Pháp môn Tịnh Độ trong Phật Giáo
Pháp môn Tịnh Độ trong Đạo Cao Đài.
- 1 . Lời
dạy của Đức Chí Tôn về việc niệm danh Thầy.
- 2 . Năng
cúng Tứ Thời và cúng Đàn nơi Thánh Thất.
- 3 . Năng Tụng Di Lạc Chơn Kinh và Kinh Cứu Khổ.
Kết luận.
Pháp môn Tịnh Độ trong
Phật Giáo.
Trong Đạo Phật có một pháp
môn tên là Tịnh Độ Tông. Pháp môn nầy gọi đơn giản là pháp môn niệm Phật, tức
là hằng ngày bất cứ lúc nào trong tâm cũng tưởng tới Phật và miệng lúc nào cũng
lo niệm Phật, với tâm nguyện duy nhứt là sẽ được vãng sanh về Cực Lạc Thế Giới.
Trong kinh A Di Đà có mô
tả cảnh vật, cuộc sống ở cõi Cực Lạc thế giới hết sức tốt đẹp nào là mặt đất
đầy dẫy 7 thứ báu vật vàng bạc, châu báu,. . . và con người sống an nhàn tự tại
muốn chi có nấy và không phải lo lắng về cơm áo mà ai cũng lo tu tiến mà thôi.
. .
Pháp môn nầy về phương
diện tâm linh, hay là theo lý nhân quả ta cũng có thể giải thích như sau: Con
người ai cũng có cái Tâm và rèn luyện cái tâm là điều hết sức quan trọng cho
người tu. Tâm con người cũng là nơi gieo trồng hạt giống nhân quả, vì mỗi một
niệm khởi lên trong tâm là đã có một duyên thọ sanh . Một niệm tốt khởi lên
trong tâm là ta đã gieo được một hạt giống tốt, còn một niệm xấu hiện lên là ta
đã gây nên một quả xấu. Như vây một niệm tham, sân, si nổi lên trong tâm thì cái
quả sẽ là thọ sanh vào cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,. . . Như vậy hay hơn hết là trong tâm chỉ lo niệm
Phật để sau nầy có thể sanh về cõi Phật. Khi trong tâm ta loại trừ hết những
vọng niệm mà chỉ còn giữ một chánh niệm là cầu Phật thì sẽ có cảm ứng với chư
Phật là điều đương nhiên . Danh từ nhà Phật gọi là niệm Phật đến trình độ nhứt
tâm bất loạn. . . Nhưng người tu cũng còn phải qua giai đoạn nữa là bỏ hết cả
chánh niệm để trở thành vô niệm đây mới là trạng thái chứng đắc hay tỏ ngộ chân
lý. . .
Gần đây pháp môn Tịnh độ
có phổ biến nhiều kinh sách bài thuyết pháp cho thấy rất nhiều người tu theo
pháp môn nầy tức là ngày ngày thành tâm niệm Phật và trì tụng một vài bổn kinh
như kinh A Di Đà, . . . đến khi lâm chung sẽ biết trước ngày giờ minh sẽ ra đi
và xuâát hồn ra đi một cách bình an như là bằng chứng của sự vãng sanh Cực lạc.
. .
Pháp môn Tịnh Độ trong Đạo
Cao Đài.
Trong Đạo Cao Đài chúng
ta không có hay là chưa có phân chia ra
từng pháp môn một cách rõ rệt hay đúng hơn chúng ta chỉ phân biệt một bên là phổ độ, một bên là
tịnh luyện. Nhưng đây không hẳn là pháp môn mà chỉ là hai giai đoạn trên đường
tu của người môn đệ Cao Đài. Theo lời thuyết giảng của Đức Hộ Pháp thì khi muốn
vào nhà tịnh để được chơn sư chỉ dạy tịnh luyện thì người đạo hữu phải qua sự
cân thần để xem người đó có đủ tam lập tức là lập đức, lập công, lập ngôn chưa.
Khi nào có đủ tam lập thì sự tịnh luyện mới có kết quả còn nếu chưa đủ thì phải
lo lập công quả thêm nữa tức là phải lo hành đạo qua việc phổ độ nhơn sanh.
Tuy không nói lên pháp môn
rõ rệt nhưng nếu ta để tâm suy ngẫm qua Thánh giáo, qua lời Thuyết Đạo của Đức
Hộ Pháp và qua Kinh Lễ chúng ta sẽ thấy một pháp môn tương đồng với pháp môn
Tịnh độ của nhà Phật. Chúng ta có thể nói
đây là pháp môn Tịnh độ của Cao Đài. Sau đây chúng ta sẽ phân tích các yếu tố căn bản của pháp môn
nầy.
1 . Lời dạy của Đức Chí Tôn về việc niệm danh Thầy.
Trong quyển Lời Phê Của
Đức Hộ Pháp, Đức Ngài có viết:
Đức Chí Tôn là Đại Từ Phụ
khi đến độ Bần Đạo, Bần Đạo có hỏi về phương Tận độ các vong linh nhân loại thì
có nói quả quyết như vầy: Dầu cho có kẻ nào phạm tội dẫy đầy mặt đất mà khi hấp
hối rồi chỉ kêu lấy danh Ta thì cũng đặng siêu thoát.
Danh từ Tận độ rất quen
thuộc trong Đạo Cao Đài như : kinh Tận độ vong linh, cơ Tận độ....., ám chỉ đây
là thời kỳ Đức CHÍ-TÔN đến ân xá tội tình, tạo điều kiện dễ dàng cho nhơn sanh
tu hành hầu độ cho hết 92 ức Nguyên nhân và cả Hóa nhân hay Quỉ nhân nếu biết
tu hành đồng được đắc kiếp trở về cõi Thiêng Liêng Hằng Sống...
Trên đây là một trong những
phương Tận độ mà Đức CHÍ-TÔN đã ân ban cho nhân loại, qua lời diễn tả của Đức
Hộ-Pháp.
"Dầu cho có kẻ nào phạm tội dẫy đầy mặt đất mà
khi hấp hối rồi chỉ kêu lấy danh Ta thì cũng đặng siêu thoát".
Kêu lấy danh Thầy tức là
niệm Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, tại sao phải kêu danh Thầy
lúc hấp hối mới đặng siêu thoát ?
Đây là một điều có ảnh
hưởng huyền diệu đến linh hồn như thế nào chúng ta còn chưa hiểu rõ, nhưng theo
kinh sách xưa nay chỉ dạy giờ phút lâm chung của con người rất quan trọng,
trong giờ phút ấy mà người nào còn tỉnh táo tưởng niệm, cầu nguyện Đức CHÍ-TÔN
cùng các Đấng Thiêng Liêng cứu độ vong hồn thì sẽ được hưởng hồng ân siêu rỗi
của các Đấng. Chính vì vậy mà trong kinh Tận Độ vong linh của Cao Đài có hai
bài : Kinh Cầu hồn khi hấp hối và kinh Cầu hồn khi đã chết rồi .
Trong bài kinh Cầu hồn khi
hấp hối có những câu rất cảm xúc, đánh động tâm thức làm cho chơn thần thức
tỉnh để hướng về cầu nguyện Đức Chí Tôn
như:
Ớ.....(tên
họ) .....thành tâm cầu nguyện,
Nguyện Chí
Tôn linh hiển độ sanh,
Ăn năn sám
hối tội tình,
Xét câu minh
thệ gởi mình cõi thăng.
Dầu nghiệt
chướng số căn quả báo,
Đừng hãi
kinh cầu đảo Chí Tôn,
Cửa địa ngục
khá lánh chơn,
Ngọc Hư Cực
Lạc đon đường ruổi dong.
Dầu trọn kiếp
sống không nên Đạo,
Dầu oan gia tội báo buộc ràng,
Chí
Tôn xá tội giải oan,
Thánh
Thần Tiên Phật cứu nàn độ vong.
Trong quyển
Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp thuyết đêm 12 tháng 2 năm Kỷ Sửu
(1949) có đoạn giảng về ý nghĩa của việc niệm danh Thầy như sau:
“Hỏi thử tội tình của chúng ta đã làm trong
kiếp sanh, Đức Chí Tôn để trong phương pháp nói rằng: tội tình các con đầy dẫy
nơi mặt địa cầu nầy mà đến giờ chót các con biết kêu danh Thầy thì Thầy đến
cứu, Thầy đem bí pháp giải thoát để trong tay các con đặng các con đoạt chơn
pháp giải thoát đó vậy. Kêu danh Thầy là: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma
Ha Tát.
Chúng
ta đã ngó thấy Bần Đạo đã thuyết minh
rằng: khi ngươn linh của chúng ta đã hiện tượng của nó, thì nó đồng tánh với càn
khôn vũ trụ, đồng tánh với Chí Linh là đoạt Đạo.
Càn khôn vũ
trụ là nơi sản xuất Đấng ấy mà Đấng ấy đồng tánh với nhau tức nhiên Đấng ấy có
quyền tự giải thoát cho mình, vì cớ cho nên kêu danh Đức Chí Tôn thì đoạt cơ
giải thoát dầu tội tình bao nhiêu chúng ta
đã tạo thành nơi mặt địa cầu nầy, dầu có đầy dẫy đi nữa mà giờ chót
chúng ta biết kêu danh Đức Chí Tôn, tức
nhiên biết kêu ngươn linh của chúng ta, tức nhiên chúng ta chối cái quyền làm tòa buổi chung qui của
chúng ta. Hễ ta chối cái quyền làm tòa thì còn ai xử ta đâu.
Đấng Chí
Linh duy chủ mà để quả kiếp trong tay Đấng Chí Linh thì còn ai xử ta đâu, cơ
quan giải thoát đoạt pháp là vậy đó”.
Trong Phật
giáo cũng có dạy tương tự như Đạo Cao Đài là : trong lúc hấp hối nếu người nào niệm hồng
danh Đức Phật A-Di-Đà thì cũng được Phật đến cứu rỗi.
Điều nầy
nghe có vẻ dễ dàng vì chỉ cần niệm danh Thầy hay Phật thì ai không niệm được ?
Và như thế thì chúng ta không cần lo tu làm gì vì không cần tu cũng đặng siêu thoát ?
Nhưng nói như thế
chớ không phải dễ thực hiện vì trong kiếp sanh nếu chúng ta chẳng biết lo tu
hành hướng thiện thì lúc lâm chung linh hồn bị nghiệp lực chồng chất làm
cho đau đớn hôn mê, còn đâu tỉnh thức tinh thần để niệm ?
Cho nên lúc
sinh thời chúng ta rán lo tu hành, lập âm chất, siêng năng cúng kiếng hằng
ngày, cầu nguyện Đức CHÍ-TÔN cùng Tam Giáo ban hồng ân , điển lành cho chơn thần chúng ta
được mẫn huệ, sáng suốt. Đồng thời năng tụng kinh Di Lặc, Cứu Khổ hầu nghiệp
chướng tiêu trừ, tiêu tai giải nạn .....Một công trình tu tập, tụng niệm thường
xuyên, thì may ra đến buổi lâm chung ta vẫn còn được bình tĩnh sáng suốt tinh
thần mà niệm danh Thầy được.
Trong một bài thuyết Đạo
Đức Đạt Lai Lạt Ma (Phật Sống Tây Tạng) Ngài cũng có thuyết giảng vấn đề nầy
như sau:
"Khi ta tu tập hằng
ngày, khi chết ta sẽ không nuối tiếc chi nữa. Điều quan trọng lúc lâm chung là
làm sao ta giữ được thiện tâm và những ý hướng thiện, trong lành. Bạn có thể
thực hiện được điều ấy vì bạn đã tu tập trong đời sống hằng ngày. Nếu ta tĩnh
thức được khi sắp lìa đời và hướng tâm về đường thiện, chắc chắn khi tái sinh,
bạn sẽ tới được chỗ tốt đẹp hơn".
Tóm lại, chúng ta có thể
hiểu lời dạy của Đức CHÍ-TÔN muốn nhấn mạnh tới hai điều, thứ nhứt: giây phút
hấp hối rất là quan trọng làm thế nào đến giây phút đó ta được bình tĩnh để tâm
tưởng niệm đến Thầy. Thứ hai là: hồng ân thiêng liêng của Đại Từ Phụ ban cho
rất là lớn lao, dầu cả kiếp sanh chúng ta gây lắm tội tình mà giờ phút cuối
biết ăn năn cầu khẩn nơi Người cũng được hưởng hồng ân siêu rổi.
Như vậy nếu chúng ta tập
được thường xuyên hằng ngày niệm danh Thầy và cầu nguyện Thầy ban cho hồng ân
siêu rỗi thì chắc chắn đến giờ phút cuối chúng ta vẫn còn giữ được cái tâm
thiện niệm đó, và sẽ được hưởng nhiều hồng ân Đức CHÍ-TÔN ban cho.
Để chứng minh điều nầy
chúng ta đọc lại lời Thánh giáo của Thầy qua đoạn sau: "Thầy để lời cho các con biết rằng: nhiều Thánh Tiên Phật xuống
phàm, nếu căn quả tiền khiên không mấy trọng hệ, nghĩa là kiếp trần duyên không
chi phải nhơ bợn nhiều thì dầu không Thiên phong hễ gắng tâm thiện niệm thì địa
vị cũng đạt hồi đặng". (TNHT, II, trg 151).
Mà gắng tâm thiện niệm
bằng cách nào ? Phải chăng Kinh Lễ dạy cúng Tứ thời là vì mục đích nầy ? Khi
chúng ta để trọn tâm tưởng niệm Thầy cùng chư Thiêng Liêng, chúng ta dâng Tam
bửu và cầu nguyện Thầy hằng ngày, khi tâm chúng ta có cảm thì tất nhiên có ứng,
do vậy chúng ta sẽ hưởng được điển lành của các Đấng ban cho. Vì vậy quả đúng
như lời Thánh giáo dạy khi cúng tức là
cho linh hồn ăn uống vậy.
2 . Năng cúng Tứ Thời và cúng Đàn nơi Thánh Thất:
Trong quyển Lời Phê của
Đức Hộ-Pháp : Vị Chí Thiện Lê Văn Trường làm đơn xin nghỉ cúng thời Tý vì già
cả bịnh hoạn. Đức Hộ Pháp có bút phê rằng:
"Hễ càng già lại càng cúng nhiều đặng dâng mạng
căn số kiếp của mình cho Đức CHÍ-TÔN định, ấy là Bí mật Giải thoát của Chí Tôn
để nơi cơ Tận Độ. Dầu đương giờ mình cúng mà chết trước mặt người lại càng hay.
Phải tuyên truyền cho ai ai cũng đều thấu đáo nghĩa lý
Bí Pháp nầy. Khi đau ốm nằm dưỡng bịnh hễ nghe thời cúng là ngồi dậy dâng Tam
bửu cho Chí Tôn".
Vào thời kỳ 1947-1955, có
giai đoạn Đức Hộ-Pháp buộc chức sắc ở gần Tòa Thánh mỗi đêm phải đi cúng vào thời Tý tại Đền
Thánh, và Ngài cũng gia công thuyết Đạo trong thời gian nầy...Đoạn trên Đức
Hộ-Pháp đã nói rõ: Sự cúng kiếng tức là cả cúng Đàn và Tứ Thời tụng niệm là Bí
mật Giải thoát, tức là Bí pháp của Đức CHÍ-TÔN để nơi cơ tận độ, và Đức Ngài
dạy phải tuyên truyền cho con cái Đức CHÍ-TÔN thấu đáo nghĩa lý Bí pháp nầy,
nhưng thử hỏi từ đó đến nay có được bao nhiêu người đã ý thức được tầm quan
trọng của việc cúng kiếng.....
Ở một bài Thuyết Đạo khác
vào ngày 1 tháng 11 năm Mậu Tý (1948) Đức Hộ-Pháp giảng giải thêm việc cúng
kiếng là "Món ăn của Linh Hồn"
như sau:
"Hại thay ! nếu khoa-học mà dìu-dắt tâm-lý
nhân-sanh đến đạo-đức tinh-thần thì may biết bao, trái ngược lại văn-minh ấy
chỉ giục thúc phương-sống vật-chất, họ tìm hạnh-phúc trong cái sống vật hình,
vì cớ Đạo-Giáo mất quyền. Bần-Đạo tưởng người khác hơn Bần-Đạo cũng lưu-ý đến
điều ấy, nên đã vấn-nạn Đức Lý Giáo-Tông. Hỏi rằng : đương thế kỷ hai mươi nầy
văn-minh cực-điểm đã đi quá cao rồi, đem đạo-đức tinh-thần làm thuyết cứu thế,
sợ e chẳng có kết quả. Tôi công nhận rằng trước hai ngàn năm có lẽ nhơn-loại
còn bảo-thủ được khối thiên-lương biết xu-hướng đạo-đức, tinh-thần đạo đức buổi
ấy dường như gặp một mảnh ruộng có nhiễm phân nên hột giống mới mọc đặng, còn
thế-kỷ hai mươi nầy là thời kỳ văn-minh vật-chất, nếu đem đạo-đức ra làm
môi-giới, cữu-vãn tình-thế cho đời, e vô hiệu-quả.
Ngài than ! nói quyết đoán
rằng : " Theo lẽ Hiền-Hữu nói
nhơn-loại ngày giờ nầy không cần đạo-đức có phải ?".
Bần-Đạo trả lời : "
Thật vậy, nhơn-loại buổi nầy không cần đạo-đức, chỉ tìm hanh-phúc nơi văn-minh
khoa-học cũng có thể được chớ ?".
Ngài cười : " Văn-minh khoa-học chỉ nuôi phần
xác-thịt họ mà thôi, con phần linh-hồn dám chắc họ sẽ đói ".
Bần-Đạo vấn nạn : " Tại sao Ngài nói linh-hồn đói,
linh-hồn có ăn sao mà đói ?".
Phải, phải có vật-thực
đặng bảo dưỡng nó như thi-hài vậy, nếu không vật-thực nó sẽ tiều-tụy rồi chết
mà chớ.
Luôn đó Ngài lấy triết-lý
cao-siêu mà dạy Bần-Đạo trong một con người có ba xác-thân gọi là tam hồn và
bảy vía gọi là thất-phách liên hệ mật-thiết cùng nhau. Đương-nhiên trong
thân-thể của mỗi người có ba xác thân ấy cần bảo dưỡng mới tồn-tại được. Vì cớ
Đức Chí-Tôn cho biết, trí-thức và linh-hồn trọng-yếu do căn nguyên của sự
sanh-hoạt của nó định cái ngã-tướng cho ta. Ba xác-thân ấy phải nuôi mới sống,
mới tồn-tại như xác-thịt thể-hình ta vậy. Đạo-Giáo là tinh, phải ẩm-thực, tinh
mới sống, xác-thịt giữa là xác-thân trí-thức tinh-thần ta thấy con người chẳng
phải tìm món ngon vật lạ đặng bảo-thủ xác-thân, còn coi hát, nhảy đầm, vui
chơi, cờ-bạc, hút-sách tưởng là tìm món ăn cho trí-thức đặng bảo-dưỡng, mà
không biết rằng đó là hại cho trí-thức.
Bây giờ tới linh-hồn cũng
phải có vật-thực cho nó chớ. Vật-thực là cả triết-lý cao-siêu tồn-tại đấy.
Đệ-nhị xác-thân gọi là khí, Chí-Tôn gọi là chơn-thần, nó làm trung gian cho xác
và hồn, hễ lương năng thì nó bảo-thủ xác-thịt thể-hình, còn lương-tri nó tìm
vật-thực nuôi linh-hồn. Ta nuôi linh-hồn bằng gì ? Vật thực nuôi sống xác-thịt,
còn linh-hồn sống đặng là nhờ đạo-đức tinh-thần đó vậy. Ta tu tức là ta tìm
phương bảo-trọng cho tồn-tại đạo-đức tinh-thần đặng nuôi linh-hồn hầu đạt vị
Thần, Thánh, Tiên, Phật dìu-dẫn bảo trọng lấy nó để có đủ lực-lượng quyền năng
giong-ruổi trên con đường Thiêng-Liêng hằng sống.
Đạo-đức tìm nơi đâu mà có
đặng ? Tức nhiên tìm nơi cửa Thiêng-Liêng hằng sống mới có, mà tìm nơi cửa
Thiêng-Liêng tức là cửa đạo, buổi ăn của linh-hồn là buổi ta vô Đền-thờ cúng đấy.
Ta không thấy mùi của nó tức chưa hưởng được, tưởng vô Đền-thờ là bị luật buộc,
không dè mỗi phen đi cúng tức là cho linh-hồn ăn vậy, Bần-Đạo tưởng thấy trong
trí cần phải buộc cả thảy đi cúng, vì trong thâm-tâm Bần-Đạo định cho mấy người
chưa biết mùi của nó, cũng như kẻ nhà quê, đưa cho gói bánh nói thứ ăn chẳng
đặng, rồi khi đã biết mùi rồi bán cả áo, cả quần mà mua ăn.
Giờ phút nầy phái Nữ chưa
biết mùi ngon của món ăn cho linh-hồn. Ngày giờ nào cả thảy biết mùi của nó,
ngày giờ ấy có đến ít nữa với những kẻ biết hoặc đói khát dữ tợn kia mới biết
ăn ngon. Phàm đói cho lung ăn mới ngon. Nhưng coi chừng Bần-Đạo khuyên một
điều, đừng để quá đói mà chết đa. Hại thay vật ăn của linh-hồn có quyền năng
Thiêng-Liêng vô tận, giúp ta giải bày cái ác như là cởi áo, chớ không phải mặc
chật như dính vào da, rồi ngày giờ thoát xác, tinh-thần thế quyền Thiêng-Liêng
lột từ miếng đau-đớn linh-hồn chẳng biết bao nhiêu, chừng đó có ăn năn rồi biết
sợ.
Không có một điều gì mà
Chí-Tôn định trong chơn giáo của Ngài, dầu Bí-pháp, dầu Thể-pháp mà vô ích đâu.
Đấng ấây là Đấng tưng-tíu, yêu-ái con cái của Ngài lắm, thảng có điều không cần
ích mà con của Ngài nói rằng không muốn, Ngài cũng bỏ nữa đa. Từ ngày Khai Đạo,
Kinh-kê, lễ-bái, sư chi sắp đặt về đạo-đức cũng chính Chí-Tôn tạo thành, không
phải do các Đấng khác. Ngài buộc mình làm, tức có cần yếu, hữu ích chi chi đó,
Ngài mới buộc. Vì cớ nên, thời giờ nầy, thấy Bần-Đạo bó-buộc nghiêm-khắc có lẽ
những kẻ biếng-nhác cũng phàn nàn lén-lút. Ngày cuối cùng các bạn gặp mặt Bần-Đạo
nơi Thiêng-Liêng Bần-Đạo sẽ hỏi các bạn coi khi còn ở thế Bần-Đạo buộc cả thảy
đi cúng là có tội hay có công. Công hay tội ngày giờ ấy Bần-Đạo hỏi rồi chúng
ta sẽ có một tấn-tuồng tâm-lý ngộ-nghĩnh với nhau vô cùng tận, chừng đó mới
biết lẽ nên hư.
Ngày nay, giờ phút nầy,
Bần-Đạo đứng lại giảng-đài nầy để lời khuyên nhủ còn biếng nhác quá ! Xác thịt
đã hư rồi đến linh-hồn, phải coi chừng cho lắm, kẻo ngày kia ăn-năn quá
muộn".
Trong thời cúng có phần
trọng yếu là dâng Tam bửu, phần nầy cũng hàm chứa bí pháp qua lời thuyết giảng
của Đức Hộ-Pháp như sau:
"Chúng ta thấy gì ?
Mỗi ngày ta kêu Đức-Chí-Tôn làm chứng, kêu Tam-Giáo làm chứng, giờ phút này con
nguyện dâng cả xác thịt, trí não và linh hồn của con cho Thầy đặng Thầy làm lợi
khí mà phụng sự cho Vạn-linh. Hễ dâng rồi còn gì của mình nữa, có trả nợ tiền
khiên chớ không có tạo nữa; nếu có tạo mà giờ phút này mình đến Đền-Thánh này
đây, ngồi trong lòng của Đức-Chí-Tôn đứng trong phần tử Thánh-Thể của Ngài tình
cờ mình bị quả kiếp gì xảy đến, mình không biết, vì thân thể mình không biết
duy chủ nữa mà chính Đức-Chí-Tôn duy chủ, vì mình giao cả thân-thể mình nơi tay
Đức-Chí-Tôn thì mình không còn biết gì nữa.
Ngày kia mình có thể nói
mỗi hành tàng của con làm, con đã tạo, con giao cả trong tay Đại-Từ-Phụ, quyền
hạn xử định do nơi tay Thầy chớ con không biết.
Mình giao cả hình hài đó
cho Ngài xử dụng, nếu sự thật có gì không hay xảy tới cho mình, mình không
hiểu, mình giao cả thân thể mình cho Đức-Chí-Tôn đặng Đức-Chí-Tôn phụng sự cho
vạn linh quyền xử dụng ấy do Đức-Chí-Tôn quyết định, mình đừng làm trái với mặt
luật của Ngài định.
Ấy vậy, mỗi ngày từ mơi
tới trưa, đến chiều, từ chiều đến khuya, từ khuya tới sáng, mình vô Đền-Thánh
kêu Đức-Chí-Tôn, kêu Tam Giáo và các Đấng Thiêng-liêng mà phân chứng trước.
Thân tôi không còn của tôi nữa, tôi đã hiến cho Đức-Chí-Tôn làm tôi tớ cho
Vạn-Linh thay thế cho Đức-Chí-Tôn, giờ phút đó chúng ta không biết tội nào
chúng ta đã làm dầu có tội mà chúng ta không làm điều gì thêm nữa thì quả kiếp
ấy tiêu diệt, cơ quan giải thoát chúng ta đoạt không thể gì định tội được.
Đức-Chí-Tôn biểu chúng ta không phải là chúng ta; mà chúng ta không phải là
chúng ta thì quả kiếp ấy không phải là của chúng ta tức nhiên ta đã đoạt cơ
giải thoát, (trích Bí Pháp ĐHP thuyết ngày 8/6/năm Kỷ Sửu, 1948).
3 . Năng Tụng Di Lạc Chơn Kinh và Kinh Cứu Khổ.
Di Lạc Chơn Kinh là bổn
kinh vô cùng vi diệu như câu khởi đầu bài kinh là vô thượng thậm thâm vi diệu
pháp. Kinh nầy do chính Đức Phật Thích Ca giáng cơ ban cho. Đây là bổn kinh
quan trọng bậc nhất trong kinh Tận độ của Cao Đài. Theo lời thuyết giảng của
ngài Hồ Bảo Đạo thì kinh Di Lạc như là một biên bản bàn giao giữa Đức Phật
Thích Ca (Nhị Kỳ) và Đức Phật Di Lặc (Tam Kỳ Phổ Độ).
Trong lời tựa của quyển
Kinh Lễ, Hội Thánh đã giảng giải rõ nguồn gốc cũng như tầm quan trọng của kinh
Tận độ vong linh gồm cả kinh Cầu Siêu, kinh cúng Tuần cửu, Tiểu tường, Đại
tường, và Di Lạc Chơn Kinh như sau:
“Từ khi mở Đạo, Chí Tôn
duy giáng cơ truyền cho Phật giáo, Minh Sư, Minh Đường, Minh Lý dạy dâng kinh
cho Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, song linh tận độ vong linh chưa hề giáng cơ cho nơi
nào tất cả.
Đức Quyền Giáo Tông (khi
còn tại thế) và Đức Hộ Pháp trót mười năm trường nghĩa là từ ngày mở Đạo, đã
nhiều phen dâng sớ cho Đại Từ Phụ và các Đấng Thiêng Liêng đặng xin kinh Tận
độ, nhưng mà Chí Tôn cùng chư Thần, Thánh, Tiên, Phật vẫn chưa định ban ân cho
toàn sanh chúng.
Mãi đến ngày 23 tháng 7
tới mùng 4 tháng 8 Aát Hợi (Dl, 21 đến 31-8-1935) mới giáng cho Tân Kinh. Aáy
là một giọt nước cam lồ của Đức Từ Bi rưới chan đặng gội nhuần cho các đẳng
linh hồn của toàn thế giới.
Chúng ta thầm xét thì đủ hiểu rằng : Đã trải qua mười
năm Chí Tôn mới mở cơ Tận độ. Cơ tận độ nhơn sanh duy kể từ ngày ban Tân Kinh
nầy mà thôi.
Thương thay cho những kẻ
vô phần chịu phận thiệt thòi qui liễu trước ngày Tân Kinh chuyển pháp. Ấy cũng
là quả kiếp của nhơn sanh do Thiên thơ tiền định. Nếu chúng ta thương tưởng thì duy có một phương độ rỗi là
trì tụng Di Lạc Chơn Kinh hầu các đẳng linh hồn đặng siêu thăng Tịnh độ”.
Qua lời dẫn giải của Hội
Thánh, chúng ta thấy sự quí báu vô giá
của kinh Tận độ vong linh nhất là kinh Di Lạc. Trong Di Lạc Chơn Kinh diễn tả
sự cứu rỗi vong linh của Chư Phật qua năm từng Trời : Hổn Ngươn Thiên, Hư Vô
Thiên, Tạo Hóa Thiên, Phi Tưởng Thiên, Hạo Nhiên Thiên, tức là 5 Trời cao nhất trong 12 từng
Trời .
Nơi từng Hổn Ngươn Thượng
Thiên Nhứt thiết chư Phật hữu giác, hữu cảm, hữu sanh hữu tử, tri khổ nghiệp
chướng luân chuyển hóa sanh, năng du ta bà thế giái độ tận vạn linh đắc qui
Phật vị, tức là chư Phật cõi nầy cũng đã từng chuyển kiếp làm người trong cõi
ta bà nên thấu rõ khổ não, nghiệp chướng của chúng sanh nên thường du hành
trong cõi ta bà để độ tận chúng sanh đoạt ngôi Phật vị tức là giải thoát khỏi
luân hồi sanh tử.
Toàn thể bổn kinh nói lên
sự cứu độ nhơn sanh về cả xác thân lẫn linh hồn như:
“... tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ tất đắc giải
thoát luân hồi . . .
. . . nhứt tâm thiện niệm Nam Mô Di Lạc Vương Bồ Tát
năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng độ dẫn chúng sanh
thoát chư nghiệt chướng tất đắc giải thoát. . .
. . . hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh Nhiên Đăng Cổ
Phật dẫn độ chơn linh đắc pháp, đắc Phật, đắc duyên, đắc vị đắc A Nậu Đa La Tam
Diệu Tam Bồ Đề (nghĩa là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác là phẩm vị Phật tối
cao) chứng quả nhập Cực Lạc Quốc. . .
. . . hằng hà sa số chư Phật tùng lịnh Kim Bàn Phật
Mẫu, năng tạo, năng hóa vạn linh, năng du ta bà thế giái dưỡng dục quần sanh
qui nguyên Phật vị. . .
. . . Nam Mô Từ Hàng Bồ Tát năng cứu tật bịnh, năng
cứu tam tai, năng độ tận chúng sanh thoát ư tứ khổ , năng trừ tà ma, năng trừ
nghiệt chướng tất đắc giải thoát. . .
. . . Nam Mô Chuẩn Đề Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, năng
trừ ma chướng quỷ tai, năng cứu khổ ách nghiệt chướng, năng độ chúng sanh qui ư
Cực Lạc tất đắc giải thoát”.
Bổn kinh tuy viết theo thể
văn Hán Việt nhưng dùng danh từ thông thường, đọc qua ai cũng có thể hiểu được.
Đặc biệt nơi từng Tạo Hóa
Huyền Thiên, Đức Phật Mẫu năng tạo, năng hóa Vạn Linh, năng du ta bà thế giái
dưỡng dục quần sanh qui nguyên Phật Vị, tức là Bà Mẹ hóa sanh chơn thần của vạn
linh và còn dưỡng dục, độ rỗi con cái đến ngày qui nguyên Phật vị.
Bồn tầng Trời còn lại chư
Phật năng cứu khổ ách, năng cứu tam tai, năng cứu tật bịnh, năng trừ tà ma,
tiêu trừ nghiệt chướng, độ tận chúng sanh thoát ư tứ khổ, giải thoát lục dục
thất tình, thoát đọa luân hồi tất đắc giải thoát qui nguyên Phật vị.
Điểm đặc biệt nữa là năng
lực của Kinh Di Lạc vô cùng rộng lớn như trong đoạn “Nhược nhơn đương sanh,
nhược nhơn vị sanh, nhược nhơn hữu kiếp, nhược nhơn vô kiếp, nhược nhơn hữu
tội, nhược nhơn vô tội, nhược nhơn hữu niệm, nhược nhơn vô niệm, thính đắc ngã
ngôn phát tâm thiện niệm tất đắc A Nậu Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề tất đắc giải
thoát”. Nghĩa là người đang sống, người chưa sanh ra, người có kiếp sống, người
không có kiếp sống,. . .nghe được lời
Phật mà phát tâm thiện niệm đều được giải thoát. Vậy khi ta tụng kinh Di Lạc,
nếu có những chơn linh cõi vô hình đến nghe kinh thì cũng được hưởng hồng ân
siêu thoát. Chính vì vậy Hội Thánh dạy nơi Tòa Thánh cũng như các Thánh Thất
Điện Thờ Phật Mẫu những ngày Rằm, mùng một chư đạo hữu thay phiên nhau tụng
kinh Di Lạc Cứu Khổ từ chiều cho đến khuya để cầu an cho nhơn sanh và cầu siêu
rỗi cho các đẳng linh hồn chưa được siêu thoát. . .
Bây giờ chúng ta tìm hiểu chúng
sanh khi được giải thoát rồi sẽ sống ở cõi nào ? Trong suốt bổn kinh nhiều lần
xác nhận : đó là cõi Cực Lạc Thế Giới như các đoạn:
. . . tất đắc giải thoát
luân hồi, đắc lộ Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề thị chi chứng quả Cực Lạc Niết Bàn. .
.
. . . đắc vị , đắc A Nậu
Đa La Tam Diệu Tam Bồ Đề chứng quả nhập Cực Lạc Quốc. . .
. . . năng độ chúng sanh
qui ư Cực Lạc tất đắc giải thoát. . .
Trong Con Đường Thiêng
Liêng Hằng Sống, Đức Hộ Pháp có thuyết giảng nơi Cực Lạc Thế Giới ngày nay do
Đức Di Lạc chưởng quản còn Đức Phật A Di Đà vào ở nơi Lôi Âm Tự. Do đó nếu ai
muốn vãng sanh Cực Lạc hằng ngày trì tụng Di Lạc Chơn Kinh càng nhiều càng tốt.
Di Lạc Chơn Kinh có năng lực vi diệu tiêu trừ nghiệp chướng và còn giải thoát
luân hồi, cho nên là bổn kinh quí báu vô giá.
Vậy nếu cả kiếp sanh chúng ta
ngày nào cũng tụng Di Lạc Chơn Kinh thì lo gì mản kiếp không được về Cực
Lạc Quốc. Dĩ nhiên tụng kinh rồi còn lo lập công, lập đức, dưỡng tánh tu tâm,
đó là ta mỗi ngày tiến bước trên con đường giải thoát đó vậy.
Bây giờ nói đến kinh Cứu
Khổ, đây là bổn kinh nguyên thủy từ Phật Giáo, nói lên sự cứu khổ, cứu nạn của
Đức Quan Aâm Bồ Tát và chư Phật chư Thánh như trong kinh có giải: năng cứu ngục
tù, năng cứu trọng bịnh, năng cứu tam tai bá nạn khổ. . . hoặc “tụng đắc nhứt thiên biến, nhứt thân ly khổ
nạn, tụng đắc nhứt vạn biến hiệp gia ly khổ nạn”, nghĩa là tụng một ngàn
biến thì giải khổ cho một người còn tụng được mười ngàn biến thì giải khổ cho
cả gia đình. . . Đây là bổn kinh quí báu có năng lực tiêu tai giải khổ cho nhơn
sanh. . .
KẾT LUẬN:
Nếu chúng ta là môn đệ Cao Đài nhưng chúng ta chưa biết phải làm gì trong việc tu tập hàng
ngày, ngoài việc lo lập công bồi đức, thì đây là lời giải đáp.
Thứ nhứt: trong tâm ta lúc nào cũng niệm danh Thầy là Nam
Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát, niệm thầm trong tâm chớ không cần
phải niệm thành tiếng. Bất cứ khi đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc gì mà không
dùng trí óc ta đều để tâm niệm danh Thầy và sau mỗi câu niệm ta nguyện thầm:
mãn báu thân này được về cùng Thầy. . . Lâu dần tâm ta sẽ còn chánh niệm và
loại trừ hết tạp niệm và sẽ cảm thấy an lạc . Có khi ta bị khảo đảo làm cho tâm
hồn khổ não ta cần phải niệm danh Thầy nhiều hơn nữa , ta sẽ cảm nhận được niềm
an ủi vô biên và nhờ niệm lực sẽ vượt qua được cơn khổ nạn.
Thứ hai: Nên lập Thiên bàn thờ Thầy nơi tư gia để mỗi ngày
cúng tứ thời. Đối với người lớn tuổi đã về hưu thì việc cúng mỗi ngày bốn thời
Tý Ngọ Mẹo Dậu cũng không mấy khó khăn, nhưng nếu chúng ta còn đi làm việc mỗi ngày thì cúng một hai
thời cũng là quí lắm rồi. Điều cần thiết là khi cúng phải để hết tinh thần vào
lời kinh, loại trừ mọi vọng niệm lâu dần ta sẽ tập được nhứt tâm bất loạn. Khi
cúng chúng ta hưởng được điển lành các
Đấng ban cho nên chơn thần ta ngày càng trở nên mẫn huệ và sẽ đoạt được minh
tâm kiến tánh. . .
Thứ ba: Mỗi thời cúng Thầy xong phải tụng tiếp Di Lạc
Chơn Kinh và Kinh Cứu Khổ để giải trừ nghiệt chướng, đoạt cơ siêu thoát bởi vì
đây là kinh Tận độ. Tại sao phải đợi lúc chết mới nhờ người ta tụng kinh cho
mình siêu thoát mà lúc sống mình không tụng kinh cho chính mình ?
Ba phần trên bao gồm
những bí pháp đoạt Đạo, nên có thể gọi
là pháp môn Tịnh Độ của Cao Đài. Điều cần là chúng ta có được niềm tin tuyệt đối hay không ? Và có
thường hành đến nơi đến chốn hay không ? Chúng ta hãy chứng minh cho mọi người
thấy rằng đây là pháp môn vi diệu nhất !
HT. Mai Văn Tìm
(07/2008)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét