Từ ngày Đạo bị bế
họ có lắm công tu mà thành thì không thành. Tội nghiệp thay, vì 92 ức nguyên
nhân ấy mà chính mình Đức Chí Tôn phải giáng trần mà lập nền chơn giáo của
Ngài, chúng ta đã ngó thấy cái Thánh ân, đặc biệt hơn hết là Đức Chí-Tôn đã
thấy rõ rằng: Các nguyên nhân ấy không phương gì tự giải thoát đặng vì quá tội
tình, quá mê luyến hồng trần hoặc đào
tạo quả kiếp nặng nề quá đỗi, vì cớ cho nên tu thì có tu mà thành thì không có thành, tức nhiên từ ngày Đạo bế thì cơ siêu thoát đã mất tại mặt thế này, chính mình Đức Chí Tôn biết rằng không thế gì các nguyên nhân tự mình đạt cơ giải thoát đặng.
tạo quả kiếp nặng nề quá đỗi, vì cớ cho nên tu thì có tu mà thành thì không có thành, tức nhiên từ ngày Đạo bế thì cơ siêu thoát đã mất tại mặt thế này, chính mình Đức Chí Tôn biết rằng không thế gì các nguyên nhân tự mình đạt cơ giải thoát đặng.
Hôm nay Ngài đến lập nền Chơn-giáo của
Ngài chúng ta đã ngó thấy lòng yêu ái vô tận của Ngài là thế nào?
CHƯƠNG III
Ba Đài
A - Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có 3 Đài
Là hình thể Đạo tại thế
1 - Bát Quái Đài: Thể hiện Linh Hồn, thuộc
Thần.
2 - Hiệp Thiên Đài: Thể hiện Chơn Thần,
thuộc Khí.
3 - Cửu Trùng Đài: Thể hiện xác thân, thuộc
Tinh.
I - Bát Quái Đài:
Bát-Quái-Đài
là ngôi thờ phượng Đức Thượng Đế tá danh: Cao-Đài Tiên-Ông Đại-Bồ-Tát Ma Ha-Tát và các
Đấng Giáo-Chủ Tam Giáo cùng các Đấng Thiêng Liêng trong Ngũ Chi Đại-Đạo là
Nhơn-Đạo, Thần Đạo, Thánh-Đạo, Tiên-Đạo, Phật-Đạo.
Bát-Quái-Đài dưới quyền
Đức Chí-Tôn, Ngài là Chúa của chư Thần, Thánh, Tiên, Phật cùng vạn-linh, chính
ông chủ Bát-Quái-Đài là Đức Chí-Tôn.
2 - Hiệp Thiên Đài;
Hiệp-Thiên-Đài là cơ quan
Lập pháp của Đạo, là nơi để thông công cùng Đức Thượng-Đế và các Đấng
Thiêng-liêng bằng Cơ Bút do chức sắc Hiệp-Thiên-Đài phò loan để tiếp các Thánh
ngôn và Luật Pháp Đại-Đạo của các Đấng Thiêng Liêng giảng dạy.
Hiệp-Thiên-Đài dưới quyền
Hộ-pháp làm chủ.
- Hiệp-Thiên-Đài là quyền
Hộ-pháp làm chủ.
Hội Thánh Hiệp Thiên Đài
gồm các chức sắc Thiên Phong theo phẩm trật sau đây:
- Hộ-Pháp Chưởng Quản Hiệp
Thiên Đài và bảo hộ Luật Đời cùng Luật Đạo.
- Thượng-Phẩm lo về mấy
Thánh Thất và Tịnh Thất.
- Thượng-Sanh lo về phần
Đời của Đạo.
- 12 Vị Thời Quân thuộc 3
Chi: Pháp, Đạo, Thế đặt dưới quyền hành sự của Hộ Pháp, Thượng Phẩm và
Thượng Sanh.
3 - Cửu Trùng Đài:
Cửu-Trùng-Đài là cơ quan
Hành Pháp của Đạo. Cửu-Trùng-đài do Giáo-Tông làm chủ Hội-Thánh.
Ba ông chủ ấy, có hai ông
này: Cửu-Trùng-Đài và Hiệp Thiên-Đài nếu riêng ra thì không có thế gì dâng sớ cho
Bát Quái-Đài, tức nhiên quyền Chí-Tôn ở nơi Bát-Quái Đài.
Hai Đài Cửu-Trùng và
Hiệp-Thiên hiệp nhứt là quyền Chí Tôn tại thế này, không có một quyền cai-quản
nào cải qua quyền Bát-Quái được. Hội Thánh Cửu Trùng Đài gồm chức sắc Thiên
phong theo các phẩm trật sau đây.
(ĐHP 18-8 Kỷ- Sửu)
Chức sắc Nam Phái:
- 1 Phẩm Giáo Tông (Nhứt Phật) Lãnh đạo tối cao
toàn Đạo có phận-sự dìu dắt Đạo-hữu trong đường Đạo và đường Đời.
- 3 Chưởng Pháp (Tam
Tiên): Lãnh nhiệm vụ nghiên cứu Luật Pháp Đạo trước khi ban hành cho toàn Đạo.
- 3 Đầu Sư (Tam Tiên): Cầm
quyền Chánh Trị Đạo ban hành Luật Pháp Đạo.
- 36 Phối Sư (Tam Thập Lục
Thánh): Có 3 vị Chánh Phối Sư làm đầu, dưới quyền 3 vị Đầu Sư cai trị Đạo.
- 72 Giáo Sư (Thất Thập
Nhị Hiền): Có phận sự dạy dỗ Đạo Hữu trong đường Đạo và đường Đời. Được quyền
dâng sớ cầu nài về Luật Lệ làm hại Nhơn Sanh hay là cầu xin chế giảm Luật lệ
ấy.
- 3.000 Giáo Hữu (Tam
Thiên Đồ Đệ): Chia đều mỗi phái 1.000, chẳng nên tăng thêm hay là giảm bớt.
Lãnh phận sự phổ thông Chơn Đạo.
- Lễ Sanh: Không hạn định
số. Lễ Sanh là người có hạnh kiểm tốt, được quyền đi khai đàn cho mỗi Tín Đồ.
Về Chức-sắc Nữ phái:
Chức Sắc Nữ Phái khởi từ
phẩm Đầu Sư trở xuống Lễ Sanh, quyền hành y như Nam phái, song chỉ điều hành về
Nữ-phái mà thôi. Tất cả tùng lịnh của Giáo-Tông và Hộ-Pháp. Về Nữ-phái thì vô
hạn định về con số.
Bàn trị sự (Hội-Thánh Em):
Bàn Trị sự là cơ quan hành Đạo trong thôn xã gồm
Những Chưc việc sau đây:
- 1 Chánh Trị Sự
- 1 Phó Trị Sự
- 1 Thông Sự
Có nhiệm vụ giúp đỡ các
sinh hoạt của Đạo và săn sóc các Đạo hữu, như anh lớn trong gia tộc. Bàn Trị sự
còn được xem như là một Hội-Thánh Em.
B - Lập Tân-luật là để phân quyền cho
Chức sắc Cửu Trùng Đài:
Ngày 16-10 Bính-Dần (dl
20-10-1926) tại Từ Lâm Tự. Đức Chí-Tôn giáng Cơ dạy Hội-Thánh lập Tân Luật để
phân quyền hành cho Chức-Sắc Cửu Trùng Đài có phẩm trật, hầu có Chức sắc thi
hành phận sự thể thiên hành chánh đạo.
Ngoài ra Thầy cũng giáng
Bút truyền các Bí-pháp cho Hộ-Pháp. Hội Thánh chơn truyền Tân pháp đã đạt đặng
như: Phép Giải-oan, phép Khai sanh Môn, Kim quang và còn nhiều Bí-pháp khác
nữa. Trong các Bí-Pháp có cơ mầu đắc Đạo.
Ấy là cơ vô vi TINH – KHÍ- THẦN hiệp nhứt. Ngọc là Tinh, Thượng là Khí,
Trí là Thần. Nếu cả ba không hiệp thì chẳng hề thành Đạo đặng.
1 - Ba Đài liên quan mật
thiết cùng nhau:
-
Bát-Quái-Đài là linh-hồn.
- Cửu-Trùng-Đài là xác thịt.
- Hiệp-Thiên-Đài là chơn-thần.
“Hồn đặng tương-hiệp cùng xác phải nhờ chơn
thần. Chơn-thần lại là bán hữu-hình tiếp vô-vi mà hiệp cùng hình thể, cũng như
Đạo tiếp Thánh-Đức của các Đấng thiêng-liêng mà rưới chan cho nhơn-loại”.
Đức Hộ-pháp nói:
“Phước-Thiện là thay cho Hiệp Thiên-Đài gánh vác nhiệm-vụ cứu khổ nên Hội-Thánh
Phước-Thiện do nơi Qua cùng Đức Lý-Giáo Tông đã đồng-ý tạo nên hình tướng. Ngài
rất vui lòng. Tại sao vậy?
- Nhiệm-vụ của Hộ-Pháp
phải có Giáo-Tông. Bởi Giáo-Tông, Chí-Tôn định có quyền cai trị đường Đạo và
đường Đời, mà hễ Giáo-Tông
và Hộ-Pháp hiệp một là quyền Chí-Tôn tại thế”.
Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài là
phổ thông nền chơn giáo, lo về mặt giáo-hóa, bảo-tồn nền văn-hiến tồn tại.
Cửu-Trùng-Đài là cái Đài thể theo Cửu Trùng Thiên mà kiến trúc, có chín nấc cao
thấp khác nhau.
Cửu Phẩm Thần Tiên vâng
lịnh Ngọc-Hư Cung trị thế gới vô hình cũng như Cửu-Trùng-Đài vâng lịnh Bát Quái-Đài
mà Chưởng-Quản mối Đại-Đạo tại thế gian về mặt hữu vi. Vậy tất cả chơn linh
trong Càn Khôn vũ trụ đều phải vào Cửu Trùng Đài và tuần tự theo đẳng cấp thấp
cao để đoạt vị Thiêng liêng của mình.
Cửu Trùng Đài do Hội-Thánh
quản trị, mạng danh Hội-Thánh Cửu Trùng Đài gồm có một phái Nam và một phái Nữ.
Đức Chí-Tôn lập
Pháp-Chánh-Truyền cho cả hai phái (Theo Đàn Cơ 16-10 Bình-Dần – 1926)
Như vậy trường Đại-Đạo
theo như Đức Hộ-Pháp dạy về đường Đạo và đường Đời rằng:
- “Thể-pháp của Đạo
Cao-Đài là một trường công quả của chúng ta, trường công-quả ấy để cho chúng ta
lập đức, lập công, lập ngôn.
- Bí-pháp chơn-truyền của
Đức Chí-Tôn tức nhiên cơ-quan huyền-bí để cho con cái của Ngài giải-thoát.”
2 - Quyền hành của ba Đài:
1/- “Trong Bát-Quái-Đài:
kể từ Tiên vị đổ lên cho tới Thầy thì đã vào địa vị các Đấng Trọn lành “Classe
des Parfait ou des Purs”.
Từ Thánh-vị trở xuống Nhơn
vị thì vào hàng Thánh “Class des Épures”. Từ thú cầm xuống vật chất thì hàng phàm tục “Classe des
Impurs” ấy vậy trong Bát Quái-Đài từ bậc Thánh hồn thì còn phận sự điều đình
càn khôn thế giới, giao thiệp cùng các chơn hồn, còn ở trong vòng vật chất nâng
đỡ, dạy dỗ cho phàm phẩm tấn hoá lên cho tới Thánh vị. Hễ vào đặng Thánh-vị rồi
thì tự nhiên mình biết lấy mình, dầu phải bị đoạ trần đi nữa cũng còn giữ vẹn
Thánh đức mà tu hành đặng đạt đến địa vị trọn lành. Lên địa vị Trọn lành rồi
thì mới đồng quyền cùng Tạo-Hóa, Từ bi, tự tại, bất tiêu, bất diệt.” (PCT)
2/ - “Trong
Hiệp-Thiên-Đài: thì có Hộ Pháp thay quyền cho các Đấng Thiêng-Liêng và Thầy mà
gìn giữ công bình Tạo hóa, bảo hộ nhơn loại và vạn vật lên cho tới địa vị tận
thiện, tận mỹ. Người thì tận thiện, còn vật thì tận mỹ. Chẳng cần lấy sức mình
mà lập, chỉ bảo hộ cho sự tấn hóa tự nhiên khỏi điều trở ngại, nếu nói có quyền
bảo hộ thì phải có Luật pháp, lấy Luật pháp mà kềm chế nhơn sanh, cũng như các
Đấng Trọn lành lấy Thiên điều mà sửa trị Càn khôn Thế giới.
- Hộ-Pháp là thể các Đấng
Trọn lành. Người lại giao quyền cho Thượng-Phẩm lập Đạo, đặng dìu dắt các chơn
hồn lên tột phẩm vị của mình, tức là nâng đỡ binh vực cả Tín-đồ và Chức sắc
Thiên phong ngồi an địa vị, cũng như chư Thần Thánh Tiên Phật điều đình Càn
Khôn thế giới cho an tịnh, hòa bình mà giúp sức cho Vạn linh sanh sanh hóa hóa.
- Thượng-Phẩm tiếp các
chơn hồn của Thượng Sanh giao vào cửa Đạo. Thượng-phẩm là người thể Đạo đối với
hàng Thánh, ấy là người cầm đầu các
Thánh.
- Thượng-Sanh về Thế độ,
đem các chơn hồn vào cửa Đạo, dầu Nguyên nhân hay là Hóa nhân cũng vậy, phải
nhờ Người độ rỗi. Thượng Sanh đặng mạng lịnh chuyển thế, điều độ nhơn sanh ra
khỏi trầm luân khổ hải, buộc Thượng-Sanh phải gần gũi kẻ vô Đạo đặng an-ủi
dạy-dỗ. Mà kể từ hạng vô Đạo trở xuống cho tới vật chất thuộc về phàm, ấy vậy
Thượng-Sanh là thể Đời, người đứng đầu của phẩm phàm tục.” (PCT)
3/ - Trong Cửu-Trùng-Đài có:
- Đầu-sư thì đối với phẩm Địa Tiên
- Chưởng-Pháp thì đối với phẩm Nhơn Tiên
- Giáo-Tông thì đối với phẩm Thiên Tiên
TAM TRẤN OAI NGHIÊM thay
quyền Phật-vị tại thế này. Ấy vậy các Đấng ấy đối phẩm cùng các Đấng Trọn lành
của Bát-Quái-Đài.
Giáo-Tông giao quyền cho Đầu-sư. Đầu sư lại
phân quyền cho Chánh-Phối-Sư lập Đạo đặng độ rỗi nhơn sanh cũng như Hộ-Pháp
giao quyền cho Thượng Sanh và Thượng Phẩm.
- Chánh-Phối-sư và Phối-sư
đối phẩm Thiên Thánh
- Giáo-sư đối phẩm Nhơn
Thánh.
- Giáo-hữu đối phẩm Địa
Thánh.
- Lễ Sanh đối phẩm Thiên
Thần.
- Chánh Trị sự, Phó Trị sự
và Thông sự đối phẩm Nhơn Thần.
- Chư Tín đồ đối phẩm Địa
Thần
Đây: Cửu-Trùng-Đài đối
phẩm với Cửu Thiên Khai hoá:
Như trên thì trong cửa Đạo
còn có Cửu viện, dưới quyền Chánh-Phối-sư của Ba phái:
- Thái Chánh-Phối-sư coi
ba viện: Hộ, Lương, Công.
- Thượng Chánh-Phối-sư coi
ba viện: Học, Y, Nông.
- Ngọc Chánh-Phối-sư coi ba viện: Hoà, Lại, Lễ.
C - Một số Chức-sắc không có qui định trong
Tân-luật & Pháp-chánh-truyền
Ngoài ra còn có các
Chức-sắc không có qui định trong Tân-Luật & Pháp-chánh-truyền mà do
Thánh-giáo, Thánh-lịnh, Đạo lịnh được thành lập do các cơ quan thuộc
Hiệp-Thiên-Đài. Lần lượt là:
1 - Pháp chánh
Hiệp-Thiên-Đài (có 8 phẩm cấp)
2 - Phước Thiện có 12 cấp,
gọi là Thập Nhị Đẳng Cấp Thiêng-liêng
3 - Thập Nhị Bảo-Quân (12
phẩm cấp)
4 - Chức sắc Bộ Nhạc (10 phẩm cấp)
1 - Pháp chánh Hiệp-Thiên-Đài có 8 phẩm cấp
từ trên xuống:
1 - Tiếp Dẫn Đạo Nhơn
(Instructeur) đối phẩm Chánh-phối sư
2 - Chưởng Ấn (Chancelier) đối phẩm Phối-sư
3 - Cải-Trạng (Avocat) đối
phẩm Giáo-sư
4 - Giám Đạo (Inspecteur)
đối phẩm Giáo-sư
5 - Thừa sử (Commissaire de Justice) đối phẩm
Giáo-hữu
6 - Truyền Trạng (Greffier) đối phẩm Giáo-hữu
7 - Sĩ-tải ( Scrétaire Archiviste) đối phẩm Lễ Sanh
8 - Luật sự (Agent judiciaire) đối phẩm Chánh
Trị sự.
2 -
PHƯỚC THIỆN:
Thập nhị đẳng cấp thiêng liêng có 12 phẩm, từ
trên xuống:
1 - Phật Tử 2 - Tiên Tử 3 - Thánh nhơn 4 - Hiền nhơn
5 - Chơn nhơn 6 - Đạo nhơn 7 - Chí-thiện 8 - Giáo thiện
9 - Hành thiện 10 - Thính Thiện 11 - Tân Dân 12 - Minh Đức
3 - THẬP NHỊ BẢO QUÂN
(12 PHẨM)
Ngoài ra còn có 12 vị
Bảo-Quân dưới quyền chỉ huy của Giáo-Tông và Hộ-Pháp.
Đức Hộ-Pháp trả lời trong
quyển Lời phê về Thập Nhị Bảo-Quân là:
“Toàn thể Bảo-Quân là Hàn-Lâm-viện, mỗi vị có
sở chức, sở năng ấy là điều khác nhau đặc biệt, tỷ như: Huyền-Linh-Quân nghĩa
là Thần linh hồn khác với Bảo Học Quân là thuộc về khoa-học hay thực tế học..
Bảo Quân có 12 vị gọi là
Thập Nhị Bảo Quân là:
1 - Bảo Huyền-Linh-Quân (Science
mystique)
2 - Bảo-Học-Quân (Science physique –
Instruction
Publique)
3 - Bảo Thiên-văn Quân (Astrologie)
4 - Bảo Địa Lý Quân (Géologie)
5 - Bảo Sanh Quân (Santé puplique)
6 - Bảo Cô Quân (Chevalerie)
7 - Bảo Văn Pháp Quân (Belles lettres)
8 - Bảo Y Quân
(Médecine)
9 - Bảo Nông Quân (Agriculture)
10 - Bảo Công Quân (Arts et Métiers)
11 - Bảo Thương Quân (Commerce et Industrie)
12 - Bảo Phong Hoá Quân (Philosophie) hoặc còn gọi là
Bảo-Sĩ-Quân tức là Triết-học.
4 -
CHỨC SẮC BỘ NHẠC (10 PHẨM)
Từ phẩm trên xuống:
1 - Tiếp lễ Nhạc quân 2 - Nhạc sư 3 - Đốc nhạc
4 - Đề Nhạc 5 - Lãnh Nhạc 6 - Quản Nhạc
7 - Đội nhạc 8 - Cai Nhạc 9 - Bếp Nhạc
10 - Nhạc sĩ
D - Thánh-Thể Đức Chí-Tôn:
Chính vì Đức Chí-Tôn trong
buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này không có nhân thân phàm ngữ nên phải lập Hội-Thánh làm
Thánh Thể của Ngài.
Đức Hộ-Pháp nói:
“Thánh-Thể Đức Chí-Tôn
chẳng phải trong Hội Thánh mà thôi, mà cả toàn con cái của Ngài Nam Nữ, nếu Qua
không nói đến mấy Em mới sơ sanh, nó cũng là đám Thánh-Thể của Ngài. Là buổi
may duyên của chúng ta ngộ Đạo “Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ”. Bởi cái may
duyên ấy do nơi mấy Em đào tạo nó, một phần tử buổi sơ sanh, tức nhiên kể từ
hạng sơ sinh Đức Chí-Tôn đã đến lựa từ khi mấy Em đã có trí khôn ngoan cho nhập
Thánh-thể của Ngài đứng vào hàng Chức sắc Thiên phong gọi là chư Thánh, mấy Em
mới nên người “Tam thập nhi lập”.
Cái phẩm vị Thiêng liêng
của mấy Em nơi mặt thế: Phó Trị sự, Thông Sự, đối với ngôi Giáo-Tông, Hộ-Pháp
trong khi tuổi của mấy Em đã tri thiên mạng rồi.
Rất ngộ-nghĩnh thay cho
Chí-Tôn lấy công bình ấy đặng lập Thánh-Thể của Ngài. Ngài để một kiểu vở, một
khuôn luật tạo đoan hay là một gia đình
kia không khác gì hết. Mấy em đã ngó thấy trong Đạo, Đức Chí-Tôn đã để:
- Hàng Tín-đồ đối với Đại-Từ-Phụ.
- Phó-trị-sự và Thông sự
đối với phẩm Giáo-Tông và Hộ-Pháp.
* Kích
thước xây cất ba Đài:
Theo bài Thánh giáo của
Đức Lý Giáo Tông thì Tòa Thánh được xây dựng
gồm 3 phần:
- Bát Quái Đài, xây trên
khoảnh đất hình vuông, mỗi cạnh 27 mét, nền cao 9 mét.
- Cửu Trùng Đài, là phần
Chánh Điện, xây nối theo, bề ngang 27 mét, bề dài 81 mét.
- Hiệp Thiên Đài, xây nối
theo Cửu Trùng Đài, trên hình vuông, mỗi cạnh 27 mét.
Tổng cộng thì bề dài của
Tòa Thánh là: 27+81+27 =135 mét và bề ngang của Tòa Thánh là: 27 mét.
Những chi tiết khác thì
Đức Lý vẽ và dạy riêng cho Đức Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm và Ngài Phối Sư
Thái Bính-Thanh.
Chúng ta nhận thấy các con
số về kích thước của Tòa-Thánh đều là những bội số của một số căn bản là 9.
E - Tinh thần Tam-giáo
I - Thiên địa vạn-vật nhất thể:
Cái lý trong vũ trụ giống
nhau cho nên các Học thuyết ấy đều theo một chủ-nghĩa “Thiên địa vạn-vật nhất
thể” 天地萬物一體 Song, mỗi một Học-thuyết đi ra một
đường là vì cách lập giáo và sự hành-đạo khác nhau.
1/ - Lão-giáo 老 教 thì cho vạn-vật đều gốc ở Đạo, Đời là một cuộc phù-vân, hơi đâu mà để trí
lo-nghĩ, người ta chỉ nên cùng với Đạo mà vui chơi cùng Tạo hóa, không cần chi
đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí; không thiết gì đến pháp luật, chế độ, miễn là được thảnh-thơi
vô-vi thì thôi.
2/ - Phật-giáo 佛 教 thì cho vạn-tượng do Chơn-như mà ra, sắc với không là một, sự sinh hóa là
cái vọng niệm chứ không phải là thực. Cái thực là Chân-như. Người ta phải tìm
cái thực ấy mà quay trở về gốc cũ để ra thoát vòng sanh, tử; tức là để
đến Niết-Bàn, hết cả sự khổ-não.
3/ - Nho-giáo 儒 教 thì cho rằng sự biến-hóa ở trong vũ trụ là do sự nhất động, nhất tịnh của
Thái-cực mà sinh ra. Vạn-vật đã phát hiện ra là thực có, thì chi bằng cứ theo
cái thực ấy mà hành động và sinh tồn; sự sinh-tồn của vạn vật không ra ngoài được
những điều Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí;
仁義禮智 tức là Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh 元亨利貞 của Tạo-hóa. Vậy nên người ta ai cũng phải theo những điều ấy mà vui trong
cuộc sinh-hóa.
Thành thử cái gốc vốn là một, mà cái ngọn thì chia ra khác nhau. Bởi cái
tư-tưởng khác nhau như thế cho nên Lão-giáo và Phật-giáo thì theo cái chủ-nghĩa
tiêu-cực, thành ra cái Đạo xuất thế; Nho-giáo thì theo cái chủ-nghĩa tích-cực,
thành ra cái Đạo nhập thế.
Vì có sự tương-đồng, tương-dị ấy mà ta có thể xét đoán tường-tận được, tuy
cái tương-dị về thể hành đạo của các Đạo có khác nhau, nhưng chung-qui cũng là
một gốc, cái gốc đó tức là căn bản của muôn sự vật cho tất cả vũ-trụ bao-la mà
ta gọi là Thiên-lý. Cái Thiên-lý đó là cái tóm thâu của Trời, biểu-tượng trong
KINH DỊCH vậy”
(Lời phát-đoan của Nguyễn-Mạnh-Bảo)
2 - Triết Đông-phương có 3
nhà:
Phật, Lão và Dịch:
- Một là Phật-học.
- Hai là Lão học.
- Ba là Dịch-học.
* Nhưng Phật-học thì lý-tưởng quá cao, mà con đường
tu là xuất thế. Lão học chỉ lấy thuyết Âm Dương làm nền tảng cũng theo đường xuất
thế. Hỏi tại sao đường lối tu của Phật và Lão phải xuất thế?
- Vì nhân-loại buổi ấy Thánh đức còn nhiều, về địa lý thì đất đai rộng-rãi,
đất rộng người thưa. Tính tình người còn hiền hậu, còn giữ nguyên cái chân tính
của “Nhân chi sơ tánh bổn thiện”, không bị ảnh hưởng của ngoại lai như ngày
nay. Thế nên việc tu thuở ấy giống như người chơi cây kiểng, nhàn rỗi, thư
thái. Tìm đến non cao núi thẵm, lánh chốn phồn hoa để tìm đến một cái thú tuyệt
vời là tầm Tiên noi Phật. Thật ra nếu không tu thì người thuở ấy cũng vẫn hiền
từ nhân hậu lắm rồi! Thời Thượng đức mà!
* Lão-học thì cũng vẫn một nhà xuất thế như Phật, tìm chốn non Thần động
Thánh để thích chí thanh nhàn, tu Tiên luyện pháp: Quá cao xa và đòi hỏi thời
gian. Thế kỷ này liệu thế nào mà tu-hành cho được. Nếu cả nước đồng xuất thế
thì lấy ai lo cho dân-tộc, làm sao đất nước mở mang? Nhân sanh đi vào đường tiêu cực?
* Nay nếu chiết trung ở trong các nhà Triết-học Đông phương vừa tinh-vi, vừa
thiết thực, vừa thấu lý, vừa thích dụng thời chẳng gì bằng Dịch-học.
Vì lòng ưu thời mẫn thế gốc ở tấm lòng Từ-bi thời DỊCH chẳng khác gì Phật,
tùy thì thức thế dù trăm đường biến hóa, thời Dịch có lẽ hay hơn Lão. Nếu
nghiên-cứu về Dịch-học thì Phật-học và Lão-học cũng quán thông, gần gũi cùng
thiên-lý, Âm Dương lý số thông cùng vạn vật.
Nếu có kẻ hỏi:
Hiện đã có Đạo Lão, Đạo Gia Tô, Đạo Thích là ba chánh Đạo, thế thì Tam giáo
đã có rồi hà tất phải cần lập Đạo khác
mà làm gì ?
- “Nếu nói Đạo thì đã có sẵn từ tạo thiên lập địa. Hễ có Đời tức nhiên có Đạo.
Hư-vô là Đạo, Âm Dương là Đạo, trời đất là Đạo, nhơn vật là Đạo.
“Tam
giáo là Đạo
chánh thuở nay, song
bị tay phàm canh cải, càng ngày càng xa Thánh-giáo mà hoá ra phàm giáo.
Thượng-Đế lấy làm đau-đớn, hằng thấy nhơn sanh phải bị sa vào tội lỗi, mạt kiếp
chốn A-Tỳ, nên nhứt định chuyển Tam giáo Qui nguyên Phục nhứt, chấn hưng Tôn
giáo lại cho hoàn-toàn, rồi khêu sáng ngọn đèn Thiêng liêng lên để dìu-dắt bước
đường cho kẻ có công tu hành mà khỏi phải sa chân lạc bước”
3 - Phật độ 6 ức nguyên
nhân là nghĩa gì ?
Con số 6 ấy là nói phép tu theo Phật là cho hiểu nguồn gốc khổ của con người
là do lục căn, bởi khi tiếp xúc với lục trần thì sinh ra lục dục. Nếu nhờ biết
tu thì biến tất cả thành ra lục thức để đến chỗ cao thượng hơn là đạt cho được
Lục thông để khỏi phải bị đoạ vào Lục đạo luân hồi.
Chính ra những con số LỤC này nó đã nằm ngay trong chân tính của con người,
nhưng khi đến trần là bị nhiễm trần, lâm phàm rồi thì cái gì cũng phàm. TU chính là lau bụi trên mặt gương, nào phải lau
gỗ mà thành gương được. Thế nên chỉ có người TU mới được viên mãn mà thôi. Cho
nên Đạo-pháp nói lý là “Phật độ được 6 ức nguyên nhân” là vậy:
- LỤC CĂN: Sáu gốc rễ có sức nảy sanh. Lục căn chính là sáu giác quan của
con người để nhận biết sự vật:
1 - Nhãn (Mắ) 2 - Nhĩ (tai) 3 - Tỷ (mũi)
4 - Thiệt (lưỡi) 5 - Thân (da thịt) 6 - Ý (Tư tưởng)
- LỤC THỨC: Sáu điều hiểu biết của con người.
Lục thức có được là do Lục căn. Lục
thức gồm:
1 - Nhãn thức: sự biết do mắt nhìn thấy
2 - Nhĩ thức: Sự biết do tai nghe
3 - Tỷ thức: Sự biết do mũi ngửi
4 - Thiệt thức: Sự biết do lưỡi nếm
5 - Thân thức: Sự biết do da thịt cảm nhận
6 - Ý thức: sự biết do tư tưởng
- LỤC TRẦN: Trần là bụi, chỉ cõi trần. Lục trần là sáu cảnh nơi cõi trần diễn
ra trước Lục căn, làm cho Lục căn sanh ra Lục thức. Lục trần gồm:
1 - Sắc: cảnh vật có màu sắc xinh đẹp.
2 - Thinh: âm thanh êm ái, lời nói ngọt ngào.
3 - Hương: mùi thơm của hoa, của món ăn.
4 - Vị: thức ăn ngon béo bổ.
5 - Xúc: trang sức lụa là, da thịt mát mẻ.
6 - Pháp: Tư tưởng mưu tính thực hiện cho thoả ý muốn
- LỤC DỤC: Sáu điều ham muốn. Vì bởi Lục trần khêu gợi Lục căn, Lục căn
sanh ra Lục thức, Lục thức sanh ra Lục dục. Lục dục gồm:
1 - Sắc dục: ham muốn nhìn thấy sắc đẹp
2 - Thinh dục: ham muốn nghe âm thanh êm tai.
3 - Hương dục: ham muốn ngửi mùi thơm dễ chịu
4 - Vị dục: ham muốn món ăn ngon miệng
5 - Xúc dục: ham muốn xác thân sung sướng.
6 - Pháp dục: ham muốn ý nghĩ được thỏa mãn.
Con người có Lục căn nên mới có Lục thức. Lục thức bị Lục trần cám dỗ mới
sanh ra Lục dục. Bốn thứ ấy liên hệ mật thiết nhau, tương tác nhau làm cho con
người lẩn quẩn như bị trong cơn lốc của cuộc đời.
“Thất tình Lục dục là mối loạn hằng ngày trong tâm trí, không phương trừ khử.
Một đám giặc liệt cường tài trí đánh phá ruồng trong núi cao rừng thẵm còn dễ
trừ dẹp đặng, chớ mối loạn nơi tâm khó mà diệt đặng cho yên, nhứt là Lục dục:
Nhãn, Nhĩ, Tỹ, Thiệt, Thân và Ý dục, chúng nó phá hại hằng ngày.
Nhãn thì ưa màu sắc tốt đẹp.
Nhĩ thích nghe những giọng nói tao
nhã thanh bai.
Tỹ thì ưa mùi thơm hơi ngọt.
Thiệt thì ưa nếm vật lạ món ngon.
Thân: mến vợ đẹp hầu xinh, cả dục
tình dâm niệm.
Ý lại tư tưởng vất vơ quấy phá. Nhứt là Ý là mối đại hại cho con người. Nó tư tưởng sự
nầy sang sự nọ. Chuyện nọ hết đến chuyện kia. Nó ra vô lẹ làng không chi ngăn
đón đặng, nên cho nó là đứa ăn trộm tài nghề, xách món nầy, vật nọ trước mắt muôn người mà chẳng ai thấy.
Còn thân, cái thân thể muốn sự dâm dục quá độ, mới hao tán nguơn Tinh,
nguơn Khí, nguơn Thần.
Thiệt là lưỡi, miệng ham ăn món ngon vật lạ, đồ mỹ vị cao lương, phạm tội
sát sanh, bị sa đọa vào Lục đạo.
Tỹ là mũi ưa thơm tho mới khiến lòng
ham muốn.
Nhĩ là tai, tai nghe điều phi lễ.
Nhãn là mắt ngó thấy sắc đẹp thì lòng dục dấy lên.
Vậy thì, mắt thấy,
tai nghe, mũi ngửi, miệng nếm, thân ham, đều xúm làm cho thân xao động, sanh
lòng quấy. Vả lại, Lục dục là sáu con quỉ, tức là sáu đứa du côn, nhưng biết
cách thâu phục chúng nó đặng thì sáu con quỉ ấy trở nên Lục thông là đắc đạo.
Muốn thâu phục
sáu con quỉ ấy thì phải làm chủ cái Tâm, tâm cho thanh tịnh, định cái trí, trí
phải tự nhiên. Lục dục được an, Lục thần đầy đủ.
Hễ có Lục dục
thì có Lục trần, mà hễ có Lục trần thì mới sanh Lục tặc. Có Lục tặc thì hại Lục
căn, Lục thức,
Lục thần, nên sa
vào Lục đạo.
Ấy là kiếp con
người không có Nguơn Thần chấp chánh, để cho Thức Thần
đương quyền, thì dầu có sống, cũng là sống một cách vất vơ, vất vưởng như bồ nhìn trơ trơ để gió lay người đẩy”.Phải
biết rằng làm người khó:
“Dễ gì lộn kiếp đặng làm
người,
“May đặng làm người há dễ
duôi!”
4 - Tiên Đạo độ 2 ức
nguyên nhân là nghĩa gì?
Tức là nói về lý Âm Dương là lý tương đối hữu hình: Hễ có sinh thì có diệt,
có sướng thì có khổ, hai ý nghĩa này cứ đắp đỗi nhau không bao giờ dứt như bóng
với hình. Bởi cõi trần này là cõi nhị nguyên phải vậy. Muốn chấm dứt sự luân hồi
nhân quả phải diệt nhân thì không có quả nghiệp. Thế nên nói rằng: “Phật sợ
nhân, chúng sanh sợ quả.” Vì Phật sợ nhân nên không gây nhân thì đâu phải gặt
hái kết quả. Chúng sanh cứ làm liều không suy nghĩ, khi gặt hái những quả xấu rồi
mới sợ thì đã muộn rồi! Nên lý cũng đồng như trên, nói rằng “Tiên độ 2 ức
nguyên-nhân” là do lý cớ ấy. Tức nhiên Đạo Tiên Đức Lão-Tử muốn thoát ly cái kiếp
sống nhộn nhịp để tìm đến suối lặng non Thần để tiêu diêu mà thôi.
Ở đời khi nói sướng thì bên cạnh đã có khổ rồi. Có sanh là có tử, nghĩa là
hai cái lý tương phản cứ theo nhau không bao giờ dứt. Số 2 là nói về Âm Dương
chẵn lẻ mà Đức lão Tử đã chủ trương
5 - Đạo Cao-Đài độ 92 ức
nguyên-nhân:
Qua kỳ ba Phổ-Độ thì Đạo Cao-Đài ra đời, gọi là cơ tận độ, tức là độ sanh
và độ tử, độ cả Nữ và Nam, độ toàn vạn linh sanh chúng, nên đến con số tận cùng
là số 9. Nhìn gần thì con người có Cửu
khiếu.
Ý-nghĩa về SỐ: Phải đợi đến 9 là cơ huyền-diệu nhiệm mầu. Huyền-diệu hơn hết
là số đó. Nó là cơ chuyển biến đến mực độ tận thiện tận mỹ, toàn năng, toàn
tri.
Đến số 9 là đến chỗ tột cùng vận-động để hiệp về cơ qui nhứt. Phép toán học
thử đến 9 rồi trở về 0 là vậy. Cùng cực cái động tức trở về trạng-thái tịnh
nguyên-thủy.
Số 2 là chỉ cho hai triết lý của Phật và Lão hợp lại để làm triết-lý sống động
trong kỳ ba của Đạo Cao-Đài Đạo Cao-Đài là một Tôn-giáo mới khai mở vào năm
Bính-Dần 1.926 nên gọi là một nền Đạo mới, hay là một nền Tân-Tôn-giáo với Tôn
chỉ Qui nguyên Tam giáo Phục Nhứt Ngũ Chi là vậy. Đó là ý-nghĩa của con số 92 ức
nguyên nhân.
Vả lại 8 ức nguyên-nhân vừa độ được, có ảnh hưởng đến con số 8 (6+2) chính
là con số Bát Quái. Phải đến thời kỳ mới
lý giải nỗi thuyết CAO-ĐÀI bằng Bát Quái đó vậy.
Tôn-chỉ của Đại-Đạo là dìu-dẫn quần-sanh
trên con đường xử thế, lấy luân-lý và
triết-lý làm yếu-tố.
- Ðạo mở vào buổi nhơn sanh đang khuynh hướng về đường vật-chất thì cái
Tôn-chỉ Ðạo tất phải có thiệt lực gì cực kỳ mãnh liệt mới dung hòa nỗi hai thuyết
duy tâm và duy vật và phải hạp thời thì nhơn sanh mới chịu hoan nghinh mà bước
vào cửa Ðạo. Nếu Ðạo mà không có cái Tôn-chỉ duy-tân cải cách theo trình-độ tiến
hóa của nhơn sanh thì Ðức Thượng-Ðế chẳng cần nhọc công tái lập, vì Ðạo vẫn có
từ tạo Thiên lập Ðịa mà trong nhân-gian cũng đã lập thành nhiều nền Tôn-giáo để
tùy thời mà tế độ quần linh”.
6 - Tôn chỉ cao thượng của
Đạo Cao-Đài là gì?
Đạo Cao-Đài là Qui nguyên Tam Giáo Phục nhứt Ngũ Chi, cho nên có Tôn chỉ rõ
rệt:
- Tín-ngưỡng thì thờ Trời và thờ Người.
- Về Luật-pháp thì Bác-ái và Công-bình.
- Mục-đích là đưa nhân-loại tấn-hoá trên con đường Chân, Thiện, Mỹ. Chung
qui dầu ở nơi Tôn-giáo nào cũng lấy Tâm làm gốc:
Tìm hiểu các nhà Tôn-giáo đã dạy đời những gì, thì đó chính là Tôn-chỉ của
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ:
- Thích-giáo: Phật Thích-Ca làm Chưởng-giáo, dạy:
. Tam qui Ngũ giới
. Minh tâm kiến tánh.
. Thật hành Bác-ái, Từ bi
- Tiên-giáo: Đức Thái-Thượng làm
Chưởng-giáo, dạy:
. Tam bửu Ngũ hành.
. Tu tâm luyện tánh.
. Thủ cảm ứng chứng minh.
- Thánh-giáo: Khổng-Tử làm Chưởng-giáo,
dạy:
. Tam cang Ngũ thường.
. Tồn tâm dưỡng tánh.
. Lấy Nhân-Nghĩa làm hành tàng
Ngày nay, Đạo Cao-Đài Qui Tam Hiệp Ngũ, bởi vì:
“Tam giáo là ba nền Đạo chánh thuở
nay, song bị tay phàm canh cải càng ngày càng xa Thánh-giáo mà hóa ra phàm
giáo. Thượng-Đế lấy làm đau đớn, hằng thấy nhơn sanh phải bị sa đoạ tội lỗi, mạt
kiếp chốn A-tỳ, nên nhứt định chuyển Tam-giáo qui nguyên Ngũ chi hiệp nhứt, chấn
hưng Tôn-giáo lại cho hoàn toàn rồi khêu sáng ngọn đèn thiêng-liêng lên để dìu
dắt bước đường cho kẻ có công TU- HÀNH mà khỏi xảy chân, lạc lối.
Ấy vậy, tất cả các yếu chỉ này làm tiêu-chuẩn cho mọi hành-vi. Cả luật-pháp
khuôn viên điều-mục của ba nền Tôn-giáo ấy từ buổi sơ khai có đủ phương diện,
quyền năng dìu đời thống khổ. Nhơn sanh trong thời kỳ Thượng cổ còn tính đức,
biết giữ chơn truyền, chuẩn thằng, qui củ của ba nhà: Thích, Đạo, Nho tức là Phật,
Tiên, Thánh; nghĩa là phải làm lành lánh dữ, dưỡng tánh tu tâm, mới chung hưởng
thái-bình, hạnh-phúc.”
Đức Hộ-Pháp nói:
“Cái Tôn-chỉ của Đại-Đạo ngày nay là
gồm cả ba nhà Đạo chánh là Nho, Thích, Đạo. Chuyển cả ba Đạo ấy mà hiệp lại làm
một, nên chi chúng ta tu Đại Đạo thì phải noi theo Tôn-chỉ của Tam giáo mà tập
rèn tâm tánh. Nghĩa là phải nắm trọn:
- Tam cang Ngũ thường (Nho-giáo)
- Vẹn giữ Tam qui Ngũ giới (Phật-giáo)
- Luyện Tam bửu Ngũ hành (Tiên-giáo)
Người mà gồm được cả ba thì là gần Thần, Thánh, Tiên, Phật vậy”
7 - Triết-lý Đạo-Giáo:
Đức Hộ-Pháp nói: “Các vị Giáo-Chủ, lập giáo đều nương nơi một tinh thần của
họ, tinh-thần hữu-định ấy có căn-nguyên trong tinh-thần của toàn nhơn-loại. Họ
chỉ lấy một thuyết trọng yếu đặng làm triết-lý Đạo-Giáo của họ, tỷ như:
- Thánh-Giáo Gia-Tô lấy TÂM làm căn bản,
- Lão-Giáo lấy THÂN làm căn bản,
- Hồi-Giáo lấy TÍN-NGƯỠNG làm căn bản,
Mỗi Giáo-lý đều có sở-năng làm trung-tâm-điểm đặng vi chủ tinh-thần của con
người trong chỗ khuyết điểm của họ. Có một điều Bần-Đạo xét đoán lấy làm sợ sệt
hơn hết là nền Tôn-Giáo của Đức Chí-Tôn lấy Tinh Thần làm căn bản. Hỏi vậy,
tinh-thần của nhơn-loại hiện ở dưới quyền áp bức của văn-minh vật-chất, tinh-thần
ấy có đủ quyền năng tự-vệ lấy họ chăng? Tinh-thần họ có đủ lực-lượng chiến thắng
chăng?
Nếu thoảng tinh-thần của nhơn-loại không quật khởi lên, tự-quyết, tự-chủ, tự
định-phận đặng mà phải chịu làm nô lệ cho văn-minh vật-chất, thì tương-lai của
Đạo Cao-Đài sẽ ra sao ? Mà chẳng những phải tự bảo vệ chiến thắng mà thôi, mà
còn phải bảo vệ chơn tướng của đạo đức tinh thần của loài người trở mặt ra đối
với tinh-thần cường liệt của Chí-Tôn, thì tương-lai nơi mặt thế này sẽ như thế
nào ? Chúng ta cũng nên để có một câu hỏi.(?)
Có một điều ta nên để mắt nhìn coi Chí-Tôn tạo hình thể nào đặng bảo trọng
tinh-thần đạo-đức ấy. Ấy là một phương-pháp ta nương theo đó đặng tạo dựng khối
đức tin vững chắc bền-bĩ vậy.”
8 - Cao-Đài là Tôn giáo
toàn cầu:
Đức Hộ-Pháp nói: Tôn giáo, Ngài vi chủ năm châu hiệp Tín ngưỡng lại, qui nhứt
mà thôi. Nắm cả Tín-ngưỡng của loài người lại, chính CHÍ TÔN là CHÚA TỂ Càn
Khôn Thế Giái, làm CHÚA nền chính trị tại nước NAM, vi chủ tinh thần loài người
tức đủ quyền năng lập QUỐC ĐẠO. Kỳ khai ĐẠI ĐẠO TAM KỲ tạo một linh-đài qui
Tín-ngưỡng của toàn nhơn-loại, đủ quyền năng tiêu-diệt Tà pháp đặng đem nhơn-loại
đến ĐẠI-ĐỒNG.
Nay Đức Chí-Tôn khai Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ là đúng theo lời sấm truyền của
các vì GIÁO CHỦ ngày xưa.
Chỉ có hai phương diện là :
1 - Là do TAM GIÁO thất kỳ
truyền
2 - Là chính mình ĐỨC CHÍ TÔN giáng cơ lập ĐẠO đặng qui nguyên phục nhứt, gọi
là chấn hưng TAM GIÁO lại cho hoàn toàn, lập luật pháp khuôn viên cho phù hợp
theo dân trí buổi này mới tìm phương độ rỗi nhơn sanh, hiệp cả TINH THẦN của
các dân tộc biết nhìn nhau một CHA chung là thuận hòa cùng nhau, thật hành chủ
quyền THƯƠNG-YÊU, chung thờ một Tôn-giáo ĐẠI ĐỒNG thì nhơn loại mới gội nhuần
ân huệ và đời tranh đấu tự diệt sẽ trở nên đời MỸ TỤC THUẦN PHONG thì vạn loại
mới chung hưởng cơ HÒA-BÌNH, phục hồi THƯỢNG CỔ là do THIÊN THƠ tiền định buổi
hạ nguơn chuyển thế hoán cựu duy tân.
Tóm lại, ĐỨC CHÍ TÔN khai ĐẠO KỲ thứ ba này là thuận theo lẽ tuần-hoàn
“châu nhi phục thủy”
“ĐẠO CAO ĐÀI là nền CHÁNH GIÁO tức là nền ĐẠO CAO ĐÀI này để thay thế tất cả
Tôn giáo đã có từ trước. Vì lẽ các Tôn giáo ấy ngày nay không phù hợp với lương
tri, lương năng của loài người nữa. Hay nói một cách khác là các nền Tôn giáo ấy
ngày nay đã bị bế.
“Những điều bí yếu bí trọng trong nền
ĐẠO CAO ĐÀI, những triết lý cao siêu mà chỉ ĐẠO CAO ĐÀI mới có, tuy nhiên âu
cũng là một đặc ân của ĐỨC CHÍ TÔN dành cho ĐẠO CAO ĐÀI là HỘ PHÁP thay lời ĐỨC
CHÍ TÔN nói ĐẠO cho toàn thể con cái của Ngài nghe, quí hay chăng là chỗ
đó” (ĐHP).
9 - Từ trước nước Nam chẳng
Đạo nhà:
Đức Chí-Tôn đã xác nhận điều ấy rằng “Từ trước nước Nam chẳng Đạo nhà”
Đức Quyền Gíáo-Tông cũng có nói rõ lý-do là Việt-Nam từ trước đến giờ không
có Đạo.
“Quả thật vậy! Người nước Nam từ cổ
chí kim thật không có ĐẠO trong nưóc nhà, mà người Nam ta có tâm đạo, người Nam
trổi danh khắp địa-cầu về bề tín-ngưỡng: đạo PHẬT, đạo TIÊN, đạo NHO tuy khai
bên ẤN-ĐỘ và TRUNG HOA, sau người Nam biết
đặng cũng hết lòng sùng bái.
Đạo GIA-TÔ của mấy vị Linh-mục bên Thái-Tây đem truyền bá bên nước ta thì
người Nam cũng kính trọng. Phần nhiều trong người Nam thì hay đi chùa, đi miễu,
đi nhà thờ cầu-khẩn, vọng tưởng hết lòng, ngưỡng-mộ trời Phật. Người không đi
chùa, đi miễu, không đi nhà thờ thì trong nhà cũng thờ cha mẹ quá vãng ấy là đạo
NHO.
Mấy bằng cớ trên đây chỉ rõ-ràng người Nam-Việt tin-tưởng Trời, Phật,
Thánh, Thần; tin-tưởng chắc rằng người chết thì cái xác phàm này chết, tiêu diệt,
chớ linh hồn bất tiêu bất-diệt. Vì Đạo-Tâm ấy mà trong thời-kỳ chuyển Đạo này ĐẤNG
CHÍ-TÔN thương lòng thành-thật của nhơn sanh nơi đây mà khai TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ
(ân-xá lần thứ ba).
10 - Đức Chí-Tôn đến chuyển
Quốc-Đạo:
(Lời Đức Hộ-Pháp nói ngày
14-10-Quí-Tỵ)
“Thật ra, nếu không phải cái huyền
linh vô đối của Đức Chí-Tôn đến đặng chuyển Quốc Đạo thì trong một thời gian ngắn
ngủi nền Đạo chưa rõ đến địa vị cao trọng và qúi hóa như thế này.
ĐẠO CAO-ĐÀI tức đạo Tổ-phụ của chúng ta chỉ mới có hai mươi mấy năm thôi; nếu
chúng ta kể từ ngày chuyển thế của nó. Nhưng Thánh-thể Đức Chí-Tôn và toàn thể
con cái Nam Nữ của Ngài nên nhớ rằng: Đạo Tổ-phụ mấy người đã 2.500 tuổi. Phải
nhớ điều đó.
Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó.
Để nói rõ Thánh ý của Đức Chí-Tôn đến mức nào và Ngài muốn gì ? Giờ phút
này cả toàn con cái của Ngài chắc có lẽ thắc-mắc. Vì vậy: Nội tình của Đạo gặp
nhiều nỗi khó khăn, nếu chúng ta không nói rằng nó đã chịu một khó khăn về mọi
phương diện.
Nhưng đối với Bần-Đạo, Bần-Đạo thấy mỗi phen Đạo chịu khổ nhục, chịu khó
khăn hay bị chê rẻ khinh khi thì Bần-Đạo lại vui mừng mới chướng cho chớ ! Bởi
mỗi phen như thế là mỗi phen Đức Chí-Tôn muốn rửa-ráy nó, tô điểm nó đến một địa
vị cao trọng thêm nữa chớ chẳng chi khác. Cả con cái Đức Chí-Tôn đều tin nơi Bần-Đạo
để con mắt quan sát coi có quả như vậy hay không?
Cái khó đảm-đương
đương-nhiên bây giờ làm cho thêm nhục cơ-thể Đạo là sửa soạn tô điểm đặng một
Đài vinh diệu vô đối. Trong thời gian ngắn ngủi tới đây, nếu cả con cái Đức
Chí-Tôn có Đức-tin thì hiểu rõ điều ấy.
11 - Cao-Đài là gì? Lý do nào
khai Đạo?
Đức Hộ-Pháp nói về Tân giáo Cao-Đài:
“Đạo Cao-Đài tức là ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ
PHỔ ĐỘ khai sáng vào thời-kỳ này là do Thiên-cơ tiền định và cũng hợp với lời
tiên-tri của các Đấng Giáo-Chủ đã khai mở các Đạo-giáo trên thế-giới.
“Theo Phật-giáo, Lão-giáo và Khổng-giáo
thì đều dạy rằng: thời-kỳ này là thời-kỳ hạ nguơn khiến đời tận diệt để chuyển
xây trở lại Thượng nguơn Thánh-đức với một kỷ-nguyên mới. Đặc biệt Đức Thích-Ca
Mâu-Ni khi lập giáo có cho biết đến năm 2.500 kỷ-nguyên Phật giáo, là thời-kỳ để
cho Đức Di-Lạc ra đời mở Hội-Long Hoa lập một kỷ nguyên mới đó vậy”.
Cao-Đài là gì? - Nho-Giáo nói rằng trên đỉnh đầu là Đấng Cao-Đài. Đã nói là
Cao thì không còn chi cao hơn nữa để tôn tặng Đức Thượng-Đế là Đấng tối cao, tối
đại. Ngày nay chính Đấng Thượng-Đế mở Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ xưng danh là “Ngọc-Hoàng
Thượng-Đế viết Cao Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát Giáo Đạo Nam phương".
CAO-ĐÀI là cái Đài cao, xưa muốn cầu Thần Tiên thì cất một cái Đài cao bằng
tranh lá rồi lên đó để cầu-đảo gọi là thảo-đài. Nay chính Đấng Thượng-Đế đến với
nhân loại mở Đại-Đạo nơi đất nước Việt-Nam chính là mở cơ Đại-Ân-Xá lần ba để độ
dẫn 92 ức nguyên-nhân còn đắm mê hồng-trần.
Danh xưng “CAO-ĐÀI TIÊN-ÔNG ĐẠI-BỒ TÁT MA-HA-TÁT” là gồm cả Tam-giáo gọi là
Tam Giáo Qui Nguyên:
- Cao-Đài là tượng-trưng cho
Nho-Giáo.
- Tiên-Ông là chỉ Tiên-Giáo.
- Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Phật
Giáo.
Chính Đấng Thượng-Đế đã nói về việc xưng danh ấy, tức nhiên quyền Chưởng quản
Càn Khôn vũ trụ là một mà ba, mà ba cũng như một là vậy.
Thầy dạy:
“Các con coi bậc Chí-Tôn như Thầy mà
hạ mình đặng độ-rỗi nhơn-sanh là thế nào, phải xưng là môt vị Tiên-Ông và Bồ-Tát
là hai phẩm chót của Tiên Phật. Đáng lẽ thế thường phải để mình vào phẩm tối-cao
tối trọng, còn Thầy thì khiêm-nhượng là thế nào. Vì vậy mà nhiều kẻ Môn-đệ cho
Thầy là nhỏ. Cười..!.
“Hạnh khiêm-nhường là hạnh của mỗi đứa
con, phải noi theo gương Thầy mới độ rỗi Thiên-hạ đặng. Các con phải
khiêm-nhường sao cho bằng Thầy. Thầy lại nói
buổi lập Thánh-Đạo, Thầy đến độ rỗi kẻ có tội lỗi. Nếu đời không tội-lỗi,
đâu đến nhọc công Thầy.
“Ấy vậy, các con ráng độ kẻ tội lỗi
là công lớn làm cho Thầy vui lòng hơn hết.
12 - Tại sao gọi là CAO-ĐÀI ?
Có nhiều Hội-giáo đã lập thành có trót trăm năm trước khi mở Đạo đặng dạy lần
cho Vạn-quốc rõ thấu chánh-truyền.
“Ngày nay Thầy mới đến lập một cái
CAO-ĐÀI 高臺 nghĩa là Đền thờ cao trọng hay là Đức-tin lớn tại
thế này (La haute Église ou plus grande foi du Monde) làm nên nền Đạo; lại mượn
một sắc dân hèn-hạ nhỏ-nhít của hướng Á-Đông là An-nam ta, đặng cho trọn lời
tiên tri “Đạo xuất ư Đông” 道出於東 và cho trúng Thánh-ý chìu
lụy hạ mình của Thầy lập thành Hội-Thánh, làm hình thể Thiêng-liêng của Thầy hầu
cầm cho đặng dùi trống Lôi Âm giục giọng truy hồn, nắm cho chặt chày chuông Bạch
Ngọc đặng trổi hơi định-tánh làm cho cả con cái của Thầy thức tỉnh, nhìn Thầy
mà trở về quê cũ” (Pháp-Chánh-Truyền)
Hiện-tượng Đức Chí-Tôn đến mở Đạo Cao-Đài Là do thuở trước cổ-nhân muốn cầu
chư Tiên, Phật phải cất một cái Đài cao bằng tranh lá gọi là thảo-đài.
Ngày nay, Chí-Tôn lập Cao-Đài để làm Tòa ngự của Thần, Thánh, Tiên, Phật đến
hồng-trần này làm bạn cùng người, hiệp cả loài người làm một.
Đức Hộ-Pháp cũng xác nhận rằng:
"Nếu giờ phút này thiên-hạ đừng cho ta dị-đoan, chúng ta có thể nói Đức
Chí-Tôn biết tình trạng nhơn-loại đã đến mức tự diệt nhau nên Ngài đến tạo nền
Chơn-giáo của Ngài, tức nhiên ĐẠO CAO-ĐÀI, cho nhơn-loại gìn giữ phần hồn đặng
định chuẩn-thằng cái sống của họ, đừng cho nó đến cảnh điên của nó, mà họ đến cảnh
điên tức đến cảnh tự diệt. Đức Chí-Tôn đến đặng cho huờn thuốc phục sinh đặng
cho nhơn-loại sống lại là Đạo-đức tinh thần của Đức Chí-Tôn tạo cho họ, ĐẠO
CAO-ĐÀI chính là cái sống linh-hồn nhơn-loại, bảo vệ tánh mạng tức nhiên
Chơn-thần của họ, đặng họ tránh cái nạn tiêu-diệt”.
Ấy, lời tiên-tri trong sách “Ấu-học Tầm nguyên” về sự xuất hiện của Đạo
Cao-Đài.
Đúng như lời tiên-tri trong quyển “Giác mê-ca” mà tác-giả là một Đạo-gia có
ghi lại đoạn văn như sau:
Hữu duyên mới gặp Tam-kỳ
Phổ-độ
Muôn đời còn tử-phủ nêu
danh,
Ba ngàn công-quả đặng viên
thành,
Mới đặng Thiên-thơ chiếu-triệu.
Đoạn văn thơ này có mục-đích báo cho nhân-loại biết trước rằng chỉ có người
hữu-duyên mới gặp được Tam-Kỳ Phổ-Độ, hầu do theo chơn-lý Chánh-truyền ấy mà
làm phương thoát tục mới mong trở về ngôi xưa vị cũ mà cởi bỏ cái kiếp trần-ai
nặng nợ này. Điểm tới đích đó là Niết-Bàn, Đạo Cao-Đài nói là cảnh Thiêng-liêng
Hằng sống. Niềm tin hứa-hẹn của Tam-Kỳ Phổ-Độ đã đến, đã ứng hiệp:
“Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ chiếu theo luật
Thiên đình, Hội Tam-giáo mở rộng mối Đạo Trời, ấy cốt để dìu dắt nhơn-sanh bước
lên con đường Cực-Lạc tránh khỏi đoạ luân-hồi và dụng Thánh-tâm mà dẫn
dân-sanh, làm cho hoàn-toàn trách-nhiệm nặng-nề của Đấng làm người, về bực
nhơn-phẩm ở cõi trần-ai khốn-đốn này”.
Phải lập cho được 3.000 công quả:
Lời tiên-tri cũng cho biết rằng, cơ đắc Đạo là phải có đủ “Ba ngàn công-quả”.
Vậy 3.000 công-quả ấy là gì?
Sách Nam-Hoa-Kinh của Trang-Tử có ghi rõ:
- Chí-nhân vô kỷ (0) người có lòng nhân thì quên mình mà lo cho người.
- Thần-nhân vô công (0) đứng vào bậc Thần thì làm mà không tính công.
- Thánh-nhân vô danh (0) vào bậc Thánh thì làm mà không kể đến danh.
Một người tu-hành thật-sự có thể-hiện được các yếu lý ấy là đạt được 3.000
công-quả, nghĩa là đạt cho được ba điều (0) không ấy, là người tu chơn-chánh
thì quên mình làm nên cho người, chẳng ham công, chẳng mến danh. Thật vậy ba đầu
mối quan-hệ nhất của người tu là:
1 - Không còn nghĩ đến mình, mà chỉ nghĩ đến người, đến chúng-sanh, đến mối
Đạo phải được sớm hoằng-khai, sớm được Phổ-độ.
2 - Người làm Đạo chỉ biết hết mình lo cho lý-tưởng Đạo-pháp làm cho hết việc
chớ chẳng phải đợi cho hết giờ.
3 - Không tham công, chẳng mến danh mới đạt được cái chơn-lý phụng-sự.
Nếu nói như vậy thì tại sao các Chức-sắc ngày hôm nay theo luật công-cử phải
có đủ thời-gian công-quả?
- Đó chỉ là cái lằn mức để được thăng phẩm-vị hầu tiếp-tục con đường Phụng-sự,
còn đã là công-quả thật-sự thì phải đo bằng “cái lương-tâm” mà thôi. Dù cho nói
rằng năm năm, ba năm, nhưng chính thực mỗi người phải “tự biết xét mình” là điều
trọng-hệ nhứt.
Đạo là lý, muốn cho thấu-lý Đạo phải luận, từ đó mới có lý-luận, thuyết-luận,
giảng-luận.
13 - Tam giáo thất chơn
truyền:
Có thấy được sự suy-đồi của Tam-giáo qua thời gian làm cho thất chơn-truyền,
Cao-Đài Đại-Đạo mới ra đời để cứu nguy cho nhân-loại, mà khởi điểm là Việt Nam.
Như vậy thì liệu sự thất chơn-truyền ấy do đâu? Bởi đâu? Vì đâu ?
Đức Hộ-Pháp nói: “Những cơ-quan và những hành vi hiện-tượng của các
Tôn-giáo đương-nhiên ngày nay như dường biến thành cổ-vật, nên đã mất cái hay để
giúp đời tự-trị, tự giác, tâm hồn thiếu nơi an-ủi, tư-tưởng mất pháp chuẩn thằng,
trí thức không phù hành-động, biểu sao đời không trở nên một trường náo-nhiệt,
rắc-rối, khó khăn, rồi giục cho cả nhơn sanh dong ruổi trên con đường duy-vật
mà quên hẳn cái quyền vi-chủ của trí-thức tinh thần. Ôi, thử nghĩ cái ngày nào
trí-thức tinh-thần đã tiều tụy, thì cái lương-tri, lương-năng cũng do đấy mà
tiêu-tàn, thì con người đứng giữa cõi trần-hoàn này phải trở nên bao nã ?
.. “Tưởng lại, tương-lai của Đạo Cao-Đài do nơi cái sở hành và cái tư-tưởng
cao-thượng của nó, ngày nay nó có thể hứa với nhơn-sanh rằng: một ngày nào
chúng ta sẽ hưởng điều hạnh-phúc ấy”.
Quả thật, “Đức Chí-Tôn hoằng-khai Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ tức là thành lập một
trường công-quả tại thế gian này để cho tất cả nhơn-sanh thi đua lên nấc thang
tiến-hóa tột phẩm thiêng-liêng, cao thấp tùy nơi sở-hành của mỗi người muốn
cùng chẳng muốn”.
Tam-giáo thất-kỳ-truyền như thế nào?
Đạo Cao-Đài hôm nay phải xuất hiện, theo như lời Đức Hộ-Pháp nói, chính là
do:
“Tôn-giáo thất-kỳ-truyền: Nho,
Thích, Đạo, hiện nay đã trở nên phàm-giáo, chư Đệ-tử trong ba nhà Đạo không giữ
giới-luật qui điều, canh-cải chơn-truyền, bày ra các điều giả cuộc làm cho
Tam-giáo biến thành dị hợm.
- Đệ-tử nhà Đạo, chẳng tùng pháp-giáo của Đức Thái-Thượng Lão-Quân. Tuy ở
trong nhà Đạo mà tức thị mê-tín dị-đoan.
- Đệ-tử nhà Thích không thuận theo lời giảng dạy của Đức Phật Thích-Ca,thì
đệ-tử nhà Thích dị-đoan mê tín.
- Đệ-tử nhà Nho chẳng thực-hành điều mục của Đức Văn-Tuyên Khổng-Thánh, thì
đệ-tử nhà Nho dị-đoan bất chánh.
Tóm lại, hai chữ “Dị-đoan” nghĩa là đồ theo không trúng kiểu cái qui-giới
thể-lệ chơn truyền của Tam giáo.
Hồi tưởng lại việc đã qua trong các thời xưa, nhứt là thời cận đại và lấy
kinh-nghiệm xét đoán, nhận thấy nơi nào hễ sôi-nổi phong-trào náo-loạn lôi cuốn
con người vào lối diệt-vong thì cập theo đó sản-xuất một mối Đạo mới để cứu vớt
sanh-linh khỏi nơi đồ-thán.
Như trước kỷ-nguyên Thiên-Chúa Giáng sanh, nhơn-loại cơ hồ bỏ qua lời truyền
của Đức Phật Thích-Ca, vạch rõ con đường Bát-chánh để làm phương giải khổ; quên
hẳn lời dạy của Đức Khổng-Tử giữ Đạo nhân-luân, tạo nhân kết nghĩa để làm cửa
điều-hòa xã-hội và vì khinh thường huấn-ngôn của các Đấng ấy, nên cơ đời thuở nọ
lâm cơn hỗn-độn thì Cơ-Đốc-giáo ra đời Cứu Thế. Chưa mãn hai ngàn (2.000) năm
hoằng khai Công-giáo thì nhân loại lần lần không quan tâm đến lời của Đấng
Christ tiên tri số-phận điêu linh của loài người trong khoảng đời mạt kiếp này.
Lời tiên-tri ứng-nghiệm về Đạo Cao-Đài xuất hiện” .
PHÁP TU THEO CAO-ĐÀI
Xem ra Dịch như một vải áo, còn Đạo như một cái áo cắt ra từ tấm vải ấy. Do
vậy mà Lý Dịch luôn luôn hiển-hiện trong tinh thần Đại-Đạo như bóng với hình.
Vì vậy, người Tu theo Đạo Cao-Đài là tu nhập thế; tức nhiên:
- Hằng ngày hành theo tinh-thần Nhân nghĩa; Phụng sự cho chúng-sanh theo
Nho-Đạo.
- Phương-pháp tu là luyện Tinh- Khí- Thần, là phép tu Tiên-đạo. “Phép Tiên
Đạo tu chơn dưỡng tánh”.
- Nhưng đắc vào hàng Phật-đạo (Bởi nếu đi theo Cửu-Trùng-Đài, đến tuyệt-phẩm
là Giáo-Tông vào hàng Phật-vị; còn đi theo Hiệp-Thiên-Đài đến tuyệt phẩm là Hộ-Pháp
cũng vào hàng Phật-vị).Đó là tinh-thần Qui Tam giáo của Cao Đài Đại Đạo ngày nay là vậy.
F - Ba Thời kỳ khai Đạo:
Nay Đạo Trời khai sáng tại Việt-Nam đây cũng do
nguyên-lý là “Đạo xuất ư Đông”. Từ cổ chí kim, tạo thiên lập địa, Đạo đều phát
khởi từ phương Đông (là các nước ở miền Á-Đông (Asie)
như các nền chơn-giáo trước kia: Nho 儒, Đạo 道, Thích 釋 cũng đều phát khởi nơi miền Á Đông rồi lần lần truyền-bá qua phương Tây
như:
- Đạo Phật thì khai tại Thiên-trước là Đức Nhiên Đăng Cổ-Phật và Đức Thích-Ca Mâu-Ni khai Phật-giáo.
- Đại-Đạo là Đạo Tiên, Lão-Tử khai tại Trung-Hoa.
- Sau nữa Khổng-Tử khai Đạo Thánh cũng tại Trung-hoa là ở miền Á-Đông. Sau
lần lần Đạo trải khắp qua hướng Tây, nên Đức Chúa Jésus truyền Đạo Thánh tại hướng
Tây. Kế đó Đạo mới roi truyền ra khắp năm châu đến để làm Giám-khảo cho kỳ
Long-Hoa Đại Hội.
Tuy nhiên nay đã qua ba thời-kỳ khai Đạo:
- Hồi Nhứt-kỳ Phổ-Độ cầm quyền vi chủ là Đức Nhiên-Đăng Cổ-Phật.
- Đến Nhị-kỳ Phổ-Độ là Đức Thích-Ca Như-Lai.
- Qua Tam-kỳ Phổ-Độ là Đức Di-Lạc Vương-Phật đến để làm Giám-khảo cho kỳ
Long-Hoa Đại hội.
Qua hai thời kỳ Phổ Độ rồi, mỗi lần Phổ Độ như vậy đều có đủ Phật, Tiên,
Thánh giáng trần tùy theo phong hóa của tư phương mà gầy Chánh giáo, như:
Nhứt Kỳ Phổ-Độ:
- Phật đạo có Đức Nhiên đăng cổ Phật Chưởng-giáo
- Tiên đạo có Đức Thái-Thượng Đạo Tổ Chưởng giáo
- Thánh Đạo: Đức văn Tuyên Đế quân
Chưởng giáo.
Nhị Kỳ Phổ-Độ:
- Phật Đạo: Thích-ca Mâu-Ni làm Chưởng giáo
- Tiên Đạo: Thái Thượng Lão-Quân làm Chưởng giáo
- Thánh Đạo: Đức khổng-Tử làm Chưởng giáo
Thánh ở phương Đông gọi là Ông Thánh Ta
Thánh ở phương Tây là Đức Chúa Jésus gọi là Thánh Tây
Tam-kỳ Phổ-Độ Tam Trấn Oai-nghiêm:
- Phật Đạo thì Quan-Âm Bồ-Tát thay quyền Phật giáo là Nhị Trấn Oai nghiêm.
- Tiên Đạo thì Thái-Bạch Kim-Tinh làm Nhứt Trấn Oai nghiêm thay quyền Tiên
giáo..
- Thánh-Đạo thì Quan-Thánh Đế-Quân làm Tam Trấn Oai nghiêm thay quyền Thánh
giáo.
Nay qua Tam-Kỳ Phổ-Độ thì chính Đấng Thượng Đế đến mở Đạo và Ngài làm
Giáo-Chủ vô vi, chứ không giao Chánh giáo cho tay phàm nữa, bởi hậu quả là càng
ngày càng canh cải làm cho ra phàm giáo, nhưng phải lập Chánh thể cho có phương
thế mà dìu dắt nhơn sanh trên con đường hành thiện. Do vậy mà ngày nay lập Tam
Trấn Oai nghiêm để thay quyền Tam giáo:
* Ngày 14 tháng 10 Bính-Dần, nhằm ngày 18-11-1926, Ðức Chí-Tôn dạy thiết Ðại
Lễ Khai Ðạo chánh thức tại Từ-Lâm-Tự tỉnh Tây-Ninh, đồng thời Ðức Chí-Tôn lập
Pháp-Chánh-Truyền phong vị cho Chức-Sắc Hiệp-Thiên Ðài, Cửu-Trùng-Ðài và Ðức
Chí-Tôn dạy nhóm Hội Thánh lập Luật. Vậy sau ba tháng Ðại-Hội, Ðạo đã có Pháp,
có Luật thì nghiễm nhiên Ðạo thành một nền Tôn Giáo danh gọi là Ðại-Ðạo Tam Kỳ
Phổ-Ðộ.
Như vậy, Đức Thượng Đế quyết định: “Thầy lấy đức háo sanh mở Đạo lần ba mà
vớt kẻ hữu phần tránh khỏi nơi buộc ràng khổ phạt. Ai hữu phước đặng để chân
vào, kẻ vô phần phải bị Tà yêu cám dỗ”.
Thầy xác định rằng:
“Thầy lấy đức háo sanh mở Đạo, cứu rỗi
sanh linh cho kịp trước kỳ Hạ nguơn này, nhưng Đạo chẳng hoàn toàn, con đường
đi chưa cùng bước là vì tại lòng nhiều đứa chưa để hết Tín ngưỡng mà nghe lời
Thánh giáo, cho nên nền Đạo phải ra tan tành manh mún”.
1- Đại-Ân-xá là gì?
Việt Nam này hân-hạnh được đón nhận trước tiên nền Chánh giáo, để rồi
thông truyền cho cả thế giới một nền Tân Tôn-giáo với chủ-nghĩa Đại-Đồng để hưởng
Cơ Đại-Ân xá lần ba của Đức Thượng-Đế.
Đại-Ân-xá là
gì? Tức là một cuộc ân-xá lớn (tiếng
Pháp gọi là Troisième Amnistie de Dieu en Orient).
“Mỗi nguơn hội Đức Chí-Tôn với lòng Từ-bi tha thiết thương con cái của Người không nỡ để chìm đắm nơi sông mê bể khổ, nên mỗi nguơn hội Đức Chí-Tôn có mở một kỳ Phổ-Độ để cứu vớt nhơn-sanh và rước các
Nguyên nhân tức là nguyên-linh đã xuống trần nay đem trở về ngôi vị cũ. Như thế
thì mỗi Kỳ Phổ-Độ đều có mở một cuộc Ân xá, mở cửa dễ dàng cho các Đẳng chơn hồn
có đủ phương lập vị. Nền Đạo này là Cơ Đại-Ân-Xá tận độ chúng sanh nên Cao-Đài xưng là Đại-Đạo. Vì chủ-nghĩa tối
cao của Đại-Đạo chẳng những là QUI TAM-GIÁO HIỆP NGŨ CHI mà thôi, mà phải làm
thế nào dầu bậc Đế vương ngoài thế cũng phải bái phục, phải tùng Đạo, phải dò
theo các cơ thể của Đạo, phải nhờ Đạo mới mong trị an thiên hạ đặng. Vậy mới gọi là HIỆP NHỨT.!
Vậy mới gọi là ĐẠI-ĐẠO!
Đại-Đạo ngày nay cũng là Phật-Đạo vì gồm hết Tam giáo Nho, Thích, Đạo và
Thích-Ca cũng là Thầy, Thầy là Thích-Ca”.
2 - Tam nguơn của Trời đất:
- Thượng-nguơn: là nguơn tạo-hóa ấy là nguơn Thánh-đức, tức là nguơn vô tội
(cycle de création c’est-à-dire cycle de l’innocence)
- Trung-nguơn là nguơn Tấn-hóa, ấy là nguơn tranh đấu, tức là nguơn tự diệt
(Cycle de progrès ou cycle de lutte et
de destruction).
- Hạ-nguơn là nguơn bảo-tồn, ấy là nguơn tái tạo, tức là nguơn qui cổ
(cycle de conservation ou cycle de reproduction et de rénovation)
Đạo có ba nguơn chính, mà nguơn Tạo-hóa là Người đã gầy dựng Càn Khôn vũ trụ.
Vậy khi mới tạo thiên lập địa nhơn-loại sanh ra tánh chất con người rất đỗi hỗn
độn, còn đương thuần phát thiên lương, nên chi cứ thuận tùng thiên-lý mà hòa-hiệp
dưới trên, tương thân tương ái, thời kỳ ấy người người đều hấp thụ khí Thiên
nhiên, nên hằng cộng hưởng thanh-nhàn khoái lạc mà vui say mùi đạo-đức tháng
ngày, bởi cớ đời Thượng-cổ mới có danh là Thượng đức. Thượng nguơn ấy cũng kêu
là đời Thượng đức nữa.
Kế đó bước qua Trung-nguơn thì nhơn tâm bất nhứt, tập quán theo thế đời,
thâm nhiễm nhiều nết xấu làm cho xa mất điểm Thiên lương, nên chi nay Đại-Đạo
ra đời.
3 - Tam tài: Thiên Địa
Nhân.
“Nho-Tông của chúng ta có để 3 câu
trọng yếu, muốn lập quốc, muốn tạo hạnh-phúc cho dân, quốc dân phải có đủ 3 điều
kiện: “Thiên-thời, địa-lợi, nhơn-hòa”.
Ấy vậy chúng ta kiếm thử coi trong ba điều-kiện để tạo cho dân coi có
phương thế gì giải khổ cho thuận lợi hay chăng?
- Thiên-thời tức nhiên theo mạng Trời, Trời đã định cho mình thì mình phải
tùng mạng Trời, tùng mạng Trời tức-nhiên tùng Đạo. Thiên-thời tức nhiên là Đạo,
không thể gì chối được.
- Địa-lợi là gì ? Là cả thảy địa-dư toàn trong nước dân đều hiền, đất sung
túc được hay chăng ? Bực thượng lưu, trí-thức cần nên tưởng lại câu ấy, mà câu ấy
là của ai? Quốc-Vương, Thủy-Thổ, Địa-Lợi, dầu không đặng hưởng địa-lợi nó cũng
biến địa-lợi, mà phải có đạo-đức, có nhơn tài tạo mới được.
- Nhơn-hòa đặng chi ? Nếu cả thảy không có hòa thì loạn-lạc, hễ loạn-lạc
thì có giặc-giã chiến-tranh”.
Chúng ta là con dân Việt-Nam có niềm tự hào về đất nước của mình, về dân-tộc
của mình và nhất là về tinh thần Tín-ngưỡng của mình.”
4 - Đạo xuất ư Đông
Ðạo là tối trọng tối quí trong đời, Ðạo vẫn có trước rồi mới có Đời. Ðạo Đời
đi cặp nhau. Ðạo như cái lưới bao trùm Càn khôn Thế giới, không có việc chi từ
lớn chí nhỏ mà ra khỏi Ðạo. Nay vì cuộc tuần hoàn và vì căn bổn háo sanh nên Ðấng
Chí Tôn chuyển Ðạo lại.
Dẫn hồi tạo Thiên lập Ðịa thì nội vùng Á Ðông đây văn minh trước, nên từ
Bàn Cổ sơ khai, Ðạo cũng khai bên vùng Á Ðông trước, như:
- Ðạo Phật thì mở khai tại Thiên Trước là Ðức Nhiên Ðăng Cổ Phật,
- Thích Ca khai Ðạo Phật.
- Ðại Ðạo là Ðạo Tiên thì Lão Tử khai tại Trung Huê
- Sau nữa Khổng Phu Tử khai Ðạo Thánh cũng ở Trung Huê
là ở miền Á Ðông.
- Sau lần lần Ðạo trải khắp qua hướng Tây nên Ðức Chúa Giê-Su truyền Ðạo
Thánh bên hướng Tây. Kế đó Ðạo mới rọi truyền
ra khắp năm châu.
Ngày nay là châu nhi phục thỉ, nên Ðại Ðạo phát ra tại Á Ðông nầy. Bởi cớ ấy
nên trong bài Khai Kinh của Ðức Lữ Tổ cho hai câu đầu như vầy:
"Biển trần khổ vơi
vơi trời nước,
Ánh thái dương rọi trước phương Đông... "
Mặt trời mọc hướng
Ðông rồi lần lần lặn thì qua hướng Tây, Ðạo truyền ra
cũng như thế.
Người Nam Việt tin tưởng Trời Phật, Thánh Thần, tin tưởng chắc rằng chết
thì cái xác phàm nầy chết tiêu diệt, chớ linh hồn bất tiêu bất diệt, vì đạo tâm
ấy mà trong thời kỳ chuyển đạo nầy Ðấng Chí Tôn thương lòng thành thật của nhơn
sanh nơi đây mà khai Tam Kỳ Phổ Ðộ (ân xá lần thứ ba).
Tuy khai Ðạo tại
nước Nam mà cũng khởi ư Ðông. Bàn Cổ sơ khai Thiên khai ư Tý, Ðịa tịch ư Sửu, Nhơn sanh ư Dần. Từ
năm Bính Dần, Ðạo phát khai tại Tây Ninh lần lần truyền ra Gia Ðịnh, Biên Hòa,
Thủ Dầu Một, Chợ Lớn là mấy hạt ở về hướng Ðông. Qua năm thứ nhì thứ ba, Ðạo mới
truyền ra mấy hạt hướng Tây.
Trong thời đại Hạ nguơn đây, nhân loại ở thế gian phần đông vì ham cái văn
minh vật chất, ham ăn mặc sung sướng, giành giựt cấu xé mồi phú quí, bả vinh
hoa, vẻ cân đai, mùi chung đỉnh, mạnh còn, yếu mất đua chen lẫn lộn.
Than ôi! Nhân loại như thế sao khỏi động lòng Trời!
G - THỂ-PHÁP ĐẠI-ĐẠO
Vài nét Cơ bản:
Mọi vật trong trời đất luôn hiển hiện ba ngôi nhưng cùng một bản thể, gọi
đó là Tam ngôi nhứt thể, là cùng chung một bản thể duy nhứt, cũng còn gọi là
Tam bửu tức là ba món quí báu nhứt,
không thể xa lìa nhau được.
Trong gia-đình là hình ảnh của “Cha- Mẹ-Con” đều có cùng chung một bản thể.
I - HUYỀN DIỆU CƠ BÚT
1 - Tại sao mở Đạo Cao-Đài
Đức Chí-Tôn không giáng bằng xác thân, mà lại giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút?
1/ - Mục-đích của Đạo Cao-Đài là tận-độ chúng sanh, độ 92 ức nguyên-nhân
qui hồi cựu vị cho khỏi sa đọa hồng trần.
2/ - Ngày nay Đức Chí-Tôn mở Đạo không giáng bằng xác thân mà chỉ giáng bằng
Huyền-diệu Cơ bút, là vì thời kỳ chuyển Đạo vô-vi hiệp Tam-thanh chấn-hưng Tam
giáo Phục nhứt Ngũ chi nên Đức Chí-Tôn giáng bằng Huyền-diệu Cơ bút mới qui đặng
cả Đại-Đồng Tam giáo.
3/ - Đức Chí-Tôn làm Giáo-chủ Đại-Đạo
là Đấng vô hình, dùng HUYỀN DIỆU CƠ BÚT dạy Đạo thì dân tộc nào cũng có thể học
trực tiếp với ông Thầy Trời được, nếu họ biết dùng phép “Thông-Thần-lực”. Thế
là sự bất đồng ngôn ngữ chẳng còn là một sự thắc mắc nữa.”
Bởi:
Nhứt kỳ và Nhị-kỳ Phổ-Độ: Phật, Tiên, Thánh, giáng linh Tam-giáo; nhân buổi
nhơn-loại chẳng hiệp đồng nên ba vị Giáo-chủ đã thọ sanh riêng địa-phận, nên
hai kỳ khai Đạo vừa qua chỉ Phổ-độ trở về cựu vị có 8 ức nguyên nhân (Phật độ 6 ức, Tiên độ 2 ức).
Còn buổi Hạ-nguơn Tam-kỳ Phổ-độ là thời-kỳ ân xá tội-tình cho toàn cả chúng
sanh, lại nhơn buổi văn minh, nhơn-loại thông đồng, càn khôn dĩ tận thức cho
nên Đức Chí-Tôn dùng Huyền Cơ Diệu Bút,
giáng cơ khai Đạo, chủ-nghĩa là tận độ
92 ức nguyên-nhân qui nguyên vị.
2 - Thầy dùng ngọn Linh
bút mà khai thông tất cả:
Cơ Bút đã lập thành từ Thể pháp cho đến Bí-pháp, tức nhiên Đức Ngài chỉ
dùng ngọn Linh bút mà khai thông tất cả mọi vấn đề như:
1/ - Đức Chí-Tôn dùng Huyền diệu Cơ Bút giáng điển linh quang tiếp xúc với
nhân loại ký Đệ Tam Thiên nhơn Hoà ước mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ để dìu-dẫn nhơn
sanh lập đời Minh Đức, Tân dân, huynh đệ Đại Đồng, Hoà bình thế giới, xây hạnh
phúc cho nhân loại với hai điều kiện là BÁC ÁI và CÔNG BÌNH để bước qua Thượng
nguơn Tứ chuyển.
2/ - Thời kỳ các Đấng thiêng liêng còn ở cõi vô hình thì dùng Huyền diệu Cơ
bút thay thế cho Đức Chí-Tôn giáng dạy và dìu dẫn nhơn sanh. Các Chơn linh khác
giáng trần thay thế hình ảnh Đức Chí-Tôn lập thành Hội Thánh tức là Thánh Thể để
phổ độ chúng sanh, gieo truyền Chánh giáo nên gọi là thời-kỳ các Đấng Thánh Thần (Règne du Saint Esprit).
Ngày nay Đức Chí-Tôn đã đến, đem nền Tôn giáo của Ngài để tại mặt thế này đặng
chỉnh đốn đạo-đức tinh thần từ thượng cổ đến giờ bằng Huyền diệu Cơ Bút. Ngài đến
không có quyền nào ngăn cản, Ngài dạy con cái của Ngài, Ngài có quyền đem bí mật
huyền vi tạo đoan giáo hoá con cái của Ngài.
3/ - Ngày nay Đức Chí-Tôn đã đến, Ngài không giáng thân như các lần trước,
mà giáng linh bằng Huyền Diệu Cơ Bút. Vì lẽ đó Ngài phải lập Hội-Thánh để làm
Thánh Thể của Ngài
3 - Huyền diệu Cơ bút lập
Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ
Đức Hộ-pháp nói:
“Nếu Tôi không lầm Cơ Bút đã cho Tôi biết các Bạn Hiệp-Thiên-Đài do nơi đâu
sản xuất?
* Do để giữ quyền Thiêng-liêng nên mới có 12 vị Thời quân, Thập nhị Địa chi
tức là cảnh Thiêng liêng vô hình của chúng ta”.
“Ngày nay từ Âu sang Á làn sóng văn
minh tràn ngập khắp nơi, vật chất lấn át tinh thần, khiến cho nền luân lý cổ
truyền cõi Á-Đông phải luân lạc bởi Hạ nguơn hầu mãn nên Đức Chí-Tôn Ngọc Hoàng
Thượng-Đế dùng Huyền diệu Cơ bút lập Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ với Tôn chỉ Qui
nguyên Tam giáo Phục Nhứt Ngũ chi:
- Lấy Nho-Tông Chuyển thế
- Lấy sự Thương-yêu làm phương-pháp thực hành Chánh Đạo.
- Đức Chí-Tôn quyết cứu vớt những kẻ hữu căn thoát vòng khổ hải, tránh đoạ
luân hồi hầu vui hưởng môt hạnh phúc vĩnh cữu.
4 - Trước, Ngài mở ra Cơ
Bút dạy bằng Thánh giáo:
Đức Hộ-Pháp dặn rằng:
1/ - Mấy con nên biết rằng: Nền Đạo của Chí-Tôn là chung cho sự Tín-ngưỡng
toàn nhân loại trên mặt Địa-cầu này chớ chẳng riêng nước Việt-Nam hay mấy con”.
2/ - Các việc trong Cơ bút thống hiệp cả sự khó-khăn của Huyền-vi-cảnh với
Hữu-hình-cảnh nữa. Vậy nên việc Cơ Bút lấy làm tối trọng, dùng đến phải quan trọng.
Nếu Cơ Bút viết ra câu văn xằng-xiệu và dạy điều trái đạo lý, tốt hơn kẻ phò cơ
nên dẹp đi cho khỏi điều quan hệ về sau.
3/ - Nhơn buổi văn minh, nhơn loại thông đồng Càn khôn dĩ tận thức cho nên
dùng Huyền diệu Cơ Bút giáng Cơ khai Đại-Đạo, chủ nghĩa là độ 92 ức nguyên-nhân
qui hồi cựu vị cho khỏi sa đọa hồng trần nên gọi là cơ quan Cứu thế. Chúng ta
thấy Đức Chí-Tôn đến: Trước hết Ngài mở ra Cơ Bút dạy bằng Thánh giáo.
Nhưng khi chưa đến thì đã có Đức Phật-Mẫu đến với chúng ta lập thành khuôn
khổ một mực: dầu cho cơ quan nào “Dĩ tiểu vi đại” cũng vậy. Bà Mẹ phàm chúng ta
sản xuất nuôi dưỡng chúng ta thế nào thì Phật Mẫu cũng thế ấy” (15-8 Mậu-Tý – 1948)
5 - Có ba phẩm Đồng-tử phò
loan:
* Đức Lý, Ngài nói:
“Việc Cơ Bút Hiền-hữu tuy chưa rõ thấu
Huyền diệu cho trọn mặc dầu, chớ kỳ trung cũng đã hiểu biết chút đỉnh, chẳng phải
ai cầm Cơ mà đều đặng huyền diệu hết. Lão giải nghĩa: Có ba phẩm Đồng-tử phò
loan:
- Một là : Giáng tâm
- Hai là: Mê.
- Ba là: Giáng thủ.
Tây phương gọi là Intuitif, Semi Intuitif et Automatique. Thầy đã cho Hiền-hữu chấp
Cơ một đôi khi quả có huyền diệu, nhưng mà có nhiều khi tà bổn thân Hiền hữu nó
lại choán lấy Thiên ý mà dịch trật. Vì vậy mà Hiền-hữu phải nhiều phen thất
chí”.
6 - Hội-Thánh làm Thánh Thể
cho Ngài, tức nhiên ba Đài đều do Cơ bút lập thành:
Ngày nay Đức Chí-Tôn giáng trần lập Đạo. Ông Thầy của chúng ta là ông Thầy
Trời, giáng trần bằng Huyền Diệu thiêng liêng Cơ Bút. Ngài không có hình thể mà
làm cho chúng ta biết, không có tiếng nói mà chúng ta nghe: Có đủ Tinh – Khí – Thần
hiệp nhứt:
Bởi hình thể của Ngài là Hội-Thánh làm Thánh Thể cho Ngài, tức nhiên ba
Đài:
- Hội-Thánh Cửu Trùng Đài tượng trưng xác thân.
- Hội Thánh Hiệp Thiên Đài tượng trưng trí não.
- Bát-Quái Đài tượng trưng linh hồn
Trong cửa Đạo Cao Đài Đức Chí-Tôn mở Đạo chỉ dụng Cơ Bút mà lập thành từ Thể
pháp cho đến Bí-pháp, tức nhiên Đức Ngài chỉ dùng ngọn Linh bút mà khai thông tất
cả mọi vấn đề như thế.
7 - Tối ưu của Cơ Bút là sự
Huyền diệu:
* Đạo Cao-Đài đang sử dụng Cơ Bút là sự Huyền diệu. Cái tối ưu của Cơ bút
đã cho thấy rõ, điển hình là:
1/ - Việc kiến trúc Tòa-Thánh cũng do Cơ Bút.
2/ - Lập thành Luật pháp Đại-Đạo cũng là Cơ Bút
3/ - Hệ thống tổ chức, lập thành Hội-thánh ba Đài, nghi thức cúng kiến…nghĩa
là tất cả đều do Cơ Bút chỉ vẽ.
Nhưng bất cứ điều gì khi cái lợi càng cao thì sự hại càng to. Cơ Bút đây
cũng vậy, nó cũng rất có hại nếu khi người ta lợi dụng mà làm ra giả mạo.
Trước mắt đã cho thấy vì một số chức-sắc tiền bối không chịu nghe lời Thầy
mà cầu cơ chấp bút riêng, sự cầu riêng tư như vậy điển lực của người vọng động
theo cái tâm hám vọng, bất chánh nên bị dẫn dắt bởi Tà quái. Kết quả Chi-phái
ra đời, tức là chống lại với Tòa-Thánh Tây Ninh, lập riêng pháp luật, bày đủ thứ
như một hàng giả. Mãi đến ngày nay vẫn còn là một điều họa hại cho nhơn sanh hứng
chịu. Do đâu ? Do vì không hiểu được chơn lý tuyệt vời của Đức Thượng-Đế đến
ban cho. Điều này Chí-Tôn đã chỉ rõ: hằng ngày người Tín hữu tụng đọc câu “Cửu
Thập Nhị tào chi mê muội”. Mê muội chính là đây, là không tầm hiểu cho thấu
chơn lý chánh truyền. Cái hại ấy như thế nào?
8 - Sự Tai hại của Cơ Bút
khi lạm dụng:
1/ - Trước nhứt là phân phe chia phái, bất đồng chánh kiến. Cùng là thờ Trời
mà kẻ thì theo Tòa-Thánh, người thì Hậu-giang, kẻ lại Minh Chơn-lý. Thật ra các
bậc tiền bối thì chúng ta không bàn, nhưng là Đạo-hữu chúng ta hãy nhận định kỹ:
Đạo thì mênh-mông và không hình sắc thì không có gì gọi là “Chỉnh Đạo” Duy nên
chỉnh ở con người mà thôi!
2/ - Kết quả tu có công mà thành thì bất thành. Nếu thực sự cần nhiều phe
phái như vậy thì tốt hơn Đức Chí Tôn giữ nguyên Tam giáo Ngũ chi như từ trước đến
giờ có phải khỏi mất công Thầy dìu dẫn hay không? Cũng là tiện bề cho Thầy khỏi phải giáng phàm lập Đạo.
3/ - Nhưng Chí-Tôn không phải là không có cách trừ cái nạn chia phe phân
phái, nhưng nếu nhân sanh biết tìm nẻo chánh mà học Đạo, tìm Đạo chánh mà tu,
Tìm lý đạo siêu mầu mà học hỏi để không uổng một kiếp sanh gặp Đạo Thầy mà đường
tu bị nghẽn lối! Điều ấy nghĩ thật vô phước hơn là người chưa biết Đạo!
9 - Tánh cách đa dụng của
Huyền diệu Cơ Bút:
1/ - Đức Chí-Tôn chẳng giáng bằng xác thân mà lại dụng tánh đức lương sanh
lập quyền Hội-Thánh thay hình thể hữu vi cho Đức Chí-Tôn, thay thế và lập Vạn
linh đối phó cùng quyền Chí linh, ấy là cơ mầu nhiệm cứu vớt quần sanh giải
thoát khỏi chốn sông mê bể khổ.
2/ - Kỳ Hạ nguơn
này dầu chúng sanh có tàn bạo
hung ác thế nào cũng không
làm hại xác thân của Đức
Chí-Tôn như các vì Giáo chủ buổi trước vậy.
3 / - Bởi quyền Vạn linh có đủ nghị lực tinh thần lập khuôn viên Luật pháp
xây chuyển cơ Đạo và cơ Đời cho thuận theo lẽ tuần hoàn của tạo hoá. Đức
Chí-Tôn khai Đạo kỳ ba này giáng bằng Huyền diệu Cơ Bút là do nơi Thiên thơ tiền
định chuyển Đạo vô vi hiệp Tam giáo Ngũ chi làm một” (ĐHP: 1-7 Mậu-Dần – 1938)
10 - “Quyền phép Càn khôn một
túi thâu”:
1/- “Ngày nay Đức Chí-Tôn đã đến, đem nền Tôn giáo của Ngài để tại mặt thế
này đặng chỉnh đốn đạo đức tinh thần từ thượng cổ đến giờ bằng Huyền diệu Cơ
bút.
2/ - Ngài đến không có quyền nào ngăn cản, Ngài dạy con cái của Ngài, Ngài
có quyền đem Cơ bí-mật huyền vi tạo đoan giáo-hóa con cái của Ngài”.
3/ - Vì cớ cho nên lập Ðạo Cao Ðài, Chí Tôn tiên tri rằng: Ðạo Cao Ðài là cờ
báo hiệu cho Vạn quốc hay trước rằng thời kỳ Nho Tông chuyển thế đã đến”.
Cả thế giới đều qui tụ về đây trong tinh thần một Tôn giáo Đại-Đồng: Vì cớ
các Đấng giáng cơ bên Âu-châu nói: loài người sẽ đạt được đến điạ vị tối cao, tối
trọng, mà họ muốn đạt, là lòai người sẽ có:
Một nòi giống. Một quốc gia. Một Tôn-giáo.
“Ngày giờ nào loài người đạt được ba
điều ấy thì THẾ-GIỚI ĐẠI-ĐỒNG kết liễu
thành tướng”.
11 - Ba vị Tướng-Soái được
Đức Chí-Tôn chọn lựa:
Đức Thượng-Sanh xác nhận:
“Lúc ban sơ, Đức Chí-Tôn dùng huyền
diệu Cơ bút thâu phục các Chức-sắc thượng-cấp Hiệp-Thiên Đài, dùng những vị này
trong việc phò-loan để lập thành ĐẠI ĐẠO TAM-KỲ PHỔ-ĐỘ.
“Trước thời-kỳ Chức-sắc Hiệp-Thiên-Đài được lịnh dùng Đại-Ngọc-cơ trong việc
truyền giáo thì chỉ là một giai-đoạn chơi giải trí của ba vị nói trên là các
ông: Cao Quỳnh-Cư, Phạm-Công Tắc, Cao-Hoài Sang. Sau được đắc phong là: Thượng-Phẩm,
Hộ Pháp, Thượng-Sanh.
“Vốn là nhà thi-sĩ và chất-chứa nơi
tâm nỗi căm hờn vì nước nhà bị đô-hộ, tương-lai của tổ quốc, hoặc làm thi xướng
họa chơi cho tiêu-khiển.
“Lúc sơ khởi thì cũng gặp nhiều
khó-khăn, vì trong đêm đầu ba vị đốt nhang khấn vái, ngồi để tay trên bàn từ 9
giờ tối đến 2 giờ khuya mà không có kết quả gì hết, cố tâm nhẫn-nại, ba vị ngồi
thêm đêm thứ nhì (nhằm ngày 26-7-1925) thì đúng 12 giờ khuya có một vong-linh
nhập bàn, gõ chữ ráp thành bài thi Đường-luật 8 câu. Đó là bài thi “Tự thuật” của
Cụ Cao-Quỳnh-Tuân là thân sinh của Ông Cao-Quỳnh Cư.
Ba ông rất cảm-động và ngạc-nhiên.
Cách mấy đêm sau, vong-linh Cô Đoàn Ngọc Quế nhập bàn cho bài thi “Tự thán”
(cũng là bài Thác vì tình), thiệt là lời châu ngọc, điệu thi văn nghe qua ngậm-ngùi
xúc-cảm.
(Đoàn-Ngọc-Quế là giả-danh của Cô
Vương Thị Lễ, tức là Tiên-cô Thất-Nương Diêu Trì-Cung).
Thấy sự hiển-linh và huyền-diệu trong sự tiếp xúc với người cõi vô-hình, ba
Ông tích-cực say-mê việc xây bàn, đêm nào cũng họp nhau ngồi cho tới ba hoặc bốn
giờ sáng mới nghỉ.
Từ đó về sau thì các vị Tiên, Thánh, thường nhập bàn, khi thì cho thi-phú
hoặc giải nghĩa thi văn, khi thì xác-luận về vận-mệnh nước nhà, đánh trúng chỗ
yếu-điểm của tâm-hồn ba ông, khiến cho ba ông ngây-ngất trong niềm vui sướng.
Tiếp được bài thi nào hay thì khi dứt cuộc xây bàn, ba ông nán lại: hai ông
rao đờn, một ông ngâm thi, rồi cùng nhau mượn chung rượu đầy vơi trong lúc tàn
canh để gợi hứng niềm hoài cảm.
Cái đêm mà ba Ông ngậm-ngùi và xúc động hơn hết là đêm 10-11-1925 Đức Tả-quân
Lê-Văn-Duyệt nhập bàn cho thi…
Nhờ chơi xây bàn mà ba ông CƯ, TẮC, SANG, học hỏi đạo-lý, trau-giồi trí-thức
cho tới ngày Đức AĂÂ xưng chính danh là Đức Chí-Tôn, dạy ba ông Vọng thiên-bàn
ngoài sân, quì giữa trời mà cầu Đạo (nhằm ngày mùng 1 tháng 11 Ất Sửu, dương-lịch
16-12-1925). Đó là ba vị Đệ tử mà Đức
Chí-Tôn thâu nhập-môn trước nhứt trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ Toà-Thánh
Tây-Ninh.
Sau đó, Đức Chí-Tôn thâu-phục chư vị Thời-quân Hiệp-Thiên-Đài, vị Đầu-sư
Thượng Trung-Nhựt và các vị Đại-Thiên-phong Cửu Trùng-Đài...
Do lịnh Đức Chí-Tôn Ngọc-Hoàng Thượng Đế, ba vị Thượng-Phẩm, Thượng-Sanh, Hộ-Pháp,
hiệp với chư vị: Bảo-Văn Pháp-Quân, Bảo-Pháp, Hiến-Pháp, Khai Pháp, Tiếp-Pháp,
chia nhau đi khắp các tỉnh Nam-phần để phò loan thâu người cầu Đạo nhập-môn”
(ĐHP22-12 Đinh-Mùi 1958)
12 - Ông Nguyễn Ngọc Tương
đưa ra những dẫn chứng về sự hại của Cơ bút khi tâm của người đứng đầu Minh Chơn Lý là ông
Ca còn hám vọng:
…“Anh suy-nghĩ đến thì Anh thấy liền, Cơ ấy lợi dụng cái danh, cái chức của
Đạo mà dụ người. Anh thấy rõ trong hàng Chức-sắc theo Anh có một phần đông chưa
trừ được cái lòng háo danh. Có khi cũng còn vì tranh nhau cái phẩm cao thấp mà
gây hờn chác giận, té ra Anh đã công kích hẳn cái sự trục lợi nơi người rồi Anh
trở lại không tránh khỏi cái sự cầu danh
nơi mình đó. Phải chi hết thảy
chư vị theo giúp Anh, Nam Nữ cũng vậy:
- Đừng một ai cầu phong Chức-sắc,
- Đừng một ai nghe Anh cầu phong cho ham mà lãnh,
- Đừng một ai nghe nói Cơ Bút phong chức cho, lật đật vui chịu, thì
Minh-Chơn Lý của Cơ bút Hậu-giang đặt ra để mà công kích Tây-Ninh đó còn có chỗ
phải nghĩa.!
Lời thơ của Ông Tương gián khuyên Ông Ca)
13 - Cái lắt-léo của Cơ để
cho biết mà phân biệt chơn giả
Lời thơ ông Nguyễn Ngọc Tương khuyên Ông CA:
“Anh sẽ thấy rõ các sự Anh đã làm
trong một năm rưỡi nay, đối với đạo-đức ra sao? Thế nào? Xa đạo-đức bao nhiêu dặm,
chừng ấy Anh hết lầm nghe Cơ Bút Hậu giang nữa. Biết được sự thiệt rồi, mau mau
tự nhiên Anh sẽ bãi hết các cuộc Anh đương gầy, giải chức Thái Đầu-sư mới của
Anh. Vì:
- Anh sẽ thấy rõ chữ Nhựt trong Đạo-hiệu Thái-Ca Thanh của Anh. Đó là một
cái lắt-léo của Cơ để cho Anh biết mà phân biệt chơn giả đó.
- Trong lòng Anh thiệt hết giận rồi, tự nhiên Anh cũng sẽ thấy rõ-ràng là
không có Thần hay Tiên Thánh nào xúi Anh thêm nghịch, dạy Anh chia lìa, đốc Anh
truyền rao nhục mạ Tây-Ninh rồi lại gia phong cho Anh và các vị theo giúp Anh,
hối đốc lập dựng Thánh Thất Cầu Vỹ mà làm Toà-Thánh để nhóm Hội-Thánh Tây Ninh,
mượn nhà Anh mà làm Hiệp-Thiên-Đài,
- Anh sẽ thấy rõ ràng là cơ cám dỗ
nương cái hơi phiền-phức của Anh và chư vị kia mà phát hiện những sự ấy đặng
giúp cho mấy Anh Em được thoả tình tư tưởng”.
Lời lẽ như thế nhưng hai ông Tương và Trang cũng ra đi.
(Bức thơ số 1 của ông Thượng Tương
Thanh)
(Trích tập HUYỀN DIỆU CƠ BÚT cùng Soạn
giả đã in)
CHƯƠNG IV
A-TamTrấn Oai-nghiêm
Khái niệm:
“Khi lập ra mối Đại-Đạo này lẽ ra phải
có đủ Tam Giáo: Phật- Tiên- Thánh như hai lần Phổ-Độ trước. Nhưng để thích nghi với trình độ của dân trí, phù hợp
với nhân tâm cùng sự tiến hóa vượt bực của nhân loại trong thời kỳ nguyên-tử-chuyển
này. Chính vì thời buổi thay đổi, Đức Chí-Tôn mới đến lập nền Đại-Đạo chuyển
Tam giáo qui nguyên Phục nhứt cho hợp với Thiên-thơ, Đức Chí-Tôn mới chọn ba vị:
Phật, Tiên, Thánh cầm quyền Tam-Trấn thay mặt cho Tam giáo giáng cơ lập thành đạo
đức.
Ngài lập Tam Trấn Oai-nghiêm thay cho Tam giáo lập Đạo vô-vi, không hình thể
như trước, gọi là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
TAM TRẤN OAI NGHIÊM là ba vị trấn nhậm với một quyền hành Oai nghiêm. Ba vị
này thay thế ba Đấng Giáo-chủ của Thích- Đạo- Nho để Phổ độ chúng sanh trong kỳ
ba Đại Ân xá của Đức Chí-Tôn.
Nay bước qua Thượng nguơn Tứ chuyển là nguơn phục cổ nên thuộc về Phật, do
vậy mà đại diện của:
- Phật Đạo là Đức Phật Quan-Âm chưởng quản về Phật giáo, quyền Nhị trấn Oai
nghiêm.
- Tiên Đạo là Đức Lý Đại Tiên Chưởng quản Tiên giáo, quyền Nhứt Trấn Oai
nghiêm.
- Thánh Đạo là Đức Quan Thánh Đế Quân, chưởng quản Thánh giáo, quyền Tam Trấn
Oai nghiêm, cũng gọi là Nho-Tông chuyển thế.
Như vậy Tôn chỉ của Tam-kỳ Phổ-Độ là Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục nhứt.
Thế nên không còn có các vị Giáo-chủ làm đầu Tôn-giáo như trước nữa, vì vậy Đức
Chí Tôn lập Tam-Trấn Oai-Nghiêm thay quyền Phật vị. Đây cũng là cơ Đại-Ân-xá của
Đức Chí-Tôn, Ngài đến xưng là AĂÂ tức là Tam ngôi nhứt thể “Qui các Đạo hữu
hình làm một” chính là thời kỳ này.
1 - Tại sao gọi là Tam Trấn
Oai-nghiêm?
Tam trấn tức là
ba Trấn. Ba Trấn cũng có nghĩa là Tam giáo. Như Nhứt kỳ và Nhị Kỳ Phổ Độ các Đấng ấy giáng thân lập Đạo kêu là Tam giáo.
Nay, Đức Chí-Tôn lấy huyền-diệu lập Đạo mà chấn hưng Tam giáo, lại phải có ba vị
thay thế cho: Phật, Tiên, Thánh nên kêu là Tam Trấn có nghĩa là trấn nhậm. Đấy
cũng là Đức Chí-Tôn chọn lựa công quả Chơn thần thiêng liêng của ba vị đương
lúc còn ở thế, như:
- Thái-Bạch Kim-Tinh công bình minh
chánh.
- Quan-Âm Bồ-Tát tiết hạnh trinh liệt.
- Quan-Thánh Đế-Quân
trung can nghĩa khí.
Ngài lập Tam Trấn đặng giao trách nhiệm thế quyền cho
đủ số Tam-giáo trong lúc Tam-Kỳ Phổ-Độ này.
2 - Quyền-hành Tam Trấn:
“Tam trấn
Oai-nghiêm thay quyền Phật vị tại thế này. Ấy vậy, các Đấng ấy đối phẩm cùng
các Đấng trọn lành của Bát-Quái-Đài” (PCT/19)
…Thầy lập đặng
thay mặt cho Thầy nơi Cửu Trùng Đài cầm quyền chánh trị là Phật đó vậy. Cửu
Trùng Đài phù hợp với Cửu trùng Thiên thì dầu cho cả Chơn linh trong Càn khôn cũng phải vào
nơi đó đoạt cho đặng các phẩm vị giả trạng ấy mới mong mỏi tạo lập Thiên vị mình, chẳng vào cửa
Đạo hiệp cùng Cửu-Trùng-Đài thì chẳng đi đường nào mà vào Cửu Trùng Thiên cho đặng”
(Diễn văn ĐHP: 14-2 Mậu-Thìn)
4 -
Niệm danh Tam Trấn:
Trong các nghi thức lễ bái, tế tự hay lòng sớ
dâng về Thiêng liêng của Đạo Cao-Đài, các Môn-đệ của Đức Chí-Tôn sau khi nguyện
lấy dấu: Phật- Pháp- Tăng và niệm danh Thầy, rồi kế đến niệm danh Tam Trấn:
- Nam Mô Cao-Đài Tiên Ông Đại Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
- Nam Mô Quan Thế Âm Bồ-Tát Ma-Ha-Tát
- Nam Mô Lý Đại Tiên TRưởng kiêm Giáo-Tông
Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.
- Nam Mô Hiệp-Thiên Đại Đế
Quan-Thánh Đế-Quân
- Nam Mô chư Phật chư
Tiên, Chư Thánh, chư Thần.
Với năm câu nguyện như
trên, nhưng ba câu giữa là niệm danh Tam Trấn đủ thấy quyền năng và trách nhiệm
của Tam Trấn là trọng đại trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ này.
Ấy là ba ngôi hiệp cùng
Nhị khí Âm Dương đó vậy.
5 - Đức Chí-Tôn lập Tam Trấn:
Thánh ngôn Hiệp tuyển.
Thầy dạy:
Trong Tam-Kỳ Phổ-Ðộ và qui
Tam-Giáo nầy:
- Phật thì có Quan-Âm.
- Tiên thì có Lý-Thái-Bạch.
- Thánh thì có Quan-Thánh Ðế-Quân khai Ðạo.
“Vậy con lập cho đủ ba
Trấn chứng đàn; con phải lập bàn Ngũ-Lôi, như Thầy dạy lúc trước; phải có bùa
Kim Quang-Tiên, còn con viết bùa Giáng-Ma-Xử để bàn vọng Hộ-Pháp; rồi Cư chấp
bút nhang cho Thầy triệu Ngũ Lôi đến; rồi nó xuống đứng gần bàn Hộ-Pháp với Tắc
và Sang; còn mấy đứa phò-loan đứng vòng theo đó.
Con biểu Tương, Kim, Thơ
thề y như buổi trước; chư Môn-đệ thề như buổi Thiên-Phong. Con phải nhớ dặn
chúng nó tịnh tâm mới đặng, vì có cả chư Thần, Thánh, Tiên, Phật chứng đàn.
Các con nghe Tịch Ðạo, thi:
THANH ÐẠO tam khai thất ức niên,
Thọ như Ðịa huyển
thạnh hoà Thiên.
Vô-hư quy phục
nhơn-sanh khí,
Tạo vạn cổ đàng chiếu Phật
duyên.
THANH là tịch các con”. Đây là Tịch Đạo cho
Nam-phái. Ngay trong buổi Giáo-Tông này thì Tịch Đạo cho Nam là chữ THANH
Nhưng vào thời Giáo-Tông
kế nữa đây, thì Nam phái sẽ lấy chữ ĐẠO.
Vậy thì theo lời Thầy dạy.
Ví dụ Chơn-thần như:
- Tương là
Thượng-Tương-Thanh,
- Kim là Thượng-Kim-Thanh,
- Thơ là Thái-Thơ-Thanh.
Phải dùng tên ấy mà thề”.
(Nếu như ngày sau đổi Tịch Đạo thì ví như:
Tương là Thượng Tương Đạo
Kim là Thượng-Kim-Đạo
Thơ là Thái-Thơ-Đạo
6 - Tam Trấn cũng là Tam Bửu:
Tinh- Khí-Thần
Nay Đức Chí-Tôn lập Tam
Trấn thì:
- Đức Phật Quan-Âm tượng
cho Thần, là đức BI.
- Đức Lý Đại-Tiên tượng
cho Khí, là đức TRÍ.
- Đức Quan-Thánh tượng cho
Tinh, là đức DŨNG.
Ba đức BI- TRÍ -DŨNG chính
là Tam bửu mà người Môn đệ Cao-Đài học
hỏi nơi Tam Trấn rồi dâng lên cho Chí Tôn. Phải có đủ Bi- TRí- Dũng như vậy mới
có thể tiến đến Đại Đồng. Nhân loại ngày nay chiến tranh tàn khốc vì chỉ có hai
đức: Trí và Dũng mà thiếu đức Bi cho nên tiếng khóc không bao giờ nguôi. Vì sao
?-Vì Trí có thừa nên chế ra nguyên tử, đạn dược giết người hàng loạt; cũng như
đức Dũng lại quá thừa nên dám ôm bom
liều chết mà cướp đi bao nhiêu sinh mạng của những con người vô tội. Thế giới
muốn Hòa bình, Hạnh phúc phải tăng cường đức BI nữa mới mong lập lại cán cân
công bình cho hạnh phúc được.
7 - Tại sao thờ Tam Trấn?
- Tại thời
kỳ khai Đại Đồng Tam giáo: Nho, Thích, Đạo Qui Nguyên, Đức Chí-Tôn làm chủ cầm
quyền Chưởng pháp cho phù hợp trong buổi Hạ nguơn tuần hoàn chuyển thế. Ba vị Tam
Trấn chấp chưởng cơ quan mầu nhiệm, trấn nhậm quyền hành, lập Luật pháp, Đạo
Nghị Định cho hiệp với Thiên thơ. Vì thọ
mạng lịnh Đức Chí Tôn nên trong toàn bổn Đạo phải để tâm thành kính và phụng
thờ Tam Trấn”.
Thế nên Kỳ Phổ-Độ này Đức
Chí-Tôn lập Tam Trấn Oai-Nghiêm thay quyền cho Tam-giáo. Hết Tam-Kỳ Phổ-Độ thì
nguyên-căn qui nhứt trở lại mở Nhứt-Kỳ Phổ Độ nữa sẽ có vị Phật ra đời cầm
quyền vi chủ định-luật Càn-khôn. Đó là cơ-quan quản-trị Càn khôn vũ-trụ vậy.
8 - Dâng Tam Bửu cho Đức Chí Tôn:
Đức Hộ-Pháp nói:
“Quyền hành của
các Ngài
trong Tam Trấn Oai Nghiêm,
có liên quan với cái Lễ tối trọng tối yếu của chúng ta là phải dâng Tam Bửu cho
Đức Chí Tôn. Bần Đạo đã có dịp giảng về Tam Bửu ấy. Tỷ như một người kia tìm
Đạo, người ta thấy mình dâng ba món ấy mà mình gọi là ba báu, rồi người ta để
mắt thấy Bông- Rượu - Trà người ta để dấu hỏi, ba món ấy báu lắm hay sao ? Báu
ấy là báu gì ? Bần-Đạo đã giảng ba cái đó tượng trưng cho báu vật của ta là:
- Thứ nhứt thân phàm xác
thịt của chúng ta đây, thuộc về Tinh.
BÔNG tượng trưng xác thịt.
- Thứ nhì là trí não của
ta, khôn ngoan hơn vạn vật gọi là Khí.
RƯỢU tượng trưng cho trí não.
- Thứ ba TRÀ tượng trưng
cho linh hồn của chúng ta là cái hằng sống thiêng liêng của chúng ta, nó mới
gọi là ba cái báu.
Thật ra chúng ta suy nghĩ
coi không có gì quí hơn xác thịt ta, trí óc ta và linh hồn ta hơn hết.
Đức Chí Tôn đến biểu chúng
ta dâng ba báu vật ấy cho Ngài, Ngài không đòi hỏi dâng cho Ngài cái gì khác.
Giả tỷ như đời Thượng Cổ nhơn loại dâng cho Ngài tới sanh mạng con người, nên
người ta phải giết người để làm tế vật. Sau đó thay thế mạng sống con người,
nhơn loại lại dâng Tam sanh tức nhiên bò, trâu, heo và sau nữa bên Âu Châu theo
Đạo Do Thái thì dâng cho Đức Chí Tôn một con chiên trắng, con chiên ấy phải
trắng như tuyết mà thôi.”
9 - Giờ phút này Đức Chí Tôn đến biểu chúng ta dâng
Tam Bửu: Bông- Rượu- Trà.
Tưởng đâu là gì, thiên hạ
nói báu gì đâu ba món ấy gọi là báu. Ai ngờ ba món báu ta dâng cho Ngài là báu
vật, bởi vì Ngài là Chúa của ta, Ngài tạo sinh ta, Ngài là Cha của ta về phần
hồn và phần xác, Ngài đòi ba món quyền sở hữu của Ngài cho ta, lấy ba món báu
của ta đó vậy. Bây giờ nếu như người tầm Đạo kia nói: Tôi không biết Ông đòi ba
món ấy để làm gì? Và tôi không biết Ông dùng ba món báu ấy là xác thịt, trí não
và linh hồn của mình để Ông làm gì ? Người ta để dấu hỏi, tức nhiên ta phải trả
lời:
- Chúng ta đã thấy hiện
tượng Đức Chí Tôn đến qui Tam Giáo: Nho- Thích- Đạo, lấy cả tinh thần đạo đức
của ba nền Tôn Giáo ấy đặng làm môi giới chuẩn thằng. Rồi lập thêm làm gì Tam
Trấn Oai Nghiêm ? Có phải chăng lập Tam Trấn Oai Nghiêm là để bảo vệ ta và Tam
Trấn Oai Nghiêm có bổn phận dâng lên cho Đức Chí Tôn ? Sự thật như vậy. Nếu
không phải vậy Đức Chí Tôn chẳng hề khi nào sắm Tam Trấn Oai Nghiêm ra làm gì
cho chúng ta thờ phượng.
Home
[ 1 ] [ 2 ] [ 3 ]


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét