Còn về mặt thần quyền, bí pháp Tắm Thánh cũng có
cùng ý nghĩa như phép Giải oan, nghĩa là đem ân điển thiêng liêng truyền vào cơ
thể hài nhi để giúp nó phát triển dễ dàng cả về tÂm linh lẫn thể chất theo
chiều hướng tốt đẹp. Đối với trẻ người ta coi là vô tội, ít nhứt từ khi mới
sinh ra, nên dùng chữ “Tắm Thánh” chứ không dùng chữ “Giải oan”vì nó chưa gây
nên oan nghiệt gì cả.
Khi một chơn linh xuống trần, quyết định chọn lựa
gia đình có đạo đức để đầu thai làm con, chơn linh ấy xét thầy có nhiều hy vọng
để được bậc cha mẹ nuôi dưỡng mình suốt thời kỳ thơ ấu trong nếp sinh hoạt đạo
đức, hy vọng được hưởng ân huệ của Đức Chí Tôn ban cho trong Tam Kỳ Phổ Độ này,
được Chí Tôn ân xá tội tình từ kiếp trước. Nếu bậc cha mẹ không đem trẻ con đi
Tắm Thánh, nó sẽ không hưởng được ân lành của Đức Chí Tôn ban cho và con đường
tấn hoá của nó có thể gặp trở ngại vì những quả nghiệp xấu mà nó đã gây ra từ
bao kiếp trước và vì chưa được ân xá nên phải trả theo luật công bình thiêng
liêng vậy.
Trách nhiệm ấy về phần cha mẹ gánh chịu trực tiếp
vì bậc cha mẹ là người hiểu Đạo mà không lo tròn bổn phận đối với con trẻ, làm
chậm trễ bước đường tấn hoá của các chơn linh xuống trần.
2 . Lễ hôn phối :
Chiếu Tân Luật điều thứ 6 đến thứ 10 dạy sự chọn
Hôn trong người đồng Đạo, trừ khi nào người ngoài ưng thuận nhập môn thì mới
được kết làm giai ngẫu.
Tám ngày trước lễ Sính hôn, chủ hôn Trai phải dán
Bố cáo nơi Thánh Thất sở tại cho trong bổn Đạo hay biết sau khỏi điều trắc trở.
Làm lễ Sính hôn, hai đàng Trai và Gái phải đến
Thánh Thất hoặc Đền Thánh mà cầu lễ Chung hôn (tức là lễ Hôn phối).
PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH
Tất cả người trong Đạo khi kết thành Hôn Nhơn cho
con cháu phải tuân hành theo Tân Luật như sau :
1 - Trước hết phải chọn Hôn người trong Đạo như
“Điều thứ 6 của Tân Luật”.
2 - Trước ngày Sinh hôn phải đăng ký Bát nhựt tại
Thánh Thất sở tại “Điều thứ 7 Tân Luật”
3 - Khi làm lễ cưới gả hai đàng Trai và Gái phải
xin phép lập lễ Hôn phối tại Thánh Thất hoặc Đền Thánh “Điều thứ 8 Tân Luật”
4 - Cấm không được cưới hầu thiếp, trừ khi nào
không con nối hậu thì đặng phép cưới hầu thiếp, nhưng chính chánh thê đứng cưới
hỏi mới đặng “Điều thứ 9 Tân Luật”.
5 - Cấm người trong Đạo không được để bỏ nhau, trừ
khi ngoại tình hay thất hiếu với công cô “Điều thứ 10 Tân Luật”.
Trườnghợp bất khả kháng hành lễ tại tự gia.
BÀN TRỊ SỰ THI HÀNH NHƯ SAU :
a . Buộc chủ hôn Nam, Nữ phải xin phép Đầu Phận, Bàn Trị Sự hỏi rõ việc kết
hôn nêu trong điều thứ 6 và thứ 7 của Tân Luật.
b . Mỗi khi bổn Đạo gả, cưới phải thỉnh Bàn Trị Sự hay Đầu Phận đến chứng sự
hoặc hướng dẫn cách thức hành lễ để tránh điều bất trắc trong vụ, trừ ra trong
gia đình của Chức sắc Đại Thiên Phong dĩ hạ (dù hành lễ tại tự gia).
c . Khi Bàn Trị Sự đến chứng sự hành lễ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm, nên
cần lưu ý m ọi việc chu đáo theo phép Đạo.
d . Phần hướng dẫn hành lễ, trước hết phải đôi bên Trai, Gái có thỉnh Chánh
Trị Sự, thì hai vị này vào cầu nguyện Chí Tôn kế hai sui gia Nam, Nữ sau là
chàng rể. Khi xong tiếp bái lễ Từ Đường (Ông, Bà quá vãng).
Đoạn trình Hội Thánh, Quốc Vương Thuỷ thổ, Ông bà
tại tiền (sống) Cha Mẹ và tiếp công cô.
3 . Lễ chúc thọ
Theo tài liệu Hạnh Đường, khoá huấn luyện giáo hữu
năm Nhâm Tý (1972) lễ chúc thọ mừng đáo tuế được chia làm ba thời kỳ :
- Thời kỳ Hạ thọ : từ 65 tới 75 tuổi
- Thời kỳ Trung thọ : từ 75 tới 85 tuổi
- Thời kỳ Thượng thọ : từ 85 tới 100 tuổi.
Để hợp với cơ tiến hoá, Hội Thánh áp dụng nghi lễ
chúc thọ theo Tam Kỳ Phổ Độ như sau :
a . Lập nội nghi: chưng cặp lộng, hoa quả. Phía sau
nội nghi đặt một cái ghế hoặc tràng kỷ để chiếu gối,trà bánh gọi là thọ tịch,
cho vị hưởng thọ an toạ.
b . Phía ngoài đối diện với nội nghi lập bàn ngoại nghi dọn các phẩm vật,
cơm,rượu, trà ..v..v..
Hai bên trái phải đặt 2 dãy bàn dọn bánh trái, trà
rượu để mừng thân bằng quyến thuộc gọi là bồi tế đến chúc thọ.
Các lễ sĩ hành lễ chúc thọ dâng cơm rượu trà ba
lần. Sau đó là tiệc chay hiếu hỉ.
BÀI
THÀI ĐÁO TUẾ
1 . TỪNG PHẠN (cơm)
Trai phạn xin dâng thọ phước lành,
Nghìn thu hạnh đức rạng thanh danh.
Thuỷ chung vẹn giữ
gương nhân nghĩa
Thọ hưởng hồng ân, buổi
Đạo thành.
2. TỪNG RƯỢU
Hồng tửu kính dâng chúc thọ trường,
Tinh thần quí thể đặng an khương.
Tâm thành đức cả nêu gương Đạo,
Đất Việt trùng hưng hưởng thái bường.
3.
TỪNG TRÀ
Thanh trà mỹ vị lễ xin dâng,
Đáo tuế ngươn sanh chí lục trần.
Hạnh ngộ Tam Kỳ thiên tứ phước,
Đạo thành đời rạng cảnh phong thuần.
4 . Lễ tang
1 - Thành phục :
a . Cáo Từ Tổ :
Thành phục theo nghi châm chước có Nhạc, có Lễ sĩ
chấp sự tang phục để trên mâm và đặt trước bàn thờ Tổ phụ. Tang chủ qùi, Đồng
nhi đọc kinh Cầu Tổ Phụ Qui Liễu (một lần) tiếp đọc bài kinh Cứu khổ ( 3 lần).
Trong Kinh cứu khổ, đoạn “Ngũ bá ha la hớn cứu hộ (đọc) “ Chơn linh cửu huyền
thất tổ siêu thăng tịnh độ”.
Nghi cáo Từ Tổ tại tư gia, Tang chủ quì, tay bắt ấn
Tý lạy 3 lạy theo hàng Thần vị.
b . Cúng vong :
Cáo Từ Tổ xong, đem mâm Tang phục qua để trước bàn
vong phát choTang chủ thọ tang ( Chức sắc hoặc Chức việc sở tại phát tang) hành
lễ : nghi, châm chước có Nhạc, 2 Lễ sĩ chấp sự, Tang chủ quì tế lạy bắt ấn Tý,
Đồng nhi đọc một bài kinh Thế Đạo (hoặc vợ tế chồng, chồng tế vợ, hoặc con tế
cha mẹ).
2 - Cúng Triêu (Sáng), Tịch (Chiều)
Hành lễ cúng Triêu, Tịch trước bàn vong theo nghi
châm chước có nhạc, 2 lễ sĩ chấp sự, Đồng nhi đọc kinh Thế Đạo một bài.
3 - Lễ Đăng Điện
Nghi Đăng Điện có 6 lễ sĩ hiến lễn, cách thức đăng
điện và Đồng nhi thài theo qui định từ phẩm cấp trong Đạo. Tang chủ lần lượt
quì chánh tế, tay bắt ấn Tý, Đồng nhi đọc Kinh Thế Đạo (vợ tế chồng hoặc chồng
tế vợ). Con tế cha mẹ, em tế anh chị , trò tế Thầy ..v..v..tuỳ theo trường hợp.
Tại tư gia : chỉ thực hiện cúng tế đăng điện một
lần, không phân biệt giàu nghèo, các phần khác chỉ châm chước mà thôi.
4 - Phụ tế
Thân bằng cố hữu cúng tế sau phần chánh tế, nghi
châm chước, có nhạc, 2 lễ sĩ chấp sự, Tế chủ quì lạy bắt ấn Tý, Đồng nhi đọc
một bài kinh Thế Đạo, Kinh cầu bà con thân bằng cố hữu đã qui liễu.
Phần niệm hương phụ tế : chỉ phát hương cho quí vị
đứng hàng đầu mà thôi (nếu có tiểu sử hành đạo thì đọc trước khi niệm hương phụ
tế).
5 - Lễ cầu siêu :
Tất cả Tang quyến hoặc Thân quyến quì trước bàn
linh. Chức sắc, Chức việc, Đồng nhi và toàn Đạo đến dự lễ đứng hai bên, tay bắt
ấn Tý cũng đọc bài Kinh Cầu Siêu đọc xen bài Kinh Khi Đã Chết Rồi. Đọc 3 lần,
khi dứt niệm câu chú của Thầy ( 3 lần)
6 - Đưa Linh Cữu
Cúng Thầy trước rồi làm lễ Cáo Từ Tổ, khi làm lễ
Cáo Từ Tổ thì tụng kinh cầu Tổ Phụ tiếp tụng kinh cứu khổ (3 lần). Khi dứt niệm
câu chú của Thầy (3 lần) y như lúc thành phục.
Cáo Từ Tổ xong Tang chủ đến trước bàn vong cúng
vong theo nghi châm chước thường lệ. Tiếp theo thiết lễ Cầu Siêu y như lần cầu
siêu trước. Nếu có làm phép đoạn căn hoặc phép độ thăng thì thực hiện trong lần
Cầu Siêu này.
7 - Lễ Động Quan
Có Nhạc, 2 lễ sĩ chấp sự, Đạo tỳ nhập bái quan xong
khiển điện di linh cửu ra Thuyền Bát Nhã. Đồng thời vị Chức Sắc hoặc Chức Việc
cầm phướn dẫn Linh Cửu và tang chủ bưng khai Linh Vị đến trước Thiên Bàn xá 3
xá rồi ra phía trước quan tài sắp đặt theo thứ tự di quan đã được qui định
trong Tang lễ.
Hễ phát hành thì Đồng nhi tụng bài kinh đưa Linh
Cửu từ nơi phát hành ra tới huyệt.
8 - Hạ huyệt
Khi ra tới huyệt , vị chứng lễ đến trước Linh Cửu
thiết lễ cầu nguyện Hoàng Thiên Hậu Thổ gởi thi hài xác tục của người qui liễu
xong. Tang quyến quì trước đầu huyệt tay bắt ấn Tý, Đồng nhi tụng kinh hạ huyệt
(3 lần), mỗi lần dứt một hiệp thì cúi đầu, mãn hiệp thứ ba tiếp tụng, vãng sanh
Thần chú (3 lần) khi dứt niệm câu chú của Thầy (3 lần).
5 . Lễ khánh thành nhà
thuyền Bát Nhã Trung ương :
Đức Phật Tổ dùng tinh ba Tam muội mà tạo thành
thuyền Bát Nhã. Các chơn linh đều nương thuyền Bát Nhã mà về Cực Lạc.
Các nhơn viên, về tâm linh do Đức Di Lạc, cai quản
gồm Tổng Lái, Tổng Mũi, Tổng Thương, Tổng Khậu và 12 bá trạo ( chèo thuyền).
Tổng lái : biểu tượng Bát Quái Đài, là chơn linh
của Hắc Sát Tinh, về bí pháp là chơn khí của Hộ Pháp.
Tổng mũi : biểu tượng Hiệp Thiên Đài, là chơn linh
của Bạch Hổ Tinh, về bí pháp là chơn khí của Thượng Phẩm.
Tổng thương : biểu tượng Cửu Trùng Đài là chơn linh
của Huỳnh Long Tinh, về bí pháp là chơn khí của Thượng Sanh
Tổng khạâu : biểu tượng Nhơn sanh nên hiển hiện đủ
lục dục, thất tình.
12 bá trạo : biểu tượng Thập Nhị Địa Chi là Tý,
Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
Đức Chí Tôn vì đức bảo sanh, nên sai tam vị thần :
Tổng lái, Tổng mũi và Tổng thương xuống trần giữ vững con thuyền Bát Nhã rước
các chơn hồn về nguyên.
Về
bí pháp : Đức Di Lạc cai quản nhà thuyền đặng độ dẫn 92 ức nguyên nhân tu luyện để
trở về hội ngộ với Đức Tôn.
Về
thể pháp : Đức Hộ Pháp vâng lịnh Đức Phật Mẫu tạo thuyền Bát Nhã độ người qua sông
mê trong kinh phật có 4 câu :
Trung
khổ hải độ thuyền Bát Nhã
Phước
Từ Bi giải quả trừ căn
Hườn
hồn chuyển đoạ vi thăng
Cửu
tiên hồi phục Kim Bàn chưởng âm.
Nhà thuyền Bát Nhã có 2 ban : Ban kéo thuyền và Ban
chèo thuyền. Ban chèo thuyền gồm có chèo hầu (tại Khách Đình hay Phật Mẫu ) và
chèo đưa. Thật ra, việc chèo thuyền ảnh hưởng văn hoá truyền thống ở miền
Trung. Người ta gọi là Hò Bá Trạo hay Hò Đưa Linh ( ông Nam Hải), cũng đủ các
nhân vật như chèo thuyền trong Đạo.
Nhà thuyền Bát Nhã đã xây cất từ năm 1927 ở góc
đường Cao Thượng Phẩm và Oai Linh Tiên. Sau đó được xây cất lại bằng những vật
liệu nặng.
Vào ngày 22 tháng 3 năm Đinh Mùi ( dl 1-5-1967) Đức
Cao Thượng Sanh đến dự lễ khánh thành nhà thuyền Bát Nhã Trung Ương và ban huấn
từ như sau :
“ Hôm nay, tôi hân hạnh đến dự buổi lễ Khánh Thành
nhà thuyền Bát Nhã Trung Ương, được chứng kiến một công tác cần thiết mà Hội
Thánh Phước Thiện đã hoàn thành để cho Ban Nhà Thuyền Toà Thánh được có một ngôi
nhà kiên cố đặng giữ gìn các thuyền Bát Nhã và cho nhân viên nhà thuyền có nơi
trú ngụ xứng đáng .
Thời cuộc đương lúc khó khăn, nền tài chánh eo hẹp
mà Hội Thánh Phước Thiện đã cố gắng thành công trong việc kiến tạo nói trên thì
thật là một công trình đáng khen ngợi.
Để tâm lo cho ích lợi chung, không quản cần cù mệt
nhọc, quyết chí tìm phương cứu khổ giúp đời và biết quên mình để cho bao nhiêu
người được hưởng sự vui vẻ, đó là chí hướng của bậc hoài bão chủ nghĩa thương
đời.
Cái chí hướng cao quí đó đúng là chí hướng của
người chức sắc Phước Thiện vậy.
Đạo còn biết bao nhiêu điều cần phải thực hiện để
hoàn thành sứ mạng đối với nhơn sanh, nhứt là Hội Thánh Phước Thiện là tượng
trưng hình ảnh của Đức Chí Tôn tại thế đặng cứu khổ cho con cái Đức Ngài thì
cái trách nhiệm thật quan trọng và nặng nhọc thế nào.
Nhưng lấy sự thành công trong một việc mà phỏng
đoán và hy vọng trong bao nhiêu việc khác thì tưởng lại bước đường tuy khó khăn
song cũng không đến nỗi không thể đi đến nơi đến chốn. Một việc đã thành đạt
thì trăm việc khác cũng có thể thành đạt, nhà thuyền Bát Nhã đã cất xong thì
bao nhiêu công tác khác cũng có thể thành tựu được …
Điều cốt yếu là phải nuôi chí thành cho vững chắc
trong não cân đã phát hiện cái ý niệm tạo nên công nghiệp để giúp Đạo, cứu đời
thì cứ giữ mãi cái ý niệm đó và cương quyết không khi nào để cho lay chuyển,
một tháng làm không rồi thì hai tháng, một năm không rồi thì hai năm và dẫu tới
mười năm cũng phải đeo đuổi theo mãi cho tới khi hoàn thành mới chịu.
Tôi nhận thấy Hội Thánh Phước Thiện có nhiều thiện
chí xây dựng, nhứt là vị chưởng quản Phước Thiện từ mấy năm nay đã gắng sức
thực hành công tác từ thiện để giúp ích cho người già cả và cho Đạo hữu trong
lúc ương yếu bịnh hoạn.
Với tinh thần phục vụ đó, tôi tin chắc Hội Thánh
Phước Thiện sẽ tiến tới sự thành lập các cơ sở kinh tế hầu có phương tiện cứu
khổ nhơn sanh nhứt là trong thời kỳ chiến tranh loạn lạc nầy.
Trở lại việc hoàn thành nhà thuyền Bát Nhã, tôi có
lời khuyến khích toàn thể nhơn viên nhà thuyền rán tận tuỵ với phận sự, nhứt là
chẳng nên có mặc cảm là công việc mình quá thấp hèn đối với các công việc khác.
Trong việc Đạo, mỗi người đều có trách vụ riêng, và
mỗi trách vụ đều có sự cần ích riêng biệt.
Không thể nói phận sự nầy cao quí, phận sự kia hạ
tiện, vì cả thảy công việc đều hướng về chủ đích phụng sự cho Đạo và cho nhơn
sanh.
Sự công dụng của các cơ cấu trong Đạo đều khác
nhau, nhưng tất cả các cơ cấu đều có sự liên quan mật thiết với nhau cũng y như
những bộ phận trong một động cơ nếu thiếu một món nào, dầu là một cái khoen hay
một đinh ốc nhỏ thì động cơ phải bị tê liệt.
Sự sanh hoạt trong cửa Đạo cũng chẳng khác chi sự
sanh hoạt ngoài mặt đời, kẻ rành về nghề này, người chuyên môn về nghề khác, có
nghề đòi hỏi sự lao tâm, cần nơi sự lao lực. Lao tâm hay lao lực, miễn nghề
nghiệp tinh xảo thì người hành nghề luôn luôn được phần thưởng xứng đáng, vì
vậy có câu : “ Nhứt nghệ tinh, nhứt thân vinh” thật là đúng như vậy.
Nhưng Đạo khác hẳn với Đời là người đời dùng sự lao
tâm hay lao lực để đổi lấy món tiền thù lao và sự ban thưởng bằng vật chất, còn
người Đạo thì tình nguyện đem công quả để đổi lấy sự ban thưởng thiêng liêng
chung cuộc.
Mấy em nhơn viên nhà thuyền đã ra công phục vụ mà
không so hơn thiệt, cứ làm việc âm thầm, không cầu cạnh, không đòi hỏi, lấy chủ
nghĩa vị tha làm chủ đích, chính là mấy em dành phúc quả cho mình đó.
Phần thưởng về hữu hình có khi không tương xứng với
âm đức và công nghiệp, nhưng ân huệ thiêng liêng thì chắn hẳn là không thể mất
mát được.
Dự buổi lễ Khánh Thành Nhà Thuyền Bát Nhã hôm nay
tôi để lời chia vui với Hội Thánh Phước Thiện và mong ước quý chức sắc Phước
Thiện hiệp đồng tâm chí để xây dựng nhiều cơ sở khác hầu có đủ phương tiện thật
hành nhiệm vụ cao quí của cơ quan cứu khổ trong cửa Đại Đạo”.
TIẾT
2
LỄ
HỘI VÍA ĐỨC CHÍ TÔN VÀ PHẬT MẪU
1.
Vía Đức Chí Tôn
Tại sao chọn ngày mùng 9 tháng giêng làm lễ vía Đức
Chí Tôn ?
Theo tục lệ, mùng 7 hạ nêu để chấm dứt Tết Nguyên
Đán thì nhân sanh mở ngay ngày Tết Khai hạ. Theo Dịch lý, ngày mùng 7 ứng vào
con ngựa trong Thập Nhị Chi, ngày mùng 8 ứng vào lúa, ngày mùng 9 ứng vào Trời.
Cho nên lấy ngày đó làm lễ Vía Đức Chí Tôn.
Mặt khác, số 9 là số thái dương, số 8 là số của
thiếu âm, số 7 là số của thiếu dương, và số 6 là số của thái âm. Theo thứ tự
trong Tứ tượng thì thái dương là ngôi số 1, lấy 1 trừ 10 còn 9 dùng làm số đặc
biệt của Thái dương, tức Trời vậy.
Thờ quả Càn Khôn là thờ CỬU THIÊN KHAI HÓA vì Càn 3
hào, Khôn 6 hào cộng lại là 9. vả lại, quẻ Khôn chồng lên quẻ Càn thành quẻ
Thái có nghĩa là thông suốt. Quẻ Thái làm chủ tháng giêng. Kết hợp lại, mùng 9
tháng giêng là Vía Trời.
Thêm vào đó, trong Kinh Dịch gọi số 9 = 3 x 3 là SỐ
Tham Thiên hằng số. Nhà toán học Pythagore cũng nói : Chín là số hoàn hảo, là
bình phương của ba, tam hợp hài hòa trọn vẹn”. (Neuf est le nombre parfait en tant que carré le trois qu’est le trinité de
l’harmonie complète).
Vả lại, các ngày hội lễ trong năm nảy sanh từ nền văn minh nông nghiệp. Mùa
xuân, tháng giêng lễ Cha, tức Vía Đức Chí Tôn, mùa thu, tháng 8 lễ Mẹ tức Vía
Đức Phật Mẫu. Các ngày lễ này, các Chức sắc phải về triều lễ tại Tòa Thánh.
Ngoài nghi lễ tôn nghiêm, Hội Thánh còn cho tổ chức các cuộc vui như dưng cộ bông,
lửa trại, thai đố, ngâm thơ … vừa nâng cao đời sống tâm linh, vừa buông thả tình cảm để thư giãn. Thế nên, lễ Vía xen lẫn
cái huyền nhiệm và cái thực tế, cái chính thống tôn giáo và cái buông thả của
nhân gian.
Trong ba ngày lễ Vía Đức Chí Tôn, trừ ngày mùng 9 chánh lễ, còn các ngày
khác là lễ tạ ơn tổ tiên hoặc tổ chức các cuộc vui, trong đó Văn Minh điện thu hút nhiều
người nhứt.
Trong nắng xuân ấm áp, Hội Thánh cho dựng một cái
đài lục giác giữa Đại đồng xã, gồm tầng trệt và tầng cao để mọi người đứng xa
đều thấy rõ người điều hành. Ban tổ chức gồm một Trưởng ban cầm cái mõ (thường
là Phối Sư Thái Đến Thanh) Một ban cổ nhạc trần thiết ở tầng trên giữa căn nhà
lục giác. Phía trước Văn Minh điện có một cái cầu thang duy nhứt lên và xuống,
phía bên trên có đề 3 chữ : Văn Minh Điện, tức nhà văn minh về đạo đức, văn
học, mỹ thuật …
Các cuộc vui gồm : Thai đố, thi thơ, hát vè, ngâm
thơ. Ai trúng thì được thưởng kinh sách có giá trị.
Văn Minh Điện bắt nguồn từ hai câu thơ giáng cho
của bà Đoàn Thị Điểm được sửa từ và rút ra trong truyện “Chinh phụ ngâm” như
sau :
Chín
tầng ngôi báu trao tay,
Nửa
đêm truyền lịnh định ngày xuống ngai.
Xuất nhứt nhơn (một người). Rõ ràng đây là câu đố.
Mãi đến cách mạng tháng tám năm 1945, Bảo Đại xuống ngôi, người ta mới biết
nhứt nhơn đó là Vĩnh Thụy. Từ đó, thú chơi thai đố ngày càng thạnh hành. Cái
vui của Văn Minh Điện là những câu thai đố được lý, hò, ngâm, diễn, đọc với
điệu bộ dễ cười của các diễn viên nghiệp dư. Chính nhờ điệu bộ đó, người xem
đoán được phần nào nội dung câu đố.
Một diễn viên đọc với điệu bộ câu này :
Cất
mình qua ngọn tường hoa,
Lần
đường theo bóng trăng tà về Tây.
Xuất nhứt điểu (một con chim), âm điệu thơ Kiều mà
lại là câu đố hóa búa. Một tín hữu mặc áo dài trắng giơ tay xin giải đáp.
Trưởng ban cuộc thi mời anh lên thang gác. Anh nọ đứng lựng chựng cầu thang đáp
: Con chim cút. Viên giám khảo giơ cao tay đánh vào mõ cái cốc. Mọi người đều
biết sai, cười ồ lên. Anh nọ bẽn lẽn xuống cầu thang. Nếu ai đáp đ1ung mõ được
đánh một hồi. Ban nhạc tiếp thanh âm hòa tấu một bài để tuyên dương người đáp
đúng. Một thiếu nữ giơ tay trả lời là con quạ vàng. Ban giám khảo yêu cầu giải
thích. Cô gái đáp : “Lần đường theo bóng trăng tà về Tây” thì chỉ có Mặt trời,
mà Mặt trời là Kim Ô. Ban ngày đôi khi có Mặt trăng nhưng do ánh sáng của Mặt
trời làm ta không thấy trăng. Một hồi mõ dài được gõ lên. Ban nhạc hòa tấu khúc
“Trạng nguyên hành lộ”. Cô gái được thưởng một chồng kinh sách với những tràng
pháo tay vang dậy.
Kế đến là cuộc thi ngâm thơ, thí sinh có thể lấy
thơ trong “Thi văn Hiệp tuyển” hay tự biên tự diễn.
Một nhà thơ trẻ với giọng ngâm ngọt ngào truyền cảm
hòa lẫn tiếng đàn cò, tiếng tiêu, dìu dặt như bay bổng giữa tầng không :
VỊNH TÒA THÁNH
Tòa
Thánh vút cao đứng giữa trời
Ánh
vàng tỏa rộng khắp nơi nơi.
Hiệp
Thiên vang tiếng Lôi Âm Cổ.
Bát
Quái lặng thinh Bạch Ngọc ngời.
Cung
đạo thiêng liêng miền thượng giới.
Cửu
Trùng dung tục cõi người đời.
Thoáng
nhìn trụ phướn, bồ đề cội.
Tòa
Thánh vút cao đứng giữa trời.
Trên đây chỉ là những trích đoạn về thai đố, thi
thơ để người đọc hiểu phần nào thú vui tao nhã nhân ngày Vía Đức Chí Tôn, vừa
phù hợp với truyền thống lễ nghi huyền nhiệm, vừa tác động cuộc vui chơi dân
đạo, thích đáng với quan niệm cổ truyền “Trời Người hiệp nhứt”. Tiếc thay, Văn
Minh Điện không vĩnh tồn với thời gian.
Tắt một lời, ngày Vía Đức Chí Tôn là ngày hạnh phúc
lớn của đại gia đình nhà Đạo, không phân biệt sang hèn, màu Đạo sắc tộc, mọi
tín hữu khắp mọi nơi, trên mọi nẻo đường, hướng về Tòa Thánh mừng lễ Đấng Cha
Lành.
Người Đạo Cao Đài luôn luôn tâm niệm và thực hành
lời Đức Đại Từ Phụ dạy : Tất cả nhơn loại là con một cha. Tất cả mọi tôn giáo có
cùng một gốc. Thế nên, người tín hữu Cao Đài không thấy ngại ngùng khi vào lễ
trong một chùa Phật hoặc nhà thờ Thiên Chúa, hoặc đền thờ Hồi giáo. Bởi lẽ,
người tín hữu Cao Đài biết rằng các Đấng Giáo chủ ấy đều do Đức Chí Tôn phân
tánh giáng sanh nên chịu dưới quyền điều khiển của Ngài.
Người tín đồ nào cũng thuộc làu câu : “Cùng nhau
một Đạo tức một cha”. Thế nên, họ không kỳ thị tôn giáo và không kỳ thị chủng
tộc, coi tất cả mọi sắc tộc trên thế giới dù khác màu da sắc tóc, ngôn ngữ hoặc
chánh kiến đều cùng chung huyết mạch.
Khi nói Đức Cao Thượng Phẩm là ngươn linh Hớn Chung
Ly hay Thanh Sơn Đạo Sĩ là ngươn linh của Hồng Y Richelieu, là xác nhận Đạo Cao
Đài tin có Luật chuyển luân. Ngày trước là người Trung Hoa, ngày nay đầu kiếp
làm người VN hay ngược lại. Điều ấy nói lên mọi sắc dân, trước mặt Đức Chí Tôn
đều là con cái, là đồng chủng. Nếu tiền kiếp là người Aán Độ thì theo đạo Phật,
hoặc người Tàu sao tránh khỏi theo đạo Lão hay đạo Nho. Vậy ta đã từng là môn
đệ của các vị đó trước kia, nay tôn vinh các vị đó làm thầy là lý đương nhiên.
Với tinh thần ấy, người tín hữu Cao Đài lúc nào
cũng tôn kính các tôn giáo khác và đặt các vị Giáo chủ ngang hàng nhau, không
có sự đặt biệt trọng khinh nào.
Thế thì tôn thờ Đức Chí tôn là tôn thờ đức tin của
nhơn loại.
Lễ
Vía Đức Chí Tôn lúc 0 giờ ngày mùng 9 tháng Giêng âm lịch hàng năm (Nghi thức thờ Đức Chí
Tôn. Xin xem “Ý nghĩa thờ Thiên Nhãn” của Hiền tài Nguyễn Kim Anh) . Đây là
buổi lễ trang nghiêm nhất, tất cả mọi sinh hoạt đều im lặng nhường cho tiếng
trống tiếng chuông và lời cầu kinh.
Sau khi Lôi Âm Cổ (trống) dứt hai hồi, vị Tả Phan
Quân cầm phướn Thượng sanh hướng dẫn các phẩm Lễ sanh, Giáo thiện nam nữ lên
lan can lầu Đền Thánh, nam tả nữ hữu (trong Bửu điện nhìn ra), đồng thời cho 6
vị Lễ sanh và 6 vị Giáo thiện nam nữ vào hầu Bát Quái Đài.
Khởi Bạch Ngọc Chung (chuông), vị Hộ Đàn Pháp Quân
cầm cờ Tam Thanh (cờ Đạo) và vị Hữu Phan Quân cầm phướn Thượng Phẩm hướng dẫn
chư Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước Thiện vào Đền Thánh (Hoán đàn). Hai
bên Chức việc, Đạo hữu nam nữ cũng đi vào Hoán đàn. Đoạn phân ban nam nữ. Đồng
thời 3 vị Chánh Phối Sư và Nữ Chánh Phối Sư vào Nội Nghi. Một vị Phối sư ở
Ngoại Nghi.
Tiếp Lễ Nhạc Quân lên Giảng đài nữ cầm hiệu. Một vị
Giáo sư phái Ngọc lên Giảng đài nam xướng lễ.
Dứt chuông, Hộ Đàn Pháp Quân ra cờ lịnh nhập đàn.
Vị Giáo sư phái Ngọc xướng
1/ - Nội Nghi, Ngoại Nghi tựu vị
2/ - Thiên phong dĩ hạ các tư kỳ vị.
3/ - Nhạc tấu huân Thiên : nhạc đờn 7 bài.
a/ - Xàng xê : nghĩa là đưa qua trộn lại, biểu
tượng cho thời kỳ hỗn độn sơ khai.
b/ - Ngũ đối thượng : là năm từng trên Trời tức khí
thanh bay lên làm bầu Trời.
c/ - Long ngâm : là rồng xuống, tượng trưng cho Âm.
Nhứt Âm nhứt Dương chi vị Đạo.
d/ - Vạn giá : là muôn việc đã định an, muôn loài
vạn vật đều có tên (Xem thêm Ngôi thờ Đức Chí Tôn)
2 . Hội yến Diêu Trì Cung
Trong hai tuần lễ trước ngày Đại lễ, hàng trăm nhân
viên công quả thuộc Công viện Hành chánh Phước Thiện đã chung lo dựng hai dãy
nhà rạp và lễ đài nơi sân lễ Báo Ân Từ.
Rạp lễ năm nay cũng được trang trí vô cùng công phu
và tuyệt mỹ như những năm về trước, với đủ màu sắc thanh lịch, dịu mắt, với đạo
kỳ phất phới, với tranh cảnh nổi, với các bức rèm ni lon tam thanh, nhiều đèn
màu, nhiều lồng đèn nhiều góc toả ánh thanh xích và huỳnh quang. Hằng mấy trăm
bàn tay tuyệt xảo đã tạo nên cảnh trí huy hoàng của rạp lễ. Các dãy cột chánh
thuộc mặt tiền được bông làm các chim phụng hoàng chầu lễ.
Theo chương trình lễ, năm nay, có cộ hoa bông hình
Đức Phật Mẫu kỵ thanh loan do Công viện Phước Thiện đảm trách. Ban nhà thuyền
ngày đêm lo làm tứ linh (Long, Lân, Qui, Phụng), Ban Tổng Trạo lo dợt lại Ngọc
Kỳ Lân, học sinh Đạo Đức Học Đường chuẩn bị các loại đèn giấy để diễn hành vào
đêm trung thu Hội Yến Diêu Trì Cung v.v…
Ngày
rằm tháng 8 Tân Hợi (dl, 03.10.1971)
Trong suốt ngày này, các cơ quan Đạo và 19 phận Đạo
thuộc Châu Thành Thánh Địa cùng các Châu, Tộc Đạo lo chưng bày các mâm quả phẩm
gồm đủ loại bánh mứt hoa quả hương đăng, trên các dãy bàn nơi hai nhà rạp lễ và
bên trong cũng như nơi Hậu điện Báo Ân Từ.
Nơi Chánh điện, bàn ghế, bình hoa quả phẩm cùng các
nghi thức đặc biệt dành cho Đại hội Bàn đào cũng đã được chuẩn bị châu tất với
nhiều màu tuyệt mỹ toả ánh ngọc quang lấp lánh.
Nơi Đền Thánh và Báo Ân Từ không dứt lớp sóng người
vào lễ bái. Tất cả mọi người đều thành kính và lộ vẻ hân hoan tiềm ẩn một sức
sống Đạo cao thâm khó diễn nên lờ i….
Vào Ngọ thời, Hội Thánh cử hành lễ cúng tiểu đàn
tại Đền Thánh với sự dự lễ cúng đông đảo của chư Chức sắc, Chức việc cùng chư
tín hữu.
Ngài Hiến pháp Quyền Chưởng quản Hiệp Thiên Đài
dâng Sớ cầu nguyện.
Lễ cúng kết thúc vào lúc 13 giờ 40’ cùng ngày.
Cũng trong Ngọ thời nầy, Hội Thánh cử hành lễ cúng
Đại đàn tại Điện thờ Đức Phật Mẫu với sự dự cúng đông đảo của chư nam nữ đồng
đạo.
Ngài Thời Quân Hiến Đạo H.T.Đ dâng Sớ cầu nguyện.
Lễ cúng Đại đàn kết thúc vào lýc 13 giờ 50’ cùng ngày.
17 giờ Hội Thánh Hiệp Thiên, Cửu Trùng và Phước
Thiện đến sân lễ Báo Ân Từ, đi xem qua các quả phẩm hiến lễ lên Đức mẹ đã chưng
bày tuyệt xảo và tràn đầy trên khoảng 50 dãy bàn, mỗi dãy dài 3 thước, rộng 1
mét 2.
Sau 15 phút xem sơ quan các quả phẩm, Ngài Thời
Quân Bảo Đạo H.T.Đ được Ban Tổ Chức cung thỉnh lên giảng dài gần dưới chân cột
phướn đối diện trước Báo Ân Từ để thuyết đạo. Ngài đã thuyết về ý nghĩa và Bí
pháp Đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung ( xin xem nguyên văn trong Thông tin số 38 …)
17 giờ 30’ Bà Đạo Nhơn Tạ
Thị Thế, quyền Thượng Thống Lại Viện Phước Thiện thay mặt Bà Chơn Nhơn Phó
Chưởng Quản Phước Thiện Nữ phái được Ban Tổ chức cung thỉnh thuyết Đạo (thông
tin số 38 …)
Buổi thuyết Đạo kết thúc vào lúc 17 giờ 40’
Số tín hữu dự nghe buổi thuyết Đạo kể trên đến hàng
vạn người ….
Bấy giờ (sau khi thuyết đạo) trời đổ một cơn mưa
nặng hạt, kéo dài khoảng 15 phút. Nước đọng trên góc đường về mặt phía Đông Bắc
Báo Ân Từ và dọc hai bên vệ đường Phạm Hộ Pháp đã được hàng mấy trăm ngàn gót
chân chư đồng đạo dự lễ dẫm qua dẫm lại, thành bùn nhão….Hàng trăm ngàn tà áo
trắng tinh đã phải kêu khổ vì dính phải những vết bùn đỏ lỗ chổ, khó coi và vô
cùng khó tẩy sạch nầy !
19 giờ trên Đại lộ Phạm Hộ Pháp dài khoảng 1.000
mét, rộng hơn 20 mét, từ trước cửa Đền Thánh đến trước sân lễ Báo Ân Từ, một
biển người dày đặt lớp sóng người mỗi lúc một kéo về tập nập hơn, dày đặt hơn,
để rồi sau cùng chen chân không lọt !
Nơi góc đường phía Tây Báo Ân Từ , tức là nơi hông
phía bắc rạp lễ số chư dồng đạo chen chân nhau như nêm, đến đổi, ai có việc cần
kiếp, nếu phải đi xuyên qua ngã nầy, có lẽ phải mất khoảng 10 phút mới đi được
một thước tây ….
Có thể nói, năm nay số chư đồng đạo đổ về dự lễ Hội
Yến Diêu Trì Cung, đông đảo gấp 10 lần năm vừa qua.
Một điễm khác cũng nên ghi thêm, một số đông đảo
các cô các bà đã suốt ngày lẫn đêm đến cầu nguyện xin Phật Mẫu ban cho quẻ xăm.
Hằng ngàn du khách từ bốn phương cũng đã đến bái lễ và xin Phật Mẫu ban cho các
quẻ xăm …..
19 giờ 35’ Ban Trật Tự và
hàng trăm nhân viên Cơ Thánh vệ đã vô cùng vất vả để giữ gìn trật tự cho một
khoảng sân lễ nơi Báo Ân Từ được trống để cho Long Mã có chỗ lượn bay theo nhịp
trống. Lớp sóng người vào lúc bấy giờ như nước vỡ bờ tràn đến sân lễ Báo Ân Từ,
khiến cho Ban Trật Tự và nhơn viên Thánh vệ phải vô cùng vất vả.
Người ta đã thừa biết rằng, thuở Đức Hộ Pháp còn
tại Toà Thánh, Đức Ngài đã cho tổ chức đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung vô cùng
trọng thể, với nhiều cộ hoa do các Phận, các cơ quan Đạo thực hiện. Nhưng từ
khi Đức Ngài phải tự lưu đày nơi Vương quốc Cam Bốt vì thời thế…và đã phải gởi
mảnh Thánh hài nơi tha bang cho đến khi nào quê mẹ Việt Nam được thật sự hoà
bình thì toàn Đạo mới được cung nghinh Tiên đài Đức Ngài về Toà Thánh ….
Tấm lòng khao khát và hoài vọng của nhơn sanh suốt
15 năm dài đăng đẵng, khao khát và hoài mong sức sống cao, độ Thánh khiết, đại
trí dũng của đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung được phục hồi như những năm Tôn sư Hộ
Pháp còn ở tại Toà Thánh đã thể hiện trước mắt nhơn sanh ….
Cho nên năm nay dù thời cuộc sôi sục bất ổn….nhưng
nhơn sanh nghe nói chương trình đại lễ Hội Yến Diêu Trì Cung được Ngài Hiến
Pháp quyền Chưởng Quản H.T.Đ cho cử hành khá long trọng, có cộ Tiên, có tứ
linh…..Nhơn sanh đổ về dự lễ đông đảo gấp 10 lần hơn năm vừa qua …
Đoàn Long Mã, cộ hoa, lồng đèn đuốc lửa do khoảng
bốn ngàn học sinh Đạo Đức Học Đường, Trung học Lê Văn Trung, Đại Đạo Thanh Niên
Hội và Hướng Đạo đoàn Đại Đạo cầm tay đã được sắp hàng dài cây số, từ ngã tư
đại lộ Phạm Hộ Pháp và Oai Linh Tiên đến cửa trường Đạo Đức Học Đường …
19 giờ 45’ Đoàn diễn hành
bắt đầu chuyển mình dưới những hạt mưa lấm tấm như sao trời rãi nhẹ xuống trần
ai.
Năm phút sau đó, cờ Đạo, bảng Đạo và Long Mã đến
sân lễ Báo Ân Từ. Long Mã uy nghi lượn múa và bái lễ trước đền thờ Đức Phật
Mẫu, vũ lộng những đường múa thật cao, thật đẹp nhưng nhẹ nhàng bay theo nhịp
trống Long Mã giục thúc, nhịp trống Tần nhơn dòn dã ….
Giữa lúc nầy, hàng vạn ánh đuốc của đồng bào sơn
cước mặt rằn ri, vền vện quấn khố, ở trần, lưng giắt đầy lá rừng từ phía sau
Hậu điện chạy cặp theo hông phía Bắc Báo Ân Từ ra đại lộ Phạm Hộ Pháp để tháp
tùng theo đoàn người diễn hành. Đoàn người sơn cước này do hướng Đạo đoàn và
Đại Đạo Thanh Niên Hội cải trang thành, họ vừa chạy, vừa reo hò những âm thanh
miền sơn cước. Trông đến đoàn người ai cũng tức cười và cảm thấy một nguồn vui
mới mẻ khác thường dâng dậy ngập cả tâm hồn …
Đồng trong khoảng thời gian nầy, Vân xa ( cộ hoa)
Đức Phật Mẫu kỵ Thanh loan có chín vị Nữ Phật phò tá cùng bốn vị Tiên nương hầu
cận đã đến trước sân lễ và dừng lại. Ánh hào quang phía sau đầu Đức Phật Mẫu
quay tít và phát ra muôn ngàn ánh điện chớp nhoáng giữa hư không.
Ai nhìn thấy ánh hào quang nầy cũng sững sờ. Có lẽ,
mọi người đều chung một cảm nghĩ bửu tượng Đức Phật Mẹ linh động, thiêng liêng
….
Chín vị Nữ Phật, mỗi vị cầm một bửu tháp và toạ vị
theo thứ tự. Ngoài ra, bốn vị Tiên nữ hầu cận Đức Phật Mẹ cũng hầu quạt y như
các hình ảnh mà chúng ta thờ tại Điện thờ Đức Phật Mẫu. Quanh trên cộ hoa nầy
nhiều tràng pháo bông đã được đốt cháy, muôn ngàn giọt lửa sáng rực rơi rơi
liên tục xuống mặt đất …
Bấy giờ rồng nhang dài 36 thước, đường kính khoảng
1 thước 2, vảy vàng hực, từ ngoài đại lộ Phạm Hộ Pháp cuộn mình rồi bay là đà
vào sân Báo Ân Từ, uốn khúc, vẫy đuôi, trườn mình, đầu ngất cao, há miệng phun
lửa lên cao ngất trời,muôn ngàn ánh sáng trên khắp thân mình rồng vàng nhấp
nhoáng, lập loè…..Hai phút sau, một con Ngọc Kỳ Lân cũng bay đến phun lửa đỏ
trời. Bên dưới linh vật là hàng trăm anh em nhơn viên nhà thuyền và Ban Tổng
Trạo vừa lượn múa theo rồng và Ngọc Kỳ Lân, vừa hô vang những âm thanh đặc biệt
dành cho việc múa rồng …. Nhịp trống vang rền, bước chân rầm rập đã làm cho
biển người đứng xung quanh say mê theo dõi và hoan hô vang dậy …
3 . Con đường cứu rỗi của
Đạo Cao Đài
Thánh giáo dạy về việc độ rỗi con người khi còn
trong bụng mẹ “độ dẫn hoài sanh”. Thất Nương khêu đuốc Đạo mầu, Lục Nương, Bát
Nương . . . Cũng hết lòng phổ độ quần sanh.
Trong buổi đầu khai đạo, có người còn chưa tin, làm
khải để thử “Có đâu Tiên Phật giáng phàm gian” liền được hoạ đáp lại. Đồng thời
Đức Chí Tôn cho chuyển nhiều huyền diệu như trị các bịnh ngặt nghèo, cứu người
bằng âm dương thuỷ. Đức Chí Tôn dạy “ Tuy con không thấy Thầy nhưng nghe Thầy
dạy thì con nên tin đó là sự thật”.
“Có lắm người tưởng rằng ta phải thấy Chúa y như
Chúa đứng bên nầy, còn ta đứng bên kia, đâu phải vậy. Chúa với tôi chỉ là một
trong động tác thấy chúa của tôi” (Eckhart). Vả lại cơ thể của Thần Tiên thật
là tinh tế, mắt thường đâu thể nhìn thấy được.
Chúng sanh muốn sờ móđược cái gì cứu rỗi, nên Đức
Chí Tôn, Phật Mẫu mới giao con thuyền Bát Nhã làm Thể pháp cho Tam Nương độ
đời. Ngài dạy :
“Khuôn
thuyền Bát Nhã chẳng hề chìm,
Nổi
quá như bông, nặng quá kim.
Có
Đạo trong muôn ngồi cũng đủ,
Không
duyên một đứa cũng là chìm.”
Bài vịnh Thuyền Bát Nhã đại biểu cho cả giáo lý Cao
Đài, nghĩa là giáo lý chỉ là phương tiện, nếu ta đọc kinh sách Đạo với tâm
trạng thao thức suy nghĩ, ta sẽ thấy được nghĩa lý uyên thâm của nó. Trong mỗi
trường hợp, mỗi lời Thánh dạy có lối giải thích theo trạng huống, nếu ta nhận
định đúng Thánh ngôn trong mỗi trường hợp, ta sẽ thấy lý ưng của nó.
Đức Chí Tôn dạy : Thầy không bao giờ nghĩ rằng
chúng sanh sẽ đọc giáo lý của Thầy để đạt đạo vì giáo lý chỉ là những bài luân
lý đơn thuần, không phải chỉ đọc được nó mà thành đạo.
Vả lại, giáo lý thâm hậu không thể nói bằng lời,
diễn bằng bút. Các Chức sắc giảng đạo là chỉ gợi lên hoặc hướng dẫn các tín hữu
nhiều điều dẫn đến chân lý. Ai thấy thì thấy liền, ai không thấy, càng tìm càng
tối tăm.
Giáo lý Đạo Cao Đài chỉ là hướng đạo tri thức, chỉ
ra con đường cứu rỗi. Thầy không hề tiết lộ bằng con đường hiểu đạo ( tri thức)
hoặc siêu hình của sự cứu rỗi mà phải tự giác ngộ, mỗi người riêng rẻ không thể
giải thích được mà chỉ có thể chứng nghiệm bằng nội lực và nội tâm của mình. Cố
gắng là nhân tố rất quan trọng trong sự tu luyện vì không có sự giải thoát nào
nếu không có sự cố gắng của cá nhân.
Xem như thế, Thuyền Bát Nhã cũng chỉ là phương tiện
mà cứu cánh là tu luyện. Con thuyền chẳng hề chìm, lướt nhẹ như bông, nhưng sao
lại nặng tợ kim loại ? Đó là do chỗ không biết đạo, không ngộ đạo. Ở thế, ai
muốn nằm ngồi trên thuyền cũng được vì đó là con thuyền gỗ với đôi bánh xe cao
su. Thuyền chỉ là phương tiện , là lớp vỏ bên ngoài như cái áo của nhà tu, nếu
chỉ mặc áo mà thành đạo thì ai cũng làm được. Đạo phải trụ vững trong lòng, con
đường tu như sóng dồi thuyền lúc bổng lúc trầm, ta không trì chí bền lòng
(không duyên) thì con Thuyền Bát Nhã của Tam Nương ( chớ không phải bằng cây gỗ
ở Khách Đình) sẽ nhận ta chìm.
Thầy cũng dạy : “ Giáo lý Thầy như đũa ăn cơm,
không đũa ta ăn cơm cũng được” . Thế thì đũa cũng chỉ là phương tiện. ( Người
Aán Độ ăn bốc). Việc cầu kinh hằng ngày, với các nghi lễ phức tạp chỉ là phần
hành của đường tu. Ta chỉ có thể thấy được sự cứu rỗi bằng sự tồn tâm dưỡng tánh,
tự đọc kinh sách với tâm trạng thao thức. Thế nên, khi đọc Thánh ngôn, không
phải chăm chú vào những từ ngữ có vẻ bình dân quê kệch của đầu thế kỷ 20, mà
nên coi văn tự chỉ là phương tiện trình bày chân lý bên trong. Dù vậy, giáo lý
tuy là phương tiện, nhưng bỏmất giáo lý thì không có cái gì để đạt được cứu
cánh, bằng ý nghĩ đó, nếu bỏ thuyền thì có gì để đưa xác đến phước địa được.
Do đó, khi đọc giáo lý, phải tư duy sinh động, phải
băn khoăn. Cái hay của giáo lý là thế hệ nầy đọc, hoàn cảnh nầy nghe thì phù
hợp ngay; đến thế hệ sau, tình huống khác thì nó cũng thích hợp. Giáo lý Cao
Đài thọ truyền bất hủ lậu là vậy. Bởi lẽ, khi nghe ai nói đây là Kinh và Thánh
ngôn của Đạo Cao Đài thì không vội chấp nhận, không vội gác bỏ ( vì ngoài Thập
Nhị Thời Quân của Thầy còn nhiều cặp đồng tử của các phái đạo), nên nghiên cứu
tường tận rồi so sánh, nếu không phù hợp với Kinh, Thánh ngôn của Thầy thì chắc
chắn không phải là bổn nguyên giáo lý của Đạo Cao Đài.
Luận giải như vậy, Thuyền Bát Nhã vẫn là biểu tượng
cứu rỗi của Đạo, nhưng những ai ‘không duyên một cũng là chìm”.
Đức Chí Tôn lại dạy về Thuyền Bát Nhã chính ở trong
tâm.
“Biển
khổ nơi mình chớ đâu xa,
Thuyền
kêu Bát Nhã kiếm đâu mà ?
Biển
Thuyền đồng ở trong tâm dạ,
Biết
Đạo lần tìm mối cũng ra”.
TIẾT 3
VĂN THI VÀ ĐẠO ĐỨC VĂN ĐÀN
Đạo Đức hanh thông
truyền vạn đại
Văn Đàn khai thái thọ
thiên niên.
1 . Thánh thi, thánh ngôn
Bất cứ một tôn giáo
nào, muốn việc truyền giáo thành công đều phải tạo được đức tin và cảm hứng
trong nhơn sanh. Chư Chức sắc biết đồng lao cộng khổ với các tín hữu, biết khinh
thường địa vị và quyền lợi để làm gương sáng cho những ai muốn làm công quả để
đổi lấy cái quả tốt đẹp hơn cuộc đời hiện tại. Nếu được những Chức sắc hành đạo
có đức độ như vậy, cơ đạo sẽ sớm phổ truyền khắp năm châu.
Tuy nhiên, người đệ tử Cao Đài phải biết nhẫn nại
chờ đợi Đức Chí Tôn đến dạy Đạo. Ba vị Thiên sứ phải trãi qua nhiều đêm học hỏi
với Thất Nương, với các chơn linh khuất mặt, với ông AĂÂ rồi mới biết ông Trời
là ai ! Chữ Nhẫn đối với người tín đồ rất quan trọng, vì biết nhẫn mới học được
nghĩa lý sâu xa, mà Đạo vốn hư hư thực thực, cần trì chí bền lòng.
Mặt khác, Thánh ngôn, kinh điển của Đạo Cao Đài rất
khác biệt nhiều tôn giáo, với lới hành văn nôm na, vắn tắt, không lý luận,
không chứng minh dài dòng. Những chữ chỉ cốt để khiêu gợi cho một lý lẽ cao
thâm, để người đạo nghe tiếng vọng trong lòng của mình mà giác ngộ.
Sự lưng chừng, sự tối tăm của lời văn và cách lập
lập nửa vời kích thích óc tò mò để tìm hiểu cái bí nhiệm của thiêng liêng. Nhờ
đó mà gợi mở được những ý tưởng thâm sâu tiềm tàng trong mỗi người ưa suy luận.
Văn trong Thánh ngôn và Kinh điển tràn đầy “Văn dĩ
tải Đạo” (Văn để chở Đạo), và “Thi dĩ ngôn chí” (Thơ chứa lời giới thiệu), lẫn
lộn giữa Thánh dạy và thi ca giông giống như Nam Hoa Kinh của Trang Tử hay Đạo
Đức Kinh của Lão Tử.
Do cái tri và hành đi đôi như vậy nên có người đã
nhận định rằng “Đông Phương không có triết gia mà chỉ có hiền giả và thi nhân”
(Triết học Đông Phương, Saigon 1971, tr.135). Trong Thánh giáo ta thấy nhan
nhản thi ca với lời lẽ của bậc hiền triết.
1/ - Về Thánh Thi :
Đạo Cao Đài chọn Đường thi làm Thánh Thi chuyển tải
Đạo lý. Bởi vì đời Đường (618-907) là thời đại hoàn kim của thơ ca, lấy nguồn
cảm hứng từ “Tam giáo đồng nguyên”, nên nảy sanh Thi Tiên Lý Thái Bạch, Thi
Phật Vương Duy (tức thơ thiền) và Thi Thánh Đỗ Phủ vì người đời coi thơ ông như
chân lý cuộc sống. Nội dung Đường Thi phù hợp với mục đích của Tôn giáo Cao
Đài, trong ý niệm đồng văn hóa. Tuy nhiên, ta vẫn thấy có nhiều thể thơ đặc
biệt Việt Nam như song thất lục bát chẳng hạn.
Trong Đạo Cao Đài, về Thánh Thi các Đấng giáng cho
đa dạng. Đừng đầu là tập NỮ TRUNG TÙNG PHẬN, viết theo thể song thất lục bát
gồm 350 vế 1400 câu, thêm câu kết là 1401 câu:
“Đời đời danh chói Cao Đài”
Mục đích của tác phẩm là “Giục tài nhi nữ sánh bì
cùng Nam”.
Tác phẩm bị hạn chế về thời phong kiến. Bà dạy phận
con gái, làm vợ, công việc trong nhà ngoài ngõ, bổn phận dạy trẻ, thờ kính cha
mẹ, kính thầy cô …
Khi tác phẩm ra đời, nước ta còn lệ thuộc nên Bà
dạy:
Nào
quốc thể người khi kẻ thị,
Nấu
sôi lên cái máu anh phong,
Nào
dân đen phép quỉ hớp hồn.
An
bang tế thế một lòng lo âu.
Ngoài tác phẩm tràng
thi đó, còn những tác phẩm vừa như GIÁC MÊ KHẢI NGỘ, NGỤ ĐỜI của Đức Lý Thái Bạch,
DÒNG BÍCH LẶNG của Đức Nhàn Aâm Đạo Trưởng, TÌNH ÁI của Thất Nương …
Ngay từ những ngày đầu dạy Đạo, có người hỏi hình
dạng của Đức Chí Tôn như thế nào, Ngài trả lời không những tự vịnh phong cách
của mình mà Ngài còn tiên tri việc Đạo như sau:
Tròi
trọi một mình không mới thiệt bần,
Một nhành sen trắng náo nương chân.
Ở
nhà mượn đám mây xanh kịt,
Đỡ
gót nhờ con hạc trắng ngần.
Bố
hóa người đời gây mối Đạo,
Gia
ân đồ đệ dựng nền nhân.
Chừng
nào đất dậy Trời thay xác,
Chư
Phật Thánh Tiên xuống ở trần.
(TNHT 1, tr.79)
Có người lại hỏi Bạch Ngọc Kinh như thế nào ? Ngài
liền “Tân tả Bạch Ngọc Kinh” :
Một
tòa Thiên các ngọc làu làu
Liền
bắc cầu qua nhấp nhóa sao.
Vạn
trượng then gài ngăn Bắc Đẩu,
Muôn
trùng nhiếp khảm hiệp Nam Tào.
Chư
Thần chóa mắt màu thường đổi,
Liệt
Thánh kinh tâm phép vẫn cao.
Dời
đổi chớp giăng đoanh đỡ nổi,
Vững
bền vạn kiếp chẳng hề xao.
Sau cùng, các đệ tử biết đó là Ngọc Hoàng Thượng Đế
Giáo Đạo Nam phương.
NGỌC
ẩn thạch kỳ ngọc tự cao,
HOÀNG
Thiên bất phụ chí anh hào.
THƯỢNG
ban phúc hạnh nhơn đồng lạc,
ĐẾ
tạo lương phương thế cộng giao.
GIÁO
hóa nhơn sanh cầu triết lý
ĐẠO
truyền thiên hạ ái đồng bào.
NAM
nhơn tỉnh cảm sanh cao khí,
PHƯƠNG
tiện tu tâm kế diệt lao.
Đức Ngọc Đế đã thật sự giáng trần dạy Đạo ở Nam
bang thì ách dân nạn nước sắp mãn.
Hảo Nam bang ! Hảo Nam bang !
Tiểu quốc tảo khai Hội Niết Bàn.
Hạnh ngộ Cao Đài truyền Đại Đạo,
Hảo phùng Ngọc Đế ngự trần gian.
Thi ân tế chúng thiên tai tận.
Nhược thiệt nhược hư vạn đại
an.
Chí
bửu nhơn sanh vô giá định,
Năng
tri giác thế trí cao ban. (TN1, tr.80)
Bổn nguyên lời dạy của Đức Chí Tôn nằm trọn trong
Thánh Ngôn. Như thế, những điều gì không có trong Thánh Ngôn thì phải không có
trên Thiên Bàn và không có trong Giáo lý Đại Đạo. Thánh Ngôn lại hư hư thực
thực, có thật mà cũng có giả, nên Đức Chí Tôn dạy : “Điều gì hợp với lòng chư
môn đệ là Thánh ý, điều gì không hợp là của tà quái”. Nếu hiểu được như vậy,
độc giả sẽ thấy rõ Đạo Cao Đài là một tôn giáo thuận khoa học tiến bộ, khi đã
loại bỏ những điều trái với đời thường.
Một ít nhà nghiên cứu cho rằng Giáo lý Cao Đài có
nhiều mâu thuẫn là do họ đọc cơ bút của nhiều chi phái hay nhiều đồng tử khác
nhau, nhưng những mâu thuẫn đó làm nổi bật cái bổn nguyên lời dạy của Đức Chí
Tôn, chớ không làm lu mớ Thánh chất. Vả lại, Đạo Cao Đài chỉ truyền bá hơn một
giáp nên Giáo lý còn trong tình trạng hồng mông, chưa được hệ thống hóa. Đức
Chí Tôn đã ban cho loài người một tôn giáo Đại đồng huynh đệ, một nền văn hóa
tổng hợp thì nhân loại có bổn phận phải làm cho nó trở thành cao thượng tốt đẹp
vì : “Đại Đạo truyền thế giả. Thiên hạ vi công quả” và “Nhân năng hoằng Đạo,
phi Đạo hoằng nhân” (Con người mở rộng Đạo chớ không phải Đạo mở rộng được
người) (Vệ Linh Công XV, Luận Ngữ), chớ Đức Chí Tôn không làm thay cho loài
người. Nếu Thầy làm thay thì loài người còn gì để trao dồi mình trở thành Thánh
thiện.
Xét lại quá trình tiến triển Phật giáo trong Tam
Tạng Kinh thì Kinh Tạng và Luật Tạng có trước giống như Cao Đài giáo. Còn luật
Tạng vào khoảng 400 năm sau Đức Thích Ca tịch diệt mới xuất hiện và tư tưởng
hình nhi thượng học nghiên cứu về “Không luật” mới phát sinh, đưa đến sự ra đời
của Phật giáo Đại Thừa.
Như thế, bổn nguyên lời dạy của Đức Chí Tôn chưa
được triển khai và hệ thống hóa đúng mức là chuyện bình thường. Ai thắc mắc thì
chính người đó sẽ làm cho Giáo lý Cao Đài sáng chói trên hoàn vũ, chẳng hạn như
nhà văn Pháp Gabriel Gobron, ông cũng mới nghiên cứu chừng mực nào đó thôi,
chưa kể những chỗ còn sơ lầm.
Những người nghiên cứu về Đạo Cao Đài đương đại
thấy những điều chưa vừa lòng là tại người viết thiểu trí chớ không phải giáo
lý không siêu việt. Đạo Cao Đài rất tự do về mặt tư tưởng (phải trái đôi đường
tùy ý chọn), những bài nghiên cứu về Đạo Cao Đài của các học giả trong và ngoài
nước đều được trân trọng. Bởi lẽ Đạo Cao Đài chủ lấy trí tuệ hiểu biết làm nền
tảng chớ không cầu lấy sự mê hoặc chúng sanh làm lợi khí.
Vì chính Thầy đã dạy : “Thầy đến lập cho các con
một nền chơn Đạo, tức là mọi sự chi dối trá đều chẳng phải của Thầy” (TNHT, QI,
tr.77)
2/ - Về Thánh Ngôn :
Bổn nguyên lời dạy của Đức Chí Tôn trong Thánh Ngôn
Hiệp Tuyển có thể chia làm 9 phương diện
I/ -
Quyền lực Đức Chí Tôn :
1/- Khí hư vô sanh có một Thầy …
Nếu không có Thầy thì không có chi torng Càn Khôn
thế giới này, mà nếu không có hư vô chi khí thì không có Thầy. (Tr.31-Q,1)
2/ - Một chơn thần của Thầy mà hóa sanh thêm chư
Phật, chư Tiên, chư Thánh, chư Thần và toàn bộ nhơn loại trong càn khôn thế
giới nên chi các con là Thầy, Thầy là các con. (Tr.30-Q,1)
3/ - Khai Thiên Địa vốn Thầy, sanh Tiên Phật cũng
Thầy, Thầy đã nói một chơn thần mà biến càn khôn thế giới và cả nhơn loại.
Thầy là chư Phật, chư Phật là Thầy, các con là chư
Phật, chư Phật là các con.
Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật. (Tr.48-Q,1)
4/ - Thầy khai Bát Quái mà tác thành càn khôn thế
giới nên mới gọi là Pháp, Pháp có mới sanh ra càn khôn vạn vật rồi mới có
người, nên gọi là Tăng.
Thầy là Phật chủ cả Pháp, Tăng, lập thành các D(ạo
mà phục hồi các con hiệp một cùng Thầy. (Tr.48-Q.1)
5/ - Thầy là Đức Jéhovah của dân Hébreux, vị chủ tể
của quân lực dân Israel, vị Thánh vô danh của dân Do Thái, Đức Đại Từ Phụ của
Chúa Jésus cứu thế. Con chỉ cần cầu nguyện Thầy với danh hiệu Cao Đài thì sẽ có
sự cảm ứng chấp thuận. (Tr.124-Q.1.dịch)
6/ - Chi chi hữu sanh cũng do bởi chơn linh Thầy mà
ra, hễ có sống ắt có Thầy. Thầy là cha của sự sống, vì vậy mà lòng hóa sanh của
Thầy vô cùng tận. (Tr.62-Q.2)
7/ - Cái mạng sống là Thầy. Mà giết Thầy thì không
phải dễ, các con gắng dạy nhơn sanh điều ấy.” (Tr.62-Q.2)
8/ - Thầy các con là ông Thầy Trời, nên biết một
ổng mà thôi, thì đủ, nghe à! (Tr.45-Q.1)
9/ - Nơi Bạch Ngọc Kinh cả thảy đều là con cái Thầy
tức là anh em với nhau. (Tr.57-Q.1)
10/ - Chẳng một ai dưới thế này còn đặng phép nói
rằng thế quyền Thầy mà trị phần hồn cho nhân loại” (Tr.3-Q.1)
II/ -
Trời Người hiệp nhứt
1/ - Lập “Tam kỳ phổ độ” này duy Thầy cho “Thần”
hiệp “Tinh Khí” đặng hiệp đủ Tam bửu là cơ mầu nhiệm siêu phàm nhập Thánh.
(Tr.12-Q.1)
2/- Thầy đến đặng hườn nguyên chơn thần cho các con
đắc Đạo. Nguồn cội Tiên Phật do yếu nhiệm là tại đó. (Tr.12-Q.1)
Cái chơn thần ấy mới đặng phép đến trước mặt Thầy.
(Tr.6-Q.1)
3/- Cái chơn thần buộc phải tinh ấtn trong sạch mới
nhẹ hơn không khí ra ngoài càn khôn được. Nó phải có bổn nguyên chí Thánh chí
Tiên chí Phật mới xuất Thánh Tiên Phật đặng. (Tr.29-Q.1)
4/- Phải có một chơn linh tinh tấn mới mầu nhiệm,
huyền diệu, phải đặng trường trai mới đặng linh hồn tinh tấn, phải tập tành chí
Thánh Tiên Phật mới phò cơ dạy Đạo cả chúng sanh. (Tr.7-Q.1)
5/- Các con phải bỏ xác trần, mà bông trái thiêng
liêng các con sanh hóa chơn thần, chơn thần lại biến hằng muôn thêm số tăng lên
hoài. Aáy là Đạo. (Tr.30-Q.1)
6/- Đạo cũng do nơi phàm mà phát ra và tiếp lấy cái
thiêng liêng của Thầy mà hiệp đồng mới sanh sanh hóa hóa thấu đắc càn khôn.
(Tr.79-Q.1)
Lành dữ nơi mình chiêu phước họa
Thành tâm ắt thấy hết thần minh. (Tr.114-Q.1)
Người dưới thế này muốn giàu có phải kiếm phương
thế mà làm ra của. Aáy là về phần xác thịt, còn Thần, Thánh, Tiên, Phật muốn
cho đắc Đạo phải có công quả. (Tr.26-Q.1)
7/- Muốn đến Thầy thì phải cầu nguyện. Thầy không
bao giờ không cảm ứng với những lời cầu nguyện chơn thành. (Tr.124-Q.1) (dịch )
8/- Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả nhơn loại
càn khôn thế giới nếu biết ngộ một đời tu đủ trở về cùng Thầy đặng. (Tr.70-Q.1)
9/- Lương tâm của các con là một khiếu thiêng liêng
của Thầy ban để sửa trị riêng các con trong đường tội lỗi và ban thưởng trong
việc nhơn đức, làm một việc phải tức là do ý Trời, phạm một nét vạy tà là cãi nơi
Thiên luật. (Tr.73-Q.1)
10/- Sự thương yêu là chìa khóa mở Tam Thập Lục
Thiên, Cực Lạc Thế Giới và Bạch Ngọc Kinh, kẻ nào ghét sự thương yêu thì chẳng
hề qua khỏi cửa luân hồi. (Tr.43-Q.2)
11/- Sự hành tàng nào về Đạo mà vừa lòng trong cả
chư Chức sắc và chư tín đồ, ấy là hiệp Thiên ý. Còn điều nào mà phần nhiều môn
đệ của Thầy chẳng khứng chịu theo, ấy là bất hiệp Thiên ý đó. (Tr.47-Q.2)
12/- Kinh điển giúp đời siêu phàm nhập Thánh chẳng
khác chi đũa ăn cơm, chẳng có đũa, kẻ có đủa bốc tay ăn cũng đặng. (Tr.5-Q.2)
III/
- Quan niệm về vũ trụ và con người :
1/ - Đạo tức là con đường để cho Thánh, Tiên, Phật đọa trần dò theo mà hồi cựu
vị. Đạo là đường của các nhơn phẩm dò theo mà lánh khỏi luân hồi. (Tr.8-Q.1)
3/ - Khi chưa có chi trong càn khôn thế giới thì
khí hư vô sanh ra có một Thầy và ngôi của Thầy là Thái Cực.
Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi phân
ra Tứ Tượng, Tứ Tượng biến Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng mới lập ra càn
khôn thế giới.
Thầy lại phân tánh Thầy mà sanh ra vạn vật là vật
chất, thảo mộc, côn trùng, thú cầm gọi là chúng sanh. (Tr.62-Q.2)
4/ - Có Thầy mới có các con, có các con rồi mới có
chư Thần, Thánh, Tiên, Phật (Tr.48-Q.1)
5/ - Nên chi các con là Thầy, Thầy là các con. (Tr.30-Q.1)
6/ - Trần là cõi khổ để đọa bậc Thánh, Tiên có lầm
lỗi. Aáy là cảnh sầu để trả xong quả, hoặc về ngôi cũ, hoặc trả không xong quả,
phải mất cả chơn linh là luân hồi, nên kẻ bị đọa trần gọi là khách trần.
(Tr.3-Q.2)
7/- Đài Nghiệt cảnh sẽ là nơi rọi sáng các việc lỗi
lầm. (Tr.83-Q.1)
IV/-
Huyền Diệu Thiêng Liêng :
1/- Thầy chưa giáng cơ lậo Đạo tại nước Nam chứ chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật dùng huyền diệu này mà truyền Đạo cùng vạn quốc.
(Tr.57-Q.1)
2/- Đạo mới khai lập, tuy xuất hiện chưa đầy một
năm chứ chư Tiên, chư Phật đã lập cùng cả năm châu. (Tr.57-Q.1)
3/- Thầy chẳng dùng sự chi mà thế giới gọi là tà
quái, dị đoan mà nếu xảy ra một ít dị đoan trong Đạo đã dùng lỡ thì ấy là tại nơi
tên của một vài môn đệ đó, nếu chẳng giữ theo lẽ chánh mà hành Đạo và bày biện
nhiều sự vô lối thì torng ít năm sau đây sẽ trở nên một mối Tả Đạo mà các con
đã từng thấy. (Tr.42-Q.2)
V/ - Huyền Cơ Lập Giáo :
1/- Thầy nhứt định đến chính mình Thầy độ rỗi các
con chẳng chịu giao chánh giáo cho tay phàm nữa. Nhưng mà phải buộc lập chánh
thể có lớn có nhỏ đặng dễ thế cho các con dìu dắt lẫn nhau anh trước em sau mà
đến nơi Bồng-Đảo. (Tr.18-Q.1)
Il faut que je me serve moi-même maintenent d’un
moyen plus spirituel pourvous convainere. Vous ne pourres pas nien devant le
grand Judgenment-Général que je ne sauve pas I’humanité partous moyens
plausibles. (Tr.50-Q.1)
Dịch : Nay Thầy phải tự tìm lấy một phương pháp
huyền diệu hơn để thâu phục các con. Các con sẽ không còn chối cãi nữa được
trước Tòa Phán xét chung rằng Thầy không cứu vớt nhơn loại bằng những phương
pháp công hiệu. (Tr.122-Q.1)
Ta vì lòng đại từ, đại bi vẫn lấy đức hiếu sinh mở
dựng nên mối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ độ, tôn chỉ để vớt những kẻ hữu phần vào nơi
địa vị cao thượng, để tránh khỏi số mạng luân hồi và nâng những kẻ tánh đức
bước vào cõi nhàn cao hơn phẩm hèn khó nơi trần thế này. (Tr.64-Q.1)
Nơi xứ này dân tình rất thuần hậu ôn hòa nên Thầy
đếnc ũng như Chúa cứu thế đã đến với chúng con để bài trừ tà thuyết và truyền
bá chơn Đạo trên toàn cầu. (Tr.123-Q.1)
2/ - Thầy lại đến lập trong nước các con một nền
chánh Đạo đủ tư cách độ rỗi chúng sanh. (Tr.77-Q.1)
3/ - La nouvelle doctrine que j’enseigne a pour but de vous nettre dans une
communauté d’intérêt et de vie. Soyez done unis par ma volonté et préchez su
monde la paix et la concorde. (Tr.51-Q.1)
Dịch : Giáo lý của thầy có mục đích dạy dỗ các con
hòa hợp nhau trong sự sống chung cộng đồng quyền lợi và sinh hoạt. Vậy các con
hãy chung hiệp nhau mãi mãi theo ý muốn của Thầy và hãy truyền bá khắp hoàn cầu
thuyết hòa bình tương thân tương ái. (Tr.122-Q.1)
4/ - Hãy đọc Thánh Ngôn của Thầy. Giáo lý của Thầy
sẽ là đại đồng. Nếu nhân loại tu hành thì đó sẽ là nền hòa bình hứa hẹn chung
cho tất cả các dân tộc. (Tr.122-Q.1)
5/ - Chánh sách cộng hòa yên tịnh là chánh sách của
các con đặng dụng lập Đạo mà thôi. (Tr.61-Q.2)
6/ - Mở một mối Đạo chẳng phải là sự thường tình mà
sanh nhằm đời đặng gặp một mối Đạo chẳng phải dễ. Muốn lập thành tất phải có
điều nghiêm chánh thưởng phạt. Có thưởng mới giục lòng kẻ có công, có phạt mới
răn đặng lòng tà vạy. (Tr.53-Q.1)
7/ - Khi Ngọc Hư định cho Hiệp Thiên Đài cầm số
mạng nhân sanh, lập thành chánh giáo thì Đại Từ Phụ lại trở giáp giao quyền ấy
cho Cửu Trùng Đài. (Tr.86-Q.2)
8/ - Từ đây trong nước Nam duy nhất có một Đạo chơn
thật là Đạo Thầy đã đến lập cho các con gọi là “Quốc Đạo” (Tr.43-Q.1)
VI/ - Đối Với Các Tôn Giáo :
1/- Vốn từ trước Thầy đã lập ra Ngũ Chi Đại Đạo là
:
Nhơn Đạo
Thần Đạo
Thánh Đạo
Tiên Đạo
Phật Đạo (Tr.17-Q.1)
2/ - Từ trước ta giáng sanh lập Phật giáo gần 6000
năm thì Phật giáo chánh truyền gần thay đổi. Ta thường nghe chúng sanh nói Phật
giả vô ngôn. Nay nhứt định lấy huyền diệu mà giáo Đạo, chớ không giáng sanh nữa
đặng chuyển Phật giáo lại cho hoàn toàn. (Tr.19-Q.1)
3/ - Chúa cứu thế đã đến với các con. Người đã phải
chịu đổ máu Thánh để chuộc tội cho loài người. Trong 2000 năm nữa vắng mặt
người các con làm gì hữu ích ? Các con truyền bá Đạo Người nhưng chính các con
cũng không hiểu chi cả. Các con lại làm sai lạc bản chất tôn chỉ của nền Thánh
giáo, nhân loại phải chịu đau khổ vì sự biến thể của các Thánh tông đồ. (Tr.120-Q.1)
4/- La Sainte doctrine du Christiannisme ne sert qu’à envenimer l’ambition
des fort contre les derniers.
Il faut une nouvelle doctrine capable de maintenir l’humanité dans l’amour
des créetures. (Tr.46-Q.1)
Dịch : Thánh Đạo của Chúa cứu thế (vì sự hiểu lầm) làm tăng gia dục vọng của
kẻ mạnh đối với người yếu thế và giúp giáo cho bọn trên hiếp dưới.
Phải có một giáo lý mới mẻ đủ khả năng kiềm chế
nhơn loại trong sự thương xót chúng sanh. (Tr.121-Q.1)
5/ - Cette doctrine eu lieu d’apporter à l’humanité la paixet la concorde,
lui apporte la dissension et la guerre. Voi là pourquoi je viensvous apporter
moi-même la paix tant promise. (Tr.23-Q.1)
Dịch : Giáo lý ấy đáng lẽ phải đem lại hòa bình và tương ái cho loài người,
nhưng trái lại nó gây mầm chia rẽ và chiến tranh. Bởi thế nên nay chính thầy
phải đến để đem lại cho các con nền hòa bình đã từng hứa hẹn. (Tr.120-Q.1)
6/ - Người sống trên thế gian này dầu thuộc giống
dân nào cũng chỉ có một cha chung mà thôi. Aáy là Trời, đang chế ngự số mạng
của các con. Tại sao các con lại chia rẽ nhau vì sự bất đồng Đạo lý mà chính
các con đều phải chung chịu đau khổ rửa tội của các con ở cõi thế gian này.
(Tr.123-Q.1)
VII/ - Thờ Tự Và Tế Lễ :
1/ - Lạy là gì ?
Là tỏ ra bề ngoài lễ kính trong lòng. (Tr.11-Q.1)
2/ - Khi bái lễ, hai tay co chắp lại, song phải để
tay trái ấn tý, tay mặt ngửa ra nằm dưới, tay trái chụp lên trên.
Chắp hai tay lạy là tại sao ?
Tả là Nhựt, Hữu là Nguyệt, vị chi Aâm Dương, Aâm
Dương hiệp nhứt, phát khởi càn khôn. Sanh sanh hóa hóa tức là Đạo. (Tr.11-Q.1)
3/ - Thầy lập Phật giáo vừa khi khai Thiên lập Địa
nên Phật giáo là trước, kế Tiên giáo rồi mới tới Nho giáo. Nay là hạ ngươn hầu
mãn, phải phục lại như buổi đầu nên phải phản tiền vi hậu.
Tỉ như lập Tam giáo qui nhứt thì :
Nho là trước
Lão là
giữa
Thích là chót
Nên Thầy phải ngồi sau chư Phật, Tiên, Thánh, Thần mà đưa chúng nó lại vô vi
chi khí, chính là Niết Bàn đó vậy. (Tr.48-Q.1)
Thầy dặn các con như đàn nội chẳng nghiêm, Thầy
không giáng. (Tr.51-Q.1)
5/ - Thiên phong là là để cho bậc Thánh, Tiên, Phật lìa trần phải lắm dày công
cùng chúng sanh mới trông mong hồi cựu phẩm đặng. (Tr.40-Q.2)
VIII/ - Hạnh Người Tu :
1/- Thầy buộc các con phải trường trai mới đặng
luyện Đạo. (Tr.30-Q.1)
2/- Một giọt máu là một khối chơn linh. Như các con
dâm quá độ thì sát mạng chơn linh ấy. Khi các con thoát xác thì nó đến tại
Nghiệt-Đài mà kiện các con. Các con chẳng hề chối tội cho đặng.
Vậy phải giữ gìn giới cấm ấy cho lắm. (Tr.33-Q.1)
Hạnh ngay thật là nét yêu dấu của Thầy. (Tr.10-Q.2)
3/- Các con phải cẩn ngôn, cẩn hạnh, thà là các con
làm tội mà chịu tội cho đành, hơn là các con dối mà phải trọng hình đồng thể.
(Tr.66-Q.2)
Nho
nhã con tua tập tánh tình,
Dưới
đời đừng tưởng một mình lanh.
Một
câu thất đức thiên niên đọa,
Nhiều
nỗi trầm luân bởi ngọn ngành.
(Tr.112-Q.1)
4/ - Hạnh khiêm nhường là hạnh của mỗi đứa con, phải noi theo gương Thầy mới
độ rỗi thiên hạ đặng. Các con phải khiêm nhường sao cho bằng Thầy. (Tr.41-Q.1)
5/- Các con hiền mà các con dữ, các con yếu mà các
con mạnh, các con nhỏ nhoi mà là quyền thế, các con nhịn nhục mà là hành phạt,
cử chỉ các con khá tập sao cho nghịch với cử chỉ thế tình thì là gần ngôi Tiên
Phật đó.
6/- Các con phải giữ gìn đức hạnh đối với kẻ trên
bằng chữ khiêm hòa, đối với kẻ dưới bằng chữ khoan dung. (Tr.95-Q.1)
7/- Chẳng những phải cứu trợ kẻ ngoại đạo mà lại
cứu kẻ nghịch cùng mình trong cơn nguy nữa. (Tr.93-Q.2)
8/- Phải dồi lòng trong sạch, lấy sự nhẫn nhịn làm
gương soi mình hằng bữa, phải thương yêu nhau, giúp đỡ nhau dường như con một
nhà, rồi cái thương yêu sự giúp đỡ nhau ấy sẽ dìu các con vào tận chốn Cực Lạc
thiêng liêng để tránh khỏi nơi cùng khổ tiều tụy. (Tr.14-Q.2)
Quyền biến dầu dùng khi buổi ngặt
Dằn lòng nhớ tránh kế mưu gian. (Tr.15-Q.1)
9/- Sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn
thế giới. Có thương yêu nhơn loại mới hòa bình, càn khôn mới anh tịnh.
10/- Các con thường để mắt dòm lên thấy kẻ cao sang
thì các con cho rằng các con vô phúc, còn nhìn xuống thấy đồng chủng thấp hèn
thì các con lại đem lòng khinh bạc. Aáy là một điều vô Đạo. (Tr.94-Q.1)
11/- Các con đã rõ Đạo thì phải biết đức cần kiệm
là đức hạnh đầu trong lúc các con còn ở thế gian này. Những sự lãng phí se sua
ở đời này Thầy cũng cho là một việc tổn đức vậy. (Tr.48-Q.1)
Mình Thánh mình Hiền mình biết lấy
Tặng phong quá tiếng chớ nhờ ai. (Tr.111-Q.1)
12/- Các con thương mến nhau, dìu dắt nhau, chia
vui sớt nhọc nhau, ấy là các con hiến cho Thầy một sự vui ve đó. (Tr.90-Q.1)
13/- Đạo tại lòng bác ái và chí thành.
Bác ái là hay thương xót sanh linh hơn thân mình
cho nên kẻ có lòng bác ái coi mình nhẹ hơn mảy lông mà coi thiên hạ bằng Trời
Đất.
Còn chí thành là mỗi việc lấy lòng thành thật mà
đối đãi trong đời và trong Đạo dù kẻ phú quý đến bậc nào đi nữa mà không có
lòng bác ái và chí thành thì không làm chi nên việc. (Tr.45-Q.2)
14/- Tham gian nhập vào nhà thì nhà không chánh
giáo, tham gian nhập vào nước thì nước hết chơn trị, tham gian đã lộng toàn thế
giới thì thế giới hết Thánh Thần. (Tr.63-Q.2)
15/- Ngày nào các con còn trông thấy một điều bất
bình ở đời này thì Đạo chưa thành vậy. (Tr.98-Q.1)
IX / - Luật Phản Diện :
1/- Quỉ Vương là tay diệt hóa. (Tr.69-Q.2)
2/- Ngày nay, Đạo đã khai tức là tà khởi.
(Tr.34-Q.1)
3/- Buổi Bạch Ngọc Kinh và Lôi Aâm Tự lập pháp “Tam
kỳ phổ độ”, Quỉ Vương đã khởi phá khuấy chơn Đạo, đến danh Ta nó còn mượn, duy
ngai Ta nó chẳng dám ngồi mà thôi.
Lại còn hiểu rằng Ta đến với huyền diệu này, mượn
cơ mầu nhiệm, hiệp Tam Thập Lục Động đổi gọi Tam Thập Lục Thiên. Các bên chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật bị mạo nhận mà lập nên Tả Đạo. (Tr.38-Q.1)
Thầy nói trước cho các con biết mà giữ mình, chung
quanh các con dầu xa dầu gần, Thầy đã thả một lũ hổ lang ở lẫn lộn với các con.
(Tr.13-Q.1)
4/- Thầy thả một lũ hổ lang ở lộn cùng các con, lại
hằng ngày xúi biếu nó cắn xé các con, song Thầy cho các con mặc một bộ thiết
giáp, chúng nó chẳng hề thấy đặng là đạo đức các con. (Tr.69-Q.1)
5/- Đạo là vật rất hữu ích như giáp hữu ích cho
thân các con. Nếu các con bỏ giáp thì thân các con trần lỗ còn bỏ Đạo thì các
con ở dưới phép Tà Thần. (Tr.34-Q.1)
6/- Những sự phàm tục đều là mưu kế của tà mị yêu
quái cốt để ngăn trở bước đường Thánh Đạo của các con. Những mưu quỉắquyệt ấy
do lịnh của Thầy dùng để thử các con. (Tr.34-Q.1)
7/- Các con không Đạo thì là tôi tớ ủy mị.
(Tr.70-Q.1)
8/- Thầy đến lập cho các con một nền chơn Đạo, tức
là mỗi sự chi dối trá là chẳng phải của Thầy. (Tr.77-Q.1)
9/- Thầy đến là chủ ý để dạy cả nhơn sanh đặng hòa
bình chớ chẳng phải đến đặng giục thêm nghịch lẫn nhau. (Tr.77-Q.1)
Thầy lại thấy nhiều đứa chưa hiểu thấu huyền diệu
là gì, bị người chê rồi còn biếm nhẻ nữa phải nghịch chánh lý chăng ?
Trong phần đông các con có nhiều kẻ ấy. (Tr.45-Q.1)
2 . Đạo Đức Văn Đàn
Vào năm 1950, ông Cao Đức Trọng ( Tiếp Đạo HTĐ) tự
Huyền Quang, đạo hiệu Chánh Đức thành lập Đạo Đức Văn Đàn, tập họp các nhà làm
thơ trong Đạo. Chẳng bao lâu ông liễu đạo.
Năm 1957, ông Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu về Toà
Thánh phục vụ Đạo. Nhà thơ Thuần Đức phục hồi Đạo Đức Văn Đàn. Ông làm Trưởng
ban và ông Thông Quang Huỳnh Văn Đến ( Phối sư) làm phó ban.
Ngày 6-7-1957 ông Thuần Đức có làm bài thi, mời bạn
thơ hoạ như sau
VỀ TOÀ THÁNH HÀNH ĐẠO
Tuổi
già gặp buổi Đạo chinh nghiêng,
Đành
phải ra tay chống đỡ thuyền.
Cỡi
sóng quyết sang miền tịnh độ,
Thuận
buồm nhờ núp bóng cao thiên.
Trên
đường độ chúng vui đoàn kết,
Trong
việc tu thân Học thánh hiền.
Còn
chút hơi tàn còn nhiệm vụ.
Còn
lo phổ cập mối chơn truyền
Họa Vận
Gặp
lúc Đạo nhà cảnh đảo nghiêng,
Trở
về Thánh địa, cố “chèo thuyền”
Sóng
đồi mộng ảo tuồng trần thế
Mây
lướt an nhiên cảnh thượng thiên.
Huyền
diệu Thầy ban qua nạn khó,
Từ
ân Mẹ độ đạt chân hiền.
Nguyện
lòng gắng sức lo cho Đạo,
Tuân
thủ phò khuông Pháp Chánh Truyền,
VÂN ĐẰNG
Vì tuổi già sức yếu, nhà thơ Thuần Đức về Sài gòn dưỡng
bịnh rồi qui tiên.
Sau đó, họp đại hội bầu nhà thơ Thân Dân ( tức Hiến
Pháp Trương Hữu Đức) làm cố vấn Đạo Đức Văn Đàn và Thông Quang làm Trưởng Ban,
Chơn Nhơn Phạm Mộc Bổn làm Phó ban. Năm 1969 Thông Quang mở hội nghị và lập nội
qui mới có Tổng thư ký, thủ bổn và hai ban kiểm duyệt, ấn loát. Từ đó văn đàn
trở nên qui cũ và phát triển.
Nhà thơ Thông Quang đến nhà in Lê Thành ở Ngã Năm
để in VĂN THI HIỆP TUYỂN II, có gặp Vân Đằng, Vân Đằng tặng ông câu đối
ÐẠO ĐỨC
hanh thông truyền vạn đại
VĂN ĐÀN
khai thái thọ thiên niên
Nhà thơ Thông Quang tặng lại Vân Đằng 3 tập .thơ :
Giác Thế Tu Chơn (2 tập),Văn thi Hiệp Tuyển I.
Đạo Đức Văn Đàn vận dụng nhuần nhuyễn các thể thơ
truyền thống như song thất lục bát, lục bát, nhất là thơ Đường ( xem Thánh Địa
Thập Nhị Cảnh, phụ trang ĐĐSC IV).
Nhờ lấy cảm hứng từ Tam giáo nên nhà Đường nổi lên
thi Tiên (Lý Thái Bạch), thi Phật ( Vương Duy) và thi Thánh ( Đỗ Phủ). Lý Thái
bạch là thi Tiên không vì phong cách tuyệt vời bay bổng mà còn do tài năng siêu
phàm. Toàn huyết quản của Trích Tiên là thơ. Chính Đức Lý đã đưa thơ Đường luật
vào Thánh giáo của Đạo Cao Đài và trở thành Thánh thi. Cho nên, đạo hữu khi đọc
Kinh, đọc Thánh ngôn nhập tâm, vô hình trung thích viết thơ đường luật.
Tại sao chọn Đường luật làm Thánh thi, thứ nhứt,
Đường luật coi trọng sự hài hoà cân đối qua sáu nguyên tắc của luật thi : niêm,
luật, vần, đối, tiết tấu và bố cục. Thứ hai, Đường luật kín đáo,chừng mực hài
hoà giữa văn ( cái bên ngoài) và chất ( cái bên trong). Khổng Tử nói “Văn chất
bân bân”. Thơ văn tươi tốt sẽ chung sức khí thiêng sông núi và sự lên men của
tâm hồn. Thứ ba, trong thơ Đường luật, âm thanh thường là tiếng chuông chùa xa.
“ dạ bán chung thanh đáo khách thuyền”… làm thức tỉnh lòng người. Đỉnh cao của
thơ là Đạo. Thơ thường chỉ gợi chớ không nghị luận, không nói rõ ý mà tuỳ người
đọc luận ra Thánh ý. Điểm đặc sắc nữa là Đường thi ít thấy “ cái tôi” trong đó.
Phong trào phát triển thơ rộng khắp trong vùng tạo
thành nếp “Văn hoá truyền thống Thánh Địa” nhà bạn thơ nào có lễ quan hôn tang
tế, gởi thơ mời các bạn thơ đều đáp ứng nồng nhiệt.
- Quan : thăng phẩm, bổ nhậm, lên lương, thi đỗ thì
dùng chúc thi.
- Hôn : cưới hỏi thì dùng hỉ thi có chút men tếu
của rượu.
- Tang : chia buồn tang chủ thì dùng điếu
thi
- Tế : đáo tuế, thượng
thọ, an vị, đại tường thì dùng chúc thi.
Bốn lễ trên, lễ hội nào
cũng có hai phần : nghi lễ trước rồi hội thơ sau, chen giữa hai phần đó có phần
ẩm thực vui vẻ.
Ví dụ : Lễ mừng thượng thọ. Trước hết là nghi lễ
dâng cơm rượu trà cho cụ ông cụ bà. Kế đến là tiệc sau cùng mới hội thơ.
Thường thì gia chủ gởi bài xướng trước, các bạn thơ
họa theo. Đến lúc hội thơ, có người ngâm thơ,có bạn đàn tranh, đàn kìm, sáo
trúc hoà theo thật là văn minh, tao nhã. Nhất là đối với người trung niên, cao
niên có dịp đưa hồn theo lời thơ tiếng sáo, lòng lâng lâng nhẹ nhõm, liều thuốc
giải cứu cơn sầu.
Sau đó, gia chủ tập hợp các thơ xướng hoạ lại, in
thành tập thơ xinh xắn gởi tặng lại các bạn thơ. Những phong cách đó trở thành
cái nếp, tặng qua tặng lại cho vừa lòng nhau.
3 . Thơ lục bát trong lịch
Đại Đạo:
Trên các tờ lịch Đại Đạo ngày xưa đều có in các câu
danh ngôn hoặc thơ lục bát, ý nghĩa thâm sâu :
- Nói về việc xây dựng Đền Thánh :
Thầy
tôi bắt gió nắn hình
Không
tiền xây dựng tổ đình nguy nga
- Nói về cơm chay của trai đường :
Đã
quen dưa muối tương rau
Dù
đem bơ sữa thay vào không ưa.
- Nói về các chức sắc phế Đạo hành Đời:
Mão
ai máng nhánh rừng Tiên (nhiên)
Của
người bỏ đạo vì tiền chớ ai.
- Nói về Bàu Cà Na :
Bàu
Ca Na có nhiều trái
Tháo
lòng chuyển dạ hái nhai hết liền
- Nói về người đạo hữu chưa vững đức tin :
Quyết
lòng theo Đạo lập công
Còn e lúc thác long đong linh hồn (?)
Những câu lục bát trên
đầy ý nghĩa răn đời. Rất tiếc người viết chỉ còn nhớ bấy nhiêu thôi.
PHẦN THỨ HAI
CHƯƠNG II
NGHỆ
THUẬT
TIẾT
1 : LỄ NHẠC
1 . Âm hưởng của lễ nhạc
truyền thống :
Ngay từ đầu mới lập Đạo, vị Tiếp lễ nhạc quân Cao
Mỹ Ngọc đã viết :
“ Lễ là một việc rất trong hệ, vì là cái thể của
nền Đạo phô bài ra trước mặt mọi người…
“ Nhạc cũng là một việc cần yếu vì là phương làm
cho đầm ấm tao nhã cốt để dìu dẫn giúp cho thành Lễ,vì cái thức phù ba của
giọng đờn mà làm cho ta yên tĩnh,thiền tâm vọng cầu các Đấng.”
Nhạc sĩ Trần Văn Khê phân tích tiếng đờn theo Dịch
lý như sau :
Người Việt Nam luôn tuân theo nguyên tắc của Dịch
lý là mọi sự việc đều thay đổi,có động có biến, nhưng không thay đổi đến mức
biến dạng mà vẫn giữ được những điểm căn bản, nghĩa là phải có những điểm bất
dịch. Mỗi giờ phút trôi qua trong con người đều có sự thay đổi, tuy nhân dạng
vẫn vậy nhưng bao nhiêu tế bào đã chết đi và bao nhiêu tế bào được sinh ra, đó
là biến dịch. Từ chữ đờn đến cách đờn của Việt Nam đều có biến dịch theo nguyên
tắc về mỹ học của chúng ta là chân, phương, hoa, lá. Chân là đúng sự thật,
phương là vuông vắn, khi học phải theo đúng cơ bản nhưng khi biểu diễn thì từ
nét nhạc tới tiết tấu phải thêm hoa thêm lá. Còn những yếu tố bất dịch là lòng
bản không được thay đổi, trong khi câu nhạc đờn theolòng bản lại được phép thay
đổi, chứng tỏ nét nhạc linh động nhưng không làm mất điểm cơ bản đúng theo
nguyên tắc biến dịch và bất dịch.
Rồi khi đờn với người khác lại phải thay đổi câu nhạc
cho phù hợp với nhau, chẳng hạn như khi đờn tỳ hoà với đờn nguyệt thì đờn
nguyệt theo nhịp nội và đờn tỳ theo nhịp ngoại để có thể nghe được cả hai tiếng
đờn: đó chính là giao dịch nghĩa là thay đổi khi giao lưu với người khác.
Cả ba nguyên tắc trong Dịch lý đều có trong cách
biểu diễn đờn của Việt Nam mà rõ nét nhứt là trong ca nhạc tài tử theo truyền
thống miền Nam, làm cho tiếng nhạc của chúng ta tuy cũ mà vẫn mới vì luôn luôn
thay đổi. Ngoài ra còn có ứng tác ứng tấu, tức là cóthêm câu rao mở đầu trước
khi đờn. Câu rao của mỗi người mỗi khác vì nó diễn tả tâm trạng của người đờn
mà cũng để chỉnh dây đờn, đồng thời đưa ra những nét nhạc chánh dẫn người nghe
vào trong “hơi”, trong “điệu” để người nghe có được ý niệm về bản nhạc sắp
trình diễn.
2 . Qui định về Lễ sĩ, giáo
nhi và Bộ nhạc :
Trong thời gian kiêm nhiệm chưởng quản Nhị Hữu Hình
đài, Đức Ngài chăm lo mọi mặt, không những cho chức sắc, chức việc mà còn ưu ái
mọi nhân viên công quả. Dưới đây là sắc lịnh 15/SL về Lễ sĩ và Giáo Nhi và
Thánh Lịnh 25 về Bộ Nhạc .
SẮC
LỊNH 51/SL
Nghĩ vì Tân Kinh là kinh tận độ đã ra nên cần nhứt
phải có Lễ sĩ, Giáo nhi dạy mấy em đồng nhi cho thành thuộc phòng độ rỗi phần
linh hồn cho con cái Đức Chí Tôn khắp các nơi, mà phướn (?) Đạo đã đủ huyền vi
che chở;
Nghĩ vì Hội Thánh mong mỏi mở rộng con đường Thánh
đức cho đoàn hậu tấn bước vào hàng Thánh thể của Đức Chí Tôn đặng lập vị;
Nghĩ vì mấy em Đồng nhi từ 11 năm mở Đạo đến nay
trưởng thành, nên buộc Hội Thánh định phần phong thưởng công nghiệp, nên :
SẮC
LỊNH
Từ đây mở khoa mục các năm cho Lễ sĩ và Giáo nhi
thi cử.
Lễ sĩ : Thì mặt kinh luật của Đạo về phần Quan Hôn,
Tang Tế, nhứt là Lễ Nhạc. Buộc Lễ sĩ cho biết một món đờn trong mấy món âm nhạc
Tam, Tiêu, Tranh, Đản, Kìm, Tỳ, Cò, Độc.
Giáo nhi : Phải thuộc lòng Tân Kinh và cũng phải
thuộc một món âm nhạc như Lễ Sĩ. Những đồng nhi nam nữ có đủ giây chứng Toà
Thánh lớn hơn hai mươi tuổi mới đặng thi Lễ sĩ và Giáo nhi và phải biết viết,
biết đọc chữ quốc ngữ.
Mỗi năm mở khoa thi ngày 15 tháng 10 tại Toà Thánh.
Hội Thánh chia ra hai thứ Lễ sĩ và Giáo nhi.
1. Thi đậu Lễ sĩ và Giáo nhi hiến thân trọn đời cho
Hội Thánh, nhứt là Giáo nhi tuy đã tuyên thệ thủ trinh hành Đạo, thì sẽ đặng
thuyên bổ hành chánh trong các Thánh Thất, bất cứ là nơi nào kể năm năm công nghiệp
thì thăng vị khỏi cầu phong.
Lại nữa, Lễ sĩ và Giáo nhi nầy trên quyền Chánh Trị
Sự và dưới quyền Lễ sanh, nhưng về mặt Lễ Nhạc Quan, Hôn, Tang, Tế mà thôi, chớ
không đặng dự về mặt chánh trị hay là luật pháp của Toà Đạo.
2. Là hàng Lễ sĩ và Giáo nhi còn ở lại gia đình,
nhứt là Giáo nhi có chồng con, theo thế không đặng vào Thánh thất nào mà hành
sự hết, duy hành sự nơi xóm làng của mình mà thôi, lại buộc mỗi năm phải dạy ít
nữa là trên ba mươi sáu vị Đồng nhi, Lễ sĩ thì dạy nam, còn Giáo nhi thì dạy
nữ, chớ không đặng dạy lộn xộn nam nữ chung nhau.
Cấm nhặc Lễ sĩ không đặng dạy Đồng nhi nữ. Nếu mỗi
năm một phái Chức sắc, Chức việc sở tại nói rằng dạy thiếu, không đi hành Đạo
thì ngưng chức liền.
Hội Thánh không cần minh tra lại nữa, hạng nầy tùng
quyền Chánh Trị Sự về Quan, Hôn, Tang , Tế mà thôi chớ không đặng dự vào chánh
trị và luật pháp Toà Đạo, tám năm công nghiệp đổ lên mới đặng cầu phong vào
hàng Lễ sanh, nhưng do nơi tờ yêu cầu của Chức sắc và Chức việc sở tại mới
đặng.
Lễ sĩ ăn mặc : Như Lễ sanh nam phái, nhưng trên mão
ngang trán có tam sắc Đạo và Cổ Pháp của Giáo Tông là : Thư Hùng Kiếm, Long Tu
Phiến, và Cây Phất Chủ thêu trên.
Giáo nhi ăn mặc : Đại phục như Lễ sanh nữ phái,
nhưng không đặng vắt bông sen trên đầu tóc, còn tiểu phục cũng vậy, nhưng trước
ngực có choàng một tấm choàng đen.
Kiểu y phục này do nơi Sở may Linh Đức may cho các
Lễ sĩ và Giáo nhi đương thời hành Đạo trong Hội Thánh và có tờ yêu cầu công
nhận chánh thể rồi.
Hội Thánh cấm nhặc không ai đặng xưng danh Lễ sĩ và
Giáo nhi nếu không có khoa mục cấp bằng của Toà Thánh ban cho đủ lẽ.
Khai Pháp, Tiếp Đạo, Tiếp Thế Hiệp Thiên Đài, Qu.
Thái, Thượng, Ngọc Chánh Phối Sư, Nữ Chánh Phối Sư và Chủ Trưởng Hội Thánh
Ngoại Giáo tuỳ phận sự thi hành Thánh Lịnh này.
Lập tại Toà Thánh, ngày
mồng 9 tháng 11 Bính Tý
( 22 Décembre 1936)
CHƯỞNG QUẢN NHỊ HỮU HÌNH
ĐÀI
HIỆP THIÊN và CỬU TRÙNG
(ấn ký)
THÁNH
LỊNH SỐ 25/TL
HỘ
PHÁP
CHƯỞNG
QUÂN NHỊ HỮU HÌNH ĐÀI
HIỆP
THIÊN và CỬU TRÙNG
Chiếu y Tân Luật và Pháp Chánh Truyền
Chiếu y Đạo Luật ngày 16 tháng Giêng năm Mậu Dần
(15-2-1938) giao quyền thống nhứt chánh trị đạo cho Hộ Pháp nắm giữ cho đến
ngày có Đầu sư chánh vị.
Chiếu y sắc lịnh số 51 ngày mùng 9 tháng 11 Bính Tý
(22-12-1936) định phần phong thưởng cho Lễ sĩ và Giáo nhi đầy đủ năm năm công
nghiệp :
Nghĩa vì Ban Lễ đã định phận thì Bộ Nhạc cũng được
hưởng đặc ân của Hội Thánh đặng tiến bước lập vị, nên :
THÁNH
LỊNH
Điều thứ nhứt : Trong Bộ Nhạc của Toà Thánh có chín
phẩm ân phong như sau đây :
Nhạc sĩ
Bếp nhạc
Cai nhạc
Đội nhạc
Quản nhạc
Lãnh nhạc
Đề nhạc
Đốc nhạc
Điều thứ hai : Bộ Nhạc chuyên chú về tài năng nghệ
thuật thì từ hạ phẩm dẫn thượng phẩm mỗi cấp cókhoa mục đặng tuyển chọn danh
nhơn để điều khiển nội ban
Trong mỗi kỳ khoa mục, vị nào đủ tài ứng thí thì xin
thi và mỗi khi thi đậu là mỗi lần được thăng phẩm, nhưng không được xin ứng thí
vượt bậc.
Điều thứ ba : Nếu thi rớt thì không đủ tài, phải ở
lại phẩm cũ cho đủ năm năm công nghiệp mới được cầu ân phong.
Phẩm Nhạc sư đủ năm năm công nghiệp thì thăng lên
Phối sư hay là Tiếp Lễ Nhạc Quân, nếu có khuyết.
Điều thứ tư : Chín phẩm trong Bộ Nhạc đối với chín
phẩm của Hiệp Thiên Đài hay bậc phẩm khác của Cửu Trùng Đài và Phước Thiện như
sau nầy :
Điều thứ năm : Chư vị Bảo Thế Tổng Thơ ký Chánh Trị
Đạo, Khai Pháp Chưởng Quản Bộ Pháp Chánh, Quyền Ngọc Chánh Phối Sư, Thượng
Thống Lại Viện, Đạo Nhơn Chưởng Quản Phước Thiện, Nhạc sư Bộ Nhạc, các tư kỳ
phận, lãnh thi hành Thánh lịnh này.
Toà Thánh, ngày 29 tháng 3
Tân Mão
(Dl 4-5-1951)
Hộ Pháp
(ấn ký)
3 . Lễ khánh thành Học đường
bộ nhạc :
Nhạc lễ đóng một vai trò hết sức quan trọng trong
đời sống tôn giáo Cao Đài.
Nhạc lễ là hàng đầu phải giữ gìn bản sắc văn hoá
đặc biệt của tế lễ trời đất và nhân sanh. Bộ nhạc có từ khi có đạo. ngày 25
tháng 10 Mậu Thân (dl 14-12-1968) chỉ là lễ khánh thành ngôi trường nhạc lễ với
xi măng cốt sắt.
Đức Thượng Sanh đến dự lễ tại trường (trước Bắc
Tông Đạo) và ban huấn từ như sau :
“Hôm nay, tôi lấy làm hân hạnh đến Chủ toạ buổi lễ
khánh thành ngôi Học đường của Bộ Nhạc Trung Ương.
Nghĩ đến công cuộc kiến tạo mà Bộ Nhạc Trung Ương
phải tự túc để hoàn thành, tôi ý thức đến nỗi khó khăn cũng như sự nỗ lực của
toàn thể Chức sắc Bộ nhạc đã đồng tâm nhứt trí mới đi đến thành công mỹ mãn.
Nhơn danh Hội Thánh Hiệp Thiên Đài, tôi xin để lời
khen ngợi vị Chưởng quản Bộ Nhạc Trung Ương và tất cả Chức sắc Bộ Nhạc.
Đáng lẽ Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Hội Thánh Phước
Thiện phải chia nhau đài thọ số phí tổn kiến tạo cơ sở cần thiết cho Bộ Nhạc, vì
Nhạc là Lễ là hai môn phục vụ cho Đạo, chung cả Hành Chánh và Phước Thiện.
Ở trong tình trạng phải tự túc, Chức sắc Bộ Nhạc
cam lòng hy sinh đa thiểu tuỳ theo sức mình, ngoài ra còn nhờ sự đóng góp của
các nhà hảo tâm trong Đạo, cuộc kiến thiết mới được hoàn thất như chúng ta đã
thấy.
Cho hay “ Hữu chí cánh thành”, sở nguyện và cuơng
quyết của Chư Chức sắc Bộ Nhạc đã nung đúc thành khối kiên tâm cứng rắn thì dù
khó khăn bao nhiêu cũng có thể san bằng để đi tới chỗ cứu cánh. Vì đó Nho học
có câu : “Thế thượng vô nan sự, nhơn tâm tự bất kiên” có nghĩa trên đời không
có việc nào khó, chỉ tại người không bền lòng.
Học đường của Bộ Nhạc đã hoàn thành đó là một công
quả đáng ghi của Chức sắc Bộ Nhạc.
Giờ đây vị Chưởng Quản và Chức sắc Bộ Nhạc phải
gắng công đào luyện đàn em cho thành tài, đồng thời trau luyện Nghệ Thuật mình
cho đến chỗ tận thiện, tận mỹ, trước để phụng sự nền Đạo sau để nâng cao phẩm
giá của âm nhạc là môn nhạc rất trọng yếu của Khổng giáo.
Khi mới khai sáng nền Đạo, Đức Chí Tôn rất chú
trọng đến Nhạc và Lễ,vì cái hay của Lễ là giữ trật tự bên ngoài cái hay của
Nhạc là tạo sự điều hoà để kềm chế tâm tình bên trong cho khỏi vọng niệm. Lễ và
Nhạc cùng họp nhau và nếu giữ đúng nề nếp thì đàn cúng mới nghiêm chỉnh, được
bao trùm một bầu không khí huyền diệu, Thiêng liêng khiến cho chúng ta cảm tưởng
là có Đức Chí Tôn và Chư Tiên Phật giáng ngự để ban ơn cho toàn Đạo.
Trái lại nếu Lễ không nghiêm, Nhạc không hoà thì
đàn cúng có cái trạng thái hỗn loạn khiến cho người đến Lễ bái có một tâm trạng
xao xuyến, tinh thần bất định. Đó là một sự thất Lễ đối với các Đấng Thiêng
Liêng và như vậy Đức Chí Tôn không khi nào giáng Đàn, tà quái có thể thừa dịp
xung nhập gân nên điều rắc rối.
Trong nhiều Đàn cúng lúc ban sơ, Chức sắc thường bị
Đức Chí Tôn giáng cơ quở trách vì Đàn không nghiêm, Lễ Nhạc còn khuyết điểm.
Trong năm Aát Tỵ (1965) Đức Hộ Pháp cũng có giáng
cơ tại Đền Thánh dạy Chức sắc Bộ Nhạc nên trau luyện Nhạc điệu vì Nghệ thuật
còn kém. Sự kém cỏi , có lẽ một phần Nhạc sĩ thiếu tập dượt, hoặc có thụ huấn
mà chưa nhuần nhã. Tôi ước mong mỗi Chức sắc Bộ Nhạc nên lưu tâm để tự mình
trau luyện cho đúng mức độ Nghệ Thuật.
Thưởng thức một bài đờn hay như nghe một bài thi
sắc sảo, một câu đờn tao nhã có điêu luyện như một câu thi tuyệt bút có mãnh lực
gợi cảm làm cho xúc động tâm hồn.
Vì vậy, thời xưa các Đấng Đế Vương dùng Nhạc để cảm
hoá lòng người trong Đạo trị dân. Vì Nhạc có thể khiến dân trở nên thuần hậu và
có thể di phong dịch tục.
Nhạc là món ăn tinh thần đứng đầu trong bốn thú
phong lưu của Thánh hiền thời xưa là Cầm,Kỳ, Thi, Hoạ và các bậc Thánh hiền đã
dùng Nhạc để đạt đến lý tưởng cao siêu, giúp ích cho sự kinh bang tế thế, xây
dựng nước nhà.
Vì Nhạc có cái thế lực quan trọng như vậy nên Đức
Khổng Tử soạn ra bộ Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc. Về sau
Ngài làm ra bộ sách Xuân Thu,nhập với năm bộ sách trước gọi là Lục Kinh.
Sau khi Đức Khổng Tử mất, kế nhà Tần có việc đối
sách thì những Kinh ấy bị thiêu huỷ hoặc thất lạc ít nhiều.
Nhứt là Kinh Nhạc thì mất gần hết, chỉ còn lại có
một thiên, sau đem nhập vào Bộ Lễ Ký đặt tên là Thiên Nhạc Ký. Thành thử trong
sáu bộ kinh chỉ còn lại có Ngũ Kinh là Kinh Dịch, Kinh Thư, Kinh Thi, Kinh Lễ
và Kinh Xuân Thu.
Tính của Đức Khổng Tử hay ưa thích đàn và hát. Lúc
Ngài ở nước Tề ham học Nhạc Thiều, trong ba tháng say mê cho đến đổi ăn không
biết mùi vị.
Ngài nói : Ta chẳng ngờ học Nhạc vui đến được như
thế ( Bất đồ vi Nhạc chi chí ư tư giả).
Khi Ngài châu lưu khắp thiên hạ thì bên mình không
khi nào rời cây đàn Ngũ Huyền Cầm.
Quan niện của Ngài là tiếng đàn thanh nhã có thể
nâng cao tinh thần và trụ vững tâm trí siêu nhân của người quân tử. Lúc Ngài bị
vây giữa nước Tần và Sái, bảy ngày không nấu ăn, chỉ ăn rau luộc suông, các đệ
tử như Tử Lộ, Nhan Hồi, Tử Cống ...v…v…….. đều băn khoăn lo sợ cho Ngài, nhưng
Ngài vẫn ung dung ngồi đàn hát.
Chúng ta thấy rõ Thánh nhơn trọng dụng Âm nhạc như
vậy vì Âm Nhạc là một bộ môn văn hoá cao đến tuyệt độ và Nhạc Thiều có cái mạnh
lực huyền bí, cao siêu giúp dân trị nước, cải hoá xã hội.
Du Bá Nha đập nát Diêu Cầm thề không đờn nữa, vì người
bạn tri âm là Chung Tử Kỳ đã mất thì không ai còn biết nghe tiếng đờn của mình.
Khổng Minh Gia Cát mượn tiếng đờn mà lui giặc Tư Mã
Ý.
Trương Tử Phong nhờ có giọng tiêu ai oán mà trong
một đêm giải tán tám ngàn đệ tử của Sở Bá Vương tại Cửu Lý San để cho Lưu Ban
diệt được kẻ thù chung của thiên hạ, lập nên cơ nghiệp nhà Hớn hơn bốn trăm
năm.
Công dụng của Nhạc Thiều thời xưa thì cao thượng
vậy. Ngày nay người ta dùng Âm Nhạc là công cụ cho chủ nghĩa con buôn trên sân
khấu, khiến nên nhà nhạc sĩ vì kế sinh nhai phải bán rẻ tài nghệ làm cho cái
giá trị của Quốc nhạc phải bị hạ thấp đến cực điểm.
Trong cửa Đại Đạo, chúng ta phải nâng đỡ ngành Âm
Nhạc, phải bảo tồn Âm Điệu cổ truyền để lưu lại cho Đất Nước tinh hoa của một
Nghệ Thuật thuần tuý, mặc dù cái tinh hoa ấy nay chỉ còn phưởng phát chút dư
hương do sự phế cựu hoán tân của giới Nhạc Sĩ trong nước.
Đi ngược lại với trào lưu thoái bộ đó,chúng ta
không nên coi thường môn Âm Nhạc và phải cố tâm gìn giữ cái chơn giá trị của
nó.
Dù Nhạc Lễ hay Nhạc Điệu Tài Tử cổ truyền, mỗi môn
đều có cái hay riêng đặc biệt. Nếu học Nhạc dù là môn nào, phải cố gắng học đến
cùng cực uyên thâm,năng luyện tập trau giồi để càng ngày càng thêm tiến triển
mới đáng gọi là biết yêu Nghệ Thuật. Từ đây Bộ Nhạc Trung Ương đã có ngôi học
đường làm nơi đào tạo nhơn tài, Chức sắc đàn anh trong Bộ Nhạc phải ra công dìu
dắt các Nhạc Sĩ thế nào cho khỏi mang tiếng là “Hữu danh vô thực”. Với sự mong ước
nói trên, tôi xin cầu chúc Vị Chưởng Quản và Chức sắc Bộ Nhạc thành công mỹ mãn
để phục vụ cho Nghệ Thuật và cho nền Đại Đạo”.
4 . Ảnh hưởng nhạc lễ Cao
Đài :
Đức Cao Thượng Sanh và Ngài Cao Mỹ Ngọc là cặp cơ
có công đầu giảng dạy nhạc lễ cho các nhạc sinh. Trong Đạo có Bộ Lễ đào tạo các
nhạc sĩ gởi đi các Thánh Thất trong toàn quốc để lễ nhạc được đồng nhất.
Nhạc lễ của Đạo Cao Đài được hình thành theo thuyết
âm dương, ngũ hành qua các nhạc khí. Đôi trống biểu tượng âm dương , Bạc, chụp
choả là kim , mõ gõ là mộc, kèn, ống tiêu là thuỷ , đàn cò là hoả, cái bồng là
thổ. Ngũ hành tương ứng với ngũ âm là cung, thương, giốc, chủng, vũ.
Ngũ âm tương ứng với ngũ nhạc công, nên vị trí ngồi
của ban nhạc phải sắp xếp theo hình chữ ngũ .
Lễ biểu tượng cho trật tự, nhạc biểu tượng cho sự
hài hoà. Nhạc và lễ phải hoà hợp là nhờ ở trường canh và nhịp. Nói lý đạo ý
nghĩa nhạc lễ là hoà hợp mà linh hồn của sự hoà hợp là trường canh và nhịp. Đối
tượng phục vụ của lễ nhạc tế trời đất, cúng vong linh.
Khi dự lễ thời tý, khi nghe hoà đờn bài “ Ngũ đối
hạ”, lòng ta rùng mình lắng đọng, thoang thoảng đàn nội mùi trầm hương phảng
phất. Hồn như lạc vào chốn tôn nghiêm cao khiết.
Sắc phục của các nhạc sĩ,nhạc công rất rõ ràng : y
mão đại đàn, tiểu đàn và lễ tang toàn trắng. Ai nhìn vào là thấy ngay sắc thái
riêng biệt của Đạo Cao Đài.
Trong xã hội, ảnh hưởng nhạc lễ của Đạo Cao Đài rất
rõ nét. Các nơi tổ chức giao lưu nhạc lễ, thực chất là nhạc lễ của Đạo Cao Đài
vì nòng cốt là các nhạc sĩ được bổ nhậm từ Toà Thánh về các tỉnh.
a)
Tính dân tộc của nhạc lễ Cao Đài
Giáo sư Tiến sĩ Trần Văn Khê từ nhỏ đã quen thân
với các chức sắc Đạo Cao Đài, nên giáo sư đã nghiên cứu và viết thành sách :
Encyclopédie des musiques sacrées. Paris Editions Labergerie 1968, pp 296-300 “ Le Caodaisme” par Trần Văn
Khê, Maitre de Recherche au CNRS.
Ngày 11.10.1996 khi nói chuyện về nhạc truyền thống dân tộc Việt Nam và
nhạc lễ Cao Đài tại Thánh Thất Từ Vân ( Phú Nhuận), Giáo sư Trần Văn Khê nhắc lại ít
nhiều kỉ niệm không quên trong thời hoa niên ở Tam Bình (Vĩnh Long) với Dượng Năm ( Mười Tòng) là chức sắc Cao Đài cũng như với hai nhân vật
Cao Đài khác là Nguyễn Văn Ngợi ( Ba Ngợi) và Trần Văn Quế ( Huệ Lương).
Giáo sư nói : “ Tôi viết thơ cho thầy tôi là Trần
Văn Quế, xin thầy cho biết rõ coi trong đạo Cao Đài tổ chức việc nhạc như thế
nào. Một hôm thầy tôi gởi cho tôi một bức thư trong đó có chép lại một bài cơ
bút đã giáng xuống [quy] định cho tất cả nhạc trong đạo Cao Đài. Lần đó tôi mới
giựt mình thấy tất cả nhạc Cao Đài đều do nhạc trong dân gian Việt Nam, trong
truyền thống Việt Nam đưa vào, không phải từ phương xa tới, không phải từ một
nước ngoài đi tới. Chính từ trong dân gian mà đưa ra”.
“ …Tôi biết chắc căn bản âm nhạc Cao Đài như thế
nào. Tôi mới hiểu tại sao có điệu ai, tại sao có điệu oán, tại sao có điệu xuân
(…) Tất cả các điệu nhạc lễ đều có mặt trong nghi lễ của đạo Cao Đài mà [ còn
là] âm nhạc trong phong cách nhạc lễ miền Nam Việt Nam chứ không phải miền
Trung hay miền Bắc. Tức là âm nhạc trong đạo Cao Đài dựa vào âm nhạc truyền
thống dân gian của miền Nam một cách rõ ràng.”
“(…) Tôi thấy trong âm nhạc dân gian ở miền Nam có
một câu hát ru của bà mẹ, là một bài giáo dục âm nhạc đầu tiên rót vào tiềm
thức của đứa trẻ. Cùng một lúc với dòng sữa nóng của bà mẹ nuôi cho thân thể
đứa trẻ thì một điệu nhạc dân gian, một bài thơ dângian đã rót vào trong bộ nhớ
của trẻ em để nó ghi lại trong đó làm nền tảng.
“ Lớn lên một chút rồi, muốn sáng tác một bài gì,
muốn đưa ra một điệu nhạc nào thì cái cấu trúc của câu hát ru của bà mẹ hiện
lên làm nền, để làm mẫu cho người đó sáng tác, bởi vì người đó không có học
nhạc viện, không có biết đô, rê, mi, pha, sol là cái gì hết, chỉ biết cái lời
hát ru của bà mẹ. Thì lời hát ru đó đã thể hiện ngay trong bài Niệm hương của
đạo Cao Đài.
“ Bài hát ru của bà mẹ Việt Nam là “Ầu ơi … ơ.. ơ…
ví dầu …. ầu….. cầu ván ư …. Ư … đóng đinh; cầu tre … ơ.. lắc lẻo ơ ….. gập
ghềnh …. ơ… khó đ …. Cấu trúc là hò …. Xự…. xang … ( xang già mà rung một chút)
…. Xê …. cống….Thì đó là thang âm mà tôi nghe thấy trong lời kinh Cao Đài : Đạo
….. gốc bởi … lòng thành … tín hiệp … lòng ….nương nhang …. khói tiếp …. truyền
ra … mùi hương …. lư ngọc … bay xa … kính thành … cầu nguyện ….Tiên gia … chứng
lòng … hò… xự… xang…. xê…. cống ….
“Tiếng hát ru đó hiện ra trong tiếng kinh của Cao
Đài giáo, Phật giáo (…). Tôi mới giựt mình. Hai đạo giáo đó có trên đất nước
Việt Nam từ lâu, mà lời kinh tiếng kệ lại phản ánh được tiếng hát ru của bà mẹ
: từ trong lòng của dân tộc Việt Nam mà sanh đẻ ra những nét nhạc đó. Đó là một
bằng cớ chứng tỏ rằng hai đạo giáo đó [Phật và Cao Đài] đã mật thiết liên quan
tới đời sống hàng ngày của dân tộc Việt Nam.
“ Sau đó tôi mới bắt đầu nghiên cứu thêm,mới có
được sự hiểu biết mỗi lần một chút. Do đó tôi mới thấy được tại sao mà có những
hơi xuân [ nam xuân] trong khi đọc bài Đại la Thiên đế (…). Rồi tất cả những
bài kinh đồng nhi đọc như thế nào, nhạc đánh như thế nào (…) . Tất cả làm thành
một khối âm nhạc tôn giáo rất phong phú, rất sâu sắc mà nếu không nói ra, người
trên thế giới họ không hiểu nổi chúng ta. Mà khi nói ra, người ta hiểu rồi, thì
người ta bắt đầu kính nể dân tộc Việt Nam có một nền văn hoá rất vững chắc bắt
nguồn bắt rễ từ dòng âm nhạc của Việt Nam, từ trên mảnh đất phì nhiêu của
truyền thống âm nhạc Việt Nam.”
Nhạc lễ Cao Đài thể hiện tính dân tộc, Giáo sư Trần
Văn Khê cho là cách đọc kinh theo nhịp hai.
“ Tại sao Việt Nam mình không có nhịp ba ? Là bởi
yếu tố của tiết tấu người Việt Nam mình căn cứ trong con người và môi trường
sống của dân tộc Việt Nam. Con người sinh ta thì có hơi thở, thở vào thở ra
[nhịp hai]. Có trái tim đập hai nhịp. Trái tim đập ba nhịp là đau rồi (…) Cái
tướng đi đánh đòng xa cũng hai nhịp. Con người thể hiện ra nhịp hai. Mẹ sinh ra
đưa vào cái nôi, cái nôi kẽo cà kẽo kẹt, đưa qua đưa lại, là nhịp hai. Cây tre
đầu làng phất phơ theo gió, là nhịp hai. Thuỷ triều lên xuống, là nhịp hai. Con
sông nước lớn nước ròng, là nhịp ha. [Vậy] thì tất cả con người và môi trường
trong đó người Việt Nam thể hiện ra nhịp hai rất nhiều. ( Tạp chí Xưa và Nay số
66B).
b)
Nhạc lễ Cao Đài chuyển thể Tân nhạc :
Hòn vọng phu đã sớm đưa Lê Thương ( 1914-1996) vào
hàng những nhạc sĩ tài danh của Việt Nam. Rất ít người biết rằng một phần của
trường ca bất hủ ấy đã chịu ảnh hưởng của nhạc lễ Cao Đài.
“ Sau khi hoàn tất nhạc phẩm Hòn Vọng Phu I,tôi nhờ
nhạc sĩ Lưu Hữu Phước đưa ra Bắc phổ biến hồi năm 1945. Vào năm 1946, tôi đang
sống trong vùng kháng chiến, tiếp tục sáng tác bài Ai xuôi vạn lý tức là Hòn
Vọng Phu II…
“ Tôi sáng tác Ai xuôi vạn lý đang thời kháng Pháp.
Tôi len lỏi trong vùng Chẹt Sậy nằm ven cửa biển An Hoá , Bình Đại, tỉnh Bến
Tre. Đó là thời tuổi trẻ luân lạc nhất của đời tôi. Nhiều trận giặc Pháp ruồng
bố, tôi chạy theo gia đình ông Đầu tộc đạo Cao Đài trong vùng Chẹt Sậy.
“Tôi sáng tác Ai xuôi vạn lý lúc đang ăn gửi nằm
nhờ trong gia đình đạo Cao Đài, sau khi tôi đau sắp chết cho nên trong nhạc
phẩm này có những câu trối trăn rất đỗi bi quan : Thôi, đứng đợi làm chi. Thời
gian có hứa mấy khi, sẽ đem đến trả đúng kỳ. Những người mang mệnh biệt ly.
“(…) tôi cũng xin nói về thêm âm giai trong bài Ai
xuôi vạn lý này có âm hưởng kinh Cao Đài, mà trong thời gian tôi tá túc gia đình
ông Đầu tộc Cao Đài, sớm tối nghe giọng tụng kinh, và lời thuyết giáo (…) đã
thấm vào tôi lúc nào không hay. Đến khi tìm giai điệu thể hiện Ai xuôi vạn lý
thì âm hưởng trầm bổng của hơn nhạc lễ trong kinh Cao Đài đã lồng vào đoạn nhạc
mở đầu (introduction) một giai điệu trầm bổng buồn buồn : Phá rê, rê, phà phá.
Phá rê, rê đồ rê phá là (…) Rề, pha xôn là phe, xôn rề. Rồi lời ca và tiết điệu
như âm hưởng những lời rao giảng : Đá mòn chưa hồn chưa mòn giấc mơ. Có đám mây
trên đồi, sống trong trong mơ hồ. Ngày nào tròn trăng, lại nhớ đến tích xưa.
Khi tướng quân qua đồi, kéo quân, quân theo cờ; Đoàn cỏ cây hãy còn trẻ thơ.
Cho đến bây giờ, đã thành đoàn cổ thụ già. Mà chờ người đi mất từ ngàn xưa.
Nàng đứng ôm con xem chàng về hay chưa ?”
Nhạc sĩ Lê Thương với tâm hồn dân tộc, thể hiện
trong sáng tác tình dân tộc bằng gian điệu Việt Nam qua trường ca Hòn Vọng Phu.
Do hoàn cảnh lịch sữ, ông có dịp gần gũi, tiếp cận nhạc lễ Cao Đài, tâm hồn dân
tộc trong Lê Thương và tính dân tộc trong Cao Đài đã cùng nhau hoà điệu. Aûnh hưởng
sâu sắc này lắng đọng trong tiềm thức, để đến khi sáng tác Ai xuôi vạn lý, ở
khoảnh khắc nào đó rất tự nhiên, cái hồn dân tộc trong giai điệu Cao Đài đã phả
sinh lực vào hồn nhạc Ai xuôi vạn lý, và Lê Thương đã lưu lại cho đời một kiệt
tác bất hủ còn rung động mãi lòng ai nặng tình quê hương đất nước ( Tạp Chí Xưa
và Nay số 63B).
TIẾT
2 : BAN KIẾN TRÚC
1 . Quá trình thành lập Ban Kiến Trúc
2 . Kiến trúc Toà Thành tiêu biểu cho ngành nghệ thuật, mỹ thuật đạo Cao Đài
3 . Đặc trương và nghệ thuật Cao Đài
4 . Ảnh hưởng văn hoá nghệ thuật truyền thống
5 . Triết lý kiến trúc Toà Thánh
6 . Đạo Cao Đài là tôn giáo khoa học
7 . Danh vị cơ quan tạo tác
1 . Quá trình thành lập Ban
Kiến Trúc
Đền Thánh khởi sự xây cất từ năm 1927 qua nhiều
thời kỳ thăng trầm. Nhưng mãi đến năm 1936, Đức Phạm Hộ Pháp chính thức đứng ra
lãnh trách nhiệm xây dựng Đền Thánh. Từ đó Ban Kiến Trúc mới manh nha hình
thành (Xem danh vị cơ quan tạo tác).
Khởi đầu Đức Ngài giao cho Tá lý đắp vẽ Bùi Aùi
Thoại lo tạo tác Báo Ân Từ cho khang trang để di dời quả Càn Khôn về thờ tạm.
Mặt khác, Đức Ngài giao cho Tá lý Lê Văn Bàng xây dựng Đền Thánh.
Theo Vi bằng giao lãnh ngày mồng 3 tháng Giêng năm
Đinh Hợi (24-01-1947) giữa Hội Thánh và Ban Kiến Trúc gồm có Tổng giám Lê Văn
Bàng, 22 Tá lý nam, 7 Tá lý nữ và 500 nhân công : thợ hồ, thợ đúc, thợ mộc, thợ
sơn, thợ vẽ. Họ là những dân đạo ở Lục Tỉnh và Nam Trung phần về Toà Thánh làm
công quả thuộc thành phần nhân công lao động. Chẳng hạn Tổng giám Lê Văn Bàng
người tỉnh Rạch Giá, còn Tá lý đắp vẽ Bùi Aùi Thoại (sau thăng lên Phối Thánh)
người Cái Bè tỉnh Mỹ Tho. Ông đã tạc tượng các Đấng Giáo Chủ Phật,Thánh, Tiên,
Hiền bên trong và bên ngoài Đền Thánh .
Các pho tượng ông Thiện, ông Aùc, Đức Quyền Giáo
Tông, bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh, tượng Đức Cao Thượng Phẩm, các sự tích quanh
Lao động đài (bao lơn trước Đền Thánh) : Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều,
Canh, Mục. Trên nóc Hiệp Thiên Đài đắp tượng Đức Di Lạc, Bát Quái Đài đắp tượng
Tam Thế Phật và Cửu Trùng Đài tạo hình Long Mã chạy trên quả địa cầu đều do ông
Thoại đắp nổi.
Tượng Đức Di Lạc gương mặt phúc hậu,mắt nình thẳng
nghiêm trang, thân lồng trong áo Đạo,toạ thiền trên lưng con cọp, tượng trưng
năm Đạo khai mà Ngài là người cầm cân nẩy mực tuyển ngôi Phật.
Tất cả những tranh đắp vẽ này đều là sản phẩm của
cái nhìn bình dân, biểu hiện bằng kinh nghiệm được tích tụ qua nhiều đời.
Nói một cách khác, nghề thợ hồ, thợ mộc ở đây không
có trường dạy. Người trước thành thạo dẫn dắt người sau. Các lớp trẻ được di
truyền và nhiều em có năng khiếu đặc biệt giúp cho ngành mỹ thuật càng hoàn
thiện. Khi trở thành bậc thợ chánh chỉ dẫn lại đàn em, cứ thế tiếp nối xây dựng
Thánh Thất, đền điện.
Dù làm công quả nhưng lại thể hiện tinh thần, trách
nhiệm cao cả và cần cù không chấp nhận một điều gì cẩu thả, buông thùa. Nếu
thiếu tinh thần vì Thầy vì Đạo, chắc chắn toàn Đạo không thấy được Toà Thánh
hoành tráng và mỹ lệ như ngày nay.
2 . Kiến trúc Toà Thánh tiêu
biểu cho ngành nghệ thuật, mỹ thuật của Đạo Cao Đài :
Vào đầu thế kỷ XX về sau do kinh tế thương mại tràn
lan vào cõi linh thiêng với ý nghĩa “Thánh một cân, trần một yến”, các thợ hồ
đã dùng xi măng,sắt thép, sành sứ, thuỷ tinh để xây dựng và tô điểm cho Đền
Thánh.
Kiểu dáng Toà Thánh là sự phối hợp hài hoà của các
nền kiến trúc của các nền tôn giáo thế giới. Đền Thánh tạo hình chữ SƠN ( ) nhìn
từ trên xuống, nếu nhìn từ mặt trước hai lầu chuông cao ngất như tháp chuông
nhà thờ, tượng hình chữ NIỆM ( ) chỉ thế kỷ thứ XX (vì niệm chữ Hán có nghĩa là
hai mươi)
Giữa hai tháp chuông trống đắp tượng Phật Di Lạc
ngự trên lưng con cọp với những mái ngói đỏ cong cong trùng điệp phảng phất hình
dáng các chùa Phật ở Trung Hoa.
Nơi Nghinh Phong Đài (phía trên cao Cửu Trùng Đài )
thì bên dưới xây hình vuông, bên trên tạc hình tròn gợi cho ta hình ảnh Trời
tròn đất vuông trong Kinh Dịch.
Trên nóc Bát Quái Đài có tạc 3 pho tượng thần Đạo
Bà La Môn là Brahma, Shiva, Christna.
Những kiến trúc đó thể hiện tôn chỉ của Đạo Cao Đài
“Tam Giáo qui nguyên, ngũ chi phục nhứt”
Đền Thánh được xây dựng bằng công sức của nhân dân
lao động với sự chỉ đạo của thợ hồ Phạm Công Tắc không do một kỹ sư kiến trúc
nào, dù năm 1933 có bác vật Phan Hiếu Kinh lên Toà Thánh xem qua rồi trở về Sài
Gòn. Trong tình thế ngân khoản eo hẹp, thầy thợ “bắt gió nắm hình” xây dựng Đền
Thánh từng bước, khác hơn và nhỏ hơn hoạ đồ của Đức Lý Giáo Tông. Trong hoạ đồ
trước ngang dọc cao thấp cộng lại đều bằng chín (tức Cửu Thiên Khai Hoá).
Theo lời giáng dạy của Đức Lý Giáo Tông thì hoạ đồ
xây cất Toà Thánh do Đức Lý vẽ theo kiểu của Thiên đình,có kích thước là :
- Bề ngang Chánh điện là: 27 mét ( 2+7 = 9)
- Bề dài Toà Thánh là: 135 mét ( 1+3+5 =9)
Chia ra :
Hiệp Thiên Đài dài: 27 mét (2+7=9)
Cửu Trùng Đài dài: 81 mét (8+1=9)
Bát Quái Đài dài : 27 mét (2 +7 = 9)
- Nền BQĐ cao 9 mét nên Đức Chí Tôn sửa bớt lại cho
đỡ tốn : Nền cấp thứ 1 của CTĐ cao 5 tấc, mỗi cấp CTĐ cao 3 tấc, 9 cấp thì cao
2,70 mét, cộng lại cao 3,20 mét.
- Bề cao Lầu chuông và Lầu trống là : 36 mét
- Bề cao của Nghinh Phong Đài là : 24 mét
- Bề cao của Bát Quái Đài là : 30 mét
Sau đó, Đức Chí Tôn có giáng cơ dặn Ngài Đầu Sư Thái Thơ Thanh rằng :
“ Thơ, Thái Bạch muốn lập Thánh Thất coi cho tốt đẹp, chẳng tưởng sự khó
nhọc các con. Thầy chẳng đành. Thoảng như tốn kém nhiều, các con coi theo hoạ đồ, tính làm
theo thước mộc, nghe à!”.
Kích thước thật sự của Toà Thánh đo được với độ sai
số tương đối từ 5 phần ngàn đến 10 phần ngàn, kể ra như sau đây :
- Bề ngang Toà Thánh kể cả 2 hành lang là : 22 mét
- Bề ngang Chánh điện, đo lọt lòng là : 15,40 mét
- Bề ngang của hành lang đo lọt lòng là : 2, 40 mét
- Bề dài Toà Thánh :
+ Từ cuối BQĐ đến mặt tiền Lầu chuông là : 93 m
+ Từ cuối BQĐ đến hết bực 5 cấp dưới bao lơn là : 97,50 m
- Bề ngang của lầu trống hay lầu chông đo được :
4,30m
- Cửu Trùng Đài có 9 cấp, bề rộng mỗi cấp là : 7m
- Bề rộng của gian giữa (Chánh điện) đo được : 7m
- Bề rộng của mỗi gian ở 2 bên là : 4, 20 m
- Bề rộng của Tịnh Tâm Điện là : 5,60 m
- Bề rộng của Cung Đạo là : 2, 80 m
- Bề cao của Lầu chuông bằng bề cao của Lầu trống :
+ Tính từ mặt đất lên đến nóc là : 27m
+ Tính từ mặt đất lên đến miệng hồ lô là : 28, 20 m
- Bề cao của Phi Tưởng Đài tính tới nóc là : 14m
- Bề cao Nghinh phong Đài tới đỉnh Địa cầu là : 17 m
- Bề cao của Bát Quái Đài tính tới nóc là : 19 m
- 5 cấp dưới bao lơn, bước lên cửa chánh Toà Thánh,
mỗi cấp có bề cao là 16 phân (16cm)
- 4 cấp dành cho Thập nhị Thời quân đứng chầu lễ
Đức Chí Tôn, mỗi cấp có bề cao là 19 phân (19cm)
- 9 cấp của Cửu Trùng Đài, mỗi cấp cao 18 phân
- 12 cấp nơi Bát Quái Đài , mỗi cấp cao 10 phân.
Chung quanh Toà Thánh có tất cả 112 dây cột tròn để
chống đỡ mái hiên nơi hành lang.
Mặt tiền Toà Thánh, dưới bao lơn có 6 cây cột : 2
cây quấn rồng đỏ và 4 cây quấn bông sen.
Tịnh Tâm Điện có 10 cây cột sơn trắng sọc xanh
Cửu Trùng Đài có 18 cây cột rồng xanh (Long trụ)
chia làm 2 hàng, mỗi hàng 9 cây.
Cung Đạo có 2 cây cột rồng vàng.
Bát Quái Đài có 8 cây cột rồng vàng đứng theo 8 góc
của hình Bát Quái.
Tổng cộng 4 từng trệt của Toà Thánh, bên trong và
bên ngoài có tất cả 156 cây cột lớn và nhỏ.
3 . Đặc trưng về nghệ thuật
Cao Đài :
Home [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ]
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét