Đại Đạo Nhập Môn - Quyển I - 1 / 2 (Nữ Soạn-giả Nguyên-Thủy)

Thay Li Ta
Những tài liệu trong tập sách này đều trích từ Thánh Ngôn và Tủ sách Đại-Đạo để thân gởi đến Bạn đọc.

Xin dẫn Lời Tựa của Thánh-Ngôn Hiệp Tuyển:
“Cuối Hạ Nguơn nầy, nhơn loại phần nhiều dụng hết trí não xu hướng vào lối văn-minh vật-chất; món ăn đủ sơn trân hải vị; chỗ ở lại nguy
nga đài các: y phục tiện dùng gấm nhiễu che thân, ra một tấc đường thì có ngựa xe đỡ gót. Các lạc thú hiện thời trên cõi tạm nầy làm cho con người mê mẩn; rồi đua chen nhau tranh giành phúc lộc; lăng-xăng xạo-xự trên chốn võ-đài; mạnh đặng, yếu thua khôn còn, dại mất. Phần đông bực thông minh, lại đem trí khôn làm món binh khí hại người; kẻ tước trọng lại dùng thế quyền mà đè ép dân đen ra bạc trắng. Quanh năm chỉ lo xác thân hưởng điều khoái lạc, vợ ấm con no, được ngày nào vui ngày ấy; cho kiếp chết là kiếp mất; gọi Thiên-đường, Ðịa ngục là câu chuyện hoang-đàng. Bậu bạn lỗi câu tín-nghĩa, vợ chồng quên đạo tào-khương; mảng vụ chữ kim thời mà phong dời tục đổi. Than ôi! Lượn sóng văn-minh tràn dập tới đâu thì nền luân-lý ngửa nghiêng tới đó.

Nếu Ðạo Trời không sớm mở lần ba, nền phong hóa, mối cang-thường, sau vì đó mà hư hoại.
Ðức Ngọc-Hoàng Thượng-Ðế vì đức háo sanh, không nỡ ngồi xem nhơn-sanh sa vào nơi tội lỗi nên dụng Huyền-diệu Tiên-thiên giáng cơ giáo Ðạo; hơn một năm trường tô vẽ biết bao lời châu tiếng ngọc. E dụng văn từ cao xa người thường không rõ lý, rồi ra dạy cũng như không, nên Ðấng Chí-Tôn tiện dùng Quốc-âm cho dễ hiểu.

Chư Ðạo-Hữu nhập-môn sau thời kỳ ngưng Cơ Bút
không hữu hạnh mà nghe đến lời vàng tiếng ngọc của Ðức Ðại Từ-Bi. Nay Hội-Thánh trích lục những Thánh-Ngôn giáng cơ dạy Ðạo, in làm hai bổn để truyền bá cho mọi người thông hiểu.

Thiết tưởng, trong Ðạo-Hữu, dầu xưa dầu mới, ai có Ðạo-tâm mà không tiếp được Thánh-Ngôn nầy lại không hết dạ hoan nghinh?

Vậy xin chư Ðạo-Hữu, chư Thiện-Nam, Tín-Nữ, hết lòng trân-trọng, vì là lời châu ngọc của Phật-Trời. Cơn nhàn rảnh, nên lưu tâm đọc đến, trước là rõ thông mối Ðạo nhiệm mầu sau để trau giồi đức hạnh của mình.
Nhà nào có Thánh-Ngôn là nhà đó treo được ngọn đèn Thiêng-liêng tỏ rạng vậy.
Tòa-Thánh Tây-ninh
Hai mươi mốt tháng mười năm Ðinh-Mão.
Hội Thánh Cẩn Từ

Lời của Soạn giả:
Xin lỗi độc giả: qua hai đề tài trước đây chưa phổ biến, cũng là “Đại Đạo Nhập môn” là để biếu tặng cho hai người Bạn: Kỹ-niệm Bạn Đạo mới nhập Môn ngày 01-09-Thu Đinh Hợi (Dl: 11-10-2007). Người này đã theo Tin lành nay qua Đạo Cao-Đài. Viết ngắn gọn cho có tài liệu để về Mỹ-quốc.
Nay Soạn giả xin hoàn chỉnh để kính biếu cho đồng Đạo bốn phương.

Chương I
Nghi-thức Đại-Đạo

Bài I - Lời Minh thệ. Lễ Nhập môn.
Hồi lúc mới khai Đạo, Thầy dạy: Các Môn Đệ đi từ người đến trước bàn Ngũ Lôi mà thề:

1 - Lời Minh thệ:
Tên gì? Họ gì? “Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng, hiệp đồng chư Môn-Đệ gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì Thiên tru địa lục” (36 chữ)

Lập Minh Thệ tức là làm Lễ Nhập môn.
Hai chữ “Nhập môn” chính nghĩa là vào cửa. (Nhập là vào, môn là cửa).Vào cửa Đại-Đạo Tam-kỳ Phổ-Độ vậy.

Muốn làm Môn-đệ của Đấng Cao-Đài trước nhứt phải làm Lễ Nhập-môn. Tại sao sự tu-hành mà còn phải bắt buộc quá vậy?

Lời Thuyết Đạo của Đức Hộ-Pháp có giải rành:
“Buổi Chí-Tôn đến tạo Quốc-Đạo cho nòi giống Rồng Tiên này, chính Ngài cầm Cơ đi đến các Tỉnh, kêu từ nhà, gọi từ đứa con, cho không biết bao nhiêu bài khuyến dạy, tạo thành Tôn-giáo CAO ĐÀI    QUỐC ĐẠO. Tưởng chưa có người nào đem cả tinh thần, tâm đức mà thi ân cho ai dường ấy. Đức Chí-Tôn đến độ rỗi, lập giáo rồi lại bắt Minh thệ.

Hỏi tại sao Ngài lại bắt Minh thệ, buộc con cái phải hiệp đồng cùng nhau, mỗi người có một chút Đức-tin. Thầy bảo qui Đức-tin ấy lại, phải có tâm đức, tin tưởng, yêu ái lẫn nhau, phải nhìn nhận có Thầy, có Đức-tin nơi Thầy” (TĐII/42)

2 - Minh thệ là gì?
Chính là nói tắt của thành-ngữ “Minh sơn  thệ hải” tức là lời hẹn với núi, thề với biển hay còn nói là thề non hẹn biển. Là sự thề thốt đinh-ninh không dám sai lời. Nếu chỉ chính bản thân mình ước hứa e rằng có thể quên đi nên phải nhờ những chứng nhân khác làm chứng cho lời nguyện, lời hứa của mình.
   Ca dao Việt-Nam rằng:
Để lời thệ hải minh sơn,
Làm con trước phải đền ơn sinh thành.

Ở đây lời thề của người Tín hữu Cao-Đài trước khi được nhận làm Môn-Đệ của Đấng Chí-Tôn (Ông Thầy Trời) tức nhiên vào cửa Đạo phải có lời tuyên hứa nguyện trung thành với Đạo-pháp, gọi là lời Minh thệ.

Sở dĩ phải có lời Minh thệ là vì tâm lý của nhơn sanh hay thay đổi nên quyền Chí-Tôn phải buộc, cũng vì  ích lợi của chúng sanh.  Muốn được làm Môn-đệ phải:
1 - Xét mình cho kỹ trước khi vào Đạo.
2 - Khi vào Đạo rồi phải đủ Đức tin và Chí-thành.
3 - Nâng mình vào đường lối cao-thượng.

Phải cao thượng hơn chốn trần gian hèn kém và đau khổ này. Sau cùng phải tu làm sao để đạt được ngôi Thần Thánh- Tiên- Phật và cả ngôi Trời nữa, mà Đức Thượng Đế sẵn-sàng giao cho người có tâm đức, nhơn nghĩa…

3 - Ý-nghĩa  lời Minh thệ:
(Thông tri số 104/ CTĐ ngày 27-01-Tân Mão (dl: 04-03-1951) của Hội-Thánh Cửu-Trùng-Đài do Lại viện ban hành số 171/ SL ngày 06-05-Canh Tuất (dl: 09-06-1970)

Ý-nghĩa lời Minh thệ trên đây là một lời tuân hứa nhứt quyết theo cùng Đấng Thượng-Đế, để trọn tâm thi hành Thiên-Đạo và cam kết làm tròn phận sự theo lời Minh thệ.

- Điều thứ nhứt: “Thề rằng: Từ đây biết một Đạo Cao-Đài Ngọc Đế, chẳng đổi dạ đổi lòng” Là trọn nhìn một Đạo Cao-Đài của Đức Chí-Tôn, ngoài ra không đặng xu-hướng theo ngoại giáo, gây nên sự rắc rối chia ly và làm mất Đức-tin nơi cửa Đạo.

- Điều thứ nhì: Hiệp đồng chư Môn-đệ gìn luật lệ Cao Đài. Tín-đồ nhập môn rồi phải tuân hành y Luật pháp chơn truyền của Đại-Đạo là: Tân luật, Đạo Luật, Pháp Chánh-Truyền…và thi-hành các qui điều giáo huấn của Hội-Thánh để làm tròn phận sự mình. Ấy là phương hiệp đồng nhứt trí của toàn Đạo: Tín đồ, Chức việc,  Chức sắc, Hội-Thánh để nhặc gìn luật lệ Cao-Đài của Đấng Chí-Tôn.

- Điều thứ ba: như sau có lòng hai thì Thiên tru địa lục”. Ăn ở hai lòng bất trung, bất chánh, dối Thầy phản bạn và làm những việc trái với luật lệ của Đại-Đạo cùng hành động vô nhân, vô nghĩa, mất sự thương yêu, mất điều tín nhiệm, gieo rắc những điều ngờ vực, hiềm khích giữa tình đồng Đạo và manh tâm bội nghịch cùng Hội Thánh sẽ chịu luật công bình của trời đất tru diệt. (nghĩa là trời giết đất giết).

* Minh thệ đối với Luật vô vi: 
Là Thiên điều của Chí Tôn cùng các Đấng thiêng liêng: Phật, Tiên, Thánh, Thần cầm quyền trị thế. Là một ân huệ được chọn làm Môn-đệ của Đấng Chí-Tôn. Khi giữ trọn lời Minh thệ sẽ được các Đấng hộ trì, ban ân lành, đạo tâm sáng suốt, trọn vẹn đức tin, đến ngày thành công đắc Đạo được ghi tên vào Tiên-tịch.

*Minh thệ đối với Luật hữu hình Hội-Thánh:
Là một giá trị uy-tín đối với Đạo và Hội-Thánh. Khi giữ trọn lời Minh thệ sẽ được tín nhiệm, kính nễ, bảo trợ, hưởng mọi đặc ân với Luật công bằng Hội-Thánh.

Lời Minh thệ Nhập môn cầu Đạo là một điều rất quan hệ của người giữ Đạo và một lời hứa trọn vẹn tín thành với Hội-Thánh cùng các Đấng Thiêng-liêng một kiếp sanh hiện tại và tương lai, phước hay tội cũng do nơi lời Minh thệ này.

Vậy toàn Đạo Nam Nữ nên thận trọng tuân y theo lời Minh thệ. Chức sắc hữu quyền: các cơ quan, chư vị Khâm châu, Đầu tộc Nam Nữ phải thông truyền lời dẫn giải Minh thệ này cho toàn Đạo tuân hành”.

4 - Thông tri của Ngọc Chánh Phối-sư:
Tiếp theo đây là Thông-tri của Ngọc Chánh-Phối sư  đề ngày 22-11-Bính Ngọ (dl: 02- 01-1967):

“Hội Thánh xin nhắc nhở chư Chức-sắc, Chức-việc cầm quyền Hành-Chánh-Đạo ở trung-ương cũng như địa phương nên nhớ lời Minh thệ trước bửu pháp Ngũ-lôi  và các Đấng Thần, Thánh, Tiên, Phật cầm quyền trị thế và làm tròn Thiên Đạo mà dìu-dắt đoàn em đều là con cái của Đức Chí-Tôn tận con đường Thánh-Đức  trong khuôn viên Luật pháp chơn truyền của nền Đại-Đạo.

“Lời Minh thệ đối với vô vi là Luật Thiên-điều rất quan hệ cho Chức-sắc Thiên-phong, Chức Việc, Bàn-trị-sự cũng như lời Minh thệ của người mới Nhập môn cầu Đạo là lời hứa trọn vẹn tín thành cùng các Đấng Thiêng-liêng và Hội-Thánh “không đổi dạ đổi lòng”. Nếu giữ tròn lời Minh thệ cho đến ngày thành công đắc Đạo được ghi tên  vào Tiên-tịch, nhược bằng trái lại thất thệ vì “lòng một dạ hai” thì rất uổng một kiếp sanh may duyên gặp Đạo”.

5 -Tính cách quan trọng của lời Minh thệ:
Vì tầm mức quan trọng của lời Minh thệ dường ấy nên Hội Thánh lúc nào cũng ân-cần nhắc nhở.

Đến khi lâm chung bài Kinh cầu hồn khi hấp-hối có câu này và chính đây là sự quyết-định do lời Minh-thệ:
Ớ! Tên họ …Thành tâm cầu nguyện,
Nguyện Chí-Tôn linh hiển độ sanh.
Ăn-năn sám hối tội tình,
Xét câu Minh Thệ gởi mình cõi thăng.

Lời Thầy cũng dạy bảo trong buổi khai Đạo rằng:
“Chư Môn-đệ đã lập Minh Thệ rồi, ngày sau tùy Âm chất mỗi đứa mà thăng, hay là tội lỗi mà giáng, song buộc mỗi đứa phải độ cho đặng ít nữa mười hai người”.
 (TN II / 12)

Bởi Cao-Đài Đại-Đạo ngày nay Đức Chí-Tôn có dạy rõ: trên có Tam Thập lục Thiên (36 từng trời), dưới có Tam Thập Lục động (36 cõi đất) đó là tượng trưng hai cảnh đọa thăng của con người. Vì vậy mà lời Minh thệ có 36 chữ. Điều ấy chứng tỏ rằng ai giữ đúng chơn truyền của Đại-Đạo thì đường Tiên thong-thả:
Ba mươi sáu cõi Thiên-tào,
Nhập trong Bát-Quái mới vào Ngọc-Hư.

Còn nếu người nào thất thệ với Đức Chí-Tôn thì Tam thập Lục Động lại mời.

Đức Hộ-Pháp cũng nói:
“Về phần Môn-Đệ của Đức Chí-Tôn từ buổi đem thân vào cửa Đạo, trong lúc Nhập môn đã quì trước Bửu điện có Bàn Ngũ-Lôi mà lập Minh thệ. Vậy mà:

Than ôi! Cho những người thề như vậy mà cũng không để trọn Đức tin nơi Đức Chí-Tôn lại thối bước ngã lòng, cởi áo Đạo dẹp khăn tu, mong mỏi xu-hướng theo con đường tục lụy, cho nên mới gây ra con đường lằn súng mũi đạn ngày nay.

Vậy thì ai là người thất thệ với Chí-Tôn thì phải sớm thức tỉnh tâm hồn, ăn-năn sám hối cầu xin Đại-Từ Phụ cùng các Đấng Thiêng-Liêng Từ bi ân xá tội-lỗi tiền khiên thì họa may đặng chung hưởng ân huệ của Chí-Tôn ban cho sau này”  (ĐHP: 15-9 Bính-Tuất 1946)

Vậy nên phải Xét mình trước khi vào Đạo để chính mình nhận định cho kỹ, hầu tạo cho được Đức tin và sự chí thành. Kinh có dạy:“Đạo gốc bởi lòng thành tín hiệp”.

Khi vào Đạo rồi tự mình nâng cao phẩm giá mình vào lối cao thượng. Cao thượng hơn người thường nhơn còn nhiều hèn kém và lao khổ này.

6 - Đạo mở tức là Cơ Đại-Ân-xá của Đức Chí-Tôn:
Ngài Bảo-Đạo Hồ-Tấn-Khoa có nói:
“Người mới Nhập môn vào Đạo Cao-Đài lập Minh thệ thì đặng hưởng hồng-ân là thọ phép Giải oan. Phép này rửa sạch tội tiền khiên của mình từ trước.

Phép này cũng là một Đại Ân xá những tội tình, nhưng từ ngày Nhập môn về sau thì phải gìn giữ đừng gây thêm tội mới cho đến ngày chết tức là ngày trở về với Đức Chí-Tôn (Đại-Từ-Phụ) thì được nhẹ nhàng rất nhiều rồi.

Ngoài Bí-Pháp Giải-oan  này Đức Chí-Tôn còn ban cho Pháp Tắm Thánh, pháp làm Hôn phối và đặc biệt nhứt là Phép xác và Phép độ thăng.

Người Tín-hữu Cao-Đài nào giữ được 10 ngày chay trong mỗi tháng đổ lên được thọ truyền bửu pháp tức là hưởng được Phép xác, cắt hết 7 dây oan-nghiệt. Linh hồn không còn bị ràng buộc với thi hài bởi 7 dây oan nghiệt nữa, nên được xuất ra nhẹ-nhàng về cõi Thiêng liêng Hằng sống.

Còn Phép độ thăng là để giúp cho linh hồn những Chức-sắc được nhập vào Bát-Quái-Đài dễ-dàng hơn”.

Bài 2 - Lạy là gì?
Bất cứ một Tôn-giáo nào: dù là Đạo thờ cúng Ông bà cũng vậy, dân-tộc Á-Đông này coi sự Lễ bái là đứng hàng đầu trong các nghi thức.
- Lễ bái để tỏ lòng trân trọng với một Đấng sinh thành đã cho ta một cái thân sanh là công của cha mẹ.
- Để tỏ lòng ngưỡng mộ với bậc siêu phàm như  người có công dựng nước và giữ nước. Tạo Đạo cứu Đời.
- Để tỏ lòng ngưỡng vọng với một Đấng tối thượng mà chính nhân-loại phải hết lòng bái phục là Trời.

Chung qui sự lễ bái là để phát khởi Đạo tâm. Có câu “Lễ bái thường hành tâm Đạo khởi”.

Nay, buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ Đức Chí-Tôn giáng dạy những nghi-thức về việc bái lạy ấy, Thánh-ngôn dạy về:
- Bái lễ:
“Khi bái lễ, hai tay con chắp lại, song phải để tay trái ấn TÝ, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái để lên trên".

 Lạy là gì?
- Là tỏ ra bề ngoài, lễ kỉnh trong lòng.
 Chắp hai tay lại là tại sao?
-Tả là Nhựt, hữu là Nguyệt, vị chi Âm-Dương; Âm Dương hiệp nhứt phát khởi Càn-Khôn, sanh sanh hóa hóa. Tức là Ðạo.

 Lạy kẻ sống thì hai lạy là tại sao?
- Là nguồn cội của nhơn-sanh lưỡng hiệp Âm Dương mà ra. Ấy là Ðạo.
 Vong phàm bốn lạy là tại sao?
- Là vì hai lạy là của phần người, còn một lạy Thiên, một lạy Ðịa.
Lạy Thần lạy Thánh thì ba lạy là tại sao?
- Là lạy Đấng vào hàng thứ ba của Trời và cũng chỉ rằng lạy Tinh-Khí-Thần hiệp nhứt. Ấy là Ðạo.
 Lạy Tiên lạy Phật thì chín lạy là tại sao?
- Là lạy chín Ðấng Cửu-Thiên khai hóa.
 Còn lạy Thầy mười hai lạy là tại sao?
Các con không biết đâu ?

- Thập nhị Khai-Thiên là Thầy, Chúa cả Càn-Khôn Thế Giái; nắm trọn Thập nhị Thời-Thần vào tay; số mười hai là số riêng của Thầy”  (Thánh-ngôn I/11)

Giải-thích Cách Lạy và bắt Ấn Tý
1 - Cách lạy:
Đưa tay đã bắt Ấn kiết-quả lên trán, rồi để xuống ngực mới xá. Khi lạy xòe bàn tay ra mà úp xuống đất, ngón tay cái của bàn tay mặt đặt lên ngón cái của bàn tay trái. Tức là Lưỡng-nghi sinh Tứ tượng, tức nhiên là 4, cộng với 8 ngón còn lại là 12. Hai số này hiệp lại là 12 (4+8) Tượng cho Thập Nhị  Địa chi ..

Riêng hai bàn tay có cả thảy 10 ngón tức là thập Thiên can.
Thập thiên can phối hợp với Thập nhị Địa chi thành ra một cặp Âm Dương làm nên vũ-trụ càn khôn thế giới này. Kinh Phật-Mẫu có dạy:

“Thập Thiên Can bao hàm vạn tượng,
“Tùng Địa Chi hóa trưởng Càn Khôn”

Mười Thiên can là: Giáp, Ất, Bính, Ðinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quí, hiệp với 12 Địa chi là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, biến hóa ra hình tướng bao la Càn khôn thế giới, làm cho thế giới rộng lớn thêm lên.

Đó là Bát-Quái biến hóa vô cùng mới thành ra Càn Khôn thế giới.
2 . Giải nghĩa lạy chắp tay:

Lạy chắp tay theo ba kỳ mở Đạo, Tam Giáo:
1/ - Nhứt kỳ Phổ-Độ: Đức Thái Thượng Lão Quân giáng thế dạy Đạo Tiên, phải chắp hai tay kiết nhị, như bông sen búp. Khi lạy thì xoè hai tay úp xuống đất, cúi đầu xuống ba lạy kêu là khể thủ.

2/ - Nhị kỳ Phổ-Độ: Đức Thích Ca giáng sanh dạy Đạo Phật, thì chắp tay hiệp chưởng hoa khai. Khi lạy thì ngửa hai bàn tay để xuống đất mà cúi đầu xuống, kêu là hòa nam.

Khi Đức Khổng Tử giáng sanh dạy Đạo Thánh, cách lạy là cung tay đến mày mà lạy kêu là phủ phục.

3/ - Tam-Kỳ Phổ-Độ:
Nay Đấng Chí Tôn giáng cơ tiếp điển mở Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ. Hiệp đủ Phật, Tiên, Thánh, là thời-kỳ kiết quả độ đủ chín mươi hai ức nguyên nhân về nơi nguyên thủy. Có câu: “Thiên Địa tuần hoàn châu nhi phục thỉ Tam Giáo qui nguyên” chắp tay hoa sen đã  thành trái.

Buổi Tam-kỳ Phổ-Độ: trước khi lạy phải bắt Ấn Tý, gọi là Kiết quả, nghĩa là thời-kỳ này đã thành trái. Tu thì thành, dữ thì đọa. Thưởng phạt phân minh.

Mỗi bàn tay có 5 ngón:
- Ngón cái gọi là  mẫu chỉ (ngón mẹ của các ngón)
- Ngón trỏ gọi là  thực chỉ (chỉ đúng sự thực)
- Ngón giữa gọi là  trung chỉ (ngón ở chính giữa)
- Ngón áp út là  Vô danh chỉ (ngón tay không tên)
- Ngón út gọi là  Tiểu chỉ (ngón tay nhỏ nhứt)

Bàn tay trái thuộc Dương, bàn tay hữu thuộc Âm.
Đây là ấn của Chí-Tôn. Khởi đầu dùng ngón cái của bàn tay trái ấn lên góc ngón vô danh của bàn tay này, xong  nắm lại, đó gọi là Ấn Tý (bấm vào cung Tý) như một trái cây đã thành hạt. Đoạn bàn tay phải đỡ bàn tay trái ôm tròn lại và đầu ngón cái của bàn tay phải bấm vào cung Dần của bàn tay trái, như hình một trái cây đầy đặn.

Nay qua hội Nhơn sanh ư Dần, tức là qua Tam-Kỳ Phổ-Độ- Kiết quả - là nguơn hội mà Chí-Tôn đến mở một nền Đại-Đạo, độ hết cả quần linh về cõi Niết-bàn, chẳng để cho một điểm chơn-linh nào ở nơi Đông-Độ.

Khi ngón tay cái của bàn tay trái ấn vào cung Tý, còn lại bốn ngón của bàn tay trái này là Tứ Dương, ngón tay cái của bàn tay mặt bấm vào tay tả ở cung Dần, bốn ngón bao ngoài là Tứ Âm, hiệp chung nhau lại là Bát quái tức là tám ngón tay biểu thị cho Bát-phẩm Chơn hồn.
- Tức nhiên bốn ngón thuộc Âm là: Vật chất hồn, Thảo-mộc-hồn, Thú cầm-hồn, Nhơn hồn.
- Bốn ngón thuộc Dương là chỉ về Thần-hồn, Thánh hồn, Tiên-hồn, Phật hồn.

Ấy là buổi Tam-Kỳ Phổ-Độ này Đức Chí Tôn độ hết nhơn vật quần linh tận qui nguyên vị. Cộng chung  hai lần 4 ngón tay trên lại tức là Tứ tượng biến Bát-quái. Bát quái biến hóa vô cùng mới thành ra Càn khôn thế giái.

Tay trái (Dương) mà có ngón tay cái ở trong; đồng thời tay trái lại có ngón tay cái của bàn mặt là Âm chỉ vào, đó là trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Âm Dương luôn hòa quyện nhau không bao giờ xa lìa. Một Âm một Dương gọi là Đạo “nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo”. Âm Dương hiệp nhứt mới phát khởi Càn Khôn.

Sách có câu: “Vô danh Thiên Địa chi thủy” là trước khi Trời Đất chưa khai, thì một khí không không, sau định hội Tý mới mở Trời, nên chữ Tý ở tại góc ngón tay vô danh. Khi mở Trời rồi mới có hữu danh vạn vật chi mẫu. Muôn vật có hình chất đều thọ nơi mẫu mới hóa sanh.

Như cách lạy nầy là thời kỳ dạy Đạo, còn người luyện Đạo cách lạy cũng hai tay kiết quả, nhưng mà khi lạy chí đất phải để hai bàn tay ngửa mới cúi đầu. Cách lạy mầu nhiệm, nghĩa lý sâu xa, chưa đến kỳ Tịnh Thất nên không dám giải diệu mầu, e lậu Thiên cơ chẳng dễ”.
(Lời dạy của Đức Quyền Giáo-Tông)
Đức Chí-Tôn lập Đạo trong buổi Hạ-nguơn này thể hiện cơ tuần-huờn châu nhi phục thủy, Tôn-chỉ lấy Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt để đưa nhân-loại đến Đại-Đồng. Lấy theo nguyên-lý của vũ-trụ thì:
- Thiên khai ư Tý,  trời khai vào hội Tý
- Địa tịch ư Sửu,  đất thành hình ở hội Sửu
- Nhơn sanh ư Dần, có nhơn-loại vào hội Dần.

Nay là buổi “Nhơn sanh ư Dần” nên đây là phần hành của Đức Di-Lạc. Do vậy mà hình ảnh của Ngài ngự ở mặt tiền Đền-thánh, cỡi cọp để làm biểu tượng là năm Dần

* Thiên khai ư Tý: Vì trước khi trời đất chưa khai thì chỉ là một khí không không mờ mịt. Sau khi định hội Tý mới mở trời, nên chữ Tý đặt ở ngón vô danh (ngón tay không tên, gần bên ngón út, nên gọi là áp út). Có câu “Vô danh Thiên địa chi thủy” 無名天地之始 (không tên là trước khi có trời đất)

* Địa tịch ư Sửu: là khi mở trời rồi, đất mới được thành hình, do khí nhẹ bay lên làm trời, khí nặng lắng xuống thành đất. Cơ biến hóa này do Mẫu (mẹ) tượng trưng ngón tay cái trên bàn tay gọi là Mẫu chỉ. Vạn-vật hữu hình trong trời đất này đều do Mẹ tạo thành, có câu “Hữu danh vạn-vật chi mẫu” 有名萬物之母.

Đạo Cao-Đài xác nhận trong vũ-trụ bao la đều do Phật-Mẫu điều hành, Phật-Mẫu nắm cơ hữu tướng. Chí Tôn nắm phần vô tướng.

* Nhơn sanh ư Dần: Tức là nay qua Hội Dần là thời kỳ của nhơn-loại, là người. Bây giờ đủ cả “Cha, Mẹ, Con” Tam tài thống hiệp. Người đứng vào ngôi cùng với trời đất tức là Thiên-  Địa- Nhân.

Đạo-pháp đã đúng hội Tam-Kỳ kiết quả. Cao-Đài xuất thế là hiệp với Thiên thơ đã định:
“Tam kỳ khai hiệp Thiên thi,
“Khoa môn Tiên vị ngộ kỳ Phật duyên”.

Do vậy mà Ấn Tý của thời kỳ thứ ba Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ là thời kỳ Thiên Địa hoằng khai.
Đã qua ba thời kỳ mở Đạo:
- Nhứt kỳ Phổ-độ là tượng bông sen búp, nên hai bàn tay đưa thẳng ra đặt úp vào nhau.
- Nhị Kỳ Phổ-độ là tượng cái bông tàn đi, để chuyển tiếp thành trái, hai bàn tay nắm lại với nhau.
- Tam kỳ Phổ-Độ này thật sự đã thành hình, kết quả, có nghĩa là tu thì thành: Hiền thăng, dữ đọa. Nhưng khi đạt kết quả rồi không phép hưởng riêng một mình, mà phải gieo trồng lại, tiếp tục cho nhơn sanh hưởng nhờ, luân-lưu cho khắp cả Đại-Đồng thế giới cùng chung hưởng mới gọi là Phổ-độ. Xem thế là chỉ hai bàn tay mà nắm cả Càn Khôn vũ trụ. Kinh nói là “Ốc trần hoàn ư song thủ chi nội”

Chỉ-dẫn thêm (Lời dạy của Đức Quyền Giáo-Tông)
Lạy Thầy ba lạy, mỗi lạy 4 gật, mỗi gật niệm: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Lạy Phật, lạy Tiên, lạy Thánh 3 lạy, mỗi lạy 3 gật. Mỗi bài kinh đều có chỉ câu niệm rồi, không cần nhắc lại (Xem câu niệm cuối mỗi bài Kinh)

Còn xá bàn Hộ Pháp là tại Tòa Thánh và các Thánh Thất. Các nhà tư như có tuần tự, có vọng bàn Hộ Pháp mới xá. Còn nơi nào không có bàn Hộ Pháp thì không buộc phải xá. Có nhiều khi nhà tư, hoặc Lễ, Vía hiến các Đấng cũng xá, đó là sái phép.

Từ Đầu Sư đổ lên có qui vị, hoặc tuần tự, thì lạy 3 lạy, mỗi lạy 3 gật, niệm danh hiệu và tước phẩm của vị ấy.(2)

Từ Chánh Phối Sư đổ xuống Lễ Sanh thì lạy 3 lạy, không có gật.
Từ Chánh Trị Sự đổ xuống Tín đồ, lạy 4 lạy, là vì có thêm 2 lạy kỉnh Thiên và kỉnh Địa, nên mới có sự phân biệt là:
Hai lạy đầu phải quì để chỉ rõ rằng: kỉnh Thiên Địa;
Hai lạy sau thì đứng để chỉ nghĩa lạy vong phàm cho phân biệt.

Còn lạy người sống thì 2 lạy.
Nên nhớ: lấy dấu Phật, Pháp, Tăng duy chỉ có làm Lễ Đức Chí Tôn mà thôi. Còn Thần, Thánh, Tiên, Phật thì không có lấy dấu chi hết.

(1) Khi nào có Nam Nữ sắp hàng hai bên thì mới xá Đàn, còn ngoài ra thì không xá Đàn.
Phụ luc: Phần giảng dạy của Hội Thánh Cửu Trùng Đài. Châu tri số 61 đề ngày 18 tháng 8 năm Mậu Dần (Dl 10-10-1938).

(2) Như lạy Đức Quyền Giáo Tông, thì niệm Nam Mô Đức Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt.
Lạy Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh, thì niệm Nam Mô Đức Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh.

4 - Tham khảo tài liệu của Đức Quyền Giáo-Tông dạy từ buổi đầu

1/ . Cách lạy thường cúng Tứ thời:
“Trước khi phải đánh ba tiếng chuông rồi, thì sửa soạn khăn áo, đèn nhang cho đủ. Như có nhiều vị cúng Đấng Từ Bi, thì phải vào Điện Thờ mà sắp bài ban, đứng cho ngay hàng hai bên.

Nghe ba tiếng chuông lần thứ nhì, thì hai bên chắp tay kiết quả, đưa chí trán mình, xá xuống chí gối (1) rồi hai bên đều khởi chơn phía trong điện mà bước vào chỗ quì, mỗi hàng ba vị. Rồi ngước lên Điện, mới đưa tay kiết quả đến trán mình, xá đến gối ba xá, phổ Thiên áp Địa gọi là Tam Tài, mới khởi chơn trái bước tới một chút, quì chơn mặt xuống trước, chơn trái quì theo cho ngay thẳng cái mình, mắt thì ngó ngay Thiên Nhãn:
- Đưa tay kiết quả lên trán chính giữa mà lấy dấu, niệm: Nam Mô Phật
- Đưa qua bên tả gần lỗ tai niệm: Nam Mô Pháp
- Đưa qua bên hữu gần lỗ tai niệm: Nam Mô Tăng

Xong rồi mới để tay kiết quả nơi ngực mình, chỗ trái tim, chớ rời ra.
- Cúi đầu lần thứ nhứt niệm: Nam Mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
- Cúi đầu lần thứ nhì niệm: Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.
- Cúi đầu lần thứ ba niệm: Nam Mô Lý Đại Tiên Trưởng kiêm Giáo Tông Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
- Cúi đầu lần thứ tư niệm: Nam Mô Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.
- Cúi đầu lần thứ năm niệm: Nam Mô Chư Phật, Chư Tiên, Chư Thánh, Chư Thần.

Dứt rồi, đọc bài Niệm Hương.
Dứt, lạy ba lạy. (Mỗi lạy 4 gật là 12 lạy)

Khi lạy rồi, khi ngước dậy thì đưa tay kiết quả lên trán rồi mới chắp xuống ngực. Khi mãn lễ cúng đứng dậy, cũng đứng chơn trái trước, cũng xá ba xá như trước, mới day ra bàn Hộ Pháp xá một xá, rút từ hàng đi thứ tự mà ra.

2/ - Khi lạy hai tay xòe ra đặt úp xuống, hai ngón tay cái gác tréo nhau thành hình chữ thập, tạo thành con số 4. Ngón cái của bàn tay mặt đặt trên ngón cái của bàn tay trái tức là Âm trên Dương, có nghĩa là Âm bao Dương, vì Dương thì tán Âm thì tụ nên Âm phải giữ Dương, đó là ý nghĩa của Lưỡng nghi sanh Tứ tượng.

Tóm lại: trong cách lạy buổi Tam-Kỳ Phổ Độ này là gồm đủ các con số chỉ về Lý Dịch rất cao siêu, mầu nhiệm: hiệp đủ Âm Dương, Tam Tài, Tứ Tượng, Bát Quái, Ngũ hành. Kinh dạy rằng: “Hỗn độn Tôn sư. Càn Khôn chủ tể. Qui thế giới ư nhứt khí chi trung. Ốc trần huờn ư song thủ chi nội”..

Bài 3 - Thiên bàn tại tư gia.
Đức Chí-Tôn đã đem đến cho nhân-loại một nền Chơn-Đạo và dạy cách thức thờ cúng Thầy trên Thiên Bàn, phải có đủ 12 cúng phẩm.

Thử tìm hiểu ý-nghĩa về cách thức, cùng những cúng phẩm ấy qua hai phương-diện:
- Ý-nghĩa thờ phượng.
- Lý Dịch trong Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ Tòa Thánh Tây ninh.

A - Ý nghĩa và cách sắp đặt trên Thiên Bàn:
Kinh Thiên-Đạo có dạy:
“Lập vị Thượng-Đế thì phải lựa nơi nào cho tinh khiết, tốt hơn hết là giữa nhà. Lập tran  thờ cho cao và treo màn cho khuất chỗ thờ phượng”.

1 - Cách sắp đặt trên Thiên Bàn.
Theo như lời tựa dẫn giải, Hội-Thánh dạy người Đạo sắp đặt trên Thiên Bàn thờ cúng Đức Chí-Tôn theo hình chữ Chủ với 12 phẩm vật tượng-trưng cho Thập Nhị Khai Thiên là Đức Chí-Tôn, Chúa Tể cả Càn Khôn Thế Giới, bởi số 12 là con số riêng của Thầy.

Thánh-ngôn có lời dạy rằng:
“Thập nhị Khai thiên là Thầy, Chúa cả Càn-khôn thế giới nắm trọn Thập nhị thời Thần vào tay. Số 12 là số riêng của Thầy”.

Như vậy, Thiên-bàn tượng-trưng cho cả Càn-Khôn Thế-Giới do Đức Chí-Tôn làm chủ. Ngài đến lập Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ, chính mình Ngài làm Giáo-Chủ mà độ dẫn chúng sanh khỏi kiếp luân hồi quả báo, nên người Tín đồ Đạo Cao-Đài chỉ lập bàn thờ, thờ Đức Cao-Đài là đủ, không còn phải lập bàn thờ riêng để thờ Thần, Thánh, Tiên, Phật chi riêng lẻ, chỉ làm cho mất vẻ tôn nghiêm, mà thêm rườm-rà. Lại nữa, đây là thể hiện tinh-thần Đại-Đồng của buổi nhân-loại được một nền Đại-Đạo Qui Nguyên Tam-giáo Phục nhứt Ngũ chi.

Khi sắp đặt phẩm-vật trên Thiên-bàn phải cho thật ngay-ngắn. Nếu sắp không ngay thì trật nét chữ. Trật một nét thì không chánh-đáng, rất có hại cho Đức tin của người thờ cúng là không nghiêm-chỉnh và mất đi ý-nghĩa gọi là thất pháp dần-dần làm sai lạc chơn-truyền của một nền Chánh-giáo.

2 - Ý nghĩa các cúng phẩm:
Dưới đây là phần ý nghĩa của mỗi phẩm vật thờ cúng trên Thiên Bàn:

Số 1/ - Thánh Tượng Thiên Nhãn Thầy:
Thánh Tượng Thiên Nhãn tượng trưng Đức Thượng Đế, là Đấng Thánh-Hoàng trước Ngôi Thái Cực, với quyền-năng tối thượng của Ngài.

Tuy nhiên, về hình ảnh của Thánh-Tượng trải qua nhiều thời-gian cũng có nhiều mẫu khác nhau, dù điểm  chính-yếu vẫn là “CON MẮT THẦY” như ảnh số 1 dưới đây cũng gọi là Tượng Ngũ-Chi, nhưng có dạng như Thiên nhãn Thầy đặt trên Quả Càn-Khôn, giống nơi Bát-Quái-Đài ở Toà Thánh  Tây-Ninh.

Sau đó, thì nơi tư gia Thánh-Tượng thờ theo mẫu thứ hai trong hình, cũng gọi là “Tượng Ngũ Chi” nhưng vẽ giản dị hơn, cũng có đủ Tam Trấn, Tam-giáo và Ngũ chi Đại-Đạo.

Dùdưới hình thức nào cũng nói lên quyền Chúa Tể của Càn-Khôn thế giới, theo như lời dạy:
“Thầy đã nói với các con rằng: Khi chưa có chi trong càn-khôn Thế-Giới thì Khí Hư-Vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái-Cực.

Thầy phân Thái-Cực ra Lưỡng-Nghi, Lưỡng-Nghi phân ra Tứ-Tượng, Tứ-Tuợng biến Bát-Quái, Bát-quái biến-hóa vô cùng, mới lập ra Càn-Khôn Thế-Giới. Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn-vật là: vật-chất, thảo mộc, côn-trùng, thú-cầm, gọi là chúng-sanh.

Các con đủ hiểu rằng:
Chi-chi hữu-sanh cũng do bởi chơn-linh Thầy mà ra, hễ có sống, ắt có Thầy. Thầy là Cha của sự-sống, vì vậy mà lòng háo-sanh của Thầy không cùng tận.

Cái sống của cả chúng-sanh, Thầy phân-phát khắp Càn-Khôn Thế-Giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm; nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến-hóa.

Mỗi mạng sống đều hữu căn hữu kiếp, dầu nguyên sanh hay hóa-sanh cũng vậy, đến thế nầy lâu mau đều định trước, nếu ai giết mạng sống, đều chịu quả-báo không sai; biết đâu là cái kiếp sanh ấy chẳng phải là Tiên, Phật bị đọa luân-hồi mà ra đến đỗi ấy.

Cái mạng sống là Thầy, mà giết Thầy thì không phải dễ, các con gắng dạy nhơn-sanh điều ấy”. (TNII/62)

Số 2/ - Đèn Thái Cực còn gọi là Vô-cực-đăng:
Thánh Giáo có dạy:
“Thầy giải về Vô Cực Đăng”

Trước khi chưa phân Trời Đất, thì Khí Hư-vô bao quát Càn-khôn, sáng soi đầy trong vũ-trụ. Nó là một cái trung-tâm-điểm, tức là Đạo. Đạo ấy mới sanh ra Thái cực, hóa Lưỡng-nghi. Lưỡng-nghi là Âm Dương tức là động và tịnh.

Có Âm Dương rồi mới có hóa sanh muôn vật.

Ngọn đèn thờ chính giữa, là giả mượn làm Tâm đăng, Phật Tiên truyền Đạo cũng do đó, thành Đạo cũng tại đó. Đèn dầu đặt ngay chính giữa, không lay động, xao xuyến, chiếu thấu khắp cả Càn-Khôn.

Mặt Nhựt, mặt Nguyệt có lúc sáng, lúc tối, giờ khắc nào cũng tỏ rạng, không lu mờ. Nhơn vật nhờ đó mà sanh, nhờ đó mà thành, nhờ đó mà an vui.

Trời Đất nhờ đó mà quang minh trường-cửu. Người tu-hành nhờ đó mà tạo Tiên tác Phật, siêu phàm nhập Thánh. Hễ chinh qua bên trái thì Tả Đạo; dịch qua bên hữu thì Bàn-môn, ngay ở giữa là Chánh Đạo. Đạo Cao Đài ngày nay chỉ dùng hai chữ chánh và trung mà thôi.

Chúng-sanh phải nên am-tường lý ấy, lý ấy ở trong

Tâm. Tâm an-tịnh vô-vi tự nhiên bất động là Chánh Đạo. Tâm còn tính mưu thần chước quỉ, độc ác hiểm sâu, ấy là Bàn-môn, tả Đạo chớ chi đâu!”

Ý-nghĩa Bông và Trái:
Số 3 và 4-  Trái cây và Bông: tức là 5 thứ hoa và 5 thứ trái hay là Ngũ hoa, Ngũ quả. Hoa quả là tượng trưng cho bốn mùa, khí hậu ôn hòa, muôn loài sanh trưởng, thảo mộc tươi nhuần, cành lá sum-xuê, đơm bông trổ trái, tức là Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng tạo nên chữ (+) Thập ấy Âm Dương gác lên nhau mới ló ra bốn cánh mà gọi rằng “Tứ Tượng thành hình”. Bốn cánh ấy phân ra Đông, Tây, Nam, Bắc.

Năm thứ Trái cây tượng trưng cho Hậu Thiên Ngũ vị đối với Tiên Thiên Ngũ khí là năm cây hương hay ngũ sắc là năm sắc hoa. Trái cây còn biểu hiện cho người tu hành được thành công đắc quả (Kết trái).

Bình bông biểu-hiện cho sự xanh tươi tốt đẹp, chỉ vềTINH là hình thể con người.Năm sắc là tượng-trưng cho năm giống dân trên thế giới:Vàng, Trắng, Đỏ, Xanh, Đen.

Dâng hiến Bông, là dâng hiến thể xác của chúng ta cho Đức Chí-Tôn tùy phương sử-dụng và cầu xin Đức Chí-Tôn ban ân lành cho thể xác chúng ta được tươi tắn như hoa kia vậy.

Bởi thế, Đạo Cao-Đài không phân biệt màu da sắc tóc, coi nhau là con chung của Đấng Thượng-Đế là anh em một nhà. Ngày nào năm sắc dân trên quả địa-cầu nầy biết nhìn Đức Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, Chúa Tể cả Càn-Khôn vạn loại là Cha chung, đồng dâng hiến lễ lên Ngài, thì ngày ấy là ngày Đại-Đồng huynh đệ, được hưởng thái bình thạnh-trị vậy.

   Kinh dâng Hoa có câu:
“Năm sắc hoa tươi xin kỉnh lễ,
“Cúi mong Thượng Đế rưới ân thiên”.

Ý-nghĩa Nước trà và nước trắng:
Số 5/ - Nước trà (để bên hữu ấy là Âm).
Số 9/ - Nước trắng  (để bên tả ấy là Dương)

Dương là Trời, Âm là Đất.
Nước trắng: Để bên tả, tượng trưng nước Dương.

Nước Dương là nguồn nước trên Trời mưa xuống, là sự sống của Đức Chí-Tôn ban cho, để nuôi sống muôn loài vạn vật. Nguồn sống nầy có một giới hạn, có khi thiếu hụt, lắm lúc lại tràn đầy, vì đến mùa trời mới mưa. Có năm, trong giữa mùa mưa lại nắng hạn, cỏ cây vì đó phải chết đi một phần, cuộc sống của con người bị đe dọa. Có những người làm lễ cầu mưa: “Lạy Trời mưa xuống. Lấy nước tôi uống. Lấy ruộng tôi cày. Lấy đầy bát cơm. Lấy rơm đun bếp” Có khi, lại mưa tràn ngập, người cũng như vật đều bị chết đuối! Bấy giờ người dân lại cầu xin “Lạy Ông nắng lên, Cho trẻ nó chơi, cho già bắt rận, cho tôi đi cày”. Đó chứng tỏ một niềm tin tưởng nơi Phật Trời, thuận tùng thiên lý. Có câu “Thuận Thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong” là vậy. Nghĩa là người biết làm theo ý trời thì còn, trái lại chống trời thì bị muôn vàn tai họa. Nhân-loại muốn hết tai ương hoạn-họa thì duy chỉ có một điều là biết kỉnh Phật thờ Trời mà thôi.

Nước Dương thật là thanh bạch, ấy là nước dương, nên chén nước trắng để bên tả gọi là Dương. (1)

Nước Dương là nước không có nấu, dù nước mưa hay nước giếng chỉ lọc sạch để dâng cúng mà thôi. Trong các thứ nước chỉ có nước giếng là đầy đủ tính Dương, nghĩa là không bị ảnh hưởng bởi những chất hòa tan, như rác rến, cặn bã hôi thúi. Đức Chí Tôn mở Đạo nơi đất Tây Ninh này rất thích hợp đất đai cũng là hạnh phúc cho nhân sanh buổi này: Vì chỉ dùng nước giếng thôi.

Nước trà:  Để bên hữu, ấy là Âm. Nước Âm là nguồn nước ở trong lòng đất và biển cả, sông ngòi, rạch suối. Nguồn sống của đất do Phật Mẫu ban cho, một nguồn sống triền miên vô tận. Người ở miền đất cao, thì đào đất sâu xuống làm giếng lấy nước uống

Người ở đất thấp đồng bằng, thì dùng nước biển, sông, suối, rạch, ngòi, dầu mùa mưa hay nắng hạn. Người và vật cũng nhờ đó mà sống, nên chén nước trà để bên hữu gọi là Âm (Nước nấu chín để trà vào gọi là nước trà).

Chén nước trà còn tượng trưng cho Thần, tức là Linh hồn. Khi cúng rót nước đủ tám phân, tượng trưng cho “Bát hồn vận chuyển” do Đức Diêu Trì Kim Mẫu dùng Âm quang biến tạo Chơn thần.

Tám phân của chén nước Dương là tượng cho Bát Quái của Đấng Chí-Tôn.
Người tu phải coi theo đó mà hành Bát Chánh Đạo Hiểu lẽ của Âm Dương trời đất là Hòa, thì người tu cũng lấy sự hòa làm chánh yếu, chứ không vì các con số bí-pháp trên lầm hiểu, mà nhiều khi làm mất hòa trong lẽ Đạo. Đạo là hòa, là sự sống. Đây là con số biểu tượng chứ không nhứt thiết phải đo cho chính xác.

Bởi thế, con người đặt nặng tình cảm đối với Đất hơn Trời. Hầu hết con nít mới sanh ra, người ta lại đem nhao rún chôn xuống đất, nên sự sống và tình cảm của người dính liền với đất. Vì thế nên người do tình cảm thiêng liêng ấy mà không nỡ rời quê hương là nơi chôn nhao cắt rún của mình mà đi nơi khác. Cũng như người đến trong cõi trần-ai này nhưng lúc nào cũng nhớ về cõi xa-xăm kia mà luôn hướng đến việc tu-hành, tức nhiên sự tu-hành là tìm về căn cội. Thường nói người có căn tu mới đắc thành là như thế.

Đức Chí Tôn có nói:
“Kẻ phàm dầu ly hương thuở ấu xuân đi nữa, lòng hằng hoài vọng. Chí Thánh dầu bị đọa trần, lòng hỡi còn nhớ hoài nơi Tiên cảnh”.

Phật-Mẫu đến độ con cái của Ngài:
Qua Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Chí Tôn giao cho Đức Phật Mẫu đến độ dẫn các Chơn linh để trở về ngôi vị, cũng như các con theo Mẹ để về với Cha, rồi Cha sẽ ân thưởng cho các con. Đó là hình ảnh đứa trẻ sơ sinh, nó chỉ nhờ bú hai giọt sữa của Bà Mẹ mà nó được sống mạnh khỏe hồng hào. Vì đó, mà trẻ con thương mẹ hơn cha, nên đứa bé ít theo cha hơn là theo mẹ. Nếu có theo cha là trường hợp ít có. Bởi nhỏ thường gần gũi Mẹ để được bú mớm nâng niu.

   Thánh Giáo Đức Phật Mẫu dạy:
Chưa ai vào đến cõi trần nầy,
Chẳng thọ lấy Chơn Thần tay Thiếp.
Sanh dưỡng đã biết bao  căn kiếp,
Rồi dắt dìu cho hiệp với Cha.

Bằng cớ là hiện giờ, ai biết lo tu hành lập công bồi đức thì Đức Chí Tôn phong cho tước phẩm ngôi vịquí báu.

Thế nên cúng hai chén nước Âm Dương, tức là cầu nguyện cho Âm Dương hòa hiệp, hai nguồn sống được tương đồng, chúng sanh thọ hưởng sự sống trong yên lành hạnh phúc.

*Khi dâng Trà, là dâng hiến cả Chơn Thần cho Đức Chí Tôn tùy phương sử dụng và xin Đức Chí Tôn ban ân lành cho Chơn Thần được tráng kiện.

Khi Cúng xong, chúng ta đặt trọn sự tín ngưỡng nơi quyền năng Thiêng liêng tuyệt đối, thì thỉnh hai chén nước Âm Dương hòa chung mà cầu nguyện, thì nước ấy sẽ là Cam-lồ-thủy dùng cho người có bịnh uống sẽ mạnh lành, vì người ấy được hưởng một lượt với hai nguồn sống mãnh liệt là Âm Dương hiệp nhứt.

Theo ý của Thánh Huấn số 1-NCPS/TH ngày 19 tháng 5 năm Canh Tuất (Dl: 22-06-1970) của Hội Thánh Cửu Trùng Đài dạy: Chén nước trắng không được nấu, nếu nấu sôi thì chết Dương, tuyệt cơ sanh hóa..

* Ý-nghĩa ba ly rượu:
Số 6-7-8 là Ba ly rượu: Ba ly rượu tượng-trưng cho Khí, tức là Hư-vô chi-khí, do Đức Diêu Trì Kim-Mẫu Chưởng quản.
Khí là cái Phách hay trí-não của con người chúng ta, cũng là Chánh-khí trong người.

Ba ly rượu là tượng-trưng cho ba cõi: Hạ-giới, Trung-giới, Thượng-giới. Ba cõi này dành cho các phẩm từ quỉ-nhơn, phàm-nhơn và Thần Thánh Tiên Phật. Khi cúng rót rượu ba phân tượng-trưng cho ba bậc tu-hành: Hạ-thừa, Trung-thừa, Thượng-thừa hay là ba bậc quỉ nhân, hóa-nhân và nguyên-nhân. Ngày nay Cơ Đại ân xá của Chí-Tôn cho về cùng một lượt.

   Kinh Phật-Mẫu có câu:
“Trùng huờn phục vị Thiên môn,
“Nguơn linh, Hóa chủng, Quỉ hồn nhứt thăng”

Khí là trí não đứng trung-gian đặng liên-hiệp với Tinh và Thần, họp lại mới đủ Tam-bửu. Nên khi dâng Tam-bửu thì chén nước trà để bên hữu (Tinh), chính giữa là ba ly rượu (Khí) Bên tả là nước trắng (Thần), nên gọi là Tinh- Khí-  Thần hiệp nhứt.

Thế nên buổi đầu tiên ba vị Tiên-Nương chính thức đến dạy Đạo cho các vị: Cư, Tắc, Sang là Lục Nương, Thất Nương, Bát Nương chính là các con số: 6, 7, 8 cũng đồng nghĩa là chữ Khí tượng cho ba ly rượu ấy. Nhưng Thất Nương đến trước tiên là số giữa trong ba con số, cũng là dụng chữ Chánh và trung đó vậy.

Thể pháp của Đạo Cao-Đài đã đủ cả Tam ngôi:
Về mặt Tôn-giáo:
“Là một cơ cấu hữu-vi thì cũng không ngoài luật ấy, nên trước tiên cần có đủ chủ hướng là Tinh-thần ấy là Tín-ngưỡng, chủ Tinh-thần  là linh hồn của Đạo-giáo, mà linh hồn của Đạo Cao-Đài là Đức Chí-Tôn chủ về cực Dương .

Một Tôn-giáo muốn sống bền vững và phát triển tốt đẹp thì Tôn giáo ấy có đủ Tam-bửu: TINH, KHÍ, THẦN.

- Về Thần: thì khi lập Đạo Cao-Đài, Thần đã sẵn có do Đức Chí-Tôn làm chủ linh hồn của Đạo-giáo.
- Về Khí thì buổi phôi thai chưa mấy tựu thành nên Đức Chí-Tôn mượn hình thể Diêu-Trì-Cung làm  Khí.
- Về Tinh là hình thể của Đạo Cao-Đài tức là ba chi PHÁP-ĐẠO- THẾ tượng trưng là: Hộ-Pháp, Thượng Phẩm, Thượng-Sanh.
Tức nhiên Đức Chí-Tôn đã cho hiệp Tam bửu.

* Lư Hương  và ý-nghĩa 5 cây hương:
Số 11 là Lư Hương: Lư hương tượng trưng Càn Khôn vũ-trụ và sự sanh biến vô cùng, tức là Tứ Tượng biến Bát-Quái, Bát-Quái biến-hoá vô-cùng mới tạo ra Càn khôn thế giái.

Ý-nghĩa 5 cây hương: Kinh Nhựt Tụng có dạy:

“Khi cúng Thầy phải đốt cho đủ 5 cây hương, cắm hàng trong ba cây gọi là: Án Tam Tài; thêm hàng ngoài hai cây nữa gọi là Tượng Ngũ Khí”.

Đức Hộ-Pháp giải:
“Năm cây hương tượng Ngũ khí mà biến thành Ngũ-hành vận chuyển cả càn khôn thế-giới tức là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

“Mỗi chất đều có mỗi sắc, mỗi sắc đều có mỗi khí, mùi vị và sanh quang của nó chúng ta không thể hưởng được, nghe được, nên khi làm lễ  đốt đủ năm cây nhang là đúng theo phép tín-ngưỡng là qui pháp lại, mọi vật trong Ngũ khí dâng lễ cho Chí-Tôn chỉ có Người vui hưởng qui pháp ấy mà thôi, cắt nghĩa rõ-rệt là NGŨ KHÍ đó vậy.

“Đúng hơn nữa là trong Bát hồn vận-chuyển được phải nhờ đến Ngũ-khí cùng một ý-nghĩa “vạn vật đồng thinh niệm Chí-Tôn”.

* Cách cắm hương:
Khi đốt năm cây hương, xá ba xá, chúng ta phải:
- Cắm cây thứ nhứt ngay giữa bình hương, tượng trưng cho Ngôi Thiên là Phật.
- Cắm cây thứ nhì vào bên trái của chúng ta, tượng trưng cho Ngôi Địa hay là Pháp.
- Cắm cây thứ ba về bên phải của chúng ta, tượng trưng cho Ngôi Nhơn hay là Tăng.
- Trở lại cắm cây thứ tư bên trái chúng ta gọi là Âm.
- Cắm cây thứ năm trở về bên phải của chúng ta gọi là Dương; ấy là Âm Dương nhị Khí, hiệp với ba cây hàng trong mới gọi là tượng Ngũ Khí.

Bây giờ phân ra Ngũ Khí, chúng ta sẽ thấy:
Ba cây hàng trong:
- Cây ở giữa thuộc về Hỏa khí, tượng là Trời (Thiên).
- Cây ở bên trái ta thuộc về Thổ khí, tượng là Đất (Địa).
- Cây bên phải  thuộc về Kim khí, tượng về Người (Nhơn)

Hai cây hàng ngoài:
- Cây ở bìa bên trái ta thuộc về Thủy khí, tức là Âm.
- Cây ở bìa bên phải ta thuộc về Mộc khí, là Dương.

Sở dĩ người tu hành phải thắp hương nơi tôn nghiêm là tạo sự dịu dàng, thơm-tho; gây một sự cảm ứng với các Đấng huyền linh, là Đạo; mà trước nhất người phải định cái tâm là chỗ đứng của mình, con số 5 là con số chỉ cái tâm đó vậy.

Người không làm lệch lẽ yêu-ái của trời đất  đó là biết đến mệnh, cho nên hai chữ số mệnh đi liền nhau.
Cắm hương hai hàng thẳng nhau hay đặt xen kẽ?
Nếu bình hương vuông tượng đất (Âm) thì nhang cắm xen kẽ, xem như tạo thành vòng tròn ấy là Dương. Nếu bình hương tròn tượng Dương thì cắm hương theo hình vuông tượng Âm. Ấy là Âm Dương hoà hiệp.

* Ý-nghĩa Hai cây đèn:
10 và 12: Hai cây đèn: Gọi là Lưỡng Nghi Quang, tượng trưng cho Nhựt Nguyệt, Âm Dương soi sáng khắp cả Càn Khôn Vũ Trụ, tức là Thái Cực sanh Lưỡng Nghi.

Hai cây đèn này cùng hiệp với Thái cực đăng ở trên sẽ đủ vào con số 3 là chỉ một sự tròn đầy viên mãn. Tức là tạo nên một tam giác đều. Ý-nghĩa một mà ba, mà ba cũng là một vây. Bởi đây là thời-kỳ cùng cuối của một chu-kỳ. Tất cả đều được an bày do quyền năng của Đấng Chí-Tôn, đó là Mệnh. Người nhìn vào các con Số đã sắp đặt để hiểu. Nên được gọi là Số mệnh.

3 - Thiên-bàn thờ Chí-Tôn hiện đã sửa sai pháp:
Thầy đã dạy trên Thiên bàn thờ Chí-Tôn hình chữ CHỦ tức là gồm 12 món cúng phẩm, đặt thành 3 hàng ngang tạo thành hình quẻ Càn Càn vi thiên (Càn là trời) tức là chỉ ngôi Thượng Đế Thái-cực Thánh-Hoàng vi chủ. (Xem lại trang 20)

Nhưng ngày nay cũng đặt 12 món cúng phẩm ấy nhưng sửa lại để bông và trái xuống cấp dưới, nghĩa là làm mất đi một đường ngang, bấy giờ còn lại là hình chữ THỔ (thổ là đất) thì trở thành quẻ Khôn khôn vi địa (địa là đất) là thời Âm. Âm thạnh tất Dương suy. Đạo bị bế là vậy. Bởi hằng ngày Ta chỉ lạy vào chữ “Thổ” mà thôi.

Nhìn lên Thiên bàn, một lỗi-lầm như trên ta thấy ra rất nhỏ, hầu như không một ai chú-ý, nhưng chiều sâu rộng thật tai hại vô cùng, Đạo bị thất pháp là do đó. Người tu không thành do đó. Người bảo thủ Chơn-truyền cũng phải biết phân biệt bấy nhiêu đó.

Thầy dạy:
“Thiên Địa hữu Âm Dương, Dương thạnh tắc sanh, Âm thạnh tắc tử. Cả Càn khôn thế giới nhờ Dương thạnh mới bền vững, cả chúng sanh sống bởi Dương quang, ngày nào mà Dương-quang đã tuyệt, Âm-khí lẫy lừng, ấy là ngày Càn Khôn thế giới sẽ chịu trong hắc ám, mà bị tiêu diệt…” (Pháp Chánh-truyền Nữ phái)

4 - Thất pháp như thế nào?
Điều này Thầy có nói với Hộ-Pháp khi Ngài giao quyền cho Hộ-pháp xuống thế mở Đạo.

Nhắc lại lời Đức Hộ-Pháp có thuật lại rằng:
“Bần-Đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống thế mở Đạo, thì Đức Chí-Tôn mới hỏi rằng:
- Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở Bí-pháp trước hay là mở Thể-pháp trước?

Bần-Đạo trả lời: - Xin mở Bí-pháp trước.
- Chí-Tôn nói:
- Nếu con mở Bí-pháp trước thì phải khổ đa!

Đang lúc đời cạnh-tranh tàn bạo, nếu mở Bí pháp trước, cả sự bí-mật huyền-vi của Đạo, Đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại thì mối Đạo phải ra thế nào?

Vì thế nên mở Thể-pháp trước, dầu cho đời quá dữ có tranh-giành  phá hoại cơ thể hữu-vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô hại, xin miễn mặt Bí pháp còn là Đạo còn.

* Bí-pháp là Hiệp-Thiên-đài giữ.
*Thể-pháp là Cửu-trùng-đài mở-mang bành trướng”

Ấy vậy người Tín hữu Cao-Đài phải nắm vững Thể-pháp của Đại-Đạo để rõ thông về mặt Bí-pháp. Dầu cho mặt Thể-pháp có cải đổi đi nữa nhưng người Tín hữu đã hiểu thông rồi cũng vô hại. Nhắc lại lời Thầy đã nói “dầu cho đời quá dữ có tranh-giành phá hoại cơ thể hữu vi hữu-hủy đi nữa thì cũng vô hại, xin miễn mặt Bí pháp còn là Đạo còn.”

Như vậy trách nhiệm của người Tín-hữu Cao-Đài là phải rõ thông Thể pháp của Đạo mới mong am tường Bí pháp của thời Tam-Kỳ Phổ-Độ này.

B - Xá chữ KHÍ:
Tại sao khi cúng xong rồi phải quay ra ngoài Xá chữ Khí? Khí là gì?
- Khí là sự sống, đây là viết đủ nét. Bên trái có bộ mễ   Mễ là gạo. Tức nhiên người dùng gạo (hay các thứ ngũ cốc) mà nấu lên cho bốc hơi, dùng vật dụng hứng lấy chất hơi ấy, nó sẽ ngưng đọng lại mà thành một thứ rượu. Rượu là do Khí bốc hơi mà thành. Vì vậy Lễ cúng có rượu tượng cho KHÍ.

1 - Tại sao Đạo Cao-Đài thờ CHỮ KHÍ?
Chữ Khí ở sau ngai Hộ-Pháp (Hiệp-Thiên-Đài

Đền Thánh Tòa-Thánh Tây-ninh). Riêng nơi các Thánh Thất thì chữ KHÍ  thờ nơi bàn Hộ-Pháp đều có chung một ý-nghĩa là KHÍ SANH QUANG của Càn khôn vũ-trụ, vạn vật nhờ Khí sanh quang hiện tượng ra mặt thế để bảo tồn cơ sanh hóa hay tấn hóa của toàn thể vạn loại tức là hữu sanh.

“Từ buổi trời đất biến sanh đã có cái khối Nhơn linh ấy là Cha của chơn linh, Cha của nhất điểm linh quang. Làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy?

Vì ta xét từ trước: Đức Chí-Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất, do thanh khí ấy mà biến thành vạn-vật. Loài người đến nay nhờ tiến hóa mà khôn ngoan cũng như vạn-vật, nhờ tấn hóa mà cũng được toàn năng, toàn tri vậy.

Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng không ai hiểu rõ nguyên-căn ấy.

Phật-giáo nói cái khối linh ấy phân tánh của mình ban bố ra cả vạn-vật, khối linh ấy trước khi phân tánh gọi là BRAHMA là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Đấng thứ nhì là CIVA chủ về Pháp, Đức chí-linh cầm quyền-năng biến chuyển chứ không cầm quyền năng tạo đoan.

PHÁP vận hành mà sanh ra Khí, nên ta thấy mênh mông trước mắt ta là Khí.

Vậy Khí là gì?
Khí là khối sanh quang vạn-vật nhờ thở khí ấy mà sống, cho nên chữ KHÍ là sự sống của vạn-vật, do KHÍ là PHÁP biến tướng ra vạn-vật. Thế nên Đấng thứ nhì Chưởng quản cái sanh khí ấy thường gọi là “2è Logos” thuộc Âm cũng là Phật-Mẫu Chưởng quản cả cơ-quan tạo đoan này vậy.

Như chúng ta thấy cơ-quan sanh-hóa vạn-vật và loài người là do Âm Dương phối hợp mà biến tướng.

Phật chiết tánh biến ra Pháp là ngôi thứ nhì thuộc Âm là Phật-Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái Bí-mật ấy là khi Âm Dương phối hợp biến hình, mà Phật-Mẫu dùng gì để tạo nên cơ-quan hữu vi này. Vì bởi Phật-Mẫu dùng khối sanh quang ấy có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được. Khí biến ra hữu tướng là: Nước, Lửa, Gió. Rồi nước, lửa, gió vận hành ra vạn-vật, đi từ Hỗn-Nguơn-Khí, Hư-vô-khí đến Huyền-ảnh-khí rồi mới biến ra vạn-vật, tức là Huyền-Ảnh-khí biến ra Nhơn hình vậy.

KHÍ mà khoa-học gọi là Nguyên-tử-khí (Atome). Nguyên-tử-khí có năng-lực vô biên mà loài người đã đoạt được để dùng, chứ không biết nguyên căn và nguyên tánh của nó đã đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên-tử-chất và dùng được cái nguyên-tử-khí ấy là cái khí sanh của vũ-trụ mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thế sẽ nương nhờ nguyên-tử-khí ấy mà Qui nguyên Thánh thể.

Thử hỏi Đức Chí-Tôn cho nhơn-loại đoạt nguyên tử-khí ấy để làm chi? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền-vi bí-mật ấy mà dù cho Đạo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng  để kiếm hiểu. Ngày hôm nay nguyên-tử khí dùng để giết người thì biết đâu sau này nó sẽ là phương cứu tử huờn sanh cho người và nó sẽ đem loài người đến địa vị trường sanh bất tử. (TĐ I/ 45-46)

Bởi nguyên-tử-khí là căn nguyên sự sống của vạn loại, nếu nó đã làm chết người được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái Khí ấy sanh trước hết là Nước, lửa, gió vận hành tạo ra hữu hình là vạn-vật. Vì cớ mà con người đối với vũ-trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy Càn khôn làm Đại Thiên Địa, còn con người là Tiểu Thiên Địa. Mạng sanh của con người đồng thể cùng Càn khôn tức là sự sống phải tương liên với Chí-Tôn mà Chí-Tôn lại cầm quyên năng vô đối.

2 - Tại sao phải Xá chữ khí?
Người Tín hữu khi làm Lễ Đức Chí-Tôn xong liền quay ra phía sau bàn Hộ-Pháp Xá chữ KHÍ, nghĩa là gì?

Đức Hộ-Pháp giải như sau:
“Cái Xá ấy chẳng phải làm Lễ trọng Chức-sắc Hiệp Thiên-Đài từ lớn đến nhỏ, mà là Xá chữ Khí.

Chữ KHÍ là nguồn cội của pháp đã biến sanh vạn vật. Phật là trước, tới Pháp là thứ, kế Tăng là tiếp theo. Cái Xá ấy là kính Đệ Tam qui. Trong Pháp ấy xuất hiện Phật-Mẫu kế tới Vạn-linh. Vì cớ cho nên Diêu-Trì-Cung và Hiệp-Thiên-Đài có tình mật thiết cùng nhau về mặt căn cội Pháp để vận hành nguơn Khí tạo Vạn linh thì vị Hộ pháp do Di-Đà xuất hiện, rồi kế vị Hộ-Pháp và kế tiếp Long Thần Hộ-Pháp cùng toàn bộ Pháp-giới đương điều khiển Càn Khôn vũ trụ cũng đều do nơi CHỮ KHÍ  mà sanh sanh hóa hóa.

Chào CHỮ KHÍ tức là chào cả Tam qui thường bộ pháp giới tức là chào mạng sanh của chúng ta, chớ chẳng phải chào HỘ-PHÁP Thập Nhị Thời quân, Thập nhị Địa chi đã xuất hiện mà đang thi-hành sứ mạng nơi Hiệp Thiên-Đài, mà chào toàn thể Vạn linh đã sanh hóa từ tạo thiên lập địa”.

3 - Ý nghĩa của Khí:
“Theo Kinh Dịch, Khí là nguyên-ủy của vạn-vật hữu hình, khí này đã bao trùm vũ-trụ từ lúc còn trong trạng thái đầu tiên, tức là chưa có sự động, tĩnh. Nhỏ nhất không nơi nào, vật nào mà không có nó ở bên trong gọi là Tiểu nhất.

Để mô tả cái Khí bao trùm vũ-trụ là cái khí đầu tiên tức là Nguyên khí, từ đó sinh ra vạn-vật và con người ấy là  chí đại. Đến như chí tiểu thì trong mỗi vật dù là chỗ nhỏ đến đâu, nó cũng chỉ là một dạng khí-hóa, khí này gọi là Vô cực. Nó là cái làm cho “Vật là vật”, “người là người”. Từ đó người xưa đánh giá cấp bậc khí-hóa ở mỗi vật hay mỗi người.

Khí ở trên trời đến lúc sẽ thanh tịnh, quang minh, dầu rằng cái minh đức vẫn luôn luôn ẩn tàng, nhưng lúc nào cũng đi mạnh mà không ngừng nghỉ.

Ôi! Thiên khí giáng xuống, địa khí thăng lên tạo thành quẻ Địa Thiên Thái  tức là một sự hanh thông.

Sự vận hành và dụng sự của nó không bao giờ ngơi nghỉ cho nên không cần đợi đến lúc hạ xuống mới có. Ở đây người xưa muốn nói rằng: Thiên-khí phân bố ở khắp nơi, hóa sinh vạn-vật, nhưng cái thể và cái vị của nó vẫn tôn quí cao thượng vậy”.

Về quyền năng thì:
“Đức Chí-Tôn là Đấng tự hữu, hằng hữu mà tự thử tới giờ bất kỳ một Đấng Thiêng-liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên-căn của Đức Chí-Tôn, chỉ biết cái quyền-năng vô đối của Người mà thôi.

Ngày giờ này:
“Đức Phật-Mẫu ban sơ đến Hiệp Thiên-Đài làm MẸ của chữ Khí tức là Khí sanh vạn-vật. Lấy nguơn pháp trong chữ Khí biến thành Càn khôn vũ trụ, nên Phật Mẫu trước đến Hiệp-Thiên-Đài thuộc Pháp, tức là tòa ngự của Người, rồi sau mới lập Cửu-Trùng-Đài”.
(TĐI/61)

C - Dâng Tam Bửu
Trọng giá của TAM-BỬU mà CHÍ-TÔN ưa chuộng
để dâng Đại Lễ cho Ngài là nguyên-nhân chấm dứt cái hoạ tranh thù đã gây nên trường oan-nghiệt cho toàn thế giới (Đức Hộ-Pháp)

Ðền Thánh, 01 tháng chạp năm Ðinh Hợi (1948):
Bần-Ðạo xin nhắc lại một phen nữa, khi nào hành lễ lúc dâng Tam Bửu:
- Hễ dâng Bông lên là dâng cái thể hình của chúng ta đó, ta cúi đầu cầu nguyện Chí Tôn: “Con xin dâng mảnh hình hài của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng”.
- Khi dâng Rượu cầu nguyện: “Con xin dâng cả trí thức tinh thần của con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng”.
- Khi dâng Trà cầu nguyện: “Con xin dâng cả linh hồn con cho Chí Tôn dùng phương nào thì dùng”.

Câu chót nếu ta khôn ngoan nguyện như vầy:
 “Cả linh hồn, cả trí não, cả hình hài con, Thầy đào tạo đó là của Thầy thì do nơi quyền hành độc đoán của Thầy định”. Ðó ta cầu nguyện như vậy với Chí Tôn.
- Bần Ðạo đã giảng Tam Bửu, tại sao Chí Tôn lấy Bông tượng trưng hình hài, Ngài muốn nhìn con cái của Ngài bằng cái giá trị tốt đẹp như con mắt ngó thấy cái Bông.
- Ngài lấy Rượu là muốn tinh thần của loài người cường liệt như rượu mạnh vậy.
- Ngài lấy Trà là muốn chơn linh ra điều hòa như trà vậy. Ngài lựa ba món đó cốt yếu là như thế.
* Ngày nay Bần Ðạo giảng ba ngôi hiệp nhứt của Ðức Chí Tôn
“Cả thảy mỗi phen vào Ðền Thánh nắm sanh khí ấy tạo cả cơ quan hữu hình nầy, dầu sắt đá cỏ cây, cả thú vật vạn linh hữu tướng, thuộc về Tăng.

Ðứng đầu tiên hết Chí Tôn tức là Phật nắm cả cơ quan bí mật tạo thành Càn Khôn Vũ Trụ.
Ðạo nầy luật thế nầy, Ðạo kia luật thế khác, nhưng không khác hơn Phật Giáo.

Giả thí như Thánh Giáo Gia Tô cũng có ba ngôi (la trinité): Le Père, Le Fils et Le Saint Esprit (Ðức Chúa Cha, Ðức Chúa Con và Ðức Chúa Thánh Thần). Ðức Chúa Cha là Phật, Ðức Chúa Con là Pháp, Ðức Chúa Thánh Thần là Tăng.

Không Ðạo giáo nào thuyết minh rõ ràng cơ tạo đoan, lấy thuyết hỗn độn sơ khai phân chia: Khí chi khinh thanh thượng phù giả vi Thiên, khí chi trọng trược hạ ngưng giả vi Ðịa  (Hễ khí thanh thì lên làm Trời, khí trược thì hạ xuống làm  đất).

Cả vật loại hữu tướng nầy có hai quyền năng sản xuất:
- Ngôi Chí Tôn.
- Ðức Mẹ.

Cả quyền năng ông cha chúng ta đào tạo thế nào, ngày nay quyền năng Chí Tôn cũng đào tạo thế ấy, mà bà mẹ chúng ta thế nào thì mặt luật ấy không khác nào quyền năng vô tận của Phật Mẫu dùng đặng đào tạo Càn Khôn Thế Giái, chúng ta không biết, không thể đoán được, luật ấy không xa.

Chí Tôn là Phật, Phật Mẫu là Pháp, Càn khôn là Tăng, mặt địa cầu nầy đến 3.000 thế giái cũng là Tăng.

Nắm quyền trị thế là Hạo Nhiên Pháp Thiên, chính quyền năng Chí Tôn định, địa cầu nầy không định khác, chỉ có một mặt Trời nầy không có mặt Trời khác, trong 24

giờ có một ngày, Ðấng cầm quyền trong pháp giới là Hư Vô Cao Thiên vâng mạng lịnh Hạo Nhiên Pháp Thiên làm cho vũ trụ khỏi tương tàn với nhau. Ðịa cầu nầy nếu không mặt luật đạo đức thì sanh ra bậy bạ con người không chắc sống.

Bây giờ chúng ta quan sát Hỗn Nguơn Thượng Thiên, ngày nay Ðức Phật Di-Lạc ở nơi Hỗn Nguơn Thượng Thiên cầm cả hành tàng Càn Khôn Vũ Trụ, giờ Ngài đương cầm quyền cả vật loại.

Trước khi nguyện lấy dấu và niệm: Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng, dám chắc thật đích xác ba ngôi ấy chưa ai biết rõ.

Ngày nay Bần Ðạo giảng: Phật là gì? Phật là một Ðấng toàn tri toàn năng, người ta lầm lạc tưởng không thấy hình dạng là không có, người thế gian lầm lạc nhiều lắm. Họ quả nhiên là người sống hiện tại chỉ khác hơn chúng ta là không có thi hài mà thôi. Ðấng toàn tri toàn năng ấy là Ðấng đầu tiên hiệp lại với Chí Tôn.

Bần Ðạo đã giải nơi Phật có ba cảnh đặc biệt:
1 - Hạo Nhiên Pháp Thiên tương liên hiệp một cùng Ðức Chí Tôn.
2 - Hư Vô Cao Thiên thuộc về Pháp giới cầm cả luật Thiên Ðiều.
3 - Hỗn Nguơn Thượng Thiên thuộc Tạo hóa, thuộc Tăng. Phật vị có ba đẳng cấp ấy đặng nắm cả quyền năng Càn khôn Thế giái.

Phi Tưởng Diệu Thiên nắm quyền hành tạo đoan loài người thuộc Phật, đồng thể với Phật.

Tạo Hóa Huyền Thiên thuộc Pháp và có ba quyền tạo đoan thế giái hữu hình nầy vô cùng tận. Tạo hóa cầm sanh khí để tạo sanh vật.

Phi Tưởng Diệu Thiên, Tạo Hóa Huyền Thiên. Bây giờ tới Phi Tưởng Diệu Thiên lãnh phận sự nơi Ðức Chí Tôn cầm nguơn khí của con người, giữ sanh mạng vạn vật kêu là vạn linh.

Tới Tạo Hóa Huyền Thiên, Phật Mẫu cầm pháp chuyển cơ sanh hóa không cùng tận, cả loài người, cây, cỏ, sắt, đá, cũng tấn lên phẩm người nữa, là nhờ tay của Ðức Phật Mẫu nắm Pháp biến xuất. Cả thi hài, chơn linh, trí não pháp thân luân chuyển sanh sanh tử tử. Nợ sanh tử ấy là bài học của Tạo hóa trong các cơ thể ấy, loài người học làm đặng biết, đặng chi? Ðặng tạo Pháp thân huyền diệu được toàn thiện toàn mỹ, toàn tri toàn năng như Phật Mẫu đã làm, ta làm đặng học hỏi tạo Pháp thân do quyền lực thuộc Pháp, hình hài xác thịt thuộc Tăng. Thây chúng ta thay đổi lăn lóc trên đường sanh sanh tử tử. Cũng như Phật ở tối cao tối trọng, gần Chí Tôn là Hạo Nhiên Pháp Thiên. Các Ðấng ấy hữu sanh hữu tử tri khổ nghiệp chướng luân chuyển hoá sanh, năng du ta bà thế giái độ tận vạn linh đắc qui Phật vị.

Các Ðấng ấy đã chịu như chúng ta ngày nay đặng đi đến toàn thiện, đặng toàn tri toàn năng, họ đi trước, mình đi sau, họ cao mình thấp thỏi, con đường họ đi mình cũng sẽ tới. Một điều ta nên để ý hơn hết là chúng ta phải hiểu rằng: Mặt thế nầy chưa biết ai cao ai thấp. Nơi Hạo Nhiên Pháp Thiên một vị Phật cao trọng toàn tri toàn năng gần như Ðức Chí Tôn nữa mà xuống tại thế nầy đặng học, bài học khổ dám làm kẻ ngu dốt lắm.

Chúng ta thấy hình thể một vị Phật Mahâsarouth là một vị Chí Phật như Ðức Cakya-Mouni đến thế gian bưng Bình Bát Du để xin cơm đặng nuôi kẻ khổ. Một người ăn mày ở thế gian như vậy mà nơi cửa hư không lại có quyền năng vô tận vô đối. Ðến Ðức Chúa Jésus Christ là một vị Christna Vichnou đệ nhị kiếp Chí Tôn giáng linh xuống làm một vị bần hèn khổ não để đi xin từ chén cơm, từ miếng bánh mì đặng nuôi kẻ đói khó. Ðó là bài học trước mắt phàm chúng ta đã thấy.

Ðấng Tạo Ðoan đưa tay xin cho loài người ăn, đó là Người cầm quyền năng nuôi khắp vạn vật Càn Khôn Võ Trụ. Thế gian chưa hề thấy và chưa hề biết.”

D - THỜ THƯỢNG-ĐẾ
1 -Tại sao nhân-loại phải thờ Đức Thượng Đế trong buổi Tam-kỳ Phổ-Độ này ?
a/ - Lý-do nơi Trời:
“Phàm con người phải biết có chi trên đầu. Cái không-trung trên đầu ta đó là Trời. Đấng cầm quyền trên ấy là Đấng Tạo-hóa, là Ngọc-Hoàng Thượng-Đế, là Chúa tể cả Càn Khôn Thế Giái.

Nay Đấng Tạo-hóa lấy danh lập Đạo xưng là“ Cao Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát giáo Đạo Nam phương”, dùng huyền-diệu Tiên-gia đến dựng nơi nước Nam ta một nền Chơn-Đạo rất cao-thượng mà độ rỗi nhơn-sanh khỏi luân-hồi, gọi là Đại-Đạo Tam-Kỳ Phổ-Độ.

Đức Thượng-Đế vì thương-yêu nhơn-loại đến độ rỗi chúng ta, lại gọi mình là Thầy, kêu chúng ta là Môn Đệ. Vậy nên chúng ta phải hết lòng kính mến và sùng bái Đấng Tạo-Hóa và hết dạ tín-ngưỡng cái Đạo rất huyền-vi mầu-nhiệm của Đấng Chí-Tôn.

Cái tông-chỉ của Đại-Đạo là gồm cả ba Đạo chánh là: Nho, Thích, Đạo, chuyển cả ba Đạo ấy mà hiệp lại làm một. Nên chi chúng ta tu Đại-Đạo thì phải noi theo tông chỉ của Tam-Giáo mà tập rèn tâm tánh, là phải nắm trọn Tam cang Ngũ thường, vẹn giữ Tam qui Ngũ giái và cần luyện Tam bửu Ngũ-hành.

Người mà gồm được hết cả ba thì là gần Thần, Thánh, Tiên, Phật vậy.
b/ - Lý-do nơi người:
Thầy dạy: Chư Môn Đệ nghe!
“Phần nhiều trong các con chẳng để lòng thờ kính Thầy, tưởng cho đem thờ Thầy vào nhà là chủ-ý cầu một việc lợi riêng chi cho gia-quyến vậy thôi, chớ chẳng hiểu là một nguồn trong sạch để rửa các lỗi phàm-tục của các con. Nhiều đứa lại còn mơ-hồ, đã thờ Thầy mà còn chưa chắc ý rằng thờ đặng chi và mở Đạo có ích gì?

Than ôi! Đã bước chân vào đường đạo-hạnh mà chẳng để công tìm kiếm, học hỏi cho rõ ngọn nguồn, thì làm phận-sự Môn-đệ như thế có ích chi cho nền Thánh Giáo đâu?

Đạo Trời khai ba lượt, người tục lỗi muôn phần, sanh đứng vào thế cuộc, chưa biết mình đã lãnh một vai tuồng, đặng chờ lúc kết-quả hồn qui Thiên ngoại, lánh khỏi xác phàm trở về nơi khởi hành mà phục các điều đã thi hành giữa sân khấu là chốn trần-ai khốn-đốn nầy; phận chưa xong phận, thân chẳng nên thân, thân phận lo tính chưa rồi, còn mong mỏi chi dụng mình vào đường đạo-đức để cho có ích chung nữa đặng!

Lương-tâm của các con là một khiếu Thiêng liêng của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong việc nhơn-đức; làm một việc phải tức là do nơi ý Trời; phạm một nét vạy tà là cải nơi Thiên luật; phải quấy Thần, Thánh chỉnh chép biên, thưởng phạt duy đợi ngày chung cuộc! Khá biết lấy!”
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.1  ngày 27-12-1926)

E - Ý NGHĨA THÁNH TƯỢNG THIÊN-NHÃN
(Tượng Ngũ Chi)

Đạo trải qua thời gian, Hội-Thánh cũng đã nhiều lần thay đổi Thánh Tượng Thầy:
Trong thời kỳ nền Đạo mới phôi-thai, Hội-Thánh ban cho toàn Đạo thờ “Thánh Tượng Ngũ Chi". Trong Thánh Tượng phần dưới Thiên-Nhãn-Thầy có in hình các Đấng Giáo-Chủ thời xưa: Tam-Giáo, Tam-Trấn, Ngũ-Chi. Đó là cách thờ-phượng Tam-Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt.

Ý-nghĩa Tam Giáo:
- Phật-Đạo: Ở giữa là Đức Phật Thích Ca, Giáo Chủ Đạo Phật.
- Tiên-Đạo: Phía hữu là Đức Thái-Thượng Đạo Tổ, Giáo-Chủ Đạo Tiên (bên hữu của Chí-Tôn).
- Thánh-Đạo: Phía tả là Đức Khổng Thánh Tiên Sư, Giáo-Chủ Đạo Thánh (Bên tay tả của Chí-Tôn)

Tam Trấn Oai-Nghiêm:
Thay mặt cho Tam Giáo trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ:
- Phật Đạo: Phía hữu là Đức Phật Quan Âm, chủ về Phật Đạo.
- Tiên Đạo: Ở giữa là Đức Lý Thái Bạch, chủ về Tiên Đạo.
- Thánh Đạo: Phía tả là Đức Quan Thánh Đế Quân, chủ về Thánh Đạo.

Ngũ Chi Đại-Đạo:
Kể từ trên xuống: Ngũ Chi Đại-Đạo là:
- Phật Đạo: Đức Thích-Ca Mâu-Ni Thế Tôn chưởng giáo Đạo Phật.
- Tiên Đạo: Đức Lý Thái Bạch Chưởng-giáo Đạo Tiên thay quyền  Tiên Đạo.
- Thánh Đạo: Đức Chúa Giê-Giu, Giáo-chủ Thánh Đạo.
- Thần Đạo: Đức Khương Thái Công, Giáo-chủ Thần Đạo.

-Nhơn Đạo: Có 7 cái Ngai thể về Nhơn Đạo gồm có: Một Ngai Giáo-Tông, ba Ngai Chưởng-Pháp,  ba Ngai Đầu-Sư.

Hình thức thờ như trên có ý-nghĩa là: Tam Gíao Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt, đó là Tôn chỉ của Đạo Cao-Đài kỳ ba chuyển thế và Cứu thế. Đạo xuất ư Đông.

Thánh tượng Tam Trấn
Về sau Hội-Thánh chấn chỉnh lại để ban cho toàn Đạo thờ “Tượng Tam Trấn”. Trong Tượng Tam Trấn không có in hình các Đấng Giáo Chủ, nhưng phần dưới Thiên Nhãn Thầy có ba khuôn vẽ bằng Cổ Tự, đó là Thánh-danh của các Đấng Tam Trấn Oai Nghiêm trong buổi Tam Kỳ Phổ Độ:Thánh tượng này phía trên có 6 chữ:

ĐẠI-ĐẠO TAM-KỲ PHỔ ĐỘ   
dưới cùng là danh-hiệu Tam-trấn, từ trái sang phải:
QUAN-ÂM BỒ-TÁT (tượng Phật-đạo)
 THÁI BẠCH KIM TINH
  (Tượng Tiên Đạo)
 QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN
關聖帝君 (Tượng Thánh Đạo)

Ngay trong hiện tại, toàn Đạo đang thờ Thánh Tượng Ngũ chi như hình trên.
Trong tượng Ngũ-Chi nhận thấy có phần chính-yếu là Thiên-Nhãn Thầy ở chính giữa có 32 tia hào-quang cả thảy. Kế đến là mặt trời và  mặt trăng tức là Âm Dương nhị khí.Dưới là Tam-giáo, kế Tam Trấn, sau hết là Ngũ chi

F - Ý nghĩa Chữ Đạo 12 nét.
Nếu khai-triển chữ ĐẠO có 12 nét sẽ thấy các phần sau đây ứng với sự thờ cúng trên Thiên Bàn vậy.

Trên cùng là hai nét phết, chính là Âm Dương của trời đất hoá sanh, hay nói gần hơn là do cha mẹ phàm thể sanh ra con người; chỉ Âm Dương tương-hiệp. Nét nhứt đặt nằm ngang ở dưới là chỉ con người đứng đầu trong Vạn-linh, hiệp chung lại tức nhiên đủ Tam tài: Thiên, Địa, Nhân rồi vậy.

Bên trong là chữ Mục là con mắt, có 5 nét, tượng lý Ngũ-hành, thuộc Thổ, Thổ ở trung-ương, về tính chất thuộc màu vàng. Đối với sắc dân là giống dân châu Á, mà châu Á ở vào trung-tâm quả đất.

Từ chữ Mục(5 nét) thêm một nét phết thành ra chữ Tự (6 nét) Tự là chính mình, do vậy mà sự tu-hành là điều tự quyết, tự chủ, tự quyền, tự lập…để định cho phương châm hành-sử của mình. Thế nên số 6 là con số bình-hoà, hạnh-phúc.

Cả hai bộ-phận này ráp lại với nhau thành ra chữ Thủ (9 nét) Thủ là đầu, là khởi điểm. Khởi điểm con người là Cung Mẹ Diêu-Trì thuộc từng thứ 9, cho nên khởi xuất từ đây mà khi trở về cũng là đây. Nhưng nơi đây chưa phải là bến ước mơ cho linh-hồn khi thoát xác mà phải có đủ Tam lập nữa; tượng bằng bộ sước (3 nét) mới thành ra chữ ĐẠO (9 nét + 3nét =12 nét). Số 12 là con số của Thầy, chính là con đường Thiêng-liêng hằng sống là bến ước mơ của linh-hồn.

G - Tam thể xác thân
Trong con người có  ba thể, đó là: Xác thân, Trí não và  linh-hồn.
Xác thân tức là Thân thể của chúng ta là do cha mẹ sanh ra và nuôi dưỡng cho nên hình tướng. Sự sống của xác thân là trái tim  (Tinh) gọi là Đệ nhứt xác thân.

Trí não hay Chơn-Thần cũng gọi là Khí-phách của chúng ta do Đức Diêu-Trì Kim-Mẫu ban cho và lãnh phần un đúc cho khôn-ngoan. Thức ăn của trí-não là sự học-hỏi để tiến-hóa (Khí): Là đệ nhị xác thân.

Linh-hồn hay Chơn-linh của chúng ta do Đức Chí Tôn ban cho cũng gọi là điểm linh-quang của Thượng-Đế. Món ăn của linh-hồn chính là đạo-đức. Mỗi bữa vào cúng lạy chính là món ăn cho linh-hồn đó (Thần) là Đệ tam xác thân con người.

Tinh-  Khí- Thần gọi là Tam-bửu của người đó vậy.

Trong ba món báu nầy:
- Cái Trí (Chơn-thần) lại đứng vào phần trung gian rất quan-trọng trong người, để liên-hiệp giữa xác thân với Chơn-linh, đồng-thời dìu dẫn xác thân trên đường tấn hóa. Hay nói rõ hơn chính đệ nhị xác thân làm trung-gian cho đệ nhứt xác thân cùng với đệ tam xác thân vậy.

Con người cứ mãi luân-hồi chuyển kiếp nơi cõi phàm trần, sanh sanh tử tử là vì chúng ta không học hỏi về phần đạo-đức, trau-luyện cho trí tuệ được thông-minh, sáng-suốt nên dễ bị đệ  nhứt xác thân lôi cuốn vào vòng lục-dục thường tình, đi đến chỗ mê-muội, sa vào đường hắc ám tội lỗi, vì đó mà càng ngày càng xa lánh Chơn thần, nên nói là Tinh- Khí- Thần không hiệp nhứt là bởi cớ ấy. Nếu Tinh, Khí, Thần không hiệp nhứt thì người tu hành không mong chi đắc Đạo.

Do vậy mà người tu hành đắc Đạo cùng chăng cũng do nơi chơn-thần biết nghe theo lời đạo-đức để được thăng tiến. Việc xử thế tiếp vật cũng do trí não phán-quyết mà thôi. Nếu trái lại chơn-thần quá nghe theo sự đòi hỏi của  đệ nhứt xác thân thì khi hồn lìa khỏi xác bị xác thân lôi cuốn vào đất do luật hấp-dẫn của đất luôn nặng-nề bao phủ.

Trí-não có được khôn ngoan, phải biết nuôi nấng xác thân cho được khỏe mạnh, là dùng những món ăn tinh khiết, học hỏi theo Kinh sách có lợi về mặt tinh thần. Khi hồn xuất ra khỏi xác thì được nhẹ-nhàng thăng về Thượng giới. Kinh có câu:
“Kêu chơn-hồn vịn níu chơn-linh.
“Năng lai năng khứ khinh khinh.
“Mau như điển chiếu nhẹ thành bóng mây”

Một triết-nhân nói “Một linh-hồn minh-mẫn trong một thân-thể tráng kiện”. Còn Đạo-pháp thì nói rằng một xác thân tinh-khiết mới xuất ra một chơn-thần tinh-khiết. Thế nên, dân-tộc Việt-Nam ngày nay Đức Thượng-Đế thân trao cho một mối Đạo nhà đủ sức “xây cơ chuyển thế bảo-tồn vạn-linh” Thất Nương Diêu Trì Cung có dạy:
“Lễ bái thường hành tâm Đạo khởi”.           

Về ba ngôi Phật, Pháp, Tăng, Thánh giáo Đức Chí Tôn dạy rằng:
“Khai Thiên Địa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng Thầy. Thầy đã nói: Một Chơn Thần mà biến Càn Khôn Thế Giái và cả nhơn loại. Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy.
Các con là chư Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Thầy khai Bát Quái mà tác thành Càn Khôn Thế Giái nên mới gọi Pháp. Pháp có mới sanh ra Càn Khôn vạn vật rồi mới có người nên gọi là Tăng.

Thầy là Phật, chủ cả Pháp và Tăng, lập thành các Đạo, mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy”.

Đức Chí Tôn lập thành các Đạo thì có Tam Giáo Ngũ Chi Đại-Đạo.
- Tam Giáo là: Phật, Tiên, Thánh.

Ngũ Chi là: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo và Phật Đạo.

H - Tại sao Đức Chí-Tôn phải trao cho Môn đệ của Ngài cả Ấn, Pháp, Bùa, Chú và còn bắt

lập Minh thệ nữa?
Đức Hộ-Pháp thuyết 12-7 Mậu-Tý (1948)

Phương ngôn Pháp có câu “Aide-toi le ciel t'aidera” và Tiên Nho chúng ta nói “Tận nhơn lực tri thiên mạng” điều nầy hiển nhiên chơn thật lạ lùng, chúng ta rán cố gắng hết sức mình thì Chí Tôn mới ban cho cái huyền linh của Ngài, nếu không rán không thế gì hưởng được, mấy Em nhận biết điều ấy, chúng ta do Chí-Tôn kêu gọi đặng gầy dựng, ta phải cố gắng, vì lẽ không thăng tức ta phải đọa. Mấy Em nhớ, Ðạo của mấy Em chúng Qua đã tạo dựng cho mấy Em đặng ngày kia mấy Em tiếp theo Chơn Truyền Luật Pháp thay thế cho mấy Qua đặng truyền nghiệp cho hậu tấn.

Pháp nói “Chaque soldat a un bâton de maréchal dans son sacoche”, nghĩa là: Mỗi tên lính đều có cây giản của ông Thống Chế trong bị của họ, Qua nói rằng: Mỗi vị Tín đồ đều có cái mão của Giáo Tông và Hộ Pháp đội trước trên đầu, không lấy được là lỗi tại mấy Em, chẳng lẽ có một người mà người đó chết rồi là diệt tiêu nền Ðạo.

Ngày kia không có gì vui hứng cho Qua hơn, khi thấy xuất hiện trong mấy Em, khi Qua đã già vô tịnh thất an dưỡng tinh thần, mà thấy đặng mấy Em ở dưới bước lên ngồi địa vị cao trọng của Qua”.

Đạo là mênh mông vô hạn định, vậy thì người học Đạo biết tầm đến nơi đâu ? Nơi nào là điểm phát xuất ?

Thầy đã ân cần dạy bảo:
“Vũ-trụ mênh-mông vô-hạn-định chưa biết đâu là bờ bến. Ngoài vũ-trụ này lại còn có cả muôn vũ-trụ khác chứa đựng trong khối mênh-mông vô cùng, nghĩa là một vòng tròn chứa đựng trong một vòng tròn, một ánh-sáng chứa đựng trong một ánh-sáng vô biên.

Nhưng làm thế nào để Thầy điều-khiển được hết, cũng không có chi lạ, ấy là nhờ những định-luật thiên nhiên bất di bất dịch, cũng như cái lưới vãi chài, dầu có bao nhiêu đường tơ đi nữa, khi vãi ra thấy rườm-rà mà biết nắm mối thì phăng lên cái một. Kẻ biết nắm mối ấy là kẻ nắm Huyền pháp đó. Huyền-pháp là cái phép nhiệm mầu sâu kín chớ có chi khác lạ đâu. Huyền-pháp vốn cũng nhiều bậc nhiều tầng, cái này phải chịu hệ-thống của cái kia, cho nên con thấy nói có pháp cao, pháp thấp là như vậy đó. Kẻ nắm được pháp tối-linh là làm Thầy thiên-hạ  và cả Càn khôn.

Còn ẤN, PHÁP, PHÙ, CHÚ chẳng khác nào như những công-tắc điện để mở những nút dây điện khắp nơi. Phải có bình chứa điện cho đầy thì khi mở ra điện kia mới chạy, nếu không dầu mở cũng chẳng ích chi. Nên Đạo-gia nói Tu đắc Đạo là đoạt hết cơ mầu-nhiệm Thiêng-liêng đó. Chỉ nói như vậy thôi, chớ chưa phải đoạt hết đâu.! Chưa ai đoạt hết nỗi đâu, chỉ thấu-đáo một phần là quí lắm, nhưng cũng đủ quyền-lực sửa trị một khu vực, một tiểu Càn khôn, một nhóm hành-tinh, hay một trái địa-cầu có người ở; nhỏ hơn nữa là cai-trị  một nước, một tổng, một làng.

Bởi vậy TU THÂN là gốc, tức là tập nắm cơ mầu nhiệm gần nhất, chính là ở thân mình.
Hỏi vậy Tu theo Đạo Cao-Đài có sử dụng Ấn- Pháp- Bùa- Chú không ?

- Có chứ !
Ấn nghĩa là in dấu, là ẤN TÝ đó. Ấn ấy của Đức Chí-Tôn ban cho chúng sanh ngày nay, mà tất cả Tín hữu Cao-Đài đều có quyền sử dụng. Ấn này vừa là một điện đài thông công cùng Chí-Tôn và cả Thần Thánh Tiên Phật, ngoài ra còn có tác dụng trừ yêu diệt quỉ nữa, nó như lá bùa hộ mạng cho mỗi người có đủ đức tin nơi TRời Phật. Ấn Tý này ngày nay có tên là ẤN KIẾT QUẢ, tức nhiên báo cho nhân loại biết rằng: nếu tu thì thành, dữ thì đoạ. Vì nay đã đến thời kỳ gặt hái kết quả rồi. Bởi nay là qua Tam Kỳ Phổ Độ Tam Giáo Qui Nguyên Ngũ Chi Phục Nhứt, với chủ trương là Đại Đồng.
- Nhứt kỳ Phổ Độ như cái bông búp, thể hiện bằng cách chắp hai tay lại như bông mới thành hình.
- Nhị Kỳ Phổ Độ là thời kỳ các cánh hoa rụng đi nên cách bắt tay là nắm lại. Qua hai thời kỳ này người tu khó đắc thành chánh quả, khác nào lấy bông tươi mà gieo trồng thì làm sao trở thành cây giống được.!
- Phải đợi tới Tam-Kỳ Phổ-Độ này thì mới là thời kỳ KIẾT QUẢ tức nhiên là thành trái“Tu thì thành” là vậy.
PHÁP là gì? – Là phương pháp, phép tắc dùng nước Thánh để rửa sạch những bịnh chướng, linh thiêng. Phân tích chữ pháp thì một bên là chữ khử một bên là bộ thuỷtức nhiên dùng nước (Thánh) để khử sạch.
Pháp của Đạo Cao-Đài là gì? –Tức nhiên là nước Âm Dương Thuỷ-hoả ký-tế, nước này gọi là “Ma-Ha-thuỷ năng huỷ oan khiên giải trừ nghiệt chướng chi đoạ”. Nước Thánh  được dùng trong việc Giải oan, Tắm thánh, cắt bảy dây oan nghiệt trong việc làm Phép xác, Phép độ thăng…

Bùa. Đây là bùa chữ Khí tức là khí sanh quang, là sự sống của nhân loại. Bùa này của Đức Chí-Tôn ban cho tất nhiên sẽ rất linh diệu, chỉ để cứu bịnh mà thôi, không như bùa của các Thánh đã bị nhân loại lạm dụng quá nhiều, chỉ với mục đích lợi cho mình mà hại người.

Chú tức là câu Thần chú, khi niệm lên là có tác dụng sai khiến. Câu chú ngày nay trong cửa Đạo Cao-Đài gọi là “Câu chú của Thầy” niệm là “Nam-mô Cao-Đài Tiên Ông Đại-Bồ-Tát Ma-Ha-Tát”. Với câu chú này khi niệm lên là được sự giải thoát, có sự huyền linh hộ trì.

Tóm lại, Đạo Cao-Đài có đủ Ấn –Pháp –Bùa- Chú rất phổ biến trong toàn Đạo, không một ai mà không biết và hầu như sử dụng tất cả mọi chỗ, mọi nơi.

Bài 4: CÚNG TỨ THỜI
Đức Hộ-Pháp giảng qua Lời Thuyết Đạo rằng:
“Bần-Đạo tưởng thấy trong trí cần phải buộc cả thảy Đi Cúng” .Đi cúng tức là Cúng Tứ Thời vậy.

Về việc Cúng Tứ thời:
Tân Luật: Điều thứ hai mươi qui định Chức sắc giữ Thánh Thất mỗi ngày phải làm Tiểu Lễ bốn lần theo Tứ Thời: Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu. Mỗi thời phải cúng đúng 12 giờ khuya, 6 giờ sáng, 12 giờ trưa, 6 giờ chiều. Ở tư gia, dầu cúng một thời nào trong Tứ Thời cũng phải giữ đúng theo những giờ đã qui định trên đây mà hành lễ.

Một ngày có 24 giờ, chia làm hai thời điểm: ngày và đêm ấy là Âm Dương. Mỗi một thời điểm là 12 giờ,

tượng là Thập Nhị Thời Thần, mỗi thời có 2 tiếng đồng hồ, chia làm bốn khoảnh-khắc: ấy là Tứ Tượng đó vậy.
- Thời Tý: từ 11 giờ (đêm) đến 1giờ khuya.
- Thời Mẹo:từ 5 giờ (sáng) đến 7 giờ sáng.
- Thời Ngọ: từ 11 giờ (trưa) đến 1 giờ trưa.
-  Thời   Dậu:  từ 5 giờ (chiều) đến 7 giờ tối.

Thời Tý: cúng đúng 12 giờ (khuya) là chính giữa của thời, là trung hòa chi Đạo. Có nghĩa rằng: Trung là cái gốc lớn của thiên hạ, hòa là cái đạt Đạo của thiên hạ. Cùng cực cả trung và hòa, thì Trời Đất định vị, vạn vật hóa dục. Tiên Nho có câu: “Trung giả dã, thiên hạ chi đại bản dã, hòa giả dã, thiên hạ chi đạt Đạo dã. Chí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên”.

Đây là cái giờ giáp giới, ngày cũ hết, ngày mới bắt đầu, nên 12 giờ đêm của 30 tháng 12 (chạp) gọi là giờ giao thừa. Còn lại ba thời: Ngọ (12 giờ trưa) Mẹo (6 giờ sáng) Dậu (6 giờ chiều) cũng Cúng đúng chính giữa mỗi thời.

Sở dĩ phải cúng đúng vào các giờ qui định trên là vì Đạo Cao-Đài lấy hai chữ chính trung làm cơ bản, nghĩa là chánh Tý, chánh Ngọ, chánh Mẹo, chánh Dậu.

Đức Chí Tôn phân định thời Tý,Ngọ cúng rượu. Mẹo, Dậu cúng trà là một ý nghĩa huyền bí cao siêu để cho con cái của Ngài được hưởng Bí-pháp vô vi là một đặc ân vô giá của Ngài ban cho đó vậy.

* Thời Tý: Là thời cực Âm sanh Dương, là thời Nguơn Khí của Đức Chí Tôn phát khởi, do nhứt điểm Dương sanh chi thủy, vận chuyển Càn Khôn hóa sanh vạn loại, nên dạy hiến rượu là mượn cả khí phách, năng lực của toàn Môn-đệ giúp hay cho phần điển lực của Đức Chí Tôn. Hiến lễ Đức Chí-Tôn giờ nầy, chúng ta hưởng khí sanh quang của Đức Chí Tôn làm cho khí phách của chúng ta được mạnh mẽ, trí não sáng suốt.

Theo Dịch-lý là quẻ Phục (Địa Lôi Phục)  tức nhiên quẻ trên là Khôn vi Địa, dưới là Chấn vi Lôi. Đọc là Địa Lôi Phục. Có một Dương chịu dưới 5 Âm. Dương bắt đầu tiến dần lên. Gọi là Dương tiến, tất nhiên Âm phải thoái, hay cũng nói là Âm tuyệt Dương sinh

Thời Ngọ: Là thời Nguơn Khí của Đức Chí Tôn đến buổi cực thạnh, đầy đủ ánh Dương quang, soi thấu cả nguồn sanh khí của toàn thể vạn loại, tức là cực Dương sanh Âm, là nguồn tịnh dưỡng Nguơn Khí, nên dạy hiến rượu. Hiến lễ Đức Chí Tôn giờ nầy, chúng ta được hưởng khí sanh quang của Đức Chí-Tôn, hàm dưỡng khí phách của chúng ta được an tịnh. Thế nên dạy hiến rượu cũng như Thời Tý vậy.

Dịch-Lý ứng vào quẻ Cấu (Thiên-phong Cấu) tức nhiên quẻ trên là Càn vi Thiên, quẻ dưới là Tốn vi Phong, đọc là Thiên Phong Cấu. Quẻ này có một Âm dưới 5 Dương, là thời Dương tiêu Âm trưởng, nghĩa là Âm lần lần lấn Dương ra ngoài.

* Thời Mẹo: Là thời Nguơn Thần của Đức Chí Tôn sau những giờ định tĩnh mà phát khởi biến hóa, sanh trưởng muôn loài, do Âm Dương vãng lai giao thới, gọi rằng Thủy Hỏa ký tế, vạn loại hữu sanh, nên dạy hiến trà dùng Âm Dương thủy là mượn cả linh-hồn yên tĩnh điều hòa của chư Môn-đệ giúp hay cho phần Bí-pháp của Đức Chí-Tôn. Hiến lễ Đức Chí-Tôn giờ nầy, chúng ta hưởng được Thần lực của Đức Chí Tôn mà làm cho Chơn Thần của chúng ta được tráng kiện.

Dịch-Lý ứng vào quẻ Đại-Tráng  (Lôi Thiên Đại-Tráng) tức nhiên quẻ trên là Chấn vi Lôi, quẻ dưới là Càn vi Thiên, đọc là Lôi Thiên Đại-Tráng. Quẻ này 4 Dương ở dưới đã lấn dần hào âm ra ngoài, đó là thời Dương tiến Âm thoái, hay là Dương thạnh Âm suy.

* Thời Dậu: Là thời Nguơn Thần của Đức Chí Tôn giáng hạ và tịnh dưỡng, cũng do Âm Dương vãng lai giao thới, Thủy Hỏa ký tế, vạn loại toại sanh, nên dạy hiến trà. Dùng Âm-Dương-thủy cũng như thời Mẹo vậy. Hiến lễ Đức Chí-Tôn giờ nầy, chúng ta được hàm dưỡng Chơn Thần an tịnh.
Dịch-lý ứng vào quẻ Quan (Phong Địa Quan)

Tức nhiên quẻ trên là Tốn vi Phong, quẻ dưới là Khôn vi Địa, đọc là Phong Địa Quan (có khi đọc là Quán). Tất nhiên quẻ này là quẻ đảo ngược của quẻ Đại-tráng, có nghĩa là quẻ này có 4 Âm đã lấn hai Dương ra ngoài là thời của Âm trưởng thì Dương tiêu.

Thánh-ý của Đức Chí-Tôn mượn cả khí phách, năng lực và tánh chất điều-hòa của chư Môn đệ mỗi ngày trong bốn thời Cúng đều phải đến trước mặt Thầy đặng Cầu nguyện và Xét mình.

Việc dâng Tam Bửu lên Đức Chí Tôn là một điều hết sức quan trọng. Chỉ cúng lễ Đại Đàn và Tiểu Đàn mới được trọn dâng Tam Bửu mà thôi.

Cúng Đại Đàn, thì chỉ có nơi Tòa Thánh mới được cúng, còn các Thánh Thất, thì cúng Tiểu Đàn. Ở tư gia thì cúng thường.

Vậy chúng ta phải năng đến Tòa Thánh hoặc các Thánh Thất cúng Đàn để được dâng đủ Tam Bửu lên Đức Chí Tôn.

Theo Tân Luật qui định: người Đạo mỗi tháng phải đến Thánh Thất hiến lễ trong hai ngày Sóc- Vọng. Điều nầy, chúng ta cũng không còn chần chờ gì mà không làm cho hết bổn phận, vì một tháng chỉ có hai ngày thôi.

1/ - Giá trị của việc Cúng Tứ thời:
Có khi nào ta nghĩ rằng tại sao phải cúng Đức Chí Tôn và Phật-Mẫu mỗi thời, mỗi ngày không? Giá trị của sự Cúng kính ra làm sao? Và khi nào được nghỉ Cúng?

Thuở Đức Hộ-Pháp còn sanh tiền Ngài cũng lo ngại cho loài người vì sự văn-minh tuyệt đỉnh bị “giục thúc bởi phương sống vật chất, họ tìm hạnh phúc trong cái sống vật hình, vì cớ Đạo-giáo mất quyền”.

Ngài vấn nạn Đức Lý Giáo-Tông:
“Đương thế kỷ hai mươi này văn-minh cực điểm đã đi quá cao rồi, đem đạo-đức tinh thần làm thuyết cứu thế sợ chẳng có kết quả. Tôi công nhận rằng trước hai ngàn năm có lẽ nhơn loại còn bảo thủ được khối thiên lương, biết xu-hướng đạo-đức; tinh thần đạo-đức buổi ấy dường như gặp một mảnh ruộng có nhiều phân nên hột giống mới mọc đặng, còn thế-kỷ hai mươi này là thời-kỳ văn-minh vật chất, nếu đem đạo-đức ra làm môi giới cứu vãn tình thế cho đời e vô hiệu quả.

Đức Lý, Ngài than, nói quyết đoán rằng:
- Theo lẽ Hiền-hữu nói nhơn loại ngày giờ này không cần đạo-đức có phải?
Bần-Đạo trả lời: Thật vậy! Nhơn-loại buổi này không cần đạo-đức, chỉ tìm hạnh phúc nơi văn-minh khoa học cũng có thể được chứ?
Ngài cười:  Văn-minh khoa-học chỉ nuôi phần xác thịt mà thôi, con phần linh hồn chắc-chắn họ sẽ đói!
Bần-Đạo vấn nạn tiếp:  Tại sao Ngài nói linh-hồn đói? Linh-hồn có ăn sao mà đói ?
- Phải! Phải có vật-thực đặng bảo dưỡng nó như thi hài vậy, nếu không vật thực nó sẽ tiều-tụy rồi chết mà chớ!
Bần Đạo lại hỏi: Đạo-đức tìm nơi đâu mà có đặng?

-Tức nhiên tìm nơi cửa Thiêng-liêng hằng sống mới có, mà tìm nơi cửa Thiêng-liêng hằng sống tức là cửa Đạo. Buổi ăn của linh-hồn là buổi ta vô Đền thờ Cúng đấy! Ta không thấy mùi của nó tức chưa hưởng được, tưởng vô Đền thờ là bị luật buộc, không dè mỗi phen đi cúng tức là cho linh-hồn ăn vậy! Bần Đạo tưởng thấy trong trí cần phải bắt buộc cả thảy đi cúng. Vì trong thâm tâm Bần Đạo định mấy người chưa biết mùi của nó, cũng như kẻ nhà quê đưa cho gói bánh ăn chẳng được, rồi khi đã biết mùi rồi bán cả áo quần mà mua ăn” (TĐ II/152).
Vì tính cách trọng-yếu đó mà Đức Phật Quan-Âm nhắc nhở rằng:

2/ - Phải năng cúng kiến:
Thánh Giáo của Đức Quan Âm Bồ-Tát dạy:
"... Các em phải lo cúng kiến thường:
1 - Một là tập cho Chơn Thần được gần gũi các Đấng Thiêng Liêng cho đặng xán lạn.
2 - Hai là cầu khẩn với Đức Đại Từ Bi tha thứ tội tình cho các em và cả chúng sanh.
3 - Ba là có tế lễ thì tâm mới có cảm, cảm rồi mới ứng, ứng là lẽ tự nhiên.
4 - Bốn là tâm có cảm thì lòng bác ái mới mở rộng, mà nhứt là khiếu lương tri, lương năng của các em cũng nhờ đó mà lần hồi thành ra mẫn huệ. Các em nhớ à! ..."
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.2,  ngày 08--05-1933).

3/ - Cúng phải nghiêm trang:
Thánh Giáo Đức Chí Tôn dạy:
"Thầy hằng nói với các con rằng: "Thà là các con lỗi với Thầy,  thì Thầy vì lòng từ bi mà tha thứ, chớ chẳng động  đến  oai linh  chư  Thần,  Thánh,  Tiên, Phật,  vì họ chẳng tha thứ bao giờ."

Thầy lại cũng đã nói: "Mỗi khi Chơn linh Thầy giáng Đàn, thì cả vàn vàn muôn muôn Thần, Thánh, Tiên, Phật theo hầu hạ. Các con nếu mắt phàm thấy đặng, phải khủng khiếp kinh sợ vô cùng! Nhưng thấy chẳng đặng, nên tội cũng giảm nhẹ đó chút.

Thất lễ là đại tội trước mắt các Đấng Chơn linh ấy! Thầy phải thăng cho các con khỏi hành phạt. Thầy chẳng buổi nào chấp trách các con, bởi lòng thương yêu hơn chấp trách rất nhiều. Sợ là sợ cho các con mất đức với chư Thần, Thánh, Tiên, Phật.

Xem đó, thì các con khá dè dặt, kỉnh Thần, Thánh cho lắm! Vì Thầy là bậc Chí Tôn, lòng hay quảng đại mà tha thứ, chớ Thần, Thánh hễ các con có lỗi, thì cứ Thiên điều mà quở phạt các con nghe à!”
(Thánh Ngôn Hiệp Tuyển Q.2,  ngày 15-10-1926)

Nếu hiến lễ Đức Chí Tôn mà không nghiêm là một điều bất phước cho chúng ta đó vậy: Chúng ta sẽ bị Thần, Thánh, Tiên, Phật quở trách mà chính mình không hề hay biết, đến khi biết được thì chừng đó ăn năn đã muộn. Vậy nên phải hết sức cẩn thận và cúng lễ Đức Chí Tôn phải thật nghiêm trang, thì mới khỏi phạm vào các lỗi ấy.

Ngày xưa, chỉ có Thiên Tử mới tế Trời, làng nước thì tế xã tắc, tức là những bậc có công với đất nước, còn kể hàng thứ dân chỉ được tế Tổ Tiên cha mẹ mình mà thôi.

Nay gặp Đại Ân Xá kỳ ba, Đức Chí-Tôn cho mỗi người dân, tức là mỗi Tín đồ được tế Trời, thì không còn vinh diệu nào bằng. Như thế, chúng ta phải năng săn sóc Thiên Bàn cho được tinh khiết, phải năng cúng kiến để giúp ích cho chúng ta và khỏi phụ lòng từ bi của Đức Chí Tôn giáng dạy  trong  kỳ Ân Xá nầy,  cũng là  để khỏi thất lễ trong việc thờ phượng.

Nhưng cái Thiên bàn quan trọng nhất là cái tâm của mỗi người. Nếu bên ngoài ta săn-sóc Thiên bàn chưng hoa quả, nhan đèn cẩn thận bao nhiêu thì bên trong ta cần phải trau tâm sửa tánh. Vì lòng có trong sạch thì việc cúng kiến mới có hiệu quả. Kinh rằng:
“Làm người rõ thấu lý sâu,
“Sửa lòng trong sạch tụng cầu Thánh kinh”

4/ - “Không có một điều gì mà Chí-Tôn định trong Chơn giáo của Ngài, dầu Bí pháp dầu Thể-pháp mà vô ích đâu”
 “Ðấng ấy là Ðấng tưng tiu, yêu ái con cái của Ngài lắm, thảng có điều gì không cần ích mà con cái của Ngài nói rằng không muốn, Ngài cũng bỏ nữa đa !

Từ ngày Khai Ðạo: Kinh kệ, Lễ bái, sự chi sắp đặt về đạo-đức cũng chính Chí-Tôn tạo thành, không phải do các Ðấng khác. Ngài buộc mình làm, tức có cần yếu, hữu ích chi chi đó Ngài mới buộc. Vì cớ nên thời giờ nầy, thấy Bần-Ðạo bó buộc nghiêm-khắc có lẽ những kẻ biếng nhác cũng phàn-nàn lén lút. Ngày cuối cùng các bạn gặp mặt Bần-Ðạo nơi Thiêng-Liêng, Bần-Ðạo sẽ hỏi các bạn coi khi còn ở thế Bần-Ðạo buộc cả thảy đi cúng là có tội hay có công? Công hay tội ngày giờ ấy Bần-Ðạo hỏi rồi chúng ta sẽ có một tấn tuồng tâm lý ngộ-nghĩnh với nhau vô cùng tận, chừng đó mới biết lẽ nên hư.

Ngày nay, giờ phút nầy, Bần-Ðạo đứng tại Giảng đài nầy để lời khuyên nhủ: Còn biếng nhác quá! Xác thịt đã hư rồi đến Linh hồn, phải coi chừng cho lắm, kẻo ngày kia ăn năn quá muộn.[ 01-01-Mậu Tý  (dl. 01-12-1948)]

5/ - Cúng là một hình thức xét mình:
Thầy dạy:“Trước khi vào lạy Thầy buổi tối phải tự hỏi mình coi phận sự ngày  ấy xong  chưa? Nếu  phận-sự chưa rồi, lương tâm chưa an tịnh thì phải biết cải quá, rán sức chuộc lấy tội lỗi của mình đã làm thì các con lo chi không bì bực chí Thánh. Thầy mong cho mỗi đứa đều lưu ý đến sự sửa mình ấy. Đặng vậy thì may-mắn cho Đạo và các con cũng sẽ đặng thung dung nêu gương cho kẻ khác”

Hiện nay có nhiều vị niên cao kỷ trưởng muốn được nghỉ  đi Cúng, vậy có đúng chơn pháp không?

Sau đây là lời phê của Đức Hộ-Pháp vào năm 1951 qua tờ xin của Chí-Thiện Lê-văn-Trưởng xin nghỉ cúng thời Tý vì tuổi già bịnh hoạn. Đức Hộ-Pháp phê rằng:

“Hễ càng già lại càng Cúng nhiều đặng dâng mạng căn số kiếp của mình cho Chí-Tôn định, ấy là bí-mật giải thoát của Chí-Tôn để nơi Cơ tận độ. Dầu đương giờ mình cúng mà chết trước mặt Người lại càng hay. Phải tuyên truyền cho ai cũng đều thấu đáo nghĩa lý bí-pháp này.

Khi đau ốm nằm dưỡng bịnh, hễ nghe thời Cúng là dậy dâng Tam bửu cho Chí-Tôn”.

Đức Hộ-Pháp thường nhắc: Điều trọng-yếu là cả Bí-pháp Đạo-giáo có liên quan mật thiết với Thể-pháp rồi cả thảy đều nghĩ, từ thử tới giờ Hộ-Pháp buộc phải đi Cúng, phải hành Đạo thế nào, không phải Ngài buộc mà Ngài hưởng một quyền lợi gì riêng hết, thử suy đoán chơn pháp  ấy rồi mới biết. Bần Đạo vì phận sự muốn cho con cái của Đức Chí Tôn tạo cơ giải thoát nên mới buộc gắt gao như vậy thôi”

5 - Dâng Tam Bửu
Khi dâng Tam bửu Đức Hộ-Pháp dặn:“Trong một thời Cúng, Bần Đạo đã căn dặn nhiều phen: Trọng hệ hơn hết là Dâng Tam bửu. Dầu cho tinh thần suốt buổi cúng có nhiều lúc lo ra đi nữa, đến khi Dâng Tam bửu, khuyên cả thảy định Thần đặng mật niệm Dâng ba bửu trọng hệ cho Chí-Tôn tức là giúp sức Bần Đạo hành pháp dễ dàng một chút” [ĐHP: 14-02- Mậu Tý  ( dl: 24-03-1943)

Ấy vậy, muốn duy trì sự Hòa bình Đại-Đồng cũng do nơi gốc bí-pháp đó mà thôi, dầu triết-lý thâm uyên đạo đức mà Tôn-giáo nào cũng không qua lẽ ấy, nếu không đoạt được toàn lẽ ấy là đệ nhị xác thân của toàn thể ô trược tội tình thì thế giới sẽ điêu tàn tiêu diệt mà chớ!

Nay Đức Chí-Tôn khai Đại-Đạo đem Chơn-thần huờn nguyên cùng Tinh Khí là cơ mầu-nhiệm cho chúng sanh đắc Đạo. Ai biết noi theo chơn-truyền luật pháp giữ trai kỳ mười ngày đổ lên TRƯỜNG TRAI, đến ngày Công viên quả mãn đặng thọ truyền bửu pháp, Chơn thần được siêu thăng”

Do vậy mà:
“Thánh-ý của Đức Chí-Tôn khai mở Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ Qui Nguyên Tam Giáo Phục Nhứt Ngũ Chi là muốn dung hòa tâm lý cả con cái của Người để cứu vãn trọn 92 ức nguyên-nhân vì thế mà bị sa-đọa nơi đây. Chí Tôn đã Đại-từ đại-bi chỉ rõ căn-nguyên và ban ơn cho ta, dạy-dỗ cho ta, muốn đoạt ngôi vị phải trau luyện cho: TINH hiệp với KHÍ, TINH KHÍ huờn THẦN là cơ huyền-bí để mà đoạt Đạo!”

1/ - Đức Thượng-Phẩm có giáng cơ dạy về cách Hiệp TINH – KHÍ – THẦN.
 “Khi nào ba thể của con người tinh luyện cho được hiệp một, thì con người ấy mới thấu hiểu cả Thiên cơ của Đức Chí-Tôn. Mà một khi con người đã thấu hiểu được Thiên cơ thì người ấy đã đoạt Đạo.

Bởi vậy cho nên người TU cần phải tập luyện thế nào cho Tam thể ấy được tương liên với nhau thì con người mới trở nên sáng suốt hơn cả thường tình.
Về Tam thể xác thân cấu tạo bởi nguyên-lý ấy.

Nói cho thật hữu vi thêm nữa thì Thái-cực là một khí chơn Dương do đó mà chỉ có thanh khí mới có thể tiếp được linh quang chiếu rọi. Phải rán học tập một ngày kia hữu dụng và sẽ được biết về mặt Bí-pháp tâm truyền, đây chỉ là Bí-pháp khẩu tụng mà thôi” (trích tài liệu Tam thể xác thân của Đức Thượng-Phẩm)

2/ - Tại sao phải Dâng Tam bửu?
Đức Hộ-Pháp nói:
 “Đức Chí-Tôn muốn ta làm thi-hài hữu hình của Ngài tức nhiên Ngài đến lập Thánh-Thể của Ngài là Hội Thánh. Hội-Thánh của Ngài để thay hình ảnh cho Ngài. Muốn thay hình ảnh cho Ngài thì phải đổi cho Ngài cái gì?
- Ổng đem cơ giải thoát, đem phẩm vị Thiêng-liêng cho chúng ta, đem tận nơi tay cho chúng ta đặng chúng ta định vị. Rồi Ổng đòi chúng ta đổi chọn cái gì?
- Ổng đòi chúng ta đem đổi ba món báu là Tam bửu: Tinh- Khí - Thần.

Cái liên quan mật thiết: TINH, KHÍ, THẦN là gì?
- Đối với thi-hài chúng ta nó báu trọng thế nào mà Đức Chí-Tôn đòi bấy nhiêu đó mà thôi?

Nếu không có nó chẳng hề khi nào Đức Chí-Tôn tạo thành Thánh-Thể của Ngài đặng. Ngài lấy ba báu vật, tỷ như ba món báu trong mình chúng ta:
-  HOA,  tỷ như thân thể chúng ta.
- RƯỢU, Ngài tỷ như trí thức tinh thần khôn ngoan của chúng ta.
- TRÀ, Ngài tỷ như linh hồn của chúng ta. Mà thật ra trong mình có ba món ấy là báu mà thôi.

Ngộ-nghĩnh thay! Chúng ta nên để ý điều này: Đức Chí-Tôn biểu chúng ta mỗi ngày phải dâng ba món ấy, là ba báu trọng hệ hơn hết là:  TINH- KHÍ- THẦN.

6 - Xá chữ KHÍ
1/ - Khí là gì ?
Khí là sự sống, đây là viết đủ nét. Bên trái có bộ mễ   Mễ là gạo. Tức nhiên người dùng gạo (hay các thứ cốc mễ) mà nấu lên cho bốc hơi, dùng vật dụng hứng lấy chất hơi ấy, nó sẽ ngưng đọng lại mà thành một thứ rượu. Rượu là do Khí bốc hơi mà thành. Vì vậy Lễ cúng có rượu tượng cho KHÍ.

2/ - Tại sao Đạo Cao-Đài thờ CHỮ KHÍ ?
Chữ Khí ở sau ngai Hộ-Pháp (Hiệp-Thiên-Đài Đền Thánh Tòa-Thánh Tây-ninh). Riêng nơi các Thánh Thất thì chữ KHÍ  thờ nơi bàn Hộ-Pháp đều có chung một ý-nghĩa là KHÍ SANH QUANG của Càn khôn vũ-trụ, vạn vật nhờ Khí sanh quang hiện tượng ra mặt thế để bảo tồn cơ sanh hóa hay tấn hóa của toàn thể vạn loại tức là hữu sanh.

“Từ buổi trời đất biến sanh đã có cái khối Nhơn linh ấy là Cha của chơn linh, Cha của nhất điểm linh quang. Làm sao chúng ta hiểu linh quang ấy?

Vì ta xét từ trước: Đức Chí-Tôn dùng cái thanh khí ấy mà tạo ra loài người với đất, do thanh khí ấy mà biến thành vạn-vật. Loài người đến nay nhờ tiến hóa mà khôn ngoan cũng như vạn-vật nhờ tấn hóa mà cũng được toàn năng, toàn tri vậy

Các nhà triết học luận bàn đã nhiều, nhưng xét ra cũng không ai hiểu rõ nguyên-căn ấy.

Phật-giáo nói cái khối linh ấy phân tánh của mình ban bố ra cả vạn-vật, khối linh ấy trước khi phân tánh gọi là BRAHMA là Phật, đến khi phân tánh rồi thì Đấng thứ nhì là CIVA chủ về Pháp, Đức chí-linh cầm quyền-năng biến chuyển chứ không cầm quyền năng tạo đoan

PHÁP vận hành mà sanh ra Khí, nên ta thấy mênh-mông trước mắt ta là Khí.

Vậy Khí là gì? Khí là khối sanh quang vạn-vật nhờ thở khí ấy mà sống, cho nên chữ KHÍ là sự sống của vạn vật, do KHÍ là PHÁP biến tướng ra vạn-vật. Thế nên Đấng thứ nhì Chưởng quản cái sanh khí ấy thường gọi là  “2è Logos” thuộc Âm cũng là Phật-Mẫu Chưởng quản cả cơ quan tạo đoan này vậy.

Như chúng ta thấy cơ-quan sanh-hóa vạn-vật và loài người là do Âm Dương phối hợp mà biến tướng.

Phật chiết tánh biến ra Pháp là ngôi thứ nhì thuộc Âm là Phật-Mẫu, nhưng chúng ta không biết cái Bí-mật ấy là khí Âm Dương phối hợp biến hình, mà Phật-Mẫu dùng gì để tạo nên cơ-quan hữu vi này. Vì bởi Phật-Mẫu dùng khối sanh quang ấy có năng lực vận hành trong không khí, chúng ta không thể thấy được. Khí biến ra hữu tướng là: Nước, Lửa, Gió. Rồi nước, lửa, gió vận hành ra vạn-vật đi từ Hỗn-nguơn-Khí, Hư-vô-khí đến Huyền-ảnh-khí rồi mới biến ra vạn-vật, tức là Huyền-Ảnh-khí biến ra Nhơn hình vậy.

KHÍ mà khoa-học gọi là Nguyên-tử-khí (Atome). Nguyên-tử-khí có năng-lực vô biên mà loài người đã đoạt được để dùng, chứ không biết nguyên căn và nguyên tánh của nó đã đi đến mức nào. Kể từ ngày loài người tìm được nguyên-tử-chất và dùng được cái nguyên-tử-khí ấy là cái khí sanh của vũ-trụ mà họ có biết đâu một ngày kia phàm thế sẽ nương nhờ nguyên-tử-khí ấy mà Qui nguyên Thánh thể.

Thử hỏi Đức Chí-Tôn cho nhơn-loại đoạt nguyên tử-khí ấy để làm chi? Chúng ta cũng nên tìm hiểu cái huyền-vi bí-mật ấy mà dù cho Đạo nào cũng vẫn còn đương mơ tưởng  để kiếm hiểu. Ngày hôm nay nguyên-tử khí dùng để giết người thì biết đâu sau này nó sẽ là phương cứu tử huờn sanh cho người và nó sẽ đem loài người đến địa vị trường sanh bất tử. (TĐ I/ 45-46)

Bởi nguyên-tử-khí là căn nguyên sự sống của vạn loại, nếu nó đã làm chết người được thì nó cũng sẽ làm sống được. Cái Khí ấy sanh trước hết là Nước, lửa, gió vận hành tạo ra hữu hình là vạn-vật. Vì cớ mà con người đối với vũ-trụ hình ảnh thế nào thì tạo đoan cũng thế ấy, nên mới lấy Càn khôn làm Đại Thiên Địa, còn con người là Tiểu Thiên Địa. Mạng sanh của con người đồng thể cùng Càn khôn tức là sự sống phải tương liên với Chí-Tôn mà Chí-Tôn lại cầm quyên năng vô đối.

3/ - Tại sao phải Xá chữ khí?
Người Tín hữu khi làm Lễ Đức Chí-Tôn xong liền quay ra phía sau bàn Hộ-Pháp Xá chữ KHÍ, nghĩa là gì?

Đức Hộ-Pháp giải như sau:
 “Cái Xá ấy chẳng phải làm Lễ trọng Chức-sắc Hiệp Thiên-Đài từ lớn đến nhỏ, mà là Xá chữ Khí.

Chữ KHÍ là nguồn cội của pháp đã biến sanh vạn vật. Phật là trước, tới Pháp là thứ, kế Tăng là tiếp theo. Cái Xá ấy là kính Đệ Tam qui. Trong Pháp ấy xuất hiện Phật-Mẫu kế tới Vạn-linh. Vì cớ cho nên Diêu-Trì-Cung và Hiệp-Thiên-Đài có tình mật thiết cùng nhau về mặt căn cội Pháp để vận hành nguơn Khí tạo Vạn linh thì vị Hộ pháp do Vi-Đà xuất hiện, rồi kế vị Hộ-Pháp và kế tiếp Long Thần Hộ-Pháp cùng toàn bộ Pháp-giới đương điều khiển Càn Khôn vũ trụ cũng đều do nơi CHỮ KHÍ mà sanh sanh hóa hóa.

Chào CHỮ KHÍ tức là chào cả Tam qui thường bộ pháp giới tức là chào mạng sanh của chúng ta, chớ chẳng phải chào HỘ-PHÁP Thập Nhị Thời quân, Thập nhị Địa chi đã xuất hiện mà đang thi-hành sứ mạng nơi Hiệp Thiên-Đài, mà chào toàn thể Vạn linh đã sanh hóa từ tạo thiên lập địa”

4/ - Ý-nghĩa của Khí:
 “Theo Kinh Dịch, Khí là nguyên-ủy của vạn-vật hữu hình, khí này đã bao trùm vũ-trụ từ lúc còn trong trạng thái đầu tiên, tức là chưa có sự động, tĩnh. Nhỏ nhất không nơi nào, vật nào mà không có nó  ở bên trong gọi là Tiểu nhất.

Để mô tả cái Khí bao trùm vũ-trụ là cái khí đầu tiên tức là Nguyên khí, từ đó sinh ra vạn-vật và con người ấy là  chí đại. Đến như chí tiểu thì trong mỗi vật dù là chỗ nhỏ đến đâu, nó cũng chỉ là một dạng khí-hóa, khí này gọi là vô cực. Nó là cái làm cho “Vật là vật” “người là người”. Từ đó người xưa đánh giá cấp bậc khí-hóa ở mỗi vật hay mỗi người.

Khí ở trên trời đến lúc sẽ thanh tịnh, quang minh, dầu rằng cái minh đức vẫn luôn luôn ẩn tàng, nhưng lúc nào cũng đi mạnh mà không ngừng nghỉ.

Ôi! Thiên khí giáng xuống, địa khí thăng lên tạo thành quẻ Địa thiên Thái  tức là một sự hanh thông.

Sự vận hành và dụng sự của nó không bao giờ ngơi nghỉ cho nên không cần đợi đến lúc hạ xuống mới có. Ở đây người xưa muốn nói rằng: Thiên-khí phân bố ở khắp nơi, hóa sinh vạn-vật, nhưng cái thể và cái vị của nó vẫn tôn quí cao thượng vậy”.

5/ - Về quyền năng thì:
 “Đức Chí-Tôn là Đấng tự hữu, hằng hữu mà tự thử tới giờ bất kỳ một Đấng Thiêng-liêng nào cũng không hiểu rõ nguyên-căn của Đức Chí-Tôn, chỉ biết cái quyền-năng vô đối của Người mà thôi.

Ngày giờ này “Đức Phật-mẫu ban sơ đến Hiệp Thiên-Đài làm MẸ của chữ Khí tức là Khí sanh vạn-vật. Lấy nguơn pháp trong chữ Khí biến thành Càn khôn vũ trụ, nên Phật-Mẫu trước đến Hiệp-Thiên-Đài thuộc Pháp, tức là tòa ngự của Người, rồi sau mới lập Cửu-Trùng-Đài.
 (TĐI/61)

Khí đây là cách viết giản thể,cũng là một phần nằm trong chữ Kiền hay Càn là trời cũng là sự sống.

Kiền tức là tráng kiện,mạnh mẽ, tính của Dương.
Chiết-tự chữ Kiền thấy có hai phần: phần bên trái có hai chữ thập (thập là mười) chữ thập ở trên tượng trưng “thập phương chư Phật” chữ thập dưới là “Thập điện Diêm cung” giữa là chữ nhựt (nhựt là mặt trời) chỉ không gian vũ trụ mà vạn-loại đang sống. Phần bên phải là chữ KHÍ (khí là sự sống, viết đủ nét là ) cũng gọi là khí sanh-quang. Nguồn sống của Trời đất.

Như vậy Kiền có nghĩa là Trời, tức nhiên gồm các cõi vô hình cũng như hữu hình, nơi nào có khí sanh-quang của Thượng-Đế tức là có sự sống, mà sự sống tức là Đạo.

Nơi nào khiếm ánh linh quang của Thượng-đế ắt phải chịu u-ám, tối tăm, đó gọi là cõi Phong-Đô, Địa ngục.

7 - THIÊN-BÀN XẾP THEO CHỮ “CHỦ” tức là Đức Chí Tôn muốn cho ta làm Chủ
(Chủ là chúa)
Tại sao đức Chí-Tôn cho nhân loại thờ Thầy trên Thiên bàn có hình chữ CHỦ ?- Có nhiều nguyên cớ:
1 - Là loài người phải biết có một Đấng làm chủ linh hồn mình, đó là Đấng Chúa Tể Càn Khôn Thế giới
Đức Hộ-Pháp nói: “Chí-Tôn đã phú thác cho loài người làm Chúa vạn vật”.
“Cả chủng loại, loài người và vật loại, chúng ta quan sát ngoại thể thấy loài người và vạn vật phải ở chung hiệp cùng nhau, gọi là xã hội mới sống được.

Chúng ta thấy trước mặt nhiều vật loại sống đặng như ong, kiến, cũng nhờ tổ chức xã hội. Giống thú mà còn biết chung hiệp từ đoàn thể tức nhiên có tinh thần xã hội. Loài người cốt yếu sống cũng phải có xã hội. Lại nữa, nếu

chúng ta tìm chơn lý của Phật-giáo thì thấy Chí-Tôn đã phú thác cho loài người làm Chúa vạn vật. Ngài để tinh thần của loài người cao trọng, tức nhiên cho người có khối linh vĩ đại, trọng hệ hơn, đủ phương thế làm tròn trách vụ đối với vạn vật, tức Ngài định cho ta làm Chủ xã hội vạn linh.
Làm trách vụ tức nhiên có tinh thần cảm-xúc, mà cảm-xúc tức nhiên sanh tình. Tình là luật thiên nhiên của Chí-Tôn. Tình phân ra hai vở chánh:
- Nơi cõi phàm thì có luật định giới hạn, chúng ta thấy tạo luật pháp xã hội hiển nhiên.
- Nơi cửa Hư-linh cũng có đặc quyền, nên cũng phải có khuôn luật là Thiên-điều. Có nhiều vị Phật cầm vững quyền thưởng phạt ấy, gọi là nhơn quả, vay trả, hễ nên thì thưởng, còn hư phải thường, luật định như thế rất nên công bình chánh đáng.

Vì có khuôn khổ luật pháp do quyền Thiêng-Liêng của Chí-Tôn định, bằng chẳng vậy dữ cũng như hiền, lành cũng như ác hỗn-độn cả tinh thần của Chí-Linh, tổng số không mực thước, không căn đề, không cội rễ.

Ấy vậy Ðạo cốt yếu tạo khối tình ái tâm lý của loài người, biết mình là phần tử của xã hội, phải làm điều gì cho xã hội nhờ.

Gia-đình là một phần nhỏ trong xã hội, nếu biết gìn giữ thân thể, tôn trọng danh giá cha mẹ, anh em thảng có đứa du côn không kể gia-pháp, làm rối loạn gia-đình thì kẻ đó ai cũng muốn bỏ, muốn đưa ra khỏi gia đình tông tổ. Sợ e gia đình nào mực thước, thảng có điều vô phúc ấy sẽ xử đứa làm nhục đó, hình phạt nặng nề hơn kẻ tha nhơn.

Càn khôn là đại gia đình, cửa Ðạo cũng vậy, xã hội cũng vậy, là một gia đình có cha mẹ, bà con, như một tông tộc vậy.

Lớn hơn gia-đình là một quốc-gia, là một gia-đình lớn, gồm cả các gia đình tổng hợp lại, chiều theo một khuôn luật do quyền năng của Ðạo-giáo tức Ðại-gia-đình.

Ta lần lượt đi đến toàn nhơn loại hiệp lại thành Ðại gia đình.

Con người sanh ra phải biết trách vụ của mình, trong tiểu gia đình hay đại gia đình cũng vậy. Người ở gia đình chỉ xưng mình là con, vì cớ Jésus Christ chỉ xưng mình là con của Người (le fils de l'homme).

Ôi! Chỉ làm người mà được thành nhơn thì hiểu giá trị của nó thế nào?

Văn-minh Nho-giáo hiểu giá trị làm người ấy khó khăn lắm, khó mà minh biện được: “Vi nhơn nan, vi nhơn nan” (làm người khó, làm người khó). Tố tố vi nhơn nan (làm người rất nên là khó).

Mong làm người cho xứng đáng là người trong gia đình là khó khăn lắm, mà hễ làm người để dìu đỡ được gia đình, tức là Chúa gia đình đó;

Mình là người mà nâng-đỡ được quốc-vận, là Chúa của quốc gia.

Giờ ta thử hỏi một nền Tôn-giáo đem tâm lý loài người hiệp một lại là một điều đứng trên cái mức đại-gia đình đó: Làm người Chủ xứng đáng của gia-đình đã là khó, làm người Chủ xứng đáng của quốc-gia lại càng khó, rồi làm người Chủ xứng đáng của một nền Tôn-giáo không phải dễ.

Hễ làm chủ được xứng đáng, thì đối với nhơn quả, ta chỉ có nhơn mà không còn quả nữa. Người đã đem thân nầy ra làm Chúa gia đình, không còn là mình nữa mà là bậc tiền bối; người đáng là người Chủ của một nước là bực Thánh nhơn, người đáng là người Chủ một Tôn-giáo ấy là vị Phật.

Ấy vậy, chúng ta muốn quan sát một Tôn-giáo nào được gọi là Chánh-giáo, thì Tôn-giáo đó phải đủ yếu điểm tạo nên người chủ của nó đặng dìu đỡ các phần tử của Ðạo ấy, đủ hạnh kiểm, đủ quyền năng. Phải cao thượng hơn sự thường tình, đi cho vững trên con đường hằng sống mới xứng đáng là chủ của Ðại-gia-đình Càn-khôn Võ-trụ.

Cả phương pháp không mực thước quyền hành để đạt đến địa vị Chúa một Tôn-giáo thì không phải Chánh đạo.

Ta đã thấy gì? Ðạo Cao Ðài có không?

Ta suy xét coi ? Có hẳn ! Nếu con đường ấy, kẻ nào cố gắng thì nên người làm Chúa nền Tôn giáo của Chí Tôn đã tạo sẵn, có mực thước, chuẩn thằng, phép tắc, để cho người ấy lập nên địa vị. [03-01-Mậu Tý (12-02-1948)]

8 - Vào Đền Thánh phải bỏ hết phàm tâm:
Đức Hộ-Pháp dạy:
 “Khi mấy Em vào hầu Lễ, nếu biết hưởng cái ân Thiêng-liêng ban cho đó, thì tinh thần được an tịnh và hạnh-phúc biết bao. Nếu biết hưởng thọ cái hồng ân đó, cũng như lúc mấy Em đói rồi có ai đem cho đồ ăn mà không biết hưởng thì làm sao no đặng, tất phải đói!

Đáng lẽ khi bước vô Bửu Điện, đi qua Hiệp-Thiên Đài thấy toàn màu đỏ, màu đỏ thuộc về xác thịt, vậy đi qua rồi phải tịnh tâm. Qua không nói ai, vì trước mỗi buổi đều tắm rửa, vô đó dầu hình thể mấy Em có nhơ-nhớp, thúi hôi, cùi đày mà cái Tâm của mấy Em trong sạch đó là cái Tâm vô tội. Dầu kẻ nào tội tình ưu lự thế mấy mà bước vô Đền Thánh rồi cũng phải nhập tánh cho thanh khiết, bỏ cả những tư-tưởng phàm tục, để Tâm nhứt nguyện mới có sự hưởng ứng. Mấy Em đem cái hình xác vào Đền Thánh, nhưng là cái xác vô tội đặng hiến cho Chí-Tôn. Nếu không vậy, thì có vào Đền Thánh: kẻ ngồi chỗ này, kẻ ngồi chỗ kia mà trong óc không tưởng niệm thì vô Đền Thánh có ích gì?
 Home       1 ]  [ 2 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét