết, trọc
khí tại thượng tắc sinh xân trướng, thử Âm Dương phản tác, bệnh chi nghịch tùng
dã :
Vương Băng Chú: “Nhiệt khí ở dưới thì cốc khí sẽ không hóa, cho nên sinh ra
chứng tiêu chảy, hàn khí ở trên thì khí không tán, cho nên sinh ra chứng phù
trướng.”
Trương Cảnh Thông chú: “Hàn khí ngưng ở dưới cho nên sinh ra trọc Âm, nhiệt
khí tán ở trên cho nên sinh ra thanh Dương. Khi nói ‘thanh khí ở dưới’ có nghĩa
là nó từ trên mà giáng xuống dưới cho nên sinh ra bệnh tiêu chảy. Khi nói ‘trọc
khí ở trên’ có nghĩa là nó từ ở dưới lên trên ngưng lại, vì thế sinh ra bệnh
phù trướng . Đây là trường hợp phản tác của thân hình chúng ta làm cho khí nghịch
tùng mà sinh ra bệnh. Đây cũng nói về thế và vị của Âm Dương đều có thượng hạ.”
Cố thanh Dương vi Thiên, trọc Âm vi Địa, Địa khí thướng vi vân, Thiên khí
há vi vũ. Vũ xuất Địa khí, vân xuất Thiên khí: Vương Băng chú: “Âm ngưng ở trên
kết lại thành mây, Dương tán ở dưới rót xuống thành mưa. Mưa có từ mây để mà
thí-hóa trên vạn vật, cho nên mới nói ‘vũ xuất Địa-khí’. Mây dựa vào khí để
giao-hợp, cho nên mới nói ‘vân xuất Thiên khí’. Cái lý của Thiên Địa đã như vậy,
khí thanh trọc của nhân thân cũng như thế.”
Trương Cảnh Thông chú: “Đây là đoạn văn nối tiếp ý trên. Vị trí của Âm
Dương đều có chỗ thượng hạ của nó. Riêng khí của Âm Dương trên dưới cùng tương
giao rồi sau đó mới có ‘vân hành vũ thí’ để rồi hóa-sinh vạn vật. Khí thanh
Dương thành Thiên, khí trọc Âm thành Địa. Địa tuy ở bên dưới , nhưng Địa-khí
thăng lên trên để thành mây. Thiên tuy ở trên , nhưng Thiên-khí giáng xuống
thành mưa.
Do mây rồi sau đó mới có mưa, đó có nghĩa là mưa tuy từ trên rơi xuống, nhưng
thực ra nó vốn từ Địa-khí thăng lên mà thành mây. Cho nên mưa xuất ra từ Địa-khí
rồi do ở mưa rơi xuống sau đó mới có mây thăng lên, do đó tuy nói rằng mây tuy
thăng lên từ Địa nhưng thực sự nó do mưa rơi từ Thiên xuống cho nên mới nói mây
xuất ra từ Thiên-khí .Đây là con đường giao nhau giữa Âm Dương . Con người cũng
ứng theo như thế.”
Cố thanh Dương xuất thượng khiếu, trọc Âm xuất hạ khiếu : Thượng khiếu đây
gồm 2 tai, 2 mắt, 2 mũi, miệng (gồm có 7 lỗ gọi là ‘thất khiếu sanh quang’). Hạ
khiếu gồm tiền-âm (bộ sinh-dục) và hậu-âm ( chỗ hậu-môn).
Trương Cảnh Thông chú: “Khí thanh Dương của con người lấy gốc ở Thiên nên
lên trên xuất ở thượng khiếu. Khí trọc âm của con người lấy gốc ở Địa nên xuống
dưới xuất ra ở hạ khiếu. Đây muốn nói rằng khí Âm Dương nơi con người ví với
mây thăng lên và mưa giáng xuống. Khí của con người thông với Thiên Địa.”
Thanh Dương phát tấu lý, trọc Âm tấu ngũ tạng : “Tấu là nơi Tam-tiêu thông hội với nguyên
khí và chân khí; Lý là chỉ vào nơi ‘văn và lý’ nơi bì phu và tạng phủ .”
Trương Cảnh Thông chú: “Khí thanh Dương thông-hội ở tấu-lý, còn phần tinh
huyết thuộc Âm trọc thì chạy vào ngũ tạng. Ngũ tạng chũ về tàng tinh.”
Thanh Dương thực tứ chi, trọc Âm quy lục phủ:
Trương Cảnh Thông chú: “ Tứ chi là cái gốc của Dương-khí. Lục phủ có vai
trò truyền hóa vật mà không tàng giữ. Đây nói về khí thanh Dương sanh ra từ ẩm-thực
sẽ sung-thực cho tứ chi. Còn phần hỗn trọc lại quy vào lục phủ . Tỳ chủ về tứ
chi…Đoạn đầu nói về khí thanh dương ‘lên ở trên’, đoạn giữa nói khí thanh dương
phát theo đường tấu-lý ra ngoại vào nội . Đây nói về khí thanh Dương là sung thực
cho tứ chi. Bởi vì Dương khí ví với Thiên và nhật, vị-trí của nó ở ngôi cao
nhưng sự vận-dụng của nó lại đi khắp bốn phương , lục hợp cửu châu…”
Thiên này (Tố vấn 5) nhấn mạnh về vai trò của Âm Dương : “Thiên Địa là ‘thượng
hạ’ của vạn vật. Âm Dương là nam nữ của huyết khí. Tả hữu là con đường của Âm
Dương . Thủy Hỏa là trưng và triệu của Âm Dương. Âm Dương là nguồn gốc của sinh
thành . Cho nên nói rằng: Âm ở bên trong đóng vai trò gìn-giữ cho Dương , Dương
ở bên ngoài, đóng vai trò sứ-giả cho Âm.”
Thiên ‘Thiên nguyên kỷ đại luận’ (Tố vấn 66) cũng lập lại cùng nội-dung như
ở câu trên (Tố vấn 5).
Vạn vật hữu hình, hữu sinh-hóa là nhờ vào khí của hai quẻ Kiền và Khôn.
Thoán-từ truyện viết: “Đại tai Kiền nguyên vạn vật tư thỉ = To rộng thay!
Nguyên khí của quẻ Kiền, vạn vật đều bắt đầu từ đó.
Thoán-từ truyện viết: “Chí tai Khôn nguyên, vạn vật tư sinh = Bao-la thay!
Nguyên-khí của quẻ Khôn , vạn vật đều được sinh ra từ đó.
Thoán-từ truyện quẻ Kiền viết tiếp: “Vân hành vũ thí, phẩm vật lưu hình =
Mây mưa bay đi khắp nơi làm cho phẩm và vật thành hình khắp cả.
Chương II Thuyết-quái truyện viết : “Lập nên Đạo của Thiên gọi là Âm Dương,
lập nên Đạo của Địa gọi là nhu cương…”
Thiên ‘ Thiên nguyên kỷ đại luận’ (Tố vấn 66) tóm hết các ý nghĩa của Kinh
Dịch trên hết sức sâu-sắc : “Vạn vật tư thỉ, ngũ vận chung thiên (1). Bố khí chân linh tổng thống Khôn nguyên (2). Cửu tinh huyền lãng, thất diệu
chu toàn (3). Viết Âm viết Dương , viết
nhu viết cương (4) U hiển ký vị, hàn thử thỉ trương (5). Sinh sinh hóa hóa phẩm vật hàm chương (6).
Dịch nghĩa: Vạn vật được ‘tư thỉ’, thì ngũ vận vận-hành tròn Thiên vận, bố-tán
khí ra khắp vạn vật và con người, bao gồm chung hai khí Kiền Khôn, cửu tinh được
treo sáng trên Trời , nhật nguyệt và ngũ tinh chu hành được Thiên-độ. Gọi đó là
nhất Âm, nhất Dương , gọi đó là nhu là cương , nét tối (đêm) và sáng (ngày) đã
được vị trí của nó, khí hàn, thử được vãng lai, sinh sinh hóa hóa, phẩm và vật
được hiện rõ.
Chú-giải:
(1): Trương Cảnh Thông chú: “ Ngũ vận
đây là vận của Mộc, Hỏa, thổ, Kim, Thủy. Chữ ‘chung thiên’ ý nói ngũ vận vận-hành
hết một vòng Thiên 365 độ và ¼ độ. Vạn vật nhờ vào sự hóa-nguyên (元) mới có sinh, như vậy ngũ hành vận hành theo Thiên vận không ngừng nghỉ.
Đây đúng với ý-nghĩa của Kinh Dịch:’Đại tai Kiền nguyên, vạn vật tư thỉ’.”
(2): TCThông chú: “Chữ ‘chân linh’ đây nói về quan-hệ giữa con người và vạn
vật . Câu ‘tổng thống Khôn nguyên’ ý nói Địa ở trong Thiên, Thiên thì bao bọc
bên ngoài Địa. Kinh Dịch nói ‘Chí tai
Khôn nguyên vạn vật tư sinh’.
(3): TCNhạc chú: “Cửu tinh ở đây là Thiên-bồng (蓬) Thiên-nhuế (芮) Thiên-xung (衝), Thiên-phụ (輔), Thiên cầm(禽), Thiên-tâm (心), Thiên-nhậm (任), Thiên-trụ (柱), Thiên-anh (英).
MNĐài chú: “Thất diệu đây gồm Nhật, Nguyệt, Kim-tinh, Mộc-tinh, Thủy-tinh,
Hỏa-tinh, Thổ-tinh. Ngũ vận hành có trì, có tốc, có thuận có nghịch, ví với
chính sự của nhà vua, cho nên còn gọi là thất-chính (政).”
(4): Câu này đã lấy ý trong kinh Dịch mà chúng ta đã trích ra trên ‘ Lập
Thiên chi Đạo viết Âm dữ Dương, lập Địa chi Đạo viết nhu dữ cương’…”
(5): Chữ ‘u’ ở đây có nghĩa là nơi u-tối, chữ ‘hiển’ là sáng-tỏ. Đây ví với
Dương là ngày, là sáng, Âm là đêm là tối. Ngày đêm vận hành cũng là Âm Dương vận-hành
có ‘vị 位’, tức là có mức-độ của nó. Chữ ‘thỉ trương’ đây là
co duỗi, là hàn thử vãng lai.
(6): Câu trên đây tóm-tắt những ý-nghĩa quan-trọng nhất trong quá trình
Kinh Dịch mô-tả sự hữu-hình của vạn vật. Chữ ‘sinh sinh hóa hóa’ thì chúng ta
đã nói rất nhiều lần trong quyển sách này. Riêng 4 chữ ‘Phẩm vật hàm chương’
mang mỗi chữ một ý-nghĩa riêng mà chúng ta phải giải-thích riêng.
Thoán-từ truyên quẻ Kiền viết: “Vân hành vũ thí, phẩm vật hàm chương” = Mây
và mưa rơi xuống khắp nơi, (nhờ vậy mà) phẩm và vật được ‘hàm chương:
Thiên ‘nguyên đạo’ (sách Văn-tâm điêu long) đã lập lại ỹ nghĩa của ‘phẩm, vật,
hàm chương’ một cách tuyệt vời. Nội-dung của thiên này (xem lại bài tựa) mô-tả
quá-trình hình-thành vạn vật. Vạn vật thành hình tùy theo trình-độ khí-hóa mà
nó bẩm-thụ được để nó có những tên gọi khác nhau: Văn, Đức, Phẩm, Vật, Khí (器), chương, tượng, hình…Ta có thể hiểu một cách tổng quát như sau:
Đức: là biểu hiện một cách tròn vẹn nhất của một vật về ‘khí’ mà vật đó bẩm
thụ được của Thái-cực, Âm Dương: Một màu sắc, một âm-thanh, một hành-động…
- Tất cả những gì hiện-hữu trong Trời Đất đều được gọi chung là vật: Nhân-vật,
thực-vật, động-vật…nói chung là ‘vạn-vật’.
Văn: Là những biểu-hiện hài-hòa nhất về cái Đức của mỗi vật, nó ‘có’ khi vạn
vật ‘có’: Văn chi vi Đức dã, đại hỹ! Dữ Thiên Địa tịnh sinh giã’. Những gì mà
con người mô-phỏng lại của văn, bằng chữ viết, âm-nhạc, hội-họa cũng chỉ là
‘tác-văn: làm lại, vẽ lại văn’ mà thôi. Chúng ta tìm hiểu văn của Trời gọi là
Thiên-văn, văn của người gọi là nhân-văn , của Đất gọi là Địa-lý.
Tượng: Là những ‘vật’ được thành ở Trời, hình là ‘vật’ được thành ở đất: ‘Tại
Thiên thành Tượng, tại Địa thành hình’. Trong thân-thể con người, chúng ta cũng
đều có đủ Thiên Địa. Ngũ tạng là những ‘vật’ bên trong người thuộc tượng . Tượng
như vậy là những ‘vật’ chỉ ‘có’ chứ chúng ta không thể sờ mó được, khi chúng ta
sờ-mó được thì nó không còn là tượng nữa. Ta gọi môn học về ngũ tạng lục phủ là
‘Tạng tượng học’ là thế. Trong thiên-nhiên, hình gồm có núi sông, cây cỏ, chim
muông…thì trong con người chúng ta hình chính là tay chân, da thịt, tóc tai…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét