Các Cổ Pháp Ðại Ðạo và Cổ Thư Tam Giáo - 2 / 2 (HT-Trần Văn Rạng)


PHÁP BẢO ĐÀN KINH CỦA LỤC TỔ
" Này Thiện tri thức !
Trong mỗi niệm tự thấy được bản tánh thanh tịnh, tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo". Lục Tổ.

CHƯƠNG I 
NGHI VẤN
Một hôm Vi Thứ Sử vì Tổ thiết đại hội trai; trai xong, Thứ Sử thỉnh Tổ đăng tòa, quan liêu sĩ thứ đều thành kính lễ bái, hỏi rằng :
"Đệ tử nghe Hòa Thượng thuyết pháp, thật không thể nghĩ bàn, nay có một ít nghi, cúi mong Ngài đại từ đại bi đặc biệt vì giải nói".
Tổ bảo rằng : " Có nghi liền hỏi, tôi sẽ vì các ông mà nói".

Thứ Sử thưa rằng : " Hòa Thượng nói pháp đâu không phải là tông chỉ của Tổ Đạt Ma ư ?"
Tổ bảo : " Đúng vậy !"
Thứ Sử thưa : " Đệ tử nghe Tổ Đạt Ma khi mới đến vua Lương Võ Đế, Võ Đế hỏi rằng : " Trẫm một đời cất chùa độ Tăng, bố thí thiết trai có những công đức gì? Tổ Đạt Ma bảo : Thật không có công đức. Đệ tử chưa thấu được lẽ này, cúi mong Hòa Thượng vì nói".

Tổ bảo : " Thật không có công đức, chớ nghi lời của bậc tiên thánh. Vũ Đế tâm tà, không biết chánh pháp, cất chùa độ Tăng, bố thí, thiết trai đó gọi là cầu phước, chớ không thể đem phước đổi làm công đức. Công đức là ở trong pháp thân, không phải do tu phước mà có được. Tổ lại nói : " Thấy tánh ấy là công, bình đẳng ấy là đức. Mỗi niệm không ngưng trệ, thường thấy bản tánh, chân thật diệu dụng gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ ấy là dựng lập muôn pháp là công, bên ngoài hành lễ phép ấy là đức. Tự tánh dựng lập muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm ấy là đức; không lìa tự tánh ấy là công, ứng dụng không nhiễm ấy là đực. Nếu tìm công đức pháp thân, chỉ y nơi đây mà tạo, ấy là chơn công đức. Nếu người tu công đức, tâm đức không có kinh, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngã không dứt tức là không công, tự tánh hư vọng không thật tức tự không có đức, vì ngô ngã tự đại thượng khinh tất cả. Này Thiện tri thức ! (Mỗi niệm không có gián đoạn ấy là công, tâm hành ngày tháng ấy là đức) tự tu tánh ấy là công, tự tu thân ấy là đức. Này Thiện tri thức ! Công đức phải là nơi tự tánh mà thấy, không phải do bố thí cúng dường mà cầu được. Ấy là phước đức cùng với công đức khác nhau. Võ Đế không biết chân lý, không phải Tổ Sư ta có lỗi."

Thứ Sử lại hỏi rằng : " Đệ tử thường thấy Tăng niệm Phật A Di Đà, nguyện sanh Tây phương thỉnh Hòa Thượng nói, được sanh nơi cõi kia chăng ? Nguyện vì phá cái nghi này".

Tổ bảo : " Sử quân khéo lắng nghe, Huệ Năng sẽ nói. Thế Tôn ở trong thành Xá Vệ nói kinh văn Tây phương dẫn hóa, rõ ràng cách đây không xa. Nếu luận về tướng mà nói, lý số có mười muôn tám ngàn tức là trong thân có mười ác và tám tà, liền là nói xa, nói xa là vì kẻ hạ căn, nói gần là vì những người thượng trí. Người có hai hạng nhưng pháp không có hai thứ, mê ngộ có khác thấy có mau chậm. Người mê niệm Phật cầu sanh về cõi kia, người ngộ tự tịnh tâm mình. Sở dĩ Phật nói : Tùy tâm tịnh liền được cõi Phật tịnh. Sử quân, người phương Đông chỉ tâm mình tịnh liền không có tội, tuy người phương Tây tâm không tịnh cũng có lỗi. Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu sanh về phương Tây, còn người phương Tây tạo tội, niệm Phật cầu sanh cõi nào ? Phàm ngu không rõ tự tánh, không biết trong tâm Tịnh độ, nguyện đông, nguyện tây, người ngộ đạo ở chỗ nào cũng vậy. Sở dĩ Phật nói : Tùy chỗ mình ở hằng được an lạc. Sử quân, tâm địa chỉ không có cái bất tiện thì Tây phương cách đây không xa. Nếu ôm lòng chẳng thiện, niệm Phật vãng sanh khó đến. Nay khuyên Thiện tri thức trước nên dẹp trừ thập ác tức là đi được mười muôn, sau trừ tám cái tà bèn qua được tám ngàn, mỗi niệm thất tánh thường hành bình đẳng, đến như trong khảy móng tay, liền thấy đức Phật A Di Đà. Sử quân, chỉ hành mười điều thiện đâu cần lại nguyện vãng sanh, không đoạn cái tâm thập ác thì Phật nào đón tiếp. Nếu ngộ được đốn pháp vô sanh, thấy Tây phương chỉ trong khoảng sát na. Còn chẳng ngộ, niệm Phật cầu sanh thì con đường xa làm sao đến được ! Huệ Năng vì mọi người đời cõi Tây phương trong khoảng sát na ở trước mắt khiến cho qúi vị được thấy, quí vị có muốn thấy hay chăng?".

Chúng đều đảnh lễ thưa rằng : " Nếu ở cõi nầy mà thấy được thì đâu cần phải nguyện vãng sanh, nguyện Hòa Thượng từ bi liền hiện Tây phương khiến cho tất cả được thấy".

Tổ bảo rằng : "Nầy đại chúng ! Người đời tự sắc thân là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa, ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm, tánh còn thì vua còn, tánh đi mất thì vua mất; tánh ở thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật nhằm ở trong tánh mà tạo, chớ không hướng ra ngoài mà cầu. Tự tánh mê tức tức là chúng sanh, tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức là Quan Thế Âm, hỷ xả gọi là Đại Thế Chí , hay tịnh tức là Đức Thích Ca, bình trực tức là Phật Di Đà . Nhơn ngã ấy là Tu Di, tà tâm là biển độc, phiền não là sóng mòi, độc hại là rồng dữ; hư vọng là quỉ thần, trần lao là rùa tranh, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh. Nầy Thiện trí thức ! Thường làm mười điều lành thì thiên đường liền đến, trừ nhơn ngã thì núi Tu Di ngã, dẹp được tham dục thì biển nước độc khô, phiền não không thì sóng mòi mất, độc hại trừ thì rồng cá đều dứt. Ở trên tâm địa mình là giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, ngoài chiếu sáu cửa thanh tịnh hay phá sáu cõi trời dục, tự tánh trong chiếu ba độc tức liền trừ địa ngục ..v.v.. các tội một lúc điều tiêu diệt, trong ngoài sáng tột, chẳng khác với cõi Tây phương, không chịu tu như thế nầy làm sao đến được cõi kia ?".

Đại chúng nghe nói rồi đều rõ ràng thấy được tự tánh, thảy đều lễ bái, đều tán thán: " Lành thay !" . Thưa rằng : " Khắp nguyện pháp giới chúng sinh nghe nói có một thời liền ngộ hiểu".

Tổ bảo : " Nầy Thiện trí thức ! Nếu muốn tu hành, tại gia cũng được, không cần chùa, người ở tại gia mà hay hành như người ở phương Đông mà tâm được thiện, còn người ở chùa mà không tu cũng như người ở phương Tây mà tâm ác. Chỉ tâm thanh tịnh tức là tự tánh Tây phương".

Thứ Sử Vi Cừ lại hỏi rằng : " Người tại gia làm sao tu hành ? Cúi xin Ngài chỉ dạy".

Tổ bảo : " Tôi vì đại chúng làm một bài tụng Vô Tướng, chỉ y đây mà tu, thường cùng tôi đồng ở không khác, nếu không tu như thế nầy dù có cạo tóc xuất gia đối với đạo cũng không có ích gì.
                                   Tụng rằng :
Tâm bình không nhọc giữ giới
Âân thì nuôi dưỡng cha mẹ
Nhường thì trên dưới hòa
Nếu hay dùi cây ra lửa
Đắng miệng tức là thuốc hay
Sửa lỗi ắt sanh trí tuệ
Mỗi ngày thường làm lợi ích
Bồ đề chí hướng tâm tìm
Nghe nói y đây tu hành
Hạnh thẳng không cần tu thiền
Nghĩa thì trên dưới thương nhau
Nhẫn thì các ác không ồn
Trong bùn quyết mọc sen hồng
Nghịch tai là lời ngay thẳng
Giữ quấy trong tâm không hiền
Thành đạo không do thí tiền,
Đâu nhọc hướng ngoại cầu huyền
Cực lạc chỉ ngay trước mắt.

Tổ lại bảo : " Nầy Thiện tri thức ! Thảy phải y kệ đây mà tu hành, nhận lấy tự tánh, thẳng đó thành đạo, Pháp không đợi nhau, mọi người hãy giải tán, tôi trở về Tào Khê, chúng nếu có nghi, lại đến hỏi nhau".
Khi ấy Thứ Sử quan liêu ở trong hội, kẻ thiện nam tín nữ mỗi người đều được khai ngộ, tin thọ vâng làm".
CHƯƠNG II

ĐỊNH TUỆ

Tổ dạy chúng rằng : "Nầy Thiện tri thức ! Pháp môn của ta đây lấy Định Tuệ làm gốc, đại chúng chớ lầm nói Định Tuệ riêng, Định Tuệ một thể không phải là hai. Định là thể của Tuệ, Tuệ là dụng của Định, Tuệ ở tại Định, nếu biết được nghĩa nầy tức là cái học Định Tuệ bình đẳng. Những người học đạo chớ nói trước Định rồi sau mới phát Tuệ , trước Tuệ rồi sau mới phát Định, mỗi cái riêng khác. Khởi cái thấy như thế ấy ( tức là cái kiến giải thế ấy) thì pháp có hai tướng. Miệng nói lời thiện mà trong tâm không thiện thì không có Định Tuệ, Định Tuệ là không bình đẳng. Nếu tâm, miệng đều thiện, trong ngoài một thứ. Định Tuệ tức là bình đẳng. Tự ngộ tu hành không ở chỗ tranh cải nếu tranh trước sau tức là đồng với người mê, không dứt sự hơn thua, trở lại tăng ngã và pháp, không lìa bốn tướng.
Nầy Thiện trí thức ! Định Tuệ ví như cái gì ? Ví như ngọn đèn và ánh sáng. Có ngọn đèn tức có ánh sáng, không đèn tức là tối, đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của đèn, tên tuy có hai mà thể vốn đồng một, pháp Định Tuệ nầy cũng lại như thế".

Tổ dạy chúng rằng : "Nầy Thiện tri thức ! Nhất hạnh tam muội là đối với tất cả chỗ, đi đứng ngồi năm thường hành một trực tâm ấy vậy" . Kinh Tịnh Danh nói : "Trực tâm là đạo tràng, trực tâm là Tịnh độ. Tâm làm những chuyện siểm khúc, miệng nói trực, miệng nói nhất hạnh tam muội mà không hành trực tâm; còn hành trực tâm, đối với tất cả pháp chớ có chấp trước. Người mê chấp pháp tướng, chấp nhất hạnh tam muội, chỉ nói ngồi không động, tâm vọng không khởi tức là nhất hạnh tam muội ….người khởi hiểu thế nầy tức là đồng với vô tình, trở lại là nhơn duyên chướng đạo."

Nầy Thiện tri thức ! Đạo phải thông lưu, do đâu trở lại ngưng trệ, tâm không trụ nơi pháp, đạo tức là thông lưu. Tâm nếu trụ pháp gọi là tự phược, nếu nói thường ngồi không động, ấy chỉ như Ngài Xá Lợi Phật ngồi yên trong rừng lại bị Ngài Duy Ma Cật quở trách. Nầy Thiện tri thức ! lại có người dạy ngồi khán tâm quán tịnh, không động không khởi, từ đây mà lập công khóa, người mê không hiểu liền chấp thành ra điên cuồng ; những người như thế nầy thật là động, dạy nhau như thế, nên biết đó là lầm lớn".

Tổ dạy chúng rằng : " Nầy Thiện tri thức ! Xưa nay chánh giáo không có đốn tiệm, tánh người tự có lợi và độn, người mê thì lần lần khế hợp, người ngộ thời chóng ty, tự biết bổn tâm, tự thấy bổn tánh, tức là không có sai biệt, do đó nên lập giả danh đốn tiệm. Nầy Thiện tri thức ! Pháp môn của ta đây từ trước đến nay, trước lập vô niệm làm tông, vô tướng làm thể, vô trụ làm bổn. Vô tướng là đối với tướng mà lìa tướng ; vô niệm là đối với niệm mà không niệm; vô trụ là bản tánh của người. Ở thế gian nào là thiện ác, tốt xấu, cho đến những việc oán cùng với thân, ngôn ngữ xúc phạm, hư dối tranh đua.v..thảy đều đem về không ; không nghĩ trả thù hại lại, trong mỗi niệm không nghĩ cảnh trước, nếu niệm trước, niệm hiện tại, niệm sau, trong mỗi niệm tương tục không dứt gọi là hệ chược (trói buộc). Đối trên các pháp mỗi niệm không trụ, tức là không chược, đây là lấy vô trụ làm gốc . Nầy Thiện tri thức ! Ngoài lìa tất cả tướng gọi là vô tướng, hay lìa nơi tướng tức là pháp thể thanh tịnh, đây là lấy vô tướng làm thể. Nầy Thiện tri thức ! Đối trên các cảnh tâm không nhiễm gọi là vô niệm. Đối trên niệm thường lìa các cảnh, chẳng ở trên cảnh mà sanh tâm. Nếu chỉ trăm vật chẳng nghĩ, niệm phải trừ hết, một niệm dứt tức là chết, rồi sẽ sanh nơi khác, ấy là lầm to. Người học đạo suy nghĩ đó, nếu không biết cái ý của pháp thì tự lầm còn có thể, lại dạy người khác (là không nên), tự mê không thấy lại còn chê bai kinh Phật, vì thế nên lập vô niệm làm tông. Nầy Thiện tri thức ! Thế nào lập vô niệm làm tông ? Chỉ vì miệng nói thấy tánh, người mê ở trên cảnh có niệm, trên niệm lại khởi tà kiến, tất cả trần lao vọng tưởng từ đây mà sanh. Tự tánh, vốn không một pháp có thể được, nếu có sở đắc, vọng nói họa phước tức là trần lao tà kiến, nên pháp môn nầy lập vô niệm tông. Nầy Thiện tri thức ! Vô là vô việc gì ? Niệm là niệm vật nào ? Vô đó là không có hai tướng, không có các tâm trần lao ; niệm là niệm chân như bản tánh. Chân như tức là thể của niệm, niệm tức là dụng của chân như, chân như tự tánh khởi niệm, không phải mắt tai mũi lưỡi hay khởi niệm, chân như có tánh cho nên khởi niệm, chân như nếu không có tánh thì mắt tai sắc thanh chính khi ấy liền hoại. Nầy Thiện tri thức ! Chân như tự tánh khởi niệm, sáu căn tuy có thấy nghe hiểu biết mà không nhiễm muôn cảnh, mà chơn tánh thường tự tại nên kinh nói : hay khéo phân biệt các pháp tướng mà đối với nghĩa đệ nhất không có động".

CHƯƠNG III

TỌA THIỀN

Tổ dạy chúng rằng: Pháp môn tọa Thiền nầy vốn không chấp nơi tâm, cũng không chấp nơi tịnh, cũng chẳng phải chẳng động. Nếu nói chấp tâm, tâm vốn là vọng, biết tâm như huyễn nên không có chỗ chấp vậy. Nếu nói chấp tịnh, tánh người vốn là tịnh, bởi vì vọng niệm che đậy chơn như, chỉ không có vọng tưởng thì tánh tự thanh tịnh. Khởi tâm chấp tịnh trở lại sanh ra cái tịnh vọng. Vọng không có chỗ nơi, chấp ấy là vọng ; tịnh không hình tướng trở lại lập tướng tịnh, nói là công phu, người khởi kiến giải này là chướng tự bản tánh trở lại bị tịnh trói.
Nầy Thiện tri thức ! Nếu người tu hạnh bất động, chỉ khi thấy tất cả mọi người, không thấy việc phải quấy, tốt xấu, lỗi lầm của người tức là tự tánh bất động. Nầy Thiện tri thức ! Người mê thân tuy bất động, mở miệng liền nói việc phải quấy, hay dở, tốt xấu của người (tức là) cùng đạo đã trái nhau, chấp tâm, chấp tịnh tức là chướng đạo.

Tổ dạy chúng rằng : Nầy Thiện tri thức ! Sao gọi là tọa Thiền ? Trong pháp môn nầy không chướng không ngại, ngoài đối với tất cả cảnh giới thiện ác tâm niệm chẳng khởi gọi là tọa, trong thấy tự tánh chẳng động gọi là thiền. Nầy Thiện tri thức, sao gọi là thiền định ? Ngoài lìa tướng là thiền, trong chẳng loạn là định. Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm tức loạn, bản tánh tự tịnh tự định, chỉ vì thấy cảnh, suy nghĩ cảnh tức là loạn; nếu thấy các cảnh mà tâm chẳng loạn ấy là chơn định vậy. Nầy Thiện tri thức !Ngoài lìa tướng tức là thiền, trong chẳng loạn tức là định, ngoài thiền trong định, ấy gọi là Thiền định. Kinh Bồ Tát Giới nói : Bản tánh của ta vốn tự thanh tịnh. Nầy Thiện tri thức ! Trong mỗi niệm tự thấy được bản tánh thanh tịnh, tu tự, tự hành, tự thành Phật đạo.

CHƯƠNG IV

SÁM HỐI

Khi ấy Tổ thấy sĩ thứ bốn phương từ Quảng Châu, Thiều Châu đua nhau đến trong núi nghe pháp, Tổ mới đăng tòa bảo chúng rằng : " Đến đây các Thiện tri thức ! Tánh nầy phải từ trong tự tánh mà khởi, trong tất cả thời, mỗi niệm tự tịnh tâm kia, tự tu, tự hành, thấy pháp thân của mình, thấy tâm Phật của mình, tự độ, tự giới mới được, không nhờ đến đây. Đã từ xa đến, một hội ở đây đều cùng có duyên, nay có thể mỗi vị quỳ gối, trước tôi vì truyền cho Tự Tánh Ngũ phần pháp thân hương, kế đó là trao Vô tướng sám hối.
Chúng đều quì gối, Tổ bảo : " Một là Giới hương, tức là trong tâm mình không có quấy, không có ác, không tật đố, không tham sân, không cướp hại gọi là Giới hương. Hai là Định hương tức là thấy các cảnh tướng thiện ác, tự tâm chẳng loạn gọi là Định hương. Ba là Huệ hương là tâm mình không ngại, thường dùng trí tuệ quán chiếu tự tánh, chẳng tạo các ác, tuy tu các hạnh lành mà tâm không chấp trước, kính bậc trên thương kẻ dưới, cứu giúp người cô bần, gọi là Huệ hương. Bốn là Giải thoát hương tức tự tâm mình không có chỗ phan duyên, chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác, tự tại vô ngại gọi là Giải thoát hương. Năm là Giải thoát tri kiến hương tự tâm đã không có chỗ phan duyên thiện ác, không thể trầm không trệ tịch, tức phải học rộng nghe nhiều biết bản tâm mình, đạt được lý của chư Phật, hòa quang tiếp vật, không ngã không nhơn, thẳng đến Bồ đề, chơn tánh không đổi, gọi là Giải thoát tri kiến hương. Nầy Thiện tri thức ! Hương nầy mỗi người tự huân ở trong, chớ hướng ra ngoài tìm, nay tôi vì các ông trao Vô tướng sám hối để diệt tội trong ba đời, khiến được ba nghiệp thanh tịnh. Nầy Thiện tri thức ! Mỗi người đồng thời nói theo lời tôi : Đệ tử chúng con, từ niệm trước, niệm hiện nay và niệm sau, mỗi niệm không bị u mê làm nhiễm, từ trước có những nghiệp ác, ngu mê v.v..các tội thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu diệt , hằng không khởi lại. Đệ tử chúng con từ niệm trước, niệm hiện nay và niệm sau, mỗi niệm không bị kiêu cuống làm nhiễm, từ trước có những nghiệp ác, kiêu cuống v.v..các tội, thảy đều sám hối, nguyện một thời tiêu diệt, hằng không khởi lại. Đệ tử chúng con từ nhiệm trước, niệm hiện tại và niệm sau, mỗi niệm không bị tật đố làm nhiễm, từ trước có những nghiệp ác, tật đố v..v..các tội thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu diệt, hằng không khởi lại. Này Thiện tri thức ! Về trước là Vô tướng Sám hối. Thế nào gọi là sám? Thế nào gọi là hối? Sám là sám những lỗi về trước, từ đó có những nghiệp ác ngu mê, kiêu cuống, tật đố v.v..các tội,thảy đều sám hết hằng không khởi lại, gọi đó là sám. Hối là hối những lỗi về sau, từ nay về sau có những nghiệp ác, ngu mê, kiêu cuống, tật đố v.v..các tội, nay đã giác ngộ, thảy đều bằng hằng đoạn, lại không tạo lại, ấy gọi là hối, nên gọi là sám hối. Người phàm phu ngu mê, chỉ biết sám hối trước, chẳng biết hối lỗi sau, do vì không hối nên tội trước chẳng diệt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đã chẳng diệt, lỗi sau lại sanh, sao gọi là sám hối được.

Nầy Thiện tri thức ! Đã sám hối xong, vì Thiện tri thức phát tứ hoằng thệ nguyện, mỗi người phải dụng tâm chánh lắng nghe : Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, tự tâm phiền não vô biên thệ nguyện đoạn, tự tánh pháp môn vô tận thệ nguyện học, tự tánh Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành. Nầy Thiện tri thức ! Cả thảy đâu chẳng nói : Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, nói thế ấy, vả lại không phải là Huệ Năng độ. Nầy Thiện tri thức ! Chúng sanh trong tâm, chỗ gọi rằng tâm tà mê, tâm cuống vọng, tâm bất thiện, tâm tật đố, tâm ác độc, những tâm như thế trọn là chúng sanh, mỗi người nên tự tánh tự độ, ấy gọi là chơn độ. Sao gọi là tự tánh tự đo? Tức tự trong tâm những chúng sanh tà kiến, phiền não, ngu si, đem chánh kiến mà độ. Đã có chánh kiến bèn sử dụng trí Bát Nhã đánh phá những chúng sanh ngu si mê vọng, mỗi người tự độ, tà đến thì chánh độ, mê đến thì ngộ độ, ngu đến thì trí độ, ác đến thì thiện độ, độ như thế gọi là chơn độ. Lại phiền não vô biên thệ nguyện đoạn, đem tự tánh Bát Nhã trí trừ hư vọng tư tưởng tâm ấy vậy. Lại pháp môn vô tận thệ nguyện học, phải tự thấy tánh của mình, thường hành chánh pháp, ấy gọi là chơn học. Lại Vô Thường Phật đạo thệ nguyện thành, đã thường hay hạ tâm hành nơi chơn chánh, lìa mê, lìa giác, thường sanh Bát Nhã trừ chơn trừ vọng, tức thấy được Phật tánh, liền ngay nơi lời nói, liền thành Phật đạo, thường nhớ tu hành, ấy là pháp nguyện lực.

Nầy Thiện tri thức ! Nay phát Tứ hoằng thệ nguyện rồi lại vì Thiện tri thức mà trao Vô tướng Tam qui y giới. Nầy Thiện tri thức ! Quy y Giác Lưỡng túc tôn, qui y Chánh Ly dục tôn, qui y Tịnh Chúng trung tôn. Từ ngày nay trở đi xưng Giác làm thầy, lại chẳng qui y tà ma ngoại đạo, dùng tự tánh Tam Bảo thường tự chứng minh, khuyên Thiện tri thức qui y tự tánh Tam Bảo. Phật là Giác vậy, Pháp là Chánh vậy, Tăng là Tịnh vậy. Tự tâm qui y Giác, tà mê chẳng sanh, thiểu dục tri túc hay lìa tài sắc, gọi là Lưỡng túc tôn, Tự tâm qui y chánh niệm niệm không tà kiến, vì không tà kiến tức là không nhơn ngã cống cao, tham ái, chấp trước gọi là Ly dục tôn. Tự tâm qui y Tịnh, tất cả cảnh giới trần lao ái dục, tự tánh đều không nhiễm trước gọi là Chúng trung tôn. Nếu tu hạnh nầy, ấy là tự qui y. Phàm phu không hiểu, từ sáng đến tối, thọ tam qui giới, nếu nói qui y Phật, Phật ở chỗ nào ? Nếu chẳng thấy Phật thì nương vào chỗ nào mà qui, nói lại thành vọng. Nầy Thiện tri thức ! Mỗi người tự quan sát, chớ lầm dụng tâm, kinh văn rõ ràng nói tự qui y Phật, chẳng nói qui y với Phật khác, tự Phật mà chẳng qui thì không có chỗ nào mà y được. Nay đã tự ngộ, mỗi người phải qui y tự tâm Tam Bảo, trong thì điều hòa tâm tánh, ngoài thì cung kính mọi người, ấy là tự qui y vậy.

Nầy Thiện tri thức ! Đã qui y tự Tam Bảo xong, mỗi người phải chí tâm, tôi vì nói một thể ba thân tự tánh Phật, khiến các ông thấy được ba thân rõ ràng tự ngộ tự tánh. Phải theo lời tôi nói : Nơi tự sắc thân qui y Thanh Tịnh Pháp Thân Phật, nơi tự sắc thân qui y Viên Mãn Báo Thân Phật, nơi tự sắc thân qui y Thiên Bá Ức Hóa Thân Phật. Nầy Thiện tri thức ! Sắc thân là nhà cửa không thể nói qui hướng đó, ba thân Phật ở trong tự tánh người đời đều có, vì tự tâm mê không thấy tánh ở trong nên chạy ra ngoài tìm ba thân Như Lai, chẳng thấy ở trong thân có ba thân Phật. Các ông lắng nghe tôi nói khiến các ông ở trong tự thân thấy được tự tánh có ba thân Phật. Ba thân Phật này từ nơi tánh sanh , chẳng phải tự ngoài mà được. Sao gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật ? Người đời bản tánh là thanh tịnh, muôn pháp từ nơi tánh mà sanh, suy nghĩ tất cả việc lành tức sanh hạnh lành. Như thế các pháp ở trong tự tánh như trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, vì mây che phủ nên ở trên sáng, ở dưới tối, chợt gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, vạn tượng đều hiện. Tánh của người đời thường phù du như mây trên trời kia. Nầy Thiện tri thức, trí như mặt trời, huệ như mặt trăng, trí huệ thường sáng, do bên ngoài chấp cảnh nên bị mây nổi vọng niệm che phủ tự tánh không được sáng suốt. Nếu gặp Thiện tri thức, nghe được pháp chơn chánh, tự trừ mê vọng, trong ngoài đều sáng suốt, nơi tự tánh muôn pháp đều hiện. Người thấy tánh cũng lại như thế, ấy gọi là Thanh Tịnh Pháp Thân Phật.

Nầy Thiện tri thức ! Tự tâm qui y tự tánh là qui y chơn Phật. Tự qui y là trừ bỏ trong tự tánh tâm bất thiện, tâm tật đố, tâm siểm khúc, tâm ngô ngã, tâm cuống vọng, tâm khinh người, tâm lấn người, tâm tà kiến, tâm cống cao, và hạnh bất thiện trong tất cả thời, thường tự thấy lỗi mình, chẳng nói tốt xấu của người khác, ấy là tự qui y. Thường tự hạ tâm, khắp hành cung kính tức là thấy tánh thông đạt lại không bị ngăn trệ, ấy là tự qui y.

Sao gọi là Viên Mãn Báo Thân Phật ? Thí như một ngọn đèn hay trừ ngàn năm tối, một trí tuệ hay diệt muôn năm ngu. Chớ suy nghĩ về trước, đã qua không thể được. Thường phải nghĩ về sau, mỗi niệm mỗi niệm tròn sáng, tự thấy bản tánh. Thiện ác tuy là khác mà bản tánh không có hai, tánh không hai đó gọi là tánh Phật. Ở trong thật tánh không nhiễm thiện ác, đây gọi là Viên Mãn Báo Thân Phật. Tự tánh khởi một niệm ác thì diệt muôn kiếp nhơn lành, tự tánh khởi một niệm thiện thì được hằng sa ác hết, thẳng đến vô thượng Bồ đề, niệm niệm tự thấy chẳng mất bổn niệm gọi là Báo thân.

Sao gọi là Thiên Bách Ức Hóa Thân ? Nếu chẳng nghĩ muôn pháp thì tánh vốn như không, một niệm suy nghĩ gọi là biến hóa. Suy nghĩ việc ác là hóa làm địa ngục, suy nghĩ việc thiện thì hóa làm thiên đường, độc hại thì hóa làm rồng rắn, từ bi thì hóa làm Bồ Tát, trí huệ thì hóa làm thượng giới, ngu si thì hóa làm hạ giới. Tự tánh biến hóa rất nhiều, người mê không hay tỉnh giác, mỗi niệm khởi ác thường đi trong con đường ác, xoay về một niệm thiện, trí tuệ liền sanh, đây gọi là tự tánh Hóa thân Phật.

Nầy Thiện tri thức ! Từ Pháp thân suy nghĩ tức là Hóa Thân Phật, niệm niệm tự tánh tự kiến tức là Báo Thân Phật, tự ngộ tự tu, tự tánh công đức, ấy là chơn thật qui y. Da thịt là sắc thân, sắc thân đó là nhà cửa, không nói là qui y vậy. Chỉ ngộ tự tánh ba thân tức là biết được tự tánh Phật. Tôi có một bài tụng Vô Tướng, nếu người hay trì tụng, ngay nơi lời nói liền khiến cho ông, tội mê từ nhiều kiếp, một lúc liền tiêu diệt. Tụng rằng :
Người mê tu phước chẳng tu đạo,
Chỉ nói tu phước liền là đạo,
Bố thí cúng dường phước vô biên,
Trong tâm ba ác xưa nay tạo.
Nghĩ muốn tu phước để diệt tội,
Đời sau được phước, tội vẫn còn,
Chỉ hướng trong tâm trừ tội duyên,
Mỗi người tự tánh chơn sám hối,
Chợt gặp Đại thừa chơn sám hối,
Trừ tà hành chánh tức không tội,
Học đạo thường nơi tự tánh quán,
Tức cũng chư Phật đồng một loại,
Tổ ta chỉ truyền pháp đốn giáo,
Khắp nguyện kiến tánh đồng một thể.
Nếu muốn đời sau tìm Pháp thân,
Lìa các pháp tướng trong tâm rửa sạch.
Nổ lực tự thấy chớ lơ là,
Một niệm chợt dứt một đời thôi.
Nếu gặp Đại thừa được thấy tánh,
Thành tâm cung kính chấp tay cầu.

Tổ nói : " Nầy Thiện tri thức ! Phải tụng lấy, y đây tu hành, ngay nơi lời nói mà thấy tánh, tuy cách tôi ngàn dặm như thường ở bên cạnh tôi ; một lời nói nầy mà chẳng ngộ tức là đối diện với tôi mà cách xa ngàn dặm, đâu cần từ xa đến đây. Trân trọng đi được an vui".
Cả chúng nghe pháp rồi không ai mà chẳng khai ngộ, đều hoan hỷ phụng hành.

CHƯƠNG V

ĐỐN TIỆM

Khi ấy Tổ ở chùa Bảo Lâm tại Tào Khê, còn Thần Tú Đại Sư ở chùa Ngọc Tuyền tại Kinh Nam. Bấy giờ hai Tông thạnh hóa, người đều gọi là Nam Năng Bắc Tú nên có hai tông Nam Bắc , chia ra đốn tiệm, mà người học không biết tông thú. Tổ bảo chúng rằng : " Pháp vốn một tông, người có Nam Bắc, pháp tức là một thứ, thấy có mau và chậm. Sao gọi là đốn tiệm? Pháp không có đốn tiệm, người có lợi căn, độn căn, nên gọi là đốn tiệm". Nhưng đồ đệ của Ngài Thần Tú thường chê Tổ sư Nam Tông là không biết một chữ, có cái gì hay. Thần Tú nói rằng : "Kia (Tổ Huệ Năng) được trí vô sư, thâm ngộ được pháp thượng thừa, tôi không bằng vậy. Vả lại Thầy tôi là Ngũ Tổ, chính Ngài truyền y pháp, há lại suông ư ? Tôi hận không có thể đi xa để mà thân cận, luống thọ ân Quốc vương, vậy những người các ông không nên kẹt ở đây, nên đến Tào Khê tham hỏi". Một hôm Ngài sai đệ tử là Chí Thành rằng : " Ông thông minh nhiều trí, nên vì tôi mà đến Tào Khê nghe pháp, nếu nghe được điều gì, hết lòng ghi lấy, trở về nói cho tôi nghe."
Ngài Chí Thành vâng lệnh đến Tào Khê, theo chúng tham thỉnh, không nói từ đâu đến. Khi ấy Lục Tổ bảo chúng rằng : "Ngày nay có người trộm pháp đang ẩn trong hội này". Chí Thành liền ra lễ bái và thưa đầy đủ việc của ông. Tổ bảo : " Ông từ Ngọc Tuyền lại nên là kẻ do thám".
Chí Thành đáp : " Không phải"
Tổ hỏi : " Sao được không phải".
Chí Thành thưa : " Chưa nói là phải, đã thưa rồi là không phải".
Tổ bảo : " Thầy ông dùng cái gì chỉ đại chúng trụ tâm quán tịnh, thường ngồi chẳng nằm".
Tổ bảo : " Trụ tâm quán tịnh là bịnh chớ không phải thiền thường ngồi là câu chấp nơi thân, đối với lý do có lợi ích gì."
Hãy lắng nghe bài kệ của tôi đây :
Khi sống ngồi không nằm,
Khi chết nằm không ngồi,
Vốn là đầu xương thúi,
Vì sao lập công khóa.

Chí Thành lại lễ bái thưa rằng : " Đệ tử ở chỗ đại sư Thần Tú, học đạo chín năm mà không được khế ngộ. Ngày nay nghe Hòa Thượng nói một bài kệ liền khế ngộ được bổn tâm. Sanh tử là việc lớn, đệ tử xin Hòa Thượng vì lòng đại bi chỉ dạy thêm".

Tổ bảo : " Tôi nghe thầy ông dạy học nhơn pháp định huệ, chưa biết thầy ông nói giới định huệ, hành tướng như thế nào, ông vì tôi nói xem".
Chí Thành thưa : " Đại sư Thần Tú nói : " Các điều ác chớ làm gọi là giới, các điều thiện vâng làm gọi là huệ, tự tịnh ý mình gọi là định, Ngài Thần Tú nói như thế, chưa biết Hòa Thường lấy pháp gì dạy người ?".
Tổ bảo : " Nếu tôi nói có pháp cho người tức là nói dối ông chỉ tùy phương mở trói, giả danh là tam muội. Như thầy ông nói giới định huệ thật là không thể nghĩ bàn, nhưng chỗ thấy giới định huệ của tôi lại khác".
Chí Thành thưa : " Giới định huệ chỉ là một thứ vì sao lại có khác ?".
Tổ bảo : Thầy ông nói giới định huệ là tiếp người đại thừa, còn tôi nói giới định huệ là tiếp người tối thượng thừa, ngộ hiểu chẳng đồng, thấy có mau và chậm; ông nghe tôi nói cùng với kia đồng hay chăng ? Tôi nói pháp chẳng lìa tự tánh, lìa thể nói pháp thì gọi là nói tướng, tự tánh thường mê, phải biết tất cả muôn pháp đều từ nơi tự tánh khởi dụng, ấy là pháp chơn giới, chơn định chơn huệ, hãy lắng nghe tôi nói kệ đây :
Đất tâm không lỗi tự tánh giới,
Đất tâm không si tự tánh huệ,
Tâm địa không loạn tự tánh định,
Chẳng tăng chẳng giảm tự kim cang,
Thân đến thân đi vốn tam muội.

Chí Thành nghe kệ rồi hối tạ, mới trình một bài kệ :
Năm uẩn thân huyễn hóa,
Huyễn làm sao cứu cánh,
Xoay lại tìm chân như,
Pháp trở thành bất tịnh.
Tổ liền ấn khả đó, lại cho Chí Thành rằng :
" Giới định huệ của Thầy ông là khuyên dạy người tiểu căn tiểu trí, còn giới định huệ của tôi là dạy người đại căn đại trí. Nếu ngộ được tánh cũng chẳng lập Bồ Đề, Niết Bàn, cũng chẳng lập giải thoát tri kiến, không một pháp có thể được mới hay dựng lập muôn pháp. Nếu hiểu được ý nầy cũng gọi là thân Phật, cũng gọi là Bồ Đề Niết Bàn, cũng gọi là giải thoát tri kiến. Người thấy tánh lập cũng được, không lập cũng được, đi lại tự do, không bị trễ ngại, ứng dụng tùy việc làm, nói năng tùy đáp, khắp hiện hóa thân, chẳng lìa tự tánh, liền được tự tại thần thông, du hí tam muội, ấy gọi là kiến tánh."
Chí Thành lại thưa : "Thế nào là nghĩa chẳng lập ?".
Tổ bảo : "Tự tánh không lỗi, không si, không loạn, niệm niệm Bát Nhã quán chiếu, thường lìa pháp tướng, tự do tự tại, dọc ngang trọn được, có gì nên lập ? Tự tánh tự ngộ, đốn ngộ, đốt tu cũng không thứ lớp, cho nên chẳng lập tất cả pháp. Các pháp là lặng lẽ, có thứ lớp gì ?".
Chí Thánh liền lễ bái, nguyện làm người hầu hạ, sớm chiều không lười mõi. Chí Thánh là người Thái Hòa Cát Châu.

Tăng Trí Triệt Quê ở Giang Tây, họ Trương tên Hành Xương, thuở nhỏ là một hiệp khách. Từ khi chia ra hai tông Nam Bắc, hai vị Tông chủ tuy quên bỉ ngã, nhưng đồ chúng tranh nhau khởi yêu ghét. Khi ấy đệ tử của Bắc Tông tự lập Ngài Thần Tú làm Tổ thứ sáu mà kỵ (vì) Lục Tổ được truyền y, mọi người đều nghe nên mới dạy Hành Xương đến ám sát Lục Tổ. Tổ tâm thông dự biết việc ấy nên để mười lượng vàng ở dưới tòa. Khi ấy ban đêm Hành Xương vào trong thất Tổ, toan muốn hại Tổ, Tổ đưa cổ cho chém. Hành Xương liền hươi kiếm ba lần,thảy đều không thương tổn. Tổ bảo:
" Kiếm chánh chẳng tà, kiếm tà chẳng chánh, chỉ nợ vàng của ông, không nợ mạng của ông". Hành Xương hoảng hốt té xỉu , giây lâu mới tỉnh, cầu xin sám hối, liền nguyện xuất gia. Tổ liền cho vàng bảo : " Ông hãy đi, e đồ chúng trở lại hại ông, một ngày khác ông có thể đổi hình dáng mà trở lại, tôi sẽ nhận ông". Hành Xương vâng lời dạy, giữa đêm trốn đi, sau theo tăng xuất gia, thọ giới cụ túc, tinh cần tu hành. Một hôm ông nhớ lại lời Tổ, từ xa đến lễ ra mắt Tổ. Tổ bảo : " Tôi nhớ ông đã lâu, sao ông đến muộn vậy ?".
Hành Xương thưa : " Trước nhờ ơn Hòa Thượng xá tội, ngày nay tuy đã xuất gia khổ hạnh, trọn khó đền đáp ân đức, đâu mong được truyền pháp độ sanh ư ? Đệ tử thường xem kinh Niết Bàn, chưa hiểu được nghĩa thường và vô thường, cúi xin Hòa Thượng từ bi lược vì giải nói".
Tổ bảo : " Vô thường tức là Phật tánh, hữu thường tức là tâm phân biệt tất cả pháp thiện ác vậy".
Hành Xương thưa rằng : " Hòa Thượng nói pháp rất trái với văn kinh".
Tổ bảo : " Ta được truyền tâm ấn của Phật, đâu dám trái với kinh Phật".
Hành Xương thưa : " Kinh nói Phật tánh là thường, Hòa Thượng lại nói vô thường, các pháp thiện ác cho đến tâm Bồ Đề đều là vô thường mà Hòa Thượng lại nói là thường, đây tức trái nhau, khiến cho học nhơn càng thêm nghi ngờ".
Tổ bảo : " Kinh Niết Bàn thuở xưa tôi có nghe Ni Vô Tận Tạng đọc một lần liền vì bà giảng nói, không có một chữ, một nghĩa nào không hiệp với văn kinh, cho đến vì ông nói cũng trọn không có hai thuyết".
Hành Xương thưa : " Học nhơn thức lượng cạn tối, cúi mong Hòa Thượng lượng theo mà từ bi khai thị".
Tổ bảo : " Ông biết chăng, Phật tánh nếu thường lại nói vì là các pháp thiện ác, cho đến cùng kiếp không có người phát tâm Bồ Đề, nên tôi nói là vô thường, mà chính là đạo chơn thường của Phật nói. Lại tất cả pháp nếu là vô thường, tức mỗi vật đều có tự tánh, dung thọ sanh tử mà tánh chơn thường có chỗ bất biến, nên tôi nói thường chính là Phật nói nghĩa chân vô thường. Phật xưa vì phàm phu ngoại đạo chấp tà thường, còn các hàng nhị thừa thường mà chấp vô thường, cộng thành tám thứ điên đảo, nên trong giáo lý liễu nghĩa kinh Niết Bàn phá thiên kiến kia mà hiển bày chơn thường, chơn lạc, chơn ngã, chơn tịnh. Nay ông y theo lời nói mà trái với nghĩa , dùng đoạn diệt vô thường và xác định cái tử thường mà lầm hiểu lời nói mầu nhiệm viên diệu tối hậu của Phật, dù có xem một ngàn biến kinh thì có lợi ích gì ?".
Hạnh Xương bỗng nhiên đại ngộ, liền nói kệ rằng :
" Vì giữ tâm vô thường,
Phật nói có tánh thường,
Không biết được phương tiện,
Như ao xuân mò gạch,
Nay tôi chẳng thi công,
Mà Phật tánh hiện tiền,
Không phải thầy trao cho,
Tôi cũng không sở đắc."
Tổ bảo : " Nay ông mới triệt vậy, nên đặt tên ông là Chí Triệt". Chí Triệt lễ tạ mà lui.

Có một chú bé tên là Thần Hội ở Tương Dương, con nhà hocï Cao, mười ba tuổi,từ chùa Ngọc Tuyền đến tham lễ.

Tổ bảo : " Tri thức từ xa nhọc nhằn đến lại đem được cái gốc đến chăng ? Nếu có gốc thì nên biết được ông chủ, thử nói xem ?".
Thần Hội thưa : " Lấy vô trụ là gốc, thấy tức là chủ".
Tổ bảo : " Ông Sa di nầy đâu nên nói như thế"
Thần Hội liền hỏi : " Hòa Thượng tọa thiền lại thấy hay chẳng thấy ?".
Tổ cầm gậy đánh ba gậy hỏi : " Tôi đánh ông đau hay chẳng đau ?"
Thần Hội đáp : " Cũng đau cũng không đau".
Tổ bảo : " Tôi cũng thấy cũng chẳng thấy".
Thần Hội hỏi : " Thế nào là cũng thấy cũng chẳng thấy ?".
Tổ bảo : " Chỗ thấy của tôi thường thấy những lỗi lầm nơi tâm linh, không thấy phải quấy tốt xấu của người khác, ấy do cũng thấy mà cũng chẳng thấy. Ông nói cũng đau cũng chẳng đau là thế nào ? Nếu ông chẳng đau thì đồng như cây đá, nếu ông đau thì đồng với phàm phu, tức khởi sân hận, ông hướng về trước thấy và chẳng thấy là hai bên, đau chẳng đau là sanh diệt, ông tự tánh lại chẳng thấy mà dám đùa với người".
Thần Hội liền lễ bái sám hối. Tổ lại nói : "Tâm ông nếu mê chẳng thấy thì hỏi Thiện tri thức để tìm đường, còn tâm ông nếu ngộ tức tự thấy tánh, y pháp tu hành, ông tự mê không thấy tâm mình, trở lại hỏi ta thấy cũng chẳng thấy. Ta thấy thì tự biết há thay cái mê cho ông, nếu ông tự thấy cũng chẳng thay được cái mê cho ta, sao chẳng tự biết tự thấy mà hỏi ta thấy cùng chẳng thấy". Thần Hội lại lễ hơn một trăm lạy, xin sám hối tội lỗi rồi siêng năng hầu hạ bên cạnh không rời.

Một hôm Tổ bảo chúng : "Tôi có một vật không đầu, không đuôi, không danh, không tự, không lưng, không mặt, các người lại biết chăng ?".
Thần Hội bước ra nói rằng : "Ấy là bổn nguyên, là Phật tánh, ông nhằm đi lấy cỏ tranh che đầu, cũng chỉ thành cái hạng tông đồ của tri giải".

Sau khi Tổ diệt độ, ngài Thần Hội vào Kinh Lạc, hoằng truyền pháp đốn giáo Tào Khê, viết bộ Hiển Tông Ký, thạnh hành ở đời gọi là Thiền sư Hà Trạch. Tổ thấy các tông nạn vấn nhau, đều khởi tâm ác, phần nhiều nhóm ở dưới tòa của Tổ, Ngài thương xót mới bảo rằng: " Người học đạo, tất cả niệm thiện, niệm ác nên phải dẹp sạch, không tên có thể gọi, ấy gọi là tự tánh, tánh không hay ấy gọi là thật tánh, trên thật tánh dựng lập tất cả giáo môn, ngay lời nói liền phải tự thấy. Các người nghe nói, thảy đều làm lễ, xin thờ Ngài là thầy.

CHƯƠNG VI

PHÓ CHÚC

PHÓ CHÚC Một hôm Tổ gọi đệ tử là Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Thần Hội, Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như v.v.. bảo rằng: " Các ông không đồng với những người khác, sau khi tôi diệt độ, mỗi người làm thầy một phương, nay tôi dạy các ông nói pháp không mất bổn tông, trước phải dùng ba khoa pháp môn, động dụng thành ba mươi sáu đối, ra vào tức lìa hai bên, nói tất cả pháp chớ lìa tự tánh ; chợt có người hỏi pháp, ông xuất lời nói trọn trong đối đãi, đều lấy pháp đối đi lại làm nhơn cho nhau, cứu cánh hai pháp thảy đều trừ, lại không có chỗ đi. Ba khoa pháp môn là ấm, giới, nhập vậy. Ấm là ngũ ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức ; nhập là thập nhị nhập, ngoài có sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, trong có sáu cửa là mắt, tai,mũi, lưỡi, thân, ý ; giới là thập bát giới, sáu trần, sáu cửa và sáu thức. Tự tánh hay gồm muôn pháp gọi là hàm tàng thức, nếu khởi suy nghĩ tức là chuyển thức sang sáu thức ra sáu cửa, thấy sáu trần, như thế thành mười tám giới, đều từ nơi tự tánh khởi dụng. Tự tánh nếu tà thì khởi mười tám tà, tự tánh nếu chánh thì khởi mười tám chánh, gồm ác dụng tức là dụng chúng sanh, thiện dụng tức là dụng Phật, dụng do những gì ? Do tự tánh mà có. Đối pháp : Ngoại cảnh vô tình có năm đối: trời cùng đất đối, mặt trời cùng mặt trăng đối, sáng cùng tối đối, âm cùng dương đối, nước cùng lửa đối, đây là năm đối. Pháp tướng ngữ ngôn có mười hai đối: ngữ cùng pháp đối, có cùng không đối, có sắc cùng không sắc đối, có tướng cùng không tướng đối, hữu lậu cùng vô lậu đối, sắc cùng không đối, động cùng tịnh đối, trong cùng đục đối, phàm cùng thánh đối, tăng cùng tục đối, già cùng trẻ đối, lớn cùng nhỏ đối, đây là mười hai đối vậy. Tự tánh khởi dụng có mười chín đối : dài cùng ngắn đối, tà cùng chánh đối, si cùng hệ đối, ngu cùng trí đối, loạn cùng định đối, từ cùng độc đối, giới cùng lỗi đối, thẳng cùng cong đối, thật cùng hư đối, hiểm cùng bình đối, phiền não cùng bồ đề đối, thường cùng vô thường đối, bi cùng hại đối , hỉ cùng sân đối, xả cùng bỏn sẻn đối, tiến cùng thối đối, sanh cùng diệt đối, pháp thân cùng sắc thân đối, hóa thân cùng báo thân đối, đây là mười chín pháp đối vậy. Tổ bảo : " Ba mươi sáu pháp đối này nếu hiểu mà dùng tức là đạo, quán xuyến tất cả kinh pháp, ra vào tức lìa hai bên, tự tánh động dụng, cùng người nói năng, ngoài đối với tướng mà lìa tướng, trong đối với không mà lìa không, nếu toàn chấp không tức tăng trưởng vô minh, người chấp không là có chê bai kinh. Nói thẳng chẳng dùng văn tự, đã nói chẳng dùng văn tự thì người cũng chẳng nên nói năng, chỉ lời nói năng này liền là tướng văn tự ; lại bảo : nói thẳng chẳng lập tự tức hai chữ chẳng lập này cũng là văn tự, thấy người nói liền chê bai người ta nói là chấp văn tự. Các ông nên biết tự mình mê thì còn khả dĩ, lại chê bai kinh Phật, không nên chê bai kinh vì đó là tội chướng vô số. Nếu chấp tướng bên ngoài mà tác pháp cầu chơn, hoặc rộng lập đạo tràng, nói lỗi lầm có không, những người như thế nhiều kiếp không thể thấy tánh; chỉ nghe y pháp tu hành, lại chớ có trăm vật chẳng nghĩ, mà đối với đạo tánh sanh chướng ngại ; nếu nghe nói chẳng tu khiến người biến sanh tà niệm, chỉ y pháp tu hành, bố thí pháp mà không trụ tướng. Các ông nếu ngộ, y đây là nói, y đây mà dùng, y đây mà hành, y đâu mà tạo tác, tức không mất bổn tông. Nếu có người hỏi nghĩa ông, hỏi có thì đem không đáp, hỏi không thì đem có đáp, hỏi phàm thì đem thánh đáp, hỏi thánh lấy phàm đáp, hai bên làm nhơn cho nhau sanh ra nghĩa trung đạo, như một hỏi một đáp, bao nhiêu câu hỏi khác đều y đây mà khởi tác dụng, tức không mất chân lý. Giả sử có người hỏi sao gọi là tối thì đáp rằng : sáng là nhơn, tối là duyên, sáng mất tức là tối, dùng sáng để hiểu tối, dùng tối để hiểu sáng, qua lại làm nhơn cho nhau thành nghĩa trung đạo, ngoài ra hỏi những câu khác thảy đều như đây mà đáp. Các ông về sau truyền pháp y đây mà chỉ dạy cho nhau, chớ làm mất tông chỉ".
Vào niên hiệu Thái Cực năm Nhâm Tý, Diên Hòa tháng bảy (712 DL), Tổ sai đệ tử đến Tân Châu, chùa Quốc Ân dựng tháp và khiến thợ khởi công gấp, năm kế cuối mùa hạ lạc thành, ngày mùng một tháng bảy Tổ họp đồ chúng bảo rằng : " Tôi đến tháng 8 muốn lìa thế gian, các ông có nghi phải hỏi nhau sớm, tôi vì các ông phá nghi khiến các ông dứt mê, nếu tôi đi rồi, sau không có người dạy các ông". Ngài Pháp Hải v.v.. nghe Tổ nói thảy đều rơi lệ chỉ có Thần Hội thần tình bất động, cũng không có khóc.
Tổ bảo: "Thần Hội tiểu sư lại được thiện bất thiện cùng đồng, khen chê chẳng động, vui buồn chẳng sanh, ngoài ra đều không được, ở trong núi mấy năm, cứu cánh tu đạo gì ? Nay các ông buồn khóc là vì lo cho ai ? Nếu lo ta chẳng biết chỗ đi thì ta tự biết chỗ đi, nếu ta chẳng biết chỗ đi thì trọn không báo trước cho các ông, các ông buồn khóc bởi vì chẳng biết chỗ đi của ta, nếu biết chỗ đi của ta tức không nên buồn khóc. Pháp tánh vốn không sanh diệt đi lại, các ông ngồi đây ta sẽ vì các ông mà nói một bài kệ gọi là "Chơn giả động tịnh" kệ. Các ông tụng bài này cùng với ta ý đồng, y đây mà tu hành thì không mất tông chỉ" . Chúng tăng đều làm lễ, Tổ nói kệ rằng:
Tất cả không có chơn,
Nếu thấy được cái chơn,
Nếu hay tự có chơn,
Tự tâm không lìa giả,
Hữu tình tức biết động,
Nếu tu hạnh bất động,
Nếu tìm chơn bất động,
Bất động là bất động,
Hay khéo phân biệt tướng,
Chỉ khởi cái thấy này,
Bảo những người học đạo,
Chớ đối pháp đại thừa,
Nếu bàn luận tương ưng,
Nếu thật không tương ưng,
Tông này vốn không tranh,
Chấp nghịch tranh pháp môn,
Chẳng do thấy nơi chơn,
Thấy đó trọn không chơn,
Lìa giả tức tâm chơn,
Không chơn chỗ nào chơn,
Vô tình tức không động.
Đồng vô tình bất động.
Trên động có bất động,
Vô tình không Phật tánh.
Đệ nhất nghĩa bất động,
Là dụng của chơn như.
Gắng sức phải dụng tâm,
Lại chấp trí sanh tử.
Liền cùng bàn nghĩa Phật,
Chấp tay khiến hoan hỉ.
Tranh tức mất ý đạo,
Tự tánh vào sanh tử.

Khi ấy đồ chúng nghe Tổ nói kệ rồi thảy đều làm lễ biết rõ ý Tổ, mỗi người nhiếp tâm, y theo pháp tu hành, lại không dám tranh cãi, biết Tổ không còn ở đời bao lâu, Thượng Tọa Pháp Hải lại đảnh lễ hỏi rằng : " Sau khi Hòa Thượng nhập diệt, y pháp sẽ trao cho người nào ?".
Tổ bảo : " Tôi ở chùa Đại Phạm nói pháp cho đến ngày nay, sao chép để lưu hành, gọi là Pháp Bảo Đàn Kinh, các ông gìn giữ, truyền trao cho nhau, độ các quần sanh, chỉ y nơi lời nói này, ấy gọi là chánh pháp, nay vì các ông nói pháp chớ chẳng trao y, bởi vì các ông tín căn đã thuần thục, quyết định không còn nghi ngờ, kham nhận được đại sự…"
Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của TT- T.T.T.

LỜI KẾT
Xuyên qua những phần chương đã trình bày trên về phương diện triết lý, Đạo Cao Đài nhìn nhận những nguyên tắc cơ bản của Tam giáo sau đây:
1 . Phật giáo: Luật nhân quả : nghiệp báo, luân hồi. Tam học: giới định huệ trong đó có bát chánh đạo, ngũ giới cấm. Tam qui : Phật, Pháp Tăng, từ bi bác ái.
2 . Lão giáo: Thuyết Tam bửu, ngũ hành , tu tâm, luyện tánh, quan niệm về Đạo.
3 . Khổng giáo: Thuyết Trung dung, thuyết biến dịch, tam cang ngũ thường. Tam đức : trí, nhân, dũng. Sự thờ kính tổ tiên …

Triết học Cao Đài tích hợp (thừa kế có phát huy) để giải quyết những vấn đề cụ thể vào cuộc đời, chớ không phải là những khái niệm trừu tượng hay những giáo lý viễn vông.
Nói một cách khác, tư tưởng của Khổng Tử ngày nay được dân chúng Á Đông xem như là khuôn vàng thước ngọc dẫn tới cuộc sống thịnh vượng no ấm và phát triển kinh tế.
Ngài là "vạn thế sư biểu" nhà giáo muôn đời . Ngài là cha đẻ của quan niệm bình đẳng trong lịch sử loài người, chớ không phải đợi đến Bản tuyên ngôn nhân quyền 1789 của Pháp. Ngài vang danh với câu "hữu giáo vô loại" ( Luận ngữ), nghĩa là giáo dục không phân biệt giai cấp, chủng tộc giữa người với người.
Ngài nói đến tam hệ : Trời, đất, người với các đệ tử như vầy : "Trời có Đạo Trời, thiên nhiên có đạo thiên nhiên và người có đạo người. Các đạo ấy cùng có cái lý nhất quán là Đạo Nhân "Ngô Đạo nhất dĩ quán chi".

Lập thiên chi Đạo viết Âm Dương
Lập Địa chi Đạo viết nhu dữ Cường
Lập Nhân chi Đạo viết Nhân dữ Nghĩa
Kiêm tam tài nhi lưỡng chi.

            Nghĩa là :
Dựng đạo Trời có nguyên lý Âm Dương
Dựng đạo Đất có nguyên lý Nhu Cường
Dựng đạo Người có nguyên lý Nhân Nghĩa
Bao hàm Tam Tài mà có hai mặt tương đối.

Sách Trung Dung gồm 33 chương. Chương đầu nói về đạo "Trung" vốn ở trời mà sẵn ở người.
1) Từ chương 2 đến chương 11 dẫn lời Đức Khổng Tử về đạo Trung Dung và tam đức: trí , nhân, dũng.
2) Từ chương 12 đến chương 20 là lời Tử Tư dẫn lời Đức Khổng Tử, nói về cái dụng và cái thể mầu nhiệm của Đạo.
3) Từ chương 21 đến chương 32 lời Tử Tư nói về đức thành và linh diệu của nó.
Chương cuối, kết luận cái đức của người quân tử ở chính mình. Để đạt được đức chính nhân của người quân tử, Khổng Tử đã phải tu thân qua các giai đoạn sau :
Ngô thập ngũ chí ư học,
Tam thập nhi lập,
Tứ thập nhi bất hoặc,
Ngũ thập nhi trí thiên mệnh,
Lục thập nhi nhĩ thuận,
Thất thập nhi tòng tâm, sở dục bất du củ.
Nghĩa là :
Ta mười lăm tuổi chuyên học,
Ba mươi lập chí vững,
Bốn mươi không ngờ vực,
Năm mươi biết mệnh trời,
Sáu mươi nghe thuận lẽ trời,
Bảy mươi lòng muốn không vượt đạo lý.

Đó là đạo làm Người của Đức Khổng Tử, thiết nghĩ, chúng ta nên lấy đó làm mẫu mực để noi theo.
*
*          *
Về Lão giáo, ngay chương I trong Đạo Đức Kinh, Lão Tử cho rằng khi ta định cho vật một cái tên là ta tự làm cho ta xa lìa với cái "chân diện mục". Hãy nghe :
Đạo khả đạo phi thường đạo
Danh khả danh phi thường danh.
Trong chương II, Ngài quan niệm rằng không có cái gì ở đời này mang ý nghĩa tuyệt đối cả, chỉ có tương đối mà thôi.
Hữu vô tương sanh,
Nan dị tương thành,
Trường đoản tương hình,
Cao hạ tương khuynh,
Âm thanh tương hòa,
Tiền hậu tương tùy.

Nơi chương 70, Đức Lão Tử lại than: Lời nói của ta rất dễ nghe, dễ làm. Thế mà trong thiên hạ không ai hiểu, không ai làm.

Bởi lẽ, đạo của Ngài rất khó, thường đụng đến lòng ích kỷ của con người, nên thấy hay mà muốn thực hiện thì không ai làm nổi. Ngài dạy muốn đánh đổ lòng tham lam ích kỷ, thì phải biết "đủ", biết "dừng" lại, "bớt chỗ dư bù chỗ thiếu" (chương 77) và "Không tự cho mình là sáng, không tự xem mình là phải, không tự hào và khoe khoan" ( chương 22).

Tắt một lời, Lão Tử cho đạo là một nguyên lý rất huyền diệu, siêu hình, bất khả tư nghi. Nhờ đó sinh ra Trời đất và vạn vật rồi trở về Đạo, cứ đó đi về về mãi như vậy. Con người muốn đạt được đạo thì nên "thanh tĩnh vô vi", phải tuyệt biết nghĩ ngợi, hết ham muốn và quên cả thân mình để lòng được thanh thản bình lặng, phó mặc cho tự nhiên giới, không phải nhọc trí, nhọc sức. Sở dĩ con người lo nghĩ, khổ sở vì muốn hành động mà nguồn gốc của hành động là dục tình. Nếu dứt được dục tình thì không còn hành động sẽ bớt lo nghĩ khổ sở. Nhờ đó tâm hồn được thanh thản an nhàn.

René Bertrand nhận xét Đức Lão Tử thế này: "Vài dòng chữ hợp thành quyển sách ấy ( Đạo Đức Kinh) chứa đựng tất cả sự khôn ngoan trên quả đất này" (Sagesse perdue, trang 305).

Để kết luận về nhà hiền triết Á Đông này xin mượn lời nhận xét của E.V. Zenker, một học giả phương Tây như sau :
" Lão Tử do hoàn cảnh xã hội tạo nên nhưng ông vượt ra ngoài con đường mà các nhà tư tưởng Trung Hoa trước kia đã đi. Việc làm phi thường của ông là ông đã hoàn toàn tách mình ra khỏi hoàn cảnh xã hội của ông, luôn cả con người và giáo lý của ông, vượt lên mọi tư tưởng và hoàn cảnh giới hạn để trở thành một nhà tư tưởng "Vượt thời gian" hơn hẳn những triết gia Trung Hoa".
*
*          *
Về Phật giáo : Kinh tạng, luật tạng, luật tạng nhiều sách đã luận bàn. Ở đây chỉ nói về " Pháp Bảo Đàn Kinh" của Lục Tổ Huệ Năng.

Nội dung sách chỉ giải về cách tu thiền của Lục Tổ trùng hợp với quan niệm tu tịnh của đạo Cao Đài, qua bài giáng cơ của Bà Bát Nương Diêu Trì Cung :
" Phải tìm cho được cái tịnh trong cái động". Hành giả Cao Đài "Muốn tịnh lúc nào cũng được" (Luật Tam thể, trang 168).

Trong PBĐK Lục Tổ dạy: "Pháp môn tọa thiền này vốn không chấp nơi tâm, cũng không chấp nơi tịnh, cũng chẳng phải chẳng động. Nếu nói chấp tâm, tâm vốn là vọng. Nếu nói chấp tịnh, tánh người vốn là tịnh vì vọng niệm che đậy chơn như".
Có người hỏi Lục Tổ : "Nếu ở cõi nầy mà thấy được đâu cần phải nguyện vãng sanh ?".
Lục Tổ dạy rằng: "Phật nằm ở trong tánh mà tạo, chớ hướng ra ngoài mà cầu. Tự tánh mê tức là chúng sanh, tự tánh giác tức là Phật, từ bi tức là Quan Thế Âm, hỉ xả gọi là Đại Thế Chí, hay tịnh tức là Đức Thích Ca, bình trực tức là Phật Di Đà. Nhân ngã ấy là Tu Di, tà tâm là biển độc, phiền não là sóng mòi, độc hại là rồng dữ, hư vọng là quỉ thần, trần lao là rùa trạnh, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh. Này Thiện tri thức ! Thường làm mười điều lành thì thiên đường liền đến".

Hội ý lời Lục Tổ dạy, người trong thế gian này ai cũng tu được, ai cũng thiền được nếu hành được "thập thiện" thì cửa Thiên đường mở rộng chờ đón rước hành giả vào cõi Thiêng Liêng Hằng Sống.
TVR
             Home       1 ]  [ 2 ]  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét