Sưu Tầm
I . Vai Trò Của Thơ Ca Trong Lịch Sử
Đạo Cao Đài
Có thể nói lịch
sử Khai Đạo Cao Đài đã được thi vị hóa bởi sự hiện diện của thơ ca và nhạc Đạo.
Các vị Tiền
Khai Đại Đạo đều là những thi gia với hồn thơ lai láng mà lại cũng giỏi tay
đàn, cũng thích cảnh trăng thanh nước biếc, đã từng xuôi ghe theo dòng, ngâm
nga xướng họa.
Nếu trong giai đoạn tiềm ẩn của Đạo, các vị chức sắc thiên phong như Đức Hộ
Pháp, Thượng Phầm, Thượng Sanh, Thập Nhị Thời Quân, Q. Giáo Tông, etc…
đã nhận
được những bài thơ Tiên thâm trầm đạo vị, thì trong thời kỳ gầy dựng cơ Đạo Cao
Đài, chư vị Tiền Khai cũng đã trải qua một quảng thời gian hưởng thú xướng họa
thi văn với các Đấng Thiêng Liêng (Thần Tiên) và được các lời dạy của các Đấng.
Lúc đầu, năm
1925, các Ngài Cao Huỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Phạm Công Tắc thương hội họp với
nhau để ngâm thơ vịnh nguyệt. Đến khi phong trào xây bàn, cầu cơ liên lạc với
cõi vô hình lan rộng, các Ngài vì tò mò muốn tìm hiểu nên đã tổ chức những cuộc
cầu người khuất mặt. Thất Nương Vương Thị Lễ vào bàn xưng là Đoàn Ngọc Quế và
cho ba bài thơ tự thuật về cuộc đời bạc mạng "thác vì tình" của cô Quế.
Thật ra, khi ở thế gian, Thất Nương mất vì bịnh, lúc 18 tuổi. Ba vị đã tò mò, lại
càng bị hấp dẫn bởi thi tài của cô gái, nên khởi hứng họa bài thơ đầu tiên ấy,
rồi lại còn kết nghĩa anh em với cô.
Có một lần nọ,
Ngài Cao Hoài Sang làm một bài tự thuật :
"Sầu dài ngày vắn dễ chi vui,
Toan tính thâu đêm ruột rối nùi;
Ngược sóng thuyền đầy cơn gió dập,
Xuôi dòng nước lớn giạt bèo trôi.
Bước đường danh lợi thêm gay trở,
Ngoảnh lối tang thương luống ngậm ngùi.
Lần lựa xuân hè năm tháng lụn,
Thôi thôi đến thế, thế thì thôi".
Cô Đoàn Ngọc Quế, trong cuộc xây bàn lần đó, họa nguyên vận bài trên như sau:
"Chung tình đoạn gánh khó làm vui,
Lần lựa chưa xong chỉ rối nùi;
Lời hẹn xưa còn vầng nguyệt chứng,
Hương thề nên thả giữa dòng trôi.
Kim cải rụng rời lòng ngao ngán,
Đá nát vàng phai dạ ngậm ngùi.
Một khối tuyền đài tình khó dứt,
Ráp gương kiếp khác quyết chờ thôi".
Tiếp theo, cô
lại còn cho thêm một bài thơ rất là hay nữa.
Nói chung, nội
dung những bài thơ xướng họa trong giai đoạn này, các Đấng Thiêng Liêng đã tạo
ra những tình tiết lâm ly cốt gây sự hấp dẫn cho những buổi thi đàm trong các
cuộc xây bàn.
Trong kế hoạch
thâu nhận và điều độ các vị Tông Đồ vào cửa Đạo trong thời kỳ tiền khai Đạo, Đức
Chí Tôn (Đức Thượng Đế) đã nhắm đúng sở thích và tâm lý của các Ngài là ưa xướng
họa thi văn nên đã cho Thất Nương Diêu Trì Cung đến trước để làm những công tác
sơ khởi liên lạc. Quả thật, sự xuất hiện thường xuyên của cô Quế đã làm cho quí
vị ngày càng thích thú hăng say trong mối giao tiếp với cõi vô hình, mà không hề
nghĩ rằng đó là một vị Tiên Nữ giáng phàm.
Vào cuối tháng 7, 1925 khi quí vị định cầu cô Đoàn Ngọc Quế về làm thơ thì có một vị Tiên Ông xưng tên là A Ă Â đến với quí vị và yêu cầu đừng tìm biết Ngài là ai, đừng hỏi về quốc sự, cũng đừng hỏi về Thiên Cơ. Thế nên nội dung cuộc giao tiếp thường chỉ xoay quanh vấn đề văn chương, thi văn mà thôi. Những thắc mắc của quí vị về từ ngữ, điển tích trong các bài thơ do Thiêng Liêng cho đều được Ngài giải đáp cặn kẻ khiến cho quí vị vô cùng khâm phục.
Có một lần, ông Nguyễn Trung Hậu (được Đức Chí Tôn thâu nhận là tông đồ và sau thiên phong Bảo Pháp, Thập Nhị Thời Quân, Hiệp Thiên Đài) bạch cùng Đức A Ă Â rằng : "Tôi còn nhớ hai câu đối thuở nay chưa ai đối được xin đem ra nhờ Ngài đối chơi cho vui ". Đức A Ă Â khiêm nhượng đáp rằng: " Bần Đạo xin hầu đối, nếu đối ra không chỉnh, quí vị chớ cười và niệm tình Bần Đạo mà chấn chỉnh lại cho".
Câu đối ấy là
: "Ngồi trên ngựa đừng bò con
nghé".
Đức A Ă Â đối
lại : "Cởi lưng trâu chớ khỉ thằng
tê"
Giai thoại
này đã được truyền tụng xưa nay trong lãnh vực văn học thi ca của Cao Đài.
Rồi đến một lúc nọ, khi quí vị ngõ ý muốn được tiếp rước thêm những người bạn của Cô Doàn Ngọc Quế để học làm thơ thì cô trả lời rằng có các chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương, Tam Nương, Nhất Nương làm thơ hay lắm. Tuy nhiên nếu muốn cầu thì ba anh phải...ăn chay.
Nhưng vài ngày sau, Cô Quế lại đến và dẫn theo cô Hớn Liên Bạch, giới thiệu rằng cô này làm thơ rất hay.
Ngài Cao Hoài
Sang muốn thử tài năng của cô bạn mới nên đề nghị ra đề tài để cô làm thơ, tựa
là "Tiễn Biệt Tình Lang".
Bàn gõ không ngừng, ra ngay một bài rất đậm đà, chẳng những thế, cô Bạch lại
làm luôn một bài nữa, tên là "Hoài
Lang" .
Cũng cần nói
thêm, Hớn Liên Bạch là tên của Bát Nương Diêu Trì Cung. Tiên thi hẵn nhiên là đẹp
mà lại phong phú dồi dào, nên mỗi khi các vị Tiền Khai vừa ra một đề tài hay xướng
một bài thơ thì các vị Tiên Cô liền đáp lễ làm tiếp ngay một bài, lại tặng thêm
một bài thơ nữa.
Từ khi được dặn
dò phải ăn chay, ba vị bắt đầu dọn mình chuẩn bị tiếp rước Đức Diêu Trì Kim Mẫu
và Cửu Vị Tiên Nương trong ngày Lễ Trung Thu đầu tiên của Đại Đạo (1925) gọi là
"Hội Yến Diêu Trì" mà ngày nay tín hữu Cao Đài còn giữ lệ.
Thật là một
đêm tuyệt diệu. Dưới ánh trăng thu huyền ảo, một buổi dạ tiệc của người Tiên với
khách tục đã diễn ra trong bầu không khí trang trọng và quá nên thơ. Tưởng chừng
như quí vị đang ở giữa vườn đào của Đức Tây Vương Mẫu. Tam vị cùng với chư vị
Tiên cô đã cùng nhau họa vận và liên ngâm.
Những cuộc xướng
họa vẫn liên tục. Thi đàn của chư vị Tiền Khai ngày càng được các vị ở cõi vô
hình (Thiêng Liêng) đến viếng và đề thơ. Điều đó đã thu hút đông đảo giới tao
nhân mặc khách có tính hiếu kỳ.
Và, hai tháng
sau ngày Hội Yến, cuộc đời của các Ngài bắt đầu bước vào một khúc quanh vô cùng
quan trọng. Đức A Ă Â dạy các Ngài phải "Vọng
Thiên Cầu Đạo".
Từ những buổi
sinh hoạt có tính cách văn nghệ, các Ngài đã "phải" ăn chay để được hội đàm cùng chư Tiên, rồi lại "phải" Vọng Thiên Cầu Đạo để
còn được các Đấng cao thâm tiếp tục dạy bảo.
Rõ ràng những vần thơ đẹp đã nhẹ đưa bước chân của thi nhân vào nẽo đạo, biến những kẻ yêu thơ thành những vị Thánh tông đồ, những vị đã hết lòng, hy sinh vì Đạo.
Kỳ diệu thay
một cuộc biến đổi ! Lý thú như một chuyện đời xưa, uyển chuyển khéo léo như chiếc
đủa thần của bà tiên và êm đẹp như một bài thơ.
Như vậy, cùng với "cơ bút, "thơ" đã làm trung gian nối liền nhịp cầu giao cảm giữa hai cõi sắc không, giữa người Tiên kẻ Tục. Thơ đã dìu dắt chư vị Tiền Khai bước vào sứ mạng trọng đại của quí Ngài. Thơ đã hiện diện ngay trong những giây phút đầu tiên của công cuộc khai sáng Đạo Trời Tam Kỳ Phổ Độ và còn tiếp tục hiện diện nhiều hơn nữa trong công cuộc phổ độ nhơn sanh.
II . Vai Trò Của Thơ Ca Trong Công
Cuộc Phổ Độ Của Đạo Cao Đài
Trước khi công khai hóa hoạt động tại Sài Gòn (tháng 10-1926), trong thời
kỳ tiềm ẩn của Đạo Cao Đài (1920-1926), các môn đệ đầu tiên của nền tôn giáo mới
đã đón xuân Bính Dần một cách đặc biệt. Tại Sài Gòn, chiều 30 Tết (thứ Sáu 12-02-1926 ), các ông họp lại, cùng nhau đi một vòng ghé nhà từng bạn đạo. Bắt đầu
từ nhà ông Võ Văn Sang, cuối cùng về đến nhà ông Lê Văn Trung (1876-1934) thì
cũng vừa kịp đón giao thừa.
Đêm trừ tịch Ất
Sửu - Bính Dần (12-2-1926), sự kiện hiệp nhất lịch sử giữa những vị đệ tử đầu
tiên (12 người) được Đức Chí Tôn đánh dấu bằng một Thánh Lịnh ban trao sứ
mạng của Đạo Cao Đài để phổ độ chúng sanh. Đức Chí Tôn (Thầy) dạy:
“Chư đệ tử
nghe: Chiêu buổi trước hứa
lời truyền Đạo, cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời mà làm chủ, dìu dắt cả môn đệ
Ta vào đường đạo đức đến buổi chúng nó lập thành, chẳng nên tháo trút. Phải
thay mặt cho Ta mà dạy dỗ chúng nó.
Ông Chiêu hỏi:
- Qua đến năm
1933 thì Đạo mới lập thành?
- Phải.
Trung, Kỳ, Hoài, ba con phải lo thay mặt cho Chiêu mà đi độ người. Nghe và
tuân theo.
Bản, Sang, Giảng, Quí, lo dọn mình đạo đức đặng truyền bá cho chúng
sanh. Nghe và tuân theo. Đức tập
cơ, Hậu tập cơ, sau theo
mấy anh đặng độ người. Nghe và tuân theo.”
Ấy là lời
Thánh giáo đầu tiên, kỷ niệm ngày Khai Đạo mồng 1 giờ Tý, Tết năm Bính Dần vậy.
(Tài liệu Đại Đạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp)
Qua Tết, đến ngày mồng 9 tháng Giêng Bính Dần (20-2-1926), mười
hai vị Tông Đồ họp mặt dâng lễ Vía Trời, được Đức Chí Tôn giáng dạy (TNHT):
"Bửu
tòa thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy
nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung
hiệp rán vun nền đạo đức,
Bền lòng son sắc đến cùng Ta".
“Nguồn
Tiên tầm Ðạo dễ gì đâu?
Quyền
phép Càn Khôn một túi thâu.
Thoát
xác xưa tầng tu vạn kiếp,
Ðộ
hồn nay gội khắp năm châu.
Tìm
hiền lắm lúc gieo nguồn Ðạo,
Cải
dữ đòi phen cổi mạch sầu,
Trần
khổ dầu ai chơn muốn lánh,
Ngày
thành chánh quả có bao lâu!”
Cái nhánh các con là nhánh chính mình Thầy làm chủ, sau các con sẽ hiểu. Thầy vui muốn cho các con thuận hòa cùng nhau hoài, ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân trọng.
Phải chung lo
cho danh Ðạo Thầy. Ðạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy, phải làm cho
nhau đặng thế lực, đừng ganh gổ nghe! Các con giữ phận làm tùy ý Thầy muốn,
ngày kia sẽ rõ thấu ý muốn của Thầy:
“Vào vòng
huynh đệ khá thương nhau,
Một đức trổi
hơn một phẩm cao.
Quyết chí
Thiên Ðường men bước tới,
Phải nhiều
máu thịt mới đồng bào”.
Các con phải
hiểu rằng: Thầy là huyền diệu thế nào? Cách dạy, Thầy buộc tùy thông minh của mỗi
đứa mà dạy. Dầu cho thầy phàm tục cũng phải vậy, nếu đứa nào dở mà dạy cao kỳ,
nó biết đâu mà hiểu đặng.
Thầy cấm
không cho dị nghị việc người, nhứt là đạo hữu của các con thì đừng phạm đến kẻo
tội nghiệp; chi chi cũng phải nhớ quyết rằng có Thầy trong đó:
“Chẳng quản đồng
tông mới một nhà,
Cùng nhau một
Ðạo tức cùng Cha.
Nghĩa nhân
đành gởi thân trăm tuổi,
Dạy lẫn nhau
cho đặng chữ hòa”.
Thầy nói một
lần từ đây nhớ lấy, dầu cho đá, sắt, cây cỏ, mà nghe đến Thánh Ngôn nơi Thầy mà
con nói ra, cũng hoan nghinh, huống lựa là người, con nhớ và an lòng.
“Ðã thấy ven
mây lố mặt dương,
Cùng nhau xúm
xít dẫn lên đường.
Ðạo cao phó
có tay cao độ,
Gần gũi sau
ra vạn dặm trường”.
Thầy đã hằng
ngày nói với con rằng: Muôn việc chi Thầy đã bố hóa vào lòng con. Như con tính
điều chi, tức Thầy đã định rồi. Con không cần nặng lòng lo lắng. Ðạo cốt để cho
kẻ hữu duyên. Những kẻ nào đã làm môn đệ của "Tà Thần" thì không thế
gì làm môn đệ Thầy đặng.
“Lẽ Chánh tự
nhiên có lẽ Tà,
Chánh Tà hai
lẽ đoán sao ra.
Sao ra Tiên
Phật người trần tục,
Trần tục muốn
thành phải đến Ta”.
Những kẻ đã
hưởng hết phúc hậu từ mấy đời trước, nay lại còn phạm Thiên Ðiều, thì tội tình ấy
thế chi giải nổi. Mấy con biết luật hình thế gian còn chưa tư vị thay, huống là
Thiên Ðiều thì tránh sao cho lọt? Dầu các con như vậy, thì Thầy cũng lấy oai
linh ấy mà trừng trị chớ không tư vị bao giờ. Phải lo sợ tội tình cho lắm, phải
có sợ mới có giữ mình, biết sợ phải biết giữ mình, phải hiểu rõ rằng: "Thiên Ðịa Vô Tư" đừng ỷ là có
"Ðại Từ Phụ" mà lờn oai,
nghe các con!
Thánh ý của Thầy là hiệp nhất để tận độ. Trước mặt Thầy ngày
ấy đã có sự hiệp nhất; đến bây giờ đàn con vẫn quỳ trước thánh tượng Thầy, sự
hiệp nhất ấy còn chăng?
Con một Cha, anh em một nhà, do nguyên nhân nào chưa hiệp
một?
Có lẽ vì chúng ta là con người, con người phàm phu, lại phải mang lấy mệnh Trời cao cả. Đương nhiên, trở ngại lớn là ở thế giới hữu hình trọng trược, là xác phàm; nhưng lớn nhất chính là tâm
phàm. Tâm phàm có bản chất phân biệt. Với Tâm phân biệt, con người tiến bộ
trong lãnh vực khoa học vật chất, ngược lại con người bị đẩy ra khỏi bản thể đại
đồng.
Thầy đã mở trường dạy Đạo, cho người truyền bá pháp môn. Nếu tất cả môn đệ đều chăm chỉ, tuần tự thăng tiến, thì nhất định có đủ tài đức hoàn thành sứ mạng Thầy ban trao.
Vậy mỗi người chúng ta hãy tự nhìn lại mình, tự xét mình còn nuôi dưỡng lý tưởng cao cả của Đại Đạo chăng? Cơ Đạo sớm muộn gì cũng quy nhất, thống nhất.
"Thiên cơ thế sự định phân rồi,
Chờ đợi con người đạo đức
thôi".
Con người đạo đức mà thiên cơ chờ đợi không phải là người giữ đạo bình thường.
Đó là người có đủ quyền pháp thay Trời hoằng giáo. Quyền pháp không ở nơi chức
sắc vị ngôi, không trụ trong đền thất nguy nga, mà là công năng hòa mình cùng đại
thể vạn linh.
Thầy là Chúa tể Càn Khôn Thế Giới, vì tình thương chúng sanh vô minh đắm chìm trong bể khổ, đã hạ mình chỉ làm một vị Bồ Tát đem Đạo phổ độ giáo dân, chúng ta hãy noi gương khiêm tốn, tập hạnh vị tha của Thầy để gần gũi, thương mến, dung thứ cho nhau. Được vậy, trong một kiếp làm môn đệ của Thầy sẽ chu toàn trách vụ con người Đại Đạo, dưới có hàng tiếp nối, trên có Thầy chuyển hóa, lo gì Cơ Đạo không thành.
Đêm Noel, 24-12-1925 (âm lịch 9-11-Ất Sửu), Thất
Nương giáng cơ truyền phải chỉnh đàn cho nghiêm trang hầu tiếp giá. Nghe vậy, ba ông Cư, Tắc, Sang, nửa mừng nửa sợ, lật đật
sắm hương đăng hoa trà tửu quả, chỉnh đàn có nghi tiết, rồi hai ông Cư và
Tắc ngồi chấp cơ.
Cơ giáng: “Ngọc Hoàng Thượng Thượng Đế
viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát giáo đạo Nam Phương”:
“Muôn kiếp có Ta nắm chủ
quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ân
Thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần
thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn
biên”.
Đêm nay phải vui mừng vì là ngày Ta đã xuống trần dạy Đạo bên Thái Tây
(Europe). Ta rất vui lòng mà đặng thấy đệ tử kính mến Ta như vậy. Nhà nầy (nhà
của ông Cư) sẽ đầy ơn Ta.
Ta sẽ làm cho thấy huyền diệu đặng kính mến Ta hơn nữa.
Bấy lâu Thầy vẫn tá danh AĂÂ là cốt để dìu dắt các con vào đường đạo đức, hầu
chẳng bao lâu đây, các con phải ra giúp Thầy mà khai Đạo.
Các con có thấy Thầy khiêm nhượng là dường nào chưa?
Các con nên bắt chước Thầy trong mảy mún thì mới xứng đáng là người đạo đức.
(TNST Quyển I, Đại Đạo Căn Nguyên của Ngài Bảo Pháp)
Đức Chí Tôn giáng trần khai minh nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để chấn hưng
nhơn tâm, nhơn khí, đưa con người trở lại cuộc sống thuần lương tốt đẹp. Thế
nên, vấn đề đem đạo lý thấm nhuần vào đời sống nhơn sanh, chan hòa trong mọi
lãnh vực, là vấn đề rất quan trọng. Tuy nhiên, bản chất Đạo vốn không hình,
không danh, không tiếng, không lời nên muốn bàn luận đến đạo lý phải tạm mượn
văn tự, ngôn từ để diễn tả.
Ngàn năm xưa, các văn gia cũng đã có quan niệm "Văn dĩ tải đạo"
nghĩa là văn để chở Đạo, truyền Đạo. Hàn Dũ (768-824) đời
Đường, làm học sĩ ở Quốc
Tử Giám, học thức của Hàn Dũ uyên bác, giảng dạy sinh động nên được đa số học
sinh yêu thích và kính phục, đã bảo "Không phải sách của thời Tam Đại, Lưỡng Hán thì không dám xem,
không phải cái chí của Thánh Nhân thì không dám giữ. Theo con đường nhân nghĩa
mà đi, theo cái nguồn thi thư mà lội thì suốt đời không lạc đường, không tuyệt
cái nguồn"
Thơ ca là một trong những cách dùng lời để diễn tả ý tưởng. Thông thường,
nói đến thơ là nói đến ngâm hoa vịnh nguyệt, nói đến một thú tiêu khiển nhàn
nhã. Có người bảo rằng, thơ ca có thể làm cho con người bay bỗng tâm hồn theo
trời trăng mây gió mà quên đi cuộc sống thực tế.
Một vị chức sắc Tiền Khai Đại Đạo, Ngài Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt, cũng lưu
tâm đến điều này nên đã bảo "Mỗi độ Xuân về, mỗi kỳ hội lễ, thỉnh thoảng
có các hàng Tiền Bối Khai Đạo giáng cơ để tâm tình đạo sự hoặc đọc một vài câu
thơ gọi kêu khuyên nhủ, chư hiền đệ hiền muội có một cảm nghĩ nào trong lời nói
của người xưa với ý thức hệ ngày nay không ?
Một vài vần thơ chúc tụng, một đôi vé thi bài nhắc nhở nhủ khuyên, có phải
chăng một điệu nhạc ru hồn hay một màn diễn xuất trên sân khấu, câu nhặt câu
khoan, câu nam câu khách ?"
Câu trả lời chắc hẳn là không.
Người xưa từng cho rằng thơ cốt nói lên lòng người thì thơ Tiên Thánh cốt
nói lên ý chỉ của Tiên gia muốn truyền đạt cho thế nhân.
Bạch Cư Dị, Bạch Cư Dị
(772-846), tự là Lạc Thiên, là nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng thời nhà
Đường. Ngôn từ trong thơ ca của ông dễ hiểu, mạch lạc và trôi chảy. Ông là
một thi gia, danh tiếng đời Đường đã nói : "Thơ gốc nó là Tình, ngọn nó là Lời,
hoa nó là Tiếng, trái nó là Nghĩa" cho nên ông chủ trương rằng văn thơ
không phải để đùa giỡn với hoa cỏ gió mây mà phải có mục đích "phụng sự
nhân sinh".
Phong cách thơ vô cùng độc đáo của ông đã trở thành một thể loại văn học
thường được gọi là “nguyên bạch thể”, hay còn gọi là thể thơ giản dị tới mức
căn bản. Bạch Cư Dị là người ủng hộ trường phái tân nhạc và các bài hát
dân ca mang phong cách triều Hán.
Thật ra, tinh thần Cao Đài rất cởi mở, trọng "chất" nhưng cũng
không xem nhẹ "văn", dung thông mọi quan niệm về thi văn, mọi hình thức
diễn đạt tư tưởng. Do đó, chúng ta có thể thấy thơ ca Cao Đài có nhiều vai trò.
Trước hết là vai trò truyền đạt đạo lý, kế đến là bảo vệ và phát triển văn hóa
và sau đó là vai trò phụ làm thú tiêu khiển thanh tao.
Về vấn đề "Văn dĩ tải đạo" nghĩa là văn để chở Đạo, truyền Đạo, Đức
Diêu Trì Kim Mẫu đã dạy
"Lời Thánh Dụ phú thơ
còn đó,
Bao thi văn dạy dỗ khuyên
răn;
Mong cho thế sự ăn năn,
Tự tu tự tỉnh lần phăng đường
về".
III . Thơ Ca Mùa Xuân Trong
Đạo Cao Đài
Đức Thái Thượng Đạo Tổ: “Đã học Đạo, hành đạo, tất biết Đạo hằng có trong vạn
vật. Vạn vật sinh tồn trong lý Đạo. Những phương pháp, phương châm, bí quyết để
con người được biết rõ chính mình và biết sống trong lý đạo để bảo trì nhân bản
trên xã hội nhân loại này đều tóm vào một ý nghĩa của mùa xuân. Bởi Mùa xuân là
mùa bắt đầu của một năm, đây cũng là mùa gắn liền với Tết, thường bắt đầu vào
tháng 1 và kết thúc vào tháng 3 dương lịch. Theo truyền thống lịch sử của người
Việt, đầu năm mọi người luôn chuẩn bị những lời chúc Tết, thơ chúc tết ý nghĩa
trong dịp đầu Xuân coi như một món quá có giá trị tinh thần vô cùng lớn để liên
lạc, gửi tặng bạn bè và người thân. Những lời chúc Tết Việt Nam luôn mang đậm
tính dân tộc, nhân văn và ý nghĩa trong từng câu chữ.
Hình ảnh nụ hoa đào chớm nở, hoa mai đâm chồi hay những cành quất trĩu quả
trên khắp nẻo đường, con phố báo hiệu một không khí xuân căng tràn, an vui đang
về. Những bài hát về mùa xuân tựa như những dòng chảy nhỏ ca lên khúc yêu thương,
đầm ấm về một mùa mới, về khoảnh khắc giao cảm mãnh liệt trong tâm hồn mỗi người
dân Việt chúng ta. Nhửng tập sách sưu tầm về “Ngày Tết Việt Nam” gồm nhiều bài hát xuân, thơ xuân, chuyện xuân
chắc chắn sẽ mang đến cho bạn một không gian xuân trọn vẹn màu sắc, cảm xúc
trong hương vị của những ngày Tết.
Đạo Cao Đài kể từ đêm giao thừa năm Bính Dần 1926, năm khai Đạo, đến giao
thừa năm Canh Tý (2020) này thì người Cao Đài đã trải qua 94 lần đón mùa xuân Đại
Đạo. Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng vào dịp xuân về thường ban
cho tín đồ Cao Đài các bài Thánh Giáo gồm những bài thơ để mừng xuân, các lời
chúc và cũng không quên nhắc nhở các môn đệ con đường hành đạo, lập đức, lập
công.
Trong dịp năm mới, đa số tín đồ Đao Cao Đài chuẩn bị những câu thơ, bài thơ
hay, ý nghĩa để gửi mọi người chúc vui vẻ, hạnh phúc, trong ngày đầu năm mới.
Mùa Xuân lồng trong thơ ca Đạo Cao Đài
đã xây dựng được một giá trị đạo đức lẫn giá trị văn hóa thẩm mỹ trong cuộc
sống của người tín hữu cũng như trong văn học giáo lý Đạo Cao Đài.
- Mùa Xuân trong thơ ca Đạo Cao
Đài có khả năng truyền đạt Thánh Ý để độ rỗi người đời.
- Mùa Xuân trong thơ ca Đạo Cao
Đài đã góp phần bảo vệ và phát triển kho tàng văn hóa dân tộc, làm phong phú và
làm đẹp thêm tiếng Việt.
- Đồng thời thơ ca mùa Xuân cũng
là phương tiện thưởng xuân thanh nhã, nhẹ nhàng đối với tâm hồn người học Đạo.
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế kim viết Cao Đài giáo đạo Nam Phương dạy:
Thầy các con, Thầy mừng các con.
Mặc dầu thời cuộc tang thương, thế trần biến đổi, Thầy
cũng dành riêng một mùa Xuân ấm áp với vẻ đẹp thiên nhiên để bù sớt lại những
lúc Đông tàn giá rét, nắng Hạ đốt thiêu, mưa Thu ảm đạm. Thầy đến với các con một
mùa Xuân mới. Các con hãy vui vẻ thưởng Xuân, đem Đạo Thầy truyền bá khắp nơi, đem hột giống lành gieo rải lan tràn, và
đem ân lành phổ cập cho tất cả con cái của Thầy cho chúng hiểu được lý Đạo, trở
về hiệp nhứt cùng Thầy hầu tái lập cõi đời Thượng Nguơn Thánh Đức. Các
con hãy hưởng một cái Xuân đầy ý nghĩa và nhân đạo (....)
Rồi đây, Thầy sẽ cho Phật Tiên Thánh Thần đến
giúp đỡ các con trong một mùa Xuân hành Đạo. Thầy ban ơn các con một mùa Xuân:
“Xuân sắc
thiên nhiên vẻ lịch xinh,
Xuân
phong đưa đón khắp toàn linh,
Xuân
hoa rực rỡ muôn màu đẹp,
Xuân cảnh
thanh tao một tiếng kình.
Xuân nhựt
nhựt tân tình Tạo Hóa,
Xuân
niên niên tải nghĩa quần sinh
Xuân
xuân con hỡi! Mùa Xuân Đạo,
Xuân Đạo
về mới dứt chiến chinh”.
Toàn khắp trên mảnh đất Việt Nam đã hiện lên Thánh Thể của Thầy, dầu là
trong sự Đạo Tâm công quả, muốn hiến thân để hành đạo, hiến của để lập đức, hầu
thoát cảnh trần tục để trở lại cùng Thầy; dầu là do sự phàm tâm dục vọng, tranh
đấu ở trong giới đạo đức. Các con hãy nhận thức lòng Thầy để đem vào lòng
các con, và tập lần lần để cho lần lần được thành công trên đường thương
yêu, ảnh hưởng ấy sẽ đem đến sự hoằng dương đạo lý của Thầy:
“Xuân đến
con vui với tiết xuân,
Hãy đem Đạo lý độ người trần,
Trong cơn mê muội xa ngôi vị,
Thức tỉnh lên đường học
Thánh Nhân”.
Đức
Thượng Phẩm viết “nhân
tiết Xuân về, ghi lại một vài vần thơ để tỏ niềm hoài cảm:
“Chí có Xuân thì biết thưởng Xuân,
Xuân còn nhớ lại cảnh năm Dần,
Lưng trời Bạch Hạc bay vi vút,
Mặt đất Thần Tiên luận nghĩa ân,
Mở khóa người đời tìm Thánh Đức,
Trau gươm kẻ sĩ học hiền nhân,
Thiên Đàng lòng vẫn bâng khuâng nhớ,
Trần thế còn chăng khách thưởng Xuân?”.
Giao thừa là giờ khắc chuyển đổi của thời gian, đồng thời với không gian, cảnh
vật, sinh hoạt và tâm tư con người. Thời khắc ấy càng đến gần, mọi người càng hối
hả sửa sang, trang hoàng, đổi cũ thay mới trong nhà ngoài cửa để đón mừng năm mới,
mừng ngày tháng đầu tiên của một năm và sự khởi phát tân xuân. Thời gian tuần
hoàn, không gian luân chuyển để luôn luôn đổi mới vạn vật, vừa bảo tồn vừa canh
tân thế giới. Đó là đạo lý mà cũng là quy luật tiến hóa trong trời đất.
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế kim viết Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát
giáo đạo Nam Phương, trong mùa xuân Bính-Ngọ đã dạy:
Thầy các con,
Thầy rất vui nhìn thấy các con đến chầu Thầy trước giờ xuân sang, để cùng
nhau hưởng hồng ân Thầy dành sẵn cho các con, cũng như Thầy hằng ngự nơi chánh
tâm mỗi trẻ:
“Thầy dành cho trẻ một mùa Xuân,
Đi lại trần gian xóa khổ trần,
Như lý Đạo mầu đang cứu cánh,
Cho đời thuần túy nét thanh tân.”
Dưới trời Đông lạnh lẽo giá rét, cỏ cây
trụi lá trơ cành, thú vật chim chóc đều rút vào hang ổ, người người đóng cửa
vào nhà. Vạn vật im lìm như chết đi trong mùa Đông.
Nhưng rồi một ngày kia, một làn gió hây hây thổi đến, những tia nắng trong sáng và ấm áp đã về với muôn loài. Tất cả vùng trỗi dậy, bừng lên sức sống, hoa trái nở rộ, thú ra khỏi hang, chim bay khỏi ổ nhảy nhót, líu lo. Bộ mặt thế gian đã thay đổi hẳn. Cảnh trăm hoa đua nở rực rở, sắc thắm huy hoàng, vui tươi và sống động kia đã báo hiệu mùa Xuân sắp đến rồi. Dịp Xuân về, Đức Diêu Trì Kim Mẫu có phác họa một nét đẹp của mùa Xuân:
"Vạn vật mong chờ một Chúa Xuân,
Đem về muôn vẻ đẹp màu
Xuân;
Hồng lô tuyết điểm hoa treo ngọc,
Thượng uyển hương nồng hạc múa Xuân".
Và lời Đức Chí Tôn, Thầy cũng đã nói về
cái đẹp của mùa xuân đến ở thế gian:
"Trải qua những tiết Đông Thiên,
Ngày Xuân sắp đến chân liền bước sang.
Những thôi trắng đỏ xanh vàng,
Điểm tô thêm nét trùng hoan cõi trần."
Nhưng tại sao có cuộc đổi thay kỳ diệu
ấy? Cái gì đã làm cho mùa Đông lạnh lẽo chết chóc trở thành mùa xuân ấm áp sinh
động ? Đó là Đạo là Chân Thiện Mỹ.
Đạo thể hiện qua luật biến dịch tuần
hoàn của Trời đất, sự đắp đổi giữa Âm và Dương mà xưa kia Thánh nhân đã tìm ra
và viết thành Kinh Dịch. Theo đó mỗi mùa tiết được tượng trưng bằng một quẻ đôi
có 6 hào tức 6 gạch ngang. Gạch liền là dương, gạch đứt là âm. Dương là Trời,
là nóng; Âm là Đất, là lạnh. Luật tuần hoàn hết nóng đến lạnh, hết lạnh lại
nóng. Mỗi tháng chuyển dịch một hào tức một gạch. Vào mùa Đông khi cực lạnh cả
6 hào của quẻ đều là Âm. Lúc ấy, tiết Đông Chí, liền có một hào Dương trở lại,
có nghĩa là sự sống đã trở lại, mùa Xuân trở lại, nhưng còn tiềm ẩn. Đó là lúc
vui mừng nhất của muôn loài. Khi Dương mới trở lại hãy còn ít ỏi nên không gian
còn lạnh, sức ấm chưa lộ ra ngoài. Tuy nhiên, đó là khí vô cùng quí báu (khí
nguyên sơ), nó có sức bộc phát mạnh mẻ làm bừng lên sự sống và sức sống của
muôn loài.
Dần dần, khí Dương đầy đặn thêm và đến
mùa Xuân được tượng trưng bằng 3 gạch liền. Âm Dương đã đồng đều và trộn lẫn
nhau. Độ ấm của khí trời đã đủ tốt để cho chim chóc tung cánh bay ra, thú rừng
rời chỗ ấm, hoa nở rộ trên ngàn. Mùa Xuân đã hiển hiện trên thế gian.
Lúc ấy ứng với quẻ Địa Thiên Thái và khí ấy gọi là khí Tam Dương hay Khí Thái Hòa. Đó cũng là Lý Trung Hòa của mùa Xuân.
Lúc ấy ứng với quẻ Địa Thiên Thái và khí ấy gọi là khí Tam Dương hay Khí Thái Hòa. Đó cũng là Lý Trung Hòa của mùa Xuân.
Xuân chỉ có được trong tâm khi con người được tĩnh lặng thất tình lục dục.
Các nỗi buồn, vui, lo, sợ, hờn, giận… không còn trú ngụ quấy nhiễu trong tâm.
Lúc đó con người mới vững vàng trước mọi biến đổi trong cuộc sống và đó mới
chính thật là Xuân. Và nếu chúng ta giữ được sự tĩnh lặng liên tục dài lâu
trong lòng sẽ không khó tìm mùa Xuân bất diệt:
"Xuân thị
Thiên Địa chi giao Thái,
Xuân dã vạn vật chi
sanh cơ;
Biết thưởng Xuân
lòng phẳng lặng như tờ,
Vui Xuân với
thiên nhiên nhiều thú lạ"
(Đông
Phương Lảo Tổ)
Và Đức Chí Tôn cũng không quên nhắt nhở
chuyện các Đấng Thiêng Liêng cũng hoan hỷ đón nhận cái đẹp nhẹ nhàng của mùa
Xuân:
"Đông Quân điểm cành mai hé nhụy,
Viện Như Lai hoan hỷ nghinh Xuân;
Tam dương thoại khí vần vần,
Bá hoa đua nở, gót lân ra vào."
Khí Dương của mùa Xuân đã là yếu tố để muôn loài tự phục sinh và đổi mới. Nói cách khác, đó là yếu tố thúc đẩy sự sinh sôi và tiến hóa.
Ở đây muốn nhấn mạnh điểm "muôn
loài tự phục sinh". Có nghĩa là nếu chỉ có khí xuân thì không đủ tạo mùa
xuân mà còn phải có yếu tố cơ bản hơn. Đó là mầm sống bất diệt nằm trong tự thể
của mỗi loài mà Tạo Hóa đã ban cho. Ở cỏ cây là cái hạt, ở loài người là điểm
tiểu linh quang hay linh hồn. Mầm sống ấy sẽ tiếp thu khí nguyên sơ mùa xuân mà
sinh sôi phát triển, tiến hóa. Loài cỏ cây tiếp thụ một cách tự nhiên. Loài
người, ngoài sự tiếp thụ bình thường tự nhiên, còn có thể tiếp thụ với ý thức
cao để tiến hóa vượt bực, nhảy vượt cấp và tạo một mùa xuân trường cửu cho
mình. Đạo của mùa Xuân cốt ở chỗ đó.
Mùa Xuân thế gian tuy là xuân của từng
chu kỳ, không thường xuyên mà bị gián đoạn bởi Hạ Thu Đông, nhưng trong cái vô
thường ấy vẫn có Xuân hằng thường trường tồn bất diệt :
- Vì lẽ Xuân đi rồi xuân lại đến, y như
thế, rồi lại đi và rồi lại đến … cứ thế mãi mãi, không ai ngăn cản xuân được.
- Vì lẽ hạt giống của sự sống vẫn còn
được ẩn chứa trong lòng đất sau mỗi mùa Xuân, chờ đủ yếu tố lại sinh sôi.
Mùa Xuân của thế gian là mùa Xuân ồn ào, náo nhiệt, mùa Xuân có thời giờ,
có giới hạn, ngắn ngủi, không trọn vẹn, vui buồn lẫn lộn, có khi buồn lại nhiều
hơn, hoặc niềm vui che đậy nỗi buồn. Đức Đông Phương Lảo Tổ viết:
"Đang lúc Xuân về với thế gian,
Đì đùng pháo nổ tiếng rền
vang;
Rượu trà bạn tác vui
ngoài mặt,
Ai biết bên trong lắm rộn
ràng."
và còn đối với giáo lý Cao Đài, thơ cũng đã được coi là một phương tiện tốt
để diễn tả giáo lý và tinh thần Đại Đạo, nhứt là trong những ngày Xuân:
"Xuân xuân đến muôn phần nô nức,
Xuân là
chi vạn vật đón chờ;
Xuân về
có rượu có thơ,
Có câu chúc tụng có giờ nghỉ
ngơi.
Kìa hoa thảo thắm tươi khoe
sắc,
Nọ cảnh đời nhiều mặt thanh
tân;
Phú bần tiện quí cũng Xuân,
Chờ Xuân trút hết não nầng Thu Đông.
Có phải Xuân thần thông diệu dụng,
Đủ uy quyền linh ứng vạn
sinh;
Có Xuân, có cảnh, có tình,
Có tâm, có đạo, trường sinh
bảo tồn.
Xuân là
của Đức Chí Tôn,
Thưởng Xuân vui với tâm hồn thiên nhiên".
Dù đang sống trong những ngày Tết, mọi người chung quanh đang vui vẻ đón
Xuân mà riêng mình đang bị những nỗi buồn lo ám ảnh thì Xuân cảnh lúc đó cũng
không làm sao tạo được mùa Xuân trong lòng.
Thế nên người Cao Đài được Đức Chí Tôn, Đức Phật Mẫu và các Đấng Thiêng
Liêng dẫn dắt tìm đến mùa Xuân bền vững, trọn vẹn hơn. Đó là tâm Xuân, Xuân
trong Đạo Đức, Xuân Vĩnh Cửu. Sự vắng lặng sẽ giúp tâm linh người trong sáng
hơn, nhạy cảm hơn để nghe rõ hơn, thông suốt hơn những tiếng nói, lời dạy vô
thinh trong cõi hư không. Đức Chí Tôn qua lời thơ đã nói lên giá trị Đạo Đức của
tâm Xuân (TNHT):
"Đời gọi rằng Xuân bất tái lai,
Tuổi Xuân đã mãn đến già ngay;
Bởi đời ảnh hưởng theo danh
lợi,
Còn đạo vun bồi âm chất dầy.
Vật chất hết Xuân khô héo rụi,
Tinh thần đạo đức mãi Xuân hoài;
Xuân Đời Xuân Đạo Thầy phân rõ,
Tự chọn mỗi con chớ để
sai".
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát cũng dạy về mùa Xuân cùng về với ý Đạo như sau :
"Xuân về ý Đạo cũng theo về,
Cảnh vắng, lòng thành, dứt
muội mê;
Tiếng gọi Thiêng Liêng văng
vẳng đó,
Gội nhuần ân phước cả muôn
bề".
Ngài Hiếp Pháp, trong “Tân Xuân Khai Bút” trong dịp Xuân đến, nhắt lại vai
trò Đạo dìu Đời trong vai trò phổ độ để nhân gian được thái bình:
“Tân Xuân khai bút, bút đơm hoa,
Tô điểm non sông nét đậm
đà.
Thống nhứt toàn cầu gồm
một mối,
Tóm thâu thiên hạ sống
chung nhà.
Đạo dìu đời lập thuần
phong hóa,
Đời giúp Đạo khai hưởng
thái hòa.
Thần bút linh thông khêu
đuốc huệ,
Sáng soi bốn biển khắp gần
xa”.
Hiến
Pháp (Thân Dân)
Đức Chí Tôn vô hình, Đạo trời đất bao la; nhưng Đức Chí Tôn khai Đạo để nhắc
loài người rằng Đạo vẫn ở ngay trong Tâm khảm mỗi người. Và Đạo lý vẫn hiện bày
trước mắt con người giữa thiên nhiên bốn mùa tám tiết. Nên khi Xuân về, với
tình thương vô biên:
“Xuân
phúc tải Kiền Nguyên chi Đức.
Xuân
thái hòa vạn vật chi cơ,
Xuân
sang trước đã định giờ,
Xuân về
cho trẻ phục sơ tánh lành.
Xuân cảnh
thế đấu tranh hỗn loạn
Xuân
thiên nhiên soi sáng tâm điền,
Xuân
tâm hòa nhịp thiên nhiên.
Xuân
thiên nhiên với tâm điền không hai”.
Xuân sắc
điểm phân tài sứ mạng,
Xuân
phong thừa ngọc bảng đề ghi;
Xuân về,
xuân lại, xuân đi,
Thời gian vô tận, xuân thì vô chung.
Xuân
khai thới trần hồng thưởng thức,
Xuân dịu
hòa với đức hiếu sinh;
Xuân này
con trẻ khai minh,
Hoàn thành sứ mạng tròn gìn
đạo Xuân".
"Xuân về hướng nội không thời,
Là xuân vĩnh cửu Đạo Trời trường lưu.
Xuân
tâm chẳng chút phiền ưu,
Cùng vui xuân cảnh cùng cưu nổi sầu.
Âm dương Thiên Địa một bầu,
Lặng lòng mở trí nhiếp thâu
điều hòa.
Kỳ trung lạc thiện mới là,
Cùng xuân xây đắp Bửu Tòa nơi tâm".
(Nhịp Cầu Giáo Lý)
Đối với sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ, các tín đồ phải hướng đến mùa xuân vĩnh cửu
mới xứng đáng là người con tin của Đấng Thượng Đế (Đức Chí Tôn), như lời dạy của
Đức Lý Giáo Tông: “Bần Đạo thiết tưởng
xuân hữu hạn đối với thế nhân, xuân bất tái lai nên phải có ly rượu Giao thừa,
chung trà khai thái để đón giờ xuân đến, tiễn giờ xuân đi. Còn hàng chơn tu thọ
Thiên ân sứ mạng chấp trì quyền pháp thì xuân lại vô cùng vô tận.”
Vậy có thể nói mùa Xuân là biểu tượng cho sự ấm áp của Khí Thái Hòa, cho tình thương của Đấng Thượng Đế và cho sự sống vĩnh cửu hằng hữu. Mùa Xuân giúp cho con người có đủ năng lực và tinh chất bảo vệ quyền hạn và địa vị con người trong trời đất.
Cảnh trăm hoa đua nở rực rở huy hoàng, vui tươi và sống động kia đã báo hiệu
mùa Xuân đến rồi. Đức Diêu Trì Kim Mẫu có phác họa một nét đặc biệt của Xuân
như sau :
“Vạn vật mong chờ một Chúa Xuân,
Đem về muôn vẻ đẹp màu Xuân;
Hồng lô tuyết điểm hoa treo ngọc,
Thượng uyển hương nồng hạc múa Xuân”.
Mặc dầu thế gian có lúc bất bình, bất an, nhưng Xuân vẫn cứ đẹp, cứ xinh để
phục vụ con người. Chúng ta hãy nghe các đấng Thiêng Liêng tả cảnh Xuân:
"Xuân sắc thiên nhiên vẻ lịch xinh,
Xuân
phong đưa đón khắp toàn linh;
Xuân
hoa rực rở muôn màu đẹp,
Xuân cảnh
thanh tao một tiếng kình.
Xuân nhựt
nhựt tân tình tạo hóa,
Xuân
niên niên tải nghĩa quần sinh;
Xuân Xuân con hởi mùa Xuân đạo,
Xuân đạo
về mới dứt chiến chinh"
Đức Phật Mẫu nói về mùa Xuân “Hằng sống là nơi căn cội của các con. Vậy các
con cũng chẳng nên quyến luyến thế đời mà quên cựu vị nghe! Mẹ mừng đặng thấy
các con hội hiệp với nhau. Vậy các con hãy nắm tay nhau cho chặt chẽ, đi cho vững.
Mẹ ban ơn cho cả Nam Nữ”:
“Lượng sóng đời kia khó định chừng,
Vườn Xuân khô lá khó trông Xuân.
Hiên mai gió tạt nghiêng rèm hạnh,
Giậu tối Trăng soi đổ bợn trần.
Tiếng hạc kêu vui xa thẳm thẳm,
Hơi quyên chào thảm lóng gần gần.
Chờ xem thế cuộc tùy duyên phận,
Ðừng tính đeo mang gánh nợ trần”.
Việc ngắm cảnh thiên nhiên không chỉ tạo ra những mỹ cảm nơi lòng mà nó còn
có công dụng chế ngự dục vọng nhờ đó tâm bình an, phát sinh nhiều thiện cảm. Mà
hễ tâm mỗi người bình an thì xã hội cũng sẽ bình an. Ngắm cảnh thiên nhiên cũng
là để được nhắc nhở suy gẫm về đường tiến hóa của con người qua sự chiêm ngưỡng
bước tiến hóa của cỏ cây và muôn thú.
Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy "Các con hãy nhìn xem vạn vật trên thế gian.
Loài thảo mộc, những cây non cỏ dại, dầu sớm mọc chiều tàn, nhưng cũng vẫn đua
đòi tiến bộ theo luật thiên nhiên để đơm hoa kết quả, chớ nào phải riêng cho
tòng bá xanh tươi, cổ thụ rườm rà mới có đầy đủ sự sanh trưởng đâu con!" Cảnh
Xuân thiên nhiên còn giúp người mở rộng và nâng cao lòng mình:
"An hưởng trời Xuân ngắm cả hoa,
Hòa theo nhạc gió, gió Xuân hòa.
Thánh tâm mới biết đường
siêu đọa,
Nữ đạo làm sao rạng Đạo
nhà."
"Xuân đến trong lòng khách thưởng Xuân,
Thưởng Xuân mới biết vẻ thanh tân;
Non cao sừng sửng trời xanh
biếc,
Biển rộng bao la nước trắng
ngần.
Tòng bá vẫn quen đường
tuế nguyệt,
Kình ngư hẵn dạn cuộc phong
vân;
Chuyển luân một loạt cho Xuân đến,
Xuân đến
trong lòng khách thưởng Xuân".
Mùa Xuân là một cuộc đại triển lãm của Tạo hóa về cái đẹp của các loài thảo
mộc, các loài hoa:
"Vườn Tạo hóa sẵn sàng
vun quén,
Cho trăm hoa sắc bén hương
nồng.
Trải qua mấy hạ, thu, đông,
Chờ Xuân Xuân đến tạ lòng tác nhân".
Muôn vạn loài hoa đã đáp ơn đấng Tạo sanh ra mình bằng cách phô bày hương sắc
để cống hiến cho người. Đó cũng là cách hoa lập công tiến hóa. Loài người hãy
chiêm ngưỡng, thưởng thức những tặng phẩm của tạo hóa, những đóng góp của muôn
loài dành cho mình để giải khuây và cũng để phát triển tình yêu vạn loại:
"Sắc mai trổ một trời
quanh ánh,
Nhụy mai phong lóng lánh hạt
châu.
Gió đông phơ phất dạt dào,
Vì đời mai trổ để hầu đón Xuân".
Nhờ đâu mà hoa tươi đẹp như thế, thơm ngát như thế? Và hoa tươi đẹp, thơm
ngát để làm gì? Có lẽ tự thân những đóa hoa cũng vô tư không biết ý nghĩa
sự hiện diện của chúng trên cõi đời này và nếu không có loài người chắc không
có những nhận thức về cái đẹp của loài hoa.
Vậy rõ ràng là hoa đã nở vì "ai đó". Đạo lý hiểu hoa. Người có hiểu
hoa chăng
Tình Xuân vẫn vô tư, Xuân tự hứa đem sinh lực và niềm vui đến cho mọi người,
không phân biệt, cũng không đòi hỏi ở người điều gì. Xuân không vì người thích
mà đến sớm, cũng không vì người chán mà không trở lại. Đức Diêu Trì Kim Mẫu:
“Đời dầu có đảo điên hơn nữa,
Xuân vẫn
về vẫn hứa non sông;
Sắc hương tỏa khắp đại đồng,
Cho con cái Mẹ trọn lòng
thưởng xuân”.
Vậy thì cảnh thế gian, mùa xuân thế gian chưa phải là đích điểm của con người,
mà đó chỉ là trạm dừng chân nghĩ mệt từng lúc trên đường dài hồi hương. Đức
Quan Âm Như Lai dạy:
“Năm tháng qua rồi xuân lại sang,
Xuân về
xoa dịu nỗi bi quan;
Ai ơi có thấy đời là mộng,
Thắm thoát lần tay đếm chuỗi
tàn”.
“Tàn một giấc Nam Kha ảo mộng,
Trăm năm nào đặng sống trăm
năm;
Phú bần, vinh nhục, buông cầm,
Mõi mòn xác thịt, đọa trầm
hồn linh”.
Mùa xuân là mùa lập lại qua cuộc sanh trưởng thâu tàng, biết hòa dịu để lưu
hành trưởng dưỡng. Người biết đạo mới biết vui xuân. Biết vui xuân là biết hòa
mình cùng đại thể, cùng vạn vật”.
Trong cõi vô thường vẫn có cái hằng thường. Khi cành mai trổ nụ kết hoa ở
cuối Đông để đón tiết xuân sang khoe khoang màu sắc, trong thời gian rất ngắn,
cành hoa sẽ tàn tạ lìa cành, còn để lại cái bất diệt mai sau là xuân vĩnh cửu
trong những hạt mai đang kết tụ thành hình trong tiết Tam dương. Thảo mộc vẫn
còn có cái xuân bất diệt mà so bằng trong vạn vật, phương chi con người há lại
không có mùa xuân bất diệt ấy sao? Tất cả đều trong lẽ Đạo. Khi trọn biết là Đạo
rồi, vô thường, hửu vi không còn có ý nghĩa nữa mà chỉ còn là cái bất biến vô
sanh”:
“Tình Tạo hóa ban đều vũ trụ,
Đức háo sanh bao phủ Càn
Khôn.
Chuyển luân nhựt nguyệt,
vong tồn,
Cỏ cây nhơn vật vô cùng hóa
sanh.
Mùa Xuân ấy Trời dành vạn vật,
Mùa Xuân là tánh chất nước non.
Chuỗi đời trăm hạt xây
tròn,
Xuân về xoa dịu hàn ôn chuỗi
đời”.
(Diêu
Trì Kim Mẫu)
Đức Bát Nương, vào mùa Xuân Giáp Ngọ, đã giáng cơ cho một bài thơ vào tân
Xuân:
“Giáp Ngọ tân Xuân mở cửa thần
Thiên khai phổ hóa rưới hồng ân
Một đường vinh diệu nhờ tâm phúc
Tột nẽo quang minh bởi chí bần
Hành pháp thay Trời nương thể xác
Định linh rửa tục cậy phàm thân
Tế an thiên hạ tiên Nam quốc
Bóng Đạo tình Trời tạo Việt chân”.
Ngài Bảo Đạo mừng Xuân Giáp Ngọ, chúc Tết Đức Bát Nương
trong bài thơ:
“Tân niên
khai bút kính niên Bà
Xuân đến
người người trẻ chí già
Kính nguyện
Cao-Đài qui vạn chủng
Chúc cầu
nhơn loại hiệp cùng ta
Bát phương
huynh đệ gầy nhân ái
Nương sách đại đồng cậy sức Bà
Thăng giáng cuộc đời ôi mộng ảo
Vị tha vong kỹ nước Ma Ha”.
(Bảo
Đạo Hồ Tấn Khoa)
Và mấy bài thơ nói về mùa Xuân của
Ngài Bảo Đạo và Đức Bát Nương trong dịp xuân về đã nói về Đạo Pháp và cũng
không quên “khôi hài” nhắt đến “xôi chè” dùng trong mấy ngày Tết:
“Chẳng phải Xuân này mới thấy Xuân
Vì chưng ngọc lộ mới nên mừng
Cung đoài gác bóng hồn non nước
Cửa khảm rời thân nghiệp thấu chăng
Định vững trí thành nên đẹp thể
Dìu an tâm đức mới xinh trần
Giữ phương Pháp Chánh trau Thiên thể
Cực lạc phàm gian sẽ kiến lân”.
(Bát
Nương Diêu Trì Cung)
“Xuân này hai chín đó ai ôi
Xuân đã qua rồi rẻ mãi thôi
Xuân đến qui nguyên lòng toại chí
Xuân lui hiệp nhứt phỉ nguyền rồi
Xuân về an giấc nhà hoan lạc
Xuân tới trúng mùa gạo cứng nồi
Xuân đặng như nguyền xin khấn hứa
Hăm ba Xuân nữa
cúng chè xôi”.
(Bảo
Đạo Hồ Tấn Khoa)
Đức Bát Nương họa lại bài thơ
của Ngài Bảo Đạo như sau:
“Đồng bầu đạo đức sợ chi ôi
Định phép hằng tâm quả được thôi
Nợ thế cùng Xuân
cùng nợ mãi
Duyên thiên dầu hạ cũng duyên rồi
Trải thân cậy trúc Ma Ha nước
Rửa thế nhờ nơi tịnh thủy nồi
Xuân đến đầy lòng vui đạo đức
Chúc ông Bảo Đạo đặng ăn xôi”.
(Bát
Nương Diêu Trì Cung)
Muôn vạn loài
hoa đã đáp ơn đấng Tạo sanh ra mình bằng cách phô bày hương sắc để cống hiến
cho người. Đó cũng là cách hoa lập công tiến hóa. Loài người hãy chiêm ngưỡng,
thưởng thức những tặng phẩm của tạo hóa, những đóng góp của muôn loài dành cho
mình để giải khuây và cũng để phát triển tình yêu vạn loại. Các Đấng Thiêng
Liêng nói lên cái thanh cao trong không khí mùa xuân:
"Sắc mai trổ một trời quanh ánh,
Nhụy mai phong lóng lánh hạt châu;
Gió đông phơ phất dạt dào,
Vì đời mai trổ để hầu đón Xuân".
Rồi
những giây phút nghỉ ngơi bên chén trà thơm ngát, ngắm những cành hoa tươi thắm
rực rở sắc hương, người hãy trầm ngâm suy gẫm để cảm nhận hồn hoa lặng lẽ mà sống
động đang ẩn trong dáng vẻ mỏng manh kia. Câu “Kìa hoa, hoa nở vì ai đó” cũng để
nhắc thú hưởng xuân:
“Nhắp chén trà sen vị ngọt ngào,
Hương Xuân nồng ấm thú tiêu dao;
Kìa hoa, hoa nở vì ai đó,
Theo luật sinh tồn đấng Tối Cao”.
IV. Thay Lời Kết
Để
thay lời kết bài viết, lại xin gởi đến hai bài thơ chúc hưởng một mùa xuân bác
ái vị tha, của của các Đấng Thiêng Liêng vào dịp xuân:
“Hưởng cái xuân thanh tao nhàn ngãi,
Hưởng mùa xuân bác ái vị tha,
Chúc các em khắp cả nhà nhà,
Mùa xuân được chan hòa ân thiên điển”.
“Xuân
sắc huy hoàng đẹp thế gian,
Tâm xuân khai phát ánh xuân
quang;
Chúc nhau chỉ có Tâm và Đạo,
Đạo ấy là Tâm hiệp Thánh Hoàng.”
và
những bài thi và những lời chỉ giáo của các Đấng Tiền Bối đã sẵn lòng giúp xây
dựng nền Đại Đạo. Những bài thi đã cho từ thời gian
cuối Ất-Sửu (1925), lúc còn “’xây bàn” và lúc đầu năm Bính-Dần (1926),
trước khi mở Đạo:
Vịnh Mai
“Mai là cốt-cách liễu tinh-thần,
Thi thiệt hồn mai, tuyết ấy trần.
Mai tuyết không thi mai tuyết não,
Thi không mai tuyết thế không xuân.
Mai đeo tuyết ngọc biết bao lần,
Tuyết vẽ mày mai thắm-thía xuân.
Xuân có tuyết mai xuân
hiệp tuyết,
Tuyết mai vầy bạn xúm chào xuân.
Cũng đồng địa-vị cũng đồng đường,
Hứng tuyết tìm mai dưới giọt sương.
Mai tuyết hiệp đôi mai tuyết đẹp,
Tuyết giành trong sạch, mai gành
hương.
Liễu-Huệ nhuần sương Liễu-Huệ tươi,
Chiều Xuân nguyệt rạng vẻ hoa cười.
Màn Trời mây khỏa muôn sao lố,
Thuyền Đạo buồm treo một sắc phơi.
Cội trước gió đưa hơi nhắn khách,
Rừng tòng khách giục cảnh chờ người.
Lần theo bước rạng non Thần đến,
Chớ luyến phồn-hoa lụy đến nơi”.
(TNHT - Thi
Văn Dạy Đạo)
và sau cùng
là lời khuyên của Đức Chí Tôn về mùa Xuân Vĩnh Cửu. Biết bao nhiêu “mùa Xuân của trần gian” rạng rở, ồn ào chúng ta
hưởng đã qua rồi, đến lúc chúng đa phải “ướm chổi huỳnh lương tỉnh dậy lần”
mà mở rộng Tâm Xuân, cùng lo phổ độ Đạo, thành tâm tu niệm theo Cơ Đạo Chuyển
Hóa trên con đường dục tấn từ Thế Đạo Đại Đồng đến Thiên Đạo Giải Thoát:
“Lần lừa ngày tháng cảnh đưa Xuân,
Ướm chổi huỳnh lương tỉnh dậy lần.”
“Lắm kẻ còn Xuân
chẳng tiếc Xuân,
Tạo thành nghiệp dữ biết bao lần.
Chớ quên máy Tạo nên mầu nhiệm,
Vay trả đồng cân thế chuyển luân”.
(TNHT - Thi Văn Dạy Đạo)
Đại Đạo trường
lưu như khí xuân của Tạo Hóa. Xuân không dừng lại ở năm nào, nơi nào, người nào
nên đất trời có xuân vĩnh cửu. Đại Đạo không dừng ở thời điểm lịch sử nào, ở hội
thánh nào, ở bậc hướng đạo nào, Đại Đạo mới hoàn thành sứ mạng thiên cơ:
“Xuân nhựt nhựt tân tình tạo hóa,
Xuân niên niên tải nghĩa quần sinh”.
V. Tài Liệu Tham Khảo
1. Bài viết vựa
trên các tài liệu liên quan đến “Mùa Xuân và Đạo Cao Đài” đã phát hành trên
“internet”. Xin trân trọng thành thật cám ơn các tác già đã sưu tầm các bài thơ
Xuân có giá trị.
Một số các
bài thơ Xuân sưu tầm trong các Thánh Giáo của các Đấng Thiêng Liêng trong Đạo nói về cái đẹp và cái “tình” của mùa Xuân lẩn
trong giáo lý Đạo, chưa có thì có thì giờ kiểm soát lại. Xin trân trọng và
thành thật cám ơn.
2. Thánh Ngôn
Sưu Tập, Quyển I-IV, Nguyễn Văn Hồng.
3. Đại Đạo Sử
Cương, Quyển I-IV, Trần Văn Rạng.
4. Đạo Sử,
Quyển I và II, Hương Hiếu.
5. Thi Tập
& Thi Văn Dạy Đạo, TNHT Quyển II
6. Đại Đạo
Căn Nguyên, Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu.
Trân Trọng,
QS TS Nguyễn Thanh Bình
Ban Thế Đạo Hải Ngoại
Tòa Thánh Tây Ninh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét