Số 3 Huyền Diệu Hay là Tam Bửu - Tập 1 - 3 / 3 (Nữ Soạn-giả Nguyên Thủy)

Thánh thể Dâng Tam bửu:
Ấy vậy, cái lời của Chí-Tôn để trên mặt thế gian này có hai phương pháp, siêu hình cũng trong đây, mà siêu vật cũng trong cửa Đạo này.Đức Hộ Pháp hỏi:
Tại sao?
- Tại vì có một Đạo Giáo Ngài đến một thân Ngài mà thôi. Cả con cái của Ngài đã cho đầu kiếp dưới thế gian
này trước, rồi Ngài mới đến sau, Ngài chung hiệp lại làm Thánh Thể của Ngài, Ngài biểu nó dâng Tam Bửu là dâng xác thịt, trí não, dâng cả tâm hồn tức nhiên dâng cả sanh mạng của nó cho Ngài để làm chữ KHÍ, rồi Ngài trả chữ Khí của Càn Khôn Vũ Trụ, tức nhiên cái sống của nhơn loại đi đến mục đích chữ Tu, Ngài biểu cả toàn thể dâng xác thịt cho Ngài, Ngài trả lộn lại cái sống của Càn Khôn Vũ Trụ, trong mình nó sống dậy mà làm Thánh Thể của Ngài. Chúng ta tưởng tượng một ngày kia, toàn cả nhơn sanh đứng làm phần tử Thánh Thể của Ngài phụng sự cho Vạn Linh, tức nhiên phụng sự cho nhơn loại, hiệp trí não tâm hồn dâng cho Ngài hết, còn trở lực nào ngăn cản nữa, nhơn loại sẽ đến một cái tối trọng và thiên hạ nhứt gia như Đức Chí Tôn đã muốn”.

10 - Tam Trấn Oai Nghiêm tượng trưng
ba báu ấy:
Đức Hộ-Pháp nói:
1/-Đức Quan Thánh tượng trưng TINH, tức nhiên tượng trưng xác thịt của chúng ta, vì cái sống trong xã hội nhơn quần của chúng ngày nay không có cái giá trị nào bằng giá trị Tinh, Khí, Thần. Quả vậy tôi tưởng chắc rằng: Nếu chúng ta có mảnh thân phàm này mà muốn cho nên, đứng cho vững vàng, đáng giá nơi thế này, kiếp sống ta không có một kiểu vở nào, không một nền Tôn Giáo nào có tôn chỉ đặc biệt về xã hội nhơn quần của chúng ta hơn là Nho Giáo. Ấy vậy hôm kỳ Vía của Ngài, Bần-Đạo đã có nói Quan-Thánh, Ngài tượng trưng Tinh, tức nhiên Ngài là đại diện của Nho Tông Chuyển thế đó vậy.

2/ - Bây giờ nói Đức Lý, tức nhiên Anh cả Thiêng Liêng chúng ra giờ phút này, Đấng Thiêng Liêng đến cầm quyền Giáo-Tông trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ mà cũng là Nhứt Trấn Oai Nghiêm nữa, Ngài đại diện cho Tiên Giáo đó, mà Tiên Giáo chúng ta đã thấy gì? Thấy kiểu vở Tiên Giáo trong tinh thần chữ Đạo.

Ấy vậy Đức Lý tượng trưng cho cả trí não tinh thần chúng ta, bảo vệ Đạo tức nhiên bảo vệ sống còn của nhơn loại vạn linh. Thuộc về KHÍ.

3 - Đức Quan Thế Âm Bồ Tát, Ngài tượng trưng cho linh hồn chúng ta, phải chăng chúng ta sanh ở thế gian này đương mang nặng thi hài xác thịt này, cả toàn nhơn loại trên mặt địa cầu có mặt nơi đây, phải chăng do quả kiếp của họ, Bần Đạo không nói trọn hết thảy bị quả kiếp, cũng có những Đấng lãnh sứ mạng của Đức Chí Tôn

đến giáo Đạo dìu dắt Vạn linh. Hại thay! Chín mươi hai ức nguyên nhân cũng vì sứ  mạng tối yếu tối trọng ấy thay vì lãnh sứ mạng của mình trọn vẹn, lại quá ham sống, gây nên tội tình phải bị sa đoạ. Thành ra một ông Thầy đến giáo Đạo lại trở thành một học trò quá tệ hơn trò nữa.!

Chín mươi hai ức nguyên nhân, giờ phút này có một điều thắc mắc hơn hết, chúng ta thấy trong Vạn linh, con người tối linh hơn vạn vật, mà ta ngó thấy có thứ người không phải người, họ đã mang xác thịt làm như người mình, họ tàn ác dối trá gian ngược, làm cho các Đấng Thiêng Liêng hay là người đạt Đạo ở thế gian này cũng vậy để dấu hỏi, đến phẩm người mà vậy, hỏi họ có đáng làm người không? Họ có đáng ngồi trong phẩm vị Đại-hồi này hay Tiểu-hồi vật loại? Nếu chúng ta để nhóm người đó ở trong Tiểu-hồi vật loại thì bất công, chính mình người ta đã đạt tới nhân phẩm, nếu để trong Đại-hồi, trong nhân phẩm thì không đáng vị, bởi vì cớ cho nên Đạo giáo để phẩm Maya, tức nhiên quỉ vị, phẩm riêng biệt là quỉ vị.  Ấy vậy Đức Quan Âm Bồ Tát là một Đấng Thường Du Nam Hải, các cửa Phong đô nơi Cửu tuyền đài kia, là con đường của Ngài đi lên đi xuống không biết mấy lần, không biết thế kỷ nào dứt, để tận độ cho thiên hạ, Ngài tượng trưng cho một cơ thể thiêng liêng giải cả oan nghiệt tội tình, giải cả Nhơn quả cho chúng sanh đạt vị, tức nhiên đạt cơ giải thoát. Hỏi có người nào tượng trưng cho Đấng đó hơn Quan Thế Âm Bồ Tát không? Ba cái gương ba kiểu vở kia đặc biệt chúng ta không thể gì làm được. Đức Quan-Âm tượng THẦN.

Tóm lại:
1 - Đức Phật-Quan-Âm tượng cho THẦN
2 - Đức Lý Đại-Tiên tượng cho KHÍ.
3 - Đức Quan Thánh Đế tượng cho TINH.

&

B - TAM THÁNH KÝ HÒA-ƯỚC
1 - TRUYỆN KÝ TƯỢNG TAM THÁNH

* Cụ NGUYỄN BỈNH KHIÊM: Nhà tiên tri danh tiếng lớn ở đời Mạt Lê, thi đậu Trạng nguyên, tước vị là Trình Quốc Công, tục gọi là Trạng-Trình, giáng cơ tự xưng là Thanh Sơn Đạo Sĩ, tức là Sư Phó của Bạch Vân Động.

* Cụ VICTOR  HUGO: Nhà  thi  gia  trứ danh  của Pháp quốc, giáng cơ tự xưng là Nguyệt Tâm Chơn Nhơn, tức là đệ tử của Cụ Nguyễn-Bĩnh-Khiêm ở Bạch-Vân-Động.

* Cụ TÔN DẬT TIÊN: Đại-cách-mạng gia nước Trung Hoa, nhũ danh là Tôn-Văn, giáng cơ tự xưng là Trung Sơn Chơn Nhơn, tức là đệ tử Cụ Nguyễn-Bĩnh-Khiêm ở Bạch Vân Động.

Ba vị Thánh-nhơn trên đây là Thiên-sứ đắc lịnh làm Hướng đạo cho nhơn loại để thực hành Đệ Tam Thiên Nhơn Hòa Ước”.

Trên đây là Bức hình “Truyên ký Tượng Tam Thánh” đặt tại Tịnh-Tâm-Đài thuộc phạm vi Hiệp-Thiên Đài của Đền Thánh Toà Thánh Tây Ninh. Bên cạnh bức Tượng Tam Thánh, có tấm bia để giải thích về bức tranh.

Tượng Tam Thánh
Bức tượng Tam Thánh nầy do vị Hiền Tài Lê Minh Tòng vâng lịnh Đức Hộ Pháp truyền họa, khuôn khổ:
2 m 80 X 1 m 90. Hình tượng bằng người thường.
- Đức Thanh Sơn cầm bút lông thỏ.
- Đức Nguyệt Tâm cầm bút lông ngỗng 
- Đức Tôn Sơn cầm nghiên mực. Hai Đấng đang viết trên bia đá những

* 8 chữ Hán văn:
Thiên thượng - Thiên hạ - Bác ái -  Công bình     
                         
* 4 chữ Pháp-văn:
           DIEU et HUMANITÉ- AMOUR et JUSTICE
2 - Về việc Trấn Thần Tam Thánh:
Đức Hộ-Pháp nói:
“Trấn Thần ba vị Thánh rất khó, vì phải kêu Chơn linh họ đến nhập vào tượng ảnh, mà muốn Chơn-linh họ đến phải thấu đáo cả căn kiếp của họ mới đặng. Còn 9 cây nhang dùng để trấn Thần là 9 cái thang bắc lên Cửu Trùng-Thiên cho các Chơn-linh nương theo đó. Chẳng biết họ ở từng Trời thứ mấy mình cứ đưa lên đủ, họ gặp họ tới ngay. Quan hệ là trước khi trấn Thần, phải xem lại coi có tắt cây nhang nào không. Thảng như họ ở từng thứ 7 mà cây nhang thứ 6 rủi tắt đi, thành ra bị cách khoảng, họ không thể tới được. Bây giờ chúng ta chỉ thông công với các Đấng trong Cửu Thiên Khai Hóa, rồi đây cũng có ngày Bần đạo kêu lên Đức Di-Lạc ở từng thứ 11 chưa biết chừng, khi ấy sẽ phải dùng đến 11 cây nhang, chớ không phải 9 cây nữa.”           

Khi Đức Hộ-Pháp trấn Thần tượng ảnh Tam Thánh xong, cả nhân viên tùng sự lui theo cửa hông trở ra, vòng ra cửa trước, đi vào Hiệp-Thiên-Đài, thỉnh Thánh tượng đặt lên vách tường, ngó mặt ra trước cửa Đền-Thánh.
Đức Hộ Pháp giải thích về Ba vị Thánh:
1 . Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn.
2 . Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ.
3 . Đức Tôn Trung Sơn.

Là đại diện của Hội-Thánh Ngoại-Giáo, các Ngài là những Thiên mạng truyền giáo Ngoại quốc (Missionnaires étrangers) cho nên tượng ảnh để ở Hiệp Thiên-Đài, day mặt ra ngoài cho thiên hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi Thiêng liêng của các Ngài..

Cả ba  vị Thánh đều mặc cổ phục.
Cái nghiên mực trên tay Đức Tôn Trung Sơn có hào quang chiếu diệu, tượng trưng sự rực rỡ của nền văn minh tối cổ Trung Hoa.

Cái khuôn xi măng đúc trên vách Hiệp-Thiên-Đài, từ ngày tạo tác Tổ đình, là để dành ngày nay đặt tượng ảnh Tam Thánh lên đó. Trước kia, Bần Đạo cũng không hiểu để làm gì, chỉ biết tạo theo lịnh của Đức Lý Giáo Tông.        

 Ngày nay thời cuộc biến thiên, vị Hiền Tài LÊ MINH TÒNG ở Hải đảo trở về đây, Đức Lý truyền lịnh cho vẽ tượng ảnh nầy, mới hiểu rằng Đức Lý chờ người mà Ngài cần dùng đến.      

Trước tượng ảnh không có bàn thờ chi hết vì Chơn linh đã nhập vào đó như người sống vậy.         
Kể từ ngày 10-7 Mậu-Tý  (dl 19-8-1948) tượng ảnh Tam Thánh đã đặt lên vách tường Hiệp-Thiên-Đài là biểu hiệu cho Chủ nghĩa Đại Đồng của Đạo Cao Đài, mở đầu một giai đoạn tiếp dẫn chúng sanh Vạn quốc vào cửa Đại Đạo, mà cũng là ngày khởi đoan sự bành trướng ngoại giáo”.   Cuộc lễ bế mạc lúc 9 giờ cùng ngày.
Tòa Thánh, ngày 10-7 Mậu-Tý (dl 19-8-1948)
Luật Sự VÕ QUANG TÂM tường thuật.

3 - Tam Thánh ký Hoà-ước:
Ðức Chúa Jésus-Christ thương nhơn loại một cách nồng nàn thâm thúy. Bởi Ngài đã ngó thấy:
- Nhứt Kỳ Phổ-Ðộ nhơn loại ký Hòa-ước với Chí Tôn mà đã bội ước, nên phạm Thiên-Ðiều, nhân-quả nhơn loại gớm ghiết. Do nhân-quả ấy mà tội tình nhơn loại lưu trữ đến ngày nay, Thánh-Giáo gọi “tội Tổ tông”.

- Chính mình Ngài đến, đến với một xác thịt phàm phu, Ngài đến giơ tay để ký Đệ Nhị Hòa ước với Ðức Chí Tôn chịu tội cho nhơn loại, ký đệ nhị Hòa-ước đặng dìu dắt chúng sanh trở về cùng Ðấng Cha lành của họ tức nhiên là Ðức Chí-Tôn, là Ðại Từ-Phụ chúng ta ngày nay đó vậy. Ðấng ấy vô tận vô biên, thấy nạn của nhơn loại đã dẫy-đầy, Ngài chỉ xuống tại mặt thế nầy làm con tế vật đặng chuộc tội tình cho nhơn loại, mà lại còn đem quyền của Chí-Tôn để nơi tay của nhơn loại, bàn tay đó đã ký đệ nhị Hòa-ước cho nhơn loại, nó làm cho Ngài thế nào ?

Do tay Ngài ký tờ hòa ước với Chí Tôn, nên hai tay của Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự giá. Hai chân của Ðấng ấy đã đi trước nhơn loại dìu đường hằng sống cho họ, rồi hai chân của Ðấng ấy cũng bị đóng đinh trên cây Thánh-Giá, còn trái tim yêu ái nhơn sanh vô hạn ấy bị một mũi kiếm vô tình đâm ngay cạnh hông của Ngài, lấy giọt máu cuối cùng đó đặng cứu nhơn loại, một tình ái vô biên ấy để lại cho loài người một tôn chỉ yêu ái. Tôn chỉ nhìn nhơn loại là anh em cốt nhục và khuyên nhủ nhơn loại coi nhau như đồng chủng.

“Ðức Chúa Jésus Christ đã lấy máu thịt đặng chuộc tội cho loài người. Giờ phút nầy là giờ hiển Thánh của Ngài dùng quyền hành yêu ái vô biên của Ðức Chí Tôn mà tha tội cho nhơn loại đó vậy”.

Thế gian người ta thường nói chúng ta chết là hết, chúng ta thử suy đoán: với một kẻ mà đã đem trọn kiếp sanh mình làm con tế vật cứu thế như Ðức Chúa Jésus Christ đem thân ra chịu khổ hạnh truyền giáo thật ra chỉ vỏn vẹn có hai năm thôi, kế bị dân Do-Thái đóng đinh trên cây Thánh-Giá như kẻ thường tình kia.

Tam Thánh đứng đầu Bạch Vân Động gồm:
1/ . Thanh Sơn Đạo Sĩ: Ngài giáng trần ở Việt-Nam là Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm (1491-1585).
2/ . Nguyệt Tâm Chơn Nhơn: Ngài giáng trần tại nước Pháp là Đại văn hào Victor Hugo (1802-1885).
3/ . Trung Sơn Chơn nhơn: Ngài giáng trần ở Trung Hoa là nhà Cách mạng Tôn Dật Tiên,tức Tôn văn (1866-1925)

Ba vị Thánh kể trên. là Người của Bạch Vân Động
4 - BẠCH VÂN ĐỘNG là gì?
Đức Hộ Pháp giải thích về Bạch Vân Động :
“Xưa nay người ta vẫn coi Nguyệt cầu (Mặt Trăng) là nơi dừng chân của những vị Thánh, Thần, trước khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian nầy.  Từ cổ, Thần thoại đã mệnh danh Nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động). Giáo chủ của Bạch Vân Động là Bạch-Vân Hòa-Thượng, miêu duệ của Từ-Hàng Đạo-Nhơn, dòng dõi Đức Phật Quan Âm. Bạch Vân Hòa Thượng đã hai  lần giáng trần ở Pháp và một lần ở Việt-Nam.
-  Một lần là Hồng Y Giáo Chủ Richelieu,
- Một lần là Quận Công La Roche Foucault.
- Ở VIỆT-NAM, Ngài giáng trần là Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm,  tức gọi là Trạng Trình".

5- Luật Bác-ái và pháp Công-bình:

Trên cảnh Thiêng liêng hằng sống, các Đấng chơn hồn không Tôn giáo thường cải lý. Đức Hộ-Pháp nói:
“Nếu như các Ngài còn chối cải, dầu cho chỉ muôn đường ngàn nẻo mà các Ngài chối không tùng con đường của nhơn loại đi là con đường Tín-ngưỡng Trời và Người đặng dìu dắt nhơn-loại trong Luật Thương-yêu và Pháp Công-chánh, đến trước mặt Tòa Tam Giáo đặng cầu rỗi, tôi dám chắc chẳng hề khi nào chối tội đặng. Dầu có cượng lý bao nhiêu các Ngài cũng không chối sự chơn thật đó đặng. Nếu các Ngài muốn chối, tôi xin để bằng cớ hiển nhiên là Ðạo Cao Ðài đã xuất hiện. Ðức Chí Tôn đã đến, chính mình Ngài đến mở Ðạo 24 năm trường nay. Ngài đã ký kết với nhơn loại bản Hòa-ước thứ ba.

Hai Hòa-ước kỳ trước nhơn loại đã phản bội, không giữ sở tín của mình vì cớ cho nên phải thất Ðạo, nhơn loại đi trong con đường diệt vong tương tranh, tương sát nhau. Vì lòng Bác-ái Từ-bi Chí-Tôn đến ký hòa-ước thứ ba nữa để trong luật điều. Chúng ta thấy các Ðấng Thiêng-Liêng chỉ tấm Tượng Tam-Thánh biểu nhơn loại tín-ngưỡng; Thiên thượng, Thiên hạ (Dieu et Humanité) về luật có Bác-ái, Pháp có Công-bình, ngoài ra dầu luật pháp muôn ngàn hình tướng, Hội-Thánh Ðạo Cao-Ðài dìu dẫn tâm lý nhơn sanh, chỉ dẫn họ vô mặt luật tối cao là Luật Bác-ái và vô một nền chơn pháp tối trọng là Pháp Công-bình. Luật pháp của Ðạo Cao Ðài, ngoài ra luật Bác-ái và pháp Công-bình, tất cả luật điều khác, đều là phương pháp lấy giả tạo chơn mà thôi.”

6 - Đức Chí Tôn muốn dành để cho họ phẩm vị gì?
Và phận sự của họ phải làm gì?

Từ tạo Thiên lập Địa đến giờ chúng ta đã rõ được nguồn sử của nhơn loại tiềm tàng khảo cứu, chúng ta đã ngó thấy tinh thần của con người, dầu ai có muốn chối cái tinh thần ấy là chủ quyền cái sống của họ cũng không được. Tại sao? Tại họ đã thọ lãnh cái điểm linh về tinh thần của họ nơi Đấng Tối-linh kia. Đấng Tối-linh ấy ban cho họ, muốn cho nhơn-loại từ từ đi từ phẩm-vị con người đạt cho đến quyền năng, đạt cho tới cái địa vị làm Trời hữu hình tại thế này đó vậy.

Ngày giờ nào không lấy Luật Thương-yêu thiên nhiên của Đức Chí-Tôn để trong tâm não của họ, thì họ chưa hề có can đảm làm phận sự tôi tớ của họ mà phụng sự nhơn loại một cách đắc lực, một cách vui vẻ, một cách hữu hạnh, hữu phước, một cách làm cho mình có thể chung lại với nhau đặng hưởng hòa bình yêu ái của toàn nhơn loại nơi mặt địa cầu này.

Muốn làm Chúa thời phải thiệt hiện Hòa-bình tâm lý trước đã và Hòa-bình hình chất sau. Nhưng chỉ có Đức Thương-yêu của Đức Chí-Tôn để nơi tâm khảm của chúng

ta làm khí cụ, làm môi giới dìu dắt và nâng đỡ họ, thì họ mới có thể hưởng cái hạnh phúc ấy mà thôi”.

7 - Thầy là Cha của sự thương-yêu:
 Đức Chí-Tôn có dạy: “Thầy thường nói với các con rằng: Thầy là Cha của sự thương-yêu, do bởi thương yêu Thầy mới tạo thành thế-giới và sanh dưỡng các con.
 “Vậy thì các con sản-xuất nơi sự thương-yêu. Đã sản-xuất nơi sự thương-yêu, các con tức là cơ thể của sự thương-yêu. Ấy vậy, sự thương-yêu là giềng bảo-sanh của Càn khôn thế-giới. Bởi thương-yêu mà vạn loại Hoà-bình, Càn khôn an-tịnh mới không thù-nghịch nhau, không thù nghịch nhau mới không tàn hại nhau. Không tàn hại nhau mới giữ bền cơ sanh-hóa.
 “Còn kẻ thù-nghịch cơ sanh hóa là ai? Là Quỉ vương đó! Quỉ vương vốn diệt-hóa cũng như có sống của Thầy ắt phải có chết của Quỉ-vương.
 “Quỉ-vương lấy cơ thể nào mà tàn hại các con ?  Ấy là sự ghét. Vì ghét nhau vạn loại mới nghịch lẫn nhau, nghịch lẫn nhau mới tàn hại lẫn nhau, mà tàn hại lẫn nhau là cơ diệt thế. Vậy Thầy cấm các con từ đây, nếu không đủ sức thương-yêu nhau cũng chẳng đặng ghét nhau”.

8 - Tín-ngưỡng thờ Người và thờ Trời:

Do mặt Luật Bác-Ái và Công-Bình, những phương pháp của các vị Giáo-Chủ, dầu cho luật-pháp đã lập nền Tôn-Giáo bất điều hòa với nhau nhưng đó cũng mở đường chỉ nẻo cho nhơn-loại đi đến con đường của Đạo-Giáo, tức là tín-ngưỡng thờ Người và thờ Trời. Còn về luật-pháp của mình, Đức Phật Thích-Ca có nói nếu như Ngài không Bác-Ái không Công-Bình, thì Đạo-Giáo của Ngài không Bác-Ái Công-Bình đặng lập đạo từ trước đến giờ. Hỏi Đấng ấy lập giáo của họ trên nền tảng nào? Có phải là Bác-Ái và Công-Bình chăng? Nếu không phải Bác-Ái và Công-Bình thì chưa có tìm một triết-lý cao siêu, để vào tâm-lý tinh-thần nhơn-loại mặt thế này. Chúng ta đã ngó thấy của ấy là Nhân đó vậy. Nhưng trái ngược lại, họ còn giành phần họ đánh ép mình, nếu chúng sanh không có tinh-thần với họ và nếu không có công-bình, tâm-lý, tinh-thần và không lòng thương yêu đầy dẫy, chưa đồng tâm tánh trí não, thì các Ngài chưa hạ mình xuống đặng nâng đỡ tinh thần loài người dường ấy.

Đức Lão-Tử thấy thiên-hạ không biết nhìn phẩm-vị của mình, không biết chơn-tướng của mình để nơi nào mà định vị cho mình. Trái ngược lại, Ngài sanh ra tại đất Trung-Hoa, buổi tâm-lý nhơn sanh điêu tàn, họ không biết phẩm-giá con người là gì? Đến đỗi tâm-lý loài người buổi ấy cũng xáo trộn, không còn chơn-phẩm của người. Họ không biết tự tôn họ, họ chưa biết phẩm-vị họ, thì họ chưa tin thiên-hạ, tức nhiên là thú-chất vật loại; nếu không phải có bác-ái từ-bi thức tỉnh nhơn-loại buổi ấy, thì họ chưa biết phẩm-vị tối cao tối trọng của họ. Họ không còn làm con vật nữa! Nếu chẳng Bác-Ái Công-Bình chưa hề khi nào lập nên nền Tôn-Giáo như thế đặng.

Đến ngày nay nước Tàu còn lưu lại, Ngài nói chẳng phải nói Á-Đông mà thôi đến Âu châu cũng vậy. Ngài nói cái triết-lý Đạo cao siêu chơn thật, người ta theo không biết bao nhiêu. Nói về chơn thật thì chúng ta bảo vệ tinh-thần mà thôi. Các Ngài tìm thấy, các Ngài ngó lụng lại, các Ngài thấy tinh-thần mà thôi, dầu luật-pháp Tôn-Giáo cũng do Bác-Ái Công Bình mà lập thành, những phương-pháp họ tạo ra cho có hình-tướng cốt yếu dìu dắt tinh thần nhơn-loại, đi đến mức cao thượng là Bác-Ái Công-Bình. Bác-Ái Công-Bình ấy là Đạo Nhơn-Luân đó vậy. Nho-Giáo, Đức Khổng-Phu-Tử lập tại Trung-Hoa vì Ngài thấy nhơn luân buổi nọ điên đảo điêu tàn nên mới lập ra Nho Giáo để bảo vệ Nhơn-Luân.

Cũng vậy nữa, Lão-Tử, Ngài thấy nhơn-phẩm suy đồi không còn giá-trị tâm-lý, nhơn sanh buổi ấy mất hẳn giá-trị của nhơn-loại, nên Ngài hạ mình xuống đặng định Luật- Pháp, trụ cái Đạo Nhơn-Luân làm căn bản, hễ biết trọng mình, biết địa-vị mình, tức nhiên Thiên-Đạo, biết Thiên-Đạo tức nhiên biết Thiên-Điều, biết Thiên-Điều tức nhiên biết Đức Chí-Tôn; tạo Đạo mình phải giữ Đạo. Ngài không lẽ lấy danh tánh của Đức Chí-Tôn làm của tư được.

Ngài nói đệ nhứt Đạo tối cao tối trọng, đặng chỉ mặt Luật Bác-Ái và Pháp Công-Chánh. Đã định cái sống trong Càn-Khôn Vũ-Trụ thì phải định cái sống cho loài người, định cái sống cho toàn cả chủng-tộc cho toàn mặt địa-cầu này. Luật-Pháp của Ngài nó đã trái hẳn phong-hóa mặt địa-cầu, nói về tinh-thần đạo-đức của Tôn-Giáo nó là mô giới, cho nên ngày giờ này cả vạn-quốc đều để tâm tìm kiếm Luật Pháp ấy. Vì cớ cho nên Đạo Cao-Đài Đức Chí Tôn có tiên-tri rằng: “Đạo Cao-Đài tức nhiên là một cây cờ báo hiệu cho Vạn-Quốc toàn-cầu hay trước là Thời kỳ Nho-Tông chuyển thế đã đến”.

Đạo Đức Chúa Jésus-Christ tức nhiên là Công Giáo, nếu Người không có Bác-Ái thì chưa đem xác thịt của mình làm con vật đặng tế Đức Chí-Tôn. Ngài cầu xin tha thứ tội tình cho nhơn-loại, Người ấy là Người đáng để lòng thương yêu, nếu đem ra làm kiểu mẫu cho nhơn-loại bắt chước thì Tôn-Giáo Gia-Tô đã đoạt được bao nhiêu tinh-thần thương yêu nơi mặt địa-cầu này vậy.

Nếu các Ngài còn chối cãi thì tôi nói rằng: "Dầu cho muôn đường ngàn nẻo thì các Ngài cũng phải chọn một, các Ngài chối không chịu dìu-dẫn tâm-lý loài người đi trong con đường tín-ngưỡng và dìu-dắt tinh-thần loài người trong Luật Yêu-Thương và Pháp Công-Chánh, các Ngài chỉ đem mấy bản hồ-sơ ra để trước mắt Tòa Tam-Giáo mà cầu rỗi lấy mình, tôi dám chắc các Ngài không phương thế gì chối tội đặng. Dầu cượng lý bao nhiêu cũng không chối đặng, các Ngài chối tội xin có bằng cớ dĩ nhiên rằng: Kỳ tới Bần-Đạo giảng cái quyền-năng là cái hiệu-nghiệm của Luật Bác-Ái và Công-Bình”.

C - Buộc phải thi-hành quyền Công-Chánh 
Từ tạo Thiên lập Địa đến giờ, Luật Thương-Yêu dầu vạn-vật cũng thế, người cũng thế, Luật Thương-Yêu muốn đủ cao trọng hơn nữa, cao sang hơn nữa, thì luật định luật nơi Ngọc-Hư-Cung và Tây-Phương Cực-Lạc, tức Cực-Lạc Thế-Giái. Nếu nói thiệt đủ tinh thần mặt Luật Thương-Yêu ấy, trừ lại cơ-quan Tạo-Đoan, cả vạn-vật trong Càn-Khôn Vũ-Trụ này là Cung Diêu-Trì tức nhiên là Cung Đức Phật-Mẫu đó vậy.

Nói thật nếu Đức Chí-Tôn Ngài không có những tình-ái, không phân ra đệ-nhị xác thân Ngài, là bạn, Ngài là cơ hữu-vi Tạo-Đoan Càn-Khôn Vũ-Trụ đương nhiên bây giờ, cũng như ta nếu chúng ta sợ cái cơ-quan Tạo-Đoan ấy, tức nhiên tạo đời của mình. Nếu bên Nam, bên Nữ, sợ vợ, sợ chồng thì đâu có tạo ra đời của mình, phải có tình ái nồng-nàn, nó mới nên chồng vợ. Không phải vợ chồng thương nhau mà thôi, nó còn xô đẩy cao xa hơn nữa. Nếu chúng ta biết lương-tâm, nòi giống, quốc-gia, chủng-tộc tức nhiên chúng ta tạo đời, không phải thương chồng vợ mà thôi, Luật Thương-Yêu ấy nó còn cao xa hơn nữa!

Bởi vậy cho nên Khổng Phu-Tử lập Giáo, Đạo Nho-Tông  của Ngài chú trọng nhứt là Ngài lấy nhơn-luân làm căn bản, chặt-chịa mạnh-mẽ chắc-chắn lắm vì cớ cho nên Đạo Nho-Tông của Ngài để lại hơn hai ngàn năm vẫn còn nguyên-lực của nó, đương nhiên bây giờ nó còn đủ sức chuyển-thế đặng nó làm căn-bản mạnh-mẽ chắc-chắn. Căn-bản nhơn-luân chỉ sản-xuất nơi tình-ái mà ra, ấy Luật Thương-Yêu Đức Chí-Tôn buộc phải theo, theo mới được, ký Hòa-Ước với Ngài, phải thi-hành cái luật ấy.

Tờ Hòa-Ước này, ký với Ngài phải cho có hiệu-nghiệm. Ngài buộc ký với Ngài, thi-hành theo luật, cho chúng ta khỏi phải bội ước với Ngài, đã hai kỳ ký Hòa-Ước với Ngài, đều hai kỳ bội ước. Nếu chúng ta xét đoán hai kỳ trước, Ngài có buộc luật ấy hay chăng? Sao không có, có chớ! Mà tại Ngài không nói với nhơn-loại, không nói tức không buộc, không buộc thì không làm, đã có định-luật mà không có buộc, không buộc thì không đặng.

Kỳ này Đức Chí-Tôn không nói, mà Đức Chí-Tôn buộc, lại buộc phải thi-hành quyền Công-Chánh, chúng ta không cần tìm Trời-Đất chi cả, cơ-quan dưới thế, nếu không có mặt công-bình về tâm-lý, không có mực thước công-lý tại mặt thế này, thì Bần-Đạo dám chắc rằng: Cả cơ-quan hiển nhiên bây giờ không còn tồn tại được.

Có một điều khuyết-điểm chúng ta ngó thấy, một trường hỗn-loạn, tương-tàn tương-sát với nhau, vì muốn thi hành mặt công-lý, tức nhiên lấy cân công-chánh làm mô giới cả cơ quan trị thế. Nhơn-loại loạn lạc tức nhiên mặt luật công-bình chúng ta đã ngó thấy, quả nhiên không thể chối cải cái gì được. Công-chánh là nơi miệng lưỡi loài người, tức nhiên vạn-quốc đương dùng bây giờ là một phương-pháp để lường gạt tâm-lý nhơn-loại.

Mặt cân công-bình thiên-hạ gọi là công-lý mà thế gian này chưa có công-lý, mạnh thì công-lý của họ khác, giàu thì công-lý của họ khác, sang thì công-lý của họ khác, vinh hiển thì công-lý của họ khác, nghèo thì công-lý của họ khác. Cái công-lý của nhơn-loại bây giờ là công-lý giả, vì bởi công-lý giả ấy, cho nên mới có trường hỗn loạn, tương-tàn tương-sát với nhau, phải họ đem công-lý về mặt tinh-thần quả quyết, đặng cân phân cùng các chủng-tộc nơi mặt địa-cầu này, nếu cân công-chánh ấy thiệt tướng của nó, thì thiên-hạ không có tương-tàn tương-sát với nhau, ngày nay máu sông xương núi, họ dùng lời, dùng tiền thực hiện công-chánh đặng lòe-loẹt nghĩa lý công chánh của họ, con người chưa có đoạt đặng công-chánh thật sự vì cớ con người chưa có mặt luật Công-Bình Bác-Ái dưới thế-gian này. Bởi cớ cho nên Đức Chí-Tôn buộc cả con cái của Ngài nhứt là Thánh-Thể của Ngài thi-hành cho được thiệt tướng.

Bởi vậy có câu Thánh-Ngôn của Ngài nói: "Ngày giờ nào các con dòm thấy một lẽ bất công nào nơi mặt thế-gian này thì ngày giờ ấy chưa thành Đạo".

Hai khoản Hòa-Ước
Anh Cả Thiêng-Liêng của chúng ta là Đức Lý Giáo-Tông đã nói:
"Đức tin một khối tượng nên hình,
“Đã hiệp Vạn-Linh với Chí-Linh."

Nghĩa là Đạo Cao-Đài đã thành, nhưng từ-từ đi lên cho đến cái địa cảnh vô đối của nó.
Ta chán biết Chí-Tôn đến ký Hòa-Ước dưới thế gian này, chúng ta ngó thấy Hòa-Ước của nhơn-sanh nhứt là các liệt-cường ký với nhau khoản này, khoản nọ, khoản kia đủ thứ, ký không biết mấy khoản. Với Đức Chí-Tôn chỉ có hai khoản mà thôi:

1/ - Luật thương-yêu: Ngài định-luật cho chúng ta là thương-yêu, không phải thương yêu nhơn-loại mà thôi, mà phải thương-yêu cả toàn Vạn-Linh nữa.

2/ - Quyền công-chánh: Ngài chỉ định là quyền công-chánh. Từ thử, ta chưa ngó thấy Hòa-Ước nào mà đơn sơ như thế, mà nó oai quyền làm sao! Không thể gì thực hiện đặng! Dầu cho tận-thế loài người cũng không khi nào thực-hiện ra đặng!

Chúng ta đã hiểu và tin rằng thế nào nó cũng thành, nhưng thời gian ta không biết định đoạt, ta chỉ lương-tri, tức là lấy trí-tri để hiểu chơn-tướng của Đạo Cao-Đài, làm thế nào đem hạnh-phúc cho nhơn-loại hưởng được và tạo hòa-bình cho thiên-hạ cả Đại-Đồng Thế-Giới.
 “Chí-Tôn muốn con cái của Ngài nên Thánh thì phải làm sao?

Phải đem cả thảy vô đây, tắm rửa cho sạch-sẽ làm cho thiên-hạ muốn gần, vì đáng tôn-sùng yêu-ái mà gần.
Hình-luật Tam-giáo là nước Cam-lồ để tắm rửa linh hồn vậy.Chơn-truyền từ trước đến nay Đức Chí-Tôn để tại mặt thế trên các Đạo: Phật, Tiên, Thánh là phương để gội rửa linh-hồn mà thôi”

Thế nên phương tu phải có LUẬT và PHÁP. Nó là nhu-cầu tối yếu, tối trọng là vậy. Pháp-luật Đại-Đạo cần-yếu cho người tu cũng như chiếc cầu bắc sang sông cho  người người về đến nơi đến chốn mà mình mong đợi.    

D - ĐẠO THÀNH DO 3 NGƯỜI

1 - Ba vị Tướng soái của Đức Chí-Tôn:
 “Hiệp-Thiên-Đài là nơi Thầy ngự, cầm quyền Thiêng Liêng mối Đạo, hễ Đạo còn thì Hiệp-Thiên-Đài còn”.

 “Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-Pháp Chưởng quản, tả có Thượng-Sanh, Hữu có Thượng-Phẩm, phần của HỘ PHÁP  Chưởng quản về Pháp” (PCT)

Dưới quyền HỘ-PHÁP có 4 vị:
- Tiếp-Pháp        - Khai Pháp
- Hiến Pháp       - Bảo Pháp

Thượng-Phẩm thì quyền về Đạo, dưới quyền là:
- Tiếp Đạo        - Khai Đạo
- Hiến Đạo       - Bảo Đạo

Dưới quyền Thượng-Sanh có 4 vị Thời quân chi Thế:
- Tiếp Thế        - Khai Thế
- Hiến Thế        - Bảo Thế
Cả thảy 12 vị Thời-quân còn gọi là Thập Nhị Chơn quân

a/ - Đức Chí-Tôn đến trao cho một nền VƯƠNG ĐẠO lấy LỄ làm đầu: Khởi điểm bấy giờ là một tối thứ Bảy, nhằm lối thượng tuần tháng 8 năm 1925, ba Ông CƯ, TẮC, SANG, đem bàn ra sân đốt nhang  khấn-vái và  mời các vị Tiên nương. Hôm nay có Tiên-cô Đoàn-Ngọc-Quế giáng, đàm luận một hồi. Thời gian sau rồi ba Ông lại xin kết làm huynh-muội với Đấng Nữ-Tiên, Thất-Nương bằng lòng, bèn kỉnh:
* Ông Cao-Quỳnh-Cư làm Trưởng-ca
* Ông Phạm-Công-Tắc làm Nhị-ca
* Ông Cao-Hoài-Sang làm Tam-ca

Nếu mỗi vị được biểu-tượng một vạchnhư vầy sẽ có được một quẻ CÀN (Nam, đó là nét dương, biểu thị bằng vạch liền ) Còn Cô là Tứ muội (Nữ, tượng bằng một nét âm, vạch đứt nếu đặt xổ xuống xuyên qua quẻ Càn thành ra chữ VƯƠNG   Đây chính là tên thật của Thất-Nương VƯƠNG-THỊ LỄ còn cái tên Đoàn Ngọc-Quế là một giả danh. Phải chăng Đấng Thượng-Đế đã sắp đặt cho Diêu-Trì-Cung đến để báo trước cho ba Ông biết rằng Thượng-đế sắp giao cho một mối Đạo nhà là một nền Vương Đạo, lấy LỄ làm đầu, đồng thời dẫn-dắt cho ba Ông lần vào con đường đạo-đức.

b/ - Thử-thách về Đức-tin

Trong suốt thời-gian đầu, Đấng Đại-Tiên AĂÂ đến với ba ông: CƯ, TẮC, SANG bằng tình thân-thiết, dạy thi văn hoặc giải-thích những điều gì khó-khăn mà các vị này cầu hỏi; tuy nhiên các vị phải cam-kết với Ngài trong các điều-kiện mà Ngài muốn.
 “Muốn  cho Bần-Đạo đến thường, xin chư vị nạp mấy lời yêu-cầu của Bần-Đạo sau đây:        
- Một là đừng kiếm biết Bần-Đạo là ai?
- Hai là đừng hỏi đến Quốc-sự,
- Ba là đừng hỏi đến việc Thiên-cơ.”

Quí vị xây bàn đều hứa giữ ba điều ấy.
Cho đến khoảng tháng 9 năm Ất-Sửu, Đấng AĂÂ giáng nói với ba ông như vầy:
 “Tôi nói lộ Thiên-cơ, trên Ngọc-Hư bắt tội, xin Tam vị Đạo-hữu cầu trên Ngọc-Hư-Cung tha tội Tôi, nếu không lo cầu giùm thì tôi sẽ bị phạt”; Ba ông Cư, Tắc, Sang rất lo lắng. Ba Ông vọng bàn hương án cầu Diêu-Trì Cung. Ngài Cao-Quỳnh-Cư có làm một bài thi rồi đọc trước bàn hương-án như vầy:
THI
Vái-van xin quí Cửu-Thiên-Nương,
Tâu với Ngọc-Hư tỏ ngọn nguồn.
Vì nghĩa Ă.A. mang trọng tội.
Nghĩ tình đồng Đạo để tình thương.
                                      (Mồng 3-9 Ất-sửu 1925)

Duyên thơ giữa các vị ngày một khắn-khít hơn, nhờ đó mà Diêu-Trì-Cung đến với ba Ông để xướng hoạ thi văn làm nhịp cầu nối liền Tiên tục. Trong số ấy phải kể đến ba vị Tiên-nương có trách-nhiệm trực-tiếp là: Thất Nương, Lục Nương, Bát-Nương.

Riêng phần ở trần-giới thì đây là cơ hội tốt để các bậc lương-sanh lần-lượt đến để cứu vớt quần-sanh, thế nên về sau trong Hội-Thánh có đầy-đủ Chức-sắc Hiệp Thiên Đài, Cửu-Trùng-Đài.     
Chính lúc xây bàn để cầu các Đấng vô-hình giáng điển linh, các bậc tiền-bối này được cơ-hội làm quen với các Đấng Thiêng-liêng cũng là duyên khởi  mà Chí-Tôn đã sắp đặt hầu mở đường xuất Thánh, cũng là cơ hội Đức Chí-Tôn đến trao cho một mối Đạo nhà như ngày nay.

c/ - Huyền-vi mầu nhiệm của Đạo trời:
- Đức Chí-Tôn đến với giả danh là AĂÂ:
- Thất-Nương Diêu-Trì-Cung VƯƠNG-THỊ LỄ đến với giả danh Đoàn-Ngọc-Quế, hẳn  phải có lý-do:
1/ - Là thời-kỳ ẩn-danh của Đức Chí-Tôn,của Thiêng
Liêng chuẩn-bị đến trao mối Đạo nhà cho Việt-Nam.
2/ - Là thiêng-liêng đưa cái giả là cái bóng đến trước rồi cái hình là thật đến sau, tức nhiên Thể-pháp có trước mới bày ra Bí-pháp sau.
3/ - Riêng Đức Chí-Tôn tạo sự thân-mật, gần-gũi để tình-cảm đến một cách tự-nhiên, không gượng ép.
Như vậy, nhìn về các con số thì:
* Đức Chí-Tôn là THẦN, có đủ 3 con số: AĂÂ
 ( một mà ba).

* Diêu-Trì-Cung là KHÍ, có đủ 3 nhân-vật:
Thất-Nương, Bát-Nương, Lục-Nương (ba mà một là cùng ở Diêu-Trì-Cung)

*Về hữu-hình là TINH, các Đấng gọi là “Tam vị Đạo-hữu” là ba Ông: Cư, Tắc, Sang (ba mà một).

Ba lần con số 3 (3x3) là 9 ấy là một con số huyền diệu, nhiệm-mầu, huyền-diệu hơn hết là số đó, nó là cơ chuyển-biến đến mực độ tận-thiện, tận-mỹ, toàn năng, toàn tri. Thế nên trong cửa Đạo có Cửu-Trùng-Đài hiệp với Cửu-Trùng-Thiên, người tu-hành phải nương vào đây đi theo con đường Cửu-Thiên khai-hóa để bước vào Cửu phẩm Thần Tiên mà đạt vị nhờ khai thông Cửu khiếu.

Số 9 nó là (1+8) tức là cơ vận-hành trong trạng thái tĩnh được lý Thái-cực thúc-đẩy thêm cho nên năng-tri sáng-suốt.

Nó cũng là 3+6, 3 và 6 đều là hai lý nhiệm mầu và đều ở trong trạng-thái động.
Nó cũng có nghĩa là 3x3 hay ba bình phương là cấp bực Tam ngôi biến-hóa vận-hành suốt thông trời đất.
Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hiệp về

cơ qui nhứt. Phép toán-học thử đến 9 rồi trở về 0 (không) là vậy.Cùng-cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh nguyên-thủy.
Số 3 là con số khởi thuỷ, con số căn bản, để rồi luỹ thừa lên mới thành 6, 9,12, 24,36…

2 - CƠ KHỞI THUỶ

1/ - Đạo thành hình do ba người:
a/ - Ba người đó là ai ? Chính là ba vị Tướng soái của Thầy đã chọn lựa sẵn cho xuống trước, ngày nay Thầy đến lập nền chơn giáo chỉ qui-tựu lại mà thôi, nên tất cả đều có đầy đủ để giao cho sứ-mạng xây cơ chuyển thế, khai Đạo cứu đời.

           Đức Hộ-pháp có nói rằng: “Dùng lương sanh để cứu vớt quần-sanh”. Những ngày đầu, Đấng AĂ  gọi ba vị này là “Tam vị Đạo-hữu”, một từ thân-mật là các ông:
- Cao-Quỳnh-Cư, sau đắc phong là THƯỢNG-PHẨM,    tuổi Mậu-Tý  (1888)
- Cao-Hoài-Sang, sau đắc phong là THƯỢNG-SANH,  tuổi  Tân-sửu  (1901)
- Phạm-Công-Tắc, sau đắc phong là HỘ-PHÁP, tuổi          Canh-Dần  (1890)

Thầy đã ân-cần nhắc-nhở:
 “CƯ, TẮC, SANG, ba con đã lãnh mạng lịnh lớn lao vẹt đường tăm-tối trong buổi ban sơ. Thầy lại khiến ba đứa phải liên-hiệp nhau mới có thể xây đắp nền Đạo cho đến cùng”.          

Đức Chí-Tôn cũng nói rõ về phần yếu-trọng  của ba người nữa:
 “CƯ, TẮC, SANG, con ơi! Lập Đạo thành đặng chăng tại nơi ba con. Con đã nghe quyền-hành của yêu quỉ Thầy cho lớn đến bực nào? Chẳng phải là cơ thử Thánh, Tiên, Phật mà thôi, lại còn là Công-bình thiêng liêng của Tạo hóa. Nếu hai đầu cân chẳng song bằng thì tiếng cân chưa đúng lý. Tự nơi các con làm thế nào cho bên Thánh-Đức nặng hơn tà-mưu thì làm mới ra công quả. Các con chớ ngại, ngày nay Đạo đã khai tức là Tà khởi. Vậy các con phải làm hết lòng, hết sức mà gìn-giữ lấy mình, đã chẳng phải giữ mình các con mà thôi, lại còn giữ-gìn cả Môn đệ Thầy nữa.

 “Nội nơi Nam-phương này, như có mặt cho Tà-thần yêu-quái sợ thì duy có ba con. Vậy ráng giữ-gìn cho thanh-khiết. Thầy nói thật cho các con hiểu trước rằng: Cả Môn-Đệ Thầy đã lựa chọn, lọc-lừa, còn lại lối nửa phần  Thầy cho yêu quái lấy danh Thầy mà cám-dỗ, đi bao nhiêu thì mất bấy nhiêu. Các con chớ buồn vì Thiên-cơ phải vậy, thi nhiều đậu ít là lẽ hằng. Các con liệu phương thế mà nâng đỡ đức-tin của Môn-đệ Thầy lên cao hằng ngày, ấy là công-quả đầu hết.”(ĐCT Giáp-Dần 1926) Đức Chí-Tôn cho biết Đạo thành do ba người. Sự thành hình như vậy phải trải qua ba giai đoạn:

2/ - Giai đoạn I là thời-kỳ khởi thủy do hai cơ quan:

a/-Tam Đầu chế Hiệp-Thiên-Đài: gồm có ba vị tính theo tuổi tác, nghĩa là thiên khai ư TÝ, Địa tịch ư SƯU, Nhân sanh ư DẦN, thì:
- Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư, tuổi Mậu-Tý (1888)
- Thượng-Sanh Cao-Hoài-Sang, tuổi Tân-Sửu (1901)
- Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc, tuổi Canh-Dần (1890)
Nếu xếp thành quẻ thì số 1 và 3 là  Dương, 2 là Âm, thì Hiệp-Thiên-Đài là quẻ Ly:
“Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền Hộ-Pháp chưởng quản tả có Thượng-Sanh, hữu có Thượng-Phẩm. Thầy lại chọn Thập nhị Thời Quân, chia ra làm ba:

- Phần của Hộ-Pháp chưởng quản là Chi Pháp: Lo bảo vệ Luật Đời và Luật Đạo, chẳng ai qua luật mà Hiệp Thiên-Đài chẳng biết.    

Thầy khuyên các con lấy tánh vô tư mà hành đạo.
Thầy cho các con biết trước rằng, hễ trọng quyền thì ắt trọng phạt”.
- Thượng-Phẩm thì quyền về phần Đạo: Lo về phần Đạo nơi Tịnh Thất, mấy Thánh Thất đều xem sóc chư môn đệ Thầy, bênh-vực chẳng cho ai phạm luật đến khổ khắc cho đặng.      
- Thượng-Sanh thì chưởng quản Chi Thế, lo về phần Đời.      

Ba vị này là người được Đức Chí-Tôn lựa chọn:
Ý-nghĩa về các con số:
Mới bắt đầu số 1, phát sinh ở hướng Bắc, tức là cái vi-dương (vi dương đây là ĐẠO). Bắt đầu có ở hướng Bắc cho nên trên quả địa-cầu lúc đó có đại-lục mà chỉ ở hướng Bắc hưởng thụ cái khí vi-dương đầu tiên của sao Bắc-đẩu. “Thiên nhứt sanh thủy”.

Rồi dần dần phát-triển qua hướng Nam, tức là số 1 tiến dần đến số 2; số 2 ở về hướng Nam thể trên, tức là đaị-lục của Bắc Á-châu (chi THẾ xuất-hiện).
Bấy giờ sang hướng Đông đến số 3. Số 3 tức là số của Thiếu-Dương (đây là lúc thịnh hành của cơ Pháp) cho nên trong thời thái-cổ theo sự phát triển về thời gian, vì lẽ ấy mà  thời đó ở Á Đông văn-minh trước Âu-Tây, mà chính cái văn minh tinh-thần vô-cùng sáng-suốt thấu hiểu được trời đất. Do lẽ ấy mới có câu:

Thiên khai ư Tý. Địa tịch ư Sửu. Nhơn sanh ư Dần.
Tức là Tý-hội khai thiên, qua Sửu-hội sanh địa-cầu và Dần-hội thì sanh  nhơn-loại. Thiên, Địa, Nhơn gọi là Tam tài hay là Thiên-hoàng, Địa-hoàng, Nhân-hoàng

3 - “Nhân sanh ư Dần”:
Đạo Cao-Đài lấy giờ 01, ngày 01, tháng 01, năm Bính Dần (dl: 13-02-1926) làm Kỷ nguyên Đạo lịch của Đại Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Như thế năm Bính Dần là năm Đạo lịch thứ nhứt (Như vậy: giờ 1 là Giáp Tý, Ngày 1 cũng là Giáp Tý. Tháng 1 là Bính Dần, năm Bính Dần. Trở lại một là 3, mà 3 cũng là 1)

Vì năm Dần là năm thứ 3 (Tý, Sửu, Dần) là một sự tròn đầy. Nếu số 1 là số Trời “Thái Dương” thì số 3 là số của người “Thiếu Dương” Thiên nhơn tương hợp nên nói “một mà ba, mà ba cũng là một”. Số 3 tượng là CÀN “Tam Dương khai thái” là hình tam giác đều, tượng Tam giáo. Ngày giờ này Đức Chí Tôn khởi lập Đại Đạo, Tôn chỉ “Qui Tam giáo” thì Thầy đứng chủ trung Qui Nguyên Hiệp Nhứt mà thôi. Như vậy nhìn vào 2 thành số trên thì: ba con số 1 hiệp lại là 3 (Tam Dương). Năm Dần là 3 (Tam Âm). Càn Khôn định vị, thật tuyệt vời!

Trước mặt ba vị: Cao Quỳnh Cư-  Phạm Công Tắc – Cao Hoài Sang. Đức Thượng Đế hỏi rằng:
“Thầy muốn dùng các con mà khai Đạo, các con có dám lãnh trọng-nhậm ấy chăng?”.

Ba ông bạch rằng: “Trong các con từ bé chí trưởng, chẳng thông Đạo lý chi, duy nhờ Đức Chí-Tôn dạy bảo bấy lâu, thì sự biết chưa đặng trong muôn một, e cho chẳng xứng đáng mà lãnh trách-nhậm lớn lao ấy”.

Đức Ngài nói rằng:
“Chi chi có Thầy gần bên các con, miễn là các con khứng chịu, gắng để trọn tấc lòng, thì chẳng hề chi.”.

Khấn vái xong rồi thì vào nhà phò loan, Đức Chí Tôn giáng dạy như vầy:
- “Thầy cho các con hiểu rằng: Buổi tạo Thiên lập Địa, Thầy sanh loài người ra nhằm ngày Dần “Nhân sanh ư Dần”. Vậy từ đây, Thầy dùng các con, làm tay chơn, mà gầy dựng nền Chánh-giáo. Lại cũng kể ngày nay là ngày phát khởi nguồn Đại-Đạo, lấy hiệu Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, còn Thầy thì Tá-danh Cao-Đài Tiên-Ông Đại Bồ-Tát Ma Ha-Tát.”
Đấng ấy đã thật sự đến dạy Đạo tại phương Nam.

4 - Về mặt Tôn giáo qua lý Dịch:
Bởi vì, trên tinh-thần một Tôn-giáo muốn sống bền vững và phát-triển tốt đẹp, thì Tôn-giáo ấy phải có đủ Tam-bửu: TINH, KHÍ, THẦN.
- Về Thần: thì khi  lập Đạo Cao-Đài, Thần đã sẵn có do Đức Chí-Tôn làm chủ linh-hồn của Đạo-giáo.     
- Về Khí: thì buổi phôi-thai chưa mấy tựu thành, nên Đức Chí-Tôn mượn hình thể của Diêu Trì-Cung làm Khí.
- Về Tinh: thì hình thể của Đạo Cao-Đài tức là ba Chi: Pháp- Đạo- Thế, tượng-trưng là: Thượng-Phẩm, Hộ Pháp, Thượng-Sanh (là ba ông Cư, Tắc, Sang)           

Ấy vậy:
 “Chúng ta xét thấy ĐẠO CAO-ĐÀI còn hạnh-phúc nhiều hơn các Tôn-giáo khác, nếu nhận quả-quyết thì được có ba người, mà ba người tức nhiên nhiều hơn thiên hạ rồi. Cái thiệt tướng của nền Chơn-giáo Đức Chí Tôn đã hiện tượng do quyền-năng vô-đối của Ngài mà đoạt được, mà trong đó các vị thừa hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó.”

b/ - Tam đầu chế Cửu Trùng Đài:
Chức sắc Nam-phái được một đặc-ân là ba vị Đầu Sư có Thánh-danh mang chữ: NHỰT- NGUYỆT- TINH, đó là Tam bửu của trời, như:
- Thái Đầu-Sư  Thái-Minh-TINH  (Thiện-Minh)
- Thượng Đầu-Sư Thượng-Trung-NHỰT (Lê-văn-Trung)
- Ngọc Đầu-Sư   Ngọc-Lịch  NGUYỆT  (Lê-văn-Lịch)

Nhựt- Nguyệt- Tinh chính là Tam-bửu của Trời  mà nay Đức Chí-Tôn đã đem đặt vào Hội-Thánh Cửu Trùng Đài của nền Đại-Đạo. Hội-Thánh Đại-Đạo chia ra làm hai Đài hữu-hình:
- Hiệp-Thiên-Đài là cơ-quan bảo tồn luật-pháp Đạo.
- Cửu-Trùng-Đài lo về cơ-quan giáo-hóa nhơn-sanh.

Cơ phong Thánh Cửu-trùng-Đài Nam-phái được thành lập trước, vào ngày 14 rạng ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần (dl 19-11-1.926). Với ba vị Đầu-sư này được thiên-phong vào những ngày:
- Ông Lê-văn-Trung, Thánh-danh Thượng-Trung-Nhựt, đắc  phong ngày  15-03-Bính-Dần.                                                                                
- Ông Lê-văn-Lịch, Thánh-danh  Ngọc-Lịch-Nguyệt, đắc phong  ngày 15-03-Bính-Dần.
- Ông Thiện-Minh, Thánh-danh Thái-Minh-Tinh, đắc phong ngày  13-10 Bính-Dần.

Nhưng Đạo là lý, mà lý của vũ-trụ vốn vô-cùng. Nếu luận về Tam-bửu của Trời thì:
- TINH  là sao (tinh-tú)   có rất nhiều ( thuộc âm )   
- NHỰT là mặt trời thì có một ( nhựt thuộc dương)   
- NGUYỆT là mặt trăng, có một (nguyệt thuộc âm)  
Như vậy Cửu-Trùng-Đài là quẻ Khảm 
 (Nếu kể tam thiên thế-giới và thất thập nhị điạ là tinh-tú thì có  3.072 vì sao)

Do vậy, mà phái Thái phải có đến hai vị, là:
1 - Thái Minh-Tinh.    2 - Thái Nương-Tinh

Lý do đặt Thứ tự ba phái của Cửu-Trùng-Đài:       
Bởi theo thứ-tự BA PHÁI là Thái, Thượng, Ngọc:
- Phái Thái thuộc Phật,
- Phái Thượng thuộc Tiên.
- Phái Ngọc thuộc Thánh.

Trong Tam-Kỳ Phổ-Độ này thì:
- phái Thái có hai vị, mang chữ TINH, số 2 thuộc âm         
- phái Thượng có 1vị, mang chữ NHỰT, số 1 thuộc dương
- phái Ngọc có một vị, mang chữ NGUYỆT, thuộc âm      

Vậy: Cửu-Trùng-Đài thuộc quẻ Khảm khảm vi thủy

Còn lại BÁT-QUÁI-ĐÀI là nơi thờ Đức Chí-Tôn và các đẳng Thần, Thánh, Tiên, Phật, thuần dương, thuộc quẻ CÀN   (Càn vi thiên, Càn là trời vậy).

Kết-luận về ba Đài:
- Bát-Quái Đài, là quẻ  Càn (càn vi Thiên).
- Hiệp Thiên-Đài, là quẻ Ly    (ly vi Hỏa).
- Cửu Trùng-Đài, là quẻ Khảm (khảm vi thủy).
 “Thể Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương theo chữ HÒA mới toan thành lập. Chí-Tôn định lập thành Hội Thánh đặng thay thế hình ảnh của Người, thì cũng tùng theo phép tạo-hóa cá-nhân mà gầy nên ảnh-tượng:
- Cửu-Trùng-Đài là thi-hài, ấy là Tinh.
- Hiệp-Thiên-Đài là chơn-thần, ấy là Khí.
- Bát-Quái-Đài là linh-hồn, ấy là Thần.

Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong thành Đạo đặng”

5/ - Thời kỳ thứ hai là kiến thiết:  
Qua thời-kỳ kiến tạo để lập công, dành cho người biết dâng công đổi vị, thì bên Cửu-Trùng-Đài chính Đức Quyền Giáo-Tông về mặt hữu-hình đã góp vào một công quả to lớn để xây dựng Đức-tin, làm nền tảng Đại-Đạo ngày nay cùng với hai vị: Thượng-Phẩm và Hộ-Pháp bên Hiệp Thiên-Đài.Với lời minh-chứng của Đức Hộ Pháp
“Bần-Đạo xin nhắc lại, xin làm chứng cho cả thảy con cái Đức Chí-Tôn: Nam Nữ cũng vậy. Nếu toàn thể con cái của Ngài một đôi triệu chơn-linh mà có đức-tin vững chắc như đức-tin của:
- Đức Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư.
- Đức Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt.
- Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc.

Với lý do:
 “Cả toàn con cái Đức Chí-Tôn buổi nọ còn lại có ba người. Thật ra hồi ban sơ chỉ có ba người. Ba người ấy thiên-hạ kêu là ba người lỳ.

Bần Đạo nói không có gì, Đức Chí Tôn đã đến một cách tình cờ, một cách không ai tưởng tượng được, khi Ngài đến thì chỉ có Đức Cao Thượng-Phẩm và Bần-Đạo mà thôi, về sau Bần Đạo và Đức Cao Thượng-Phẩm mới đến nhà Đức Quyền Giáo-Tông Thượng-Trung-Nhựt đặng Chí-Tôn chuyện vãn cùng người”.

Và Ngài nói: “Chúng tôi nhứt tâm, nhứt trí quyết làm cho thành,  cho vừa lòng Đức Chí-Tôn. Bởi vì không biết duyên cớ nào chúng tôi hiểu rằng: chúng tôi phải báo hiếu cho Đức Chí-Tôn và tự nhiên quyền-năng thiêng liêng giúp chúng tôi biết ĐẠO CAO-ĐÀI này tương-lai sẽ cứu quốc, cứu chủng-tộc và giống-nòi.”

Chúng tôi hiểu rõ-rệt như thế, nên ba Anh em chúng tôi nhứt định hy-sinh kiếp sống mình, hy sinh cả hạnh phúc để tạo cho nên tướng, nhứt quyết như thế nào, bất kể sống chết. Cả ba chúng tôi, nhứt định phải làm cho Đạo Cao-Đài thành, thành đặng cứu khổ, cứu chủng-tộc chúng tôi. Sự quyết chí về tương-lai như thế, nên phải bỏ Chùa Gò-kén, tức là chùa Từ-Lâm-Tự, để về đây, về làng Long Thành Tây-Ninh để lập nên Toà-Thánh bây giờ đây.

 Bần-Đạo thú thật, buổi nọ: Chỉ có ba Anh em, ôm sứ mạng thiêng-liêng âý nơi mình. Lãnh sứ-mạng khó khăn thì tưởng đâu Đạo Cao-Đài thì cũng như Đạo Phật hay Minh-sư, Minh đường. Đáo-để, cạo đầu vô chùa làm Thầy chùa tu là cùng, tưởng dễ-dàng lắm, kiếp sanh nơi thế, thời bấy giờ đã khổ-não tâm-hồn và xác thịt, lệ thuộc như thế. Ổng biểu tu, nào dè mở Đạo trong thời-gian ngắn-ngủi, không bao lâu thấy cả con cái của Ngài đến cùng Ngài cả muôn cả triệu, chừng đó mới biết sợ-sệt. Chính mình buổi nọ, Đức Quyền Giáo-Tông ra hậu-điện, Người hỏi Bần-Đạo:  làm cái gì vậy?”…

Xem thế, thì người tu lập công bằng con đường Cửu Phẩm Thần Tiên theo gương của Đức Quyền Giáo-Tông cũng đoạt được ba hào dương của quẻ Càn, tức là đắc Đạo vậy (đó là chiết Khảm điền Ly phản vị Càn là thế ).

Bởi giai-đoạn kiến-thiết có ba vị:
- Thượng-Phẩm, biểu tượng hào dương quẻ Ly     
- Thượng-Trung-Nhựt, hàodương quẻ Khảm        Càn   
- Hộ-Pháp biểu tượng hào dương quẻ Ly                
Như thế, Đức Chí-Tôn đã mở con đường phụng-sự vạn-linh để hiệp về nhứt linh vậy.

6 - Thời-kỳ định-vị:
Nếu lập công bằng con đường Phước-Thiện (nằm trong Hội-Thánh Hiệp-Thiên-Đài) thì hãy xem gương của Ngài Khai-Pháp Trần-Duy-Nghĩa.

Đức Hộ-Pháp giải-thích rằng:
 “Từ thử tới giờ nếu nói về kẻ đảm-nhiệm gánh vác Hiệp-Thiên-Đài thì Bần-Đạo quả-quyết cho Ba người  thôi. Ban sơ có Cao Thượng-Phẩm, sau có KHAI PHÁP và Bần-Đạo thôi”.

Ngài Khai-Pháp Chơn-Quân tuổi Tý (1888) là người có tuổi đứng đầu trong Thập Nhị Địa Chi, mà cũng đứng đầu của Thập-Nhị Thời-Quân, tức là con số 1, cũng biểu tượng bằng hào Dương, nếu đặt vào giữa quẻ Ly (Hiệp Thiên-Đài) sẽ biến thành quẻ Càn:

- Thượng-Phẩm, hào dương quẻ Ly             
- Khai-Pháp, số 1tượng hào dương              Quẻ Càn
- Hộ-Pháp, hào dương quẻ Ly                               

Cơ định vị cũng đúng vào quẻ Càn.     
Ba vị trên là Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài đó vậy.
Ngài Khai-Pháp là người đã thừa lịnh Đức Hộ-Pháp đến nhà tịnh nơi Trí-Giác-Cung Địa-linh-động là nhà tịnh của Hiệp-Thiên-Đài KHAI PHÁP cho cơ Đạo nhằm lúc khởi công kiến-tạo vào năm Mậu-Tý (1948).

Đức Hộ-Pháp kết luận:
 “Chính mình Hộ-pháp là người cầm đầu trong Hiệp-Thiên-Đài, trách-nhiệm đó nặng-nề làm sao đâu! Khi ấy chỉ có ba người HiệpThiênĐài lãnh phận-sự Thầy”
Chí-Tôn nói: “Thầy muốn nơi nào có dấu chơn của ba con đến thì nơi ấy hết khổ”. Bởi:
 “Cái khổ ách của nhơn-loại là cùng khắp thế gian, nên Thánh-ý Thầy muốn giao cơ cứu khổ cho con phải làm thế nào nên ngọn cờ cứu-khổ, để giải khổ cho nhơn-sanh cùng khắp mặt địa-cầu này” (17-4-Ất-mùi 1955)
Nhìn chung thì lập công bằng con đường Cửu Thiên khai-hóa như Đức Quyền Giáo-Tông hay bằng con đường Thập-nhị đẳng cấp thiêng-liêng, là cơ-quan cứu khổ của Phước-thiện cũng được hiệp nhứt với Trời, tức là hội hiệp cùng Đức Chí-Tôn bởi hình ảnh các Ngài là đã tượng-trưng cho sự HIỆP TAM-BỬU tức nhiên hiệp TINH KHÍ THẦN đó vậy!

Tóm lại: Đạo Cao-Đài thành hình do ba người, nhưng phải trải qua ba giai-đoạn:
Như vậy:
1 - Cơ khởi thủy:Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, Hộ-Pháp (giữa)     
2 - Cơ kiến-thiết:Thượng-Phẩm, Giáo-Tông, Hộ-Pháp (trái)
3 - Cơ định-vị:Thượng-Phẩm, Khai-Pháp, Hộ-Pháp    (phải)

7 - Tại sao Đạo Cao-Đài thành hình
chỉ có ba người?

 “Bởi cái thiệt tướng của nền chơn-giáo Đức Chí Tôn đã hiện tượng do quyền-năng vô đối của Ngài mà đoạt được, mà trong đó các vị thừa-hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình nắn nên tướng của nó.”
Hiện nay các bậc tu-hành tốn không biết bao công trình tìm pháp để tu tắt, hòng mong cho mau đắc Đạo:
- Nơi cửa Đạo Cao-Đài này Chí-Tôn đã khai Pháp cả rồi qua hình ảnh Khai-Pháp Trần-Duy-Nghĩa đó.
- Đức Hộ-Pháp Phạm-Công-Tắc là người nắm pháp thiên-điều, thì Phạm chính là cửa Phật. Như vậy, người tu muốn đến nhanh trong cửa  Phật thì hãy bấm “Công-tắc” như một nút điện vậy.
- Còn con đường để đi đến nơi là con đường TRUNG, NGHĨA (Lê-văn-Trung, Trần-Duy-Nghĩa). Ba nguơn-linh cao-trọng ứng vào Tam tài đó vậy.          

 “Trong Thánh-ngôn đề trái địa-cầu là 68, mà nếu cả Cửu-Phẩm Thần Tiên mỗi kiếp sanh đi có một phẩm, thì cả triệu năm cũng chưa đoạt đến địa-vị đặng.”

Đức Chí-Tôn nói tiếp:
“Các con, trong một kiếp sanh đã đoạt pháp là vì các con đi con đường tắt, đó là Bí-pháp chơn-truyền của Đạo.”

Chính Đức Hộ-Pháp xác nhận:
 “Chúng ta xét lại thấy ĐẠO CAO-ĐÀI còn hạnh phúc hơn các nền Tôn-giáo khác, nếu nhận quả-quyết thì có ba người, mà ba người tức nhiên nhiều hơn thiên-hạ rồi.

Cái thiệt tướng của nền Tôn-giáo Đức Chí Tôn hiện tượng do quyền-năng vô đối của Ngài mà đoạt đặng, trong đó các vị thừa-hành mạng lịnh của Ngài đã vẽ nên hình, nắn nên tướng của nó.

Bần-Đạo kiếu lỗi cùng con cái của Ngài không phải tự kiêu hay là tự đắc, chính tay Bần Đạo có một phần khá lắm, vì cớ Bần-Đạo rủ chúng ta dùng phép hồi-quang phản chiếu đặng định tướng diện của mình, cốt-yếu là một phần tử trong nền Tôn-giáo. Hễ mình coi chơn tướng của mình, rồi tổng số các chơn tướng đó làm chơn tướng của Đạo. Bần-Đạo thấy Đạo Cao-Đài nên hình đặng tức là thành tướng thương-yêu.

Ta không có mơ vọng và không có lường gạt tâm-lý nhơn-sanh, trước mặt mỗi người đều thấy, hỏi do quyền năng nào tạo thành quyền-lực ngày nay?

Quyền tạo ngày nay do luật Thương-yêu mà thành tướng. Vậy mà nếu do luật Thương-yêu thành tướng thì không có quyền-năng nào tàn phá nó đặng, nó có sợ chăng là sợ luật thù hận. May thay, cả lực-lượng thù hận cũng không xung-đột được  bởi có bàn tay thiêng-liêng gạt thù hận ra khỏi rồi.

Nó nên hình bởi sự thương-yêu, trưởng thành trong sự thương-yêu bởi hình chất của thương-yêu. Hễ càng ngày càng lớn lên càng tráng-kiện, nó sẽ làm Chúa cả thù hận không hề xâm-lấn nó đặng.

Nói quả-quyết Bần-Đạo đã đánh tan thù hận ra, khi các đảng-phái dùng quyền-lực đặng chiếm ngôi vị của Chí Tôn để tại mặt thế-gian này. Bần-đạo đã can-đảm dùng quyền của Bần Đạo đánh ngã hết đặng bảo-trọng hình tướng thương-yêu của Đạo, Bần-Đạo lỗ vốn cũng nhiều, Bần-Đạo gánh lấy cả thù hận ấy đặng bảo-tồn hình thể của Chí-Tôn cho trọn thương-yêu”

Đó là Tam đầu chế của HIỆP-THIÊN-ĐÀI
Sự Huyền-diệu của con số 3:
Số 3 là do 1 với 2 hỗn-hợp lại mà biến ra 3. Ba tức là cơ-quan hữu tướng cùng vô tướng hiện có ở càn-khôn vũ trụ này.

Số 3 là cơ-sở của Tam thể: Phật, Pháp, Tăng, nên nó vừa có năng-lực huy-động mà cũng có năng-lực dung hòa. Vật nào có số 3 là vật ấy thuộc bản thể cứng rắn, nhiều hành-động.

Số 3 là một con số thiêng-liêng mầu-nhiệm và nhiều huyền-bí nhất. Trong nền Đại-Đạo con số 3 đã tác động mạnh-mẽ và chi-phối đến mọi vấn-đề.

Qua các hình ảnh như Tam kỳ, Tam giáo qui nguyên, Tam thánh, Tam-Trấn..

Bởi:
Cơ-quan quản-trị gồm có 3 ngôi: Phật, Pháp, Tăng.
- Phật cầm quyền-năng của chơn-linh.
- Pháp cầm quyền-năng của khí-thể tức là cơ sản xuất hữu hình, cầm quyền sự sống của vạn loại, vì khí-thể là chất sanh vạn-vật.
- Tăng là cầm quyền-năng nuôi sống thể hài.

Đấy là quyền-năng của ba ngôi:       
Số 3 là tượng-trưng cho cơ HÒA:
 “Thể Đạo của Chí-Tôn cũng phải nương theo chữ Hòa mới toan thành lập. Chí-Tôn định thành Hội-Thánh đặng thay thế hình ảnh của Người, thì cũng tùng theo phép tạo-hóa cá-nhân mà gầy nên ảnh-tượng:
* Cửu-Trùng-Đài là thi-hài, ấy là Tinh
* Hiệp-Thiên-Đài, ấy là Khí
* Bát-Quái-Đài là linh-hồn, ấy là Thần.

Nếu cả ba mà không tương hiệp, thì khó mong  thành Đạo cho đặng. Nếu có một quyền-hành nào tại thế này mà làm cho  thân-thể Chí-Tôn phải chia phui manh-mún ra đặng thì là Đạo Ta là giả Đạo, tất nó phải bị tiêu-diệt trong một lúc ngắn-ngủi chi đây. Còn như quả là Chí-Tôn vì thương-yêu con cái của Người, chính mình đến lập Đạo đăng giải thoát cho chúng sanh, thì những mưu-chước của tà-quyền ngăn cản bước Đạo của Thầy khó mong nghịch mạng với Chí-Tôn, ắt là không mong bền vững”.

8 - Muốn được vậy thì ở con người phải thế nào?

 “Thân-thể cho mạnh-mẽ tinh-vi, đừng để sa-đà vào lục dục thì là thuận cùng trí lự khôn ngoan .
Khí-lực cho cường thạnh thanh-bai, đừng để đến đỗi mê-muội bởi thất tình, thì trí lự khôn ngoan thuận theo linh-tâm mà nẩy-nở.

Linh-tâm phải định-tĩnh từ-hòa, đừng để đến đỗi mờ-ám bởi tội-tình, thì thuận với lòng trời, hiển linh tại thế  đặng đoạt phép huyền-vi.

Thân là TINH, lực là KHÍ,  trí là THẦN.
Nói rõ ra thì TINH là thân thể, KHÍ là điển lực, nghĩa là trí-lự; THẦN là linh-hồn; ba cái báu của mình ngày nào tương đắc, nghĩa là hòa-hiệp cùng nhau, thì người mới mong đắc Đạo. Cơ Đạo của Chí-Tôn đến lập buổi Hạ-nguơn Tam-kỳ phổ-độ này duy lấy một chữ “hòa” làm tôn-chỉ”
&

E- Tam lập:
Vấn đề tự lập là vấn đề mỗi người phải tự lo:
Thầy dạy (Ngày 15 Avril 1927 (Phú-nhuận)

“Máy Thiên-cơ các con chưa rõ; các con cứ tưởng lầm rằng Thầy không kềm chế kẻ vô lương đặng. Các con hằng muốn thấy kẻ ấy bị hành phạt nhãn tiền, thì mới vừa

lòng các con. Nhưng Thánh-Ý Thầy không phải vậy đâu. Thầy đã nói cho các con hay trước rằng: nếu các con không tự lập ở cõi thế nầy, là cái đời tạm của các con, thì Thầy cũng không bồng ẵm các con mà đỡ lên cho đặng. Ấy vậy cái vấn đề tự lập là vấn đề các con phải lo đó. Thầy vì công lý mà khai Ðạo cho các con cũng là một phúc hạnh lớn cho các con. Nếu Thầy còn đưa tay bồng ẵm thì các con chẳng còn để ý chịu nhọc vì Ðạo, Thầy lại có nói rằng: Ngày nào các con còn trông thấy một điều bất bình ở đời nầy, thì Ðạo chưa thành vậy.

Mối Ðạo Thầy đưa cho các con phăn đầu hết, thì các con phải biết trách nhậm các con lớn lao cao thượng là chừng nào - Nếu các con không biết nghĩa vụ của Ðạo, thì sao cho xứng đáng. Vậy thầy khuyên các con cứ thìn lòng thìn nết, cho có trật tự trong Ðạo, thì tức nhiên muôn điều khó nhọc cũng tan như giá.

Các con vì Ðạo là việc công-lý mà công lý đánh đổ cường quyền, thì Ðạo mới phải Ðạo. Các con hiểu à !”

1 - Thể-pháp của Đạo Cao-Đài:
-“Nói về Thể-pháp chúng ta hân-hạnh làm sao, muốn cho chúng ta lập đức chính mình Đức Chí-Tôn đã cho chúng ta mượn danh thể của Ngài, chúng ta đã làm Thánh-thể của Ngài nơi mặt thế của Ngài.

Ôi ! Quyền-lực về phương-pháp lập đức đối lại với cảnh thiêng-liêng là mua ngôi-vị của chúng ta đó vậy.
- Lập công là Ngài  đã tạo hình thể của Ngài, tức nhiên Đền-Thánh đó là Đền thờ hữu-hình của Ngài để tại mặt thế này. Chúng ta phải lập công với sanh-chúng tức nhiên lập công cùng con cái của Ngài. Ngài để cho chúng ta lập công chớ không phải làm nô-lệ cho ai tất cả. Chúng ta thấy Ngài phụng-sự cho con cái của Ngài, chúng ta lập công là tạo danh thể của Ngài, do lập công mà ra.
- Bây giờ tới lập ngôn. Chính mình Ngài, Ngài phải làm, cầm cây Cơ, bút, viết dạy chúng ta từ lời nói, việc làm; từ tánh đức, từ đạo-lý. Còn ngôn, có ngôn gì hơn Ngài nữa, để cả thảy các thể-pháp đặng chúng ta định vị chúng ta, chính tay Ngài cho chúng ta mượn cả thảy”             

Nơi Cửu-Trùng-đài “Thầy định-quyết cho Người (Giáo-Tông) có quyền dạy-dỗ mà thôi, song quyền-hành có rộng thêm đôi chút là dạy-dỗ trọn cả đường Đạo và đường đời. Nghĩ cũng chẳng chi làm lạ, vì cả Chức-sắc Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài của Thầy lập, phải tùy theo tôn-chỉ Đạo, nghĩa là xu-hướng về phần giáo-dục mà thôi. Thầy đã xưng là Thầy đặng dạy-dỗ, còn tên của Chức-sắc đủ chỉ rõ-ràng phận-sự giáo-hóa, là chánh vai của mỗi người, như Giáo-hữu, Giáo-sư, Phối-sư, Đầu-sư, Giáo-Tông…Xem rõ lại thì tên mỗi vị chẳng mất chữ “Giáo” hay chữ “Sư”. Cơ Đạo từ cổ chí kim vẫn vậy, lại hiệp lời này “Thiên mạng chi vị tánh, suất tánh chi vị Đạo, tu Đạo chi vị giáo”. Thầy chỉ cậy Hội-Thánh Thầy đã đến lập, thay quyền cho Thầy  mà dạy-dỗ cả con cái của Thầy, nghĩa là chúng-sanh đặng lành, ấy là phận-sự cần nhứt của Hội-Thánh đó”(PCT)         

Đức Hộ-Pháp nói:
“Việc đào tạo Chức Sắc là quyền sở hữu của Vạn Linh, nếu Chức Sắc trong Thánh Thể Đức Chí Tôn thiếu thì Bần Đạo có thể đổ cho quyền Vạn Linh bất lực.

Bần-Đạo đã nói do quyền Vạn Linh thì việc đào tạo Chức Sắc do quyền Vạn Linh định quyết, chớ Học Đường, Hạnh Đường lập ra trọng-yếu là để tạo nhơn tài mà thôi, chỉ có con đường chơn lý của Đạo mới đào tạo tánh đức cho họ. Ngài muốn lập thân danh phải lập Đức, lập Công, lập Ngôn.
- Lập Đức thì phải nhớ Đạo lý.
- Lập Công thì phụng sự Nhơn sanh.
- Lập Ngôn thì phải để hết trí óc tìm hiểu về triết học tinh thần, tìm tòi mọi lẽ cao sâu để thuyết minh chánh giáo.

Học đường là nơi con người học hỏi để lập Ngôn.
Lập Đức là do đường Đạo lý.
Lập Công là do quyền Vạn Linh định đoạt.

Người biết dùng ba điều trên thì nên, còn không thì phải chịu mai một và do quyền Vạn Linh biết dùng họ thì họ mới lập công với Đạo được.

2 - Trong cửa Đạo Cao-Đài có ba cách về với Đức Chí Tôn hay là có ba cách lập vị mình:
1/ - Cách thứ nhứt: Các chơn-hồn mượn xác phàm phải đi theo phẩm-trật Cửu-Thiên Khai-Hóa, tức là theo Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài, dùng tài sức mình lập công để đoạt Đạo, nghĩa là phải đi từ bậc Đạo-Hữu lên Lễ-Sanh, Giáo-Hữu, Giáo-Sư,... Phải lập công từ Tiểu-Thừa, Trung-Thừa đến Thượng-Thừa; phải ăn chay từ sáu ngày mỗi tháng đến mười ngày, rồi ăn chay trường luôn, phải tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Các chơn-hồn đi theo phẩm-trật Cửu-Thiên Khai-Hóa còn phải có tự-tín rồi tha-tín, tức là giác-nhi giác-tha đó vậy. Có tự-tín rồi tha-tín tức là có tự độ mình rồi độ chúng-sanh. Đạo Cao-Đài khác với các nền Tôn-Giáo khác là ở chỗ đó, trước hết phải độ mình, độ gia-đình mình rồi độ ngoài thân tộc, tức là độ cả nhơn-loại vậy; mình phải học để mình hiểu Đạo. Hiểu Đạo rồi, nói sao cho thân-tộc mình hiểu Đạo, chẳng những nói Đạo cho thân-tộc mình biết mà thôi, mà phải nói Đạo cho toàn nhơn-loại nữa.
- Mình học để biết Đạo là lập Đức,
- Nói Đạo cho thân tộc mình biết Đạo là lập Công,
- Độ toàn nhơn-loại là lập Ngôn.
Có làm đủ ba điểm đó mới về được với Đức Chí-Tôn bằng con đường Cửu-Thiên Khai-Hóa.

2/ - Cách thứ hai: Lập vị mình theo Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng tức là theo Hội-Thánh Phước-Thiện, nơi đây ngoài việc ăn chay giữ-gìn luật Đạo tùng theo chơn-pháp của Đức Chí-Tôn còn phải dùng Đức để lập vị mình.

Muốn lập đức phải đi từ Minh-Đức, Tân-Dân, Thính-Thiện, Hành-Thiện, Giáo-Thiện, Chí-Thiện...
Lập đức là gì? Là dùng sự thương yêu để cứu độ chúng-sanh mà Đức Chí-Tôn đã có nói: "Sự thương yêu là chìa khóa mở cửa Bạch-Ngọc-Kinh" là vậy đó.

Các đẳng chơn-hồn tái kiếp đang chơi-vơi trong "Tứ-Diệu-Đề-Khổ". Muốn thoát khổ họ phải thọ khổ, có thọ khổ mới thắng khổ. Người đi theo Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng là dạy người ta thọ khổ để thắng khổ. Muốn dạy người ta thọ khổ trước hết thì mình phải thọ khổ đã, muốn thọ khổ thì không gì hay bằng dùng Đức Thương Yêu. Cho nên bậc thứ nhất của Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng là Minh-Đức đó vậy. Có thương yêu mới thọ khổ được, ta thương Cha Mẹ ta, ta mới chịu khổ mà bảo dưỡng Cha-Mẹ lúc tuổi già, ta thương con ta, ta mới lo tảo lo tần nuôi nó khôn lớn, ta thương những người cô thế tật nguyền ta mới tầm phương giúp đỡ họ, mà tầm phương giúp họ là thọ khổ đó vậy.

Thọ khổ rồi mới thắng khổ, thọ khổ không phải một ngày, một bữa, mà phải thọ khổ cho đến nơi đến chốn, nghĩa là nuôi Cha-Mẹ cho đến tuổi già, lo cho con từ khi còn bé cho đến lúc nó tự lo cho nó được. Hai điều đó còn dễ, đến lo cho thiên-hạ hết khổ mới khó. Vì khi lo người này, hết người này đến người khác và cứ như vậy trọn kiếp sanh mới gọi là thắng khổ, có thắng khổ mới về được với Đức Chí-Tôn bằng con đường Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng.

3/- Cách thứ ba: Cách thứ ba Là cách Tu-Chơn hay là  Tịnh-Luyện cũng thế. Những người đi trong Cữu-Phẩm Thần-Tiên hay đi trong Thập-Nhị Đẳng-Cấp Thiêng-Liêng, khi mình nhận thấy là đã Lập-Đức, Lập-Công, Lập-Ngôn rồi. Hay là đã thọ khổ và thắng khổ rồi mà còn sức nữa, thì vào nhà Tịnh để được Tu-Chơn. Nơi đây các vị đó sẽ được học phương-pháp luyện Tinh hóa Khí, luyện Khí hóa Thần, tức là Tinh-Khí Thần hiệp nhứt là Hườn-Hư đó vậy.

3 - PHƯƠNG PHÁP LẬP THIÊN VỊ:
Đền Thánh ngày 19 tháng 4 năm Tân Mão (1951)

Đêm nay Bần Đạo giảng phương pháp lập thiên vị của mình. Ngày Bần Đạo đến tại Trí Huệ Cung, có đặng nhiều bức thơ của mấy bạn chúng ta cầu xin nhập vào Trí Huệ Cung một lượt với Bần Đạo nhiều lắm.

Ngày giờ ấy chính mình Bần Đạo cũng chưa biết thế nào tuyển chọn những chơn linh đem vào cửa Thiêng liêng ấy đặng. Đang lo không biết giải quyết thế nào về phương pháp nhập Trí Huệ Cung nên chưa quyết định. Nhứt là về mặt tuyển chọn không biết trả lời làm sao. May duyên thay Đức Chí Tôn thấy không thể giải quyết đặng, mới cho hội diện cùng các Đấng cầm quyền Thiêng liêng của Đạo. Khi đặng hiểu rõ rồi, Bần Đạo lấy làm hân hạnh thấy rằng: “Cái nền Chơn Giáo của Đức Chí Tôn vẫn là đường đường ngay chánh, nhứt định về thể pháp Chơn truyền, không hề mê hoặc ai cả thảy". Và Bần Đạo cũng quả quyết rằng: "Những phương pháp mê hoặc của thiên hạ về Đạo lý sẽ bị Chơn truyền của Đức Chí Tôn từ từ tiêu diệt hết".

Muốn định Thiên vị của mình, quyền Thiêng liêng đã buộc. Buộc hẳn mà chớ, phải có Tam lập của mình mới được, gọi là nhơn luân. Điều ấy Bần Đạo có truyền cho Chức Sắc Hiệp Thiên Đài hay trước rồi và dường như Đức Trần Khai-Pháp đã có thuyết minh điều ấy rồi. Bần Đạo không cần luận thêm nữa.

Bây giờ chỉ nói tại sao phải có Tam lập ấy ?
Nếu người nào không có Tam lập thì không có ở chung với ai được hết, chính mình đối với cơ thể hữu vi của đời, tức nhiên Thể pháp mà không có bằng cớ chi hết thì ai tin rằng có Bí pháp để đạt pháp, đạt Đạo. Thể pháp mà không làm đặng, Bí Pháp vẫn khó, làm sao cho rồi, nếu mà không rồi hành tàng của họ về Bí Pháp tức nhiên mê hoặc chúng sanh mà thôi. Phải có hình mới có bóng, khi nào thấy bóng tức nhiên chúng ta quyết định có hình, bóng hình phải tương liên với nhau mới đặng.

Ấy vậy Tam lập là: Lập Đức, lập Công, lập Ngôn, con người khi sanh ra mặt địa cầu nầy không có Tam lập thì giá trị con người không có gì hết. Tam lập ấy quyết định cho ta, ta phải có mới sống chung với xã hội nhơn quần được. Nếu con người không có đức thì làm sao xử sự trong gia đình, ngoài xã hội đặng. Con người không có Công thì ở với ai cũng không được. Người ta làm ngã ngửa, còn mình ngồi đó hả họng hưởng, không làm gì có nghĩa với người, với đời, thì sống với ai? Cũng như người ta thì chơn chất thật thà, hiền lương đạo đức, còn mình xảo ngữ lường gạt, không chút dạ nhơn từ, thì dầu cho người có tài tình đến mấy mà thiếu ba điều đó thì không thể gì sống với ai được hết, như vậy thì địa vị mình tại mặt thế nầy chưa rồi...

Gần đây Bần Đạo sẽ định phương châm truyền giáo Ngoại Quốc, Bần Đạo sẽ mạo hiểm, cưỡng bách tuyển chọn Chức Sắc xuất đương giáo Đạo.

Bần Đạo cho biết trước trong kỳ xin ân phong này, có người được tuyển chọn xuất dương mà Giáo Đạo. Ấy đừng nói đó là việc tình cờ.

Trong Hiệp-Thiên-Đài thì Hộ-Pháp thay quyền cho các Đấng Thiêng-liêng mà gìn-giữ công-bình tạo-hóa, bảo-hộ nhơn-loại và vạn-vật lên cho tới địa-vị tận thiện tận mỹ; người thì tận thiện còn vật thì tận mỹ. Chẳng cần lấy sức mình mà lập, chỉ bảo-hộ cho sự tấn-hóa tự nhiên khỏi điều trở ngại, nếu nói có quyền bảo-hộ thì phải có luật-pháp, lấy luật-pháp mà kềm chế nhơn-sanh cũng như các Đấng trọn lành lấy Thiên-điều mà sửa trị càn-khôn thế giới.

 “Hộ-Pháp là thể các Đấng trọn lành, Người lại giao quyền cho Thượng-Phẩm lập Đạo đặng dìu-dắt các chơn-hồn lên tột phẩm-vị của mình, tức là nâng-đỡ binh vực cả tín-đồ và chức sắc thiên-phong ngồi an địa-vị, cũng như chư Thần, Thánh điều-đình càn-khôn thế giới cho an tịnh mà giúp sức cho vạn-loại sanh sanh hóa hóa.

“Thượng-Phẩm tiếp các chơn-hồn của Thượng Sanh giao vào cửa Đạo. Thượng-Phẩm là người thể Đạo đối với hàng Thánh, ấy là người làm đầu các Thánh.

“Còn Thượng-Sanh về Thế độ, đem các chơn-hồn vào cửa Đạo, dầu nguyên-nhân hay là hóa-nhân cũng vậy, phải nhờ Người độ-rỗi. Thượng-Sanh đặng mạng lịnh chuyển thế, buộc Thượng-Sanh phải gần kẻ vô đạo đặng an-ủi, dạy dỗ, mà kể từ hạng vô-đạo trở xuống cho tới vật chất thuộc về phàm, ấy vậy Thượng-Sanh là thể Đời, Người đứng đầu của phẩm phàm-tục”   (PCT)

Bởi giá trị tinh-thần của ba Ngài được mệnh danh là Tướng-soái của Chí-Tôn nên sở hành của các Ngài đã cống-hiến cho nền Đạo thật là to-tát.

Ngài Hiến-Pháp Trương-Hữu-Đức luận về tâm-lý của ba ông:
“Luận về tâm-lý, trong ba ông, mỗi người đều có một đặc-tính mà ta cần biểu-dương để xưng tụng công đức. Dầu muốn, dầu không, toàn thể Đạo Cao-Đài đều phải ca ngợi công khai Đạo của ba vị ấy:
- Ông thứ nhứt là Thượng-Phẩm Cao Quỳnh-Cư, nhờ đức tính cao-thượng và cương quyết nên hễ làm việc gì thì cố-gắng làm cho kỳ được. Bởi thế nên khi nhận chân mối Đạo, thì ông nghe theo tiếng gọi thiêng-liêng mà phế đời hành Đạo, mặc dù lúc đó ông đang là một vị công chức của chính-phủ Pháp. Công-nghiệp của ông đã ghi đậm trang sử Đạo. (Ông là người đầu công trong việc mở mang ban đầu).
- Ông thứ nhì là Hộ-Pháp Phạm-CôngTắc. Ông là người có tánh cao-thượng và hùng khí, lại thương đời mến Đạo nên khi nhận rõ mối Đạo cũng liền phế đời hành Đạo, ông cũng là công chức lúc ấy (Ông đã đóng góp trọn đời suốt 35 năm)
- Ông thứ ba là Thượng-Sanh Cao-Hoài Sang cũng có tánh cao-thượng và yêu đời mến Đạo như hai ông kia, nhưng vì hoàn-cảnh còn phải ở lại với chức-vị của ông vì ông cũng là công-chức. Tuy nhiên ông cũng nghe theo tiếng gọi của thiêng-liêng mà hành-đạo trong lúc rảnh rang. Ông rất dày công phổ-độ lúc ban sơ và lúc cuối”.

Ba ông đều đắc Thiên-phong trước hết và đắc lịnh chấp cơ truyền Đạo phổ-độ chúng sanh. Hai ông Hộ-Pháp và Thượng-Phẩm hiệp thành một cặp đồng-tử chấp cơ phong Thánh truyền giáo, lập Pháp-Chánh-Truyền và Tân luật là Hiến-chương của nền Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ hiện giờ. Chúng ta phải nhìn-nhận đầu công của hai ông này vào bậc nhất, vì trước hết và trên hết, Đức Chí-Tôn mượn tay Thần-lực của hai ông mà lập thành Đại-Đạo cho đến ngày nay.

 “Chúng ta suy đoán chỉ có Thương-yêu, duy có một người hay nửa người thương mà các vị Giáo-chủ đã lập thành Tôn-giáo tại mặt thế này.

F - LUẬT-PHÁP ĐẠI ĐẠO

Đối với Đạo-pháp thì khi Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ thành hình năm Bính-Dần (1926) Đức Chí-Tôn cho lập ngay Pháp-Chánh-Truyền và Tân-luật, gọi chung là Pháp Luật Đại-Đạo hay là Tân Pháp Cao-Đài để làm giềng mối, làm trật tự điều-hòa.

PCT: “Thầy vì sợ phàm tâm tục tánh lập luật pháp rất nghiêm đặng đủ quyền hành buộc cả Hội Thánh, nghĩa là thân thể Thiêng liêng, hiệp làm một.

Luật thì có Tân Luật.
Pháp thì có Pháp Chánh Truyền.
Quyền thì Tòa Tam Giáo.
Ấy là: Cái còi, cây gậy, hàng rào thiêng liêng, đặng lùa cả các chuồng chiên của Thầy hiệp một; mà hại thay, kẻ chăn chẳng biết lóng tiếng còi, đoàn chiên không kiêng ghê con gậy, rào thưa rích thưa ran để đến đổi bầy sói lũ hùm bắt chiên Thầy phân thây xé thịt; cái hại ấy do tại nơi đâu?”

Đức Thượng phẩm nói:
 “Nền Đạo của Chí-Tôn cao lên bao nhiêu thì danh  thể của các Em tăng tiến lên, trọng-yếu bấy nhiêu và trách nhiệm phải thế nào?

Các Em cần lo trau-giồi cho đáng giá để làm gương mẫu hướng-dẫn quần chúng noi bước  theo con đường đạo đức và lập quốc buổi tương lai đã đến vậy.

Trong phương-diện hành-đạo có ba điều nên chú-ý
- Một là Quyền.
- Hai là Luật.
- Ba là Pháp-điều của Đức Chí-Tôn vậy.
- QUYỀN là giáo-hóa, dìu-dẫn chúng sanh vào khuôn linh đạo-đức.
- LUẬT  là thương-yêu, rộng dung tha-thứ cho kẻ lỗi biết ăn-năn.
- PHÁP là giữ công-bình, chánh-trực.

Nếu có kẻ không nghe lời giáo-hóa, cố tâm phạm luật thì người cầm quyền cai-trị lấy Thánh đức mà định hình phạt là cốt-yếu cạo gọt cho nên hình người, chớ không phải kẻ cầm quyền mà để phạm vào tội ác sát nhân, bởi Đạo-quyền gọi là Thánh-trị chớ không phải phàm trị. Các em nên nhớ!” (10-10 Canh-dần 1950)

Đức Quyền Giáo-Tông dạy tiếp:
 “Gần đây sắp mở Hạnh-đường, quyền Thượng và Ngọc Chánh-Phối-sư phải sửa cơ giáo-hóa cho có qui-tắc. Qua nhận thấy phần đông ra hành-đạo vì Quyền chớ không phải vì Phận, có nhớ chăng lời Thánh-giáo của Đức Chí Tôn nói rằng:
 “Hễ dưới mắt các con còn lẽ bất công thì Đạo chưa thành” đó không?
Em phải nhắc lại giùm, Qua thấy mấy em ấy lầm lộn mà phải đau lòng và rất tiếc chẳng còn mảnh thân phàm nữa đặng dìu-dẫn.

Đức Hộ-Pháp rất phiền lòng, Qua chẳng biết nói sao! Hôm trước Qua đã có  nói về QUYỀN, LUẬT và PHÁP mấy em khá nhớ!
- Quyền là giáo-hóa.   
- Luật là Bác-ái, Từ-bi.
- Còn Pháp là Công-chánh đó vậy”
 (18-10 Canh-Dần dl 27-11-1950)

Đức Thượng-Phẩm cũng nhắc-nhở thêm:
Các em cũng vẫn biết nơi đây là gốc để đem lại sự Thương-yêu cho toàn cả sanh chúng trên mặt địa-cầu này. Vậy các em khá để tâm, tất cả những cái gì làm thương tổn đến tình yêu-ái cũng là điều ích riêng hay chung đặng làm điều tư lợi, những cái đó ngoài mặt thế đã chán rồi, trong cửa Đạo phải tiêu-diệt cho hết thì mới mong sự Phổ-Độ được đắc thành mau sớm. Lúc ra đi hành Đạo nên nhớ:
- Chơn-truyền là gốc.
- Luật-pháp là chuẩn-thằng.
- Từ-bi, Bác-ái là Đạo-pháp.

Mỗi việc các em phải khá suy-nghiệm cho kỹ lưỡng, phải luôn nhớ rằng: Mình là người của chúng sanh, chớ không phải chúng sanh là người của mình.

Mảnh thân phàm đã làm con vật hy-sinh đặng Đức Chí-Tôn dùng, để sửa đời lầm-lạc ra thuần-phong mỹ-tục, thì phải biết nó ra thế nào rồi, giá-trị hay chăng là được trọn cùng không đó (18-10-1950)

G - ĐẠO CAO-ĐÀI XUẤT HIỆN QUA TIÊN TRI
1/ - Hữu duyên mới gặp Tam-Kỳ Phổ-Độ:

Vị Đại Tiên Tào Quốc cựu giáng cơ dạy:
“Rất hữu duyên mới gặp Đạo Tam Kỳ đến độ rỗi, khá rán luyện cho nên Đạo kẻo uổng. Người sanh trong đời khó gặp đặng, vì Đạo là rất báu trong đời không chi bì kịp. Chư Nhu có phước, có duyên nên mới gặp Đạo mở kỳ này là kỳ thứ ba. Thiệt chư nhu có đại căn mới gặp trước thiên hạ đó. Chư Thánh đều lâm phàm mà độ kẻ nguyên nhân, chư Nhu là kẻ nguyên nhân. Hễ thành tâm hành Đạo thì tự  nhiên đặng (17-6 Quí Hợi 1923) 

Vào thời tiền khai Đại-Đạo tức là khoảng năm Giáp-Tý (1924) trở đi thì Đức Chí-Tôn đã giáng cơ phân rành mọi lẽ:
 “Vốn Thầy lập một nền Chánh Đạo cho dân Việt Nam chẳng phải là việc nhỏ đâu! Các con ví biết Đạo là quí thì phải ân-cần thận trọng, đợi đến ngày thành tựu mới thấy rõ Thiên cơ thì chừng ấy các con muốn lập công bằng buổi này sao đặng! Vì mỗi việc khó-khăn trắc trở là lúc sơ khai. Vậy Thầy khuyên các con rán thành tâm hành Đạo, mà Đạo không phải giữ bằng lỗ miệng đâu”

2/ - Lời tiên tri của Đạo Tam Thanh:
Vào thập ngũ thế kỷ bên Trung-quốc có một vị Đạo sĩ tên là Ngô-Chi-Hạc (Ou-Tche-Ho) có lập lên phái Tam Thanh, chuyên thờ ba Đạo lớn tại Trung quốc là:
- Đức Thích-Ca (Phật giáo)
- Đức Lão-Tử (Đạo giáo)
- Đức Khổng-Tử (Nho giáo)

Đạo Tam Thanh là bước đầu tiên của Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ ngày nay vậy. Ở Trung quốc thì từ đời Tam quốc, Vương Bật cho rằng sách Lão-Tử và Chu-Dịch là một loại. Đến Nam Bắc triều các nhà Đạo học cho Lão học và Phật học vốn là một dòng. Rồi đến đời Tấn có sách “Du học thiên” xướng luận điệu “Nho Phật nhứt trí”.

Tiếp đến Vương-Thông đời Tùy, tuy là một nhà Nho thuần túy mà cũng cho Tam giáo là đồng nhất.Đến đời Đường, thì tư tưởng ấy cũng phổ thông lắm. Lưu-Mật làm sách “Thích Đạo Nho bình tâm luận” cũng nói về Tam giáo đồng nguyên.

3 - Về Thần linh học:
- Chỉ sau nhiều cuộc khảo cứu và sưu tầm về Thần linh học nơi Ông Thầy Trời đem truyền nền Đạo-lý mới mẻ này.

Đức Thượng-Đế giáng dạy: “Thầy há chẳng có lời tiên tri rằng Thần-linh-học là một nền Đạo tương lai sao? Thầy cũng đã nói trước khi đến khai Đạo đặng hội-hiệp các Tôn giáo làm một, thì Người đã sai các Đấng Thiêng liêng cao trọng hạ trần mà bày ra các Hội giáo đạo-đức, đặng thức tỉnh nhơn sanh trước  như là:
- Khảo cứu Thiên Đạo giáo (Société Théosophique)
- Khảo cứu Triết lý Phật Đạo (Société des Recherches

Sur la philosophie Bouddhique)
- Thần kinh và Tâm lý triết học (Société  psychique)
- Thần linh học (La spiritisme)..

Ngày nay Đấng cao cả ấy tá danh Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ-tát Ma-Ha-Tát, Chưởng giáo mối Đạo kỳ ba, cho nên khi giáng cơ dạy Đạo Đức Ngài xưng danh:
“Ngọc Hoàng Thượng-Đế viết Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ-tát Ma-Ha-Tát giáo Đạo Nam-phương”.
Chính nền Tân Tôn-giáo này có tên Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ hay là “Đại-Ân-xá lần ba” đã có những bằng cớ chứng tỏ nền Đạo Cao-Đài do Đức Thượng-đế dùng

Huyền diệu Cơ Bút sáng lập tại miền Nam nước Việt.
Trước khi Đạo Cao-Đài xuất hiện như vậy mà đã có nhiều lời tiên tri kế đây làm cho lòng Tín-ngưỡng của nhơn sanh được sáng thêm và kiên-cố hơn:

4/ - ĐờiThái-bình phải mất vì mấy duyên-cớ sau:
Trong sử còn ghi câu: “Gia vô bế hộ, lộ bất thập di” nghĩa là con người thuở ấy an-nhàn cho đến đỗi ban đêm ngủ không đóng cửa nhà, còn ngoài đường thấy của rơi không ai thèm lượm.

Nhưng buồn thay cho đời Thái-bình phải mất vì mấy duyên-cớ sau nầy:
1 - Những người hành-đạo đều phân chia ra nhiều phe, nhiều phái mà kích-bác lẫn nhau, chớ Tôn-chỉ của Tam-giáo đều như một là làm lành lánh dữ và kỉnh thờ Đấng Tạo-hóa.
2 - Lại canh-cải mối Chánh-truyền của các Đạo ấy làm cho thất chơn-truyền.
3 - Những dư-luận phản-đối nhau về Tôn giáo, mà ta thấy hằng ngày cũng tại bã vinh-hoa và lòng tham-lam của nhân-loại mà ra, nên chi người An-nam bây giờ đều bỏ hết những tục lệ tận thiện tận mỹ ngày xưa.

Thấy tình thế như vậy mà đau lòng, cho nên nhiều người An-Nam, vì căn-bổn, vì Tôn giáo, đã tìm phương thế hiệp Tam giáo lại làm một: Qui Nguyên Phục nhứt, gọi là Đạo Cao-Đài hay là Đại-Đạo.

Đạo Trời mở ra cho một nước, tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn cho nên dù Đức Thượng-Đế chưa đến, nhưng tất cả các Kinh sách Phật-giáo đều đã có lời tiên tri cho sự xuất hiện của Đạo Cao-Đài.

Hôm nay ngày rằm tháng 10 năm Bính Dần. Dương lịch ngày 19-11-1926 là ngày chính thức khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ tại chùa Từ-lâm-tự (Gò-Kén) Tây-Ninh

B - Đạo Cao-Đài xuất hiện:
Chí-Tôn sai các vị Giáo-Chủ đại-diện Ngài đến lập Đạo do danh thể Ngài, vâng mạng lịnh nơi Ngài, đến thay thế giáo-hóa con cái của Ngài, chưa vị nào an-ủi được sự đau thảm cho trọn vẹn cái khổ của đời, khối đau thảm ấy từ buổi có loài người chất-chồng vô số kể.

Ngài đến bồng nhơn-loại vào tay ru rằng: “Khối đau khổ tâm-hồn của các con là tại các con đào-tạo chớ không phải của Thầy! Khổ là do quả kiếp mỗi đứa dục khổ cho nhau. Muốn giải khổ không gì khác hơn là:

Đập đổ các đẳng cấp tâm-hồn. Thống nhất nhơn loại. Nhìn nhau là anh em máu thịt, cùng một căn-bổn cội nguồn, hầu chia vui sớt nhọc, biết tôn-ti nhau: kẻ trên không áp-chế người dưới, trí không hiếp ngu, hèn sang không biệt, mực thước tâm-hồn nhơn-loại phải đồng phẩm-giá, đồng quyền-năng. Ngày giờ nào, nhơn-loại biết tôn-trọng nhau, dầu sang hèn, nhìn nhau là anh em cốt nhục, ngày ấy phương giải-khổ không khó. Các con nghe lời Thầy và làm y  như lời Thầy thì khổ ấy tự tiêu-diệt. Nếu các con còn đau thảm thì đấm ngực nói: “Khổ này do các con tạo, không phải do Thầy định tội, đa nghe !”                      

Thật ra: Nhơn-loại đang bị thống khổ và sẽ lăn vào cảnh tang-thương vì tinh thần ly-tán nên ĐẠI-ĐẠO CAO ĐÀI xuất hiện đặng”.

Hết Tập I
- Xin đọc tiếp Tập II & III.
 Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét