Đạo Tâm - Tịch Đạo - Chơn Pháp Đạo Tâm - 1/2 (Quốc Sĩ, Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Bình)

I. Đạo Tâm
ĐẠO TÂM có hai nghĩa chánh: 1. Đạo Tâm là Tâm Đạo của con người. Bởi tất cả mọi việc tu hành, dù theo một Tôn giáo nào, cũng khởi phát từ một Tâm hồn cao thượng và hướng thượng, Đạo đức và dục tấn.
2. Đạo Tâm là Tịch Đạo thứ hai của nền Đại Đạo sau Tịch Đạo Thanh Hương. - Tịch Đạo Thanh Hương là thi hành Thể pháp - Tịch Đạo Đạo Tâm là thi hành Bí Pháp.
Chúng ta đang ở trong thời kỳ Tịch Đạo Thanh Hương nhưng xem như thời kỳ Tịch Đạo Thanh Hương đã qua đi, nhường lại cho cơ Đạo Tâm sắp đến. Cái chơn lý tối cao, tối đại của nền Đại Đạo này chính là Đấng Thượng Đế hay Đức Chí Tôn khai mở tại Việt Nam chúng ta đây, là khởi điểm cho Đại Đồng Thế Giới (Tôn Giáo Toàn Cầu) để cùng sống chung Hòa Bình. Cái hay của Đạo mầu đã sẵn, nhưng sự xếp đặt do sự cắt xén, ráp nối của bàn tay phàm biết có được toại ý Thánh Nhân không?
Nhưng dù thế nào đây cũng là một kỷ niệm của chuyến viễn du của một con người được đặt bước đến điạ cầu 68 này (quả địa cầu chúng ta đang ở), đã được sống, được hít thở khí trời và hạnh phúc nhất là được hít thở không khí diệu huyền của Đạo Pháp.

Nếu chúng ta đến Tòa Thánh Tây Ninh viếng Điện Thờ Phật Mẫu và Cửu Vị Nữ Phật, đi theo bề dài của Báo Ân Từ, chúng ta đếm được tất cả 14 lồng căn, mỗi lồng căn rộng 4 thước. Gần bên ngoài là một vách ngăn, chỉ ngăn phần gian giữa, trên đó có một khung lớn sơn màu trắng, tượng trưng Khí Sanh Quang. Phần bên ngoài tấm vách ngăn nầy là căn thứ 10, nơi chính giữa có treo một cái ngôi sao lớn nhiều màu sắc, hai bên ngôi sao, trên 2 cây cột là đôi liễn chữ Nho, phiên âm ra như sau :

BÁT phẩm chơn hồn tạo thế giới hoá chúng sanh vạn vật hữu hình tùng thử ĐẠO QUÁI hào Bác ái định càn khôn phân đẳng pháp nhứt thần phi tướng trị kỳ TÂM
(   ,
  .)

Hai câu liễn đặt trước Báo Ân Từ bên trên cho ta cái hình ảnh “đã được sống, được hít thở khí trời và hạnh phúc nhất là được hít thở không khí diệu huyền của Đạo Pháp”. Nếu chúng ta suy nghĩ sâu xa ý nghĩa của hai câu liểng nầy, chúng ta mới hiểu cái sự “huyền diệu” mà các đấng thiêng liêng đã dạy:

Hai chữ đầu của đôi liễn khởi bằng chữ BÁT QUÁI .
Hai chữ cuối của đôi liễn kết thúc bằng hai chữ ĐẠO TÂM .

Lại nữa đây là câu đối dài nhứt trong số các câu đối trong cửa Đạo Cao Đài ngày nay. Mỗi câu có 17 chữ ứng vào Quẻ Thiên Sơn Độn. Độn nghĩa là lui đi, tức nhiên thời THANH HƯƠNG đã qua đi, thời của ĐẠO TÂM đã tới là vậy.
- BÁTphẩm chơn hồn tạo thế giới hóa chúng sanh vạn vật hữu hình tùng thử ĐẠO
- QUÁI hào bác ái định Càn khôn phân đẳng pháp nhứt thần phi tướng trị kỳ TÂM .

Hai câu trên được giải nghĩa như sau:
1. Câu liễn số 1: Tám phẩm chơn hồn tạo nên thế giới, và hóa thành chúng sanh, vạn vật hữu hình đều tùng theo cái Đạo ấy. Nghĩa là Tám đẳng cấp chơn hồn là vật chất hồn, thảo mộc hồn, thú cầm hồn, nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn đều được sản xuất dưới bàn tay của Đức Phật Mẫu, nhưng vạn vật vốn hữu hình hữu hoại, nghĩa là có sinh có diệt, có sống có chết, Đạo của trời đất định vậy.

Câu 1: Bát phẩm chơn hồn cũng gọi là Bát hồn, tức là 8 bậc tiến hóa của chơn hồn, từ thấp lên cao là Vật chất hồn, Kim thạch hồn, Thảo mộc hồn, Thú cầm hồn, Nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn. Tám phẩm chơn hồn này đã tạo ra Thế giới, hóa thành chúng sanh. Trong hàng chúng sanh thì chỉ riêng 4 phẩm là Kim thạch, Thảo mộc, Thú cầm và Nhơn loại. Những vật loại nào có hình ảnh có thể thấy được, sờ mó được như vậy đều phải chịu luật biến hoá hoặc thay đổi của vũ trụ, tức là bị huỷ hoại hay chết đi tùy theo thời gian. Ấy là Đạo.

Theo Đạo Đức Kinh của Đức Lão Tử: Đạo là cái nguyên lý sanh ra vũ trụ và vạn vật. Mọi vật đều do Đạo sanh ra và lớn lên. Theo triết lý Cao Đài, ĐẠO là Hư Vô chi Khí, tức nhiên có sinh có diệt, có sống có chết. Phật Mẫu Chơn Kinh có câu Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh” nghĩa là: Đức Phật Mẫu vận chuyển đem Tám phẩm chơn hồn hóa thành chúng sanh nơi cõi trần

2. Câu liễn số 2: Trong sự tạo hóa Càn khôn Vũ trụ, Đấng Thượng Đế dùng luật Thương yêu, sắp đặt mọi vật của Càn khôn Vũ trụ, phân chia ra nhiều thứ bực cao thấp khác nhau, chỉ duy có một Chơn Linh vô hình làm chủ cái Tâm. Nghĩa là dù cho những quẻ (đại thể), những hào (tiểu thể) xuất từ Tâm Bác Ái sẽ định nền tảng cho Càn khôn để phân ra đẳng cấp, chỉ một điểm Thần duy nhứt, không hình tướng cũng định được cái Tâm (mà chủ của cái Tâm là Thượng Đế Cao Đài ngày nay vi chủ).

Câu 2: Quái Hào: quái là quẻ. Ví như Quẻ Càn  gồm có 3 vạch liền, mỗi vạch liền được gọi là Hào Dương. Quẻ Khôn có 3 vạch đứt, mỗi vạch đứt được gọi là Hào Âm. Sự kết hợp của các Hào âm dương tạo thành các Quẻ. Quái hào là chỉ chung các quẻ và các hào trong Bát Quái. Người phát minh ra Quái Hào là vua Phục Hy. Ngài dùng Quái Hào tạo thành Bát Quái Tiên Thiên, để giải thích sự hình thành Càn Khôn Vũ trụ bằng hai nguyên lý Âm Dương do Thái Cực biến hóa phân ra. Bác ái là lòng thương yêu bao la, thương xót sanh linh hơn mình, cho nên, kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi thiên hạ nặng bằng trời đất. Chính hai quẻ Càn Khôn là cánh cửa để đi vào Đạo Dịch: Càn tượng Trời, Khôn tượng Đất tức là trời đất, vũ trụ, nên thuờng nói Càn Khôn Vũ trụ. Cũng chỉ hai đấng Cha Mẹ Vạn Linh là Chí Tôn và Phật Mẫu nữa. Hai quẻ Âm Dương này rất quan trọng.
Phần đầu của câu liễn số 1 có ý nghĩa giống câu kinh : "Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh" trong Phật Mẫu Chơn Kinh, nghĩa là : Đức Phật Mẫu vận chuyển 8 phẩm chơn hồn đầu kiếp hóa thành chúng sanh nơi cõi trần.

Trong vũ trụ, vị chúa cả tạo đoan ấy là Thầy hay Đức Chí Tôn nắm cả huyền vi bí mật trong tay. Thầy mới phân tánh Thầy ấy là Pháp, Pháp tức là quyền năng của Thầy thể hiện ra, cũng như lý Thái Cực ở trong cõi tịnh, rồi từ trong cõi tịnh lý Thái Cực phát động mới sanh ra Pháp. Pháp tức là những định luật chi phối cả Càn khôn, mà người nắm luật chi phối ấy là Phật Mẫu.

Pháp: theo nghĩa tổng quát, tất cả những gì có thật hay hư ảo; hữu hình hay vô hình; Tâm hay vật, đều gọi là Pháp. Nhứt Thần Phi Tướng là duy có một Chơn Linh vô hình đối với con người tuy không hình ảnh, vì nó là điểm linh nhỏ nhít, mắt thuờng không thấy, mà nó trị được cái Tâm, chính là Điểm Linh Quang của Đấng Thượng Đế ban cho để làm chủ con người đối cùng Càn Khôn Vũ trụ. Nhứt Thần Phi Tướng là Thái cực, là Đại hồn, là Khối Đại Linh Quang của Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.

Trong sự tạo hóa Càn khôn Vũ Trụ, Đấng Thượng Đế dùng luật Thương yêu, sắp đặt mọi vật trong Càn Khôn, phân chia ra nhiều thứ bực cao thấp khác nhau, chỉ duy có một Chơn Linh vô hình làm chủ được cái Tâm.

Sao gọi là Phật Mẫu?
Phật Mẫu là Mẹ, là gốc sanh ra vạn vật. Phật Mẫu nắm cơ hữu tướng. Phật Mẫu là Âm, còn Thầy là Dương. Âm Dương tương hiệp mới biến Càn khôn, cả Càn khôn ấy là Tăng, mà người nắm quyền vi chủ hàng Tăng ấy là một vị Phật cầm quyền thế giới. Phật và Pháp không biến đổi, còn vị cầm quyền thế giới là Tăng ấy thay đổi tùy theo thời kỳ.
- Tỷ như hồi Nhứt kỳ Phổ Độ cầm quyền vi chủ là Nhiên Đăng Cổ Phật.
- Nhị kỳ Phổ Độ là Thích Ca Như Lai.
- Tam kỳ Phổ Độ là Di Lạc Vương Phật.
Hết Tam kỳ Phổ Độ thì nguyên căn qui nhứt, trở lại mở Nhứt kỳ Phổ Độ sẽ có vị Phật khác ra đời cầm quyền vi chủ định luật Càn Khôn.

Lại nữa, nhìn kỹ ở đầu câu liễn có hai chữ Bát Quái, cuối câu có hai chữ Đạo Tâm, điều này đã chứng tỏ rằng Tịch Đạo Đạo Tâm đã xuất hiện.
- Đức Chí Tôn có Bát Quái (số 8).
- Đức Phật Mẫu nắm Bát Phẩm Chơn hồn (số 8)
- Người tu hành gìn Bát Chánh Đạo (số 8)

Ba lần con số 8 là 24 (3x8), là 24 chiếc thuyền Bát Nhã tức nhiên là Bát Nhã Ba La Mật của Phật dạy, là trí huệ. Người tu là mục đích đạt cho được trí Bát Nhã ấy là “nương gươm thần huệ đoạn trừ nghiệt căn” đó vậy!

Tóm lại: Tám đẳng cấp chơn hồn đều được sản xuất dưới bàn tay của Đức Phật Mẫu, nhưng vạn vật vốn hữu hình hữu hoại, nghĩa là có sinh có diệt, có sống có chết, Đạo của trời đất định vậy. Dù cho những quẻ (đại thể), những hào (tiểu thể) xuất từ Tâm Bác Ái sẽ định nền tảng cho Càn khôn để phân ra đẳng cấp, chỉ một điểm Thần duy nhứt, không hình tướng cũng định được cái Tâm (mà chủ của cái Tâm là Thượng Đế Cao Đài ngày nay vi chủ). Lại nữa ở đầu câu liễn có hai chữ Bát Quái, cuối câu có hai chữ Đạo Tâm, điều này đã chứng tỏ rằng Tịch Đạo Đạo Tâm đã xuất hiện, tất cả các Bát Quái được triển khai.

Thi văn dạy Đạo:
" NGỌC ẩn thạch kỳ ngọc tự cao,
HOÀNG thiên bất phụ chí anh hào.
GIÁNG ban phúc hạnh nhơn đồng lạc,
THẾ tạo lương phương thế cọng giao.
GIÁO hoá nhơn sanh cầu triết lý,
ĐẠO truyền thiên hạ ái đồng bào,
NAM nhơn tỉnh cảm sanh cao khí,
PHƯƠNG tiện tu Tâm kế diệt lao."

“Đạo Tâm” là “Tôn Giáo Toàn Cầu”
Con người không thể sống mà không có tôn giáo. Thời xưa cho đến thời nay, dù ở vào bất kỳ không gian hay thời gian nào, con người luôn: “Tìm kiếm chân lý, khát khao sự thiện, thèm muốn tự do, ngưỡng mộ cái đẹp, làm theo tiếng nói lương tâm.” Nỗi băn khoăn về nguồn gốc, về thiên nhiên, về hạnh phúc và khổ đau, về sinh lão bệnh tử, về thiện ác tốt xấu, về mục đích cuộc đời, về tương lai hậu vận, luôn gắn liền với thân phận làm người. Bao lâu con người còn băn khoăn thắc mắc, thì bấy lâu con người còn cần đến tôn giáo

“Đạo Tâm” hòa lẫn trong thiên nhiên, tự do không lệ thuộc, cùng phù hợp trình độ học vấn hiểu biết và hoàn cảnh của hết mọi người “Gió muốn thổi đâu thì thổi, nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi thần khí mà sinh ra thì cũng vậy.” Cũng như: “Không ai có thể vào Bạch Ngọc Cung, nếu không sinh ra bởi nước và Thần khí. Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần khí sinh ra là Thần khí.” Như vậy, cần phải có cái nhìn như thế nào về tất cả các tôn giáo hiện diện trên toàn cầu hiện nay?

Tất cả mọi tôn giáo đều cần thiết bởi vì mỗi người, mỗi dân tộc, có trình độ hiểu biết, điều kiện, hoàn cảnh và môi trường khác nhau, nên có nhu cầu và cần sự đáp ứng khác nhau. Các tôn giáo tồn tại được theo dòng thời gian là vì đáp ứng được những nhu cầu khác nhau đó. Thế giới hiện nay đang có nhiều tôn giáo và giáo phái. Điều này phản ảnh rõ nét nhân lọai có nhiều nhu cầu khác nhau. Chẳng hạn như ở Nhật chính phủ cho phép 180,000 giáo phái họat động, và ở Hoa Kỳ có lẽ có tới cả hàng ngàn giáo hội hay giáo phái khác nhau. Như thế, ước mơ về một tôn giáo hiệp nhất là chuyện không tưởng trên cõi đời này!

“Đạo Tâm” có thể giúp con người đi đến “hiệp nhất” mà không khai trừ hay lọai bỏ tôn giáo hay giáo phái mỗi người đang tham gia. “Đạo Tâm” trở thành “Tôn Giáo Toàn Cầu”cho tất cả mọi người, vì đã là người thì ai nấy đều phải
vâng theo luật thiên nhiên (Thiên Luật), là phải sống đạo làm người, cho dù người ấy có ý thức hay không, muốn hay không muốn.

Chính vì thế, tất cả mọi tổ chức tôn giáo đều là phương tiện bên ngoài, giúp cho con người thể hiện “Đạo Tâm”bên trong. Các tôn giáo có thể ví như các tấm bản đồ giúp cho việc tìm đến mục tiêu. Có những bản đồ hoàn chỉnh hướng dẫn đầy đủ mọi chi tiết, thì cũng có những bản đồ đơn sơ khiếm khuyết. Tấm bản đồ mỗi người có trong tay càng rõ ràng tỉ mỉ, càng chi tiết và trong sáng nhiều chừng nào, thì sẽ giúp người coi bản đồ không bị lầm lạc, mau đi đến đích, cùng tiết kiệm được năng lực, thời giờ và tiền của.

Nhiệm vụ của mỗi người trên trần gian là phải học cho tốt và cho thuộc bài học của riêng mình, vì “phải yêu mến Đấng Thượng Đế là Đức Chí Tôn hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và hết trí khôn.” Chính vì thế mỗi người theo tiếng lương tâm, phải nỗ lực vẽ cho được tấm bản đồ tốt nhất, chính xác nhất, theo trình độ hiểu biết và hoàn cảnh của riêng mình, để xử dụng vào mục đích: tìm về nơi Thiên Vị với Đức Chí Tôn. Khi chưa biết đường đi nước bước và chưa biết đích đến, con người cần đến bản đồ là phương tiện đi đường để tìm ra mục tiêu. Nhưng khi đã “giác ngộ” và tường tận đường đi đích đến rồi, thì tấm bản đồ không còn cần thiết nữa vì chưng sự hiểu biết thì có ngần, ơn nói tiên tri cũng có hạn. Khi cái hoàn hảo đến thì cái có ngần có hạn sẽ biến đi. Khi ngộ Đạo rồi, thì Đạo sẽ đến. Cũng như khi còn là trẻ con, nói năng như trẻ con, hiểu biết như trẻ con, suy nghĩ như trẻ con; nhưng khi đã thành người lớn, thì tôi bỏ tất cả những gì là trẻ con.”

“Kết hiệp một cách nào đó” với Đức Chí Tôn phải được hiểu là lối sống“Đạo Tâm”, là sống yêu thương bác ái, là sống đạo làm người. Điều thật sự quan trọng không phải là tôn giáo, không phải là bí tích, mà là yêu thương. “Đạo Tâm” là con đường tu thân tôn giáo tốt nhất, dễ hiểu nhất, tự do nhất, dễ được mọi người chấp nhận nhất, vì “Đạo Tâm”dễ đưa mọi người đến gần Đức Chí Tôn mà không bị lệ thuộc bởi những gì do con người lập ra. Ở đâu có yêu thương thì ở đấy có “Đạo Tâm”, ở đâu có “Đạo Tâm” thì ở đấy có Đức Chí Tôn. Con người sống là sống với tha nhân, nên những việc đạo đức người công giáo quen làm như đi thánh thất, gia nhập đòan thể, tham gia sinh hoạt trong Đạo, lãnh nhận các phép bí tích (nhập môn, tắm Thánh, hôn phối, vv.), là những việc nên làm, vì đó là cơ hội thể hiện “Đạo Tâm”, làm giàu tương quan tình người, và là môi trường tốt giúp cho “Đạo Tâm” được thực hiện cùng Đạo, với Đạo, và cho Đạo.

“Đạo Tâm” hay “đạo yêu thương” là Đạo do chính Đức Chí Tôn sáng lập thuận theo “Thiên Ý”. Vì tình yêu thương vô cùng vô tận, Đức Chí Tôn muốn dạy các
loài người “Đạo Tâm” để loài người (toàn cầu) biết “ước ao khỏang trời vô biên bất tận ngòai biển khơi”, hơn là chỉ biết co ro cúi đầu nhận lệnh. Đạo Tâm rất là mênh mông, vô giới hạn về niềm tin.

Thánh giáo của Chí Tôn dạy phải yêu thương giúp đỡ nhau (ngày 4-11-Bính Dần (8-12-1926) “Từ đây Thầy là đứng chủ trung, dìu dắt các con trong đường đạo hạnh; nhứt nhứt đều tưởng có Thầy bên các con và đợi nơi Thầy mà thôi. Ðường tuy xa, bước đường tuy gay trở, nhưng các con lướt nổi sự hiểm nguy, đặng đến cùng Thầy trong buổi chung cuộc. Môn đệ nhiều đứa lòng vẫn nhẹ tợ lông, thấy sự chi khó thì đã muốn bần dùn thối bước. Ðại Ðạo Tam Kỳ hoằng khai tại cõi Nam, đã chiếu theo Thiên Thơ hội Tam Giáo mà vớt chúng sanh thoát vòng ly khổ, thiệt thiệt hư hư, một mảy chi cũng chẳng qua là máy Thiên Cơ mà thôi. Ðạo Trời mở ra cho một nước, tất là ách nạn của nước ấy hầu mãn, phải giồi lòng trong sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm gương, soi mình hằng bữa. Phải thương yêu nhau giúp đỡ nhau dường như con một nhà, rồi cái thương yêu, sự giúp lẫn ấy sẽ dìu chung các con vào tận chốn Cực Lạc Thiêng Liêng, để tránh khỏi nơi khổ cùng tiều tụy, khá biết lấy”.

“Đấng Chí Tôn thì cao cả vĩ đại hơn “con tàu” do tay người phàm làm ra”, và “Đạo Tâm” là “đạo gốc” sinh ra mọi tôn giáo (Nhất Bản Tán Vạn Thù). Như thế, nếu như không muốn nhìn thấy thế giới loài người phải đi đến chỗ bị tận diệt do xung đột và tranh dành hơn thua, các tôn giáo có chung một sứ mệnh là phải tìm về cội nguồn (Vạn Thù Qui Nhất Bản), cùng nắm tay nhau tìm đến mục tiêu chung là truyền bá và thực hành “Đạo Tâm” hay “Chơn Pháp Đạo Tâm”, là Đạo phổ quát, là Đạo từ Trời, đang khi vẫn có thể duy trì bản sắc riêng của từng tôn giáo. Nói theo ngôn ngữ thời thượng thì “Đạo Tâm” là “Tôn Giáo Toàn Cầu” vậy.

II. Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo: Sự Khó Khăn Của Đạo Tâm
(Đức Hộ Pháp Thuyết Đạo Tại Ðền Thánh đêm 29 tháng 5, Nhâm Thân - 01/6/1952 ).
Ðêm nay Bần Ðạo giảng về sự khó khăn của Ðạo Tâm, chúng ta phải đương đầu với phàm tánh.
Tiếng “Ðạo Tâm” Bần Ðạo đã giải rõ, Tiên Nho chúng ta khi trước không có lấy tiếng chi mà tả được cái huyền bí tạo đoan nên đã dùng tiếng 'Tâm' chỉ vật vô hình ấy gọi là: "Cường danh viết Ðạo".
Mượn danh ấy để chỉ vật vô hình mà thôi, thật sự Ðức Chí Tôn đã đến giải rằng chữ “Tâm” thiên hạ đã dùng để chỉ cái nguơn linh của chúng ta đó vậy. Cái nguơn
linh là Tâm thuộc về Ðạo, là cả cơ quan tạo đoan của càn khôn vũ trụ, cái bí mật đã sanh sanh hóa hóa, vạn linh tức là nguyên linh của chúng ta, đời cũng huyền bí của càn khôn vũ trụ, hễ chúng ta đã nói rằng : Nguơn Linh của chúng ta thì hai tiếng Nguơn Linh ấy, chúng ta đã tầm hiểu do Ðấng Chí Linh sản xuất, mà xuất nơi Ðấng Chí Linh tức nhiên nó là một phần tử Vạn Linh và nó đã xuất hiện trong Chí Linh mà ra, tức nhiên cả cơ quan tạo đoan của càn khôn vũ trụ nó đã có một phần tử nơi đấy, hễ chúng ta đã nói rằng nó có thể suy đoán cơ thể chủ quyền của càn khôn vũ trụ, thì chúng ta có thể nói rằng: Nó có thể làm chủ cả cơ thể tạo đoan nơi mặt địa cầu nầy.
Càn Khôn Vũ Trụ vĩ đại thế nào thì cái nguyên linh của ta nó cũng phải đạt đặng nguơn linh nó mới chịu, vì cớ cho nên Bần Ðạo đã thuờng nói cái tương lai của loài người họ sẽ đi đến mục đích làm chủ tạo đoan càn khôn vũ trụ nơi mặt thế hữu hình nầy, hay họ sẽ làm Ông Trời tại thế nầy đó vậy. Hễ nói rằng có tánh chất càn khôn vũ trụ thì phải quảng đại bao la, có thể tạo đoan vĩ đại thế nào thì nguơn linh của chúng ta phải vĩ đại như thế ấy, càn khôn vũ trụ huyền bí thế nào, cái nguơn linh của chúng ta phải nương theo huyền bí ấy thế đấy.
Bởi vậy cho nên, nó tự biết phạm vi nó là Trời, nó thấy cả sự đau khổ của nhơn loại đã chịu, nó đã biết cái đau khổ của nó, mà nó hoài bảo cám cảnh yêu đương kính trọng cái khổ của thiên hạ, khổ của toàn thể nhơn loại, nó đã biết cái sống của nó rằng khổ, nó phải thương cái sống của thiên hạ, nó biết cái giả của nó khổ, nó phải thương cái giả của thiên hạ, nó biết bịnh của nó là khổ, nó phải thương cái bịnh của thiên hạ, nó biết cái chết của nó là khổ, nó phải thương cái chết của thiên hạ.
Cái tánh chất nguơn linh của chúng ta, tức nhiên Ðạo Tâm của chúng ta đây vậy, nó phải quyền năng chủ định của nó, nó phải có quyền năng làm chúa cái sở năng của nó, nó có thể cải được cái quyền lực của quả kiếp luân hồi, nó có thể sửa cải đặng cơ giải thoát đặng định chủ lấy nó. Ấy vậy cái Ðạo Tâm của ta là thế đấy.
Bao giờ phàm tánh là vật hình vẫn hoài bảo tánh chất thú của nó, mỗi sự chi làm cho nó phải ham muốn, vừa ý thích của nó theo cái năng lực của nó mạnh mẽ thế nào, nó thấy được sắc đẹp nó ham, nó mê. Nó nghe được một tiếng thanh tao nó biết muốn, nó biết mê mẫn, nó nghe được mùi vị thơm tho ngon ngọt nó biết ham ăn, ham ngửi, nó thấy một cái địa vị sang trọng, nó biết giục Tâm chiếm đoạt cho đặng, rồi nó dùng đủ phương pháp đòi hỏi cả tinh thần nó đem ra thi thố mâu thuẫn đoạt được sở vọng đó, nó ham muốn phú quí, giàu sang trên mặt địa cầu nầy, cái vật hình dù đã làm cho nó kích thích, nó lấy cả tinh thần làm năng lực nó
làm sao đạt đặng, có nhiều khi trước cảnh ngộ ấy chúng ta thấy Ðời Ðạo đang tương đối cùng nhau. Một bên Ðạo Tâm phải quyết thắng phàm tánh, mà hại thay! không thể dễ gì thắng.
Tiên Nho của chúng ta đã nói trước một đạo binh có thể thắng một trận giặc muôn binh kia, mà ta thắng với phàm tánh của ta rất khó, không thể đoán đặng. Nếu chúng ta thắng được phàm tánh chúng ta, cái Ðạo Tâm chúng ta đủ năng lực thắng đặng tức nhiên là cái cơ quan tự giác chúng ta đạt đặng.
Ðạt được năng lực tự giác của ta, ta mới có thể giác thiên hạ, tức nhiên thức tỉnh toàn thể thiên hạ tự giác, giác nhi giác tha là thế ấy. Phương pháp tự giác nhà Phật, Ðức Chúa Jésus Christ hay các vì Giáo Chủ đã tìm cái bí quyết ấy chuyển cả các bí mật của các nền tôn giáo. Chữ Tu ta để dấu hỏi, cái thực hành tiếng Tu của thiên hạ đã tìm cái cơ quan tự giác ấy họ đã đặng chưa, cả thảy chúng ta đều để dấu hỏi mơ hồ, nếu toàn thể thiên hạ đạt đặng cơ quan bí pháp tự giác ấy, thì Bần Ðạo dám chắc nơi thế gian nầy cả thảy thiên hạ là Thánh, mà giờ phút nầy họ phàm thì Bần Ðạo nói có một phần thiểu số đạt đặng chớ không phải cả toàn thể thiên hạ đạt đặng.
Ðức Chí Tôn đã đến, Ngài chỉ Bí Pháp có một điều là: "Các con không cần tìm kiếm triết lý cao siêu hơn nữa, các con tìm kiếm cái sống của toàn thể bạn đồng sinh của các con, rồi kỉnh trọng phụng sự cái sống ấy. Hễ các con tận Tâm phụng sự cái sống của vạn linh, thì cơ quan giải thoát của các con Thầy đã để nơi tay các con rồi đó.". (Lời thuyết Ðạo của Đức Hộ Pháp, Q5 / trang 47).
Ghi chú: như đã ghi bên trên “Tịch Đạo Thanh Hương” là thi hành “Thể Pháp” và “Tịch Đạo Đạo Tâm” là thi hành “Bí Pháp”.

Triết Lý Chữ Tâm
Tâm là vi chủ tất cả châu thân của con người, nên hư phải trái đều do nơi Tâm chủ trương sở định. Làm người biết chú trọng LươngTâm, tức là biết kỉnh thờ Trời. Có câu: "Tồn Tâm dưỡng tánh sở dĩ chi sự Thiên", gìn giữ bổn Tâm chơn tánh cho chẳng phóng túng mà làm các điều sái quấy, mới gọi là biết thờ Trời vậy.
Trời chẳng phải cao, mà cũng chẳng phải xa, chính thiệt ở nơi lòng người, lòng người có tín ngưỡng thì Trời Ðất ắt biết đó.
Khang Tiết Thiệu tiên sinh viết trong Thiên Lý:
"Phi cao diệc phi viễn đô chỉ tại nhơn Tâm,
Nhơn Tâm sanh nhứt niệm Thiên Ðịa tất giai tri".
Vậy con người chẳng nên khinh dễ bản Tâm, mà phải đắc tội với Trời.

Có câu: "Khi kỳ Tâm tất tự khi kỳ Thiên, Thiên bất khả khi hồ".
Người tu hành đắc Đạo cùng chăng, là do nơi Tâm biết giác ngộ thì được siêu thoát, còn Tâm mờ hồ si mê thì phải chịu luân hồi chuyển kiếp.

Có câu: "Vạn Sự Do Tâm Tạo". Muốn việc chi thảy đều có kết quả, là tại sự tư tưởng của lương Tâm. Hễ Tâm tư tưởng việc chánh đáng công bình, thì thân thể đặng thung dung nhàn lạc, tức là Bồng Ðảo Niết Bàn tại thế. Còn Tâm vọng động những điều vô nghĩa vô nhân gian ác bạo tàn, thì thân thể phải chịu mọi điều thảm khổ. Cho nên con người cần phải biết kỉnh trọng linh Tâm, nhứt là làm những việc gì, trước khi khởi sự thực hành ta nên trầm tỉnh xét suy cho đáo để và phải nhớ hỏi lại chủnhơn Ông (tức là Linh Tâm) thì mọi sự phải trái thiệt hư Tâm đều chỉ rõ....

Trong Tam giáo: Nho, Thích, Ðạo dạy phép tịnh luyện cũng dùng chữ Tâm.
Ðức Khổng Tử dạy tồn Tâm, yếu-dụng hai chữ Trung Thứ. Ðức Thích Ca dạy minh Tâm, thiệt hành hai chữ Từ Bi. Ðức Thái-Thượng dạy tu Tâm, chú trọng hai chữ Cảm Ứng. Bởi sáu chữ: Trung-thứ, Từ Bi, Cảm Ứng đều có trùng Tâm. Chữ Tâm là: "Tam điểm như tinh tượng, hoành câu tợ nguyệt tà, phi mao tùng thủ đắc, tố Phật giã do tha". Ba chấm như tượng hình sao, giòng ngang giống như trăng xiên, dỡ lông theo ấy đặng thành Phật cũng bởi Tâm mà nên.

"Dục tu kỳ thân giả, tiên chánh kỳ Tâm". Muốn tu thân cho nên người hiền lương Đạo đức, thì trước phải sửa lòng cho được ngay thẳng "Tương Tâm Tỉ Tâm Tiện Thị Phật Tâm". Ðem cái lòng của mình mà sánh với cái lòng của người ấy là cái lòng nhơn từ, cũng như lòng Phật vậy.
Làm người mà biết bảo thủ Lương Tâm, thì mới đủ tư cách làm người cao thượng, đời trở nên tận thiện. Còn người tu hành mà biết trau giồi Tâm Đức cho được kiên cố vững bền, thì mới đặng thành công đắc Đạo.

THÁNH GIÁO Đức Chí Tôn đã dạy:
Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi, Chẳng cần hạ giới vọng cao ngôi. Sang hèn trối kệ Tâm là quí, Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi.
Tâm ấy là Trời chớ dễ Tâm, Phải trau cho sạch điểm Lương Tâm.
Ngôi Trời Tâm ấy là nơi dựa, Mình biết Tâm, Tâm mới biết Tâm.
Ðạo cao thâm, Ðạo cao thâm, Cao bất cao, thâm bất thâm. Cao khả xạ hề thâm khả điếu, Cao thâm vạn sự tại nhơn Tâm.
Tâm an mao ốc ổn, Tánh định thể căng hương.
Trong Nhịp Cầu Giáo Lý, có viết: "Chữ Tâm là chốn Cao Đài" có nghĩa là Thượng Đế ngự ở Nội Tâm mổi chúng sinh.

Đức Đông Phương Lão Tổ cũng dạy:
“Tâm mình là điện thờ Thầy, Giữ cho thanh bạch hằng ngày kỉnh tin.”
Đức Chí Tôn đã có lần hỏi các con cái của Ngài: “Thầy những mong ở một cõi trong sạch nhất nơi trần gian, Thầy chứng vào cõi đó, Thầy ngự vào đó để cứu rỗi con cái của Thầy trong kỳ mạt kiếp. Các con ôi! Cái cõi tịnh khiết đó ở đâu hởi các con? ”. Ai cũng hiểu đó là nơi Tâm. Còn “Không phân tả hữu là ngai Thượng Hoàng” dạy chúng ta về Tâm Vô Phân Biệt hay Thiên Địa Chi Tâm: “Lòng Tạo hóa từ bi bao trùm vạn vật, mở lượng khoan dung, dang tay từ ái đón rước tất cả sanh linh. Đứa phải, đứa trái cũng là con cái của Thầy.” (Đức Chí Tôn).

Đây là tinh thần Vô Ngã, Phá Chấp triệt để hay Đắc Nhất. Xem tất cả là Một trong cái toàn thể bao la. Để tìm thấy mình trong Thượng Đế, Đấng Cao Đài, diệt cái tiểu ngã (tiểu hồn) cái Ta hạn hẹp để hòa nhập vào Đại Ngã bao la (Đại Hồn của Vũ Trụ, Vô Vi). Thầy có dạy: “Sự Đắc Nhất đối với người tu theo Đại Đạo của Thầy là một then chốt quan trọng ở mục tiêu (…). Nếu không được Một chẳng những các con cứ quanh quẩn bên ngoài vòng Đạo lý mà phải chịu trong sự vô minh nê chấp riêng rẽ ở cá nhân hay đoàn thể Tông phái của mình.”
Và Đức Thầy cũng dạy: “Tinh Thần Vô Ngã, Phá Chấp triệt để hay sự Đắc Nhất là chìa khóa mở cửa Đạo, hiệp với Đạo tức hiệp với Thầy vậy !”

Sự phá chấp, vô ngã, đắc Nhất là bí quyết của Thánh Hiền để đạt Thời Trung thì chỉ cần nhích chân là đến Niết Bàn:
"Huyền môn ai hỡi có cùng không ? Vượt đến tìm ra Đấng Chủ Ông; Phá chấp, trừ mê, lìa vọng ngã, Nhích chân liền đến cõi cùng không !

Khi nói “Đạo tại Tâm”, chúng ta thuờng hiểu theo ý nghĩa giữ Đạo do tự trong lòng, chứ không hệ tại ở những việc làm bề ngoài. Chúng ta cũng thuờng kết án những người ‘giữ Đạo bề ngoài’ mà Tâm hồn thì trống rỗng, không thành thật; đó là “giả hình, giả tạo”. Thật ra, “Đạo tại Tâm” không phải chỉ giữ ở trong lòng mà không cần giữ các lề luật bên ngoài, dù đó là luật Đạo hay luật đời; nhưng “Đạo tại Tâm”“sống Đạo và thực hành các giới răn của Thượng Đế là Đức Chí Tôn với cả tấm lòng của chúng ta, chứ không phải chỉ để phô trương bề ngoài. Sống Đạo thực sự là yêu mến và tuân giữ các giới răn trong Pháp Chánh Truyền, luật Đạo và lời dạy trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển” của Đức Chí Tôn, và thực thi lòng yêu mến đó bằng cách yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật.

Đạo Tâm thể hiện bằng hành động kính nhân sanh, kính Thánh, Thần, Tiên, Phật, kính các Đấng Thiêng ở Vô Vi, Đức Chí Tôn, muốn thực hành Đạo pháp, muốn vâng lời Đức Chí Tôn dạy, muốn ủng hộ hoạt động trẽn đường Đạo v.v... Nếu ta mất Đạo Tâm thì đời ta cũng sẽ mất theo, trôi lăn vào bóng tối. Vì vậy nhiệm vụ của các vị tin Đạo Tâm là tu hành hướng về sự giác ngộ giải thoát; đồng thời giáo hóa nhân sanh, làm thế nào để họ tăng trưởng được Đạo Tâm từng ngày. Muốn hại ai, phá ai thì ta làm sao cho người đó mất Đạo Tâm, tức là đời người đó coi như vất đi. Ngược lại, ta muốn cứu giúp ai thì làm sao người đó có được Đạo Tâm, tăng trưởng Đạo Tâm, tức là ta cho họ tất cả mọi điều tốt đẹp thật sự. Còn giúp cái gì ngoài Đạo Tâm thì rồi cũng hết, cũng qua… Hiểu Đạo Tâm quý như vậy, ta phải giữ gìn cho chính mình và cho mọi người. Đó là ta làm được những công đức rất lớn không gì so sánh được: con đường Đạo Tâm.

Không có cái phước nào bằng giữ gìn, bảo vệ Đạo Tâm cho nhau. Đó mới chính là công đức, là món quà ta dâng và cúng lên các Đấng Thiêng Liêng, Đấng Cao Đài suốt đời của ta. Còn không có công đức giữ gìn Đạo Tâm cho mọi người thì mọi công đức khác coi vậy chứ là tạm bợ.

Theo nghĩa tổng quát, tất cả những gì có thật hay hư ảo; hữu hình hay vô hình; Tâm hay vật, đều gọi là Pháp. Nhứt Thần phi tướng là duy có một Chơn linh vô hình đối với con người tuy không hình ảnh, vì nó là điểm linh nhỏ nhít, mắt thuờng không thấy, mà nó trị được cái Tâm, chính là Điểm Linh Quang của Đấng Thượng Đế, Đấng Chí Tôn ban cho để làm chủ con người đối cùng Càn Khôn Vũ Trụ. Nhứt Thần Phi Tướng là Thái Cực, là Đại Hồn, là Khối Đại Linh Quang của Thượng Đế.
Trong sự tạo hóa Càn Khôn Vũ Trụ, Đấng Chí Tôn (Thượng Đế) dùng luật Thương yêu, sắp đặt mọi vật trong Càn Khôn, phân chia ra nhiều thứ bực cao thấp khác nhau, chỉ duy có một Chơn Linh Vô Hình làm chủ được cái Tâm đó là Đấng Chí Tôn .

Trong Kinh Đại Thừa Chơn Giáo, Đức Huyền Khung Cao Thượng Đế, Ngọc Hoàng Đại Thiên Tôn, “Chúa Tể Càn Khôn Võ Trụ, thống ngự vạn vật, vi Thánh, Thần, Tiên, Phật chi
Chủ”, có phán rằng:
“Tam Giáo thất vì siêu việt quá,
Người tầm chẳng thấu hiểu lầm sai.”

Bởi thế nên Đức Thượng Đế mới dùng câu văn rất bình dị để minh định Đạo Lý một cách rành rõ như vầy:
“Đại Thừa cắt ái ly gia,
Ly gia chẳng phải nhà đi đâu;
…………………
Chớ nên ẩn núp núi xa,
Xưa nay các Đạo hiểu ra rất lầm!
Đạo đâu ? Đạo ở nơi TÂM,
Thì đâu có phải kiếm tầm đâu xa!”

Còn chư vị Phật Tiên Thánh Thần cũng chẳng đòi ngự nơi đền đài đồ sộ hay am tự nguy nga hoặc Thánh Đường tráng lệ cùng đình miểu lòe loẹt, làm cho Nhơn Sanh quá hao công tốn của mà, thật sự, các Đấng chỉ thích ngồi nơi Tâm của chúng ta mà thôi.

Đức Diêu Trì Kim Mẫu có phán dạy một vị Thiên Phong Chức Sắc như sau: “Con nên nhớ rằng cõi Trần Gian trọng trược, chỉ có Tâm của con là nơi các Đấng Thiêng Liêng ngự mà thôi”.

Đương buổi sơ khai Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Cao Đài Thượng Đế cũng có phán:
“ Bạch Ngọc từ xưa đã ngự rồi!
Chẳng cần Hạ Giới vọng cao ngôi;
Sang hèn trối kệ, TÂM là quí,
TÂM ấy tòa sen của LÃO ngồi!”

Tuy nhiên, Thiêng Liêng không phủ nhận sự cần ích của thánh thất, tịnh thất, chùa chiền hoặc các hình thức thờ phượng khác ... "Các ngôi Thánh Thất, Tịnh Thất được xây dựng lên để thể hiện lòng chiêm ngưỡng tối cao của các con và làm nơi Hội Đồng để biểu dương Chánh Pháp."

“Thánh Thất hay Tịnh Thất đều là một nơi để thể hiện Tình Thương của Đấng Chí Tôn đối với Vạn Linh Nhân Sanh nơi cõi Trần, cũng là nơi gặp gỡ của các Bực Thánh Linh đã có sứ mạng đến Trần Gian độ Đời Hành Đạo và cũng là nơi để tất cả đều đến tìm Chơn Lý trong sự sáng suốt thiêng liêng của mỗi Nhơn Sanh.”
“Đạo là Vô Vi, là Đạo Tâm thực hành, nhưng đối với người Thế tục, cần phải có hình thức để đánh vào thị giác tỏ ra sự thành kính.”

Đức Di Lạc Phật Vương cũng có diễn dụ: “Tuy các ngôi thờ phượng đó là mặt hữu hình thể chất, nhưng cũng cần là cần ở phương diện tựa vào cái giả tướng đó để đánh vào thị nhãn của Chúng Sanh ưa thích về hình tướng: do đó cũng hấp dẫn họ lại gần nơi thiền tự. Đó là những trình độ hiểu Đạo thô sơ.” Điều quan trọng hơn là ở Nội Tâm hay Đạo tại Tâm …

Cúng lạy pho tượng tạm đặt tên Bần Tăng để thể hiện lòng sùng kính một Đấng Từ Bi Cứu Thế, nhưng cần phải làm và làm cho nhiều theo Đức Độ và Giáo Lý đã chỉ truyền mới mong tự cứu rỗi Thân Tâm Đạo Tâm, chớ có chú trọng về mặt hình thức, lễ bái, cầu xin, mà thiếu về phần Đạo Tâm, tự tu, tự cứu, Bần Tăng cũng không làm sao cứu rỗi giùm!”

Đức Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng:
“Điều tu niệm chỉ quanh, hiểu tắt,
Có chi hơn dìu dắt lấy Tâm.”

Bởi Đạo rất huyền bí cao siêu, ít người hiểu nổi, nên các Đấng Giáo Chủ xưa kia phải thuyết Pháp bằng lối “chỉ quanh” cho Nhơn Sanh mới có thể lãnh hội được. Vì vậy mà Kinh Sách dạy Đạo, tự cổ cập kim, kể ra thật là vô số. Nhưng nếu “hiểu tắt” thì bao nhiêu Kinh Điển cũng chỉ gom lại có một chữ mà thôi. Chữ ấy là Chữ Tâm.

Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế có phán nhắc: “Các con nhớ cho kỹ, từ xưa đến nay, những Bực Giáng Sanh Cứu Thế thảy đều dạy Đời có một chữ Tâm là đủ”.
Vâng, có một Chữ Tâm là đủ. Đành rằng Kinh Sách đã dạy về Chữ Tâm rất nhiều rồi, nhưng bao nhiêu Kinh, Điển, Thi, Thơ, của Phật, Tiên, Thánh, Hiền lưu để tự ngàn xưa đều có luận về cái Tâm, mà vẫn giải chưa hết nghĩa của nó.
Đức Di Lạc có trần thuyết: “Tâm! Từ xưa đến nay, biết muôn ngàn Kinh Sách giải không nổi Chữ Tâm!”

Vì vậy nên Chữ Tâm cần phải được giảng đi giảng lại mãi mãi, mỗi lần dưới một khía cạnh khác nhau, với lối trình bày riêng biệt cho hợp thời, hợp cảnh, hợp trí của mỗi nơi để gi p người Đời cùng bạn Đạo triệt hiểu thiên hình vạn trạng của nó.

Bây giờ bước lên Thượng Thừa để nói sơ qua cái Tâm trên phương diện biến dịch của Chơn Đạo. Trong Bát Quái Hậu Thiên (Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài), cái Tâm thuộc cung Ly ở hướng Nam. Người Đạo Sĩ luyện cái Tâm (Đạo Tâm) đễ làm phép Chiết Khảm Điền Ly, cho Lạc Thơ trở lại Hà Đồ, hầu phản bổn huờn nguyên, qui hồi cựu vị, thành Tiên tác Phật.

Về mặt Đời, kẻ Tu Nhập Thế gọi là Tu Phước, Tu Nhơn Đạo, Tu Hậu Thiên, phải giữ cái Tâm cho Thanh Cao.
Về mặt Đạo, người Tu Xuất Thế hay là Tu Huệ, Tu Thiên Đạo, Tu Tiên Thiên, cần luyện cái Tâm cho an tịnh (Đạo Tâm).

Kẻ Tu Nhập Thế phải giữ cái Tâm cho thanh cao đối với đồng bào, Nhân Loại, để thể hiện Tình Thương của Đấng Chí Tôn, để cố gắng “làm theo đường lối của Khổng Thánh là cách vật trí tri, thành ý, chánh Tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.” Hầu an bang tế thế, nhằm kiến tạo một Xã Hội Công Bình, Bác Ái, Từ Bi, một “Thế Giới Đại Đồng” hay, hơn nữa, một Đời mà Đức Cao Đài Thượng Đế gọi là Tân Nguơn Thánh Đức, để lập công xây nền âm chất đặng trước là không uổng một kiếp làm người trong Luật Tiến Hóa của vạn vật, sau là được hưởng phước trong kiếp lai sanh.

“Luật Trời Đất, Âm Dương phối ngẫu. Thiên Đạo, Nhơn Đạo, hai đường đã song song. Tuy nhiên, nếu các con muốn trở nên Thánh Hiền, Tiên, Phật thì phải xử thế vào mức độ thanh cao, rèn luyện Tâm Tánh cho đúng Nghĩa, Nhơn, Đạo Lý, thì Cơ Luân Chuyển trường tồn âu cũng trong đức háo sanh, mà con không đến nỗi phải vào phong đô ngục thất.”
Con nằm lòng bài nầy! Khi ngồi Tịnh, con niệm câu nầy: Xin Đại Từ Phụ bố hồng ân cho con trẻ được Định Thần, được Minh Tâm Kiến Tánh, sau đắc Nhị Xác Thân.

Đây là bài học nghe các con! Mỗi con cần học thuộc lòng, dầu chưa nhập Tịnh.”
“Ngôi ị của con ấy CHỮ TÂM,
Tâm con toàn thiện vị ngôi tầm;
Tâm còn Lục Dục ương mang đấy,
Tâm cố vững bền hưởng đức âm.”
Hay:
“Tiên phàm nào phải cách xa,
Thánh phàm đâu c hác là ao nhiêu;
Cách vì do bởi CHỮ TÂM,
Chữ Tâm, hiểu đặng Tiền phàm một bên.

Có thể nói suốt trong dòng thời gian xưa nay, vấn đề “Đạo Tâm” luôn được nhiều người nhắc tới như một sự “cảnh tỉnh” về Đạo, với nỗi suy tư khác nhau, tùy theo góc độ nhìn nhận và hiểu biết nơi mỗi người, nhiều khi vô tình đi đến sự lệch lạc mà không biết. Chính vì vậy mới có tình trạng tự mâu thuẫn trong lý do của những người ủng hộ “Đạo tại Tâm”, cũng như nơi những người đả phá nó. Nếu sự nhận thức về Đạo mà thiếu thành Tâm thiện chí thì dễ dẫn đến cực đoan, đưa đến những ngõ ngách, sinh ra sự cố chấp vô lối, như “bốn người mù đi xem voi” vậy.

Như đã trình bày, Đạo và Tâm gắn liền với nhau như hình với bóng, như xác với hồn chứ không thể tách biệt. Nhưng cái Tâm () mới là nơi ở (tại - ) của cái Đạo. Mà Đạo là sống, là hành, là thi thố ra bên ngoài, gọi là hành Đạo (hành giả).
Còn theo sự nhận thức bình dị nhất, Đạo là vấn đề Đạo đức, còn Tâm là lòng dạ, nó được thể hiện trong cuộc sống. Nó cũng đúng, vẫn thuận hợp và có ý nghĩa với 3 Chữ “Đạo tại Tâm”, vì phải có lòng thành mới làm việc Đạo đức được.

Con người theo Đạo dễ lâm vào một số trường hợp, như giữ Đạo theo kiểu giả hình, kiêu kỳ, vụ lợi, hình thức, lập dị, đồng bóng… Vì vậy dễ bị người khác chống đối, mà cách lên án thông thuờng nhất là nại vào câu nói “Đạo tại Tâm” để phản kháng. Cũng có những người lợi dụng câu này để che lấp, bào chữa cho những cái “vô Tâm” và bê bối trong việc sống và giữ Đạo.

Thực ra ít có người xuyên tạc hay hiểu lầm câu “Đạo tại Tâm” một cách thành Tâm, thành thật với bản thân. Vì một khi có sự thành Tâm thành ý tìm Đạo thì tự nhiên trong Tâm của con người sẽ thấy cái Đạo ló dạng, và họ sẽ không ngần ngại
thi hành Đạo đã chiếu soi trong Tâm của họ. Đây là sự bắt đầu nhận thức về Đạo Tâm.

Như vậy, “Đạo tại Tâm” đã được trình bày khái quát trên cơ sở từ nguồn gốc của nó (tam giáo), cũng như xem xét qua mạc khải trong Thánh Kinh của Kytô giáo. Vấn đề đã tạm ổn trong sự nhận thức và hiểu biết hạn hẹp về “Đạo và Tâm”. Đây là vấn đề mà con người khó thấu triệt, dành cho các vị đã đắc Đạo và những thánh nhân mới có thể quán thông được nó. Tuy vậy ai cũng có thể dùng cái Tâm của mình để gặp được Đạo, tùy theo cơ duyên tu dưỡng nơi mỗi người để được nhiều hay ít. Như trong Cao Đài là tùy thuộc vào niềm tin nơi Đức Chí Tôn và các đấng Thiêng Liêng, với điều kiện là phải thành Tâm với chính mình để tìm Đạo, sẽ gặp được hình ảnh của Đức Chí Tôn ngự trong Tâm chính mình.

Đức Hộ Pháp (Ất-Sửu - 1937) dạy: “Chiếu theo ý nghĩa chữ ĐẠO là một định từ để chỉ tánh đức của loài người đối với Đức Chí Linh cùng Càn Khôn Vũ Trụ”.
Loài người bao giờ cũng chủ TÂM tìm tòi, kiếm cái nguyên do lai lịch của mình hầu định phận đối cùng tạo đoan vạn vật. Muốn biết mình, con người phải lột cả sự bí mật huyền vi của vạn vật hữu sanh tại thế gọi là chúng sanh đặng so sánh. Thấy đặng cái sống của vạn vật mới biết đặng cái sống của mình. Thấy đặng cái năng tri năng giác của chúng sanh, mới tìm đặng Tâm tánh của mình là báu. Thấu đáo đặng Tâm linh mới biết thiên lương do chí thiện. Khi hiểu cái Thiên lương ấy là nhiệm vụ huyền bí, tả không cùng, hiểu không tột, chẳng biết lời chi mà đặt để, nên định phỏng danh là ĐẠO () Vì cớ cho nên lấy chữ TÂM () làm mục đích. Các Thánh nhơn xưa thuờng đem cái triết lý Đạo Tâm hiệp làm môi giới, nên dầu cho các vị Giáo chủ tuy mỗi Đấng đều có tư tưởng đặc sắc, nên triết lý cao thấp không chừng nhưng cũng phải buộc lấy chữ TÂM làm nguồn cội.

Nếu luận hai chữ CHỦ TÂM thì ta cũng thấy rõ rằng: Một vấn đề thuyết không cùng, biện không tận, vì nó quảng đại bao la, vô biên vô giới, bởi nó do Chí linh là Trời mà sản xuất. Hễ càn khôn vũ trụ này vĩ đại bao nhiêu và cơ bí mât tạo đoan bao nhiêu, thì nhơn Tâm đều hưởng ứng bấy nhiêu. Dầu cho kiến thức đặng, hay là còn ẩn vi mầu nhiệm mà lương Tâm của con người đã hưởng ứng, đều cho mọi trí não, mọi tinh thần tự hiểu rằng: Sự thấu đáo chữ ĐẠO vô cùng, vô tận, muôn phần loài người chưa định đặng một, vì vậy các nhà triết học Đạo đức tinh thần cho Nhơn Tâm tức Thiện Tâm cũng đặng.
Tâm ấy là gì? Ấy cũng là một định từ để chỉ cái hình bóng trí thức tinh thần, Đạo gọi là Nhứt Điểm Linh Quang chiếu giám.
Đức Chúa Jésus khi thọ pháp Giải oan nơi Jourdain thì Điểm Linh Quang ấy giáng như hình khối lửa.
Đức Lão Tử khi thiền định tại Thơ viện nhà Châu, thì Điểm Linh Quang ấy giáng như hình sấm sét.
Đức Khổng Phu Tử khi vấn đáp với Thần Đồng Hạng Thác thì Điểm Linh Quang ấy giáng như hình sợ sệt.
Như Abraham và Moise thấy Đức Chúa Trời trong Đạo hào quang sáng suốt.
Như Đức Lão Tử, Nguơn Thỉ Thiên Tôn Thông Thiên Giáo chủ thấy Hồng Quân Lão Tổ trong năm sắc tường vân.

Như Phục Hi đã thấy Long mã hóa Hà đồ”
Nhứt Điểm Linh Quang ấy vẫn nhiều hình dáng, vẽ không nên hình, tả không nên tướng.
Ấy là một huyền bí vô chừng mà các nhà đạo đức từ thượng cổ đến chừ đã để tâm nghiên cứu tìm tàng, đôi phen phải lặn suối trèo non, chun trong hang sâu, vào nơi vực thẳm.
Bởi cái chí hướng của loài người bị quyền năng của Nhứt Điểm Linh Quang thôi thúc, nên trí não tinh thần cũng xu hướng theo sự bí mật ẩn vi của quyền năng Tạo đoan còn chất chứa.
Hễ có tìm thì có biết, hễ biết lại còn phải biết nữa, càng biết lại càng giấu, bởi sự hay biết của tánh đức loài người chưa hề thấu đáo đặng sự bí mật Tạo đoan cho cùng tận, tức gọi là “Tầm Đạo”. Hễ càng tìm càng dốt, hễ gọi biết lại là ngu, vì chưa có một mắt phàm nhơn nào tại thế nầy mà Đức Chí Tôn đã giao trọn huyền vi bí mật”, v.v...
(Đức Hộ Pháp ngày: 15-7 Ất-Sửu – 1937).

III. Tịch Đạo Trong Đạo Cao Đài
Tịch: sổ sách biên chép. Đạo: chỉ Đạo Cao Đài.
Tịch Đạo là sổ bộ Chức sắc của Đạo Cao Đài với Thánh danh đặc biệt biểu thị thời kỳ phổ độ và mở mang Đạo pháp của một đời Giáo Tông.

Như đời Giáo Tông thứ nhứt của Đạo Cao Đài thì Tịch Đạo là THANH HƯƠNG: Chức sắc Cửu Trùng Đài (CTĐ) nam phái lấy chữ Thanh, Chức sắc Cửu Trùng Đài nữ phái lấy chữ Hương, làm Thánh danh.
Qua đời Giáo Tông thứ nhì thì Tịch Đạo của Chức sắc Cửu Trùng Đài là ĐẠO TÂM: Chức sắc nam phái lấy chữ Đạo làm Thánh danh và Chức sắc nữ phái lấy chữ Tâm làm Thánh danh.

Những chữ dùng làm Tịch Đạo do Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho trong hai bài thi tứ tuyệt sau đây:
Bài Thi Tịch Đạo Nam Phái (Tịch: Thanh Đạo)
Đức Chí Tôn giáng cơ tại Vĩnh Nguyên Tự (Cần Giuộc) lúc 12 giờ khuya ngày mùng 1-7-Bính Dần (dl 8-8-1926) cho bài thi Tịch Đạo nam phái: bên Nam, tịch Đạo là Thanh Đạo

TNHT: "Các con nghe Tịch Đạo: (Đây là Thánh Ngôn trang 29 Thầy cho tịch Đạo):
" Thanh Đạo tam khai thất ức niên,
Thọ như địa quyển thạnh hòa Thiên.
Vô hư qui phục nhơn sanh hí,
Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên."

THANH là tịch các con. Vậy thì: Thanh là tịch các con, vậy thì Tương là Thượng Tương Thanh, Thơ là Thái Thơ Thanh, Kim là Thượng Kim Thanh phải dùng tên ấy mà thề.

Giải nghĩa:
Câu 1: Thanh Đạo tam khai thất ức niên:
Thanh: trong sạch. Đạo: tôn giáo. Tam khai: mở ra lần thứ ba. Thất ức niên: 700 ngàn năm.

C.1: Nền Đạo trong sạch của Đức Chí Tôn mở ra lần thứ ba, kéo dài được 700 ngàn năm.
Câu 2: Thọ như địa quyển thạnh hòa Thiên:

Thọ: sống lâu. Như: giống như. Địa: đất. Quyển: Khuyên: vòng tròn. Địa quyển: trái đất tròn. Thạnh: thịnh vượng. Hòa: cùng nhau. Thiên: Trời.
C.2: Lâu dài như trái đất tròn, thạnh vượng cùng Trời.
Câu 3: Vô hư qui phục nhơn sanh hí:

Vô hư: Hư vô, chỉ Đức Chí Tôn trong cõi Hư vô. Qui phục: chịu theo về. Khí: phần vô hình của con người, ý nói linh hồn. Nhơn sanh khí: linh hồn của nhơn sanh, đó cũng là Vạn linh.
C.3: Đức Chí Tôn qui phục Vạn linh.
Câu 4: Tạo vạn cổ đàn chiếu Phật duyên:

Tạo: làm ra. Vạn cổ: muôn xưa, ngàn xưa. Đàn: nơi cúng tế. Chiếu: soi rọi. Phật duyên: có mối dây ràng buộc với Phật, tức là những người có duyên với việc tu hành.
C.4: Tạo ra từ ngàn xưa đàn cúng tế để soi sáng người có duyên với Phật.

Trong ngày Khai Đạo tại Thánh Thất Từ Lâm Tự (Chùa Gò Kén) Tây Ninh, đêm 14-10-Bính Dần (dl 18-11-1926), Đức Chí Tôn giáng cơ ban cho Tịch Đạo của Chức sắc Cửu Trùng Đài (CTĐ) nữ phái:

Bài Thi Tịch Đạo Nữ Phái (Tịch: Hương Tâm)
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: "Nữ phái nghe Thầy khai Tịch Đạo: bên Nữ, tịch Đạo là Hương Tâm:
" Hương Tâm nhứt phiến cận càn khôn,
Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn.
Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng,
Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn."

Lâm thị: Phong vi Giáo Sư, lấy Thiên ân là Hương Thanh.
Ca thị: Phong vi Phó Giáo Sư, lấy Thiên ân là Hương Thế.
Đường thị: đã thọ mạng Thiên sai, cứ giữ địa vị mình.
Còn cả chư ái nữ, Thầy sẽ lập Đại hội cho đủ mấy vị rồi sẽ phong sắc một lượt. Thầy ban ơn cho các con, cứ hành lễ theo lời dặn."

Giải nghĩa:
Câu 1: Hương Tâm nhứt phiến cận càn khôn:
Hương: thơm. Hương Tâm: lòng thơm, tức là lòng tốt đẹp. Nhứt phiến: một tấm. Cận: gần. Càn khôn: Trời Đất.
C.1: Một tấm lòng thơm gần Trời Đất. Ý nói: Tấm lòng tốt đẹp thì gần với Thượng Đế.
Câu 2: Huệ đức tu chơn độ dẫn hồn:

Huệ: trí huệ, sự sáng suốt thông hiểu sự lý do sự giác ngộ tu hành. Huệ đức: cái đức sáng suốt. Tu chơn: tu hành chơn thật, không vì danh lợi, cốt giải thoát khỏi luân hồi, đoạt được ngôi vị thiêng liêng. Độ dẫn: cứu giúp và dẫn dắt. Hồn: linh hồn.
C.2: Cái đức sáng suốt do sự tu hành chơn thật độ dẫn được linh hồn.
Câu 3: Nhứt niệm Quan Âm thùy bảo mạng:

Nhứt niệm: một niệm, một tưởng. Quan Âm: Quan Thế Âm Bồ Tát. Nhứt niệm Quan Âm: một lần niệm danh hiệu Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Thùy: rủ xuống. Bảo mạng: gìn giữ mạng sống.
C.3: Một lần niệm danh hiệu Đức Quan Âm Bồ Tát thì được Bồ Tát rủ lòng thương xót bảo vệ mạng sống.
Câu 4: Thiên niên đẳng phái thủ sanh tồn:

Thiên niên: ngàn năm. Đẳng: bằng. Đẳng phái: phái bình đẳng tức là nữ phái, bình đẳng với nam phái. Thủ: gìn giữ. Sanh tồn: sống còn.
C.4: Ngàn năm, nữ phái gìn giữ sự sanh tồn của nhơn loại, tức là giữ gìn nòi giống của nhơn loại. (trích : Cao Đài Từ Điển)

Đương đời này của Đức Lý Giáo Tông, thì Nam lấy chữ "THANH" Nữ lấy chữ "HƯƠNG" làm tịch, tức là cả Đạo Hữu Nam Nữ từ Tín Đồ chí Thiên Phong đều trong đời Đức Lý Giáo Tông hành chánh đứng vào tịch Thanh, Hương. Qua đời Giáo Tông khác thì Nam sẽ lấy chữ "Đạo" Nữ chữ "Tâm". Rồi cả chư Đạo Hữu Nam Nữ sẽ lấy Tịch: Đạo, Tâm; như vậy nối truyền hoài cho hết Tịch Đạo thì Thầy sẽ giáng cơ cho Tịch Đạo khác nữa. Lớn nhỏ, sau trước nhờ chữ Tịch Đạo ấy mà phân biệt (Hay).

Có kẻ hỏi: thí dụ như đời Giáo Tông, thì Tịch Đạo của chư Đạo Hữu Nam Nữ đời trước, dầu Chức Sắc hay Tín Đồ cũng vậy, có phải buộc thay đổi Tịch Đạo không?
Ta nói: Không, vì chính mình Giáo Tông kế vị cũng phải giữ Tịch Đạo trước, kỳ dư những Tín Đồ của đời Ngài độ rỗi, tức là chi tộc của Ngài, mới đặng thay đổi mà thôi, còn những Chức Sắc cùng là Tín Đồ của Giáo Tông đời trước còn sót lại thì thuộc về chi tộc của Giáo Tông ấy không đặng phép thay đổi Tịch. (Hay)

Tỷ như có Tân Giáo Tông sẽ lên kế vị cho Lý Giáo Tông thì cả Tín Đồ Nam Nữ mới nhập môn đều phải lấy Tịch "Đạo Tâm", dầu trong hàng Tín Đồ ấy sẽ có một chơn linh xứng đáng địa vị Chánh Phối Sư, mà Thầy giáng cơ phong chức đi nữa, thì cũng chịu Tịch Đạo Tâm, như các Tín Đồ khác, chớ Chức Sắc và Tín Đồ trong đời Lý Giáo Tông còn lại thì giữ Tịch "Thanh Hương" mà thôi, không đặng thay đổi.

Như vậy, hiện đời Đức Lý Đại Tiên là Giáo Tông thì tịch Đạo là Thanh Hương. Nếu sau nầy có vị Giáo Tông thứ nhì thì phải đổi tịch Đạo là Đạo Tâm. Thời Giáo Tông thứ 3 Đức Chí Tôn sẽ giáng cơ cho sau.

Tịch Đạo Thanh Hương và Đạo Tâm.
A. Tịch Đạo Thanh Hương .
Đời Đường Ngưu có ông Hồng Bạch Thanh đi khai mở đất hoang. Khi đốn cây rừng, cất tranh ông bảo dân chúng cất nhà ngay hàng thẳng lối. Hễ được 12 cái nhà thì ông đặt người coi sóc sự sống cho 12 gia đình ấy cho đặng đầy đủ, rối đốc thúc dân chúng khai phá nữa. Ông làm như thế cả đời ông nên được nhiều làng liên tiếp nhau, có qui củ lớp lan sống sung túc an cư lạc nghiệp. Khi ông chết, ông trối lại với con là Hồng Bạch Hương phải nối chí ông mà lập thời thánh đức.

Hồng Bạch Hương vâng lời cha cũng làm như vậy nên cả nước đều nhờ chánh sách thập nhị gia liên bảo mà được ấm no. Người không than van, không kiện thưa, không hưởng lộc vua, chỉ hưởng lộc tạo hóa nên nhân dân thái bình an cư lạc nghiệp. Đó là đời Nghiêu Thuấn áp dụng chánh sách của Hồng Bạch Thanh và Hồng Bạch Hương mà nhà khỏi đóng cửa, của rơi không người lượm.

Có lẽ Đức Chí Tôn muốn chúng ta được như vậy nên chọn tịch Đạo Thanh Hương hầu nhắc tích xưa.

Bởi cớ phần Hành Thiện, Đức Hộ Pháp buộc phải nuôi 12 gia tộc. Sau nầy vì chiến tranh liên tiếp, Ngài cho Hành Thiện coi sóc sự cúng kiến và giúp đỡ 12 gia đình miễn sao không có người đói khó, thống khổ vật chất hay Tâm hồn. Nếu đặng đủ đầy công quả, nhơn sanh chứng nhận thì được thăng Giáo Thiện.

Thánh Ngôn dạy: “Thời giả dối đã qua, thời kỳ chân thật đã đến, chẳng cần chi con lo lập Thánh Thất của Thầy và sùng tu Phật tượng chi hết! Con hiểu bổn nguyên BẢO SANH (bảo vệ sự sống cho muôn loài) là bổn nguyên Thánh Chất của Thầy. Thầy khuyên con để dạ lo cho NHƠN SANH (bảo vệ sự sống của con người) mà thôi, còn phần Hồn để cho Thầy!”
Trong kinh Đại Tường:
" Tạo Đời cải dữ ra hiền!
BẢO SANH nắm giữ, diệu huyền Chí Tôn! "

Ý nghĩa hai chữ THANH HƯƠNG: Thanh là âm thanh. Hương là hương sắc. Cái gì có âm thanh và hương sắc? Chỉ có vật chất hữu hình, hữu tướng mới có âm thanh và sắc tướng mà thôi!
Hai chữ Thanh Hương này phát xuất từ đôi câu đối:
- THANH sử ký danh lưu ạn đại,
- HƯƠNG hoa truy sùng ái thiên thu.
Có nghĩa là: - Bộ Thanh sử ghi tên người trong sạch, tên tuổi còn lưu lại muôn đời.
- Đền hương lửa truyền nối, thờ lạy người danh tiếng.

Giải riêng từ chữ: THANH là màu xanh tươi, tượng sức sống vươn lên, chỉ sự thanh khiết, trong sạch. Hoặc viết là có bộ thủy. HƯƠNG là mùi thơm tho.
Chiết tự hai chữ Thanh Hương:
- THANH chiết tự: trên là Chủ dưới là Nguyệt
- HƯƠNG chiết tự: trên là Hòa dưới là Nhựt
Nếu lấy hai chữ của phần trên đọc là Chủ Hòa
Nếu lấy hai chữ dưới hiệp lại thành ra chữ Minh có nghĩa là ghép hai chữ Nhựt Nguyệt lại là chữ Minh.

Thánh ý Thầy muốn rằng trong thời buổi ban sơ này toàn Đạo Nam Nữ phải biết trên HÒA dưới HIỆP.
Chữ Thanh viết có ba chấm thủy nghĩa là trong sạch. Ba chấm thủy tượng trưng Tinh - Khí -Thần hiệp.
Bài thơ chiết tự chữ THANH HƯƠNG:
"Dụng tiếng Thanh Hương Tịch Đạo nhà,
Giáo Tông đổi mới ĐẠO TÂM ra.
Phân THANH () xuất ngoại Tinh- Thần- Khí,
Hòa hiệp m Dương diệu pháp mà !
Hương sắc Nữ gìn nêu giá ngọc.
Chiết Hương hạ Nhựt thượng vi Hòa
Chủ Hòa mục đích ao Đài dựng,
Nhựt Nguyệt, Minh Tâm hiệp nhứt tòa."
(Nguyên Thủy )

Vậy: Tịch HƯƠNG là tịch của Nữ phái. Nữ phái là nguồn sống của nhơn loại. Đức Lý nói với Bà Lâm Hương Thanh: Hiền Muội phải viết thơ mời đủ mặt ngày rằm này. Thầy đến phong chức lập thành Nữ phái, nghe à! (TN/ 95)

Ngày 11-12-Bính Dần (Vendredi 14-1-1927): Đức Lý giáng đàn nói với chư Nữ chức chi Minh Đường rằng: “Thầy dạy Lão phải lập phái Nữ cho thành tựu. Em gắng lo Phổ Độ nhơn sanh. Cửu nhị ức nguyên nhân hãy còn trong vòng hắc ám, chẳng lẽ em biết Đạo ngồi đó cho đành. Lão trông công em”. Ngài cho bài Thi:
" Cửu tử kim triêu đắc phục huờn,
Hạnh phùng Thiên mạng đáo hai nguơn.
Thế trung kỵ tử hà tri tử?
Tử giả hà tồn chủ “Tịch Hương”.

Đức Hộ Pháp giải nghĩa: Cửu tử kim triêu đắc phục huờn là cảnh trần TA chết đã lâu mà hôm nay TA được phục sanh lại trong Thánh Thể của Đức Chí Tôn. Hạnh phùng Thiên mạng đáo khai nguơn là còn hạnh phúc đặng Thiên mạng đến khai nguơn. Tại sao Ngài nói đến ? Bần Đạo đã thuyết: Cuối Hạ nguơn Tam chuyển khởi Thượng nguơn Tứ chuyển, Ngài đến khai nguơn là có duyên cớ. Bần Đạo dám chắc rằng Đấng nào khác hơn Ngài thì không thi hành được. Ngài đến đặng mở Thượng nguơn Tứ chuyển. Thế trung kỵ tử hà tri tử? Thế gian sợ chết mà không biết cái chết là gì ! Chính Ngài hỏi rồi nói:
Tử giả hà tồn chủ tịch Huơng: Tịch HƯƠNG là Tịch của Nữ phái. Nữ phái là nguồn sống của nhơn loại, nếu nói nó chết thì Ngài đến làm chủ của Nữ phái là nghĩa gì ? Cầm cái giống của thế gian này chi ?”

Như ghi bên trên, tu Thanh Hương là tu theo âm thanh sắc tướng. Hay nói khác hơn là tu về vật chất! Tới đây, chúng ta thấy có hai lối tu Thanh Hương.

Cách tu Thanh Hương thứ nhứt: Đó là lối tu theo cách các đệ tử hậu duệ của Thần Tú, tức là tu áo mão, tu địa vị, tu danh vọng, bày ra âm thanh sắc tướng để lợi dụng lòng tín ngưỡng cúng dường của các tín đồ!

Cách tu Thanh Hương thứ nhì: Đạo Cao Đài đang ở thời kỳ Tịch Đạo Thanh Hương. Như vậy, Thanh Hương phải hiểu như thế nào đây? Như đã nói, chỉ có vật chất mới có âm thanh và hương sắc. Như vậy ở đây tu Thanh Hương phải hiểu là tu vật chất hay nói cho rõ hơn là tu Âm Chất (xem bài lập Âm Chất) tức là lo bảo vệ đời sống vật chất cho con người (Bảo Sanh).

Tóm lại, tu Thanh Hương là lo lập Âm Chất, là lo làm Phước Thiện, lo cứu đói, cứu bịnh, cứu nạn! Đây mới là cách tu Thanh Hương đúng nghĩa chân thật của nó. Theo ý nghĩa này thì tu Thanh Hương không phải là dễ tu!. Chớ thật ra cũng đã có rất nhiều người Đạo Tâm! Những người Đạo Tâm này thấy có người đói là cho ăn, thấy có người chết thì họ vẫn dám cho quan tài để lo tẩn liệm nữa!!! Những người tu Thanh Hương theo nghĩa này thì thật là đáng khâm phục!!! Tu Thanh Hương như vậy là tạo được một công quả thực tế nhất, có ý nghĩa nhất và cao thượng nhất, mà lại đúng với Thánh Chất Bảo Sanh của Thầy nhất! Cho nên Đại Từ Phụ mới có nói: "... Như không làm đặng thế này (Thuyết pháp lập ngôn) thì tìm cách khác mà làm Âm Chất (tu Thanh Hương đúng nghĩa) thì cái công tu luyện chẳng bao nhiêu (tức là cũng phải có tu luyện mới được) cũng có thể đạt tới địa vị tối cao!"

Chúng ta cũng đã biết Thầy là Năng lực vô đối tạo ra sự sống cho cả càn khôn vũ trụ! Thầy chính là sự sống! Sự sống chính là Thầy! Ai dám hủy hoại sự sống hoặc làm tổn thương sự sống tức là người đó dám đụng tới Thầy (tức là Đấng Tạo Hóa) mà đụng tới Thầy thì không phải dễ!

Còn như quí vị lo giữ gìn, lo bảo vệ sự sống (Bảo Sanh) của chính mình cũng như của muôn loài thì quí bạn đó đã làm đúng theo Thánh Chất BẢO SANH của Đấng Hóa Công nhất! Việc làm này gọi là tu tạo Âm Chất hoặc gọi là tu Thanh Hương đúng theo nghĩa chơn thật của nó!

B. Tịch Đạo Đạo Tâm
" Hai câu đầu trong Kinh Cúng Tứ Thời:
Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp!
L ng nương nhang h i tiếp truyền ra!

Thánh Ngôn:
Gắng sức trau dồi một chữ Tâm!
Đạo Đời muôn việc kh i sai lầm!
Tâm thành ắt đạt đường tu vững!
Tâm chánh mới mong mối Đạo cầm! "

Như trình bên trên về Tịch Đạo Thanh Hương, giờ đây phải nói đến Tịch Đạo Đạo Tâm thì mới mong không có sự thiếu sót!
Tịch Đạo kế tiếp là ĐẠO TÂM nghĩa là tiếp theo sau Tịch Thanh Hương. Nói rõ ra Tịch Đạo Thanh Hương là lo tu về phương diện hữu hình, như tạo tác các cơ sở, lập nên Thánh Thất làm nhà chung cho nhân sanh đến chiêm bái và để học hỏi Đạo lý. Thời gian này người Tín hữu Cao Đài lập công bằng công quả ngoại, như xây dựng, tạo tác, giữ gìn cơ sở, cúng kiếng.
Nay qua Tịch ĐẠO TÂM thì lo về phần Tâm linh: tức nhiên phải thấu đạt chơn lý chánh truyền, là phải học hỏi, nghiên cứu, sửa tánh trau thân, làm công quả nội.

Muốn có Tịch Đạo mới (Đạo Tâm), thì phải hoàn thành tịch Đạo cũ (Thanh Hương). Tức nhơn loại đã tấn hóa thêm lên một nấc thang thánh thiện. Tịch Đạo Tâm ra đời thì Tịch Thanh Hương phải chấm dứt nhiệm vụ.
Tịch Đạo Tâm kế thừa chớ không thay thế, song song, hay lật đổ Tịch Thanh Hương như mọi người vẫn tưởng.

Phần đông chúng ta đang chờ đợi và mong mỏi Đạo Cao Đài sớm bước qua một thời kỳ có Tịch Đạo mới, đó là thời kỳ của Tịch Đạo ĐẠO TÂM!
Mong mỏi Tịch Đạo Đạo Tâm để làm gì? Chắc là để đến lúc đó chúng ta lo tu Tâm dưỡng Tánh chớ gì? Tu Tâm dưỡng Tánh ngay bây giờ không được sao? Tại sao lại phải chờ tới lúc đó mới lo tu Tâm? Nếu thời kỳ Tịch Đạo Đạo Tâm có đến đi nữa liệu chúng ta còn sống sót để mà tu không chớ! Chúng ta nên bắt đầu ngay bây giờ.

Muốn chuyển qua được Tịch Đạo Tâm con người trước hết phải biết tự giác chấp hành tu luyện đạo pháp như Hiêp Thiên Pháp phải Qui Tâm Hiệp Thiên Thượng và Hiệp Thiên Hạ. Đó là phương cách luyện Tinh Khí Thần vô cùng diệu dụng của nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Đạo Tâm trong Tịch đạo Đạo Tâm phải vững mạnh hơn so với Tịch đạo Thanh Hương, nó phải quyền năng chủ định của nó, nó phải có quyền năng làm chúa cái sở năng của nó, nó có thể cải được cái quyền lực của quả kiếp luân hồi, nó có thể sửa cải đặng cơ giải thoát đặng định chủ lấy nó Đạo Tâm. Đây là điều căn bản của triết lý Đạo Tâm. Khi “thấu hiểu được Đạo Tâm rồi”, Chữ ĐẠO hay ĐẠI ĐẠO sẽ rõ ràng trong niềm tin của mọi tín đồ Cao Đài. Tìm Trời, tìm Đạo phải tìm trong lòng (trong Tâm), phải đi vào nội Tâm. Thực hiện được những điều bên trên là chúng ta đang thi hành “Chơn Pháp Đạo Tâm”.

Đạo đâu? Đạo ở nơi Tâm ,
" Thì đâu có phải kiếm tầm đâu xa!”
Thánh Giáo Đức Chí Tôn:
"Sang hèn trối kệ Tâm là quí,
Tâm ấy tòa sen của Lão ngồi."

Còn chư vị Phật Tiên Thánh Thần cũng chẳng đòi ngự nơi đền đài đồ sộ hay am tự nguy nga hoặc Thánh Đường tráng lệ cùng đình miểu lòe loẹt, các Đấng chỉ thích ngồi nơi TÂM của chúng ta mà thôi.

Cửu Trùng Đài có thể mất hoặc thay đổi những hình thức khác vì đó phần xác (thể pháp). Nhưng Hiệp Thiên Đài (bí pháp) thì vĩnh cửu trường tồn. Vậy mới xứng với câu: “Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài còn” là vậy.

Muốn được vậy thì không thể không có vai trò của Hiệp Thiên Đài. Nếu phủ nhận vai trò của của Hiệp Thiên Đài thì cỗ xe Đại Đạo sẽ phải tuột dốc một cách tăng tốc đến tận đáy vực thẳm mới dừng thì lúc đó kẻ hành giả ngồi trên xe không còn cơ hội sống sót. Nói một cách khác sẽ không có Tịch Đạo Tâm nếu không có Hiệp Thiên Đài. Trong “Đạo Tâm” những bậc chân tu sẽ hành Đạo theo “Bí Pháp Đạo Tâm” và thực hành các Đạo Pháp Qui Tâm là đường bí pháp “Đạo Tâm” trong “Chơn Pháp Đạo Tâm” sẽ là căn bản, là nền tảng then chốt trong nền Đại Đạo đã được phô bày qua Thiên Nhãn và tiềm ẩn trong Thánh Ngôn Thánh Giáo (Thiên Thơ).

Như nói bên trên, người tín đồ Cao Đài Tâm niệm Thiên Nhãn là biểu tượng thiêng liêng nhất, sâu sắc nhất. Hàng ngày, người tín đồ Cao Đài cúng tứ thời đều nhìn Thiên Nhãn để hiệp thông với Đấng Thượng Đế nhằm gọt rửa Tâm hồn cho trong sạch, tu tiến như “đang nhìn vào chính cõi Tâm linh của mình”. Đồng thời cũng được Đấng Thượng Đế ban hồng ân cho mỗi người Đạo được tinh tấn trên con đường tu hành để mở được huệ nhãn trở thành người minh triết và tiến tới mở được “Thiên Nhãn” của bản thân để thông suốt với vũ trụ.

Chúng ta đang ở trong thời kỳ Tịch Đạo Thanh Hương nhưng xem như thời kỳ Tịch Đạo Thanh Hương đã qua đi, nhường lại cho cơ Đạo Tâm sắp đến. Cái chơn lý tối cao, tối đại của nền Dại Đạo này chính là Đấng Thượng Đế hay Đức Chí Tôn khai mở tại Việt Nam chúng ta đây, là khởi điểm cho Đại Đồng Thế giới (Tôn Giáo Toàn Cầu) để cùng sống chung Hòa Bình. Như đã trình bày, Đạo và Tâm gắn liền với nhau như hình với bóng, như xác với hồn chứ không thể tách biệt. Tịch

Đạo Tâm không thể nào thay thế Tịch Thanh Hương như mọi người vẫn tưởng và trong bất cứ Tịch Đạo nào, Đạo Tâm vẩn phải có và là căn bàn bí pháp để thực thi các Tịch Đạo.
Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế có phán nhắc: “Các con nhớ cho kỹ, từ xưa đến nay, những Bực Giáng Sanh Cứu Thế thảy đều dạy Đời có một chữ Tâm là đủ”.
Trong bài thuyết Đạo, Đức Hộ Pháp dạy: “Ðức Chí Tôn đã đến, Ngài chỉ Bí Pháp có một điều là : "Các con không cần tìm kiếm triết lý cao siêu hơn nữa, các con tìm kiếm cái sống của toàn thể bạn đồng sinh của các con, rồi kỉnh trọng phụng sự cái sống ấy. Hễ các con tận Tâm phụng sự cái sống của vạn linh, thì cơ quan giải thoát của các con Thầy đã để nơi tay các con rồi đó.". (Lời thuyết Ðạo của Đức Hộ Pháp, Q5 /t.47)

Cũng xin nhắc lại là hai chữ Đạo Tâm đã có từ lúc mới khai Đạo Cao Đài vào năm 1926. Cho nên chúng ta đừng có chờ đợi, mà hãy tu Tâm ngay liền bây giờ, kẻo không kịp giờ đối với cuộc sống ngắn ngủi nầy đâu. Trong Kinh Cúng Tứ Thời có câu: Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp. Chữ Lòng ở đây không phải là cái ruột non, ruột già hoặc là cái bao tử của chúng ta đâu. Chữ Lòng chính là cái Tâm của chúng ta đó. Như vậy thì "Đạo gốc bởi lòng" chính là "Đạo Tâm" đó. Đạo Tâm rất quan trọng cho nên nó được để trong câu kinh đầu tiên của “Kinh Cúng Tứ Thời” trong Đạo Cao Đài.
Đến đây, chúng ta cũng cần bàn đến hai chữ “Thành Tín” trong câu kinh vì chúng nó rất là quan trọng trong Đạo Tâm.

Chữ Thành: Thành ở đây có nghĩa là lòng nhiệt thành, là cái quyết Tâm của chính mình!!! Phàm làm bất cứ việc gì, kể cả việc Đời lẫn việc Đạo, mà không có quyết Tâm thì làm sao thành công được!
Chữ Tín: Là đức tin, là tin tưởng. Đức tin có hai loại: Tha tin và tự tin. Thà tin là tin tưởng vào Trời Phật và các Đấng Thiêng Liêng. Còn tự tin là tin tưởng vào chính bản thân mình, tin tưởng vào chính khả năng của mình. Phàm làm bất cứ việc gì mà mình không tin có thể làm được thì chúng ta bị thất bại là một điều chắc chắn!

Nói tóm lại, THÀNH và TÍN là hai yếu tố, hai điều kiện thành công thật là quan trọng! Lại là quan trọng nhất trong việc tu Tâm dưỡng Tánh!
Phải có đủ hai yếu tố nói trên cộng lại thì mới chắc chắn thành công trong cái Đạo Tâm vậy.

IV. Đạo Tâm Và Chơn Pháp Đạo Tâm Trong Nền Tiến Hóa Đại Đạo Cao Đài.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Đức Chí Tôn có tiên tri là sau Tịch Đạo Thanh Hương là đến Tịch Đạo Đạo Tâm và nhiều Tịch Đạo khác nữa. Dù cho Tịch Đạo có thay đổi, nhưng Pháp Chánh Truyền vẫn bất di bất dịch cho đến thất ức niên. Mà Pháp Chánh Truyền còn tồn tại thì Đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế vẫn còn phải có đủ Hội Thánh Lưỡng Đài. Đây là “Thiên Luật” Đức Chí Tôn dạy mà tất cả tín đồ Đạo Cao Đài trong mọi cấp, mọi nơi, không giới hạn không gian và thời gian, đều hiểu nhuần.

Cửu Trùng Đài có thể mất hoặc thay đổi những hình thức khác vì đó phần xác (thể pháp). Nhưng Hiệp Thiên Đài (bí pháp) thì vĩnh cửu trường tồn. Vậy mới xứng với câu: “Đạo còn thì Hiệp Thiên Đài còn” là vậy.

Thế mà có một số người không biết hiểu Đạo đến mức nào khi mạnh miệng tuyên bố trên các trang mạng ở hải ngoại : “Nếu không có phiên họp nầy (phiên họp ngày 2 tháng 9 Ất Mùi (2015) để công cử Q. hưởng Quản Hiệp Thiên Đài) thì Hội Thánh vẫn phục hưng Tịch Đạo Đạo Tâm vẩn khai mở để dìu dắt Nhân Sanh ào đời Thánh Đức”. Họ đã khẳng định Hội Thánh không có Hiệp Thiên Đài vẫn phục hưng. Hội Thánh không có Hiệp Thiên Đài (chính là Hội Thánh mới hiện nay tại Tòa Thánh Tây Ninh) đã phục hưng lâu rồi gần 40 năm qua rồi. Đó là mục đích cuối cùng của những người “không nhìn nhận Đạo”, mà Đức Chí Tôn khai mở Đạo Cao Đài vào năm 1926, mong muốn.

Trong một đất nước lấy chủ nghĩa Duy Vật biện chứng làm căn bản thì việc phổ độ chúng sanh cũng gặp rất nhiều cam go. Nên mỗi giai đoạn phổ độ Đức Chí Tôn thay đổi một hình thức khác do một vị Giáo Tông mới đảm trách.
Bài Thi:
" Lựa dèo, lựa thế độ nhơn sanh
Khó dễ Thầy cho hiểu ngọn ngành.
Ám muội thì nhiều mưu trí ít,
Đường Tiên chẳng ước đọa thì đành."
(TNHT-Thi ăn dạy Đạo Q.I trang 116).

Thầy đã nói rõ rồi. “Đường Tiên chẳng bước, đọa thì đành”. Đường Tiên là đường nào? Nếu không phải con đường tùng Thiên Luật?

Đức Hộ Pháp đã giảng: “Lựa dèo, lựa thế độ nhơn sanh” chỉ có Ông Trời mới làm được. Người phàm chỉ biết làm theo sự phân định của Thiêng Liêng tức là tùng theo Pháp Chánh Truyền, Tân Luật, Đạo Luật và các luật khác của Đạo mà làm nhiệm vụ.

Trở lại ý nghĩa Đạo Tâm. Đạo Tâm lúc nào cũng phải có và luôn có trong người học Đạo. Nếu không có Đạo Tâm thì con người đi học Đạo để làm gì? Hành giả thể hiện cái Đạo Tâm bằng tấm lòng tin tưởng tuyệt đối nơi sự chỉ dạy của các Đấng Thiêng Liêng, mà cơ bản nhứt là tùng và gìn giữ Luật Pháp Chơn Truyền của Trời ban (Thiên Luật). Đức Chí Tôn dạy:
“…Thầy thấy nhiều, tu cũng muốn tu mà thế tục cũng không muốn chừa bỏ…Áo dà cũng muốn mặc, giày Đạo cũng muốn mang, muốn đứng trước cả nhân sinh, để cho họ biết mình hướng Đạo. Đường Tiên cũng lấp lững, nguồn Thánh cũng toan vào, mà thấy bạc rơi cũng chẳng bỏ, lợi múng chẳng từ, mượn danh Đạo mà tạo danh mình, vô Thánh Điện mà hơi tà còn phưởng phất..” (TNHT. Q.I trang 70). Đó là Chí Tôn muốn nói đến kẻ vào Đạo mà không có Tâm.

Khi nói “Đạo Tại Tâm” hay “Đạo Tâm”, chúng ta thuờng hiểu theo ý nghĩa giữ Đạo do tự trong lòng, chứ không hệ tại ở những việc làm bề ngoài. Chúng ta cũng thuờng kết án những người ‘giữ Đạo bề ngoài’ mà Tâm hồn thì trống rỗng, không thành thật; đó là “giả hình”. Thật ra, “Đạo Tâm” không phải chỉ giữ ở trong lòng mà không cần giữ các lề luật bên ngoài, dù đó là luật Đạo hay luật đời; nhưng “Đạo Tâm” là “sống Đạo và thực hành các giới răn của Luật Đạo” (như là Tân Luật, Đạo Luật, Pháp Chánh Truyền, etc.) với cả tấm lòng của chúng ta, chứ không phải chỉ để phô trương bề ngoài. Sống Đạo thực sự là yêu mến và tuân giữ các giới răn dạy của Đức Chí Tôn (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển), và thực thi lòng yêu mến đó bằng cách yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật.
Đức Giáo Tông trong Vô Vi Đại Đạo đã dạy:
"Thượng Đế không ngự trên vật thể vô tri, mà trái lại Thượng Đế Ngự trong Tâm (Đạo Tâm), tháp ngà của Tâm hồn nhân loại. Hình thể Đạo chỉ mượn đ để thể hiện Thánh Thể Chí Tôn tại thế."

Tìm Trời, tìm Đạo phải tìm trong lòng (trong Tâm), phải đi vào nội Tâm. Đây là điều căn bản của triết lý Đạo Tâm. Khi “thấu hiểu được Đạo Tâm rồi”, Chữ ĐẠO hay ĐẠI ĐẠO sẽ rõ ràng trong niềm tin của mọi tín đồ Cao Đài. Thượng đế dạy lại con người phần vô vi; nhưng tín đồ lại gắng nghiên cứu phần “vô vi” mà nay thế giới gọi là “thần linh học” hay “thiên nhân hợp nhất” trong các Đạo giáo, thì trước sau gì chân lý cũng hiện ra cho mỗi người.

“Đạo Tâm” là đền thờ của Đức Chí Tôn, vì ai sống trong yêu thương là sống trong Đức Chí Tôn. “Đạo Tâm” không lệ thuộc hình thức tổ chức, cơ cấu, tín điều, luật lệ hay qui tắc do con người đặt ra. “Đạo Tâm” là chính lương Tâm mỗi người, là dấu chỉ quyết định tương lai hậu vận đời người, vì “tất cả ch ng ta đều phải được đưa ra ánh sáng trước quyền Quyền Vạn Linh để mỗi người lãnh nhận những gì tương xứng với các việc tốt hay xấu đã làm, khi còn ở trong thân xác.”

Đạo Tâm và Tịch Đạo "Đạo Tâm" hoàn toàn khác nhau. Trong “Tịch Đạo Tâm” con người có Đạo Tâm là hiển nhiên, nhưng trong “Tịch Thanh Hương” hay nhiều Tịch Đạo khác trong tương lai, con người vẫn phải có Đạo Tâm mới tấn hóa trên đường thiện. Nếu Đạo Tâm mỏng (không niềm tin) thì sẽ tấn hóa chậm hoặc đôi khi thoái hóa không chừng: Kim Quang Sứ sẽ phá hoại và tìm cách kéo đi. Tánh hư, tật xấu của con người, là tánh phản nghịch Đức Chí Tôn hay Thượng Đế, do sự cám dỗ của Quỉ Vương tức Kim Quang Sứ và ma quái, ở khắp mọi nơi từ trên Trời, dưới đất.

Đức Hộ pháp có dạy vào ngày rằm tháng 9 năm Bính Tuất (1946) rằng:
… “Còn nói về phần chư Môn Ðệ của Ðức Chí Tôn, từ buổi đem thân vào cửa Ðạo trong lúc Nhập môn đã quì trước Bửu Ðiện có bàn Ngũ Lôi, mà lập Minh thệ (như trên) Than ôi! Cho những người thề như vậy, mà cũng không để trọn đức tin nơi Chí Tôn lại thối bước ngã lòng, cởi áo Ðạo, dẹp khăn tu, mong mỏi xu hướng theo con đường tục lụy, cho nên mới gây tạo ra con đường lằn súng mũi đạn ngày nay.

Vậy, ai là người thất thệ với Chí Tôn thì phải sớm thức tỉnh Tâm hồn, ăn năn sám hối, cầu xin Ðại Từ Phụ cùng các Ðấng Thiêng Liêng, từ bi ân xá tội lỗi tiền khiên, họa may đặng chung hưởng ân huệ của Ðức Chí Tôn ban cho sau nầy.

Đừng thấy trong cơ chuyển thế cơ Đạo biến chuyển, canh cải, bị nhơn sanh than oán, về nhà tư gia giữ Đạo tu và rồi vội cho đó là Tịch Đạo Tâm ra đời. Không phải đơn giản như vậy. Tịch Đạo Đạo Tâm vẫn phải có Hội Thánh Lưỡng Đài. Vẫn phải có Hội Thánh Cửu Trùng Đài để phổ độ, và Hội Thánh Hiệp Thiên Đài để Bảo Thủ Luật Pháp Chơn Truyền. Chuyển sang Tịch Đạo Tâm phải có Thiên Ý và Nhơn Ý đồng thuận. Có nghĩa phải được từ chính những Thiên Phong của Thanh Hương Tịch gầy dựng được Chí Tôn phù trợ. Nếu nghĩ rằng, Thầy sẽ lập một Tịch Đạo Tâm hoàn toàn mới rồi giao cho Giáo Tông mới giống như đã làm
hồi thời kỳ đầu khai Đạo 1925-1926 bắt đầu từ số không huấn luyện đồng tử v.v. là một điều không thể. Những ai tin tưởng vào Tịch Đạo Tâm do Chí Tôn lập sẵn rồi giao cho nhơn sanh nên suy nghĩ lại xem có phải như thế không?

Thầy lập Hiệp Thiên Đài là trọng hệ. Hiệp Thiên Đài là cơ quan bán hữu hình kết hợp Vô Vi và Hữu Hình. Ở đây chúng ta chỉ đề cặp đến phần “Hiện Tướng Hiệp Thiên Đài” còn phần Vô Vi do thiêng liêng thống quản (15 Vị Chức Sắc cao cấp của Hiêp Thiên Đài vào lúc sơ khai lập Đạo là Đức Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh và chư vị Thập Nhị Thời Quân đều đã qui tiên). Đức Hộ Pháp giảng: “ ơ t đã cho ần Đạo biết các Bạn Hiệp Thiên Đài do nơi đâu sản xuất. Do để giữ quyền Thiêng liêng nên mới có 12 vị Thời quân, Thập Nhị Địa Chi tức là cảnh Thiêng Liêng Vô Hình của ch ng ta”. (Lời giảng của Đức Hộ Pháp về Hiệp Thiên Đài). Do đó trong thời kỳ “nhiễu nhương” này (thời kỳ không còn cơ bút), chức sắc Cửu Trùng Đài và nhất là chức sắc Hiệp Thiên Đài cần phải "Qui Tâm" để được thiêng liêng dẫn dắt, soi rọi ánh sáng Tâm linh mới đủ năng lực hành Đạo!

Tại sao cần phải Qui Tâm? Trong bài viết về “Khái Quát Về Tam Kỳ Phổ Độ và Chơn Pháp Đạo Tâm”, QS Nguyễn Ngọc Nương viết: Qui Tâm ở đây đúng cách là thực hiện đủ Tam Công trong đạo Cao Đài đó là: công phu, công quả và công trình. Trong Mật Pháp Huỳnh Đình thì gọi là Tâm Pháp hay Vạn Pháp có nghĩa chỉ lấy Tâm làm gốc tùy theo cơ duyên thực hiện, mỗi người một cách khác nhau, tựu trung vẫn là hành diệu Pháp Hiệp Thiên (gồm Hiêp Thiên Thượng và Hiêp Thiên Hạ) tức là gổm đủ ba yếu tố căn bản trên. 
Tàng Kinh Viện                                                                                                      [1]  [2]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét