......."Cao Đài không chỉ mở ra tại nước Việt Nam nhỏ bé mà sau này sẽ
truyền bá giáo lý Cao Đài ra khắp năm châu để cứu rổi nhân loại và tạo sự hòa
đồng bác ái cho cả nhơn loại."
Tôn giáo là gì nếu
không phải là nền tảng thống nhất nhân loại, và nếu không phải chính là nền văn
minh nhân loại thì tôn giáo không còn là gì nữa. Nền văn minh nhân loại là
gì nếu không phải chính là sự sống còn giữa người và người, chan hòa tình đồng loại thương
yêu không phân màu da sắc tóc, không phân tôn giáo giai cấp, không phân biệt
địa thế.
Hai chữ văn minh thiên hạ đã nói, chúng ta cũng nên
tìm hiểu nghĩa lý của nó, và tìm cho biết cái nguồn cội đã sản xuất nó. Văn,
chúng ta ngó thấy thiên hạ cũng gọi là văn chương hay là văn hóa. Nhờ văn hóa
mà đã ghi rõ những gì từ trước đã lưu chiếu lại, những biến cố trong lịch sử
của toàn nhơn loại,
trong lịch sử của một quốc dân, xã hội và văn hóa, ấy là
những văn từ đã lưu chiếu lại tạo một sự hiểu biết, để phổ hóa trong một sắc
dân, trong một xã hội hay là toàn thể nhơn loại.
Văn chương lưu chiếu lịch sử làm một bài học để tìm
tòi hiểu biết thế tình nhơn loại, thì văn học phải phổ hóa tinh thần và vật
hình của con người đời. Nếu muốn phổ hoá cho đặng cái vật hình của con người,
thì chúng ta ngó thấy văn chương trên lịch sử, nó phải có một năng lực nuôi cả
tinh thần và hình thể của người mà chớ.
Vào hai thời thượng cổ và trung cổ, bao nhiêu vốn
liếng tinh thần của cõi trời Đông đều tập trung trên đất Việt, ý thức hệ “Tam
giáo đồng hành” (tức là đạo Phật, đạo Lão, đạo Khổng song song phổ biến)
trải qua hàng chục thế kỷ liền.
Sang thời cận kim và thời hiện đại, thì thêm một
lần nữa, bao nhiêu vốn liếng tinh thần của khắp cả hoàn vũ đã trung tụ lại ở
trên nước Việt biến thành ý thức hệ. “Cao Đài, bước đầu tiên của nền văn hóa
tổng hợp, gây mầm sống cho nền văn minh đại đồng của thế giới tương lai” (Tạp
chí Vạn Hạnh số 3 năm 1965 của Phật Giáo VN có đăng lại).
Trung Tâm Ban
Thế Đạo Tòa Thánh Tây Ninh.
Đức Hộ Pháp trong bài thuyết Đạo “Tôn Giáo Đối Với
NềnVăn Minh Của Thời Đại” tại Đền Thánh Tây Ninh đêm 29 thánh 9, năm Nhâm Thìn
(1952) dạy:
“Bần Đạo thuyết đêm nay
cho đám thanh niên nam, nữ con cái của Đức Chí Tôn nên để ý và hiểu biết cho
lắm. Chúng ta ngó thấy trước mắt kiểu vở của các nền văn minh đã có, là do nơi
các Tôn giáo đã tạo. Đương nhiên bây giờ có hai nền văn minh trọng yếu hơn hết
của tinh thần nhơn loại là: Văn minh của Phật Giáo và văn minh của Thiên Chúa
Giáo. Hai nền văn minh tinh thần của hai Đạo giáo đó rất cao thượng.
Bần Đạo chỉ nói rằng: Tốt đẹp không thể gì tả
hình trạng ra cho đặng. Tại sao nó tốt đẹp ấy? Là nó có năng lực bảo sanh hình
chất của nhơn loại, nó có thể bảo vệ cho đời sống tinh thần thiêng liêng của họ
mà chớ.
Con cái của Đức Chí Tôn biết rằng: "Các Tôn
giáo xuất hiện rất có ích cho nhơn loại tại mặt thế gian này, về hình thể, tinh
thần và nó phải làm thế nào bảo tồn sống còn của nhơn loại, mà trong sự sống ấy
khó mà bảo tồn đặng sống còn tinh thần họ. Hỏi có phương pháp nào giải quyết
cái khổ của họ đặng chăng? Bần Đạo đã giải nghĩa nào là thắng khổ, nào là tùng
khổ, nào là giải khổ, đủ thứ hết thảy, trọng yếu hơn hết là phải tìm phương nào
cho các nền văn minh ấy, phải chia sống với nhau, phải đừng có tranh sống với
nhau, bởi chia sống thì tồn tại, bảo vệ được sống còn của nhơn loại, mà tranh
sống tức nhiên phải tiêu diệt".
Tinh thần tín ngưỡng về một tôn giáo trên thế giới
Cao Đài mang nhiều dân tộc tính và đạo pháp cũng như về nền văn minh nhân loại.
Sự chấp nhận “tam giáo đồng nguyên”
là đã có một trình độ tâm linh “văn minh”
lắm rồi. Không thấy các nước Âu Mỹ người ta kỳ thị tín ngưỡng, kỳ thị chủng tộc
mà vay trả nhau bằng xương máu đó sao? Biết được vậy rồi “Đạo tịnh hành nhi bất tương bội”, sao lại chẳng văn minh?
Đức Chí Tôn giáng cho bài thi và bảo chép lại bằng
Hán văn để gởi cho vua Bảo Đại lúc Đạo bị khảo dạo đó, trong đó có 2 câu như
sau:
"Quốc Đạo kim triêu
thành Đại Đạo,
Nghĩa là nền Quốc Đạo
Cao Đài ngày nay biến thành nền Đại Đạo cho cả hoàn cầu. Nền phong hóa của nước
Việt Nam ngày ấy sẽ biến thành nền phong hóa của nhơn loại. Nam phong là nền
phong hóa của dân tộc Việt Nam. Nhờ thi hành chủ trương Nho tông chuyển thế của
Đạo Cao Đài, nền phong hóa của Việt Nam sẽ trở nên vô cùng tốt đẹp, được dùng
làm gương mẫu cho các nước trên toàn thế giới noi theo.
Đại Hội Ban Thề Đạo tại Tòa Thánh Tây
Ninh
Đức Hộ Pháp thuyết đạo tại Đền Thánh đêm 30-9-Đinh
Hợi 1937: "Hai chữ Quốc Đạo, lần đầu
Chí Tôn viết ra làm cho Bần đạo mờ mịt. Cũng vì hai chữ Quốc Đạo mà Phạm Công
Tắc chết năm 35 tuổi, thí thân đeo đuổi làm cho ra thiệt tướng. Ôi ! Hai chữ
Quốc Đạo là một vật mà Bần đạo tiềm tàng rồi mới hiểu. Khởi điểm biết thương
nòi giống, biết thương tổ quốc, đeo đuổi mất còn với cái điều khát khao từ buổi
thanh xuân đó vậy. Tự biết khôn dĩ chí gặp Đạo năm 35 tuổi, Bần đạo thấy sao mà
phải khao khát thèm lạt, tại làm sao Chí Tôn biết thiếu thốn nơi tinh thần điều
ấy mà cho Bần đạo”.
“Văn Minh”
gốc từ lòng người bày phô ra ngoài. Dân tộc Việt Nam về vốn liếng văn minh như
thế không thiếu. Bị các nước giàu mạnh chèn ép, nên ngoài sức chống cự, chiến
tranh triền miên, đánh đuổi ngoại xâm để giữ còn nòi giống, dân tộc Việt không
còn đủ phương lo việc kiến trúc và những gì cho các nhà bác học khảo cổ thấy
nhiều hình tích văn minh tại hải ngoại.
Nói đến văn minh Việt Nam mà không nói không nói
đến cái vốn lịch sử anh hùng bất khuất chống ngoại xâm và không nói đến cái vốn
đức tin Cao Đài trong “một ý thức hệ toàn diện”, thì làm gì thấy được
cái “văn minh thật sự” của Việt Nam.
Đạo Cao Đài giáo xuất hiện tại Việt Nam cho thấy
một dân tộc nghèo yếu, bị ngoại bang cướp nước qua bao thế hệ, nhưng quyết bảo
tồn sự nghiệp tinh thần của tổ tiên lưu truyền. Hơn nữa, từ tam giáo đồng
nguyên đến vạn giáo nhất lý quả đã đủ nói lên cái gì văn minh của dân tộc Việt.
Đức Chí Tôn nói rằng : “Quốc Đạo nầy, Ngài qui
tụ tinh thần đạo đức trí thức toàn nhơn loại cho đặc biệt, cao có, thấp có, có
hàng ngũ có phẩm giá; còn về phần xác thịt của loài người, mạng sống trước mặt
Ngài không ai hơn ai, cả thảy sống đồng sống, chết đồng chết, đặng đem Quốc Đạo
làm môi giới cả đại đồng đặng tạo tương lai loài người cho có địa vị oai quyền
cao thượng.” Nếu hiểu đặng thì Thánh Thể cũng vậy, Hội Thánh chư Chức sắc Thiên
phong nam nữ hay toàn thể tín đồ cũng vậy, lãnh Thiên mạng đảm nhiệm trách vụ
thiêng liêng Chí Tôn phú thác lập giáo, tức nhiên phải có phẩm giá, trật tự
đẳng cấp. Nếu hiểu thêm ý của Ngài, khi cổi áo nầy ra khỏi đại điện rồi hết
thảy đồng là anh em, không ai hơn ai, không ai thua ai, không khinh không
trọng, đầy đủ tình yêu ái trong lòng Mẹ (Đức Diêu Trì Kim Mẫu) đem ra mà thôi.
Nam nữ cũng thế. Ngày giờ nào nhơn loại cả thế gian ở mặt địa cầu nầy hiểu được
lý lẽ chí hướng cao thượng ấy là ngày Đạo Cao Đài sẽ ra thiệt tướng."
Nữ Chức Sắc Ban Thế Đạo tham dự Đại Hội.
Nước Việt Nam trong buổi Hạ Nguơn, được hồng ân của
Đức Chí Tôn ban cho một nền Quốc Đạo Cao Đài. Người Việt Nam không nên ích kỷ,
bo bo giữ lấy mối Đạo cao thượng của mình, mà phải truyền bá ra khắp năm châu
để toàn cả nhơn loại đều được hưởng ân điển của Đấng Chí Tôn, Đại Từ Phụ của
toàn nhơn loại, làm cho nền Quốc Đạo Việt Nam trở thành nền Đại Đạo của toàn
nhơn loại (một tôn giáo toàn cầu).
"Lo lường thấu đáo
đạo huyền vi,
Ngàn tuổi chưa ai dám sánh
bì.
Một nước nhỏ nhen trong
vạn quốc,
Ngày sau làm chủ mới là
kỳ ! "
(Đức Chí Tôn)
Nhờ nền Quốc Đạo Cao Đài mà dân tộc Việt Nam sẽ làm
chủ tinh thần của nhơn loại, và nền phong hóa Việt Nam sẽ làm gương mẫu cho các
dân tộc trên thế giới.
Đức Chí Tôn cho một bài thi, dám chắc không ai thấu
đáo nổi, người coi cái gốc thì không thấy ngọn, người coi cái ngọn thì không
thấy gốc, tứ văn thiệt thà hay ho cho tới các đảng phái quốc sự ngày nay cũng
lợi dụng:
"Từ đây nòi giống
chẳng chia ba.
Thầy hiệp các con lại
một nhà Nam,
Bắc cùng rồi ra ngoại
quốc
Chủ quyền chơn đạo một
mình Ta."
Chúng ta thấy rỏ Thiên
Ý “ẩn tàng” của Đức Chí Tôn dạy trong
4 câu thi nầy: - Tức nhiên không chia ra 3 Đạo, chớ không phải chia ra 3 Kỳ (Nam , Trung và
Bắc Kỳ).
- Thầy nắm chủ quyền
hiệp Tam Giáo (Qui Tam Giáo), nếu nói riêng nòi giống hiệp Nam, Trung, Bắc thì
vô vị lắm (không có tính cách tôn giáo “cao siêu”) . Tức nhiên nền chơn giáo
Quốc Đạo không phải của ta thôi, mà lại của toàn nhơn loại, truyền giáo Nam Bắc
thành tướng rồi ra ngoại quốc, tức là tôn giáo toàn cầu.
- Tam giáo, Ngài vi chủ, nắm cả tín ngưỡng và tinh
thần của loài người, chính Đức Chí Tôn là Chúa Tể Càn Khôn Thế Giới, làm chúa
nền Chánh Giáo tại nước Nam, tức đủ quyền năng lập Quốc Đạo.
Chúng ta đồng ý tôn giáo chính là nền văn minh nhân
loại, hẳn ai cũng công nhận Cao Đài Giáo chính là nền văn minh nhân loại với
tôn chỉ “Quy Tam Giáo, Hiệp Nhất Ngủ
Chi”.
Nam Chức
Sắc Ban Thế Đạo phát biểu trước Đại Hội.
II. Đạo Cao
Đài Là Một Đại Đạo .
Cao Đài Giáo có sứ mệnh cứu thế do Đức Chí Tôn chủ
lập. Đức Chí Tôn là Đấng “hóa dục quần sanh, thống ngự vạn vật, nhược thiệt
nhược hư, bất ngôn nhi mặc tuyên đại hóa, thị không thị sắc, vô vi nhi dịch sử
quần linh”. Từ Đức Ngài “nhất thân ức vạn diệu huyền thần biến”, một
pháp thân toàn năng, một chơn Thần diệu hữu biến hóa ra ức vạn thân có thần
tính đồng nhất thể cách diệu huyền, ngôn ngữ văn tự không diễn tả được.
Trong Đạo Cao Đài, thờ Thiên Nhãn còn có ý nghĩa
thờ khối Đại Linh Quang mà con người là một Tiểu Linh Quang. Chơn linh hay
thường được gọi là Linh hồn chính là khối ánh sáng bé nhỏ (Tiểu Linh Quang)
được chiết ra từ khối ánh sáng vĩ đại của Thượng Đế (Đại Linh Quang).
Từ buổi đầu lập giáo Cao Đài, Ngài đã phán qua cơ
bút: “Đạo Thầy tức là các con, các con tức là Thầy”. Cho nên sứ mệnh Cao
Đài giáo liên quan cả thần Thượng Đế và tâm nhân loại làm một quyền pháp, nghĩa
là sứ mệnh cứu thế kỳ này có tính cách toàn diện thiên nhơn, không dành riêng
cho một dân tộc nào, một phương trời nào. "Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế". Lời phán của Đức Giáo Chủ Cao Đài minh định biên giới sứ mệnh Cao Đài
Giáo thật không biên giới.
Đức Chí Tôn, Thầy đã tiên đoán từ lúc lập Đạo : "Cao
Đài không chỉ mở ra tại nước Việt Nam nhỏ bé mà sau này sẽ truyền bá giáo lý
Cao Đài ra khắp năm châu để cứu rổi nhân loại và tạo sự hòa đồng bác ái cho cả
nhơn loại."
Ý nghĩa của chữ Đạo rộng
lớn mênh mông lắm. Tôn Giáo chỉ là phần dụng hữu hình của Đạo. Đạo Cao Đài là
một Đại Đạo như nói bên trên. Riêng chữ Đạo thì đã “vô biên” rồi, thì
hai chữ Đại Đạo thì rất là “huyền
bí, bao la, vĩ đại và không biên giới”.
Đại Đạo là: đàng lớn. Bởi
Đại Đạo bao gồm Càn Khôn Vũ Trụ. Vì Âm Dương tánh mạng đều gom vào chữ Đạo.
Người đặng Một, thì thành Đạo. Một ấy là :”Nhứt Khí Hư Vô”, tức là Đạo vậy. Đại Đạo là gì? Một cách đơn
giản, Đại Đạo là tinh hoa các đạo giáo xưa nay.
Đại Đạo là con đường trải rộng, trải dài ra. Người
sống theo Đại Đạo tự xem mình là tha nhân, tha nhân chính là mình, con người
không thể đơn lẻ trong cuộc sống, mà phải là một sự lien kết hài hòa. Đại Đạo
chính là sự lien kết đó. Chữ Đại Đạo tìm thấy trong ý tưởng đồng nguyên, là mối
liên kết giữa những phần tử đơn lẻ của một nguồn gốc duy nhứt. Hiểu như vậy
thì sự lớn nhỏ, hơn thua, khinh trọng của lối suy luận nhị nguyên, không có đất
đứng trong học thuyết của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đại Đạo là một mối Đạo cho tất cả, là một đường đi
chung của tất cả, chứa đựng, dung hòa được tất cả, là một giải pháp trung dung
cho tất cả những nan đề của loài người. Đó là Tinh Thần tuyệt đối huyền diệu
của danh từ Đại Đạo, và cũng có thể nói một cách không quá đáng rằng Đại Đạo là
một siêu Tôn Giáo, nó có tính chất toàn diện, toàn-cầu như lời phán của Đức
Chí Tôn minh định “biên giới sứ mệnh Đạo
Cao Đài là thật không biên giới”.
"Vốn từ trước Thầy đã lập ra Ngũ Chi Đại Đạo
là Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo. Tùy theo phong hóa nhơn
loại mà gầy thành chánh giáo, là vì khi trước càn vô đắc khán, khôn vô đắc
duyệt, nhơn loại đã hiệp đồng, càn khôn dĩ tận thức, lại bị phần nhiều những
đạo ấy mà nhơn loại nghịch lẫn nhau, nên Thầy mới nhứt định qui nguyên phục
nhứt".
Lời mặc khải huyền nhiệm của Ngài cũng là triết
thuyết mới mẻ về tôn giáo, vì mặc khải không thể có bằng kinh nghiệm, cũng
không lý luận hay chứng minh gì được. Đó là đặc điểm của tôn giáo khác với khoa
học. Khoa học đã căn cứ vào vật thể mà phát minh những phương tiện giao thông
cho con người sống gần nhau, nên cũng cần phải có tôn giáo mới phù hợp với thời
đại mới. Đạo Cao Đài có sứ mạng thiêng liêng cao cả, làm trung gian hiệp đồng
mọi luồng tư tưởng Đông Tây nên giáo lý Cao Đài có tính cách bao dung hòa hoãn.
Đức Phật Mẫu cũng dạy :
"Độ anh nhi Nam Bắc
Đông Tây
Kỳ khai tạo nhứt linh đài
Diệt hình tà pháp cường
khai đại đồng
Hiệp vạn chủng nhứt môn
đồng mạch"
(KL, tr.103).
Đức Mẹ đã xác nhận, dù người ở Đông bán cầu hay Tây
bán cầu, ở Bắc bán cầu hay Nam bán cầu, các chủng tộc ấy đều có nguồn gốc chung
từ Đức Chí Tôn mà ra, nên phải hiệp lại mà tạo lập nên một thế giới đại đồng,
giúp đỡ lẫn nhau như con một nhà (TN2). Mỗi một tín đồ Cao Đài đều phải truyền
rao lời dạy của các đấng và phải phổ độ nhơn loại khắp năm châu (TN1).
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là mối đạo lớn chung cho tất
cả, một giải pháp tổng hợp vừa chừng cho tất cả (không nhằm phủ nhận một tôn
giáo nào), là danh hiệu chung cho tất cả tôn giáo, mà từ trước các vị giáo chủ
giáng trần giáo đạo. Tất cả các Ngài đều là sứ giả của Đức Chí Tôn. Thế
nên, Đại Đạo không phải là hiệp hội các tôn giáo mà là con đường lớn qui các
tôn giáo vào một mối. Ngoài tam giáo ở Á Đông, Đức Chí Tôn còn dạy:
"Thầy là Đức Jéhovah của dân Hébreux, vị
chủ tể của dân Israel, vị Thánh vô danh của dân Do Thái, Đức Đại Từ Phụ của
Chúa Jésus cứu thế. Con chỉ cầu nguyện Thầy với danh hiệu Cao Đài thì sẽ có sự
cảm ứng" (TN1)
Đến Tòa Thánh Tây Ninh, tới cửa chánh môn, ta thấy
có một tấm bảng lớn, trong bảng này có ghi 6 chữ: “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” bằng chữ Nho và chữ quốc ngữ. “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” theo lời dạy của
Đức Chí Tôn là một tôn giáo lớn (Đại Đạo) mở ra lần chót để độ rỗi chúng sanh.
Hai bên tấm bảng “Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” có hai câu liễn viết bằng chữ Nho:
"Cao thượng Chí Tôn Đại
Đạo hòa bình dân chủ mục.
Đài tiền sùng bái Tam
Kỳ cộng hưởng tự do quyền. "
Nghĩa là: Đức Chí Tôn giáng trần lần này với danh
xưng là Cao Đài, Cao thượng, Đài tiền là như vậy. Thánh ngôn với câu: Ngọc
Hoàng Thượng Đế viết Cao Đài Giáo Đạo Nam phương là như vậy. Đức Chí Tôn là ông
Cao Đài, ông Cao Đài là Thượng Đế, là ông Trời. Ông Trời nói: ta mở ra cho nhơn
loại nơi mặt địa cầu này một nền tôn giáo lớn (Đại Đạo) là để dìu dắt nhơn loại
đi vào con đường hòa bình dân chủ. "Cao
thượng Chí Tôn Đại Đạo hòa bình dân chủ là như vậy”.
Ông Trời nói: nếu nhơn loại muốn hòa bình dân chủ
thì hãy vào đây, vào cửa Cao Đài và nghe ta dạy. Hãy tín ngưỡng nơi ta, tín
ngưỡng lẫn nhau. Sùng bái và tin tưởng, có tin tưởng mới có sùng bái, tin tưởng
lần thứ ba mà cũng là lần chót. “ Đài tiền sùng bái Tam kỳ cộng hưởng tự do
quyền” là như vậy.
Hòa bình, dân chủ, tự do ở đây không phải có một cá
nhân ban cho một cá nhân, không phải của một đoàn thể đảng phái ban cho một
quốc gia dân tộc mà là của ông Trời ban cho toàn nhơn loại. Nhơn loại muốn có
hòa bình, dân chủ, tự do thật sự thì chỉ có tin tưởng nơi Thượng Đế rồi sùng
bái Thượng Đế là đấng Cha chung và cả nhơn loại là anh em ruột thịt với nhau.
Chừng nào, giờ phút nào mà toàn thể nhơn loại nơi mặt địa cầu này tin tưởng như
vậy và làm như vậy thì giờ phút đó mới có hòa bình, dân chủ, tự do thật sự. Còn
trái lại là giả dối. Đức Chí Tôn không có tiếng nói mà có lời nói là như vậy.
Đức Chí Tôn mở đạo lần này là lần chót, mục đích cứu
rỗi chúng sanh, cứu rỗi cả phần xác lẫn phần hồn, nghĩa là dẫn dắt chúng sanh
vào con đường Thế Đạo và Thiên Đạo. Thế Đạo là dạy dỗ chúng sanh biết
yêu thương lẫn nhau, tin tưởng lẫn nhau, đối xử công bằng với nhau để có hòa
bình, dân chủ, tự do thật sự, không có chiến tranh chết chóc, không có nghèo
đói đau thương, tức là cứu rỗi và giải khổ phần xác, dạy dỗ chúng sanh làm tròn
nhơn đạo. Bây giờ đến phần Thiên Đạo, tức là cứu rỗi phần hồn. Hai câu
liễn trước chánh môn dẫn dắt nhơn loại lo tròn nhơn đạo để giải khổ phần xác.
Chúng ta đều biết Đức
Di Lạc Vương Phật sẽ giáng linh trong thế kỷ 21. Chúng ta chưa biết Ngài sẽ
chọn xác phàm của giống dân nào. Ngài sẽ giảng những chân lý mới mẻ để
khai mở tâm thức cho nhân loại. Ngài cùng với những đệ tử chân truyền sẽ lập
nên một kỷ nguyên mới. Chỉ những ai tỏ ra xứng đáng mới đủ cơ duyên sống vào
thời kỳ Thánh Đức đó. Đức Chí Tôn đã khẳng định: Đấng Cứu Thế sẽ trở lại với
các con một lần nữa. Hãy dọn mình và lập công để xứng đáng đứng vào hàng ngũ
chào đón Ngài.
Tôn giáo Cao Đài Đại Đạo sẽ có một vị Giáo Tông
vang danh thế giới. Đấng Cứu Thế trở lạị. Đó mới là thời kỳ của Tịch Đạo Đạo
Tâm. Ngài đã ngồi trên cao ở mặt tiền Tòa Thánh Tây Ninh để thị hiện vai
trò của Ngài. Dân Việt nam được Đức Chí Tôn chọn vì biết tin tưởng và thờ
phượng Tổ Tiên, Thần, Thánh, Tiên, Phật từ xưa.
Như đã trình bày, Đạo và Tâm gắn liền với
nhau như hình với bóng, như xác với hồn chứ không thể tách biệt. Nhƣng cái
Tâm mới là nơi ở của cái Đạo. Mà Đạo là sống, là hành, là thi thố ra bên
ngoài, gọi là hành đạo (chúng ta nên suy nghĩ thêm về câu“Đạo thành từ
ngoài vào” trong bài viết về Đạo Tâm - Tịch Đạo - Chơn Pháp Đạo Tâm, 2017).
Còn theo sự nhận thức bình dị nhất, Đạo là vấn đề đạo đức, còn Tâm là lòng dạ,
nó được thể hiện trong cuộc sống. Nó cũng đúng, vẫn thuận hợp và có ý nghĩa với
danh từ “Đạo tại Tâm”, vì phải có lòng mới làm việc đạo đức được.
Tìm Trời, tìm Đạo phải tìm trong lòng (trong Tâm),
phải đi vào nội tâm. Đây là đều căn bản của triết lý Đạo Tâm. Khi “thấu hiểu
đƣợc Đạo Tâm rồi”, Đạo hay Đại Đạo sẽ rõ ràng trong niềm tin của mọi tín đồ Cao
Đài. Thượng đế dạy lại con người phần “vô vi”; những tín đồ lại gắng nghiên
cứu phần “vô vi” mà nay thế giới gọi là “thần linh học” hay “thiên nhân hợp
nhất” trong các đạo giáo, thì trước sau gì chân lý cũng hiện ra cho mỗi người.
(xin đọc bài viết “Đạo Tâm - Tịch Đạo - Chơn Pháp Đạo Tâm”, Quốc Sĩ Tiến Sĩ
Nguyễn Thanh Bình, Khảo Cứu Vụ, Cao Đài Hải Ngoại - Tòa Thánh Tây Ninh, 2017).
“Đạo Tâm” là đền thờ của Đức Chí Tôn, vì ai sống trong yêu
thương là sống trong Đức Chí Tôn. “Đạo
tâm” không lệ thuộc hình thức tổ chức, cơ cấu, tín điều, luật lệ hay qui
tắc do con ngƣời đặt ra. “Đạo Tâm” là
chính lương tâm mỗi người, là dấu chỉ quyết định tương lai hậu vận đời người,
vì “tất cả chúng ta đều phải được đưa ra ánh sáng trước quyền Quyền Vạn
Linh, để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã
làm, khi còn ở trong thân xác.”
Đạo chẳng phải nơi lời nói, mà nơi kết quả sự thật
mình làm, chẳng phải nơi câu kệ câu kinh mà phải thể hiện ra. Nếu chỉ nghiên
cứu suông kinh điển để làm một kẻ trí đạo “năng thuyết bất năng hành” thì cũng
chẳng khác gì người ngồi đó chỉ biết diễn tả phân tích đủ thứ món ăn tuyệt diệu
trên đời, nhưng rốt cuộc bụng họ vẫn đói meo. Phải biến nhận thức của mình
thành hành động cụ thể. Có như vậy mới đi đúng đường và mang lại lợi ích thực
sự.
Để đi vào Đạo, con người chỉ cần biết thức tỉnh
quay vào chính mình thì sẽ nhận ra “Chân Tánh”, được “Tính Bản Thiện”, được cái
“Thiên Lương”, lúc đó sẽ được nó soi tỏ và dẫn dắt, đồng thời sẽ gặp được Đạo.
Khi con người biết sống trong phạm vi đạo lý và
thực hành bổn phận đối với gia đình, xã hội, quốc gia cho đúng Đạo làm người
thì sống Đời cũng là sống Đạo. Đạo Đời, Đời Đạo lồng vào nhau không tách biệt
chia phân mới là một cuộc sống đúng đạo lý như lời dạy cùa Cao Đài:
Ai lại không sống, không ăn, không mặc, không ở. Ai
lại không có gia đình kế tự nhưng sự ăn mặc, ở và xây dựng gia đình phải theo
nếp sống hiền lương đạo đức thanh cao trong sạch. Lúc bấy giờ Đời là Đạo,
Đời Đạo đi đôi, chớ nào ai phân tách hai lối hai phương cách biệt.
Như vậy Đạo với Đời sống tâm linh là một, mà hoạt
động tâm linh không hề tách biệt với Đời sống thực tại, cũng như tâm linh luôn
gắn liền với thể chất như bóng với hình, vì Tâm và Vật không thể phân chia. Nói
một cách khác thì hoạt động tâm linh luôn hiện hữu trong Đời sống con người,
tức là Đạo không lìa xa cuộc sống. Vì thế người theo Đạo không có nghĩa là phải
từ bỏ các hoạt động hằng ngày, để theo đuổi một cái gì xa vời ngoài cái thực
tại. Sống theo Đạo là sống một cuộc sống cho ra sống, đáng sống với cuộc Đời,
sống một cách có ý thức và chủ động trong mọi sinh hoạt, chứ không phải sống
một cách máy móc thụ động.
Muốn được vậy thì con người phải lấy Tâm làm
gốc, Đạo làm nền, là trung tâm trong đời sống tâm linh, mà cũng là trung
tâm của tất cả hoạt động của Đạo được thể hiện ra bên ngoài. Nên Đạo Nho mới
nói: “Đạo bất khả tu du ly dã” (Đạo không giây phút nào xa lìa được), và “Đạo
tại nhĩ nhi cầu chư viễn” (Đạo ở gần đừng tìm nơi xa).
“Qui Tam Giáo, Hiệp Nhất Ngũ Chi” chính là tôn chỉ của Đao Cao Đài
vậy.
Đạo Cao Đài, là một Đại Đạo, không chỉ là
tôn giáo chú trọng tinh thần siêu thoát thế gian, mà còn là tôn giáo hướng đạo
nhân sinh dung hòa tâm vật, kiến tạo đại đồng xã hội (hoàn cầu).
Chúng ta nên suy nghĩ sâu xa hơn và tìm hiểu tại
sao Đạo Cao Đài là một Đại Đạo (Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ). Hai chữ Đại
Đạo, chính nó bao gồm sự “huyền bí
và không biên giới”. Lời phán của Đức Chí Tôn bên trên minh định biên
giới sứ mệnh Đạo Cao Đài là thật không biên giới:
“Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế”, và
“Nhất thân ức vạn diệu
huyền thần biến”.
Nhưng ngày nay, nếu dân Việt bất Đức không còn xứng
đáng nữa vì chạy theo Tà Thần, thì Đức Di Lạc Vƣơng Phật, được Thượng Đế
chọn thay mặt cho Ngài làm Chƣởng Giáo Thế Giới, có trọn quyền chọn nơi
khác làm Thánh Địa, chọn giống dân khác làm sắc dân con cái của Ngài. Hồng ân
lớn lao một khi mất, dân Việt có khóc than thì đã muộn.
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ khai mở cho toàn nhân loại để
hướng tới thời kỳ dân chủ, đại đồng, nào có phải dành riêng cho nước Việt, dân
Việt.
Bài thơ của Đức Lý Giáo Tông nói rõ “Giáo Chủ Phật
Vương thay Đức Lý”: ĐỨC LÝ trả lời BÁT NƯƠNG
"Bốn phương phát
động tự lòng Trời
Tám hướng xoay vần HỎA
khắp nơi!
Đại chiến thứ ba gây ác
nghiệt!
Binh đao dấy động tứ sơn
dời.
Chiến tranh chấm dứt Long
Hoa hội
“Thế giới kỳ tư Đạo dẫn
Đời”.
Giáo chủ Phật vương thay
Đức Lý
Ngũ châu lập quốc thuận
lòng Trời."
Cõi vô hình chỉ cách chúng ta có một tấm màng mỏng.
Mắt phàm không thấy được chứ các đấng Thiêng Liêng ở sát bên ta, nhưng các vị
chỉ dõi theo mà không can thiệp vì theo luật công bình, mỗi linh hồn có quyền
thể hiện tự do ý chí. Như thế, khi về cõi Thiêng Liêng, không còn ai chối tội
được nữa.
Nguyện xin các tín đồ Cao Đài tỏ ngộ, thông suốt
cái chủ nghĩa Bảo Sanh Nhơn Nghĩa Đại Đồng của Đức Chí Tôn, rồi thực hành cho
rốt ráo, để cho người bớt khổ, đời thêm vui, cả nhân gian thái hòa, thanh bình,
hạnh phúc, để nền Đại Đạo được thành tướng mạnh tiến tại hải ngoại và để Đức
Đại Từ Phụ - Đức Đại Từ Mẫu được vinh danh khắp cõi nhân gian này.
III.– Ban
Thế Đạo Cao Đài Tại Hải Ngoại Sau Năm 1975 .
Đạo không Đời không sức. Đạo là cái tướng diện căn
bản tinh thần Đạo Đức Nhơn Nghĩa của nhơn loại đòi hỏi mà thành tượng một khối
thương yêu, cho nên Đạo là cái chung nhất. Còn Đời là giai cấp thống trị của
đảng phái nhằm mục đích phân quyền chia để trị đặng vi chủ tư tưởng của con
người, buộc thiên hạ phải theo mình. Cho nên, Đạo hay Đời có được là cùng một
gốc xuất phát từ con người, dù Đời hay Đạo mà không có con người cũng như Đạo
là hồn mà không có Đời là thể xác hữu hình thì Đời Đạo tiêu vong.
Ban Thế Đạo Cao Đài tại hải ngoại với vai trò “chuyển
Thế vào Đạo, giúp Đạo trợ Đời và phát huy Đạo Cao Đài khắp mọi nơi trên hoàn
cầu”, tuyển chọn nhân tài vào Đạo, tái lập lại các cơ quan trọng yếu của
Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài, mở rộng các cơ quan khác, ủng hộ các hoạt động
của Đạo cho thế hệ sau và nhiều thế hệ sau nữa, phát triển các cơ quan Hánh
Chánh Đạo “Cửu Trùng Đài” (tuyển chọn nhân sanh vào Đạo) dựa theo Tân Luật Pháp
Chánh Truyền, Đạo Luật, Đạo Nghị Định của Đức Chí Tôn khai Đạo năm 1926. Trong
nhiều năm qua, Ban Thế Đạo tại hải ngoại đã và đang hoạt động trong tình trạng
“khó khăn, bế tắc”, thiếu tài chánh lẫn nhân sự.
Tại hải ngoại, tín đồ Cao Đài (đa số) hiện nay như
rắn không đầu (rất là chia rẽ), không ai tin ai và tìm đủ mọi cách gây tạo khó
khăn cho nhau. Chức sắc Ban Thế Đạo vì nhiều lý do khác nhau đã không tích cực
hoạt động. Các vị chức sắc thế hệ đàn anh, thế hệ tiền bối nếu thương thế hệ kế
thừa, hãy làm tấm gương vị tha, vô ngã. Các vị chức sắc trong Ban Thế Đạo
tại hải ngoại, đã được Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông ban cho nhiệm vụ thiêng
liêng “chuyển Đời vào Đạo và giúp Đạo trợ Đời và phát huy tinh thần Đạo Đời
tương đắc” để cùng phát triển Đạo Cao Đài tại hải ngoại, thì đây cũng là
trách nhiệm “Thiêng Liêng” mà các chức sắc trong Ban Thế Đạo phải hết lòng hai
vai gánh lấy (biết là khó khăn lắm!).
Ban Thế Đạo tại hải ngoại đã thành lập Ban Thế Đạo
Hải Ngoại, trên 20 năm qua, đã trải qua bao nhiêu gian nan, thử thách, thay
dổi. Mặc dù gặp nhiều “trở ngại”, phải đối diện với nhiều “hướng đi” khác nhau
của các vị chức sắc, tín đồ, nhưng Ban Thế Đạo Hải Ngoại vẫn không ngừng hoạt
động để phục vụ nền Đại Đạo Cao Đài. Giai đoạn “sinh tồn” đã qua, Ban Thế Đạo
Hải Ngoại đang mạnh tiến vào giai đoạn “phát triển” trên toàn cầu với sự thành
lập tổ chức Cao Đài Hải Ngoại (CĐHN), Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh. Cao Đài Hải
Ngoại đã tái thành lập hai tổ chức rất là quan trọng trong việc điều hành và
hoạt động là Hiệp Thiên Đài (HTĐ) và Cửu Trùng Đài (CTĐ). Cao Đài Hải
Ngoại chính là Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh ở hải ngoại mà Đức Chí Tôn đã mở Đạo
vào năm 1926. Cao Đài Hải Ngoại là tổ chức Cao Đài duy nhất tại cõi hữu hình
nầy hoạt động với hệ thống Lưỡng Đài (Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài) và tuân
theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền (và các luật Đạo).
Cao Đài Hải Ngoại đã và đang hợp tác với nhiều tổ
chức Cao Đài chi phái và không chi phái ở hải ngoại trong nhiều lãnh vực. Nhiều
cơ quan trọng yếu trong Cao Đài Hải Ngoại đã được thành lập như: Cơ Quan Phước
Thiện (CQPT), Cơ Quan Truyền Giáo (CQTG), Viện Khảo Cứu Vụ (KCV), vv. Hoạt động
hợp tác của hai cơ quan CQTG & KCV sẽ tạo rất nhiều cơ hội để phát huy Cao
Đài Hải Ngoại trong cộng đồng thế giới và duy trì một vai trò quan trọng trong
những sinh hoạt tôn giáo toàn cầu. Trong tinh thần nầy, Ban Thế Đạo Hải Ngoại
rất cần nhân tài tình nguyện tham gia, hoặc tuyển chọn thêm nhân tài có nhiệt
tâm với Đạo phụ giúp vào con đường phát huy nền Đại Đạo. Qui Điều và Nội Luật
Ban Thế Đạo là “kim chỉ nam” là “luật’ mà tất cả các chức sắc Ban Thế Đạo (BTĐ)
phải thi hành và tuân theo. Tất cả các chức sắc BTĐ phải cố gắng học hiểu Tân
Luật, Pháp Chánh Truyền, Đạo Luật, Thiên Thơ Thánh Giáo, Đạo Nghị Định để mà
hành Đạo, và để cùng nhau xây xựng một BTĐ Hải Ngoại “vững mạnh” theo tinh thần
của Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông “chuyển Thế vào Đạo, giúp Đạo trợ Đời và
phát huy Đạo Cao Đài”.
IV. Vai Trò
Quan Trọng Của Ban Thế Đạo Hải Ngoại Sau Năm 1975 .
Cao Đài Hải Ngoại (Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh ở hải
ngoại) đang bước vào giai đoạn “Phát Triển”. Sự sinh hoạt với cộng đồng tôn
giáo hoàn cầu, sự hợp tác khảo cứu với các tôn giáo, với các trường đại học,
các viện khảo cứu trên thế giới, vvv.. là một vấn đề sinh họat rất là cần
thiết. Cao Đài Hải Ngoại đã thành lập Khảo Cứu Vụ, Viện Đại Học Cao Đài, đây là
những tổ chức nhằm vào sự hoạt động với các tổ chức tôn giáo, viện nghiên cứu
thần học trên thế giới và giúp vào sự thực hành và phát triển Đạo Cao Đài tại
hải ngoại.
Đạo Cao Đài là một tôn giáo mới (so với Thiên Chúa
Giáo, Phật Giáo, Hồi Giáo, etc.), được thành lập gần 100 năm nay, hiện đại nên
cơ chế tổ chức có đủ các ban khảo cứu về các ngành, các tôn giáo, xã hội, phong
tục, canh nông, văn hóa nghệ thuật, y học, phong thủy, vv. để thích ứng với
thời đại văn minh. Năm 1935, Đức Hộ Pháp lần đầu tiên đã thành lập Hàn Lâm Viện
Cao Đài với Thập Nhị Bảo Quân. Sau đó năm 1948, Đức Hộ Pháp ban Thánh Lệnh
quyết định thành lập Khảo Cứu Vụ (gần 70 năm trước), là một cơ quan “rất quan
trọng” để phục vụ và giúp vào mục đích dài hạn mà Hàn Lâm Viện Cao Đài được
thành lập để hoạt động. Khảo Cứu Vụ hoạt động chỉ thay thế một phần nào nhiệm
vụ của các vị Bảo Quân trong Hàn Lâm Viện. Hàn Lâm Viện được thành lập nhưng
hoạt động rất là giới hạn. Khảo Cứu Vụ chỉ có quyết định thành lâp nhưng chưa
thật sự thành lập tổ chức. Năm 1972 (hơn 25 năm sau), Ngài Hiến Pháp Trương Hữu
Đức, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài ra một Thánh lịnh mới tái thiết lập Ban Khảo
Cứu Vụ tại Tòa Thánh Tây Ninh. Nhưng 3 năm sau, năm 1975, nhiều thay đổi đã
diễn ra và Khảo Cứu Vụ cũng không làm được gì hết.
Trên đường phát triển Cao Đài Hải Ngoại dài hạn
(cho thế hệ sau và sau nữa), Ban Thế Đạo Hải Ngoại, tổ chức Hiệp Thiên Đài đã
bắt đầu nghĩ làm thế nào để tái thành lập các tổ chức và hoạt động của Đại Đạo
Cao Đài Tam Kỳ Phổ Độ mà Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông trong mọi hoàn cảnh đã
không ngừng dùng các phương tiện khác nhau có thể được (như Khảo Cứu Vụ) để
phát huy Đạo Cao Đài?.
Nghiên cứu qua lịch sử phát triển của Đạo Cao Đài ở
quốc nội và quốc ngoại, Đức Hộ Pháp đã biết là Đạo Cao Đài chưa có đủ nhân tài
(các nhân sĩ trí thức, tiến sĩ, bác sĩ, luật sư, vv.) và cần thời gian để cho
các bậc nhân tài mọi nơi tìm đến phục vụ Đạo, đây là lý do chúng ta phải cố
gắng phát triển nền Đại Đạo không ngừng trong mọi hoàn cảnh. Trong tổ chức Hiệp
Thiên Đài với ba chi: Pháp, Đạo và Thế, thì Chi Thế Hiệp Thiên Đài là Chi hoạt
động trong vai trò “đưa Đời vào Đạo” với nhiệm vụ thành lập, phát huy, tuyển
chọn, mời và thâu thập các nhân tài khắp nơi ngoài Đời vào phục Đạo. Trong tinh
thần và vai trò quan trọng nầy Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông ra Thánh Lệnh đã
lập ra Ban Thế Đạo Cao Đài, Tòa Thánh Tây Ninh. Ban Thế Đạo chánh thức được
thành lập chiếu theo Thánh Giáo Đức Lý Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ngày
mồng 3 tháng Chạp năm Quý Tỵ (1953) và Thánh Giáo Đức Hộ Pháp ngày mồng 9 tháng
2 năm Ất Tỵ (1965). Quy Điều và Nội Luật Ban Thế Đạo đã được tu chỉnh do Hội
Thánh Hiệp Thiên Đài theo Vi bằng số 10/VB ngày mùng 6 tháng 6 năm Kỷ Dậu (DL
ngày 19.7.1969) và được Đức Hộ Pháp phê chuẩn do Thánh Giáo đêm mùng 4 tháng 7
năm Kỷ Dậu (DL: 16.8.1969).
Ba (3) cơ quan Hàn Lâm Viện, Khảo Cứu Vụ, Ban Thế
Đạo đều thuộc vào chi Thế, Hiệp Thiên Đài. Đức Hộ Pháp ban Thánh Lệnh thành lập
Hàn Lâm Viện vào năm 1935, nhưng thiếu nhân tài, sắc phong các Bảo Quân gặp khó
khăn. Nên năm 1948, Đức Ngài lập ra Khảo Cứu Vụ để tiếp tục phần nào nhiệm vụ
của Hàn Lâm Viện, phục vụ vào sự phát triển của nền Đại Đạo, Ngài Hiến Pháp,
Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, tái thành lập Khào Cứu Vụ năm 1972 nhưng rồi vẫn bị
thời cuộc biến thiên mà tất cả phải bị ngừng lại. Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo
Tông như đã hiểu biết sự khó khăn nầy, nên năm 1965 Đức Ngài lập ra Ban Thế Đạo
để tuyển chọn nhân tài vào Đạo, một phần củng cố lại Hàn Lâm Viện, ủng hộ các
hoạt động của Khảo Cứu Vụ, thành lập Viện Đại Học Cao Đài và các hoạt động
khác, v.v.v...
Sự thành lập Ban Thế Đạo, thuộc chi Thế Hiệp Thiên
Đài, không phải là chỉ nhằm mục đích tuyển chọn nhân tài vào Đạo mà là sự
“huyền diệu, vô hình” ở cái “thánh ý, thiêng liêng, huyền bí, trong tinh thần
chuyển Đời vào Đạo” và phát huy nền Đại Đạo. Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông
hiểu rõ, như đã biết và có ý định, dự tính từ trước là vai trò của Ban Thế Đạo
giúp vào sự phát triển của Đạo ở khắp hoàn cầu và trong mọi hoàn cảnh trong cơ
chuyển thế đầy thử thách.
Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ
Pháp dạy: thiên vị của các chức sắc Ban Thế Đạo tùy nghi nơi các vị (phế đời
hành Đạo hay ở ngoài đời hoạt động lo cho Đạo). Vai trò của Ban Thế Đạo không
thể nào “đo lường hay dự đoán tại hữu hình nầy được” vì vai trò, nhiệm vụ và
trách nhiệm của chức sắc trong Ban Thế Đạo là một sự phối hợp toàn mỹ huyền
diệu giữa “Hữu hình và Vô Hình – Hiện Tướng và Vô Vi” - giữa Đời và Đạo để phát
triển nền Đại Đạo.
"Đạo không đời không
sức.
Đời không Đạo không quyền,
Đạo Đời tương đắc mới mong
tạo thời cải thế "
Đã phản ảnh rõ ràng vai trò của Ban Thế Đạo tại Hữu
hình (Đời) và Vô Vi nầy (Đạo) nầy.
"Cũng cần ghi thêm
nơi đây, Ban Thế Đạo là cơ quan/tổ chức duy nhất của Hiệp Thiên Đài Tòa Thánh
Tây Ninh còn tồn tại tại cõi Hữu hình và hoạt động tại hải ngoại, tiếp tục vai
trò mà Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông đã ủy nhiệm khi thành lập Ban Thế Đạo
năm 1965. Thập Nhị Thời Quân trong Hiệp Thiên Đài thì đã qui tiên và về cõi Vô
Vi. "
Đạo không Đời không sức: Đạo là cái tướng diện căn
bản tinh thần Đạo Đức Nhơn Nghĩa của nhơn loại đòi hỏi mà thành tượng một khối
thương yêu, cho nên Đạo là cái chung nhất. Còn Đời là giai cấp thống trị của
đảng phái nhằm mục đích phân quyền chia để trị đặng vi chủ tư tưởng của con
người, buộc thiên hạ phải theo mình. Cho nên, Đạo hay Đời có được là cùng một
gốc xuất phát từ con người, dù Đời hay Đạo mà không có con người cũng như Đạo
là hồn mà không có Đời là thể xác hữu hình thì Đời Đạo tiêu vong. Đời phải tùy
Đạo mới còn, mà Đạo cũng phải tùy Đời mới vững, biết đâu Tân Luật ngày nay Thầy
đã đến dạy chúng ta lập thành; trong thời gian tới nữa đây, nó sẽ phải thay đổi
cho phù hạp với nhơn trí Đạo, Đời tương đắc mà dìu dắt cả nhơn sanh đời đời
kiếp kiếp.
Buổi trước thì Thiên Điều buộc nhơn loại phải nâng
cao phẩm hạnh mình cho bằng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật, đặng đoạt đức tánh mà
lập vị mình, còn nay thì các Đấng ấy lại hạ mình, đến cùng nhơn loại đặng dìu
dắt cả chơn hồn lên tột phẩm vị Thiêng Liêng, đến ngang bực cùng Thầy. Buổi
buộc thì khó, buổi mở thì dễ, ấy là lẽ tự nhiên; huống chi nhơn trí ngày nay đã
qua khỏi Nguơn "Tấn Hóa"thì đã tăng tiến lên địa vị tối cao; chủ
nghĩa cựu luật của các Tôn Giáo không đủ sức kềm chế đức tin, mà hễ nhơn loại
đã mất đức tin về đạo đức rồi, thì cơ tự diệt vốn còn, mà cơ tự diệt còn thì
nhơn loại khó tránh khỏi cái nạn giết lẫn nhau cho đặng.
Cơ Đạo của Chí Tôn biến chuyển không ngừng. Sự biến
chuyển này là những bài học dạy các môn đệ cái “Đạo Tâm” biết tự gìn giữ Đạo
đồng thời cũng là một nấc thang giúp nhơn sanh leo lên mức trên của Con Đường
Tấn Hóa.
Như đã trình bày, Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ Pháp
lập ra Ban Thế Đạo mà không một ai dạo đó hiểu rõ sự “sự huyền bí, vô hình,
hiện tướng”, vai trò “quan trọng, cần thiết” của Ban Thế Đạo trên toàn cầu
trong mọi môi trường và hoàn cảnh. “Thiên Cơ Bất Khả Lậu” trong sự “tồn vong,
bị diệt, bị thống trị” của Đạo Cao Đài, có ai biết đâu Ban Thế Đạo (thuộc
chi Thế Hiệp Thiên Đài) “trong cơ chuyển Thế vào Đạo, giúp Đạo Trợ Đời” là cơ
quan “lãnh vai trò cứu tinh, duy trì & phổ truyền nền Đạo Cao Đài” tại hải
ngoại trong giai đoạn Tòa Thánh Tây Ninh không còn đủ quyền hạn nữa (bị giải
thể). Văn phòng Hiệp Thiên Đài bị đóng cửa, nhưng Ban Thế Đạo Cao Đài tại
hải ngoại vẫn tiếp tục hoạt động phát triển Đạo Cao Đài ở hải ngoại.
Trong thời buổi loạn đạo đau thương ngày nay ứng
hợp một cách kỳ diệu lời phán dạy của Đức Chí Tôn: “Kẻ hữu đức buồn lòng
thối bước, đứa chơn thành không vui nắm tay theo; ma hồn quỉ xác loán vào; kẻ
đức thiếu níu đứa không nhân; thành ra nhơn kém đức suy, cứ thẳng một đường tà
dung ruổi.“, và “Nào nhân xưa, nào đức trước, nào sách Thánh, nào lời
Hiền, trải qua chưa trăm năm mà cuộc cờ đời đã rửa phai hạnh đạo”. Đức Chí
Tôn cũng đã ân cần nhắc nhở: “Nét nào chưa vẹn, khá biết sửa lần chớ nên trì
huỡn. Ðạo suy đức kém, tà quái lừng hơi, các con gắng chung tâm xua trục
hết lũ vạy tà, thì hiến công lớn cho Thầy đó.”, và phải “… Lấy chí
thánh của Thầy đã un đúc mà dìu dắt lại sanh linh; lớn nhỏ phải cần tương thân
tương ái nhau, kỉnh yêu chỉ dẫn nhau, đem tấc lòng thanh bạch để làm mảnh gương
soi sáng bước đường hậu tấn.“.
Sự hiểu biết và tuân thủ Luật Pháp Chơn Truyền của
Đạo trong hoàn cảnh bi thảm hiện nay, hơn lúc nào hết, rất ư là hệ trọng, cần
thiết, chẳng những giúp giữ vững bước đường theo lẽ chánh tu hành của mỗi đạo
hữu, nói riêng, mà còn đảm bảo sự trường tồn, hưng thịnh cơ Đạo của Đức Chí Tôn
kéo dài thất ức niên, nói chung.
Năm 1966, một biến chuyển lớn trong nền Đại Đạo,
lần đầu tiên Hội Thánh tuyển chọn Hiền Tài vào Ban Thế Đạo. Sau đó, nhiều vị
được ban phẩm: Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư để trí thức hòa hiệp guồng máy Hành
Chánh Đạo. Trong giai đoạn nầy, Ban Thế Đạo Tòa Thánh Tây Ninh đã có một số vị Hiền
Tài (nam và nữ) tình nguyện phế đời hành Đạo và đã được thiên phong từ cấp Giáo
Hữu đến Phối Sư (Cửu Trùng Đài), và ngay đến cấp cao cấp nhất là Bảo Đạo trong
Thập Nhị Thời Quân, Hiệp Thiên Đài. Ngài Hiền Tài Hồ Tấn Khoa được thiên phong
Quyền Bảo Đạo. Ngài là vị Quyền Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài cuối cùng trong Đại
Đạo Tam Kỳ Tòa Thánh Tây Ninh.
Điều nầy đã cho biết vai trò, trách nhiệm, thiên vị
“vô biên, vô cùng quan trọng” của các chức sắc trong Ban Thế Đạo và đặc biệt là
Ban Thế Đạo Hải Ngoại đã và đang hoạt động trong hoàn cảnh “trăm bề thiếu thốn”
hiện tại. Chức sắc Ban Thế Đạo hoạt động trong sứ mạng và nhiệm vụ “thiêng
liêng - toàn mỹ”, đã thi hành quyền hạn qui định trong Điều Luật Nội Qui và Tôn
Chỉ Ban Thế Đạo, theo Tân Luật Pháp Chánh Truyền phục vụ vào sự phát triển của
cả hai tổ chức Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài (Hành Chánh Đạo) để phổ truyền
Đại Đạo Cao Đài.
Ban Thế Đạo năm 1966 đã lập ra tờ báo “Thế Đạo” do
Hiền Tài Trần Văn Rạng chủ biên để cổ sức trong việc canh tân với sự cộng tác của
nhiều Hiền Tài, trong đó có Hiền Tài Nguyễn Long Thành hăng hái nhất. Một buổi
họp tại Ban Thế Đạo, các Hiền Tài đồng thuận viết báo song song với viết sách.
Năm 1970, Đại Đạo Tầm Nguyên ra đời do Hiền Tài
Trần Văn Rạng & Hiền Tài Đặng Mỹ Lệ viết. Bìa sách do nhà in Lê Thành của
Hiền Tài Lê Văn Màng hiến, ruột Ronéo ở văn phòng quận Phú Khương (do Hiền Tài
Nguyễn Văn Mới, Quận Trưởng). Nhờ đó, các Hiền Tài mới nảy ý thu gom Lời Thuyết
Đạo Của Đức Hộ Pháp quay Ronéo và phát hành cùng năm đó. Đồng thời Hiền Tài
Nguyễn Long Thành viết quyển Con Đường Của Người Đệ Tử Cao Đài. Rất tiếc, Hiền
Tài Thành đã sớm qua đời.
Sau năm 1975, các bạn viết văn nhìn lại các sách,
sửa chữa, tăng bổ và đánh máy thành sách chuyền tay với sự giúp đỡ của Hiền Tài
Phạm Thành Ngộ (Đại Đạo Danh Nhân), Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng (đánh máy 03
quyển: Ngôi Thờ Đức Chí Tôn, Đại Đạo Giáo Lý & Triết Lý, Công Đức Đức Phật
Mẫu). Phải ca ngợi Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng, sau đó nổi lên như một người viết
sách về Đạo chuyên nghiệp. Rất tiếc, Hiền Tài Hồng cũng đã sớm qua đời (2005),
không còn cống hiến cho Đạo.
Sau nhiều lần họp trù bị, vào ngày 20 tháng 12 năm
Kỷ Sửu, một buổi họp mặt tại Bạch Vân Quán, bàn về việc viết sách và in sách
Đạo và kết quả Hiền Tài Đoàn Kim Sơn viết và in 02 quyển; Nguyên Thuỷ: 02
quyển; Cao Hùng in 02 quyển của Hiền Tài Nguyễn Long Thành; Hiền Tài Rạng viết
và in Tuyên Ngôn Khai Đạo của Đức Cao Đài, thu vào đĩa CD: Con Đường Thiêng
Liêng Hằng Sống của Đức Hộ Pháp; sách Trường Dưỡng Tinh Khí Thần.
Sau năm 1975 như ghi bên trên, Ban Thế Đạo Hải
Ngoại đã được thành lập. “Tập San Thế Đạo” đươc lại được tái hoạt động tại Hoa
Kỳ (gốc là tờ báo Thế Đạo do Hiền Tài Trần Văn Rạng chủ biên). Bản Tin Thế Đạo
và Website Ban Thế Đạo cũng đã mở trên Internet. Ban Thế Đạo Hải Ngoại đã hết
sức cố gắng lèo lái “Tập San Thế Đạo và Bản Tin Ban Thế Đạo”, đăng tin tức bài
viết trong Ban Thế Đạo Website, bắt đầu từ dạo đó và trong tình trạng eo hẹp về
nhân lực, bài vở cũng như tài chánh. QS Dũ, HT Khích và các vị Hiền Tài đã bao
năm qua, cố gắng lèo lái Bản Tin Thế Đạo. Tập San Thế Đạo, được xuất bản khoảng
3 tháng một lần; Bản Tin Thế Đạo thì được phát hành thường hơn (gởi đi qua
e-mails).
“Tập San Thế Đạo” đã được đồng Đạo hải ngoại ủng hộ
nhiệt liệt. Đây cũng là một niềm vui và một phương tiện để anh chị em Cao Đài
tại hải ngoại “nối chặt vòng tay” Đại Đạo. Xin quý Huynh Tỷ Đệ Muội hết lòng
yểm trợ tài chánh và đóng góp bài viết cũng như các phương tiện khác để giúp
cho Tập San Thế Đạo một ngày một tiến hơn tại hải ngoại.
Ngày hôm nay, như tất cả đồng Đạo đều biết, Cao Đài
Tòa Thánh Tây Ninh không còn quyền hoạt động như trước năm 1975 (bị giải thể
sau năm 1975). Một số chức sắc Hiền Tài Ban Thế Đạo được may mắn ra xứ ngoài,
đã họp lại nhau cùng một lòng “ngộ biến tùng quyền hay mượn thế đặng toan
phương giác thế ” như Đức Hộ Pháp dạy mà cùng lo chuyện phát triển nền Đạo tại
hải ngoại: đây là vai trò của Cao Đài Hải Ngoại mà Ban Thế Đạo Hải Ngoại hai
vai đã và đang gánh lấy “sứ mạng thiêng liêng nầy” mà không một lời phàn nàn
trong mấy chục năm qua. Một chút suy nghĩ mới biết là Đức Hộ Pháp và Đức Lý
Giáo Tông đã sắp lo an bày mọi chuyện từ trước, hướng dẫn đường đi, mà chúng ta
ngày nay và thế hệ kế tiếp sẽ phải cố gắng với trọn niềm tin để ráng lo chu
toàn nhiệm vụ:
"Khuôn thuyền Bát Nhã
chẳng hề chìm ,
Nổi quá như bông, nặng quá
kim .
Có Đạo trong muôn ngồi
cũng đủ ,
Không duyên một đứa cũng
là chìm."
(Trích Thi Văn Đại Đạo,
Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển)
Và tất cả chúng ta, nhất là các chức sắc trong Ban
Thế Đạo:
“Hiền tài nhân sĩ ưu thời
thế,
Sớm hiệp cùng nhau tạo
Niết Bàn”.
Đâu có ai tiên đoán trƣớc
là sau năm 1975, Ban Thế Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh tại hải ngoại đã trở
thành Ban Thế Đạo Hải Ngoại (danh xƣng). Trước năm 1975, nếu Đức Hộ
Pháp và Đức Lý Giáo Tông đã không thành lập Ban Thế Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây
Ninh thì Đạo Cao Đài đã lâm vào con đường “bế tắt” rồi hay nói cách khác, Đạo
Cao Đài do Đức Chí Tôn lập ra năm 1926 bị “diệt”. Tòa Thánh Tây Ninh sau năm
1975, do Hội Đồng Chưởng Quản lãnh đạo dưới sự “điều khiển và quản trị” của nhà
cầm quyền đương kiêm đã không còn quyền hạn để hoạt động, Đạo đã đi vào con
đường bế tắt, không được hoạt động theo Hiến Chương Cao Đài, theo Tân Luật Pháp
Chánh Truyền (Thiên Luật), Đạo Nghị Định mà Đức Chí Tôn lập ra trong thời kỳ khai
Đạo năm 1926 và dạy trong các Thánh Ngôn, Thiên Thơ.
Báo Xa Lộ Pháp Luật số 36 ra ngày 17/8/2013 trang
16 cột bốn dòng 26 viết: "...Hiện nay, Cao Đài Tây Ninh được nhà nước công
nhận là một trong chín (9) chi phái Cao Đài hoạt động hợp pháp ở Việt
Nam". Tại Việt Nam tôn giáo Cao Đài không được sinh hoạt tôn giáo mà chỉ
có chín (9) chi phái Cao Đài đươc sinh hoạt tôn giáo là sự thật. Nói một cách
khác, sau biến cố 30 tháng 1975, Đạo Cao Đài Tòa Thánh Tây Ninh đã bị “Giải
Thể”.
Sự thành lập Ban Thế Đạo Tòa Thánh Tây Ninh trước
năm 1975 là do bàn tay sắp đặt của các đấng “diệu huyền - thiêng liêng - vô
hình”, đã đưa Ban Thế Đạo Tòa Thánh Tây Ninh ra hải ngoại trong cơ chuyển thế
trong lúc Tòa Thánh Tây Ninh thì đi vào con đường “bế tắt - tận cùng”. Do sự sắp
đặt “vô hình huyền nhiệm” nầy, mà Ban Thế Đạo Hải Ngoại “mượn thế đặng toan
phương giác thế” trong giai đoạn khó khăn nầy, trong mấy chục năm qua, đã vượt
lên mọi khó khăn đã hoạt động, gầy dựng các cơ sở và phát huy cơ phổ độ, truyền
bá và phát triển nền Đại Đạo Cao Đài tại Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Đức, Úc Châu và
nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay.
Trong e-mail gởi các anh chị em trong Cao Đài Hải
Ngoại ngày 4 tháng Tư, 2017, QS Thế viết lời nhận định sau đây: “Tất cả Tín đồ
Cao Đài đều biết rõ tất cả chúng sanh đều là con cái của Đức Chí Tôn, đều là đệ
tử của Thầy và quyền của Thầy được xác định: " Muôn kiếp có ta nắm chủ
quyền"... Như vậy tại sao biến cố ngày 30 tháng 4, 1975 Đạo Cao Đài bị
Giải Thể?? Quyền hạn của “Đời” vượt qua quyền hạn của Chí Tôn sao??
Trả lời các câu hỏi nầy hợp lý nhất là: Tất cả đều do sự an bày của Thầy cả!!
Ngoài ra Thầy đã dạy: "Đạo Đời Tương Đắc"... mà sau biến cố ĐỜI đã
hoàn toàn thay đổi, vậy Đạo tự nhiên phải thay đổi theo!. Nhưng Đạo sẽ thay đổi
cách nào tại hải ngoại theo Tân Luật Pháp Chánh Truyền để Đạo Đời Tương Đắc?
Trong Thi Văn Đại Đạo, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có ghi là:
"Biển đổi, non dời
đời phải tuyệt ,
Đức cao bền vững khó cân
lường "
(Trích Thi Văn Đại Đạo,
Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển)
Trong cơ chuyển thế, Tân Luật sẽ thử thách và hướng
dẫn chúng ta về tổ chức phát triển Đạo Cao Đài trong thời kỳ bế tắt tại hải
ngoại. Tân Luật là do nhân sanh lập ra và chúng ta tin tường là Đức Chí Tôn sẽ
dìu dắt, giúp chúng ta vượt qua mọi thử thách trên đời nầy. Tân Luật có thể tu
chỉnh tùy trình độ tiến hóa của nhân sanh. Bí quyết của Đạo Cao Đài là luôn
luôn có quyền “Thiên-Thượng và Thiên-Hạ” tức là quyền Chí linh và Van linh hiệp
một. Thánh ý Đức Chí Tôn muốn để con cái của Ngài tự lập Luật, bởi cớ nên bộ
Luật của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ gọi là Tân Luật do chư môn đệ của Thầy hợp nhau
lập thành.
"Cơ Trời đến buổi đời thay đổi,
Ðạo Thánh nhằm khi khách
gội nhuần. ....
Lựa dèo lựa thế độ nhơn
sanh ,
Khó dễ Thầy cho hiểu ngọn
ngành"
(Trích Thi Văn Đại Đạo, Thánh-Ngôn Hiệp-Tuyển)
và là: "Huệ thông đạo pháp độ quần
sanh" Với những gí chúng ta đã và đang thấy và đối diện, có lẽ đây là
“thánh ý” của Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông đặt vào Ban Thế Đạo nhiệm vụ “cao
quí thiêng liêng nhưng vô cùng trọng đại nầy” nhằm để phát triển và mở rộng nền
Đại Đạo trên hoàn cầu trong giai đoạn thử thách của “hoàn cảnh lịch sử”. Những
chuyện mà Ban Thế Đạo Cao Đài Hải Ngoại đã và đang làm, mặc dầu gặp nhiều khó
khăn trong nhiều năm qua, nhưng đã và đang tiến lên vững mạnh, đã nói lên những
hoài vọng mà Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông mong muốn, đã ủy nhiệm cho Ban Thế
Đạo Hải Ngoại ngày nay. Thật đúng như câu “Mượn thế đặng toan phương giác
thế”.
Thánh giáo của Đức Chí Tôn (trích trong TNHT Q.2):
Đức Chí Tôn khuyên con cái Đức Ngài gắng công phổ độ chúng sanh cho tròn nhiệm
vụ của Thầy giao phó”, chúng ta ráng suy ngẫm những lời dạy nầy: “....Các
con đã chịu một trách nhậm nơi mình, nếu Thầy chẳng để cho các con học tập, mà
lập nên địa vị mình trước mặt chúng sanh cho xứng đáng, thì Ðạo cũng chưa ra vẻ
Ðạo. Vì vậy mà Thầy chịu ép lòng để cho các con hằng nhớ rằng: Chẳng giờ phút
nào Thầy xa các con hết. Nghe à! "
Trên con đường phát triển Đạo Cao Đài tại hải
ngoại, Ban Thế Đạo Cao Đài Hải Ngoại sẽ tiếp tục hoạt động mở mang, thành lập
các “cơ quan, tổ chức” cần thiết trong tổ chức Hiệp Thiên Đài mà Đức Hộ Pháp và
Đức Lý Giáo Tông lập ra bên trên để dùng làm “bàn đạp, căn bản, tuyển chọn nhân
tài” trong tinh thần “cầu hiền giúp Đạo”, vào phục vụ và phổ truyền, phát triển
nền Đại Đạo Cao Đài, để trí thức hòa hiệp guồng máy Hành Chánh Đạo đã và đang
phát triển.
Ban Thế Đạo Tòa Thánh Tây Ninh là cơ quan sau cùng
của Hiệp Thiên Đài mà Đức Hộ Pháp và Đức Lý Giáo Tông lập ra. Trong những năm
gần đây (sau năm 1975), văn phòng Hiêp Thiên Đài Tòa Thánh Tây Ninh bị đóng
cửa. Ban Thế Đạo do Đức Ngài lập ra vẫn còn hoạt động tại Hải Ngoại. Đức Hộ
Pháp và Đức Lý Giáo Tông đã thành lập các cơ quan quan trọng trong việc “phổ
biến và phát huy nền Đai Đạo” như Khảo Cứu Vụ, Viện Đại Học Cao Đài. Ban Thế
Đạo với vai trò “chuyển Thế vào Đạo” và phát huy Đạo khắp mọi nơi trên hoàn
cầu” thì sự tái lập lại các cơ quan tổ chức chức trọng yếu, cần thiết, mở rộng
và phát triển các cơ quan khác, để ủng hộ các hoạt động của Đạo cho thế hệ sau
và nhiều thế hệ sau nữa, là những nhiệm vụ trọng yếu trong Cao Đài Hải Ngoại mà
Ban Thế Đạo Hải Ngoại, Hiệp Thiên Đài là nơi bắt đầu.
V. Ban Thế
Đạo Hải Ngoại - Nhập Cuộc.
Ban Thế Ðạo là cơ quan đặc biệt do Ðạo Cao Ðài lập
ra để tạo điều kiện cho những người tài giỏi đang phục vụ trong các cơ quan của
quyền đời để họ lập công quả nơi cửa Ðạo.
Ý nghĩa của việc thiết lập Ban Thế Ðạo: "Có
nhiều bậc ưu thời mẫn thế, sẵn có đạo tâm, giàu lòng nhân ái, muốn phụng sự Ðại
Ðạo, nhưng còn ràng buộc trách nhiệm đối với quốc gia xã hội, chưa phế đời hành
Ðạo được.
Ban Thế Ðạo là nơi dụng hiền, tạo cơ hội cho những
bậc có đạo tâm thực hành thiện nguyện ấy." Ban Thế Ðạo được thành lập theo
Thánh Giáo của Ðức Lý Thái Bạch, Giáo Tông Ðại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, giáng cơ tại
Giáo Tông Ðường đêm 3-12-Quý Tỵ (dl 7-1-1954) Phò loan: Đức Phạm Hộ Pháp và
Ngài Cao Tiếp Ðạo. Xin trích ra phần Đức Lý Giáo Tông và Đức Hộ Pháp bàn về vế
phẩm chức trong Ban Thế Đạo sau đây:
"Khi hôm qua có luận
về Thế Ðạo, nên căn dặn phò loan đặng Lão giải nghĩa điều ấy.
Hộ Pháp đã hiểu tổ chức
của Hội Thánh Thiên Chúa Giáo, có Chức sắc Thế Ðạo, pháp văn gọi rằng
Dignitaires laïques.
Hiền hữu đã có phong phẩm Hiền
Tài, sao không thêm 3 phẩm trên nữa cho đủ 4 như của họ. Hộ Pháp bạch: -
Xin Ngài chỉ rõ. - Thêm vào 3 phẩm Thế Ðạo nầy: Quốc Sĩ, Ðại Phu, Phu Tử."
Như vậy, Ban Thế Ðạo có 4 phẩm Chức sắc: Phẩm Hiền
Tài, do Ðức Phạm Hộ Pháp lập ra.
Ba phẩm: Quốc Sĩ, Ðại Phu, Phu Tử, do Ðức Lý
Giáo Tông lập ra.
Chức sắc Ban Thế Đạo có 4 phẩm trật:
- Hiền Tài
- Quốc Sĩ
- Ðại Phu
- Phu Tử .
Hội Thánh bày tỏ cảm xúc,
cầu nguyện hồng ân Đức Chí Tôn, chúc Đại Hội
Ban Thế Đạo mỹ mãn.
Tuy Ðức Lý Giáo Tông và Ðức Phạm Hộ Pháp đã định ra
như vậy từ ngày 7-1-1954, nhưng mãi đến 11 năm sau, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài
(HTÐ) mới lập Qui Ðiều cho Ban Thế Ðạo, được Ðức Cao Thượng Sanh ban hành ngày
28-2-Ất Tỵ (dl 30-3-1965), và sau đó lập Nội Luật Ban Thế Ðạo, được Ðức Cao
Thượng Sanh ban hành ngày 27-11-Mậu Thân (dl 15-1-1969).
Kể từ ngày Ðức Thượng Sanh ban hành Qui Ðiều Ban
Thế Ðạo (Ngày 28-2-Ất Tỵ, dl 30-3-1965), Hội Thánh Hiệp Thiên Đài đã tấn phong
5 đợt Hiền Tài (5 Khóa Hiền Tài từ Khóa I đến Khóa V) được tuyển chọn và tấn
phong. Tổng cộng là 706 vị (trong danh sách nầy không kể các vị Hiền Tài
được tấn phong trước như Hiền Tài Hồ Tấn Khoa, etc.):
Khóa I: có 57 vị,
ngày 7-9-1966 . Danh sách
do Đức Đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang ấn ký Khóa II: có 123 vị, ngày 30-12-1967 . Danh sách do Đức
Thượng Sanh Cao Hoài Sang ấn ký. Khóa III: có 78 vị, ngày 15-2-1970 . Danh sách do ngài Cải
Trạng Hiệp Thiên Đài kiêm xử lý thường vụ Văn Phòng Chưởng Quản Ban Thế Đạo
Nguyễn văn Hợi ký.
Khóa IV: có 162 vị,
ngày 19-4-1972 . Danh sách
do do Quản Văn Phòng Quản Nhiệm Trung Ương Ban Thế Đạo, Hiền Tài Phan Tử Anh
ký.
Khóa V: có 286 vị,
ngày 15-8-1973 . Danh sách
do Tổng Quản Nhiệm Trung Ương Ban Thế Đạo, Hiền Tài Phạm Tấn Xuân ký. Sau đó có
rất đông nhân tài, các nhà trí thức, các sĩ quan trong quân đội, các sinh viên
đại học, thương gia, v.v.v... đã nạp hồ sơ cầu phong Hiền Tài (Khóa VI và các
khóa kế tiếp) nhưng chưa được tấn phong. Tổng số là: 424 vị (con số
không chính xác cho lắm).
Mỗi vị Hiền Tài được
chọn đều có Thánh Lịnh phong cho. Thánh Lịnh do Đức Thượng Sanh hoặc ngài Hiến
Pháp Trương Hữu Đức, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài ký. Trong Thánh Lịnh ghi rõ:
các vị Hiền Tài trên đây phải tôn trọng Luật Pháp chơn truyền của Ðại Đạo Tam
Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh và tuân hành Qui Điều và Nội Luật của Ban Thế Đạo.
Về nhiệm vụ và quyền
hành của chức sắc Hiền Tài Ban Thế Đạo khi tham gia Hành Chánh Đạo, có một số ý
kiến bảo là:
- Hiền Tài không được
quyền tham gia Hành Chánh Đạo,
- Hiền Tài không được
phép dâng sớ lên Đức Chí Tôn hay Đức Phật Mẫu.
Ý kiến nêu trên là hoàn
toàn đúng, nếu là ở Quốc Nội (Tòa Thánh Tây Ninh trước năm 1975). Còn ở Quốc
Ngoại hiện nay, trường hợp rất là đặc biệt, coi như không có Chức Sắc Cửu Trùng
Đài, thì cũng phải có phần uyển chuyển để phát triển Đạo (xin đọc bài viết “Đạo
Tâm - Chơn Pháp Đạo Tâm”, Quốc Sĩ Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Bình, Khảo Cứu Vụ, Cao
Đài Hải Ngoại, 2017).
Trong quá khứ, tại Tòa
Thánh Tây Ninh, chức sắc Hiệp Thiên Đài đã được chỉ định đảm nhiệm quyền hành
bên Hành Chánh Đạo Cửu Trùng Đài (CTĐ).
Theo Pháp Chánh Truyền,
Đức CHÍ TÔN lập Đạo Cao Đài với hình thể gồm có ba Đài:
- Cửu Trùng Đài: dưới
quyền Đức Giáo Tông, nắm quyền Hành Pháp (Hành Chánh Đạo),
- Hiệp Thiên Đài: dưới
quyền Đức Hộ Pháp, nắm quyền Tư Pháp,
- Bát Quái Đài: dưới
quyền Đức Chí Tôn, nắm quyền Lập Pháp Thiêng Liêng. Mặc dầu Cửu Trùng Đài (CTĐ)
và Hiệp Thiện Đài (HTĐ) có nhiệm vụ khác nhau, nhưng trong những trường hợp đặc
biệt, vì nhu cầu đạo sự, Chức Sắc HTĐ vẫn có thể đảm nhiệm quyền hành bên CTĐ.
Lịch sử đã cho biết điều nầy: trước kia, Quí Vị Thời Quân đã từng đảm nhiệm
quyền hành Chưởng Pháp, Đầu Sư, Chánh Phối Sư và Thống Quản Phước Thiện.
Ngày mùng 7 tháng 3 Quí
Dậu (1-4-1933), Đức Quyền Giáo Tông và Đức Hộ Pháp có ra Châu Tri số 1 sắp đặt
lại việc chánh trị của nền Đạo:
- Trong lúc Chưởng Pháp
chưa có chánh vị thì quyền hành Chưởng Pháp giao cho Hiệp Thiên Đài cầm. Ba vị
Thời Quân cầm quyền Chưởng Pháp là :
- Ngài Bảo Pháp Nguyễn
Trung Hậu,
- Ngài Bảo Thế Lê Thiện
Phước,
- Ngài Hiến Đạo Phạm
Văn Tươi.
- Trong lúc Chánh Phối
Sư chưa có chánh vị thì quyền hành Chánh Phối Sư giao cho Hiệp Thiên Đài cầm.
Ba vị Thời Quân cầm
quyền Chánh Phối Sư (CPS) là :
- Ngài Khai Pháp Trần
Duy Nghĩa cầm quyền Ngọc CPS,
- Ngài Khai Đạo Phạm Tấn
Đãi cầm quyền Thái CPS,
- Ngài Khai Thế Thái
Văn Thâu cầm quyền Thượng CPS.
- Cuối năm Bính Tuất
(1946), Đức Hộ Pháp thành lập Hội Thánh Phước Thiện, Đức Ngài bổ nhiệm Ngài
Hiến Đạo Phạm Văn Tươi làm Thống Quản Phước Thiện.
- Đầu năm 1966, Đức
Thượng Sanh bổ nhiệm Ngài Hiến Thế Nguyễn Văn Mạnh làm Thống Quản Phước Thiện,
Thánh Lịnh số 47/TL ngày 20-12-Ất Tỵ (11-1-1966).
- Đầu năm 1959, Ngài
Bảo Thế Lê Thiện Phước được cử đảm nhiệm Quyền Đầu Sư bên Cửu Trùng Đài, Đạo
Lịnh số 15/ĐL ngày 11-1-Kỷ Hợi (18-2-1959 ).
- Sau khi Đức Quyền
Giáo Tông Lê Văn Trung Qui Thiên (13-10 Giáp Tuất, 19-11-1934), Đức Lý Giáo
Tông giáng cơ giao quyền hành Giáo Tông hữu hình tại thế cho Đức Hộ Pháp nắm
giữ. Tiếp theo, Đại Hội Nhơn Sanh và Đại Hội Hội Thánh đồng yêu cầu Đức Hộ Pháp
nắm Chưởng Quản Cửu Trùng Đài cho đến ngày có đủ 3 vị Đầu Sư, để sớm chỉnh đốn
nền Đạo.
Kể từ ngày 6-11 Giáp
Tuất (12-12-1934 ), Đức Hộ
Pháp chánh thức nắm quyền thống nhứt, Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài: Hiệp Thiên
và Cửu Trùng.
Trước đó, vào ngày
29-12 Quí Dậu (12-02-34), Lục Nương, Diêu Trì Cung có giáng cơ cho biết sự
Chuyển Pháp của Ngọc Hư Cung như sau : "... Ngọc Hư Chuyển Pháp, Cả Thiên
Thơ hủy phá, sửa cải Pháp Chơn Truyền. Chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vui mừng
chẳng siết, Diêu Trì Từ Mẫu đẹp dạ không cùng,… ". (TNHT Q2 – in năm
1972).
Sau biến cố lịch sử
tháng tư năm 1975, có một số Hiền Tài (ước lượng khoảng hơn 150 vị, không rỏ
số ?) đã có cơ hội ra sống ở hải ngoại, định cư tại nhiều quốc gia trên thế
giới: Hoa Kỳ, Australia, Đức, Pháp, Canada, v.v.v... Vì nhiều lý do khác nhau,
rất nhiều vị Hiền Tài đã không hoạt động trong Ban Thế Đạo tại hải ngoại. Một
số các vị Hiền Tài đã không những không họp tác với Ban Thế Đạo mà còn “gây
chia rẽ và tạo nên những khó khăn” trong sự sinh hoạt, phát huy của Ban Thế Đạo
Hải Ngoại trên con đường phát triển nền Đạo Cao Đài tại hải ngoại.
Thánh Giáo của Đức Chí
Tôn (5-3-1927 ) dạy:
"Thầy hằng muốn cho các con hiệp chung nhau mở đường chánh giáo, phải biết
tương thân tương ái, chia vui sớt nhọc cho nhau mà dìu dắt chúng sanh. Nếu vì
chút phàm tâm mà chia đường phân nẻo, ghét nghịch lẫn nhau, các con sẽ treo
gương bất chánh cho kẻ sau, lại nền Ðạo cũng vì đó mà khó mau thành đặng. Các
con khá để ý đến, ấy là các con hiến cho Thầy một sự thành kính trọng hậu
đó."
Cho đến ngày hôm nay,
một số vị Hiền Tài niên trưởng đã ra đi (vì lớn tuổi), một số vị thích sống đời
“riêng tư, ẩn dật” không màng thế sự, một số vì tình trạng sức khỏe, một số còn
“lưỡng lự” chưa “nhập cuộc” hoạt động trong Ban Thế Đạo Hải Ngoại
và một số với nhiều lý do tình trạng khác nhau, vv.. các vị nầy đã không có cơ
hội hoạt động trong Ban Thế Đạo Hải Ngoại (Cao Đài Hải Ngoại - Tòa Thánh Tây
Ninh).
Con số các vị Hiền Tài
đã đang “thật sự hoạt động” trong Ban Thế Đạo Hải Ngoại thì ít quá, nhưng họ là
những người đầy nhiệt tâm hết lòng vì Đạo. Các vị nầy đã cố gắng không ngừng,
duy trì và phát triển Cao Đài tại hải ngoại trên 30 năm qua. Quả thật là một
“sự mầu nhiệm” mà các đấng thiêng liêng đã “hướng dẫn và giúp đỡ”. Nếu nhìn lại
ngày Đức Chí Tôn mở Đạo (năm 1926) với 12 môn đồ, chỉ có 8 môn đồ hoạt động,
một năm sau (1927) số môn đồ lên đến muôn người:
" Mercredi 2
Février 1927 (30-12-Bính Dần). Ngọc Hoàng Thượng Đế Viết Cao Đài Giáo Đạo
Nam Phương Các con!
Mừng các con ... Trung, Cư, Tắc, mấy con có nhớ đêm nay năm rồi thế nào, còn
nay ra thế nào chăng? Trịnh Thị Ái Nữ, Hiếu, hai con đã thấy Thầy giữ lời hứa
thế nào chưa? Thầy lập Đạo năm rồi ngày nầy thì Môn Đệ của Thầy chỉ có mười hai
đứa, mà bốn đứa vào nơi tay chúa Quỉ, chỉ còn lại tám. Trong tám đứa thì lại
còn một đôi đứa biếng nhác mà không hành Đạo. Thầy hỏi, nếu chẳng phải quyền
hành Thầy, dầu cho một vị Phật thiệt lớn giáng thế đi nữa cũng chưa phương chi
mà độ hơn bốn muôn sanh linh nhờ tay có sáu đứa Môn Đệ trong một năm cho đặng
bao giờ”...
1. Tổ
chức Ban Thế Đạo Cao Đài Hải Ngoại .
Tổ chức Ban Thế Đạo Cao Đài Hải Ngoại đã được thành lập sau
năm 1975 tại Califotnia, USA. Hệ thống hoạt động và điều hành Ban Thế Đạo tại
hải ngoại gồm: Ban Thế Đạo Trung Ương có nhiệm vụ quản trị và và điều hành hoạt
động toàn diện tổ chức Ban Thế Đạo tại hải ngoại. Dưới Ban Thế Đạo Trung Ương
là tổ chức Ban Thế Đạo Hải Ngoại. Ban Thế Đạo Hải Ngoại gồm tổ chức Ban Thế Đạo
trên toàn cầu đã và đang hoạt động ở nhiều quốc gia trên thế giới: Ban Thế Đạo
Hải Ngoại Hoa Kỳ (USA), Ban Thế Đạo Hải Ngoại Canada, Ban Thế Đạo Hải Ngoại
Pháp (France), Ban Thế Đạo Hải Ngoại Đức (Germany), Ban Thế Đạo Hải Ngoại Úc
Châu (Australia), etc. Tại Hoa Kỳ, Ban Thế Đạo Hải Ngoại Hoa Kỳ cũng gồm nhiều
tổ chức Ban Thế Đạo tại các tiểu bang, thí dụ như Ban Thế Đạo Texas (tiểu bang
Texas), Ban Thế Đạo Georgia (tiểu bang Georgia). Ban Thế Đạo của các quốc gia
trên thế giới cũng sẽ có tổ chức tương tự như Ban Thế Đạo Hoa Kỳ.
Như đã ghi bên trên, kể từ ngày Ðức Thượng Sanh ban
hành Quy Ðiều Ban Thế Ðạo (Ngày 28-2-Ất Tỵ, dl 30-3-1965), Hội Thánh Hiệp Thiên
Đài (HTÐ) đã tấn phong 5 đợt Hiền Tài như sau:
* Khóa I:
|
57 vị,
|
tấn phong ngày 21-09-1966.
|
* Khóa II:
|
123 vị,
|
tấn phong ngày 30-12-1967
|
* Khóa III:
|
78 vị,
|
tấn phong ngày 15-02-1970.
|
* Khóa IV:
|
162 vị,
|
tấn phong ngày 19-04-1972.
|
* Khóa V:
|
286 vị,
|
tấn phong ngày 15-08-1973.
|
Tổng cộng:
|
706 vị
|
Hiền Tài đã đƣợc tấn phong.
|
Sau đó có rất đông nhân tài, etc.
đã nạp hồ sơ cầu phong Hiền Tài (Khóa VI và các khóa kế tiếp) nhưng chưa được
tấn phong. Tổng số là: 424 vị.
2. Chƣơng
Trình “Cầu Hiền Giúp Đạo” của Ban Thế Đạo Hải Ngoại .
Căn cứ vào Bản Qui Điều và Nội
Luật Ban Thế Đạo do Hội Thánh ban hành. Tạo dựng một Thế hệ Kế Thừa cho Ban Thế
Đạo ở Hải Ngoại là một Chủ trương không những đáp ứng nhu cầu thực tế hiện nay
mà còn nhằm thực hiện đường lối của Hội Thánh trước năm 1975 khi thành lập Ban
Thế Đạo. Đó là "Nhằm thu hút, tiếp rƣớc Nhân tài có thiện tâm giúp
Đạo và góp phần dìu độ Nguyên Nhân nhập trƣờng Công quả".
Để thực hiện chủ trương “Cầu
Hiền Giúp Đạo” của Hội Thánh Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh Tây Ninh
trước năm 1975, và áp dụng chủ trương nầy vào tình hình thực tế hiện nay không
còn Hội Thánh, không có cơ bút, Cao Đài Hải Ngoại kêu gọi và thân mời Quý vị
Nhân Tài có Đạo Tâm muốn phục vụ cho Đạo Cao Đài trong việc Hoằng Khai Đại Đạo
và Phổ Độ chúng sanh, xin vui lòng làm hồ sơ gởi đến Ban Thế Đạo Cao Đài Hải
Ngoại.
Việc thực hiện Chủ trương nêu
trên hoàn toàn không phải là tuyển chọn hoặc ban phẩm vị Hiền Tài cho các ứng
viên đủ điều kiện như việc làm của Hội Thánh trước đây, mà chỉ nhằm tạo điều
kiện cho Quý vị có Đạo Tâm, đủ tiêu chuẩn, hội nhập vào Ban Thế Đạo với tƣ
cách là Hiền Tài Dự Phong để có cơ hội lập công bồi đức trong cửa Đạo.
Năm 2000, căn cứ vào sự thống nhất của tất cả Hiền
Tài Ban Thế Đạo ở Hải ngoại về việc thực hiện Chủ Trương “Thế Hệ Kế Thừa”, Ban
Thế Đạo ở Hải Ngoại và do nhu cầu cần thiết để phổ nền Đại Đạo ở Hải Ngoại. Ban
Thế Đạo Hải Ngoại thành lập danh xưng "Hiền Tài Dự Phong."
Hiền Tài Dự Phong (HTDP) là thành viên
chính thức của Ban Thế Đạo ở Hải Ngoại, hoạt động dưới sự điều hợp và theo Kế
hoạch thống nhất của Ban Quản Nhiệm Ban Thế Đạo Hải Ngoại
- Ban Thế Đạo thuộc Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ Tòa Thánh
Tây Ninh. Muốn gia nhập vào Ban Thế Đạo với chức danh Hiền Tài Dự Phong, các
ứng viên cần phải tốt nghiệp với bằng Associate Degree hoặc tương đương và hội
đủ các tiêu chuẩn ghi õ trong Quy Điều và Nội Luật Ban Thế Đạo.
Ban Thế Đạo ở Hải Ngoại
cũng đã dành điều kiện dễ dàng cho các vị đã nạp hồ sơ cầu phong Hiền Tài Khóa
VI Ban Thế Đạo Tòa Thánh Tây Ninh vào vị trí “Hiền Tài Dự Phong”.
Đầu năm 2017, Ban Thế Đạo Hải Ngoại đã quyết định
không còn danh xưng Hiền Tài Dự Phong nữa. Thông Cáo Số #4 BTĐ/HN ký ngày 1
tháng 6 năm 2017 đã trình bày quyết định về việc Hiền Tài Dự Phong chuyển sang
Hiền Tài. Thông Cáo Số #4 nầy cũng nói rõ là đối với quí vị Hiền Tài Dự Phong
cần chỉnh vị sang Hiền Tài, quí vị chỉ cần thông báo về Ban Thế Đạo Hải Ngoại
là quí vị tham gia vào hoạt động trong hệ thống Cao Đài Hải Ngoại. Một sồ Hiền
Tài Dự Phong đã chính thức là Hiền Tài và đang hoạt động trong Ban Thế Đạo Hải
Ngoại.
Ban Thế Đạo Hải Ngoại đã
thông báo và rất tha thiết kính mời các vị Hiền Tài Dự Phong “Nhập Cuộc”
tham gia vào hoạt động trong tổ chức Cao Đài Hải Ngoại, Tòa Thánh Tây Ninh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét