Dầu
Không Thiên Phong, Hễ Gắng Tâm Thiện
Niệm Thì Địa
Vị Cũng Đạt Đặng. (Đàn 19-12-1926).
Thay Lời Tựa
NGỌC
ĐẾ VIẾT CAO ĐÀI
BỒ
TÁT MA HA TÁT
CAO
ĐÀI
Lịch con nghe Phật Như Lai nói chưa?
Là Phổ độ lần thứ ba.
- Sao gọi là Phổ độ?
Phổ là bày ra, Độ là cứu chúng sanh.
Chúng sanh là gì?
Chúng sanh là toàn cả nhân loại, chớ không phải là lựa chọn một phần người như ý phàm tục các con tính rỗi.
- Muốn trọn hai chữ PHỔ ĐỘ phải làm thế nào?
Phải bày bửu pháp (Tịnh luyện) chớ không đặng dấu nữa. ([1]).
Nghe và phải tuân theo.
Đàn đêm 26,02 Bính Dần
(08.04.1926)
(TNHT Q1 in 1950, trang
13)
Bài Thánh Ngôn trên xác
nhận Phổ Đô và Tinh luyện song hành từ khởi đầu.
Đàn đêm, mồng 07.01 Tân
Mão (1951)
DIÊU TRÌ KIM MẪU
Mụ mừng các Thiên Mạng.
Hộ Pháp: Xin nghe...
………………………
Hễ làm Mẹ quyền hành dạy trẻ
Con dừng lo mạng thế thi phàm
Huyền Linh Mẹ chịu phần cam
Ban cho con trẻ (HP) vẹn toàn Pháp môn (TL)
Độ cho hết các hồn địa giới
Độ vong lính từ ngoại càn khôn
Cửa linh cầm phướn chiêu hồn.
Độ
trong Cửu nhị nguvên nhân nhập trường...
(Trí Huệ Cung, in
1973, tr29)
Bài Thánh Ngôn trên cho toàn Đạo biết, Đức Phật Mầu
ban cho Đức Hộ Pháp vẹn toàn Pháp môn Tịnh Luyện, mà chỉ dạy lại các hành giả.
Tiếng chuồng Thiền Định đã gióng lên từ
THIÊN HỈ ĐỘNG
CHƯƠNG I
ĐƯỜNG
VÀO THIỀN ĐỊNH
TIẾT 1
DẪN
NGUỒN TU TỊNH
1 . Bản sắc Văn Hoá Cao Đài:
Từ thê kỷ XI, văn hoá Việt Nam vận động theo tinh
thần Tam giáo đồng nguyên. Tuy Nho giáo chủ đạo mà vẫn giao lưu với Lão giáo và
Phật giáo. Tinh thần Tam giáo là sự giao hoà giữa xuất thế và nhập thế, dù xuất
hay nhập vẫn với tinh thần vô tư, vô ngã vượt trên dư luận thị phi, lướt trên
những điều tầm thường của thế tục, tổng hợp lòng nhân đạo và tính nhân ái.
Trong truyền thống đó, đầu thế kỷ XX xuất, hiện Đạo
Cao Đài với chủ trương Tam Giáo qui nguyên, suy tôn Trạng Trình Nguyễn Bỉnh
Khiêm là Sư phó Bạch Vân Động chuyển đạt tình thần Tam Giáo đồng nguyên vào Đạo
Cao Đài.
Đạo Cao Đài phát triển trên đất nước Việt. Nam nên
ảnh hưởng sâu đậm tinh thần Tam Giáo và truyền thông Thiền Việt Nam. Tuy nhiên
sự kế thừa có chọn lọc, có sáng tạo để trở thành bản sắc văn hoá Cao Đài ([2]).
2 . Chơn Pháp Chí Tôn không
chia hai:
Ngay từ đầu, khi soạn thảo bộ Tân Luật, Hội Thánh
Cao Đài đã dành Phần thứ ba cho luật Tịnh Thất, gồm phần mở đầu và 8 điều, qui
định một cách tổng quát: Tịnh Thất phải có một Tịnh chủ điều khiến thời giờ
công phu, điều kiện nhập tịnh, chế độ ăn uống... (xem Chương II).
Pháp Chánh Truyền qui định các Tịnh Thất đặt dưới
sự trông nom của Thượng Phẩm. Như vậy Thiền Định nằm ở Hiệp Thiên Đài, nghĩa là
vị Chưởng quản Hiệp Thiên Đài là Hộ Pháp chịu trách nhiệm tối cao về Bí pháp
tịnh luyện.
Bí pháp là quyền năng của điển lực cơ giải thoát.
Phận sự thiêng liêng của Hộ Pháp là nắm Bí Pháp để chỉ bày cho chúng sanh tự
giải thoát chính mình. Việc phổ độ là đưa người vào cửa Đạo rồi nương theo các
tổ chức mà lập công, lập đức. lập ngôn đê Liêu trừ nghiệt chướng đặng vào nhà
tịnh, cả hai phần nằm trong chính thể Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Hội Thánh có nhiệm
vụ thực hành trọn vẹn cả hai. Tuyệt nhiên trong giáo pháp chơn truyền của Đức
Chí Tôn không có sự phân chia làm hai bao giờ. Ý đồ phân chia là nhằm biện minh
cho việc chia rẻ chi phái.
Bí pháp và thể pháp tương liên với nhau như bóng
với hình, Hễ có hình là có bóng, có bóng là có hình, như lời kinh tụng niệm
hàng ngày là cái thể mà sự giác ngộ mới là cứu cánh. Vì vậy, yếu tô" quyết
dịnh sự thành bại trên đường tu là công quả phụng sự vạn linh, trau dồi đức hạnh
để nâng cao Thánh chất cho Tinh hoá khí, Khí hoá Thần, Thần hườn hư. Thế nên,
dù Đức Phạm Hộ Pháp đã qui thiên, phần Bí pháp vẫn có chơn linh tiếp nối. Nền
Đạo luôn lưôn có nhiều bậc chơn tu ẩn dạng chứng ngộ với tâm linh sáng suốt
thông hoạt giúp đỡ chỉ dẫn người hành giả đi sau thọ truyền Bí pháp.
TIẾT
2
ĐẠI
THIÊN PHONG VÀO TỊNH THẤT
A . THẢO XÁ HIỀN CƯNG
& LUẬT TAM THỂ
1 . Thảo Xá Hiền Cung:
Khi Hoà Thượng Như Nhãn đòi chùa Từ Lâm, Đức Cao
Thượng Phẩm di cốt tượng Phật Tổ về chùa mới, đồng thời về đất tổ tiên ở cửa
Đồn (nay là Khu phố 4, Phường 2 Thị xã, Tây Ninh) cất một cái nhà tranh. Ngày
12.6-Mậu Thìn (28.07.1928), bà Thất Nương giáng ban cung hiệu là THẢO XÁ HIEN
cung bằng hai câu liễn:
THẢO XÁ tuỹ
nhơn, ngu muội bần cùng nghinh nhập thất
HIỀN CUNG trạch
khách, thông minh phú quí cấm lai môn
Từ đó các chức sắc Đại Thiên Phong như Đức Quyền
Giáo Tông, Đức Phạm Hộ pháp, Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu, Đầu sư Hương
Hiếu... thường họp mặt ở đây để cầu cơ vì Toà Thánh đang xây. Bỗng đâu đất bằng
sóng dậy, ông Nguyễn Phát Trước (lãnh tụ phá khám lớn Sài Gòn) thọ phong Chưởng
Nghiêm Pháp Quân đưa một nhóm người từ Sài Gòn về Toà Thánh đuổi Đức Cao Thượng
Phẩm ra khỏi chùa trong 24 giờ. Đức ngài quá buồn trở về Thảo Xá Hiền Cung tịnh
luyện.
Nỗi oan khiên của Đức Cao Thượng Phẩm được đồng đạo
đến thăm và chia xẻ nỗi buồn. Trong số đó có Phối Sư Thượng Tông Thanh, người
Trung Hoa tặng Đức Ngài hai bức khảm xà cừ có chạm bài thơ tứ tuyệt. Trong bài
thơ có ba chữ “độc huyên nghiên” (hoa mai đơn độc) mang triết lý thiền hợp vđi
tâm sự, nên Đức Ngài cho treo tại Thảo Xá Hiền Cung. Nội dung như sau:
THI
Chúng
hoa dao lạc độc huyên nghiên,
Chiêm
đoán phương tình nội tiểu viên.
Sơ
ảnh hoành tà thiểu thanh đạm
Ám
hương phù động nguvệt hoàng hôn.
DỊCH THƠ
Ngàn
hoa rơi đoá đẹp còn vương,
Lặng
ngắm vườn con tình ngát hương.
Bóng
nhạt khẽ mơn làn nước lạt,
Hương
thầm khơi nhẹ trăng chiều hôm.
Bài thơ này của Lâm Bô (967 - 1028) đời Tống nguyên
bản là bài bát cú, Phối Sư Tông chỉ chọn 4 câu đầu, có các chữ: “Chiếm tận phương
tình hướng” sửa thành “Chiêm đoán phương tình nội...” và “thanh thiển” ra
“thanh đạm”.
Kể từ đó Ngài tịnh ở Thảo Xá Hiền Cung. Một hôm,
Đức Ngài và Đức Phạm Hộ Pháp phò loan được Đức Chí Tôn dạy:
Con ráng nhịn cơm chừng ba bôn bữa nữa đặng Thầy
dùng Huyền Diệu Pháp mà trị cho con mạnh, miễn đừng ăn món chi phạt tỳ.
Đàn cơ đêm kế, Đức Chí Tôn cho biết bịnh của Đức
Ngài là cơ thử thách: “Phải, con bịnh như vậy đặng trừ bớt thử thách của chư
Thần, Thánh, Tiên, Phật đương lo lập vị của mỗi đứa.
Thầy thấy con bịnh phổi và bao tử, nên cho Huyền
diệu pháp cho con khỏi ăn đôi lúc để thiệt mạnh. Hai cơ khí ấy vốn là hình
chất, nên khó lấy huyền diệu mà trị. Thầy buộc ngưng phận sự nó đặng tiếp dưỡng
huờn nguyên.
Không ăn mà sống. Trong không khí tuy phàm nhãn
không thây đặng. Không khí chứa đầy tiếp dưỡng cho xác trần, nhờ nó biến hoá
chúng sanh đặng.
Vật chất phải tiêu mà khí phách vẫn còn. Thảo mộc
dầu phải chặt rã ra mà khí phách vẫn vậy. Con tưởng xác chôn rồi, trong xác ấy
cho huờn nguyên khí phách mà hiệp lại cùng không khí chăng?
Các khí con hớp hàng ngày ấy như bữa cơm con ăn đó
vậy. Thầy sửa cơ khí phàm cho bao tử có huyền diệu pháp mà tiếp cái khí làm ra
vật thực nuôi nấng lấy mình. Nhờ vậy, nhiều đứa xác vẫn còn mà đắc Đạo tại thế,
tuyệt cốc xác thân chẳng hại chút nào?
Khi Đức Chí Tôn giáng trần khai đạo, giáng huyền
diệu cơ bút thâu môn đệ, dạy thờ Thiên Nhãn trước hết cũng tại nhà Ngài... Đến
khi gặp cơn khảo đảo buộc phải lui về tư gia, buồn lòng thất chí nên lâm bịnh
nan y khó trị liệu (Theo Đạo sử xây bàn của Bà Đầu sư Hương Hiếu).
Vì lẽ ấy, Hội Thánh lập một Tịnh Thất nơi cụm rừng
gần Báo Ân Từ (tức phần đất thuộc Nhà Vạn Linh hiện nay), để rước Đức Ngài về
tịnh luyện. Bảy giờ sáng ngày 15.10 - Mậu Thìn (1928) một đoàn xe hơi gồm chức
sắc Đại Thiên Phong đến Thảo Xá Hiền Cung rước Ngài về Toà Thánh nhập Tịnh
Thất.
Vào Tịnh Thất một thời gian, bịnh trạng không
thuyên giảm nên bà Hưđng Hiếu đưa Ngài trở về Thảo Xá Hiền Cung.
Đến 11 giờ ngày 01.03 - Kỷ Tỵ, Đức Ngài cho mời Đức
Phạm Hộ Pháp... đến mà trối rằng: “Nay Qua về chầu Đức Chí Tôn, em ở lại hiệp
với chư chức sắc chung lo nền Đạo của Thầy cho được vẹn toàn”, rồi xuất hồn êm
ái của một chơn linh đắc đạo, nét mặt Ngài như người đang ngủ.
Trong lúc tang lễ, chư chức sắc Hiệp Thiên Đài cầu
cơ, Đức Ngài giáng đàn tỏ vẻ vui mừng, được bái mạng Đức Chí Tồn và Đức Phật
Mầu. Thiên đình đã nhận công tròn quả mãn nên đắc vị Kim Tiên.
Đức Ngài cho một bài tứ tuyệt:
THI
CAO
thanh miệnq thế mặc chê khen,
THƯỢNG trí
màn chi tiếng thấp hèn.
PHẲM cũ
ngôi xưa dầu rõ giá
Từ
bi tập tánh được thường quen.
* * *
Sau mãn tang, bà Hương Hiếu hiến đất và Thảo Xá
Hiền Cung cho Hội Thánh, rồi bà nhận lịnh hành đạo (1930) ở Sa Đéc. Hội Thánh
cho cất lại Thảo Xá Hiền Cung bằng ngói âm dương với 4 cột gõ to, mặt tiền cất
thêm một. Thánh Thất gọi là Thánh Thất Tây Ninh. Châu Đạo Tây Ninh đặt ở tại
đó.
Cơ Đạo ngày một phát triển, nên năm 1992. VĐ và một
số đạo tâm đề xuất: tách rời Thảo Xá Hiền Cung và xây dựng bằng vật liệu nặng.
Thảo Xá Hiền Cung mới xây phía sau Thánh Thất Thị Xã (tên mới của Thánh Thất
Tây Ninh), cách nhau độ 10 mét. Thảo Xá Hiền Cung mới bỏ 4 cây cột gõ thay bằng
4 cột trụ ciment cốt sắt. Mái ngói thay bằng mái uốn cong và đổ ciment làm ngói
giả rồi quét nước sơn màu rêu. Ngôi nhà hình vuông mở 4 cửa. Cấu trúc nội thất
vẫn theo truyền thống cũ, có 3 gian. Mặt trước gian giữa thờ Tam hiển bộ tức ba
thân sinh của ba vị thiên sứ, trong ý nghĩa “nhứt nhân chứng ngộ, thất tổ siêu
thăng, là 1. Xuất Bộ Tinh Quân Cao Quỳnh Tuân thân sinh Cao Quỳnh c.ư, 2. Ngân
Hà Công Bộ Phạm Công Thiện thân sinh Phạm Công Tắc, 3. Xuyên quan Tư Bộ (bên
phải) thân sinh Cao Hoài Sang.
Đây là nơi duy nhứt thờ ba vị. Chính giữa Thảo Xá
Hiền Cung thì đắp tượng Đức Cao Thượng Phẩm trong thế đứng uy nghiêm. Bên gian
trái thờ Bảo Văn Pháp Quân Cao Quỳnh Diêu. Bên gian phải thờ Ihân mẫu của ông
bà.
Những kỷ vật còn lại trong tư thất là: 1. Chiếc bàn
tròn để xây bàn đầu tiên (chỉ có ba chân), 2. Đôi liễn treo ở hai cột trưổc, 3.
Hai tấm sơn mài có bài thơ tứ tuyệt đã dẫn trê, 4. Bức hoành phi có hai chữ “Kỳ
Can”.
Sau lễ Khánh thành Thảo Xá Hiền Cung, TPVĐ được
lịnh Đức Hộ Pháp chú giải Tịnh Thất. Viết xong TPVĐ đặt lên bàn thờ Đức Cao
Thượng Phẩm. Vào đêm 13.06 - Quí Dậu, Đức Cao Thượng Phẩm giáng dạv:
“Chào hiền hữu,
Bần Đạo được Đức Hộ Pháp cử đến giáng đàn chuẩn y:
- Tịnh Thất chú giải.
- Trường Dưỡng Tinh Khí Thần.
Bần Đạo khen tất cả mấy em công thợ đã vượt qua mọi
gian khó để xây cất Thảo Xá Hiền Cung và trùng tu Thánh Thất Thị Xã. Bần Đạo
nhập vào cốt tượng để ban ơn cho toàn Đạo.
Việc hoàn thành Thảo Xá Hiền Cung là tiếng chuông
cảnh tỉnh cho các Tịnh Thất khác sớm trùng tu.
Tu chơn không áo rộng mũ cao mà nội tâm thiện từ
sáng suốt cũng đạt thành chánh quả như con đường cửu Phẩm.
Bần Đạo ban ơn cho toàn đạo”.
Việc chuẩn y “Tịnh Thất chủ giải” là việc quan
trọng, đánh dấu bước tiến đến tu chơn, nên thiết lễ tại Thảo Xá Hiền Cung.
Đêm hôm đó, sinh viên kiến trúc tên Hưng ở cửa số 7
thấy huyền diệu hào quang hiện lên hưđng Thảo Xá Hiền Cung. Hưng ra tận nơi gặp
thủ Lự Nghĩa hỏi hiện tượng đêm qua. Nghĩa xác nhận có lễ chuẩn y tập sách
TDTKTh. Hưng nhờ Nghĩa đưa đến nhà riêng gặp VĐ.
VĐ mở đường tu cho Hưng bằng các công án:
- Tức Đạo tức Tâm hà phương kiến.
(Tâm là Đạo, Đạo là Tâm), tìm ở đâu?)
- Nhơn nhơn hữu cá linh quang điểm,
Bất tạ sơ thông tắc bất minh.
(Mọi người đều có điểm linh quang,
Chẳng khai thông thì chẳng sáng).
Trước đó, vào ngày rằm tháng 4 năm Quí Dậu (tức sau sát ngày triều Thiên của
Đức Hộ Pháp). Trong lễ ngọ thời, lúc nhạc tấu Quân Thiên: Phật Tiên, Thánh ngự
đàn VĐ thoáng thây Đức Hộ Pháp nhá Kim Tiên khai huệ quang khiếu, mắt đổ hào
quang hiện Diệu Quang Tam Thanh.
Đêm hômđó, Đức Hộ Pháp giáng dạy:
“Hiền đồ muốn hỏi về Lễ Ngọ thời trưa rồi có phải?
Bần Đạo đã nói vào tai hiền đồ: đó là Lễ Truyền Tự Pháp, hãy để cho mọi người
khám phá sự CHỨNG NGỘ của môn đệ, trước khi mốn đệ cho họ biết.
Tự Pháp là nối tiếp và truyền các bí pháp còn dang
dở... Bần Đạo sẽ chuyển tâm ý nhơn sanh, rồi hiền đồ sẽ thấy người ta tìm đến
học Đạo. Lúc đó, Bần Đạo chỉnh lơ hiền đồ đóng cửa nhà mà không tiếp khách,
cười!”.
(Thánh Giáo BV Quán, in 2006, tr. 77)
2 . Luật Tam Thể:
Luật Tam Thế do Đức Cao Thượng Phẩm, Bà Bát
Nương... giáng cơ về bí pháp tại Giáo Tông Đường hoặc Bộ Pháp Chánh trong
khoảng thời gian từ 1950 - 1952, do chức sắc Hiệp Thiên Đài từ phẩm GiámĐạo trở
xuống cầu cơ học hỏi.
Vào đêm 28.07 - Canh Dần (1950), Đức Cao Thượng
Phẩm giáng dạy:
“ Bần Đạo đêm nay đến dạy các em về mặt tinh thần
đạo đức. Bần đạo dạy về Tam Thể của con người.
Con người có ba thể;
Thể thứ nhứt ỉà xác thân do cha mẹ sanh ra.
Thể thứ nhì gọi là Đệ nhị xác thân của Đức Phật Mẫu
ban cho. Còn thể thứ bà là linh hồn do Đức Chí Tôn ban cho. Trong ba thể ấy
hiệp lại mới thành con người, nhưng bản chất khác nhau.
Thể
thứ nhứt là xác thân có ngũ quan, biết cảm giác xúc động, do nơi bẩm sanh của cha
mẹ mà biến tướng ra. Nó cũng như con vật.
Thể
thứ hai là Đệ Nhị xác thân tức là chơn thần của con người. Người đời gọi là vía
hay là hào quang. Nó theo cái thể thứ nhứt mà biến hình.
Thể
thứ ba là linh hồn do Đức Chí Tôn chiết xuống để cho con người hiểu biết và khôn
ngoan hơn loài vật. Vậy thể thứ ba như người cầm cương con vật.
Ba thể ấy khi nào hiệp một thì con người ấy mới
thâu hiểu thiên cơ của Đức Chí Tôn. Một khi con người đã thấu hiểu đước Thiên
cơ thì người ấy đã đạt Đạo. Bởi vậy, người tu cần phải lập luyện thể nào cho
Tam Thể ấy được tương liên với nhau thì con người mới trở nên sáng suốt hơn kẻ
thường tình.
Phương luyện kỷ đặng tương hiệp Tam Thể thì Đức Hộ
Pháp đã dạy từ lâu rồi, các em quên sao?”.
(CTPh và Luật Tam Thể,
in 1972, tr.139)
Đàn đêm 07.08 - Canh
Dần (18.0911950) giáng đàn dạy tiếp về Tam Thể và cho hai bài thi:
ĐỆ NHỨT XÁC THÂN
Bản chất vốn sanh bởi địa hoàn,
Âm dương nhờ đó mới thành căn.
Nhựa
nhành do bởi mầm vi tô' [3]
Máu
huyết nảy sanh vật hữu thân.
Nhờ
hưởng khí trời nên được sông,
Nương
theo vị đất đặng hằng sanh.
Kiếp
căn bao thuở đà tiền định,
Vi
tố đến hồi trở lại căn.
CTP
ĐỆ NHỊ XÁC THÂN
Nguyên
lai bản chất vốn trung bình,
Lục
dục thất tình vẫn vẹn thinh.
Phật
Mầu ban cho nên đức tính.
Chí
Tồn trau sửa được thành hình.
Ruộng
cày sáu mẫu [4] lo vun quén,
Nhà
ở bảy căn [5] ráng gìữ gìn.
Trở
lại ngôi xưa thờ khéo dưỡng
Yêu
thương Phật Mau tạo nên hình.
Tóm lại, Luật Tam Thê gồm có ba phần:
1 . Phần dạy đạo của Đức Cao Thượng Phẩm.
2 . Phần dạy đạo của Bà Bát Nương.
3 . Dạy về Bát Hồn
B . TOẠ THIÊN (Ngồi tĩnh tâm)
1 . Muốn toạ thiền, trước
hết phải nhập định.
Nhập định là làm cho tinh thần yên ổn, không suy
nghĩ điều chi, chỉ nuôi dưỡng duy nhứt tư tưởng Thánh thiện trọn lành.
Đàn đêm 28.01 - Nhâm Thìn, Bà Bát Nương dạv:
“ Chị để lời khuyên mấy em, đừng lầm tưởng là phải
yên tịnh một nơi mới thâu kết quả. Mấy em phải tập làm thế nào cho tâm được,
cải tịnh ờ trong cái động thì mới nên đó, bằng chẳng vậy quỉ mị sẽ vua theo,
chỗ an tịnh riêng mình là dẫn nẻo nó đó nghe.
Phải để tâm cho lắm mới được. Nói rõ hơn là Chơn
thần muốn tịnh lúc nào cũng được, chẳng nệ đông tiếng ồn ào, việc làm bề bộn”.
Đó là lối tịnh của Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn
Trung, xin theo dõi dưới đây.
. Đêm mồng 5.12 - A't Sửu (1926), Đức Chí Tôn dạy
hai ông Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc đem cơ đến nhà ông Lê Văn Trung để độ ông
ây. Đức Hộ Pháp kể lại rằng:
“Trong nhà có một người con nuôi thên là Thanh. Khi
phò loan thằng nhỏ ngủ, ông thì thức. Cơ chạy hoài. Ông hỏi thì Đức Chí Tôn trả
lời, chỉ có hai người biết với nhau thôi. Từ đó ông mới tin nơi Đức Chí Tôn”
(PHP, Bài thuyết đạo đêm 13.10 - Giáp Ngọ).
Trong đàn cơ này, Đức Chí Tôn phán truyền:
“Trung nhứt tâm nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thác
cùng nơi thầy, thành cũng nơi Thầy mà đọa cũng nơi Thầy. Con lấy sự sáng mắt
của con mà suy lấy”:
Từ đó đến hết đời, ông Lê Văn Trung sáng mắt trở
lại. Đến đêm 21.01.1926, Đức Chí Tôn dạy ba ông Trung, Cư, Tắc như vầy:
Mặt
nhựt hồi mô thấy sẻ hai?
Có
thương mới biết Đấng Cao Đài.
Cũng
con cũng cái đồng môn đệ,
Bụng
muốn phân chia hỏi bởi ai?
Rõ ràng Đức Chí Tôn dạy vô vi với phổ độ như dương
với âm vốn là một không thể phân chia ngoại giáo nội giáo gì cả.
Đêm 23.01.1926, Đức Chí Tôn xác định:
Chín
Trời mười Phật cũng là
Ta
Truyền đạo chìa ra nhánh nhóc mà.
Hiệp
môt chủ quyền tay nắm giữ,
Thánh,
Tiên, Phật đạo vốn như nhà.
2 . TỌA THIEN (Ngồi tĩnh tâm)
Riêng ông Lê Văn Trung vẫn còn phân vân về việc tu
luyện tâm pháp. Đêm 07.01.1926 ông hỏi, Bà Thất Nương trả lời rằng:
“Đã gặp Đạo tức có duyên phần. Ráng tu luyện siêng
thì thành, biếng thì đọa. Liệu lấy mà răn mình. Phải sớm tính. Một ngày qua,
một ngày chết. Đừng do dự”.
Do đó, Đức Lý Thái Bạch khuyến khích ông Trung
luyện tâm pháp:
Có
công phải biết gắng nên công (PHU)
Tu
tánh đã xong gắng luyện lòng (TÂM)
Kình
sách đầy đầu chưa thoát tục,
Đơn
tâm khó (THIÊN) định lấy chi mong?
Ngày 28.01.1926, Đức Chí Tôn lại dạy riêng ông
Trung như sau:
Một
ngày thỏn mỏn một ngày qua,
Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa.
Luyện
đặng tinh thông muôn tuổi thọ
Cửa
Thiên xuất nhập cũng như nhà.
Cương
toả dương thời đã giải vây,
Đừng
mơ oan nghiệt ở đời này
Hữu
duyên hiểu thấu nguồn chơn đạo,
Tu
luyện khuyên bền chớ lá lay.
Ta thấy Đức Chí Tôn chú ý dạy đạo ông Trung nhiều
nhứt vì trọng trách hoằng khai Đại Đạo sau này. Đức Cao Đài dạy ông Trung ba
điều chính:
1 . Đạo vốn chỉ có MỘT: “Cũng con cũng cái đồng môn đệ”.
2 . Tâm Pháp Thiền định: “Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa”. Đây là quan niệm tu hết sức tiến bộ. Tiên Phật
trong tâm ta, không nên tìm ở ngoài.
3 . Sống chết nới Thầy: “Sông có Ta, mà thác cũng có Ta”.
Do đó đêm 15.03 - Bính Dần, Đức Chí Tôn ân phong ông Trung làm Thượng Đầu Sư.
Trong buổi đầu lịch sử Đạo Cao Đài cả ba ngài Ngô
Văn Chiêu, Lê Văn Trung, Phạm Công Tắc đều là đồng tử thông công được với Đức
Chí Tôn và chính Đức Chí Tôn dùng huyền diệu độ cả ba vị này.
Riêng Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung được Đức Chí
Tôn giáng tâm chỉ dạy Ngài phương pháp Tịnh Tâm. Ngài đã áp dụng phương pháp tu
tập này hằng ngày, trong khi ngồi làm việc tại Giáo Tông đường. Điều này chỉ
một số người sống gần Ngài mới biết được, và họ hằng cấm túc an toạ để thúc
liễm thân tâm mà trau giồi hạnh đức.
Trong đường tu việc kiểm soát thân tương đốì dễ hơn
tâm. Điều khiển tâm mình theo đường thiện, tránh ác ý với mọi người thật không
đơn giản chút nào. Thế nên Đức Quyền Giáo Tông đã chọn mùa hè từ tháng 3 đến
tháng 6 năm 1932 để an cư kiết hạ. Ớ tại Giáo Tông đường an dưỡng vào mùa hạ là
tốt nhứt. Vì mùa hạ, cây cối nẩy mầm, côn trùng sinh nở, nếu đi lại nhiều có
thể dẫm đạp làm hại chúng sanh hạ đẳng. Cho nên, Đức Ngài nói:
“Từ ba tháng nay, tôi an nghỉ không gần gũi với chư
hiền hữu, chư hiền muội.
Trong lúc an nghỉ tôi có suy xét ba phương diện:
1 . Theo căn số' năm nay tôi phải nạn to mà nhờ tu luyện nên Trời độ qua khỏi
nạn.
2 . Tôi có tội với Tiên Phật vì cầm mối Đạo không vững nên phải đau đáu ba
tháng.
3 . Cơ thử thách coi tôi có ngã lòng thối chí chăng?
Rồi Đức Ngài giải thích chữ tu như sau:
“Tu là trau giồi tánh hạnh. Tu không phải từ mơi
tới chiều lo tụng kinh gõ mõ... Nếu trong thế gian đều phế công việc mà tìm chỗ
u nhàn, còn ai mà lo nhơn đạo. Người hành đạo mà bỏ nhơn đạo không lo nhơn đạo
cho hoàn toàn thì hành đạo vô ích”.
Trong vài câu ngắn ngủi, Đức Ngài cho biết Tân Pháp
của Đạo Cao Đài: “Tiên Phật nơi mình chẳng ở xa”. Làm việc cứ làm việc, tu cứ
tu (lúc rỗi). Đó là lối tu đơn theo truyền thông Đạo Cao Đài. Tứ đại uy nghi:
đi đứng nằm ngồi đều tu, không phải đến chùa, trước Trời Phật mới gọi là tu.
Hành giả tu bất cứ đâu, tâm an tịnh, giữ lòng trong sạch, tu theo luật mà Đức
Hộ Pháp đã ban hành “Phép Trị Tâm”.
Vào 21.12 - Tân Mão (17.01.1952), Đức Ngài giáng
cơ:
Thượng Trung Nhựt
Qua mừng chung mấy em Hiệp Thiên Đài Qua thấy mấy
em mà qua tủi cho Cửu Trùng Đài quá lẽ. Thưđrvg cho họ thiếu hiểu (tịnh luyện).
Chúc mấy em được rạng thêm danh khí, cầm đuốc tuệ giữ mực chdn truyền.
Qua xin để một bài thi:
Mừng
rạng chơn thần giữ trọn công,
Đèn
từ soi khắp chiếu non sông
Sửa
đời mong có chơn thần thiện,
Động
dẫn xác lên đến cõi Bồng.
THƯỢNG TRUNG NHỰT
(CTP, Luật Tam Thể, xb 1972, tr. 183)
C . BẠCH VÂN AM
1 . Đời hành Đạo:
Ông Nguyễn Ngọc Thơ, vốn là chủ đồn điền cao su,
may duyên gặp Đạo Cao Đài. Ngày 02.06.1926, ông cầu Đạo và biến nhà minh thành
Đàn Tân Định.
Ngày 10.08.1926 (03.07 - Bính Dần), ông thọ phong
Thái Phối Sư, rồi lên Chánh Phối Sư Thái Thơ Thanh. Năm 1930, theo Đạo Nghị
định số 2, Ngài được thăng Quyền Đầu sư phái Thái.
Năm 1931, Ngài cùng Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh mua
100 mẫu đất từ Bàu Cà Na ra tới Ngã ba Mít Một thành lập một cảnh Thãi Cực Toàn
Đồ rộng lớn, chia làm hai cuộc:
Phía Bắc là Bạch Ngọc kinh tạo tác tổ đình, có Bá
Hoa viên, Động Đình hồ, Đức Chí Tôn ngự mở cảnh thoát trần, Đức Di Lạc giáng
thế khai Long Hoa hội. Hai bên rừng Thiên Nhiên, phía sau lập Cửu Viện, Thiên
Phong đường, Đầu Sư đường, Hộ Pháp đường, Tịnh Thất, Học đường, Dưỡng đường.
Phía Nam tạo Cưc Lạc Vô Vì cảnh giới, đắp con đường
từ Nam lên Bắc, từ Đông sang Tây gọi là Tứ Tượng đồ biến sanh Bát Quái, chính
giữa ngã tư biến ra: Càn, Khảm, cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài.
Phía bên hữu Tây Bắc thì tạo Quan Âm các, phía bên
tả Tây Bắc thì dựng Long Nữ điện. Phía bên hữu Đông Bắc thi cất Toà Kinh
viện...
Bên hướng Bắc thì lập Thái Bình Địa cũng 500 công
đất, cất chợ Từ Bi, nhà thương (bệnh viện), nhà nghỉ...
Ngài ước mong Hội Thánh mở mang cuộc Thánh Địa này.
Sau đó Đức Chí Tôn giáng cơ cho biết, nguơn linh của Ngài là Từ Hàng Bồ Tát,
còn Bà Đầu Sư Lâm Hương Thanh nguơn linh là Long Nữ.
Lúc mở Đạo ở Nam Vang, Đức Hộ Pháp xuất chơn thần về
Thiên Đinh gặp Ngài Thái Thơ Thanh tức Từ Hàng Đạo Nhơn cỡi Kim Mao Hẩu tay cầm
Bửu Kiếm chỉ ngay chữ NHỰT kép (tức chữ Vạn) thì cửa Cực Lạc Thế Giới biến hoá
rộng rãi. Đức Hộ Pháp dẫn đầu bước vào theo sau là các vị chức sắc.
Chính vì thế mà Ngài Thái Thơ Thanh đã giao lại
việc xây cất Toà Thánh cho Đức Hộ Pháp, chỉ lập ngôi Cực Lạc cảnh lưu lại kỷ
niệm.
Thời gian sau vì hay đau yếu, Ngài về Sài Gòn dưỡng
bệnh.
2 . Bạch Vân Am:
Tháng 09 năm 1939, Ngài lập ngôi Bạch Vân Am (số 52
đường Bà Kế) ở Phú Lâm. Từ đó Ngài luyện đạo tu chớn trong suốt 12 năm (1939 -
1950).
Ngài qui vị ngày 21.7 - Canh Dần (03.09.1950) hưởng
thọ 77 tuổi. Hội Thánh được tin, đem liên đài xuống Sài Gòn rước xác về Toà
Thánh Tầy Ninh, làm lễ Đạo táng rất trọng thể, liên đài nhập bửu tháp, được xây
bên Đông Lang Toà Thánh, và đem bửu ảnh thờ nơi Báo Ân Từ.
Bài thài hiến lễ Ngài Thái Đầu Sư:
Tu
thân giáo hoá chỉnh đời thanh,
Đồng
chúc lê dân hưởng phước lành.
Cõi tục cầu an kinh tụng niệm,
Lời truyền nguyện thấu đến cao xanh.
Mưa thuần gió thuận Nghiêu Thang tịnh
Nắng tốt tuyết hoà Thuấn Võ thanh
Đồng hưởng đời đời câu thạnh trị
Tiêu diêu khoái lạc chí hùng anh.
Ngày mồng 8.07 - Nhâm
Dần (05.08.1962), tại Thánh Tịnh Huỳnh Quang sắc ở Bình Đông, Chợ Lớn, Ngài Đầu
Sư Thái Thơ Thanh giáng cơ bài thi cho biết Ngài đã qui hồi cựu vị trên cõi
Thiêng Liêng là TỪ HÀNG ĐẠO NHƠN.
THI
TỪ bi xây dựng lập ban vui,
HÀNG mặc viết tu bước thẳng xuôi.
ĐẠO
lý sáng soi dìu khách tục
NHƠN
luân tô điểm tợ hoa tươi.
NGUYÊN
gia gội phước gìn nên một,
NGỌC
quí đượm màu giữ vẹn mười.
THƠ
phú Thần Tiên ngâm hiểu nghĩa,
GIÁNG
khuyên ráng học dạo làm người.
Quán thủ (quán là đội mũ) tám chữ đầu câu thơ trên
là: Từ Hàng Đạo Nhơn Nguyễn Ngọc Thơ giáng.
Đến ngày rằm tháng 9 năm ấy (13.10.1962), cũng tại
Thánh Tịnh Huỳnh Quang sắc, Ngài Thái Đầu Sư đã giáng cơ giải rõ hành tàng tu
chơn của Ngài lúc còn sinh tiền. Đó
là lối TU CHỢ (nhứt tu thị, nhị tu sơn) là lối tu khó nhứt trong các cách tu: tu nhà,
tu chùa, tu núi. Thế nên, Ngài giáng cho kinh Nhạc Đạo Hành Ca như sau:
“TỪ
tâm cứu khổ độ quần sanh,
HÀNG
uyển chỉnh tu tạo sống lành.
ĐẠO
lý gieo truyền gầy hạnh lạc,
NHƠN
luân bồi đắp tạc thinh danh.
NGUYÊN
gia phước huệ nêu màu đẹp
NGỌC
cất tinh vi rạng sắc thanh.
THƠ
viện sáng soi gìn giác thế,
GIÁNG
phân lẽ phải gắng thi hành.
“Đàn này, Bần Đạo (Ngài Thái Đầu Sư) vâng sắc lịnh
Đức Chí Tôn giáng tả kinh NHẠC ĐẠO HÀNH CA trên đường khai thông chuyển hoá”.
TỰA KINH
NHẠC
lòng hoà tấu bản Đường Tu,
ĐẠO
đức sáng soi vẹt ngút mù
HÀNH
hoá cảm thông khai mạch sống
CA
ngâm đúng điệu tỉnh phàm phu.
“Nhạc Điệu Hành Ca là những điệu sóng đàn lành mạnh
hoà nhịp bản ca đạo đức, là những giọng dịu hiền giác hoá khách trần đi trên
khúc quanh mê lộ.
“Câu đối:
“NHẠC ĐẠO Tam Kỳ giác ngộ trần mê khai tâm
chuyểnhoá
HÀNH CA Nhứt Lộ xiển dương chánh pháp bĩnh tánh hồi
nguyên" - Thăng.
D . HỘ PHÁP TỊNH ĐƯỜNG
1 . Tịnh là vô nhứt vật:
Vì vai trò quan trọng trong nền Đạo mới, nên Đức
Chí Tôn ưu ái dạy Đạo trực tiếp cho Ngài Phạm Công Tắc về nội giáo tâm truyền
hay thiền định như sau:
Thành
tâm niệm Phật
Tịnh,
tịnh, tịnh, tỉnh, tỉnh
Tịnh
là VÔ NHỨT VẬT
Thành
tâm hành Đạo (Pháp).
Đàn đêm 01.12 - Ất Sửu.
Bà Thất Nương khuyên khích: “Em xin hai anh (Cư,
Tắc) gắng công học đạo, luyện đưỡng tinh thần, ắt ngày sairđắc đạo. Coi bửu vị
làm trọng đừng ham luyến hồng trần mà phải đoạ”.
Bốn câu trên nêu rõ cách tu luyện theo Đạo mới: tâm
thiện niệm, tỉnh lặng, vô nhứt vật và tự hành pháp.
Ba chữ “vô nhứt vật” đã được Lục Tổ Huệ Năng nhắc
đến trong bài kệ về chữ tâm mà được truyền y bát của Ngài:
Bồ
đề bản phi thụ,
Minh
cảnh diệc phi dài.
Bản
lai vô nhứt bật,
Hà
xứnhạ trần ai?
Tạm dịch:
Bồ đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính (bụi) trần ai?
Câu
1 .
Tâm thiện niệm: Sau khi đọc Ngũ nguyện thì niệm danh Thầy (Phật trên các Phật) là đủ. Vì
danh thầy bao gồm cả Tam Giáo.
Câu
2 .
Tỉnh lặng: Tỉnh là tâm bên ngoài không xao động, bên trong chẳng lo hơn tính thiệt,
tức bên trong bên ngoài chẳng loạn là tịnh. Khi tịnh giác quan ta vẫn nghe vẫn
thấy, nhưng phải tỉnh táo để tâm khỏi bị ngoại vật lôi cuốn, mà nghe như không
nghe, thấy như không thấy. Nếu tịnh mà tâm viên ý mã là sai.
Câu
3. Tâm vô nhứt vật: Bài kệ của Lục Tổ có ý nói: Bồ đề là tánh giác ngộ,
không hình dáng trống không, chẳng có chi gọi là thọ (cội cây). Minh cảnh là
tâm viên minh, thông triệt cũng trống không, có chi gọi là đài? Bổn lai Diệu
giác Chơn tâm, từ trước đến sau vẫn trong sạch, không có cái gì tìm được trong
đó. Như thế có sao gọi là dính bụi. Ngài dạy: “Tâm vốn là vọng đó khỏi phân
biệt hư giả, liên tịnh chỉ cần không vọng là đủ, không vọng thì động tự lắng
xuống, tâm an nhiên, tự tánh thanh tịnh”.
Câu
4. Tự hành pháp: Tu chơn là tự tu luyện một mình sau khi được chơn sư chỉ dẫn. Hành pháp
tự tu, tự thành biết được tánh giác thường hằng là sắp có ấn chứng thiêng
liêng.
Hai hôm sau ngày mồng3.12 - Âi Sửu, Quí Cao giáng
đàn và cho hai vị cư, Tắc biết: “Đã từ lâu không dám nói vì em phải tu như hai
anh vậy. Không dám nói VI hai anh có Thầy, em không dám lộng quyền”. Rồi Quí
Cao tặng hai Ngài bài thơ khuyến tu:
Tu
như cỏ úa gặp mù sương,
Đạo
vốn cây che mát mẻ đường.
Một
kiếp muối dưa muôn kiếp hưởng,
Đôì
năm mệt nhọc, vạn năm bường.
Có
thần nuôi nấng thần càng mạnh,
Luyện
khí thông thương, khí mới lường.
Nhập
thế lòng trong gìn tịnh mẫn,
Nguồn
Tiên chốn Phật mới nhằm phương.
Hôm nay khai đàn tại nhà Ngài Cao Quỳnh Cư, Thất
Nương giáng dạy:
“Em xin quí anh coi lại đời là thế nào? Bông phù
dung sớm còn tối mất. Nó sống ngắn ngủi nhưng lúc sống còn có cái sắc, chớ đời
sanh ra để thọ khổ hải. Em xin quí anh coi sự trường sanh của mình làm trọng.
Đã vào đường chính, cứ theo đó mà bưổc tới hoài, thì trở về cựu vị đặng”.
Xem thế, các Đấng đã dạy bí pháp cho Ngài Phạm Công
Tắc rất cặn kẽ. Nên khi Đạo mở, Ngài muôn truyền bí pháp trước, nhưng bị Đức
Chí Tôn ngăn lại. Trong bài thuyết đạo ngày 30.05 - Quý Tỵ (1953), Ngài đã nói:
“Trong thời kỳ Bần Đạo vâng lịnh Đức Chí Tôn xuống
thế mở đạo, Đức Chí Tôn mới hỏi rằng:
- Con phục lịnh xuống thế mở Đạo, con mở bí pháp
trước hay con mở thể pháp trước?
Bần Đạo trả lời:
- Xin mở bí pháp trước.
Đức Chí Tôn nói:
Nếu con mở bí pháp trước thì phải khổ đa. Đang lúc
đời cạnh tranh tàn bạo, nếu mở bí pháp trước, cả sự bí mật huyền vi của đạo,
đời thấy rõ xúm nhau tranh giành phá hoại thì mối đạo phải ra thế nào. Vì thế
nên mở thế pháp trước, dầu cho đời quá dữ, phá hoại cơ thể hữu vi đi nữa thì
cũng vô hại, xin miễn bí pháp còn là Đạo còn. Bí pháp do Hiệp Thiên đài nắm
giữ”.
Xem thế, Thiên Thơ tiền định, Đức Hộ Pháp giáng
trần có nhiệm vụ tạo dựng thể pháp Đạo Cao Đài, rồi sau mới mở bí pháp đại trà,
nói một cách khác phần phổ độ nặng hơn phần tịnh luyện, chớ không phải Toà
Thánh Tây Ninh không có pháp môn tịnh luyện, đọc tiếp những chương sau sẽ rõ.
Quyển sử này gióng lên tiếng chuông cảnh thức cho những ai chưa nghiên cứu kỹ
sẽ thấy rằng từ khai Đạo đến nay, gốc Đạo vẫn song hành phổ độ và tịnh luyện.
2 . Thảo Đường - Khổ Hiền
Trang
a.
Thảo Đường:
Năm 1928, Đức Phật Mẩu giáng cơ dạy khai khẩn đất
hoang độ 60 mẫu tây tại làng Phú Mỹ tỉnh Mỹ Tho để đào một con kinh và xây đền
Phật Mẫu và một ngôi Thảo Đường. Đức Phật Mẩu giáng cho một bài thi:
Thảo
Đường phước địa nqộ tùng hoa,
Lục
đại dư niên vũ trụ hoà.
Cộng
hưởng phàm gian an lạc nghiệp
Thế
đăng tìồng Đảo định âu ca.
Dịch nghĩa:
Câu 1. Ngôi nhà tranh nơi đất phước, người chính
nhơn gặp thời.
Câu 2. Sáu đời hơn vũ trụ hoà bình.
Câu 3. Người đời cùng hưởng cảnh an cư lạc nghiệp.
Câu 4. Cõi đời thăng lên cõi Tiên cùng hưởng thái
bình.
Ý khác, Thảo Đường là tên Thiền sư Trung Quốc, dòng
thiền thứ ba truyền đạo vào nước ta ở phía nam nước Chiêm Thành vào đầu thế kỷ
XI, được vua Lý Thánh Tôn (1054 - 1072) đưa về mở đạo tràng ở Thăng Long và
truyền đạo được sáu đời (lục đại).
Sau đó, Đức Lý giáng cho đôi liễn:
THÁO thượng sương phi tiện thị Thiên ba chi thắng
cảnh,
ĐƯỜNG tiền
nguyệt chiếu thậm quang Địa thời thị đăng Tiên.
Dịch nghĩa:
Trên cỏ sương bay ãó là sóng trời, cảnh tuyệt đẹp
Trước nhà trăng soi thật sáng đất tự nhiên lên Tiên.
Phần đất Thảo Đường 60 mẫu này có long mạch hiện
lên, người Tning Hoa đem Long Tuyền kiếm qua nước ta yếm long mạch. Một khi
vùng đất linh này sản sinh anh tài thì bị long tuyền kiếm triệt hạ tức thời. Bà
bát Nương cho Đức Phạm Hộ Pháp biết và Ngài đã phá được phép yếm này. Ngài cho
đào một con kinh cắt đôi long mạch để nước long mạch chảy ra mà lưu thông khắp
sông rạch cho lương dân tươi nhuận khởi sắc.
b.
Khổ Hiền trang:
Năm 1927, vâng lịnh Đức Phật Mẫu, Đức Hộ Pháp và
Ngài Bảo Văn Pháp Quân đến làng Phú Mỹ mua đất cất Khổ Hiền Trang rồi giao cho
Thượng Minh Thanh cai quản, được Đức Lý giáng cho thi:
KHổ là cam chịu chớ đừng than,
HIÊN hảo cùng nhau mới vẹn toàn.
TRANG điểm ngọc lành cho đáng giá Giồi mài chí
thiện Thượng Minh Thanh.
Các Đâng cũng giáng cơ dạy ông Đinh Công Trứ lập
Minh Thiện Đàn tại tư gia của ông và lập trường Qui Thiện (1928).
Sang năm Kỷ Tỵ (1929) ngày ngày 3 tháng |iêng Đức
Quan Thánh Đế Quân giáng dạy lập thêm Đồng Nghĩa đường tại tư gia ông Lê Văn
Trung (Phước Thiện). Tổng sô" người gia nhập cả hai đàn lên tới 3400 vị.
Vì sô" người nhập môn ngày càng nhiều, nên
ngày 25.02.1929, Đức Lý Thái Bạch giáng cơ giao Minh Thiện đàn cho Đức Phạm Hộ
Pháp. Ngài khởi sự hành pháp cân thân, tất cả 93 vị nhưng chỉ lựa được 24 vị.
Sau đám tang Đức Cao Thượng Phẩm, ngày 10.06 - Kỷ
Tỵ, Đức Hộ Pháp, Đức Quyền Giáo Tông và Giáo sư Latapie xuống Khổ Hiền Trang
hành pháp kỳ nhì trục thần liên tiếp ba đêm cho 647 vị, chỉ chọn được 48 vị.
Những người còn lại Đức Hộ Pháp dạy làm âm đức thêm. Tất cả hai kỳ và 72 vị.
Tóm lại, Đức Phật Mau dạy lập Thảo Đường và lập Khổ
Hiền Trang là bước đầu đưa các hành giả vào đường Tịnh Thất.
3 . Hộ Pháp Tịnh Đường -
Phương Iuyên kỷ:
a.
Hộ Pháp Tịnh Đường: nằm ở bên trái và phía trước Đẹn Phật Mẫu được Đức
Hộ Pháp cho nhơn sanh Trường Qui Thiện xây dựng năm 1947.
Sau những ngày làm việc mệt nhọc để xa lánh anh em
quân đội đang chiếm cứ Nội 0 không chịu di dời ra ngoài. Lúc ấy, Hành chánh Đạo
dùng ngày âm lịch, mỗi tháng có ba tuần, mỗi tuần có mười ngày. Mồng 10, 20, 30
(tháng thiếu ngày 29) là ngày nghỉ, Đức Hộ Pháp đến Hộ Pháp Đường mà tĩnh dưỡng
tinh thần.
Vào tháng 9.2006, Hộ Pháp Tịnh Đường được trùng tu,
Lễ Khánh thành và hoàn công vào ngày 04.06.2007 (19.04 - Đinh Hợi). Đệ tử Bạch
Vân Quán đến dự lễ và hỉ hiến tiền được ghi ơn: “Cựu Ban Trị Sự và Ban Tu bổ
Trường Qui Thiện Trí Giác Cung, Địa Linh Động cảm tạ các vị đệ tử Bạch Vân Quán
đã hỉ giúp tiền xây dựng Ngôi HỘ PHÁP TỊNH ĐƯỜNG”.
Cấu trúc HỘ PHÁP TỊNH ĐƯỜNG giống như Thảo Xá Hiền
Cung, nhà ba gian. Gian cnính giữa thờ Đức Chí Tôn và bửu ảnh Đức Hộ Pháp, bên
trái thờ Ngài Khai Pháp Trần Duy Nghĩa (Ngài là cặp cơ bí pháp với Tiếp Pháp
Trương Văn Tràng), bên phải thờ ba vòng vô vi (vàng xanh đỏ).
Đức Hộ Pháp giáng cho đôi câu liễn:
HỘ
PHÁP Tam Kỳ khai chánh giáo.
TỊNH ĐƯỜNG tứ chuyển thiết Long Hoa.
Những buổi tĩnh tâm,
Ngài có dịp nhìn lại việc đời và việc đạo, Đức Ngài xúc cảm đề thơ:
NGƯỜI TU HÀNH
Chẳng ham danh lợi, chẳng mê trần,
Thạch động an nhàn thân độ thân.
Biển Bắc mặc dầu cơn sóng bủa
Non Nam chi quản đám mây vần.
Ngày ăn hai bữa nuôi tinh huyết
Đêm ngủ ba canh dưỡng khí thần.
Quyết
đoán công phu thân vận động
Đường
Tiên cửa Phật mới mong gần.
PHẠM HỘ PHÁP
TPVĐ ghé thăm Hộ Pháp Tịnh Đường xúc động đề thơ:
HỘ
độ nhơn sanh đến cõi Bồng,
PHÁP
luân thường chuyển khắp Tây Đông.
TỊNH
tâm thiện niệm hằng trì giới
ĐƯỜNG
Phật nẻo Tiên hiệp đại đồng.
Nhắc lại, Trường Qui Thiện là cơ sở đạo do Giáo
Thiện Đinh Công Trứ lập ra, qui tụ một số đạo hữu về đây tu học và làm lành.
Ngày 26.10 - Canh Dần (1950) Đức Cao Thượng Phẩm
giáng cơ tại Qui Thiện đường của Trường Qui Thiện như sau:
“Đây là lần thứ nhứt, Bần Đạo có dịp chỉ giáo các
em nơi Trường Qui Thiện... Qui Thiện đường là nơi qui tụ những người đã nhận
thức sự thật về giá trị và sở hành của mình, đã có sẩn một tâm hồn cao thượng,
biết cân phân điều hơn lẽ thiệt. Bần Đạo khen các em đó. '
Nếu ai theo đường danh bể hoạn hiện thời thì họ
chuốc lấy sự mất ở ngày mai. Chỉ những kẻ tâm hồn sấn sàng phụng sự cho người
đời mới còn được mảy may mà thôi. Giá trị cùng chăng là do nơi hành động phi
phàm đó thôi”.
Đức Phạm Hộ Pháp, trong lễ khánh thành Tân Dân thị
(nay là chợ Qui Thiện) vào ngày 29.11 - Giáp Ngọ (1954) có lời phủ dụ như sau:
“Trong 72 anh em chung sức cùng nhau, mà làm đầu
Trường Minh Thiện ỉúc ấy là Đinh Công Trứ. Cái nghĩa lý tối trọng của chơn pháp
Đức Chí Tôn, Qua giao lại cho nó để làm thế nào cho thiên hạ hết thống khổ.
Mấy em ôi, trong buổi phong ba bão táp, nhơn loại ở
trong sông mê bể khổ. Mấy em cùng Qua tạo cho thành đặng cứu vớt khổ não của
họ. Cái khổ ấy làm cho Qua đổ biết bao giọt huyết lệ, từ khi biết Đạo”.
Tôn chỉ và mục đích của trường Qui Thiện được thể
hiện trong hai câu liễn sau:
Đôi liễn thứ nhứt:
QUI lương sanh hành chánh giáo thủ bí pháp chấp
trung quán nhứt,
THÍỆN cấp cô năng dưỡng lão bảo chơn truyền Đại Đạo
Tam Kỳ.
Dịch nghĩa:
Qui tụ người lành, tu hành theo chánh giáo bảo thủ
bí pháp, chấp trung quán nhứt,
Làm việc thiện, cấp dưỡng trẻ mồ côi, nuôi người
già, bảo thủ chơn truvển Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Đôi liễn thứ hai:
QUI Thánh đức, trụ thiện lương, kính trọng hiền
nhơn thân cô độc,
THIỆN tồn tâm hành chánh đạo tảo trừ quái giáo giải
oan khiên.
Dịch nghĩa:
Qui tụ thánh đức, giữ vững thiên lương, kính trọng
người hiền, gần người cô độc,
Giữ tâm lành, tu hành chánh giáo, diệt trừ hết tà
giáo, cỡi bỏ oan khiên.
b . Phương luyện kỷ - Phép
trị tâm:
Những ngày lưu lại Hộ Pháp Tịnh Đường, Đức Ngài
chiêm nghiệm thấy bọn cường quyền tranh nhau chém giết, lính tráng thì hung
hăng, kẻ côn đồ thì man rợ... Chung qui chỉ vì thiếu cái tâm.
Thiên chức của Đức Ngài là giáo dân qui thiện. Thế
nên trong hoàn cảnh khó khăn nào, Đức Ngài vẫn dành nhiều thì giờ để giáo tín
đồ đạt pháp.
Ngày 14.01 - Đinh Hợi (1947), Đức Ngài ban hành Đạo
lịnh 209HP chỉ dẫn về Phương Luyện kỷ (tức tu đơn).
Nhớ lại, từ ngày 14.01.1926, Đức Chí Tôn đã truyền
Tân Pháp Tu Chơn cho Đức Ngài và nay Ngài truyền lại cho nhơn sanh, vì không
tìm hiểu tận nơi mà một số người cho là Toà Thánh Tây Ninh chỉ có Tịnh Thất cho
tín đồ mà không có pháp tu tịnh cho chức sắc (Đồng Tân, Lịch sử Đạo Cao Đài
(quyển 2), Sài Gòn 1972, trang 402).
Trước khi vào nhà tịnh, Đức Phạm Hộ Pháp nói: “Hôm
nay Bần Đạo tạm giải chức Hộ Pháp, giờ này chỉ là người bạn tu mà thôi”. (Trí
Huệ Cung, in 1973, trang 13), có nghĩa là khi vào Tịnh Thất các chức sắc phải
gởi lại phẩm tước cho Hội Thánh.
Đọc lại bài Thánh Ngôn “Thay lời tựa” trước sách
này. Đức Chí Tôn hỏi Phổ Độ là gì? Ngài trả lời luôn: Cứu vớt cả chúng sanh.
Rồi Ngài lại hỏi: Muốn trọn hai chữ Phổ Độ phải làm sao? Phải bày bửu pháp Tịnh
Luyện ra.
Xem thế, muôn trọn câu Phổ Độ phải song hành Tịnh
Luyện. Nói một cách khác, Phổ Độ và Tịnh Luyện là cặp song sinh, cặp âm dương
trong Dịch lý không thể tách rời. Ai cố ý tách rời là chưa đạt Chơn Pháp của
Đức Chí Tôn.
Dưới đây là Đạo Lịnh 209HP mà Đức Hộ Pháp đã ban
hành:
PHƯƠNG LUYỆN KỶ
Ä Đặng vào con đường thứ tha Đại Đạo.
Ä Phải thân thích cùng cả nhơn vật tức là tìm
nguyên do của vạn linh cùng chí linh.
Ä Phải ân hậu khoan hồng
Ä Phải thanh nhàn đừng vị kỷ.
Ä Phải bình tĩnh nghĩa là đừng chịu ảnh hưởng của
hoạ phước buồn vui (tập tánh không không đừng nhiểm. Vui cũng vui, buồn cũng
buồn nhưng đừng để nọc buồn vui thấm vào chơn tánh).
Ä Phải độ
lượng khoan dung tha thứ.
Ä Phải điều
hoà tự chủ, vui vẻ và quyết đoán.
Ä Giữ tâm
linh làm căn bổn.
Ä Hiếu hạnh
với Chí Tôn và Phật Mầu.
PHƯƠNG
PHÁP TRỊ TÂM
Ä Vì tâm là hình ảnh của thiên lương.
Ä Đức tin và
khôn ngoan là kho chí bửu, ngoài ra là của bỏ là đồ vô giá.
Ä Ai cố oán
kẻ thù của minh thì khó giữ thanh tâm công chánh cho đặng.
Ä Ai chẳng oán hận mới thắng đặng kẻ thù địch của
mình.
Ä Sự cừu hận
là khôi thảm khổ đệ nhứt của nhơn sanh, nên người hiền thì không biết đến hay
là từ bỏ cừu hận oán ghét.
Ä Thắng đặng
khí nộ mình thì không chọc ai giận dữ.
Ä Lấy thiện mà trừ ác.
Ä Lấy nhơn
tình mà trừ bạo tàn.
Lấy lòng quảng đại đặng mở tâm lý hẹp hòi.
Ä Lấy chánh
trừ tà.
Ä Ấy là
đường thương huệ kiếm.
PHƯƠNG
PHÁP LUYỆN THÂN - LUYỆN TRÍ.
Ä Ẩm thực
tinh khiết.
Ä Tư tưởng
tinh khiết
Ä Tín ngưỡng
mạnh mẽ nơi Chí Tôn và Phật Mau.
Ä Thương yêu
vô tận.
Ä Ấy là chìa khoá mở cửa Bát Quái Đài tại thế này.
Toà Thánh, ngày 14.01 - Đinh Hợi (1947).
Phương Luyện Kỷ có 18 điều giáo dưỡng gồm 273 chữ
là những nguyên tắc cụ thể buộc người tín đồ phải thi hành, nếu muốn bước vào
con đường tu chơn.
Phương Luyện Kỷ là thánh hoá tánh đức con người để
làm nền cho hành vi đạo đức hiển hiện một cách chơn thật, có sức cảm hoá con
người hướng đến nẻo thiện và làm toà ngự cho thần điển từ thượng giới xuyên qua
hồn phách của những bậc chơn tu đắc đạo.
Câu kết của phương pháp viết: “Ây là chìa khoá mở
cửa Bát Quái Đại tại thế này” đã toát lên ý nghĩa vừa nêu trên: là đắc đạo tại
thế. Chơn thần bậc chơn tu đó có đủ quyền năng tương liên với các Đấng và
thường xuyên sống trong trạng thái “Trời Người hiệp nhứt”.
Phương Luyện Kỷ hướng dẫn tín đồ cách sông như thế
nào để đắc đạo tại thế. Còn phương pháp công phu nhằm gia tốc hiện tượng Tinh
hoá Khí, Khí hoá Thần, Thần huờn Hư là điều Đức Ngài sẽ truyền sau cho Tự Pháp,
vì lúc ấy thời nhiễu nhương chưa thể ngồi một chỗ mà luyện đạo. Vì một khi Tinh
Khí Thần hiệp nhứt thì chơn thần có quyền năng thiêng liêng, nếu con người còn
có tính phàm tục thì sẽ lạc lối vào con đường tà đạo. Thiên Đình sẽ đánh tản
Thần không cho hiệp cùng Tinh Khí.
Thế nên, Phương Luyện Kỷ là hình thức giáo hoá nhơn
sanh hiểu rõ con đường tu chơn phải làm như thế nào cho phù hợp để khi chính
thức bước vào đường tịnh luyện không còn nghe/hoặc huyễn ảo, nhằm dọn mình
trong sạch để các Đấng giáng ngự.
Nếu ta đem “Phương pháp trị tâm” của Đức Phạm Hộ
Pháp so sánh thấy phù hợp với “Thập mục Ngưu đồ” (Mười bức tranh chăn trâu tức
trị tâm) ở chùa Tam Tông Miếu (tức chi Minh Lý trong Ngũ Chi Đại Đạo).
Ä Thập Mục Ngưu đồ đánh số La Mã (TMNĐ).
Ä Phương pháp trị tâm đánh số Á Rập (PPTT).
Ta thấy cả hai đều 10 câu, 10 đề tài (mười bức hoạ)
như sau:
I . TMNĐ: Tìm trâu (tâm ngưu),
1 . PPTT: Thanh tâm công chánh.
II . TMNĐ: Thấy dấu trâu (kiến tích).
2 . PPTT; Thấy đặng mình.
III. TMNĐ: Thấy trâu (tức thấy tâm).
3. PPTT: Từ bỏ cừu hận.
IV. TMNĐ: Được trâu (đắc ngưu).
4. PPTT: Thắng đặng khí nộ (thắng tâm).
V. TMNĐ: Chăn trâu.
5. PPTT: Lấy thiện mà trừ ác.
VI. TMNĐ: Cưỡi trâu về nhà.
6. PPTT: Lấy nhơn nghĩa trừ bạo tàn.
VII. TMNĐ: Quên trâu còn người.
7. PPTT: Lấy lòng quảng đại.
VIII. Người trâu đều quên.
8. Lấy chánh trừ tà.
IX. TMNĐ: Phản bổn huờn nguyên.
9. PPTT: Ấy là đường thương huệ kiếm.
X. TMNĐ: Buông tay vào chợ.
10. PPTT: Kho chí bửu.
Mười bức tranh vẽ trâu (chỉ cái tâm), ý nói “Bạch
ngưu xa” tức Phật thừa là cái đậi viên giác, tu đốn ngộ. Bức tranh một tìm
trâu, trâu đâu mà tìm? Trong phút giây khác thường nào đó, ta nghi ngờ những điều
tai nghe mắt thấy, tức nghi ngờ chính cái tâm ta. Khi ta hỏi tâm ở đâu, chẳng
khác nào ta hỏi trâu ở đâu? Trong khí chính ta đang cưỡi trâu. Ta đi tìm cái
tâm rốt cuộc tâm ở nơi lòng ta. Ta chỉ dừng lại, nó sẽ hiện ngay trước mặt ta.
Nếu loài người biết dừng lại trong vài phút thôi thì thế gian này không đến nỗi
buồn thảm.
Sau giai đoạn ngoại cầu đến giai đoạn tự tri tự
giác. Khi người và trâu đều quên thì nơi chân Trời hiện lên mặt Trời Huệ (tượng
trưng bằng vòng tròn viên giác). Đó là tâm không, đạt đạo rồì.
Sau đó, Đức Hộ Pháp vào nhà tịnh Trí Huệ Cung để
thể nghiệm phương pháp của mình (Xem Chương II, nơi mục Trí Huệ Cung).
Đ . TRƯỚC LÝ MINH ĐÀI
1 . Thọ Thiên ân Chưởng
Nghiêm Pháp Quân
Chủ đàn Trước Lý Minh Đài là Nguyễn Phát Trước tên
hộ tịch là Nguyễn Văn Trước (1885 - 1929), khi làm lãnh tụ phá khám lớn Sài Gòn
tên là Phan Phát Trước vì ngưỡng mộ Phan Phát Sanh tức Phan Xích Long.
Nguyễn Phát Trước (1985 - 1929) tự Tư Mắt người
làng Phú Thọ, tỉnh Chợ Lớn. Ông khởi nghiệp làm thợ hớt tóc, không khá, đi làm
bồi cho Tây rồi ra làm trùm du đãng. Lính tráng kiêng dè nể mặt.
Thời Pháp thuộc, ai muốn có quyền thì mua Pháp
tịch. Tư Mắt chì chọn lối sống giang hồ mã thượng, chịu làm bảo vệ để bàn kế
sách chống Tây với ông Lê Văn Trung. Sau cuộc phá khám lớn Sài Gòn thất bại, Tư
Mắt bị bắt. Không có lý do rõ ràng để kết tội tử hình, Toà án khép Tư Mắt vào
tội “gia nhập hội kín, ám trợ Cường Để” (Vương Hồng sển, Sài Gòn năm xưa, NXB
TP.HCM, tr. 272) một năm tù treo.
Kịp khi Đạo Cao Đài khai mở (1926), ông Lê Văn
Trung thọ phong Đầu sư, Nguyễn Phát Trước thọ chức Lễ Sanh rồi lên Chưởng
Nghiêm Pháp Quân (tương đương phẩm Giáo sư bên Cửu Trùng đài) cùng lượt với ông
Trần Văn Tạ chức Hộ Đàn Pháp Quân. Ông Lê Văn Trung khuyên ông Tư Mắt xây dựng
ở Phú Thọ một nhà đàn. Dưới làm nhà ở trên thờ Thầy. Đức Chí Tôn giáng cơ ban
danh hiệu là Trước Lý Minh Đài.
“Tôi đã vài lần đến tận chùa này để xem, kiểu kiến
trúc độc đáo. Nền đúc khá cao, bốn phía mở bốn cửa lớn, ngụ ý đón nhận cả đông,
tây, nam, bắc... Trong nhà gọi là chùa còn có ảnh ông trong lễ phục chức sắc
của Đạo” (Sơn Nam, Tuổi già, NXB Văn Nghệ 2000, tr. 60, 61).
Nhà văn Sơn Nam có nhận định về Nguyễn Phát Trước
với lời lẽ đơn giản nhưng vô cùng thâm thuý: “Tư Mắt là người mà các nhà viết
sử thời Phan Xích Long đều nhớ. Tên ông (ngày nay) ít ai nhắc nhở nhưng thành
phố ta có tên đường Phan Xích Long, chắc ông cũng ngậm cười nơi chín suối”.
(Tạp chí Xưa Nay số 260 tháng 5.2006).
2 . Trước Lý Minh Đài
Sau khi ông qua đời, ông Trần Văn Tạ Hộ Đàn Pháp
Quân và Giáo Sư Trần Văn Quế cai quản Trước Lý Mình Đài. Lúc bấy giờ có non một
ngàn tín đồ tu học nơi đây muôn được ơn Trên chỉ dẫn phép tịnh luyện.
Thế nên, đêm 14.08 - Ất Hợi (13.09.1935), Đức Chí
Tôn giáng cho thi:
NGỌC
quang chiếu tủa khắp ngàn nơi,
HOÀNG
lịnh ban ân chỉnh cuộc đời.
THƯỢNG
trí biết lo hành đạo đức,
ĐÊ
ngôi an hưởng chẳng thay đời.
Thầy mừng các con,
Bày
khoa pháp vô vi bí diệu,
Dạy
các con sớm hiểu trau mình.
Thầy
truyền phép nhiệm huyền linh,
Đặng
con phanh luyện Khí Tinh huờn Thần.
Hiệp
tánh mạng kim thân bất toại
Qui
Tam Thanh vận tải ngũ hành,
Đạt
cơ Tạo Hoá thì thành,
Cướp
quyền chủ tế trường sanh muôn đời.
Khí
hạo nhiên trước trời đõ có
Hoá
âm dương đến đó hiệp hoà.
Huân
chưng sanh khắc một
Cha
An ngồi Thái Cực chính là thuần dương.
Ảm
trọng írược tách dương huyền khí
Dươỉĩg
khinh thành thăng vị hạo nhiên,
Phân
ra tứ tượng tam miền,
Thăng
thăng giáng giáng hiệp truyền tam nguơn
Chín
Bát quái tuần huờn biến hoá
Sẵn
ngũ hành thuỷ hoả huân chưng...
Thầy giáng giờ này để hạ truyền bí pháp cho các
con, nhưng chưa đủ mặt Thầy chứa hạ lịnh. Dù vậyThầy giải đôi lời cho các con
hiểu tại sao mà các con phải tu ỉuyện. Vì các con thọ bẩm khí hậu thiên, mang
thân trọng trƯỢc, vì các con chẳng biết tánh mạng Khảm Ly. Nay Thầy sắp chỉ các
con qui Tam bửu, luyện Ngũ hành, hiệp âm dương thì mới mong kết thành Xá Lợi.
Vậy thời đàn nay, không thể chỉ rõ rệt, nghe các
con. Ngày 30 Tý thời, các con, nhứt nhứt đến đủ mặt.
THI
NGỌC
bát hạ phê ấu tử tuân,
HOÀNG
ân Thánh Tịnh chuyển tâm íhần.
THƯỢNG
thừa sắc mạng chiêu hiền đức
ĐẾ
khuyết triệu lai khả tốc thân.
Thời gian này, tại Trước Lý Minh Đài có lịnh ơn
Trên dạy lập các đdn phòng thành Ngũ Linh đài như sau
CHÂU TƯỚC (nam)
THANH LONG (đông) HUỲNH ĐỂ
(giữa) BẠCH Hổ (tây) HUYỀN VÕ (bắc)
Tín hữu nào muốn vào Ngũ Linh đài phải cầu đạo thọ
pháp bằng cách xin keo và lập hồng thệ trước.
Như đã hẹn, đêm 30.08 - Ất Hợi tại Tước Lý Minh đài
các Đấng giáng dạy:
NGỌC
truyền pháp lịnh ngã ban ân,
ĐÁNH
thượng trung lư hiệp khí thần.
CHƠN
khuyết bí truyền khai trạch đức
NHƠN
hiền tao ngộ kiết kìm thân.
Chư hiền thành tâm đại tịnh, chỉnh đàn cho nghiêm,
tiếp giá Chí Tôn.
Thăng.
TIẾP
ĐIỂN
(Phần tiếp điển này thấy in trong quyền ĐẠI THỪA
CHƠN GIÁO thuộc phái Chiếu Minh, nhưng lại đề ngày 28.08 - Bính Tý (1936).
NGỌC
chẩm huyền môn phá khiếu trung,
HOÀNG
lư pháp diệu Khảm Ly cung.
THƯỢNG
điền ký tế âm dương huợt,
ĐÊ
dĩ Càn Khôn vạn vật tùng.
THI
TRƯỚC
LÝ MINH ĐÀI diệu pháp môn,
Khai
khoa bí nhiệm tế sanh tồn.
HỌC
ĐƯỜNG ĐẠI ĐẠO truyền chơn khuyết
Hữu
đức chí thành đắc đạo trung.
Bài này không thấy trong ĐĐCG vì nói rõ TLMĐ khai
bí pháp trước (1935) ĐĐCG (1936) một năm.
“Thầy giáng giờ này là vì thấy các con thiện nguyện
tu hành đặng thoát ly u khổ. Các con còn khuyết đểm rất nhiều trong đường đạo,
nay đã tìm ra chánh lý thì các con phải phân lực tận tâm hành pháp diệu. Thầy
sẽ giao truyền chỗ quán nhứt chấp trung cho các con phanh luyện, tụ khí nguơn
thần, mà ngày sau siêu phàm nhập Thánh. Nếu các con chẳng đặng nhứt tâm thì
phải chịu luân hồi chuyển kiếp vàn vàn muôn muôn. Phải tuỳ cơ tuần hoàn vận
chuyển mà tấn hoá cho đến Thầy, biết bao là khó khổ lao luỵ. Các con phải biết
rằng Đạo là Vô Vi, là thiên nhiên chi khí vận tải châu lưu trước khi sanh trời
đất.
“Trời đất phải thọ bẩm khí tiên thiên mà sanh ra
mới có nhựt, nguyệt, tinh tú cùng là càn khôn vũ trụ, vạn vật muôn loài. Các
con trước ngày thọ nơi Thầy một điểm thanh hư huyền khí giáng trần, vì khí hậu
thiên hãm sát làm cho mờ tối, vật báu linh bửu tan ra bởi thất tình, lục dục,
lục căn, lục trần mà tiêu tan lần lần hết tam bửu ngũ hành, càng ngày càng làm
cho hư hỏng cái điểm thanh hư của Thầy, biết đường đâu mà trở về, dầu có trở
lại cũng chẳng dễ gì là tại sao hỡi các con? Là tại không có Thánh thai Phật tử
đó vậy.
“Tại sao các con phải chịu chuyển kiếp luân hồi? Là
vì các con xa đạo, hư hỏng tinh thần tiêu mòn khí huyết, chẳng biết đem tánh
mạng hiệp hoà, luyện tam bửu cho đầy, ngũ hành nhứt khiếu, sao lại cứ tử tử
sanh sanh. Các con muôn hiểu chỗ đạo thì các con trước phải phanh luyện tinh
thần và phải tạo một cái xác thân thiêng liêng bất sanh bất diệt, bất tử bất
tiêu. Các con cần phải có cái xác thân ấy là chi? Là cái bổn tánh thuần dương
vậy. Khi các con bỏ cái xác phàm này thì điểm linh quang của các con nương theo
đó mà về thăng đến Thầy. Còn nếu không, các con chuyển kiếp hoài hoài, luân hồi
khó dứt. Các con không chuyển kiếp thì điểm linh quang của các con bị tiêu diệt
đi còn chi. Các con phải biết rằng muốn tạo thân thiêng liêng ấy chẳng phải dễ
mà cũng không khó chi, cười...”.
TÁI CẦU
HUYỀN
quang nhứt khiếu kiến Mâu Ni,
KHUNG
khuyết đảnh lư tảo ngộ thì.
THƯỢNG
hạ trung điền thâu tứ tổ,
ĐÊ
Nghiêu khẩu ..quyết phá sư vi.
“…Từ nay Thầy sẽ chỉ giáo cho các con bước kịp
Thầy, nhưng các con-phải hạ mình mà tầm đạo. Các con còn tự phụ, tự tôn, chớ trách
Thầy không nói trước, cười... Thầy hằng dạy con phải coi người như Trời, như
Đất mà ngó lại con thì con phải sánh như hột cát, lông mao thì có chi là không
thành Tiên đắc Phật.
THI BÀI
Nơi
Trước Lý Minh đài giáo hoá,
Độ
nguyên nhơn cải hoá tu hành.
Chỉ
cho biết lẽ trược thanh,
Dạy
phân tam ngũ, chỉ rành nhơn luân.
Chia
ra kẻ hiền nhơn chi đức
Khoa
bí truyền tận lực gia công
Luyện
tu đạt máy lục thông
Huờn
hư nhứt, khiếu thanh hồng Tiên Thiên.
Trong
dạy đạo, ngoài truyền Chơn pháp
Thờ
phương tuỳ sở hạp chúng sanh,
Linh
đài thập tự tam thanh
Bát
Quái, Tam Giáo lo hành cho y...
“…Đàn tới Thầy dạy tại Trước Lý Minh đài có đủ mặt
các con đến, Thầy minh cho chúng sanh biết. Các con phải nhớ bài thi này:
Thất thập nhị sư bái quị cầu,
Hiên
Viên tâm đạo dễ gì đâu.
Thích
Ca khổ não đòi phen khẩn
Hạng
Thác Thánh nhơn phải bái cầu.
Thầy ban ơn các
con.
Thăng”.
Nhà đàn Trước Lý Minh đài từ đó phân làm hai phần
tu học song hành: bên Thánh Thất, bên Tịnh Thất (ngũ Linh đài).
Sau đó Hộ Đàn Pháp Quân Trần Văn Tạ đem các bài
Thánh giáo trình lên Đức Hộ Pháp. VI hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới (1930 - 1933), vì Toà Thánh đang thời kỳ xây cất rất cần nhơn lực và vật
lực đâu có thời giờ an tịnh. Đức Ngài mời Ngài Hộ Đàn Pháp Quân ở lại Toà Thánh
chung lo xây dựng Tổ đình.
Tóm lại, Khoa Bí Pháp Trước Lý Minh Đài (1935) nhà
đàn của Chưởng Nghiêm Pháp Quân đi trước Trước Tiết Tàng Thơ (1936) một năm
(Nhà đàn của ông Nguyễn Háo Vĩnh ở bên Thủ Thêm, Thủ Đức) và sau ngày khai đạo
(1926) mười năm.
Trong “Bài Ca tụng” ĐTCG, ông Trần Văn Quế nhân
danh đạo hữu Trước Lý Minh đài viết:
“Cứ theo thứ tự niên ngoạt nhựt thời mà xét thì'Xưa
kia khoa bí truyền ra đời trước cơ phổ hoá. Nay khoa phổ hoá đã đi đặng một
bước đường khá dài thì khoa bí truyền phải ra mắt mà đưa kẻ thiện duyên đến
đảnh...”.
Ta thử đặt một câu hỏi nhỏ: Tịnh Luyện có thật sự
giẳi thoát con người? Tôn giáo chỉ là một môi trường, một phương tiện giúp con
người dễ dàng tháo gở những ràng buộc xung quanh mình trong cuộc sống bề bộn
giữa đời để đạt đến mức cao Thánh thiện mà giải thoát toàn vẹn con người, vốn
mang nhiều tội lỗi. Không một ai tự ban cho mình sự giải thoát toàn vẹn, nếu
không có sự cố gắng nơi chính mình. Các Đấng chỉ giúp ta đạt đến cái đích tối
thượng, còn sự thành công hay không tuỳ ở mỗi cá nhân vì Đức Chí Tôn không thể
bồng ẩm ai lên cõi Thiêng Liêng hằng sống đặng, nếu kẻ đó không tự mình gắng
sức tu luyện.
CHƯƠNG
II
TÂN
LUẬT - TỊNH THẤT
TẾT
l
TÂN
LUẬT
1 . Dâng Tân Luật:
Tân Luật là so với cựu luật của các tôn giáo khác.
Sau khi ban hành Pháp Chánh Truyền phong chức cho các chức sắc. Đức Chí Tôn dạy
Hội Thánh phải lập Tân Luật để giữ giới người tu hành. Các chức sắc cao cấp Cửu
Trùng Đài soạn luật trình Hội Thánh bàn thảo sửa đổi bổ sung rồi đệ trình lên
Giáo Tông.
Ngày 20.11 - Bính Dần Đức Chí Tôn giáng giải về sự
cần ích của Tân Luật như sau:
“Thầy tỏ thật cái luật lệ mà Thầy khiến các con
hiệp chung trí lập thành đây, nó có ảnh hưởng về đạo đức Tiên Phong Phật sắc
của các con, nên Thầy buộc mình cam chịu vậy. Chẳng luật lệ thì làm trái phép,
mà trái phép thì làm thế nào vào Bạch Ngọc Kinh cho đặng.
Vậy các con gắng làm phận sự cho hoàn toàn, rồi
Thái Bạch giáng cơ sửa luật”.
Trong Pháp Chánh Truyền, Đức Lý Giáo Tông giáng cơ
giảng dạy về thủ tục dâng luật như vầy:
“Buổi ba vị Chánh Phối Sư dâng luật, Hộ Pháp và
Thượng Phẩm phò loan cho Đức Lý giáng sửa (13.12 - Bính Dần), Ngài có truyền
dạy ba vị và Chưởng Pháp phải ngự trên ngai, đoạn đòi ba vị Chánh Phối sư vào
hành lễ, rồi kêu Chánh Phối sư Thượng Tương Thanh mà dạy rằng: Hiền hữu coi Lão
hành sự đây mà bắt chước.
Ngài lại dạy ba vị Chánh Phối sư mỗi người phải
dâng luật thế nào cho đủ sáu bàn tay nâng luật ấy, đặng dâng cho Chưởng Pháp,
rồi Chưởng Pháp cũng phải đủ sáu tay mà dâng cho Ngài.
Khi dâng luật Ngài lại giải thích: ấy là cơ VÔ VI
Tinh Khí Thần hiệp nhứt, nên cả ba chẳng hiệp thì chẳng hề thành đạo đặng...
Đức Thích Ca khi thuyết về Kinh Di Lạc đã dạy:
“Tùng thị pháp điều Tam Kỳ Phổ Độ, tất đắc GIẢI THOÁT”.
2 . Nội dung Tân Luật:
Tân Luật gồm có ba phần: đạo pháp, thế luật và Tịnh
Thất.
a. Vể đạo pháp: 8 chương. 32 điểu.
- Chương 1: Viết về quyền hạn, trách nhiệm luật
công cử của các phẩm chức sắc cửu Trùng đài.
- Chương 2: về người giữ đạo, thủ tục nhập môn,
trai giới.
- Chương 3: về việc lập họ Đạo, cách cúng lễ tại
Thánh' Thất địa phương.
- Chương 4: về ngũ giới câm.
- Chương 5: về tứ đại điều qui.
- Chương 6: về giáo huấn.
- Chương 7: về hình phạt.
- Chương 8: về việc ban hành luật pháp.
Hành giả nào giữ tròn Tân Luật sẽ nhẹ bước vào Tịnh
Thất, nhất là giữ gìn Thế Luật.
b . Về Thế Luât: gồm 24 điểu.
Qui định những bổn phận đối xử giữa, đồng đạo trong
các sính hoạt quan hôn tang tế.
c . VỀ TĨNH THẤT: gồm 8 điều.
Luật Tịnh Thất đã được Đức Phạm Hộ Pháp dạy TPVĐ
chú giải từng câu từng chữ in trong Tân Luật. Chú giải xong để trước bàn thờ
Đức Cao Thượng Phẩm duyệt y (Xem nguyên văn nơi Phụ bản, mục TỊNH THAT CHÚ
GIẢI)..
TIẾT
2
CÁC
TỊNH THẤT
Đức Hộ Pháp, người ươm mầm Đạo Dịch đã đặt tên cho
ba Tịnh Thất (tập thể) chính có dấu ấn Tam Tài: Thiên Địa Nhân như Thiên Hỉ
Động, Địa Linh Động, Nhdn Hoà Động.
Trí Huệ Cung dùng làm Tịnh Thất cho Nữ phái.
Vạn Pháp Cung dùng làm Tịnh Thất cho Nam phái.
Trí Giác Cung dùng làm Tịnh Thất chung hai phái.
A - Trí Huệ Cung - Thiên Hỉ Động:
1 . Địa thế Trí Huệ Cung:
Trí Huệ Cung lập tại ấp
Trường Xuân, xã Trường Hoà, huyện Hoà Thành (thuộc Châu Thành, Thánh Địa) cách Toà Thánh độ 7 km về hướng đông nam.
Đức Phạm Hộ Pháp khởi tạo Trí Huệ Cung và mở rộng
vùng phụ cận vào cuối năm Đinh Hợi (1947). Ngày 15.12 - Canh Đần, Đức Ngài làm
lễ trân thần Trí Huệ Cung Thiên Hỉ Động. Đó là ngày lễ lớn, các đạo hữu phải đi
vòng xuống Thiên Thọ Lộ qua Đoạn Trần Kiều mới vào Trí Huệ Cung tham dự lễ. Đó
là bí pháp QUI THÁNH, nhưng rủi thay, các thợ đắp Vân Trung Tử cỡi hạc bay về
Trí Huệ Cung mà quay đầu về chợ Trường Lưu, thành biểu tượng Thánh Lâm phàm.
Thế nên, sáng ngày 01.06.2004 (nhằm ngày 15.04 âl vía Phật Tổ) chim hồng hạc về
vườn Trí Huệ rước những hành giả đắc đạo. (Xem phụ trang thơ).
Đức Hộ Pháp giải thích cuộc đất, vào ngày 17.08 -
Tân Mão (17.09.1951) như sau:
“Khoảng đất này tên Thiên Hỉ Động, trước đây 20 năm
là rừng rậm. Bần đạo thấy địa thế rất nên tốt đẹp, và đất địa phì nhiêu nên
khai mở cho thành khoảnh cái đẹp của nó. Hôm nay ta thấy vui vui đáng giá, trót
10 năm nhọc nhằn.
Bần Đạo đã cỡi ngựa khắp vùng Trường Hoà thấy một
làng rừng, mà hôm nay đã trở nên một đô thị tối tân và đẹp đẽ, chẳng phải đẹp
mà nó sẽ trở nên giàu có nữa.
Bởi thế, Bần Đạo mở con đường An Nhàn lộ và bắc cây
cầu Đoạn Trần Kiều đặng làm ngọn suối thành con kinh thiên nhiên giúp cho việc
mở mang vườn ruộng. Con đường này hiệp với con đường sẽ mở từ Trường Hoà vô
vùng Thiên Hỉ động, đặt tên là Trường Xuân lộ, rồi hiệp con đường ra cẩm Giang
mà Bần Đạo đặt tên là Thiên Thọ lộ.
Trí Huệ Cung có vòng rào vuông, mỗi bên xây một
cổng lớn, trên cổng có tấm bảng đề chữ THIÊN HỈ ĐỘNG trên hai cột cổng có câu
liễn:
TRÍ
định thiên lương qui nhứt bổn,
HUỆ
íhông đạo pháp độ quần sanh.
Dịch nghĩa:
Trí định đem thiên lương hiệp về một gốc
Huệ sáng hiểu đạo pháp để độ đời.
Trí Huệ cung là toà nhà hình khối lập phương, cao
12 mét, chia làm 3 tầng 4 mét, còn bốn bên, mỗi mặt là 12 mét, vuông như cái
hộp, ở giữa trung tâm có một cây cột đội luôn ba tầng đến nóc, gọi là “nhứt trụ
xanh thiên”, Trí Huệ cung khi nhìn vào chỉ thấy có 2 tầng, còn tầng hầm dưới
mặt đất thì không thấy.
2 . Lễ cúng Tứ Thời tại Trí
Huệ Cung.
Đúng các giờ Tý, Ngọ, Mẹo, Dậu có lịnh đổ chuông ba
hồi, mỗi hồi hai hiệp (âm dương), mỗi hiệp giựt đủ 36 tiếng (chuông treo), hai
hiệp cộng chung là 72 tiếng giúp nhơn sanh tỉnh ngộ, nơi nơi đứng lên thành tâm
tưởng niệm. Chuông để ở cổng đông nam Thiên Hỉ Động. Nơi đó có làm cái giá treo
chuông, tới giờ cúng thì giựt chuông.
Lễ Tứ Thời thì đọc các bài kinh: Niệm hương, Khai
kinh, Ngọc Hoàng kinh, Phật Mầu chơn kinh, Dâng Tam Bửu rồi Ngũ nguyện.
Đạo vô vi cúng cũng vô vi nên không thắp đèn nhang.
Cầu nguyện vô vi riêng nơi tâm. Khi đi ngang qua Trí Huệ cung nghe kiểng đổ
cũng phải đứng lại tưởng niệm.
3 . Trấn Pháp Thiên Hỉ động.
Đêm 14.12 - Canh Dần (1950), Đức Hộ Pháp thuyết đạo
tại đền Thánh như sau:
“Ngày mai nầy là ngày trấn pháp Thiên Hỉ động Trí
Huệ cung, Bần Đạo lấy làm vui mừng đã làm tròn phận sự, đã nhiều phen giảng
giải về hình thể Đức Chí Tôn.
Bần Đạo đã gánh vác về thể pháp cửu Trùng đài tạo
nghiệp cho đạo. Bần Đạo còn đặng sức khoẻ cầm bí pháp của Đức Chí Tôn giao phó,
ấy là phận sự đặc biệt của Bần Đạo.
Hộ Pháp đến kỳ Long Hoa hội này cốt rước cửu nhị ức
nguyên nhân bị đoạ lạc nơi hồng trần này không giải thoát. Muốn rước các bạn
chí thân của Bần Đạo, Đức Chí Tôn buộc phải lấy pháp giới tận độ chúng sanh.
Hôm nay mở cửa thiêng liêng và đưa đến tay các
nguyên nhân ấy một quyền năng tự giải thoát, hai món bí pháp ấy là:
1 . LONG TU PHIẾN của Đức Cao Thượng Phẩm.
2 . KIM TIÊN của Bần Đạo.
Hiệp với ba vòng vô vi, tức Diệu quang Tam giáo hay
là hình trạng Càn Khôn Vũ Trụ. Đó cũng là tượng ảnh Huệ Quang khiếu của chúng
ta.
KIM TIÊN là gì?
Là điển lực Càn Khôn, ỉà sanh lực của vạn vật. Nó
có thể mở đệ Bát Khiếu. Trong thân người có thất khiếu, còn có một khiếu vô
hình là Huệ Quang khiếu, vì nó là điển lực nên mở khiếu ấy mới được.
Con người có ngũ quan hữu tướng vì lục quan vô
tướng mà phải nhờ cây Kim Tiên ấy mới có đủ quyền hành mở lục quan của mình.
LONG TU PHIEN do nguơn khí đào độn sanh ra. Nó có
quyền đào độn nguơn khí, thâu hoạch nguơn khí để trong sanh lực. Con người nắm
được điều ấy thì là đắc pháp. Nhờ nó mới luyện Tinh hoá Khí, luyện Khí hoá Thần
được.
Ấy là bí pháp trấn tại Thiên Hỉ Động Trí Huệ cung.
Toàn thể thấy không có gì mà huyền pháp vô biên, giải thoát đặng cùng chăng là
do bao nhiêu đó mà thôi.
Ngày 25.12 - Canh Dần, Đức Cao Thượng Phẩm giáng cơ
chúc mừng:
“Đức Chí Tôn vui mừng hơn hết, còn các bạn nữ thì
không cho ai chia vui với họ hết.
Cười... Bát Nương gởi một bài thi:
Mở rộng
đường mây rước khách trần.
Bao
nhiêu tình gởi nhắn nguyên nhân.
Biển
mê cầu Ngọc liên phàm tục,
Cõi
thị sông Ngân tiếp đảnh Thần.
Chuyển
nổi Càn Khôn xây vũ trụ,
Nhẹ
nâng nhật nguyệt chiếu đài vân.
Cầm
gươm tuệ chặt tiêu oan trái,
Điều
độ quần sanh diệt quả nhân.
BÁT NƯƠNG DTC
4 . Cửa vào Con Đường Thiêng
Liêng Hằng Sống:
Tại Thiên Hỉ Động vào ngày 16 và 25.12 - Canh Dần
(1951), Đức Hộ Pháp thuyết giảng về vai trò của Trí Huệ cung như sau:
“Ngày nay Đức Chí Tôn đã mở ra con đường Thiêng
Liêng Hằng Sống. Bần Đạo đã vâng mạng lịnh Ngài tạo dựng một bến giải thoát cho
toàn thể nhơn loại trên mặt địa cầu này. Kể từ nay cửa thiêng liêng của đạo đã
mở rộng, Ai hiểu mình đứng trong hàng phẩm 92 nguyên nhơn hãy tỉnh mộng lại
đặng về cùng Đức Chí Tôn.
Trí Huệ Cung là cơ quan tận độ chúng sanh đã xuất
hiện nơi cửa đạo Cao Đài. Bần Đạo nói rằng: Nó không phải của ta mà nó là của
toàn thể nhơn loại. Bởi vì nó tượng trưng hình ảnh chí linh của Đức Chí Tôn nơi
thế này, tức nhiên không có quyền nào nắm nó được. Nó không phân biệt đảng
phái, tôn giáo hay nòi giông trên mặt địa cầu.
Cửa Thiên Hỉ động là cửa Thiêng Liêng Hằng sống của
toàn thể chơn linh, nên nó không bị thúc phược hay nô lệ cho một tư tưởng nào,
hằng tạo đại nghiệp của Ngài nơi mặt địa cầu này.
Bần Đạo cả kêu con cái Đức Chí Tôn ngó nơi Trí Huệ
cung, phải vào cửa ấy mới đạt cơ giải thoát nhập vào cõi Thiêng Liêng Hằng sống
mà Đức Chí Tôn đã tạo dựng dành cho nọi
5 . Đức Phạm Hộ Pháp nhập
Tịnh Thất.
Đến ngày 16.01 - Tân Mão (1951), Đức Hộ Pháp vào
Trí Huệ Cung tịnh luyện theo Tân pháp mà Đức Chí Tôn đã dạy. Đức Ngài nói:
“Giải chức Hộ Pháp chỉ còn là bạn tu mà thôi”, Chính Ngài đã đặt nền tảng luyện
kỷ tu đơn cho mọi người.
Khi Đức Ngài nói: “Giải chức Hộ Pháp chỉ còn làm
bạn tu mà thôi”. Có nghĩa là muôn vào Tịnh Thất, nếu là chức sắc phải gởi chức
cho Hội Thánh trở thành đạo hữu (bạn đạo).
Đã biết Trí Huệ cung là Tịnh Thất của nữ phái, sao
Phạm Công Tắc vào đó?
Đức Ngài đã giảng: Phật Shiva là nguơn linh của
Phật Mau. Hình tạc trên đỉnh Bát Quái đài, Phật Shiva có bộ nhũ. Trong quyển
“Tôn giáo của người Chàm tại Việt Nam (Sài Gòn 1972, trg. 18), Giáo sư Nghiêm
Thấm viết: “Thần Shiva còn giữ vai trò của Dvarapala tức là Hộ Pháp giữ các đền
thờ”. Chính vị Phật này là nguơn linh khởi thuỷ của Đức Phạm Hộ Pháp. Do nguơn
linh nên Ngài Phạm Hộ Pháp được vào tịnh luyện ở Trí Huệ Cung.
Trước khi vào Trí Huệ cung, Đức Ngài giảng giải:
“Bần Đạo vào Trí Huệ cung tịnh luyện, điều ây không
biết trước Chí Tôn cho cùng không... Bần Đạo vào Trí Huệ cung là do nhơn loại
phạm Thiên điều vì loài người quá dữ. Vì cớ ấy, Bần Đạo dám quả quyết “Chí Tôn
không đến đây hội hiệp các con của Ngài lập cơ giải thoát độ tận con cái của
Ngài bao giờ”. Chính mình Ngài phải đến vì tội lỗi của con cái Ngài không
phương cứu rỗi.
Trong ba tháng Bần Đạo quì gối dưới chân Đức Chí
Tôn khóc lóc thỉnh cầu nơi Ngài cứu sanh mạng loài người. Toàn thể con cái Đức
Chí Tôn nam nữ ráng giúp Bần Đạo. Bần Đạo “xin cho đồng bào, nhơn loại nơi mặt
địa cầu này được phương cứu rỗi”.
Sau khi xuất tịnh, đêm 17.4 - Tân Mão (1951) Đức
Phạm Hộ Pháp giảng đạo:
“Kể từ ngày nhập tịnh nơi Trí Huệ cung, toàn thể
con cái Đức Chí Tôn đều đánh dấu hỏi: “Đức Hộ Pháp nhập tịnh để làm gì, nghĩa
lý gì mà nhập Trí Huệ cung ba tháng Iiay?”.
Về mặt đạo, giống như 40 ngày của Đức Jesus ra
ngoài sa mạc cầu khẩn với Chí Tôn ban bổ hồng ân cho toàn nhơn loại, đặng đem
cơ quan cứu thế của Ngài gieo khắp xã hội nhơn quần được hưởng, giống như Đức
Phật Thích Ca vào vườn bồ đề ngồi thiền định xin giải thoát cho chúng sanh.
Còn về mặt thế, giống như vua David ra đồng sa mạc
cầu đảo, xin giải pháp cứu khổ cho dân Israel.
Ôi cái cao vọng ấy, buổi này ai cũng muốn làm, được
hay chăng, không phải do quyền của mình. Kẻ xin thì khác, kẻ được lại khác.
May thay, nhờ đạo tâm của toàn Thánh thể của Ngài,
nhứt là đám thiếu niên đã làm cảm động Đức Chí Tôn, nên Ngài cho phép Bần Đạo
hội diện cùng quyền năng thiêng liêng bốn phen trong ba tháng.
Bần Đạo nói rằng: “Cái định mạng của nhơn loại, giờ
phút này trong tay Đức Chí Tôn”. Bần Đạo dám quả quyết rằng luật nhơn quả nhơn
loại chưa hết thì chưa tạo hạnh phúc hoà bình được.
Đêm 19.04 - Tân Mão (1951), Đức Hộ Pháp giảng về
“Phương pháp lập Thiên Vị” như sau:
Muốn định Thiên vị của mình, quyền thiêng liêng
buộc phải có Tam Lập, gọi là nhơn luân. Điều ấy Bần Đạo đã truyền cho chức sắc
Hiệp Thiên đài, dường như Ngài Trần Khai Pháp đã thuyết minh điều ấy rồi.
Người nào không có Tam lập thì không ở chung với ai
được hết. Chính mình đối với cơ thể hữu vi mà không có bằng cớ chi hết thì ai
tin rằng có bí pháp, đạt pháp, đạt đạo... Phải có hình mới có bóng. Khi nào
thấy bóng tức nhiên chúng ta quyết có hình, bóng hình phải tương liên mới đặng.
Ây vậy, Tam lập là lập đức, lập công, lập ngôn. Con
người không có Tam lập thì giá trị không có gì hết. Tam lập ấy quyết định cho
ra, ta mới sống chung với nhơn quần xã hội được.
Khi muốn bước vô Trí Huệ Cung phải có đủ Tam lập là
TU THÂN... Những người nào xin vào Trí Huệ Cung, Bần Đạo coi được thì trục xuất
Thần của họ cho hội diện cùng quyền năng thiêng liêng, nếu có Tam lập thi vô,
không đủ thì ra.
Vào đêm 15.5 - Tân Mão (1951), Đức Ngài giảng về bí
pháp và thể pháp như sau:
“Thể pháp là cái hình tướng của đạo về hữu hình tức
là dạng trạng của Hội Thánh, là hình trạng của Thánh Thể Chí Tôn tại thế.
Bí pháp là quyền năng điều khiển Càn Khôn vũ trụ,
tức là quyền năng vô đối của Đức Chí Tôn, Ngài đến cùng con cái của Ngài. Ngài
ban một quyền hành tự giải thoát cho mình.
Tiên Nho gọi ta là Khách, trần là quán. Không tỉ dụ gì minh bạch hơn tỉ dụ đó. Hãy
nghĩ cả cơ quan huyền diệu của Đức Chí Tôn đào tạo trong Càn Khôn và vạn vật
hữu hình, hễ có khuông luật tức nhiên phải có cảnh, tức có hình thì có bóng.
Đức Chí Tôn, nếu không để Thánh thể của Ngài ra
trước ngày mở đạo 60 năm. Ngài không sai các chơn linh xuống thế, không tạo
hình ảnh cửu Thiên Khai hoá, Ngài không mở cửu Bạch Ngọc Kinh tại thế gian này,
thì giám chắc nền chơn giáo chưa hiển hiện ra.
Huyền diệu thay nền chơn giáo của Ngài.
Ngài lấy quyền năng vô biên mà [àm thể pháp, còn bí
pháp, Ngài lấy căn bản Vạn linh tạo nên Thần Thánh Tiên Phật trước mặt thế
gian.
Ây vậy nơi của Tịnh Thất, có thể nói là chúng ta
đưa các bạn ta đi cũng [à cửa rước bạn chúng ta đến.
Bí pháp ấy càng ngày con cái Đức Chí Tôn càng ngó
thấy. Vì mới mở Tịnh thất nên hình trạng chưa rõ chừng hoàn thành con cái Chí
Tôn sẽ thây.
Phải để đức tin vững vàng nơi Thánh thể Ngài cho
cường liệt, Đức Chí Tôn mới xây chuyển xã hội nhơn quần và tạo hạnh phúc cho xã
hội nhơn quần được”.
Đêm mồng 7.01 - Tân Mão (195L), Đức Phật Mẩu giáng
cớ tại Trí Huệ cung ban cho Đức Hộ Pháp vẹn toàn pháp môn Tịnh luyện để chỉ dạy
lại cho các hành giả.
DIÊU TRÌ KIM MẪU
Từ
vô cực vào tronq cảnh giới,
Mới để tâm so sánh Tiên phàm.
Chẳng từ ô trược dương gian,
Vì
thương trẻ mới băng ngàn viếng thăm..
Vâng
Thiên sắc độ phàm thoát tục
Đóng
Phong đô giải ngục đoạ đày.
Máy
linh cơ tạo nơi tay,
Giấc
mê cứu đám lạc loài nguyên nhơn.
Nên
chan trải hồng ân khắp thế,
Bỏ
ngôi linh gương huệ trau gioi.
Cõi
thiêng định vị phân ngôi
Vạn
Lình gặp hội phục hồi thiện duyên.
Con
đã nắm lái thuyền bát nhã,
Dù
quyền hành giải quả diệt căn,
Nguơn
linh dù đặng cao thăng
Nơi
cung Trí Huệ làm đàng thiện duyên.
Từ
khi sợ để khuyên buổi trước,
Nay
duyên may mừng được con nên.
Chừ
nay đã toại thửa nguyền.
Độ
sanh nắm vũng chơn truyền Chí Tôn.
Đã
thấy nẻo Thiên môn rộng mở,
Hội
Long Hoa rỡ rd soi đời Nhập vào Thiên Hỉ an nơi,
Cõi
Tiên cảnh tục một vời không xa.
Con
đã biết quyền già cùng trẻ Mạng Chí Tôn đã để đủ phương,
Cứu
nguy độ khổ là thương,
Vì
rằng bát phẩm chơn hồn mụ sanh.
Hễ
làm Mẹ quyền hành dạy trẻ,
Con
đừng lo mạng thế thi phàm.
Huyền
linh Mẹ chịu phần cam
Ban
cho con trẻ VẸN TOÀN PHÁP MÔN.
Độ
cho hết các hồn địa giới,
Độ
vong linh từ ngoại
Càn
Khôn Cửa linh cắm phướn chiêu hồn,
Độ
trong Cửu nhị nguyên nhơn nhập trường.
Các
chủng tộc còn đương lầm ngỏ
Soi
Huệ quang cho rõ cửa Thiên
Mây
linh để sẵn diệu huyền
Giải
căn đợi kẻ hữu duyên định phần.
Con
nên vui phận yên thân.
Thăng”.
Lời dạy trên đối với Đức Hộ Pháp là bước ngoặt quan
trọng trong DÒNG THIEN phô độ. Từ trước Đức Chí Tồn và Đức Phật Mầu dạy trực
tiếp về bí pháp mà chưa ban TOÀN VẸN PHÁP MÔN TỊNH LUYỆN. Thế nên Đức Hộ Pháp
ban Phương Luyện Kỷ trị tâm là để sửa mình. Còn phương pháp thực hành TRƯỜNG
DƯỠNG TINH KHÍ THAN đến khi Ngài qui thiên mới chỉ dạy và ban cho TPVĐ để phổ
biến lại chúng sanh.
Nhờ đó cơ đạo được tiếp nối lưu truyền mãi mãi tới
TIẤT ỨC NIÊN.
B . TRÍ GIÁC CUNG
ĐỊA
LINH ĐỘNG
1 . Lai lịch Trí Giác Cung :
Trí Giác Cung trong Địa Linh Động ở ấp Trường
Thiện, xã Trường Hoà (thuộc Châu Thành Thánh Địa), cách Toà Thánh Tây Ninh độ 5 km về hướng đông nam.
Trước khí lập Trí Giác Cung, nơi đây đã lập Trường
Qui Thiện, do Giáo Thiện Đinh Công Trứ qui tập các bạn đạo Minh thiện đàn ở Phú
Mỹ (Mỹ Tho) về Toà Thánh khởi lập ngày 26.09 Quí Mùi (1948).
Đôi liễn Trí Giác Cung được đắp trên hai cột trụ
Địa Linh Động là:
TRÍ linh quán thế Thiên cơ đạt
GIÁC huệ siêu phàm Đạo pháp thông.
Dịch nghĩa:
Trí sáng thông linh biết việc đời, đạt thấu Thiên
cơ, Huệ giác ngộ siêu phàm rỗ thông Đạo pháp.
Sau khi ông Đinh Công Trứ qua đời (1949), Chí Thiện
Lê Văn Trung được cử làm cai quản Trường Quí Thiện.
Ngày 14.10 - Tân Mão (1951), Hội Thánh bổ ba vị
Giáo Thiện cai quản Trường thay Chí Thiện Lê Văn Trung.
Ngày 03.03 - Giáp Ngọ, Hội Thánh lại cử Đạo Nhơn
Dương Văn Khuê xuống coi Trường Qui Thiện. Đức Hộ Pháp chỉ đạo ông Khuê triệu
tập đại hội toàn thể tín đồ Trường Qui Thiện ngày 11.11 - Giáp Ngọ (1954) để
bầu cử Ban Trị sự.
Ông Tổng quản và Ban Trị sự Địa Linh Động vâng ỉịnh
thực hành kể từ 05.12 - Giáp Ngọ (29.12.1954) do Huấn Lịnh số 285/VP-HP.
Như thế, Đức Hộ Pháp đã chánh thức chuyển đổi
Trường Qui Thiện thành một Tịnh Thất gọi là Trí Giác Cung - Địa Linh Động vào
ngày 05.12 - Giáp Ngọ (1954).
2 . Thành phần Ban Trị sự
Địa Linh Động.
Kể từ năm thành lập Trí Giác Cung (1954) đến năm
Bính Thìn (1976), có 12 vị Tổng Quản được bổ nhiệm.
Ban Trị sự gồm có: Tổng Quản, Đầu phòng văn, Quản
khố (Thủ bổn), Cai quản giáo huấn, Cai quản Canh Nông, Cai quản công nghệ, Cai
quản thương mại, Quản Y (kiểm soát viên 2 vị) và nhiều Trưởng ban và Chủ sở.
Có bài xưng tụng của HBP về Trí Giác Cung như sau:
Trí
Giác dành cho bậc thức thời,
An
bần lạc đạo suốt ngày vui,
Không
ham quyền thế, say mùi đạo,
Chẳng
thích lợi danh, gát chuyện đời.
Thượng
thọ ví như luồng mắt chớp
Đỉnh
chung dường thể bọt bèo trôi.
Nương
thân cửa Phạm lòng thanh thản
Phản
bổn huờn nguyên trở lại ngôi.
3 . Khai Pháp vào Tịnh Thất
Trí Giác Cung.
Khai Pháp Trần Duy Nghĩa (1888 - 1954), người làng
Thành Phô, tỉnh Gò Công, làm côns chức Hoả xa.
Năm Bính Dần (1926), Đức Hộ Pháp vâng lịnh Chí Tôn
đi xuống Gò Công mời ông Trần Duy Nghĩa vì ông là nguyên nhơn tiền định nên
chịu nhập môn theo Đạo.
Ngài Trần Duy Nghĩa được Thiên phong Khai Pháp một
lượt với các Thời Quân khác (1927). Ngài cùng với Tiếp Pháp Trương Văn Tràng
làm cặp cơ truyền đạo lúc đầu, sau đó trở thành cặp phò loan chuyên về bí pháp.
Đến ngày 17.06 - Tân Tỵ, lính mật thám Pháp bắt
Ngài tại Sài Gòn. Trước đó, chúng đã bắt Đức Hộ Pháp vào ngày 04.06 - Tân Tỵ,
đày sang Madagascar.
Sau hơn 5 năm bị lưu đày, Đức Hộ Pháp và Ngài được
trả tự do vào ngày 25.07 - Bính Tuất (1946). về Toà Thánh, Ngài tiếp tục hành
đạo bên cạnh Đức Hộ Pháp.
“Kể từ ngày về Thánh Địa, Ngài Khai Pháp thường
than thở với Bần Đạo: sợ e gây cảnh nồi da xáo thịt, bên ngoài thì giặc Pháp,
bên trong thì quân đội quốc gia, ở giữa thì lính đạo. Ai vui, chớ tiêng Ngài sợ
đổ máu giết chóc lẫn nhau, dẫn đến tương tàn cốt nhục của nòi giống ta.
Sau ngày Truyền Trạng Phạm Ngọc Trấn, Thánh Vệ bị
quân đội Thành ám sát, Ngài thường đến Trí Huệ Cung ôm Bần Đạo khóc và than
rằng: Thầy ôi, cái sỢ của tồi ngày nay đã đến rồi. Tôi hằng than thở với Thầy
từ nơi hải đảo. Thầy trò minh tưởng về đất Thánh được yên vui, nào dè có quần
đội, cho nên mới ra nỗi này”.
Than rồi khóc, Ngài vịn níu lấy Bần Đạo mà nói:
“Thầy ôi, Thầy trò mình mới về, dìu dắt con cái Đức
Chí Tồn mà họ đâu thấu đáo tâm trạng, nay Trấn đã chết rồi, tôi thấy thảm hoạ
đầy rẫy, tự gây phản bội và làm ly tán nhau, thì bầy con dại của Đức Chí Tôn
phải sống nơi nào cho an phận.
Thưa Thầy, thà Thầy trò mình vùi thân nơi chốn tù
đày hải đảo rừng xanh nước độc, còn y thú vị hơn về đây thấy cảnh đổ máu, tiền
đồ tổ quốc chưa dựng lại mà nhơn sanh phải chịu cảnh sắp điêu tàn, nền đạo
chinh nghiêng bởi cảnh đó”.
Bần Đạo gượng làm vui, cho Ngài bớt buồn rầu nên
nói:
Không anh à, mấy em nó vì đầu óc thanh niên. Máu
nóng đua tài, chác lợi, quyền trọng tham danh, chớ buộc cả thảy như quý anh sao
được.
Bần Đạo thấy Ngài buồn, lần lượt kiến tạo Trí Giác
Cung và khuyên Ngài vào ở đó cho yên tịnh mà bớt thấy cảnh thảm hoạ trêu diễn
trước mắt hàng ngày”.
Ngài Khai Pháp Tịnh luyện tại Trí Giác Cung rồi
thoát xác ngày 22.01 - Giáp Ngọ (24.02.1954) hưởng thọ 66 tuổi.
Ngay tối hôm sau, Ngài khai Pháp giáng cơ viết:
“Chẳng phải sự sống là hạnh phúc ở cõi trần gian,
nếu biết thì các bạn cũng đã mừng cho Tệ tăng rồi. Cái phàm thể chăng qua là đồ
mục chẳng đáng gì.
THI
Sáu
mươi sáu tuổi có bao lầu
Ngảnh
lại trần gian chửa mãn sầu.
Tiếc
lúc về già đời mỏi mắt
Dầu an Tiên cảnh vẫn đeo sầu.
Thăng”.
Bài thơ trên xác nhận
Ngài đã đắc vị Tiên.
Bốn hôm sau, Đức Cao
Thượng Phẩm cho biết Ngài Khai Pháp có đủ công nghiệp nên trở về cựu vị Thiên
Tiên, tiếp theo Ngài Khai Pháp giáng cơ (30.01 - Giáp Ngọ).
“Bạn Tiếp Pháp kể từ giờ này, bạn là vị Chơn Quân
lãnh phần tiếp pháp mà hành nên chánh truyền cho cơ định thể...
Từ đây là cơ hành pháp chớ không còn là cơ bí pháp
nữa. Bạn là người tiếp nhận Pháp Giới và tùng Hộ Pháp đặng ban hành chánh pháp
cho Thánh Thể và con cái Đức Chí Tôn. về mặt vô vi Tệ tăng luôn luôn giúp sức.
Nghĩa Tràng
Cặp cơ Bí Pháp tịnh luyện giờ đã gãy, nên Ngài Khai
Pháp khuyên Ngài Tiếp Pháp cố gắng, về mặt vô vi sẽ có Ngài tiểp sức.
Tại Báo Ân đường Kim Biên (Nam Vang), đêm 15 tháng
8 Bính Thân (1956), Ngài Khai Pháp giáng cơ cho bài thài khác, thay bài cũ như
sau:
THI
Đã
chán công danh dưới phép người,
Đem
thân cửa Phạm để nên nơi.
Lóng
chuông Bạch Ngọc hồi hổn tục,
Nghe
trống Lôi Ảm tỉnh mộng đời.
Nắm
pháp thiêng liêng diu Thánh vị
Cầm
cân công lý giữ ngôi trời.
Dầu
chưa trọn nghĩa Thiên thơ định.
Giác
ngộ vui theo cũng kịp thời.
Đến đêm mồng 2.12 - Giáp Thìn, Ngài Khai Pháp giáng
đàn và cho thi:
TRẦN
hoàn khoả lấp bụi phù sinh,
DUY
lý uyên thâm tạo đạo thành
NGHĨA
dõng tài cao còn thiếu đức
Nắm
cơ trị thế khó nên danh.
Bài quán thủ Khai Pháp Chơn Quân giáng cho vào ngày
04.03- Ất Tỵ (1965).
KHAI
khiếu huyền linh diệt tánh phàm,
PHÁP
điều khử mị dẹp tà tâm.
CHƠN
truyền mầu nhiệm Tam Kỳ xuất
QUÂN
tướng dua giành nước Việt Nam.
Bài trên trích trong “Thuyết đạo của Ngài Bảo Thê
Lê Thiện Phước”, Ngài Trần Duy Nghĩa có ý nói: trị đời mà thiếu đức khó thành
công, một lời nói thẳng của chơn linh đăng Tiên.
Xem thế, cặp cơ Bí Pháp không còn, phải chờ đợi một
sắp xếp ưiới của ơn Trên.
C . VẠN PHÁP CUNG - NHƠN HOÀ
ĐỘNG
1 . Lai lịch Vạn Pháp Cung:
Vạn Pháp Cung lập trong Nhơn Hoà động tạì chân núi
Bà Đen ở về phía nam, do chiến cuộc nên phải dời về đặt tại xã Ninh Thanh, phía
bắc Toà Thánh độ 3 Km .
Đôi liễn nơi Vạn Pháp Cung:
VẠN
lỷ hoà tâm đồng nhứt mạch.
PHÁP
cao bình trị hội Tam Tông.
Ngày 28.10 - Giáp Ngọ (23.11.1954), Đức Phạm Hộ
Pháp đi đến Sở Sđn Đình để tìm nơi xây dựng Tịnh Thất. Hội Thánh Phước Thiện
vâng lịnh Đức Hộ Pháp ra thông tri tuyển mộ công quả tình nguyện tạo tác Vạn
Pháp Cung theo số qui định là ba ngàn, không tính các đạo núi.
Khởi công xây dựng vào tháng hai năm Ât Mùi. Chính
biến cô ngày Đạo hận 20.08 - At Mùi (1955) làm cho việc xây cất bị gián đoạn.
2 . Cực Lạc ThếGiới trên núi
Bà.
Chuyến lên núi Bà tìm nơi xây dựng Vạn Pháp Cung
vào ngày 12.06 - Mậu Dần (09.07.1938) được tường thuật lại như sau: Đêm 12.06 -
Mậu Dần, Đức Phạm Hộ Pháp thức dậy 4 giờ sáng, dẫn đạp ra cổng Hộ Pháp đường,
lên xe đạp chạy ra cửa Hoà Viện. Bên ngoài các ông Nguyễn Vãn Gia, Vỡ Văn
Đợi... chờ sẩn. Ông Đợì ở họ Đạo Mỹ Tho về Toà Thánh thăm Đức Thầy, nghe đi núi
nên ông xin theo hầu Thầy.
Thầy trò cỡi xe đạp qua ngã Lâm vồ (loại cây lá
giống cây Bồ đề), đi thẳng lên núi. Khi Thầy trò đến chân núi, tới láng rừng có
đóng bảng cấm, Đức Thầy bảo đem bỏ xe trong đó, rồi dẫn anh em băng qua vườn
chuối. Đến chơn núi, Đức Thầy leo theo triền núi, anh em cũng leo theo. Khi leo
ỉên gặp tảng đá lớn, dưới ting đá có cái hang, họi là hang Gạo.
Đức Thầy chun qua hang đó, rồi leo lên một tảng đá
khác. Đức Thầy ngồi nghỉ mát. Lúc đó, ông Đợi đem võng ra giăng cho Đức Thầy
nằm nghỉ. Tối ông chạy xuống cầu đá gần chùa Trung mua nước dừa đem lên cho Đức
Thầy uống.
Đức Thầy nói: Nơi đây sau này anh em về ở trên ba
ngàn người, nơi đây chắc có mạch nước, anh em xuống coi thử, vạch lá lên quả
nhiên có mạch nước (mạch nước đó hiện giờ là sở số 1). Đức Thầy nói: ông Đầu sư
Thái Thơ Thanh tạo Cực Lạc ở dưới đó là sai nên ảnh làm không thành mà Cực Lạc
cảnh ở trên núi này.
Cực Lạc Thế Giới có Lôi Âm tự là nơi tu hành các
bậc chơn tu, là con đường giải thoát. Giữa đỉnh cất Kim Tự Tháp tượng trưng cho
Lôi Âm tự^còn dưới chơn núi là dinh thự Vạn Pháp Cung.
Đến 16 giờ, Đức Thầy ra lịnh trở về Toà Thánh. Thật
ỉà duyên hạnh ngộ đối với ông Võ Văn Đợi. Khi nghe được câu: “Không biết có anh
em Phạm Môn nào lên núi lập cho Bần Đạo một vườn nho”?, điều đó là gợi mở cho
ông lên núi sau này.
3 . Lý lịch ông Đạo Núi:
Đạo Núi là tên do Đức Hộ Pháp đặt tên cho các đạo
hữu tu trên núi Bà: đầu cạo trọc, mặc quần áo màu dà.
Khởi đầu là ông Võ Văn Đợi tự là Đại, người làng
Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, nhập vào Phạm Môn và lập hồng thệ kỳ
nhứt, tại sở Trường Hoà vào ngày 03.01 - Nhâm Thân (07.02.1932), nhờ sáng dạ,
lanh trí, Đức Hộ Pháp ban cho đạo hiệu LINH ĐOÁN, đắc phong Giáo Thiện, bắt
thăm đi làm Đầu Họ Đạo Rạch Giá, mở cơ sở lương điền thương mại để thu huê lợi
gởi về xây cất Toà Thánh.
Sau đó, ông Đợi từ chức Giáo Thiện để lập cơ sở tu
chơn tại Vạn Pháp Cung. Nhóm của ông, Đức Hộ Pháp gọi là nhóm Đạo Núi.
Hành động của ông Đợi do động lực nào? Hãy đọc Văn
thơ của Ngài Khai Pháp, Chưởng Quản cơ quan Phước Thiện dưới đây sẽ rõ.
“Kính ông Giáo Thiện Võ Văn Đợi,
Tiếp thơ hồi âm của Hiền hữu theo thơ số 219 của
Bần Tăng đề ngày 17.11 - Mậu Dần. Bần Tăng đắc lịnh của Đức Hộ Pháp để trả lời
cho Hiền hữu rõ về thăng phẩm Chí Thiện cho Hiền hữu vì cớ nào mà Người chưa
muốn để cho Hiền hữu thọ lãnh tân phẩm Chí Thiện.
Hiện thời chúng sanh còn đang khổ, Hiền hữu còn
phải chịu nhọc nhằn... Hiền hữu chẳng lẽ ngơ tai nhắm mắt mà đi ngang qua cảnh
khổ của chúng sanh. Huống chi phẩm Chí Thiện là còn khó khăn hơn hội phần. Đức
Hộ Pháp vì thương yêu Hiền hữu, không nỡ để chồng chất sự khó khăn thêm, sơ nỗi
nặng gánh đổ nhiều, nên mới không cho thăng vị Chí Thiện”.
Qua ý kiến trên ta hiểu được rằng Đức Hộ Pháp đã
tiên liệu về sứ mạng đi đến con đường tu chơn của ông Đợi nên không thăng phẩm
Chí Thiện.
Xem chế, ông Võ Linh Đoán là người đầu tiên được
Đức Hộ Pháp tuyển chọn đưa vào con đường Tu Chơn để dìu dẫn các bạn đồng môn
sau này. Thật vây, chức sắc gởi chức lại Hội Thánh bước vào đường Tu Chơn là
thông lệ từ trước. Bởi vì Tịnh Thất theo Tân Luật chỉ dành riêng cho tín đồ.
Đến năm Đinh Hợi (1947), ông Đợi bị bịnh nặng trên
núi. Đức Hộ Pháp cho người đưa ông Đợi về Toà Thánh để trị bịnh. Trước ba ngày
qui vị, ông nhờ người viết “Tờ xin tội” dâng lên Đức Hộ Pháp.
“Cúi bạch Sư Phụ,
Con là Vố Văn Đợi 50 tuổi, cúi đầu trăm lạy Sư Phụ
xá tội giùm con. Kể từ ngày con hiến thân làm Đạo đến nay tính 17 năm có lẻ.
Nay con đau nặng không thể mạnh được mà nay gần rốt kiếp sống rồi. Nên con cúi
đầu trăm lạy Sư Phụ xá tội cãi Thầy, cãi bạn của con.
Võ Văn Đợi”.
Lời phê của Đức Hộ Pháp như vây: “Em an lòng, Thầy
chỉ thầm khem em, chớ chưa biết em có tội gì hết”.
Ngoài ân huệ khoan hồng, Đức Hộ Pháp còn cho phục
chức Giáo Thiện đo Thánh Lịnh sô" ngày 23.04 - Đinh Hợi (1947):
“Cho phục phẩm Giáo Thiện kể từ ngày 22.04 - Đinh
Hợi. Lễ cất tang Người được dùng theo hàng Giáo Thiện và linh vị được đem vào ở
Báo Ẩn Từ”.
Lần đầu tiên, phẩm Giáo Thiện được hành lễ tang tại
Báo Ân Từ là Giáo thiện Võ Văn Đợi. Điều đó, chứng minh ông Đợi Tu Chơn đã hiển
thánh.
Sau khi ông Đợi qui liễu, khu núi Bà vì chiến tranh
mất an ninh. Các Đạo Núi Tu Chớn không được ở trên núi phải xin về Toà Thánh
làm công quả.
Vì có sự ngăn trở cách ăn mặc, nên ngày 17.5 - Đinh
Hợi, ông Nguyễn Văn Thế thay mặt các Đạo Núi dâng tờ lên Sư Phụ cho giữ Thiền
Cách, được Đức Hộ Pháp bút phê:
“Tư cho Hội Thánh Phước Thiện: cứ để tự do cho mấy
đứa nhỏ giữ nguyên THIÊN CÁCH, cho làm công quả tạm ở đây, chờ ngày Bần Đạo
giao việc làm riêng”.
Năm 1955, Đức Hộ Pháp lưu vong sang Cao Miên. Vạn
Pháp Cung, cơ sở của nhóm Đạo Núi còn lại bị bom đạn phá hư sập. Nhóm Đạo Núi
tản cư về xóm lò than ở xã Ninh Thạnh cho tới ngày nay.
Cách ăn mặc của nhóm Đạo Núi nơi Vạn Pháp Cung: đầu
cạo trọc, quần áo màu nâu (trong ý: Nhuộm áo nâu sòng về Cực Lạc) là tổ chức
theo ông Linh Đoán chớ không phải lịnh của Đức Hộ Pháp, nên khác hẳn với luật
Tịnh Thất.
CHƯƠNG
III
TỊNH
THẤT TẠI TƯ GIA
TIẾT
1
TU
TẠI GIA
Trong Tân Luật có ba đạo sự đồng hành: Đạo Pháp,
Thế Luật và Tịnh Thất.
Tịnh Thất là luyện đạo trường sanh dành cho tín đồ
để trọn câu tận độ chúng sanh.
Đêm 08.04.1926, Đức Chí Tôn đã phán: Muốn trọn câu
phổ độ phải bày Bửu Pháp (Tịnh Luyện) ra, chớ không đặng dấu nữa. Xem thế thì
phổ độ và tịnh luyện song hành.
Đức Chí Tôn dạy về Tu Chơn như vầy: “Cái xác vô
hình huyền diệu thiêng liêng này do Tinh Khí Thần mà luyện thành... Nó phải có
bổn nguyên Chí Thành, Chí Tiên, Chí Phật mới xuất ra Thánh Tiên Phật”.
(Đàn 17.07.1926)
Đức Chí Tôn lại khẳng định: “Nếu biết ngộ một đời
tu, đủ trở về cùng Thầy đặng”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét