Mùa
xuân năm Đinh Mão 1927, sau khi khai Đạo, Đức Chí Tôn đã khuyên dạy các môn đệ
của Thầy: “Dạy lẫn cho nhau đặng chữ Hòa”.
Khi các tín đồ ghi chép lại lời khuyên tha
thiết nầy của Đức Chí Tôn từ một cuốn sách Thánh Ngôn Hiệp Tuyển củ kỷ, giấy
đã vàng vì năm tháng, thì hơn 93 mùa xuân đã đi qua trong cơ đạo, và lại thêm một mùa xuân nữa đang về là Xuân Canh Tý
(2020).
Thời gian tuần hoàn, không gian luân chuyển để luôn luôn đổi mới vạn
vật, vừa bảo tồn vừa canh tân thế giới. Đó là đạo lý mà cũng là quy luật tiến
hóa trong trời đất.
Ngoài trời, cảnh trăm hoa đua nở rực rở, hay
những cành quất trĩu quả trên khắp nẻo đường, sắc thắm huy hoàng, vui tươi và sống động
kia đã báo hiệu không khí nhẹ
nhàng, an vui của mùa Xuân sắp đến rồi. Cảnh xuân vừa chớm nhắc chúng ta rằng
Thiên Thời và Địa Lợi của sứ mạng Phổ Độ Kỳ Ba đã được an bày đầy đủ; cái duy
nhất còn thiếu sót trong sứ mạng này chỉ là Nhân Hòa mà thôi.
Đức
Quan Âm Như Lai dạy:
“Năm
tháng qua rồi xuân lại sang,
Xuân
về xoa dịu nỗi bi quan.
Ai ơi
có thấy đời là mộng,
Thắm
thoát lần tay đếm chuỗi tàn.”
Hôm nay, mỗi chúng ta là các tín đồ Đại Đạo Tam
Kỳ Phộ Độ Đạo hay Đạo Cao Đài hãy kiên tâm tạo thế chân vạc Thiên Thời - Địa
Lợi - Nhân Hòa là Tam Tài (Thiên Địa Nhân), đã được định vị theo thế chân vạc
trong vũ trụ, thiếu một trong ba thì hoàn cầu không ổn định, nhân loại khó mà
đạt đến thành công viên mãn. Ngày mai, mùa xuân Nhân hòa sẽ đến, đến với toàn
tín đồ Đạo Cao Đài, trên sông núi Việt Nam và trong tâm hồn của toàn nhân loại.
Thiên thời Địa lợi Nhân Hòa là thành ngữ dùng
để chỉ ba yếu tố cần thiết giúp tạo nên sự thành công cho một sự kiện, một công
việc. Thiên Thời Địa Lợi Nhân Hòa là thành ngữ dùng để chỉ ba yếu tố cần thiết
giúp tạo nên sự thành công cho một sự kiện, một công việc, hay một điều gì đó
do con người tạo ra.
Thiên Thời: có nghĩa là thời cơ, thời gian, thời
điểm. Chữ quan trọng nhất ở đây không phải là chữ Trời mà là chữ Thời. Việc lựa
chọn thời điểm này là do bản thân chúng ta chứ không một ông Trời nào có thể
nói cho ta biết cả. Địa Lợi: có nghĩa là khi làm bất kì một việc gì cũng phải
cân nhắc xem bản thân mình có những lợi thế, thế mạnh nào, còn tồn tại những
khó khăn nào.
Nhân Hòa: đó là sự hòa
hợp, đoàn kết của mọi người với nhau. Một tập thể đoàn kết, hòa hợp sẽ mang lại
sự thành công hơn hẳn so với một tập thể rời rạc, thiếu sự liên kết.
Nói như vậy không có nghĩa
là các yếu tố của Trời và Đất (Thiên Đia, Thiên Địa Vạn Vật Đồng Nhất Thể)
không quan trọng bằng yếu tố Thời, Lợi và Nhân. Dĩ nhiên các yếu tố của Trời,
Đất cũng sẽ chi phối vài phần trong sự thành công của con người nhưng yếu tố
quan trọng trước hết vẫn là con người, vẫn là sự tính toán của con người.
Theo giáo lý Cao Đài ý
nghĩa của danh từ Nhân Hoà là sự hòa hiệp, hoà ái, cảm thông giữa người với
người; là sự hòa hợp, thuận hòa, hòa bình trong cuộc sống xã hội con người.
Cũng trong ý nghĩa này, nhưng giáo lý Đạo Cao Đài mở rộng ý nghĩa của chữ
"Hòa"; trong một tầm Đạo cao hơn, trên con đường Thế Đạo và Thiên
Đạo, con đường Thiêng Liêng Hằng sống, vượt qua khỏi thế giới hữu hình:
"Chữ Hòa quý báu biết bao,
Bao trùm võ trụ, thấp cao cũng hòa,
Đất Trời, do đó mà ra,
Phật Tiên do đó mới là siêu thăng."
Các Đấng
Thiêng Liêng cũng dạy về chữ Hòa: “Hòa là
hòa ái, hòa hiệp, hòa đồng, với ai cũng hòa được hết. Hòa là "cực điểm của
tình thương”, không hơn, không
kém, không lệch lạc, không người, không ta, không màu da sắc tóc, không tôn
phái, mà chỉ là một cứu cánh chung tối thượng để đem lại sự sinh tồn hạnh phúc
an vui cho mọi người sống ở thế gian, không còn cách phânchủng tộc."
Từ "cực
điểm tình thương"; nơi mỗi cá nhân, con người sẽ mở rộng tấm lòng ra để
đối đãi với nhau, cảm thông nhau, tương trợ nhau, để không còn phân biệt, chia cách
giữa người với người trong xã hội nhân sinh, phù hợp với nguyên lý căn bản của cái
Hòa trong vạn hữu: "Hòa là một tiềm
lực sinh động tạo nên mọi sự mọi việc"
Trong Thánh
Giáo Cao Đài, chúng ta thấy bài có chữ Hòa của Thường Cư Nam Hải Quan Âm
Như Lai giáng cơ ngày
17-3-Quý Dậu (1933) thật cũng vô cùng ý nghĩa:
"Ðạo
quí là tại Hòa. Các em nghĩ thử mà coi, Tạo Thiên Lập Ðịa cũng bởi Âm Dương Hòa Hiệp sanh hóa muôn loài, cũng bởi một chữ
Hòa, đến đỗi như thân của người có tạng có phủ. Tạng phủ ấy, nếu chẳng Hòa thì
con người chẳng hề sống bao giờ.
Kịp đến tâm hồn bất Hòa thì thất tình lục dục đều phát khởi tranh ngôi với thần
lương tâm, nếu kém lực, thì con người ấy duy có sanh hoạt trong vòng vật dục
chớ chẳng hề biết Thiên Lý là gì?
Các em thử nghĩ cái phẩm giá của kẻ ấy cao hèn là thế
nào, người chẳng có Hòa là thế đó.
Còn gia đình chẳng Hòa, thì cha con mích nhau, chồng
vợ lìa tan, anh em ly tán.
Còn trong luân lý chẳng Hòa, thì dân cư bất mục. Nước
chẳng hòa thì sanh ly loạn.
Còn cả thế giới bất Hòa, thì nhơn loại đấu tranh.
Vì vậy Thiếp khuyên các em dĩ Hòa vi tiên”.
Đạo quí ở chữ “Hòa” tức Âm
Dương Hòa Hiệp. Thể-pháp của Đại Đạo đâu đâu cũng thấy sự Hòa một cách khít
khao, do vậy mà Thể pháp đã hiện hình Bí pháp làm Chơn Truyền để phổ thông nền Chơn Đạo của Chí Tôn
trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ.
“Theo Bí Pháp Chơn Truyền của cơ sanh hoá phải có đủ
Âm Dương. Trong sanh quang chúng ta có điện quang Âm & Dương cũng như vạn
vật có trống mái. Nền Tôn giáo nào có đủ Âm Dương thì mới vĩnh cữu”.
Điều hòa là êm ái, hòa
thuận. Điều hòa là tượng trưng trật tự chung trong trời đất, và đạo Trung dung
của loài người. Đức Hộ Pháp dạy trong "Phương
Luyện Kỷ - Đạo Cao Đài":
“Vũ trụ có điều hòa thì càn khôn mới an tịnh.
Âm dương có điều hòa thì vạn vật mới được sanh sanh
hóa hóa.
Xã hội có điều hòa thì dân chúng mới hưởng sự thanh
bình.
Gia đình có điều hòa thì mọi người mới an vui hạnh
phúc.
Lễ nhạc có điều hòa thì mới có tiết tấu âm thanh.
Thân thể con người có điều hòa thì máu huyết mới lưu
thông, khỏe mạnh.
Tâm trí có điều hòa thì con người mới sáng suốt.
Trái với sự điều hòa là hổn loạn, không trật tự”.
Người luyện kỷ cần giữ tâm
tánh điều hòa, tức giữ được cái đạo Trung-dung thì linh tâm mới thuần nhất mà
soi sáng lòng mình hầu dìu độ đến chỗ tận thiện tận mỹ.
Muốn đạt được chữ hòa thì
ta phải biết thương yêu, mà muốn thương thì ta phải hiểu và tha thứ.
Ai cũng biết Hòa là quý,
mà bởi từ đâu... và do ai... dẫn đến sự bất hòa chia rẻ, sự kiện này Đức
Chí Tôn đã khẳng định rằng:
“Mặt nhựt hồi mô thấy xẻ hai,
Có thương mới biết Đấng Cao Đài.
Cũng con cũng cái đồng môn đệ,
Bụng muốn phân chia hỏi bởi ai”
(Thi Văn Dạy Đạo.)
Như vậy Đức
Chí Tôn đã xác nhận rằng sự mất đoàn kết đưa đến phân chia chi phái là do từ
con người, chứ không phải là do Thiên ý. Vì Thượng Đế tạo ra con người là một hữu thể tự do, Ngài
ban cho con người có quyền quyết định lấy số phận của mình, đoàn kết hay chia
ly là do mình lựa chọn, Ngài duy chỉ vì thương yêu nên ân cần dạy
bảo mà thôi.
Có một nguyên nhân rất dễ
dàng nhận thấy là trong chúng ta không mấy ai chịu chấp nhận cái nguyên lý
“nhất nguyên” là Âm Dương tương hợp, mà cứ cố chấp vào “nhị nguyên” xem Âm là
Âm, Dương là Dương, cái phải là phải, mà trái là trái, chứ ít người chịu nhìn
nhận cái nhất nguyên: “Âm Dương là Một, phải trái là Một...”. Nên mới xảy ra sự
bất hòa, dẫn đến ly tán.
Qua các lời dạy của các
Đấng Thiêng Liêng, danh từ "Nhân Hòa"; phải được hiểu môt cách rộng
rãi rốt ráo, là sự hòa ái, tinh thần hòa hiệp, sự cảm thông, sự bao dung mà con
người phải có, xuất phát từ tình thương cực điểm mà con người thừa hưởng từ đức
háo sinh của Đấng Tạo Hóa.
Trong ý nghĩa đó, Nhân Hòa
không chỉ là hòa giữa người với người; mà còn giữa người với Trời Đất (Thiên
Đia), với muôn loài; và nhất là Hòa với chính bản thân mỗi người, bao gồm cả
Hòa trong phần thể xác và Hòa trong linh hồn. Bởi vì:
" Hòa là lẽ sinh tồn muôn thuở,
Hòa là đường vận số thành công,
Từ nơi sâu thẳm cõi lòng,
Biểu dương ra đến đại đồng Vạn Linh."
"Hòa là lẽ sinh
tồn"; của vạn loại, cho nên dù muốn dù không, con người vẫn đang cố gắng
bằng nhiều cách để đạt được Nhân Hòa hầu giữ lại cho thế giới này một sự an
bình hiện hữu. Những tổ chức quốc tế, những tổ chức phi chính phủ, những hiệp
hội đa quốc gia.... thuộc nhiều lĩnh vực, với xu hướng toàn cầu hóa đã ra đời
ngày càng nhiều nhằm mục đích nối kết các quốc gia ngồi lại với nhau, chính là
những hình thức thể hiện Nhân Hòa, nhưng còn rất manh mún, bởi vì nền tảng được
xây dựng chỉ mới dừng lại ở những sự thỏa thuận cân bằng quyền lợi chính trị,
kinh tế, quân sự hoặc giải quyết ngăn chận tạm thời những vấn nạn mang tính cấp
thiết. Do vậy, cho đến nay, thế giới này vẫn đang ở trong tình trạng bất ổn, và
số phận nhân loại này vẫn đang rất mong manh bên bờ vực của sự hủy diệt, mặc dù
những cuộc đàm phán, thương thuyết về nhiều vấn đề vẫn diễn ra khắp nơi mỗi
ngày trên thế giới. Con đường tìm kiếm Nhân Hòa vẫn còn đang được tiếp tục
trong màn đêm tâm thức nhân loại.
Trước những bế tắc của con
người giữa cơ cỏi hửu hình của thời mạt kiếp, Đức Chí Tôn vì tình thương vô
biên đối với con cái của mình, đã lâm phàm khai mở một nền tôn giáo làm nơi phổ
độ đường lối tạo thế Nhân Hòa, để con người nương theo vận dụng giải quyết
những vấn đề trong đời sống nhân sinh mà con người vẫn còn lúng túng đương đầu,
chưa tìm thấy lối thoát hữu hiệu.
Đức Chí Tôn dạy con cái
của Ngài: “Thầy vui muốn cho các con thuận Hòa cùng nhau hoài, ấy là lễ hiến
cho Thầy rất trân trọng. Phải chung lo cho danh Ðạo Thầy" (Thánh Ngôn Hiệp
Tuyển).
Thánh giáo Đức Chí Tôn
(1926): “Dầu cho Thầy phàm tục cũng phải
vậy; nếu đứa dở mà dạy cao kỳ, nó biết đâu mà hiểu đặng. Thầy cấm không cho dị
nghị việc người; nhứt là đạo hữu của các con thì đừng phạm đến kẻo tội nghiệp;
chi chi cũng phải nhớ quyết rằng có Thầy trong đó”:
" Chẳng quản đồng tông mới một nhà
Cùng nhau một Ðạo tức một cha,
Nghĩa nhân đàng gởi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn cho nhau đặng chữ Hòa."
Bốn chử “Dạy lẫn cho nhau”
trong câu cuối của bài thơ trên, Thánh ý của Đức Đại Từ Phụ muốn chúng ta trao
đổi kinh nghiệm, học hỏi lẩn nhau, sưu tầm nghiên cứu, tìm hiểu các nguyên nhân
tại sao bất Hòa, đồng thời tìm cách khắc phục, cầu nguyện hiểu nhau hơn để đạt
được chữ Hòa theo đúng ý nghĩa thật sự của nó mà Thầy hằng dạy.
Chữ Hòa trên lý thuyết
được lý giải rất rõ ràng sâu sắc, thế nhưng trong thực tế, chữ Hòa chưa được
thực hiện đúng theo ý nghĩa thật sự của nó trong Đời và Đạo. Mỗi lần có dịp tụ
họp ngồi lại với nhau, hoặc bất kỳ trong các hội nghị nào bất kể lớn hay nhỏ,
đúng như lời Đức Phật Mẫu dạy, ai cũng đều nói được chữ Hòa một cách lưu loát,
bài bản. Nhưng thực hiện chử Hòa thì chưa được bao nhiêu, chính vì vậy trong
tập thể mới có những rạn nứt, dẫn đến nội bộ chia rẽ, nội tình không ổn định.
Như thế, thì việc an bang tế thế, phát triển tổ chức, hòa hợp nhơn tâm có phải
là điều xa vời, không tưởng được? Chính từ điều trăn trở này, trong các Thánh
Giáo Đạo Cao Đài, các Đấng Thiêng Liêng trong các đàn cơ dạy đạo thường hay đề
cập đến:
" Hòa là lẽ sinh tồn muôn thuở,
Hòa là đường vận số thành công,
Từ nơi sâu thẳm cõi lòng,
Biểu dương ra đến đại đồng Vạn Linh."
Thánh Ngôn của Đức Chí Tôn
dạy: “Thầy vì thương chúng sanh, tưởng công lao của mỗi đứa nên chẳng nỡ để cho
mối Ðạo điêu tàn; nhưng nếu trong các con chẳng có đứa nào lãnh phần chế biến
làm cho Hòa Thuận chung vui, để cho đến đỗi hiềm thù oán ghét nhau mà để trò
cười muôn thuở, uổng công dìu dắt của Thầy bấy lâu, thì biển khổ sông mê là nơi
các con chịu đời đời kiếp kiếp đó”. (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển)
Dựa vào lời dạy của Đức
Chí Tôn về Hòa Thuận, Đức Hộ Pháp (1938) đã giảng dạy rõ ràng, ý nghỉa thực tế
của chử Hòa hơn:
“Máy tạo bởi chữ Hòa mà có, thì Thế Giới Càn Khôn cũng
phải hòa mới vĩnh cửu. Địa cầu nầy cũng phải Hòa mới toàn hảo, nhơn loại cũng
phải hòa mới trường tồn, chẳng khác nào xác thịt phải Hòa Thuận cùng linh hồn
mới mong đạt Đạo."
Lấy lớn mà định nhỏ, xem nhỏ
mà tìm lớn, thi hài nầy nhờ hòa khí mà thành hình, thì linh hồn
cũng phải tùng theo phép
âm dương hòa hiệp mới qui hồi cựu bổn; linh hồn bởi chữ hòa khí mới có đến thì
tức nhiên phải nương theo hòa khí mới có về.
Tuy pháp bửu của các tôn
giáo đã đoạt đặng vẫn nhiều, chớ cơ mầu nhiệm chỉ có chữ Hòa là đủ.
Nói rõ ra thì tinh là thân
thể; khí là điễn lực nghĩa là trí lực; thần là linh hồn; ba cái báu của mình
ngày nào tương đắc, nghĩa là Hòa Hiệp cùng nhau, thì người mới mong đắc Đạo.
Cơ Đạo của Đức Chí Tôn đến
lập buổi Hạ Ngươn Tam Kỳ Phổ Độ nầy duy lấy một chữ Hòa làm tôn chỉ.
Có Hòa mới có hiệp, có
hiệp mới có thương, mà sự thuơng yêu là chìa khóa mở cửa Tam Thập Lục Thiên,
Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh y như lời Chí Tôn đã dạy, chỉ nghĩa là phải
Từ Bi Bác Ái mới đắc đạo vô vi, phải Hòa Hiệp mới có qui nhứt.
Đức Chí Tôn đã định khai
đạo đặng thị chứng cho các Tôn Giáo biết nhìn nhau trong đường hành thiện, trừ
tuyệt hại tranh đấu thù hiềm, làm cho Thế Giới đặng Hòa Bình, thoát cơ tận
diệt.
Thể Đạo của Chí Tôn cũng
phải nương theo chữ Hòa mới toan thành lập.
Đức Chí Tôn đã đến thế, hạ
mình đặng làm Thầy dạy dỗ chúng ta, hằng trông mong giờ nào chúng ta biết hòa
hiệp nơi lòng bác ái từ tâm của Người, là hiệp làm một cùng Người, mới có đủ
quyền hành độ tận chúng sanh qui hồi cựu vị; mà đã nhiều năm chầy rồi, thân thể
hỡi còn rời rã ngất ngơ, chơn thần hỡi còn dật dờ mê muội, thì thế nào các Đấng
Thiêng Liêng hiệp một cùng đời cho đặng, hầu mong sửa cải Thiên Thơ, tụ hội các
nguyên nhân đem vào cửa Đạo.
Vì năm Đạo phân chia làm
cho nhơn tâm bất nhứt, nhân loại nghịch lẫn nhau, Đức Chí Tôn đến đặng hiệp lại
một nhà, ước cho con cái của Người biết Thương yêu Hòa thuận.
Thầy dùng: "phép là
lương tâm, quyền là tình ái, mà làm cho cả nhơn loại thấy rõ mặt Thầy, hầu nhìn
lẫn nhau trong Thánh Đức của Thầy, mà cộng yêu hòa ái”….
Các hành giả khi đạt được
Tâm Trời Đất chính là lúc Tâm với Đạo là một. Tâm ấy có một nguyên lý là làm
sao cho mọi sự được quân bình, mọi việc được hài hòa, mọi người đều an lạc.
Được như thế, giáo lý Đạo
gọi là Đắc Nhất và Tâm Đắc Nhất là Tâm vô phân biệt, nhưng nhờ Hòa nhã đó mà
hành giả thực hành được Đạo:
"Đắc Nhất Tâm rồi, thế mới yên,
Muốn Tâm đắc Nhất phải tham thiền;
Tham thiền Tâm sẽ hòa muôn vật,
Hòa ấy làm nên Đạo phối Thiên."
Đức Chí Tôn đã định khai
đạo đặng thị chứng cho các Tôn Giáo biết nhìn nhau trong đường hành thiện, trừ
tuyệt hại tranh đấu thù hiềm, làm cho Thế Giới đặng Hòa Bình, thoát cơ tận
diệt.
Thể Đạo của Chí Tôn cũng
phải nương theo chữ Hòa mới toan thành lập.
Chí Tôn đã đến thế, hạ
mình đặng làm Thầy dạy dỗ chúng ta, hằng trông mong giờ nào chúng ta biết hòa
hiệp nơi lòng bác ái từ tâm của Người, là hiệp làm một cùng Người, mới có đủ
quyền hành độ tận chúng sanh qui hồi cựu vị; mà đã nhiều năm chầy rồi, thân thể
hãy còn rời rã ngất ngơ, chơn thần hãy còn dật dờ mê muội, thì thế nào các Đấng
Thiêng Liêng hiệp một cùng đời cho đặng, hầu mong sửa cải Thiên Thơ, tụ hội các
Nguyên Nhân đem vào cửa Đạo.
Hòa là để làm tròn sứ
mạng. Trên đường thực thi sứ mạng trọng đại với nhiều gian khổ, hành trang mà
người môn đệ của Đức Cao Đài luôn mang theo bên mình phải là: đức độ khoan
dung, khiêm cung hòa ái, giữ đạo hạnh, rèn luyện đạo tâm, thương yêu, kiên
nhẫn, trì thủ, hy sinh, thành thật, chia sẻ hiểu biết. Đó là những bửu bối vô
giá giúp các bậc Nguyên Nhân giữ tròn Thiên mạng, hành đúng Thánh ý cho sự tiến
triển nhịp nhàng đúng theo Thiên Cơ dĩ định, cũng là cơ hội tất yếu cho tất cả
con cái Đức Chí Tôn trở về cội nguồn Thiêng Liêng Hằng Sống, bất sinh bất diệt,
trường tồn vĩnh cửu.
Có nhân hòa Xuân mới thành
Xuân. Như đã nói Thiên Thời - Địa Lợi - Nhân Hòa là Tam Tài (Thiên Địa Nhân)
tức là Tam Bửu, được định vị theo thế chân vạc trong vũ trụ, thiếu một trong ba
thì hoàn cầu không ổn định, nhân loại khó mà đạt đến thành công viên mãn.
Mỗi năm một lần, khi Tết
đến Xuân về, chúng ta thấy các chợ hoa trưng bày rất nhiều hoa và cây kiểng rất
đẹp. Có được những tác phẩm nghệ thuật vô giá, thu hút được nhiều người đến dự
xem và mua, đòi hỏi phải có giống tốt, kết hợp với sanh khí của trời, phù sa
mầu mỡ của đất, phân nước đầy đủ, nhưng điều quan trọng là phải có bàn tay khối
óc, sự siêng năng cần mẫn, phải đầu tư nhiều công sức vào trong đó của những
nhà mỹ thuật, mới đem lại thành tựu như thế.
Tín đồ Đạo Cao Đài, nhiều
năm qua, đã họp lực cùng nhau bỏ công sức xây cất nhiều cơ sở Đạo: các Thánh
Thất, các Điện Thờ Phật Mẫu, các Trung Tâm Sinh Hoạt, ở quốc nội và hải ngoại
để phổ độ. Các cơ sở Đạo được đồng Đạo tu chỉnh, gìn giử rất là thanh khiết,
tráng lệ, huy hoàng đẹp đẻ, sang trọng để cho đồng đạo có nơi cầu nguyện, dâng
lể Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng Liêng.
Tục lệ đi Thánh Thất đầu
năm trong Đạo Cao Đài vào mùa Xuân Tết Nguyên Đán đã trở thành tục lệ quen
thuộc, được coi là nét văn hóa đẹp của người tín đồ Cao Đài, để cầu nguyện
những điều tốt lành cho bản thân, gia đình mạnh khỏe hòa thuận, tai qua nạn
khỏi, hạn ách tiêu trừ, thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc trong năm mới. Đi
lể Thánh Thất không đơn giản chỉ là để cầu nguyện mà còn là khoảnh khắc tín đồ
thành tâm hòa mình vào chốn tâm linh.
Thiên Thời và Địa Lợi,
trời che đất chở đó là tình Tạo Hóa, đức háo sanh trưởng dưỡng của Thiên Địa.
Muôn loài vạn vật nhờ đó mà sanh sôi nẩy nở theo định luật của Đấng Hóa Công.
Nhưng muốn duy trì và phát
triển trường tồn, con người phải biết tôn ti trật tự, trên thuận dưới hòa, sống theo guồng máy thiên lương, là tính
thiện, là tánh lành trong mỗi con người đã được Đức Chí Tôn phú bẩm khi cất
tiếng chào đời.
Phải kết hợp nâng cao
nhiệt tâm Nhơn Hòa. Mỗi tín đồ Đạo Cao Đài đều có bầu nhiệt huyết đang cháy
bỏng trong lòng khi đã ý thức được sứ mạng phổ độ Kỳ Ba. Lòng yêu của Đức Chí
Tôn giúp cho các Nguyên Nhân khi rời cung Bạch Ngọc, xuống trần phổ Đạo lập vị,
nếu chúng sanh không giác ngộ tu hành, thì con đường phản bổn hoàn nguyên trở
về ngôi vị cũ khó khăn lắm.
Đáp lại tình yêu Thiêng
Liêng đó, tất cả con cái của Đức Chí Tôn hãy nhiệt tâm nhiệt thành, không chỉ
hô hào vận động, mà phải thực hành thành tâm “nhơn hòa”, để mọi người cùng
hưởng một mùa xuân đúng nghĩa, thuận tùng Thiên lý.
Đức Thường Cư Nam Hải Quan
Âm Bồ Tát dạy: Thiên Lý đã vận hành cơ phản bổn, thì nhơn tâm cũng phải minh
định quay về sống trong Thánh Đức, thực hành Thế Đạo Đại Đồng an dân thì lo gì
nhân loại không hưởng thái bình an lạc.
Bàn về chử Hòa trong lý
nhạc, Đức Chí Tôn ngày 14-2-Kỷ Tỵ (dl ngày 24-3-1929) đã cho bài
thơ giảng giải về chữ Hòa
trong nhạc lý như sau:
THẦY
Thầy mừng các con.
Từ ngày Thầy hứa cùng các
con rằng: Thầy cho bài giảng Hòa thì các con có lòng mong mỏi, nhưng kẻ phò loan
chẳng đặng trọn thần. Nay Thầy cho lần lần vấn đề, về câu trường nhạc dĩ vi
lạc… nghe các con.
" Đêm thanh vắng lên dây trổi nhịp,
Khải năm âm cho hiệp cùng nhau.
Chớ phân tiếng Thổ tiếng Bào,
Thạch Kim với Mộc hòa vào mới vui.
Giữ tư trước thêm mùi du thủy,
Cách sơn xuyên hòa mỹ nương nhau.
Xưa kia đều khách Thiên Tào,
Nay đây cảnh tục tranh cao lợi quyền.
Quyền chi đó, tiền duyên đành mất,
Lợi gì đâu mà thất đạo tâm.
Chẳng so như bực thú cầm,
Hồ bi thố tử, nghĩ thầm thương nhau.
Vì thương
thế, xuống trần dạy bảo,
Dẫn các con huờn đáo cựu ngôi.
Than ôi! Thế tục suy tồi,
Đường Tiên thì lánh, ưa mùi vinh hoa.
Hoa ấy rụng, tòng già chẳng rụng,
Vinh nọ mòn, bá chợt màu tươi
Sầu than gẫm lại buồn cười,
Chê người đạo đức, khoe người đai cân.
Cân ấy tội cõi trần là khổ,
Đai
kia là hình nội Phong đô.
Khuyên
con khá lánh mê đồ,
Cùng
nhau dìu dắt giảng phô việc lành.
Dạy cả
thảy nhơn sanh tỉnh tánh,
Lấy từ bi mà lánh sân si.
Toan lo cho Đạo kịp thì,
Đỡ nâng nhơn loại chung qui một trường.
Trong tám tiếng phân tường giai cấp,
Giọng Cung Thương cao thấp tùy nhau.
Giốc Chủy Vũ hiệp thanh tao,
Lục căn Lục lữ phân sao cho đều."
(Trích Tài liệu Ban Nhạc của Nhạc Sư Trần Thiện Niệm)
Thay lời kết: Mùa xuân năm
Đinh Mão 1927, Đức Chí Tôn đã khuyên dạy các môn đệ của Thầy: “Dạy lẫn cho nhau
đặng chữ Hòa”.
Nhân hòa nghĩa là sự hòa
hợp giữa con người với nhau trong cộng đồng thế giới nhân loại.
Nhân hòa sẽ thúc đẩy con
người tiến lại gần nhau, từ nghịch lẫn trở nên thân tình, từ thù thành bạn, từ
chiến tranh thành hòa bình. Đó là ý nghĩa của "Nhân hòa"; trong cuộc
sống nhân sinh.
Hòa là bài học đầu tiên
thuở sơ khai nền Đạo, là Thánh Ý Đức Đại Từ Phụ mong muốn tất cả môn đệ Cao Đài
phải thường xuyên trao đổi, nhắc nhở cho nhau và lấy chữ Hòa làm phương châm
trên bước đường tu học hành đạo.
Hòa là lễ phẩm trân trọng
môn đệ Cao Đài nhất dâng lên cho Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng
Liêng.
Vận dụng được “Hòa” trên
mọi lĩnh vực, trong Đạo ngoài Đời, từ gia đình đến quốc gia và toàn thể xã hội
nhân loại khắp toàn cầu, và thực hành được “Hòa” thì trong ấm ngoài êm, gia
đình hạnh phúc, xã hội phồn vinh, tiến bộ văn minh, láng giềng lân bang thân
tình chứa chan. Nước nước nhà nhà, trên thuận dưới hòa… Đó là “thiên đàng” tại
thế, Thượng Nguơn Thánh Đức gần kề, không phải nhọc công tìm kiếm non Đoài hay
Khứu lãnh.
Thật vậy ngay trong một
gia đình mà trên dưới hòa thuận và nhường nhịn lẫn nhau, thì dù ở trong một túp
lều tranh, cũng sánh được với Động Đào nguyên rồi, nên Đức Chí Tôn mới khuyên
rằng: “Cố sửa lều tranh hóa động Đào”
là vậy.
Theo Bí Pháp Chơn Truyền,
thì người tu phải thực hiện hai chữ “Hòa”
và “Nhẫn”, mới có thể vào được cửa
Niết bàn, vì Đức Chí Tôn đã phán rằng:
“Phương pháp độ rỗi, chỉ khuyên lơn các chơn linh dầu
Nguyên nhân hay Hóa nhân phải đoạt được hai chữ Hòa và Nhẫn thì mới về cửa nầy
được. Dầu cho vạn kiếp sanh dày công tu luyện mà còn ganh ghét, thì sẽ bị vào
tay Chúa Quỷ, chớ không mong gì về cùng Thầy...” (Đức Hộ Pháp giảng).
Vấn đề then chốt muốn đạt
được chữ Hòa, chúng ta cần phải nắm được yếu quyết Âm Dương là “Một”, phải quấy
là một, không thể nào loại bỏ cái nầy để lấy cái khác. Nếu chúng ta nhận ra cái
“Một” đó, thì chúng ta ngộ Đạo, và trong xử thế mới có thể nhẫn nhục, khoan
dung, thương yêu, hòa hợp với nhau, và tất cả những xung đột, bất hòa sẽ giải
quyết một cách ổn thỏa, ngay vấn đề thống nhất các chi phái Đạo cũng thực hiện
dễ dàng. Ngoài ra còn giúp chúng ta lạc quan yêu đời, tăng cường sức khỏe và
tuổi thọ nữa.
Khi xuân về, nắng xuân ấm
áp, gió xuân mát mẻ, thì lòng người phải hòa hợp cùng thiên nhiên, phải khoan
dung rộng mở, thương yêu giúp đỡ, người vật tương đồng, không phân biệt, không
kỳ thị… Được như thế, mới thực hiện đúng theo lời dạy: “Có nhân hòa Xuân mới
thành Xuân”, mới hưởng được một mùa Xuân miên viễn trong tình Tạo Hóa, trong đức
háo sanh vô biên của Thiên Địa (Trời Đất):
"An bài nhơn
loại do hòa hiệp,
Hòa hiệp không còn ba, bảy, hai.
(…)
Con hãy giữ dĩ hòa vi quý,
Hòa mới tường
đạo lý cao siêu,
Mới không phạm luật Thiên điều,
Mới mong anh dắt, em dìu sớm hôm."
Trong ngày
Lể Vía Đức Chí Tôn hàng năm, món quà “quí báu” nhất dâng lên Thầy chính là sự
hòa hợp của các môn đệ Đạo Cao Đài như lời Thầy dạy: “Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau
hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng.”
Trân Trọng,
QS TS Nguyễn Thanh Bình
Ban Thế Đạo Hải Ngoại
Tòa Thánh Tây Ninh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét