Giáo Dục Văn Hóa Đạo Cao Đài - 3 / 3 (Hiền Tài Trần Văn Rạng)


 Rồng gắn với mây mưa, sấm chớp, nghĩa là đều gắn với nước, đấy là thực thể cần thiết nhất, mối bận tâm nhất của những người làm nghề nông trồng lúa nước. Kế đến lân có đầu sư tử , mình nai, đuôi trâu rất hiền hành,biểu tượng cho sự mơ ước thái bình. Qui là con rùa chậm chạp mà sống lâu. Phụng loan là con chim thanh cao, phụng là con trống, loan là con mái, chim cưỡi của Đức Phật Mẫu. Chim loan có sắc xanh nhiều nên gọi là thanh loan.

Tứ linh kết hợp với ngư, phúc, hạc, hổ gọi chung là bát vật. Ngư là con cá của Trương Quả Lão trong dàn bát bửu gắn liền với truyền thuyết “Cá hoá rồng”, biểu trưng cho sự thành đạt. Chữ Phúc giống chữ bức (là con dơi) nên lấy con dơi biểu tượng cho phúc đức (xem hình Tam Đa sau Báo Ân Từ) con dơi là tướng tinh của Trương Quả Lão. Hạc là loài chim quí hiếm thanh cao biểu tượng phong cách Thần Tiên, đâu có hạc là ở đó có Tiên. Hổ là con cọp tượng trưng cho sức mạnh chỉ năm Đạo khai (Bính Dần).

Nơi hậu điện Đền Phật Mẫu gian giữa thờ TAM ĐA “Phúc, Lộc, Thọ” cầu mong con cái Đức Chí Tôn được ba điều may mắn đó. Ông Phước là người hiền hậu, mũ áo trung lưu, râu đen dài. Phước là có con trai. Ông Lộc là vị quan đội mũ cánh chuồn, áo bào thêu có bối tử , đeo đai, đi hia rất oai vệ. Lộc là được làm quan. Ông Thọ là cụ già tóc râu bạc phơ, mặc áo thụng có hoa văn chữ thọ, chống gậy trúc có mấu.Thọ là sống lâu.

Ngoài tứ linh, bát vật, tam đa, tứ quí (Xuân lan, Hạ sen, Thu cúc và Đông thông) còn rất nhiều mô hình trang trí khác như Nhị Thập Tứ Hiếu quanh mặt tiền đền Phật Mẫu. Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục quanh bao lam (y môn) Đền Thánh. Bát bửu là Hồ lô, Quạt, Tiêu, Cuốn Thư, giỏ hoa lam, Hoa sen, Ngọc bản đặt ở Nội điện Toà Thánh

Chính vì mục đích lấy nội dung, ý nghĩa làm trọng, nên bản thân chữ cũng trở thành đồ án trang trí có tính chất biểu trưng rất cao. Chỉ một chữ KHÍ ( ) nơi ngôi thờ Hộ Pháp đã trở thành điều linh thiêng cao khiết. Đó là tam tự nhất thể, ba chữ KHÍ nhập thành một chữ nên viết chẳng giống chữ Hán giản lược.

- KHÍ là chất vô hình
- KHÍ là hơi nước bán hữu hình
- KHÍ là dụng cụ hữu hình
- Về hội hoạ có tính cách tổng hợp biểu trưng và tả thực. Các bức hoạ Tam Thánh, Cân Công Bình trên quả Địa Cầu, Thiên Cơ chuyển hoá (tranh tứ thời), nhất là cuộc triển lãm tranh “Ba mươi năm khai đạo” , ở Đông Lang nhân 10 ngày lễ khánh thành Toà Thánh Tây Ninh, đã in trong SỰ TÍCH XÂY BÀN (bằng tranh) của bà Hương Hiếu.

Bức bích hoạ Tam Thánh tả thực toàn thân với khổ người cân đối. Tạ Chí Đại Trường cho đây là tinh thần ái quốc cực đoan vì Tôn Trung Sơn cầm nghiên mực cho Thanh Sơn Đạo Sĩ chấm viết chữ. Quan niệm người đạo không nghĩ vậy. Họ vốn tĩnh tại, hiền hoà, chứa đựng nội tâm sinh động, đứng trước Đức Chí Tôn mọi sắc dân đều bình đẳng. Với bố cục đơn giản, nét vẽ tinh tế uyển chuyện, bức bích hoạ thu hút được sự chú ý của nhân sanh.

Những bức tượng Tam Vị Thiên Sứ to bằng người thật, chạm đắp cẩn thận không chút cầu kỳ. Gương mặt mang tính chân dung ở dạng tự nhiên. Đầu đội mão hay bịt khăn, mình mặc áo đạo uy nghi. Khi thể hiện các hình đắp nổi kèm theo kỹ thuật gắn các gốm sứ, thuỷ tinh, kể cả võ trai cũng được các nghệ nhân ban cho cuộc sống thiêng liêng. Họ đã biết vượt qua lối vẽ tượng trưng của thời đại trước để đắp vẽ những chân dung sống động, có thể chất, có thần thái đáng sùng ngưỡng.

- Về chạm gỗ có long vị thờ tại Bát Quái Đài, hai cửa hông trang trí hoa lá, rồng chầu tổng hợp âm dương không gian và thời gian. Nhất là các khánh thờ, thiên bàn tại tư gia, chạm trỗ rất tinh xảo.

Các khánh thờ đã kết hợp tranh vẽ trên kiếng chạm trổ trên gỗ đúc lư đèn bằng đồng thật hài hoà. Các khánh đều có ba bậc tượng trưng cho tam tài Thiên, Nhân, Địa liên giao giữa Trời và người, giữa Đất và người.

- Về thêu may mão áo đại phục,tiểu phục có nhà may Linh Đức. Hậu điện Nữ Đầu Sư Đường lãnh may tất cả mọi sắc áo xanh, vàng, đỏ. Màng,trướng, tàng, lọng, mão các phẩm vật thờ cúng đều được thể hiện từngli từng tí, tránh sai sót, có thể tạo thành nhầm lẫn giữa mão Đầu sư và Phối Sư .

- Kỹ thuật đúc đồ đồng lỗ bộ, lư đồng, lư hương được tranh trí rất khéo léo như bức tranh nổi trang nhã.

4 . Ảnh hưởng văn hoá nghệ thuật truyền thống dân tộc.

Đền Thánh xây cất sát cửa số 1 phía Bắc địa dư trùng với phương của quẻ Ly (tượng trưng CON MẮT) trong Bát Quái Cao Đài. Sở dĩ, xây cất như vậy vì Thánh giáo tiền khải dạy :
CAO như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng
ĐÀI tại Nam bang đạo thống truyền.
Đền Thánh được bao bọc bởi 3 vòng : Vòng thứ nhứt hình hơi vuông gọi là nội ô gồm có 12 cửa. Vòng thứ hai gọi là ngoại ô, còn di tích là cửa số 7 (ngoại ô). Vòng thứ ba, bắc giáp chân núi Bà Đen, nam giáp sông Cẩm Giang. Ba vòng biểu trưng tín ngưỡng Tam Tài.

Đó là lối kiến trúc truyền thống giống như thành Cổ Loa, đế đô lệch về 1 phía và có ba vòng thành tượng trưng cho triết lý Tam Tài. Cố đô Huế cũng bố cục ba vòng:Phòng thành, Hoàng thành và Tử cấm thành lồng nhau và khép kín lệch về phương nam, dựa theo thuyết phong thuỷ.

Mặt khác, trong các khuôn viên của các phủ đường như Giáo Tông Đường,Hộ Pháp Đường có tường bao quanh ngăn cách bên ngoài. Trong đó vừa có cây che bóng mát vừa có cây cho hoa trái, tạo ra phong cách giông giống nhà vườn của các quan triều Nguyễn quanh kinh thành Huế.

Ảnh hưởng văn hoá nghệ thuật truyền thống dân tộc càng rõ nét hơn trong tuồng CHÈO THUYỀN đưa linh của Toà Thánh, không khác HÒ BÁ TRẠO, HÒ ĐƯA LINH ở miền ven biển Nam Trung phần. Trong đó, cả hai đều có các nhận vật : Tổng mũi, Tổng lái, Tổng thương, Tổng khậu và 12 bá trạo. Có lẽ do các đạo hữu ở Nam Ngãi Bình đưa vào Thánh địa Tây Ninh.

Rõ nét nhất là việc đắp nổi hoa sen, ảnh hưởng kiến trúc Phật giáo. Hoa sen được chạm khắc phổ biến, những bệ sen, đài sen bằng gốm sứ ở các Thánh Thất, Khánh thờ ở các tư gia.

Sau đây là ý nghĩa các cây trong Bá Huê Viên và quanh các Thánh thất.

Cây sen: hình dáng đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thanh khiết , dịu ngọt, quá trình nở hoa kết hạt không nhiễm bẩn bùn. Chư Phật lấy hoa sen làm chỗ ngồi. Mẹ vua Lê Đại Hành nằm mơ thấy bụng nở hoa sen nên đẻ ra vua, vua Trần Nhân Tôn thấy hoa sen vàng nở trên rốn…

Cây sứ: thường thấy trong các ngôi chùa, ngay sau khi chúng ta mới vào cổng chùa, chúng còn được trồng ngay trước sân hoặc đằng sau chùa. Cây sứ thuộc loại cây có dáng đẹp,có nhiều cành vươn lên trời cao. Từ thời nhà Lý cây sứ đã được đưa vào nghệ thuật tạo hình, được gọi là cây “thiên mệnh” có khả năng thu hút sinh lực từ vũ trụ truyền xuống mặt đất . Vì vậy cây sứ thường được trồng ở các chùa chiền, đền miếu các nơi danh lam, tượng trưng cho sinh lực của thần linh trên mặt đất.

Cây đề : còn được gọi là cây bồ đề, có nghĩa là giác ngộ, khi đức Phật Thích Ca thành đạo, Ngài đã ngồi dưới gốc cây bồ đề để tĩnh tâm nghiên cứu giáo lý.

Đạo Phật lấy chữ tâm làm gốc, lấy điều thiện làm cơ bản. Con người chỉ làm được điều thiện khi trí tuệ được mở mang, nhờ đó mà diệt trừ được vô minh (sự ngu tối) mà ngu tối là mầm mống của tội ác.

Cây bồ đề có sức vươn cao, lá của nó mang hình trái tim, nhắc nhở chúng sinh hãy rộng lòng từ bi, bác ái, tâm thanh, trầm tĩnh, diệt lòng trần tục. Nó thường được trồng ở bên trái ngôi chùa và phía trước mặt để nhắc nhở mọi người hãy để cõi lòng rộng mở, trái tim nhân hậu khi bước vào cõi Phật.

Cây mít : theo sách Phật học thì cây mít được nhập từ Tây Trúc tới. Cây mít làm cửa Đền Thánh tượng trưng cho trí tuệ, còn có nghĩa là hướng tới bến bờ giác ngộ, cải tà quy chính. Nơi cửa Phật, cây mít là hiện thân của trí tuệ để đi đến chỗ giải thoát. Với ý nghĩa ấy, cây mít không chỉ được trồng nhiều trong chùa, mà lá mít còn dùng để lót chân oản, gỗ mít dùng tạc tượng Phật.

Cây thông : Thân thẳng đứng, vút cao, là biểu tượng người quân tử, danh lợi không phàm, trước ngọn gió đầu sương vẫn giữ được tâm hồn ngay thẳng. Dáng cao thân thẳng còn mang ý nghĩa là con đường dẫn lên trời xanh của các thần linh.

Trong sách Phật, thông còn có nghĩa là thông minh, thông hiểu,biểu hiện sự giác ngộ, sự chứng quả của đức Phật và Bồ Tát, là “lộng tận thông” (thông từ trong ra ngoài), biểu hiện cho quyền năng trí tuệ vô biên.

Cây sung : có nghĩa là sung túc, sung mãn, tên cây là acoka tức là vô ưu, không có điều phiền não. Cây sung trong chùa mang ý nghĩa của sức mạnh và sự no đủ.

Cây si : Thường trồng trước cửa ao chùa. Si nhiều cành, lá xum xuê, quanh năm xanh tốt, rễ buông chằng chịt tạo ra sự thâm nghiêm, u tịch, thanh vắng, nơi các vị thần ngự giá.

Cây tre trúc : Là loại cây thân thẳng cao, mềm mại, thích hợp việc treo cành phướn của Đạo. Tre, trúc mang ý nghĩa tuỳ duyên mà hoá độ ; thân rỗng biểu hiện cho tâm không ,lòng thành. Tre trúc, gióng thẳng, còn biểu hiện cho chính nhân, quân tử. Thân tre, trúc có nhiều đốt, theo quan niệm cổ truyền chính là thang đi về của những linh hồn phật tử. Trong các buổi lễ Phật bao giờ cũng có 2 cành tre, trúc đặt ở 2 góc bàn thờ để linh hồn phật tử từ cõi âm làm về dương thế để lên miền cực lạc.

Tóm lại, văn hoá tâm linh chỉ bộ phận văn hoá hữu hình mà biểu tượng các giá trị thiêng liêng cao khiết mang giá trị văn hoá nghệ thuật được sản sinh từ những hoạt động tín ngưỡng tôn giáo. Những không gian thiêng liêng đền, điện, thánh thất biểu trưng trời đất, Thánh Tiên hài hoà các nghi lễ linh thiêng tồn tại trong ý thức nhân sanh được thể hiện ra khi đắp vẽ. Văn hoá tâm linh là vấn đề còn mới mẻrất phức tạp tế nhị, có nhiều điểm khoa học khó chấp nhận ngay mà chỉ cảm nhận để tìm kiếm nhưng không thể chối bỏ được.

Nói thế nào đi nữa, văn hoá tâm linh góp phần lớn vào sự hình thành ý thức về cội nguồn “phản bổn hườn nguyên”. Nói một cách khác, văn hoá nghệ thuật là nhu cầu không thể thiếu trong nhân sanh. Một nền văn hoá cao đẹp luôn có giá trị nhân văn sâu sắc vì con người,vì cuộc sống. Tín ngưỡng xét về thần học đồng nghĩa với tâm linh. Bởi lẽ không có niềm tin vô đối về Đức Chí Tôn, về Phật, Tiên thì tôn giáo không thể phát triển và tồn tại được, nói cách khác,tôn giáo không thể xa rời con người. Tôn giáo ở trong lòng nhân loại.

5 . Triết lý kiến trúc Toà Thánh

Khi du khách đến thăm Toà Thánh, cái lôi cuốn họ đầu tiên là hai lầu chuông và trống cao ngất. Một hệ thống kiến trúc đền tháp nằm giữa hai k hu rừng Thiên nhiên màu xanh biếc. Hệ thống đền tháp này có giá trị về văn hoá lớn nhất ở miền Nam, bao gồm bờ thành, đền điện, phủ đường, vườn cảnh …
Jeannine Anboyer trong quyển “Mỹ thuật Viễn Đông” nhận định rằng : Người VN đã biết chọn những cảnh thiên nhiên để xây những công trình kiến trúc thờ cúng của họ. (les arts de l’Extrême Orient, Paris 1948, tr 83).

Một danh sĩ Nhận Bản cũng cho rằng Toà Thánh được xây cất trên suối ngầm chảy qua 6 cửa gọi là “Lục Long phò ấn” hay “Lục Long kết tụ”. Vùng đất này rất phát triển về Đạo pháp và nhân tài (Huỳnh Minh, Tây Ninh xưa và nay, Saigon 1972, tr 177).

Trước kia, Đức Lý giáng đàn dạy :
“Lão khen Thái Thơ Thanh, tưởng chư hiền hữu không thấy nữa. Lão cắt nghĩa vì sao cuộc đất ấy là Thánh Địa (tức đất xây cất Toà Thánh hiện nay) : sâu hơn 300 thước như con sông giữa trung tim đất giáp lại trúng giữa 6 nguồn làm như 6 con rồng đoanh châu. Nguồn nước ấy trúng ngay đỉnh núi gọi là Lục Long Phò Ấn. Ngay miếng đất đó đặng ba đầu : một đầu ra Giếng mạch Ao Hồ, hai đầu nữa bên cụm rừngbên kia”.
Về Lục Long phò ấn, ta thấy như sau : Viễn cảnh Toà Thánh, về phía Đông địa lý (cung Chấn) gối lên giồng Sân Cu (Đất lành chim đậu), mặt trước phía Tây (cung Đoài) trông ra rạch Tây Ninh. Phía tả (Nam) thanh long nước sông Cẩm Giang- Bến Kéo chảy cuộn quanh. Phía hữu (Bắc) bạch hổ núi Điện Bà ôm vòng lại như cánh cung. Đó là điểm kết long mạch sách gọi là hàm rồng. Phong thuỷ âm dương hội đủ.

Cận cảnh, hồ Động Đình (bàu Cà Na) nước chảy không ngừng nghỉ (pháp luân thường chuyển) vào rạch Ao Hồ, hướng Tây Nam (Càn). Trái phải rừng Thiên nhiên xanh biếc hài hoà cảnh trí. Phía Bắc (cung Ly) suối Lâm Vồ. Phía Đông Bắc (cung Tốn) Suối Đá. Phía Đông (Chấn) Suối cái chảy về Nam (Khảm) qua Đoạn Trần Kiều. Suối con lượn ra Giải Khổ Kiều : bốn suối hợp sức tưới mát và bao quanh vùng Thánh Địa, kết tụ Lục Long phò ấn.

Biểu hiện Tay Long (dương), Tay H ổ (âm) không đối lập nhau mà còn hoà hợp lồng vào nhau nhiều lần, viễn cảnh như cận cảnh. Bên trái (Thanh Long), bên phải (Bạch Hổ) thế sông núi châu đầu vào nhau như hình móng ngựa (đại Kiết). Địa thế Lục Long phò Toà Thánh đó, không đâu tốt đẹp bằng .

Đó là nhận xét về địa lý, còn các cửa Nội ô Toà Thánh thì sao ?

Ta đem Bát Quái Cao Đài (Trung Thiên Bát Quái) du di trước Đền Thánh. Để 12 cửa càn 8 cạnh phù hợp với tám cạnh bát quái (giả sử ta bẻ 4 góc). Từ cửa số 2 qua cửa Chánh Môn hướng Tây Bắc ( tức 2+3 =5) từ cửa số 4 qua cửa số 6 hướng Tây Nam .(tức 4+6=10).

Bây giờ ta xét theo Dịch lý. Cửa số 1 (cửa Hoà Viện) ngay hướng Bắc, nhìn lên Bát Quái Cao Đài là quẻ Ly. Ly thuộc tâm hoả là CON MẮT, là minh (sáng suốt) để cai quản Đạo. Từ lúc xây cất Đền Thánh, cửa Hoà Viện là cửa chính tấp nập nhứt. Đối xứng với cửa số 1 là cửa số 7 (nội ô) thuộc thuỷ, tẻ lạnh chỉ là cửa phụ (theo Trung Thiên Bát Quái).

Hướng Tây Bắc theo Bát Quái Cao Đài thuộc quẻ Khôn, Khôn thuần âm biểu tượng Đất là mẫu đạo, sanh hoá và nuôi dưỡng vạn vật. Hướng Tây Bắc trùng cửa số 2 sung túc tấp nập và cửa Chánh Môn. Cửa Chánh Môn xây theo Pháp Tam Quan. Không Quan (cửa bên trái) là lối nhìn về lẽ không “Không tức thị sắc”. Giả quan (cửa bên phải) nhìn theo lẽ sắc :”Sắc tức thị không”. Không sắc vào trung quan (cửa giữa) tức Trung Đạo Trung Dung. Đó là cửa chính của Đạo Cao Đài. Cửa số 2+3 cửa tam quan bằng 5. Theo Dịch Lý số 5 là số sinh đúng là cửa của Đức Mẹ (Khôn).

Hướng Tây Nam theo Bát Quái Cao Đài thuộc quẻ Càn. Càn thuần dương biểu tượng Trời là Thiên Đạo phụ đạo điều khiển vạn vật. Hướng Tây Nam trùng cửa số 4 sung túc tấp nập lúc chợ Ngã Năm phồn thịnh và cửa số 6 khai thông về nam, nơi sinh hoạt của nhân sanh. Cửa số 4 cửa số 6 bằng 10. Theo Dịch Lý số 10 là số thành đúng vào cung Càn. Mẹ sinh, Cha đưa con đến thành tựu.

Những điều trên thể hiện được mối quan hệ hài hoà giữa Trời Đất Người (Thiên Địa, Thiên Nhân, Nhân Địa). Tắt một lời, các cửa Đền Thánh chỉ thể hiện qua ba hướng : Bắc Ly, Tây Bắc Khôn và Tây Nam Càn đúng với Thiên Thơ nên phát triển không ngừng.

Đó là truyền thống kiến trúc cổ VN theo lối kiến trúc cảnh vật hoá (Architecture paysagée).

Kiến trúc đền tháp và phủ đường trong khuôn viên Nội ô Toà Thánh không vươn lên cao mà dàn trải theo chiều Bắc Nam. Theo quan niệm hướng Bắc là nơi ngự của Đức Chí Tôn “Cao như Bắc khuyết nhân chiêm ngưỡng”. Thế nên Toà Thánh không xây dựng ngay trung tâm nội ô mà kiến trúc sát về phía cửa số 1 phương Bắc. Những công trình lớn nhỏ kéo dài về phía Nam như Giáo Tông Đường, Nữ Đầu Sư Đường, Hiệp Thiên Đài, Hộ Pháp Đường, Hội Thánh Ngoại Giáo, Nam Đầu Sư Đường vv…theo quan niệm “Đài tại Nam phương Đạo thống truyền”. Những kiến trúc này cách nhau bằng những hàng rào và cổng. Mỗi dinh thự có chức năng khác nhau tạo nên những không gian ấm cúng và tôn nghiêm.

Các kiến trúc ở đây mang tính chất tổng hợp giữa Đạo (Religion) và Đời (Profane), giữa thần linh và con người mà con người là chủ thể của kiến trúc và thiên nhiên ở đây. Theo quan niệm chung của các tín hữu “Đời không Đạo không sức, Đạo không Đời không quyền”. (?)

Vòng thành của Toà Thánh hình vuông dài độ 4000 mét, gồm một Chánh môn và 12 cửa. Nhìn cửa Chánh môn thấy rõ nét kiểu kiến trúc Đông Tây kết hợp. Trước sau và hai bên của Đền Thánh là các ngôi tháp của các vị Chức sắc Đại Thiên phong như tháp Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh nằm cạnh cửa Chánh môn. Tháp Giáo Tông ở ngay sau Bát Quái Đài , còn hai bên là tháp vị Đầu Sư Thái Thượng Ngọc. Các kiến trúc tháp âm phần có ngôn ngữ riêng biệt và ý nghĩa sâu xa của nó về mặt tôn giáo. Âm phần này là cõi sống của người chết, các Chức sắc qui vị này luôn luôn hiện hữu bên cạnh các người còn sống. Các kiến trúc hình tháp đỉnh có lộng kiếng đó, vì thế nó không phải là những nỗi tang tóc mà là niềm vinh dự cho chư tín đồ.

Toà Thánh chịu ảnh hưởng ít nhiều kiến trúc Trung Hoa, phương Tây và Ấn Độ. Kiến trúc tuy thể hiện sự du nhập của phương thức kiến trúc và xây dựng nước ngoài, nhưng giá trị truyền thống văn hoá vẫn được bảo tồn và bị địa phương hoá đến nỗi người ta không còn phân biệt đâu là Đông, đâu là Tây.

Mái lợp cuả Toà Thánh uốn cong nhẹ, mái kép kiểu “trùng thiềm điệp ốc” như các kiến trúc của ta vào đầu thế kỷ 19. Hai lầu trống chuông cao 27 mét như tháp chuông nhà thờ. Ở Đền thờ Phật Mẫu chỉ một tháp, ta thấy rõ ảnh hưởng phương Tây. Ngay giữa mặt tiền trên nóc có hình Đức Di Lạc thể hiện tính triết lý của Đạo Phật phương Đông. Nhất là các cột dưới bao lơn, tạc hình rồng và hoa sen, tượng trưng Long Hoa Đại Hội. các tượng hình và hoa văn chuộng nét mềm mại quanh co của các nghệ sĩ dân gian.

Rắn 7 đầu (Thất đầu xà) ảnh hưởng cấu trúc Đế Thiên Đế Thích (Angkor Thom, Angkor Vat). Người được cử đi tham quan Đế Thiên về xây dựng Toà Thánh là Đầu sư Nguyễn Ngọc Thơ. Những con người Naga này bị địa phương hoá thành Thất tình : Hỉ, Nộ, Aùi, Ố, Ai, Lạc, Cụ để phù hợp với việc giáo hoá về Đạo pháp cho chúng sanh.

Trên nóc Bát Quái Đài tạc hình 3 vị Thần của Đạo Bà La Môn : Brahma vị Thần sáng thế, Christna (tức Vishnou) vị Thần bảo tồn và Shiva vị Thần phá hoại để xây dựng cái mới. Nét đắp vẽ sinh động và vút lên trời cao.

Trên nóc Cửu Trùng Đài là một vòm tròn (Nghinh phong đài), kiểu kiến trúc Hồi giáo, nhưng bị địa phương hoá, phía trên có tạc hình con long mã (con thú đầu rồng mình ngựa, khi nó xuất hiện sẽ có Thánh nhân ra đời). Con Long mã chạy về hướng Tây (hướng mặt tiền của Toà Thánh), quay đầu về hướng Đông, mang một ý nghĩa huyền bí về tôn giáo : Đạo xuất tự phương Đông, mang truyền bá ở phương Tây và gốc Đạo vẫn ở phương Đông.

Hai bên sau Toà Thánh còn có hệ thống nhà ngang (lang) là Đông lang và Tây lang, tạo nên không gian mở rộng cần thiết cho sinh hoạt đạo sự và cũng phù hợp với sinh hoạt của con người vùng nhiệt đới.

Bên cạnh Đền thờ và các ngôi tháp đều có vườn hoa cây cảnh, Bá huê góp phần quan trọng vào ngôn ngữ kiến trúc truyền thống thể hiện quan niệm vũ trụ Á Đông. Tất cả các kiến trúc trong Nội ô Toà Thánh đều được thiết kế, qui hoạch và thi công có chuẩn định về trình độ mỹ thuật và kỹ thuật đạt tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế. Ông Henri Regnault trong Hội nghị Thần linh học tại Lausane, Thuỵ Sĩ (1948) phát biểu : “Những vị nào có dự Hội nghị Assise, Haywards Henth, Bruxelles thì đã nhận được cuốn di bút của M.Gobron nói về lịch sữ và giáo lý Đạo Cao Đài. Cuốn sách đó có nhiều tranh ảnh. Điều đó cho thấy rằng trong tôn giáo này, nghệ thuật có một địa vị rất quan trọng. Kiến trúc trong và ngoài Toà Thánh là một mỹ thuật đáng được chú ý đặc biệt”

6 . Đạo Cao Đài là tôn giáo khoa học

Ngay từ những buổi đầu khai Đạo, không những người Pháp ở Sài gòn hoặc ở Pnompênh theo Đạo Cao Đài mà ngay cả trí thức tại nước Pháp và nhiều nơi khác cũng xin theo Đạo, hoặc xin tìm hiểu giáo lý của nền tân tôn giáo. Ông Henri Regnault đại diện Cao Đài giáo tại Pháp quốc, Phó chủ tịch ủy ban quốc tế của hội nghị thần linh học thế giới (M. Henri Regnault, Vice - Président de I’u nion Spirite Francaise, Président du Comité Fracais du Conseil spiritel mondial, trésorier-adjoint du conseil supême du C.S.M, délégue Caodaisme) là một trong những người trí thức Pháp nhiệt tình nhất có nhận xét tinh tế khách quan về Đạo Cao Đài. Trong Hội nghị thần linh học thế giới năm 1952, trong bản phúc trình ông f9ã xác nhận rằng Đạo Cao Đài là một tôn giáo hoàn cầu, phù hợp với khoa học và triết học. Sau đây, chúng tôi xin dịch nguyên bản phúc trình đó.

1/- Đạo Cao Đài, tôn giáo hoàn cầu : năm vừa qua tôi (tức H.Regnault) đã có dịp điều trần ở hội nghị Bruxelles (Bỉ, 1951) rằng Cao Đài giáo có thể có một trách vụ quan trọng trong công việc thực hiện một nền tôn giáo hoàn cầu.

Tôi căn cứ vào những đề mục mà những người tổ chức hội nghị Luân đôn (1936) đã nêu ra để khảo cứu xem một tôn giáo như Cao Đài giáo xây dựng căn bản Thần linh học, có thể giúp ta hiểu ra thêm việc thống hợp tôn giáo, triết lý, khoa học, tâm lý học và nghệ thuật hay không ?

Từ cuộc Hội nghị Lausane (Thụy Sĩ 1948) đến nay, năm nào tôi cũng có cơ hội để làm cho quí vị hội viên phải lưu tâm đến Đạo Cao Đài. Đạo Cao Đài có một thái độ rộng rãi đối với những tôn giáo khác, tôn trọng tín ngưỡng của mọi người cũng như chơn lý nguồn cội ở Đức Chí Tôn vô biên, vô tận, vô thường, vô danh, vô đối.

Nếu ta phải tổng hợp tôn giáo khoa học, triết học, tâm lý học nghệ thuật để tìm hiểu Thần linh thì tôi cho Cao Đài giáo có thể rất có ích cho chúng ta để đạt tới mụch đích ấy.

2/- Đạo Cao Đài với tôn giáo khác : Là một tôn giáo, Đạo Cao Đài liên hợp hết thảy các tôn giáo sau đây.

Trong Hội nghị Thần linh thế giới, các chi ngành thần linh học đều có cử đại biểu. Tuy không có người Cao Đài nào dự để thấy rằng chỉ có Cao Đài giáo khả dĩ thực hiện được việc tổng hợp mà đại hội thường niên 1952 theo đuổi. Nhưng người tín đồ Cao Đài nào cũng biết rằng Đạo Cao Đài chung óp một phần quan trọng vào việc thực hiện mục đích đó.

3/- Đạo Cao Đài với khoa học và triết học : Đạo Cao Đài căn cứ vào Thần linh học mà thần linh học là một khoa học và một triết lý. Năm 1950, trong một buổi họp của Hội nghị Haywards Henth, tôi đã có dịp định nghĩa rõ ràng thế nào là thần linh học, một khoa học không nên lầm lẫn với mê tín quàng xiêng.

Thần linh học làm cho ta thấy chắc chắn rằng linh hồn có thực, tuy xác chết mà hồn vẫn còn và giữa người sống và người chết vẫn còn giao cảm được.

4/- Đạo Cao Đài và tâm lý học : Đạo Cao Đài có những liên quan mật thiết với tâm lý học. Đức Thượng Đế đã giáng trần khai đạo, nhưng Ngài không đụng chạm đến cái tôn giáo hiện hữu. Người tín đồ Cao Đài cung kính cầu nguyện những vị Thần Thánh, Tiên Phật đã giáng trần để cứu vớt nhơn sanh. Họ không quên một vị nào mà họ thờ tất cả từ Phật Thích Ca, Chúa Jésus, Đức Khổng Tử đến các vị Tiên Phật thời thượng cổ, Thần Thánh, Châu Aâu, Châu A Ù…

Người có đức tin như người không đức tin đều có thể vào trong Thánh Thất Cao Đài để trầm tư mặc cảm và cầu nguyện theo sở vọng. Đó chẳng phải là một lý thuyết tâm lý sâu xa hay sao ? Cái đó chẳng có gì lạ. Vì Đạo Cao Đài nguồn gốc là ở chỗ siêu trần mà lại là sự nghiệp của nhân sanh.

Căn nguyên của Đạo Cao Đài là ở đó, là ở chỗ truyền đạt nghĩa hòa bình, lòng nhân đức, tình tương thân, tương ái và lý Đại đồng.

5/- Đạo Cao Đài và nghệ thuật : Những vị hội viên có mặt tại Hội nghị Bruxelles (Bỉ 1951) đã nhận được cuốn sách nhỏ trong đó có in bản phúc trình của tôi (H.Regnault). trong sách đó có nhiều hình vẽ, những vị nào có dự hội nghị Assise, Haywards Henth, Bruxelles thì đã nhận được cuốn di bút của ông G.Gobron nói về lịch sử và giáo lý Đạo Cao Đài. Cuốn sách đó có nhiều tranh ảnh. Cái đó tất đã thấy rằng trong nền tân tôn giáo này, nghệ thuật đã có một địa vị rất quan trọng.

Kiến trúc trong ngoài Tòa Thánh là một mỹ thuật đáng được chú ý đặc biệt : Khi trông ngắm Tòa Thánh Tây Ninh, mặt trước đền, mặt bên và trong đền những tượng Phật Thích Ca, Jésus, Lão Tử và thiên bàn thờ Đức Chí Tôn, toát lên một nghệ thuật độc đáo.

Như thế, dưới sự nghiên cứu và lối nhìn một cách khoa học, nhà học giả H.Regnault từ lâu đã xác nhận Đạo Cao Đài là một tôn giáo toàn cầu.

7 . Danh vị cơ quan tạo tác

Hội Thánh và các cơ sở phụ thuộc được xây cất hoàn thành mà không tốn một xu, đó là nhờ Ban kiến trúc, cơ quan tạo tác có nhiều thợ hồ công quả. Những công đó cũng xứng đáng như công truyền Đạo. Thế nên. Đức Hộ Pháp ban hành Thánh lịnh số 231 ngày 9-7-Canh Dần (22-8-1950) chì vì cơ quan công thợ tạo tác trong Châu vi Toà Thánh chưa có hàng phẩm tương đương với các cơ quan khác đặng mở đường lập vị. Thánh lịnh này có ba điều quan trọng.
1 - Điều thứ nhứt : Định riêng cơ quan công thợ trong châu vi Toà Thánh những danh từ và trách vụ dưới đây :

a) Tá Lý coi về một sở.
b) Phó Tổng Giám làm đầu một hay nhiều sở dưới quyền Tổng Giám.
c) Tổng Giám kiểm soát toàn thể các cơ sở

2 - Điều thứ nhì : Những chức vụ kể trên đây đối hàm như vầy :

a) Tá Lý đối hàm Chánh Trị Sự hay Hành Thiện.
b) Phó Tổng Giám đối hàm Lễ sanh
c) Tổng Giám đối hàm Giáo hữu.

3 - Điều thứ ba : Mỗi bậc kể trên đây cũng phải hành sự đủ 5 năm mới được thăng và tới bậc Tổng Giám thì được Hội Thánh đem ra quyền Vạn Linh công nhận vào hàng Giáo Sư, nếu đầy đủ công nghiệp. ( Xem thêm “Chân dung Đức Hộ Pháp” về đối phẩm các hàng chức sắc).

PHỤ TRANG

HÁT CHÈO THUYỀN
(CHÈO ĐƯA LINH)

Thuyền Bát Nhã là hiện tướng của 3 Đài, nên có thể gọi là Thuyền Đạo hay Thuyền Huệ.(Bát Nhã Prajna chữ Phạn có nghĩa là Trí Huệ)
Trong Thuyền Bát Nhã có :
1 - Tổng lái : là biểu trưng của Bát Quái Đài (Phật)
2- Tổng mũi : là biểu trưng của Hiệp Thiên Đài (Pháp)
3 - Tổng thương : là biểu trưng của Cửu Trùng Đài (Tăng)
4 - Tổng khậu : là biểu tượng thể xác con người
5 - Mười hai bá trạo : là biểu tượng 12 con giáp
Tổng lái : Mặt đen rắn nịch mang khôi giáp. Đó là chủ nhơn của chiếc Thuyền Bát Nhã, tượng trưng quyền năng bí ẩn nhiệm mầu của Phật, mà ngôi Phật là linh hồn của Càn khôn vũ trụ.

Nói về Đại Đạo thì Tổng lái là tượng trưng quyền pháp thiêng liêng của Bát Quái Đài cũng là ngôi Phật và là linh hồn của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.

Nói về con người, nhờ có chơn linh mà phát ra trí tuệ phán đoán công minh hướng thiện. Ấy vậy mỗi chơn linh là tổng lái của mỗi con người.

Tổng mũi : Mặt trắng, là người dẫn đạo , định phương hướng, vạch đường chỉ lối cho chiếc Thuyền, tượng trưng quyền năng của Pháp tức quyền năng của Hiệp Thiên Đài.

Tổng thương : mặt đỏ là người lo việc bên trong thuyền,biểu tượng quyền năng của Tăng tức chúng sanh. Tổng thương tượng trưng quyền lực của Cửu Trùng Đài.

Nói theo giáo lý thường thức thì : Thuyền Bát Nhã là Bí Pháp là Quyền Pháp của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đưa người trở về cõi thiêng liêng hằng sống sau khi mãn kiếp sanh nơi mặt thế.
TUỒNG HÁT CHÈO THUYỀN
Tổng lái :
Tam Thập Lục thiên nhứt thông giao
Linh chu Bát Nhã thoát ba đào
Thủ quyền Phật pháp vô vi cảnh
Thế giái trần gian hiệp nhứt bầu

Viết :
Phụng thừa Phật sắc,
Giáng hạ trần gian
Thủ Bát Nhã Thoàn
Tầm nguyên nhân tận độ
Tam Kỳ Phổ Độ
Vận chuyển Thái Bình
Trên Chí Tôn rưới đức nhiêu sinh
Dưới tôi nguyện tận tâm kiệt lực
Phò Thuyền Phụng giữ gìn hết sức
Nương mũi rồng chẳng dám hở han
Quyền trấn thủ Linh Thoàn
Hắc sắc tinh Tổng lái.

Thuyết :
Vâng Phật Gia lịnh dạy
Đáo trần cảnh giáo dân
Khuyên chư linh tỉnh giấc mộng trần,
Mau quyết chí xả thân lập vị,
Dùng từ bi hai chữ,
Mà cộng lái hoà yêu
Nương Phướn linh thiên tướng dắt dìu
Đáo Tiên Cảnh tiêu diêu khoái lạc,
Bát Nhã để rước người chí Thánh,
Vậy thì ta,
Truyền thiên binh đẳng đẳng gay chèo.
Nhị đệ (Mũi dạ)
Truyền Nhị đệ tuân theo,

Bá trạo :
(Trạo dạ)
Tiền Thuyền lai tốc nhập
(Tổng mũi dạ dắt trạo vô).

Tổng mũi bạch :
Khổ hải ngân hà thủ bửu chu
Ta bà thế giái độ nhơn cầu
Nguyên nhân liệt Thánh hồi thiên vị
Vọng khán Niết Bàn vạn lý thâu.

Viết :
Thiên Cung cư ngụ
Bạch Ngọc thưởng chầu
Nhứt nhị thập bát quang,
Bạch Hổ Tinh nải hiệu
Vâng lời Phật dạy,
Dĩ đáo trần gian
Trấn thủ Bát Nhã Thoàn
Ngã xưng danh Tổng mũi

Thuyết :
Phò thuyền phụng mặc dầu may rủi,
Hương mũi rồng chẳng dám đơn sai,
Nay có lịnh triệu lai,
Âu ta kiếp vào hầu Ca Trường (vào quì)
Dạ hậu thuyền thân đáo
Đãi lịnh Đại Ca.

Tổng lái nói :
Nhị đệ khá bình thân
Đặng nghe qua hạ lịnh
(Mũi đứng dậy)

Tổng mũi nói :
Dạ bẩm Đại có có việc chi. Anh đòi đến đệ thân,
Xin ca trưởng tố trần cho em rõ.

Tổng lái viết :
Này nhị đệ (Mũi dạ)
Nay có lịnh Phật gia chỉ giáo
Bảo ta phải đem Bát Nhã Thoàn lai đáo trần gian.
Rước chư linh trở lại Niết Bàn,
Đưa Thánh Vị qui hồi Ngọc Lộ,
Vậy qua truyền cho Nhị đệ,
Em tua khá vâng lời,
Dẫn bá trạo nhập thoàn,
Đáo trần gian rước khách

Tổng mũi viết :
Dạ vâng lời anh dạy em kiếp thi hành,
Mặt từ giả đại huynh tiền thuyền em trở lại,
Mũi quì trước hương án thuyết :
Dạ dạ, trước án nội lễ nghi chỉnh túc,
Đinh tiền đăng chúc huy hoàng
(day lại kêu bá trạo) ( trạo dạ)
Truyền bá trạo nghiêm trang,
Xếp chèo vào bái yết
(Cả trạo đều dạ)

Tổng mũi nói lối :         
Trên đã bày lễ điếu
Dưới tôi kính lời trình,
Nay ông đã an trí thoàn linh,
Vì nghĩa cũ sớm dâng yết hỷ,
Trên đã thưởng phụng nghinh thần vị,
Dưới tôi toan kíp sửa trạo bày
(day qua kêu trạo) ( trạo dạ)
Thuyền quí em đẳng cộng hoà khai,
Nhơn nhơn đồng cử trạo hà……….(trạo dạ)
(Mũi đứng dậy sắp trạo đứng hai hàng rồi kêu trạo: trạo dạ)

Thuyết :
Nay linh thánh thuyền rồng thuyết nhập
Qua truyền mấy em sắp đặt trang hoàng,
Để cho qua trở lại hậu thoàn,
Trình Ca trưởng cho người tự sự
(Cả trạo đều dạ)

Thuyết :
Âu là chỉnh đai cân thối nhập hậu thoàn,
Trình Ca trưởng đôi lời trần tố,

Mũi viết :
Dạ dạ hậu thuyền thân đáo, kính bẩm Đại ca ,

Lái nói :
Nhị đệ hữu hà sự mà hay

Mũi viết :
Dạ từ Đại ca lịnh dạy, em dẫn bá trạo nhập thoàn,
Thánh lịnh đà an toạ tiền bàn
Xin Ca trưởng linh sàng lề bái,

Lái viết :
Nhị đệ (Mũi dạ)
Nghe qua tràng lịnh à (Mũi dạ)
Truyền đệ thân trở lại tiền thoàn,
Chỉnh nọc neo đâu đó nghiêm trang,
Lễ bái để mặc qua toan liệu
(Mũi dạ rồi lui)

Viết :
Huý a ! nay quí Thánh tiền bàn an toạ,
Âu là ta chính đai cân thấu nhập linh sàng,
Lễ nghi chỉnh túc đoan trang,
Bái mạng đầu ta bái mạng (lạy)
Nhị đệ !
Nghe qua tràng à,
Kỉnh lễ qua hoàn thành trọn lễ.
Vậy thì,
Truyền đệ thân thấu nhập linh sàng,
Trước Thánh Linh lễ bái trang hoàng,
Vâng thửa lịnh mưa đừng sơ thất à,
(mũi dạ rồi dẫn trạo vô lạy, rồi kêu Tổng thương)
Cả tiếng kêu tam đệ Tổng thương,
Kíp tốc đáo cho qua truyền lịnh à (Thương dạ)

Thương bạch :
Hiển Thánh vạn linh hữu thọ sinh
Tùng y Phật Pháp tại Thiên Đình,
Trung Thuyền Bát Nhã hầu chơn tánh,
Qui vị hồi chầu Bạch Ngọc Kinh,

Viết :
Thừa Phật Gia chỉ giáo,
Trấn thủ Bát Nhã Thuyền,
Thọ sắc mạng triều Thiên,
Ngã Xích Long thị viết,
Di Lạc Vương chỉ giáo,
Tùng Giáo Chủ lịnh ban,
Quyền trấn thủ trung thoàn,
Ngã Tổng Thương chữ đặt,
Nay có lịnh Nhị ca đòi đến,
Âu ta kíp vào hầu,
Âu là chỉnh đai cân,
Thấu nhập tiền thuyền
Đãi lịnh cầu ta đãi lịnh à,

Thuyết :
Hữu đệ thân thấu nhập tiền thuyền,
Xin đãi lịnh nhị ca chỉ giáo,

Mũi viết :         
Nầy Tam đệ qua cho miễn lễ,
Em khá bình thân ( dạ đứng dậy)

Viết :
Tổng thương nghe qua truyền lịnh à,
Nhơn quí Thánh hồi gia kiến nẫu,
Vậy qua truyền cho em,
Chỉnh đai cân bước đến tiền thuyền,
Đặng đảnh lễ Thánh Nhân ngự toạ (Thương dạ)

Thương viết :   
Dạ dạ, trước điện tiền đảnh lễ Thánh Nhơn,
Nơi trung điện toạ an Thánh Thể (lạy rỗi)

Viết :
Từ dâng lời anh dạy,
Em đảnh lễ Thánh nhơn,
Người ngự an tịnh dưỡng tinh thần,
Lễ đã xong nên trở lại tiền thuyền,
Đặng phúc báo Nhị ca tường lãm,

Mũi viết :
Hay a ! vậy thì truyền đệ thân canh giữ trung thoàn,
Còn việc hành thuỷ để mặc qua toan liệu à.
Thương viết :
Nhị ca đã dạy
Em đâu dám sai ngoa
Mặt từ giả Nhị ca
Trung thoàn em trở gót (trở lại)

Mũi viết :         
Bá trạo hà (Trạo dạ)
Truyền quý em đâu có nghiêm trang
Xếp chèo lại be thoàn,
Đãi Đại ca chỉ lịnh (Trạo dạ)

Lái viết :
Thu qua đông chí,
Nguyệt sắc dương huy
Chong nhan đèn chỉnh túc lễ nghi,
Ngoài bổn đạo kỉnh dâng bá trạo a….
Bá trạo (Trạo dạ)
Sao hôm đà lố mộc,
Bá trạo kíp gay chèo
Nhị đệ (Mũi dạ)
Trước em khá lấy neo,
Sau lái lèo qua nắm giữ (Mũi dạ)

Mũi viết :
Đại ca đà lịnh dạy,
Chúng ta kíp thi hành,
Xếp hàng đôi sau trước đành rành,
Gay chèo quế thuyền rồng lướt sóng à …
(Trạo dạ gay chèo đứng dậy).

Mũi viết :         
Mấy em khá cầm chèo cho vững,
Lóng tai nghe qua kích cổ tam thinh,
Dưới bộ chơn ký lấy chữ đinh,
Mấy em khá chèo cho êm rập à…..(Trạo dạ)
Nay quí khách thuyền rồng an toạ,
Vậy thì trương bườm loan tách đặm dòng hà,
Gay chèo quế bôn ba. Chỉ Tây Phương trực đáo hồ.

Mũi xướng :
Kim triêu nghinh lễ,
Thuyền nghinh tiếp tôn linh.

Bắc bài :
Nam sơn trường bất lão,
Đông hải tịnh vỏ ba,
Thanh phong lai bồng địa,
Minh nguyệt chiếu sơn hà,
Minh nguyệt chiếu í i sơn hà.

Lái giảng viết :
Sơn hà nước non hớn chở,
Bá trạo à…………Chèo………..Chèo tới mấy em ôi.
Thuyền nghinh Thần rực rỡ dòng châu.

Trạo bắc bài :
Thừa thuỷ tinh vô ba,
Thiên địa nhứt sắc hoà,
Huề hữu tiếng trạo ca,
Huề hữu tiếng í i trạo ca ….

Lái giảng viết :
Trạo ca đạo ta phù tá,
Bá trạo à ………….. chèo…………. chèo tới mấy em ôi.
Vong linh Thần giáng hạ linh cơ.

Trạo bắc bài :
Lễ bái phụng thánh ân,
Lai qui ngự Thiên tân,
Giang sơn Thiên cổ tú,
Vạn vật tứ thời Xuân ,
Vạn vật tứ í i thời Xuân

Lái giảng viết :
Thời Xuân vật lạc nhơn đồng,
Bá trạo à…………..chèo……….chèo tới mấy em ôi.
Tất thành ngưỡng vọng Thánh công phò tri.

Mũi viết :         
Bá trạo à ………………. (Trạo dạ)
Thuyền rồng còn lướt sóng, nhưng qua xem
Đường Tiên cảnh còn xa,
Vậy quý em khá nghe qua,
Bắt mai bi chèo tới hồ.

Trạo bắc bài Bi :
Vật quán linh vi tiền kỷ độ,
Tinh anh y cựu biến hoàn xu,
Cảm tất thông cầu chi tất ứng,
Y nhơn quyết thuật tại thiên thu,

Lái giảng viết : 
Thiên thu trạc trạo khuyết linh,
Bá trạo a ø……. Chèo …………..
Phò nguy chuẩn nịch phủ tình xích thương,

Trạo bắc bài bi :          
Ba cổn cổn, thuỷ ươ nương,
Vẩy vùng ngang dọc bốn phương hải trình.
Mặc phò đức cập sanh linh,
Khi đưa ngư phủ khi gìn lông khơi.

Lái giảng viết :
Lộng khơi sóng gió ngất trời,
Bá trạo a ø……….. chèo ……..
Mình làm bữu phiến vớt người trầm luân,

Trạo bắc bài Bi :
Số hệ bởi vì đâu,
Vực bể hoá cồn đâu,
Tiên cung người an phận
Nhà bạc thảm tình sầu.

Lái giảng viết :
Tình sầu thương tưởng ngùi ngùi,
Bá trạo à …. Chèo ………..
Chia ly nở khiến chưa vui lại buồn.

Mũi viết :         
Bá trạo à …………..(Trạo dạ).
Thuyền rồng còn tách bến,
Nhưng nẻo tới hãy còn xa,
Vậy thì mấy em hãy nghe qua,
Bắc mái một âu ta chèo tới hồ ….(Trạo dạ).
Hù hờ, hù khoan, hù là khoan,
Chữ rằng sanh ký tử qui
Thiên trài đã định xưa nay lẽ thường,
Hiềm vì máy tạo, máy tạo khuôn lường
Kẻ dư trăm tuổi, người thường mấy mươi,
Đoái nhìn non nước, non nước chơi vơi
Tứ bề sương toả, ngàn trùng mây che,

Lái giảng viết :
Chơn mây người đã lìa đời
Bá trạo a ơ … Chèo …
Thuyền rộng một chiếc đưa người biệt ly

Mũi bắc mái một :
Cả kiếp sống chịu sầu bi,
Thảm cơn tử biệt sanh ly sự đời,
Gió trăng mây nước chơi vơi,
Tưởng cơn tạo hoá luỵ rơi không ngừng.

Lái giảng viết :
Trời cao vòi vọi mấy tầng,
Bá tạo à …………… chèo
Nở xui đạo nghĩa nửa chừng lại tan

Mũi bắt mái một :
Giờ không tiếng nói lời than
Ngồi trông trời thẳm mây ngàn cao xa
Nhành dâu bóng xế tà tà,
Ngọn đèn gió tạo người đà tầm tiên

Lái giảng viết :
Maõ gai lạy trước linh tiền
Bá trạo a ơ…………. chèo …………
Âm thầm chưa trả hiếu thân vẹn tình

Mũi viết :         
Bá trạo à…………( Trạo dạ)
Thuyền gần miền Tiên cảnh,
Đến xem hãy còn khuya,
Thuyền mấy em sau trước nghe qua
Đình thuyền neo an nghỉ à ……….(Trạo dạ)
( Mủi cho trạo nghỉ hai bên be thuyền)

Mũi viết :
Huý a, Thuyền rồng đà neo nọc
Cớ sao vắng dạng Tổng Thương, cũng lạ

Thuyết : Thuyền đi thì về phần tôi hành thuỷ,
Còn thuyền đậu thì phận sự của Tổng thương sao thấy vãng lai hay là gả ngủ say nên bỏ phế phận sự từ bao giờ tôi vào kêu nó thức dậy, chi cho nó khỏi dễ ngươi, Vậy để tôi vào báo với Đại ca đặng ảnh rầy một trận cho tởn, cái tật của nó biếng nhác đã quen thường bỏ phế phận sự ấy là một bài học hay đặng nó làm hư thanh danh cửa Đạo.
Vậy thì sửa đai cân thấu nhập hậu thuyền,
Tỏ hư thiệt cho người tường tận.

Quỳ viết :
Dạ hậu thuyền thân đáo
Kính bẩm Đại ca

Lái viết :
Nhị đệ (Mũi dạ )
Thuyền đà neo nọc
Sao em không an nghỉ tiền thuyền,
Vào đây có chuyện chi
Nói cho qua rõ với

Mũi viết :
Em vào đây có việc, nào dám bẩm Đại ca

Lái viết :
Có à.

Mũi viết :         
Dạ bẩm Đại ca, thuyền rồng đà neo nọc, mà cớ sao không biết vắng dạng Tổng thương, em trình lại anh trưởng kêu Tam đệ canh thuyền tát nước đó Đại ca.

Lái nộ viết :
Ồ Tổng thương đâu vắng dạng
Mà chẳng thấy canh tuần,
Tổng mũi (Mũi dạ)

Thuyết : Em coi đi coi lại coi nó nằm vất vả ở đâu không

Mũi viết : Em để tâm tìm kiếm, quả vắng dạng Tổng thương đó Đại ca

Lái viết : Ồ, em đã tìm kiếm, quả vắng dạng Tổng thương à.

Mũi viết : Dạ , em không thấy nó thật

Lái viết :
Nếu Tổng thương phế phận, tội ấy ắt về ta, Nhị đệ (Mũi dạ)
Tiền thuyền quay trở lại, mà canh giữ nọc neo,
Để cho qua tuần thám thuyền môn,
Thử như hà cho biết à ……….. (Mũi dạ rồi lui)
Bá trạo a ø…………… (Trạo dạ)
Trưởng hoả đăng………………(trạo dạ)

Thoán loạn :    
Hắc dạ tuần du Nam Bắc
Sơ canh mật thám Đông Tây hồ

Loạn viết ngân :
Hắc dạ sở canh thâm Đông Tây

Lái hát khách : 
Hắc dạ sơ canh thâm Đông Tây
Bả lai đăng chúc vẳng biên thuyền
Cổ hê động địa tam thinh chấn,
Y cựu giang sơn trấn ngả danh

Viết :
Tuần khắp Đông Tây Nam Bắc,
Do hà nào chẳng thấy Tổng thương,
Ồ còn một chổ trung ương,
Mau đến đó thì tường tự sự nào,
Quả thật, quả thật, không sai, không sai,
Quả Tổng thương an giấc trung thuyền,
Mau kêu gả đặng ta vấn tội à….
Cả tiếng kêu Tam đệ Tổng thương,
Mau định tỉnh cho ta hỏi việc.

Thương viết :
Nơi bệ thuyền nghỉ mỏi
Tiếng ai kêu văng dỏi bên tai,
Mau bước tới vội vàng,
Thử như hà cho biết a …

Lái vấn :
Tổng thương do hà ngươi phế nhận,
Khá nói cho ta tường hắc bạch

Thương viết :
Dạ thưa anh , trót đêm ngày em canh giữ trung thuyền nào đâu dám bỏ phế phận sự đó Đại ca.

Lái viết :
Xảo ngữ chơn xảo ngữ,
Hoặc ngôn thị hoặc ngôn a ơ……..
Tội phế thuyền luật pháp khó dung,
Thêm xảo ngữ tội kia không thứ,
Vậy, chấp thủ thần đao bất dung tha Tam đệ.
(Thương đỡ gươm)

Thương viết :
Đại ca tua giảm nộ
Để Tiểu đệ thuyết lại, thiếc lại cho mà nghe

Lái viết :
Thuyết lại

Thương loại viết :
Thưa, kính, bẩm
Vạn vọng Đại ca tua giảm nộ
Đại ca ôi ! Khất dung Tiểu đệ nguyện trần ngôn

Lái viết :          
Nầy Tổng thương, ngươi ngoái lỗ tai mà nghe à,

Loạn viết :
Bảo thủ thuyền trung thừa mạng lệnh
Hà do phế nhận tố nhơn duyên.

Thương loại viết :
Bán dạ thâm canh đa phận sự
Thân tâm Hiền đệ quá hôn mê

Lái viết :
Bất thính, bất thính
Ngoạ ngôn thị ngoạ ngôn
Chấp thủ thần đạo bất dung tha Tam đệ
(Múa chém 3 bộ mủi vào can)

Mũi viết :         
Đại ca tua giảm nộ, đình đao vọng đình đao,

Lái viết :
Hà nhan lại đáo đoạn đao
Nói lại cho ta đặng biết

Mũi viết :
Thưa Đại ca
Ngu đệ là Bạch Hổ Tinh Tổng mũi đây

Lái viết :
Nhị đệ có chuyện chi vào đến trung thuyền
Khá nói lại cho ta đặng biết à,

Mũi viết :
Vậy chớ do hà Anh sát tử Tổng thương
Lẽ hư thiệt cho em đặng rõ với nào.

Lái viết :
Nhị đệ, Em là kẻ vô can
Chẳng ích chi mà hạch hỏi
Vậy thì, em khá trở lại tiền thuyền
Để qua trị Tổng thương kỳ tội, lui cho mau

Mũi viết :         
Dạ xin Đại ca, thỉnh bẩm, thỉnh bẩm,
Tiểu đệ nguyện thiết lại, thuyết lại cho mà nghe

Lái viết :
Thuyết lại, thuyết lại

Mũi loại viết :
Dạ dạ, Bồ bặt a, Tổng thương du hữu tội
Đại ca xá tội,
Lai tỳ đàn hạ, khất Đại ca niệm nghĩa xá chi

Lái viết :
Bất thính, bất thính, mặc văn, mặc văn

Mũi loạn viết :
Hữu thệ a, Đệ huynh đồng huyết khí
Cô mà hay, tình huynh nghĩa đệ
Ca ca hà đoạn tuyệt nhơn luân

Lái viết :
Bất thính, bất thính, mạc ngôn, mạc ngôn
Nhị đệ nghe ta nói đây

Loạn viết :
Bất thứ a, Tổng thương can trọng tội, trọng tội
Nan dung nghiêm, pháp nan dung.

Mũi viết :
Vậy thì Tổng thương phải chết

Ai viết :
Tam đệ ôi ! Qua những tưởng tìm mưu dạy bạn, nào hay qua lại hại bạn đồng thuyền,
Nghĩa hữu giao qua đã phạm lời nguyền
Em tử tội, qua cũng cam đồng chung thác

Hát khách :
Đoạn đạo a, phế can phân ngủ tạng
Trùng chiêm Tam đệ ly triêm y

Than viết :
Đại ca ôi ! nhứt thứ xin anh dung chế
Mới một phen xin lượng cả bao dung
Tình Đệ Huynh xin anh đoái đến nghĩa đồng
Đâu nở để Đệ huynh ly biệt.

Lái viết :
Lỗi ấy luật hình khó chế
Còn tội này Pháp Chánh không dung
Vậy thì, Qua khuyên em
Nơi tiền thuyền em khá tạm lui
Còn tội Tam đệ, để qua trừng trị.

Mũi viết :         
Đại ca ôi ! Xin anh tưởng tình huynh nghĩa đệ
Nới một phen xá tội cho Tổng thương
Mang thi hài mệt nhọc vốn lẽ thường
Tội ngủ không chi rằng phế phận

Lái viết :
Một không tha, hai ta cũng không tha

Nếu Đại ca hẹp lượng
Không tha tội Tổng thương
Lời nguyện xưa em quyết giữ một đường
Cang trọn thệ đồng sanh đồng tử (Móc họng)

Lái viết :
Khoan thác, khoan thác, qua tha hứa qua tha
Một hai ba bốn qua cũng tha, tội 7,8,9, 10 qua cũng thứ
Huý a, có ra sức đá, mới biết được tuổi vàng
Này Nhị đệ, chẳng qua là qua thử bụng em cho biết nghĩa đá vàng,
Chớ đâu nỡ đem Tổng thương xử tử
Khi nghe bạn báo Tổng thương tự sự
Qua cho rằng giận dữ không thương
Nên qua cầm bửu đao qua cắt thử tấm can trường,
Của Hiền đệ đường bao cho biết vật thôi chớ

Lời dặn :
Khi nói qua cầm bửu đao thì Tổng lái rút cây gươm ra đưa ngay mặt của Tổng mũi làm lấy có rồi day cáng đao vẽ chữ thập trên bụng Tổng mũi mới hát câu :
Của hiền đệ dường bao cho biết vậy thôi chớ,

Đoạn dang ra ngó ngay Tổng mũi làm cho Tổng mũi phải thẹn, rồi đi ra sau lưng của Tổng mũi chấp tay sau lưng bước qua bước lại gầm gừ và nói riêng rằng :
Bạn kiếm thêm không hết có đâu dư giết bỏ cho đành
Khi thấy Tổng mũi ra chiều hổ thẹn thì gạn hỏi lại một lần nữa :
Này Nhị đệ, bạn kiếm thêm không hết có đâu dư giết bỏ cho đành phải không Nhị đệ. Rồi cười cho ngon, đoạn muốn an ủi thêm mới ra lịnh tha tội ….

Mũi viết :
Đại ca xá tội Tổng thương à.

Loạn tẩu mã :  
Vậy thì lạy bớ Thương lạy , em lạy ….
Dạ dạ, hỉ địa a,
Lục thuỷ thanh sơn quan bất tận
Đại ca đây, Qua đây, Tam đệ đây
Tình Huynh nghĩa Đệ, kim triêu nhứt khí tương đồng

Nói :
Đại ca đã xá tội đệ thân
Vậy em khá đê đầu cảm tạ đi

Lái viết :
Nhị đệ việc thuỷ trình qua giao lại cho em
Nếu sơ thất tội kia bất thứ đa nghe
Giả từ Nhị đệ ,qua trở lại hậu thuyền
Em dạy dỗ Tổng thương mọi việc à

Mũi viết :
Đại ca đã trở lại hậu thuyền
Ta xem thử Tổng thương bao nả,
Oâi ! Nhìn Đệ thân ta đau xót trăm chiều
Vì phạm tội nên mới ra thân nông nỗi
Tam Đệ ôi ! em khá định tỉnh tâm thần,
Để đủ sức đảm đương phận sự
Qua cho em hay :
Đại ca đã trở lại hậu thuyền
Vậy em khá hồi tâm định tỉnh

Thương than viết :       
Trăm lạy, ngàn lạy Đại ca
Xin xá tội cho em nhờ

Mũi viết :         
Lai tỉnh bới Tam đệ, Tam đệ
Nhị ca Tổng mũi là Qua đây mà.

Thương viết :
Nhị ca ôi ! Thiếu chút nữa thì hồn em lìa khỏi xác
Duyên cớ nào mà em đặng tồn sinh
Xin Nhị ca tỏ nỗi tâm tình
Cho ngu Đệ đặng tường lãn lời với Nhị ca ôi !

Mũi viết :         
Nầy Tam đệ, em đã phạm tội, Đại ca khó thứ dung
Nhưng Qua vào lạy lục khẩn cầu
Ca Trưởng mới tưởng tình dung chế đó đa.

Thương viết :
Té ra nhờ Nhị ca xin tội
Nên Ca trưởng thứ dung
Em đê đầu bái tạ trọng ân
Của Ngu đệ tồn sanh nghĩa trọng

Mũi viết :         
Tam đệ, Qua cho miễn lễ, vậy em khá bình thân
Khuyên Đệ thân canh giữ trung thoàn
Phải coi lấy nước non mà tát à (Thương dạ)
Vậy thì mặt từ giã Đệ thân nơi tiền thuyền Qua trở gót (Dặn Tổng thương tát nước)

Thương viết :   
Thú giang hồ bầu bạn, Miền hạ thuỷ ngao du
Tuy bất tài cũng dự trượng phu
Song có chí lo về việc nước

Lái viết :
Bớ Tổng thương, phải coi lấy nước nôi mà tát à …

Thương viết :   
Đại ca dặn dò sau trước
Bảo rằng ta tát nước thuyền loan
Âu là xách trước đầu vào khoan
Dở sạp nọ hoang mang tát nước à.

Giãng viết :
1- Tát nước giữ gìn sau trước
Việc thuỷ trình sơ lược sao nên

Thuyết :
Thật là thân tôi rất khổ, khó nhọc trăm đường
Nào gạo cơm neo nọc chăm nom.
Nào gìn giữ thuyền trung thiếu thốn

Giãng viết :
1- Khó mới khôn, khôn đừng sợ khó
(Khó như tôi là)
Khó ta từng lắm mực dấy than

Giãng viết :
1 - Tát nước rồi tôi phải nghỉ tay
Phòng khi gió dữ trở day mũi thuyền

Viết :
Nay đã nhàn hạ,rảnh việc nước non
Chạnh thương thay kẻ mất người còn
Khiến chi cảnh sinh ly tử biệt

Ai viết :
Ông ôi ! Mịt mịt kháng sương phong thuỷ lộ
Du du phong thảm ly đàm không,
Ông ôi ! Kham ta hồ, bình địa hoá phong ba
Cam thán giả tiền căn chưởng lý hồ…

Thán viết :
Ông ôi ! Mộng tàn thảo trướng (ừ) luỵ du xiêm y
Sanh ký tử qui (ừ) du kỷ định

Khâm tai :
Nhơn sanh thất thập cổ lai hy …
Ông ôi ! Mục đổ sầu tình (từ) na du ký ngự.
(Đi mà thôi)
Kim kê nhàn tậu đáo thu hàm (ư)

Viết :
Huý a, những mảng ngâm than ba vịnh
Khúc đêm chầy trống đã trở canh
Cả tiếng kêu sau trước quý em (Trạo dạ)
Đêm khuya khoắt canh giờ cho nghiêm nhặt à…(Trạo ơ)

Lái viết :
Bớ Tổng thương (Thương dạ)
Nghe truyền a ø………..
Truyền Đệ thân sắm sửa đèn nhang
Nơi hương án, em khá tua đảnh lễ à……….(Thương dạ)

Thương viết :
Dạ em phụng mạng

Than viết :
Đại ca ôi ! Việc canh tuần em chưa có hản
Lịnh nọ lại vừa sang
Bảo rằng em sắm sửa đèn nhang
Trước linh cửu phòng toan kỉnh lễ
Lịnh trên xuống là không phải dễ
Với phận mình khá nệ nhọc lao
Giữa bể khơi ta mới biết liệu làm sao
Sắm hoa quả phòng toan cúng tế
Âu là ta lai đáo thị trung
Tìm lễ vật hầu toan kỉnh lễ
Nhưng mà đi cũng không dễ
Mà ở lại cũng khó bề
Đi thì ai canh giữ trung thuyền
Còn ở thì quả hoa đâu có
Khó liệu chơn khó liệu
Khôn toan thiệt khôn toan
Làm sao cho trọn đủ đèn nhang
Nếu chẳng có ta mang trọng tội
Thật là khó cha chả nầy (suy nghĩ gật đầu)
Ớ phải rồi tôi nhớ lại
Vả chăng trong Thuyền có ba anh em tôi lớn, nhỏ
Lại đằng sau hậu thuyền còn có thêm một em tôi nữa, đó là Tổng Khậu, giờ này khi nó cũng rảnh, vậy tôi kêu lên đây, cậy nó sắm sửa hoa mới tiện.
Huý a ! Đắc kế chơn đắc kế, thành mưu thị thành mưu
Âu là, bắt mặt để đời, nơi hậu thuyền trở lại.

Viết :
Cả tiếng kêu Tứ đệ hậu thuyền, mau thân đáo cho qua dạy việc
Bên này mầy không nghe tao qua bên kia
Cả tiếng kêu Tổng Khậu hậu thuyền, mau thân đáo cho Qua cậy việc bớ em.

Khậu viết :
Ai kêu Khậu đó, đã có Khậu đây
Muốn nói chuyện chi mà kêu đến Khậu

Thương viết :
Qua là Tổng thương đây em Khậu

Khậu viết :
Anh ba đó phải không ?

Thương viết :
Phải bò ra đây mau bớ em

Khậu viết :
Đêm khuya canh chầy, kêu em có việc chi anh Tổng Thương ?

Thương viết :
Hữu sự tắc cầu, nếu em chầy lâu ắt Qua có tội Khậu à.

Khậu viết :
Để thủng thẳng tôi ra, anh đừng sợ anh ơi
Dữ hôn, từ đầu hôm đến giờ tới tôi đa, nhưng mà để tôi ngâm ít câu chơi rồi ra cũng chẳng muộn.

Ngâm :
Sông Mê bể khổ dập dồn
Khách trần lặn hụp giữa dòng chơi vơi,
Sẵn dây niếu chiếc Thuyền trời
Đưa qua bỉ ngạn lánh đời mê tân

Viết :
Trung thuyền thân đáo, Tứ đệ ứng hầu

Thương viết :   
Giả ơn Tứ đệ, em khá bình thân

Khậu viết :      
Có việc chi, anh kêu đến tứ thân
Xin nói lại cho Khậu tôi đặng biết đó anh Ba

Thương viết :
Nầy Tứ đệ, vì có lịnh Đại ca truyền xuống
Bảo anh rằng sắm lấy hương đăng
Trước linh cửu lễ bày trình diện đó em.

Khậu viết :      
Biểu anh thì anh làm, chớ kêu tôi ra làm chi

Thương viết :
Tứ Đệ ôi ! Nếu Qua đi thì ai canh giữ nội thuyền còn Qua ở lại thì ai đi thế. Nên Qua kêu Tứ đệ xin cho anh, hầu sắm hoa quả hương đăng mới cậy em đi thế đó .
Những tưởng việc chi rằng khó
Chớ chuyện đó tôi dưng
Song tôi phải dặn chừng, cúng rồi để tôi dọn kiếm ăn.

Thương viết :   
Uý a, vâng lời Tam Ca lịnh dạy, Khẩu trở lại hậu thuyền
Sắm quả hoa lai đáo linh tiền
Đặng giúp sức Tam ca kỉnh lễ
Nhưng mà đường đó đây không dễ, có nhiều khúc quanh co
Âu là , mượn chèo loan khoá thuỷ lần đò
Nơi Thuyền hậu mặt ta khoái bộ a ….

Loạn viết :       
Vâng thừa a, Tam ca truyền mạng lịnh
Hải biên lai đáo đến chợ đông
Vọng khám a, con buôn xạo xự
Vậy thì ta sắm hoa, sắm quả sắm trà nhang.

Viết :
Bá trạo ………mấy em đem chiếc xuồng thúng để xuống nước dùm Qua (Vừa chèo thuyền vừa hò theo điệu chèo ghe, ra sau khuất mặt hát nghêu ngao câu đầu)
“Trăng thanh mặt biển lào xào,
Nhạn rơi giỡn sóng, cá nhào hớp châu”

Thương viết :   
Từ ta sai Tứ đệ trở lại hậu thuyền
Sắm hoa quả lai đáo tiền bàn
Sao chẳng thấy phản hồi
Ta những ngồi trông đợi
Cả tiếng kêu Tứ đệ hậu thoàn
Trương tế vật cho qua kỉnh lễ
Mau đi bớ Khậu ôi !

Khậu viết :
Ơi, ủa dạ
(Cầm chèo theo điệu chèo thúng bơi ra nhưng cứ ngồi chèo quay tròn mãi Tổng Thương hối nữa).

Khậu nói :
Tôi đây bị nước xoáy hay sao mà bị quay tròn mãi đó anh Ba ôi!
(Bá trạo đều cười rộ lên, Anh Khậu không biết chèo xuồng thúng nên quay chớ nước xoáy gì ở ngoài biển, Khậu vẫn chèo quay mãi, rồi lại cất tiếng hát theo điệu chèo).

Hát :
Con cá lý ngư sầu tư biếng lội
Con chim phụng hoàng sầu cội biếng bay
(Ngồi theo điệu chèo thúng bơi vô tới sân khấu mới đứng dậy thở hào hễn và tiếp nói.)

Nói :
Dạ quả hoa em sắm trang hoàng
Xin anh đến linh tiền kỉnh lễ bới anh Ba.

Thương viết :
Vậy thì ta bước vội vàng đặng tiếp kỳ báo vật,
Giả từ Tứ đệ, em khá bình thân

Khậu viết :
Phận sự em đã đủ đoàn hoàng,
Vậy nơi Trung Thoàn em trở lại.

Thương viết :
Cậy đệ thân canh giữ Trung Thoàn
Còn việc kỉnh lễ để qua lo toan liệu.

Cúng tế, ai viết :
Ngài ôi ! Trước án nội nén hương xin kính
Nơi quan tài ly rượu tiễn đưa
Chốn Thiên cung lễ vật là thừa
Nơi trần thế tôi xin dâng ba lạy
Ngài ôi ! Nay ngài đã tiên du một giấc
Đạo đồng môn tưởng nghĩa hằng ngày
Lẽ mất còn cơ tạo khiến vay
Còn lòng thảo kính người đời ai cũng vậy,
Nay tuy hỡi linh thi còn thấy,
Mai thôi đành phận mộ đưa sang
Nhớ nghĩa xưa luỵ nhỏ hai hàng
Nhìn cảnh cũ sầu tuông lả chả
Trong đàng trước ngọn đèn chấp choá
Tưởng tình xưa bóng nọ hỡi mơ màng
Cắc cớ thay cho quán Âm Dương,
Thày lai bấy chiếc đò tạo hoá,
Vậy thì cả anh em tua khá niệm cùng ta
Nơi trước bài Lễ nghinh hương đăng chúc bài khai.
Tạc thủ lễ cho tròn đạo nghĩa
Cảnh biệt ly lòng những ngậm ngùi
Sanh ký giả, tử hề qui giả.

Giảng viết :
1- Luỵ thâm bâu đêm sầu ngày nhớ
Buồn cảnh nầy chồng vợ rẽ phân
2- Khóc than luỵ tràn không ráo
Biết ngày nào tái tạo kiền khôn
3 - Véo von bóng nguyệt tà tà Mây sầu lố xố người đà tầm tiên

Viết :
Lòng kỉnh thành một lễ đã an,
Đầu từ tạ linh sàng, chơn lui về thuyền nội
Nầy Tứ đệ, việc kỉnh thành một lễ đã an
Xin Đệ thân thấu nhập tiền bàn
Đối đèn nhanh kỉnh lễ cho an
Bổn phận phải làm tròn bổn phận

Khậu viết :      
Dạ em xin phụng mạng
Ngài ôi! Trước quan tài Khậu đốt hết bó nhang,
Cầu linh hồn Ngài trở lại Tây Phan
Nương phướn Đạo qui hồi cựu vị
Ngài ôi! Bó nhang Khậu đốt còn ly rượu nọ, Khậu xin dâng nguyện linh hồn ẩm tửu nhứt bôi,
Chứng lòng nghĩa toàn nơi bổn Đạo
Đã kỉnh thành một lễ đã an
Đầu tạ từ linh sàng, Khậu thối hồi thuyền nội
Cả tiếng kêu kìa hỡi anh Ba
Mau lãnh việc đặng tôi đi ngủ.

Thương viết :
Tứ đệ, em cúng rồi đa há
Việc canh tuần anh khá mỏi mê
Em thay thế cho qua đôi phút
Ước đặng cùng chăng Tứ đệ

Khậu gầm gừ nói :
Thì cái mửng cũ, sai hoài, mượn hoài, mình muốn từ khước cái đi, nhưng nghĩ đến sự cực nhọc của anh nên không nỡ. Thôi thì mình thử làm ơn cho anh một phen nữa coi ảnh có biết ơn nghĩa với mình chút nào chăng.
Dạ thưa anh Ba, anh mượn là em xin phụng mạng.

Thương viết :   
Mặt từ giả Đệ thân
Nơi hậu thuyền qua an nghỉ

Khậu viết :      
Tam Ca đã vào sau an nghỉ
Chừ một mình tôi, khuya khoắc lo âu
Vậy thì kêu mấy đứa Trạo thức với mình cho có bạn
(Kêu mấy đứa Trạo dậy, nó buộc câu cá cho nó ăn nên hoà ước bằng miệng rồi câu).

Viết :
Đã ký xong hoà ước, Trạo không mét thót chi
Âu là xách cần nọ ngồi câu

Ngâm :
1-Trần ai, ai dễ biết chi đâu
Ông Lữ ra tài giả chước câu
Sợi chỉ kinh luân đầm đoái bích
Miếng mồi thao lược thả dòng châu

2 - Nhợ dài cần vắn thả vòng câu
Lòng muốn câu công với hiều hầu
Chí quyết câu rồng nằm đáy biển,
Nào ai ham cá hội ngoài sâu
(Câu hụt bị Trạo cười kêu ngạo, Khậu than)
Suy ra đà tuột mấu,
Nghĩ lại cũng vuột kho,
Chi nữa, bốc cần nọ cuốn vò
Đặng toan lo việc khác

Lái viết :
Canh gà đà nhặt trổi
Bóng thỏ đã trải ngang.
Cả tiếng kêu Tam đệ Tổng thương
Nổi đăng chúc tuần du Thuyền nội a ø…

Thương viết :
Phụng mạng,
Tứ đệ, Đại ca đà xuống lịnh
Qua cùng em kiếp thửa tuần canh
Vậy thì Qua truyền cho em
Nối đăng chúc huy hoàng
Ngỏ cùng nhau tuần thám a ø…

Khậu viết :      
Bá trạo, truyền trạo phu sắm sửa hoa đăng
Đặng cho mỗ tuần du thuyền nội à,
Dạ dạ, hoả đăng Khậu đã sắm rồi
Trình Tam ca sử dụng,

Thương viết :
Vâng Đại ca lịnh dạy
Ta tuần thám thuyền loan
Tuân lịnh thừa tràng
Quang phòng thuyền nội

Khách :           
Phụng mạng Đại ca truyền mạng lịnh
Tuần du thuyền thượng thủ chư linh
Giáo dục trí a, thuyền môn đồ xã tắc
Kinh thân như thử tận lực đồ vương

Viết :
Những mảng tuần du thuyền thượng
Phúc nghe qua ngọn gió thổi vào
Anh em ta biết liệu làm sao
Vậy thôi thì ta trở lại hậu thuyền
Đặng báo lại Ca trưởng
Đại ca ôi! Giông bớ Đại ca giông

Lái viết :
Giông hiền hay giông dữ

Thương viết :
Đến nỗi này mà anh còn hỏi giông dữ hay giông hiền.
Anh xem kia kìa
Trời kia đà xuống gió. Mây nọ khác dường mây.
Trăng kia đà khuất nặng về Tây
Thuyền mau kiếp lui về bãi nhạn

Giảng viết :      
Chèo, anh em ôi

Vát nam :        
Ta kiếp lui về bãi nhạn
Nguyện Thánh Thần cứu nạn phong ba

Lái giảng viết : 
Em ôi! Ngó lên sao đã mịt mờ
Khuyên em bước tới mở mồi kéo neo

Tẩu mã :
Chấp ngữ a, phong ba tu chấn chỉnh

Viết :
Bớ thương, bớ thương, sao không kéo neo còn đợi chừng nào.

Thương viết :
Thuyền thì Thuyền to, neo thì neo nặng
Để em coi đi coi lại cho chững chàng
Có quả giông lớn cùng không
Quả thật vậy rồi, anh ôi!

Tẩu mã tiếp :
Chỉ bị lâm nguy cứu nhứt thời
(Lý kéo neo)
Nước sang neo thẳng đi tợ đờn
Ta Lý ôi nghe ta hò, Lý tình tang, Neo thẳng tợ đờn
Ôi chúng kềm đá vẹt chú hú lơ tay sang mồi.
Là hu mở mồi, á lơ là hởi hò lơ
Ai mà khinh kẻ kéo neo, ca ra bạn tình
Ơi thời hù khoan, hú hụi tình tang lộn tính tính tang hởi tình
Dở nghèo đòi phen hò hởi hò lơ
Hai tay ôm lấy cái neo hò khoan
A ý a, hè hụi, neo treo lên rồi, là hởi hò lơ

Lái viết :
Neo kia đà lỏng (bá trạo)
Truyền bá trạo gay chèo
Nhị đệ khá nghe theo
Trở thuyền lại hoang mang trực khứ

Giảng viết :      
Trực khứ qua miền Bắc Hải

Nam chạy :     
Nguyện Thánh Thần, Ngài độ khỏi cuồng phong

Mũi hát nam :  
Lạy trời bớt gió ngừa mưa
Mây tan gió lặng thuyền đưa vững vàng
Khậu và Thương bát nam :
Cứu nàn nhờ có khuôn linh, kìa …..kìa …
Mây tan gió lặng thuyền đưa vững vàng

Khậu báo :
Dạ dạ, hết giông rồi bới Đại ca

Lái viết :
Huý a, nay đã phong thanh nguyệt bạch
Lại thêm đường hải nhuận sơn cao
Nhị đệ cùng Tam đệ
Vậy thì trở thuyền lại nghêu ngao
Đặng dạo chơi cảnh lạ

Giảng viết :
Cảnh lạ nhìn xem không lạ
Cúi đầu từ bái tạ thần linh
Đoái nhìn phong cảnh hữu tình
Kìa non Hàn Tín, nọ gành Thái Sơn

Thương và Khậu hát :
Rày mừng hội hiệp rồng mây
Xuân Thu tứ quý tạc thay thái bình

Mũi viết :
Bá trạo à, thuyền hồng đã kề nơi bể Thánh
Thuyền trạo phu sắp ngọn chèo loan
Đưa chư linh vào cảnh an nhàn
Lui thuyền lại chúng ta an nghỉ à…
Việc hầu Thần một lễ đã an
Truyền thuỷ thủ lưỡng ban,
Cúc cung đồng bái tạ a ø….
CHUNG
   Home        1 ]  [ 2 ]  [ 3 ] 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét