Quả thật, Đạo
Cao Đài là Tôn giáo của thời hiện đại, tổng hợp văn hóa Đông Tây. Thế kỷ XXI là
thế kỷ văn hóa, kỷ nguyên của những phát minh kỳ diệu, kỷ nguyên nối liền các
quốc gia dân tộc, kỷ nguyên chung sống hòa bình hòa hợp mà Đức Cao Đài gọi là "Càn
Khôn dĩ tận thức, hòa bình yên tịnh", chống mọi xung đột sắc tộc và kỳ thị
tôn giáo vì hiểu ra nhân loại cùng đấng cha chung, hàn gắn mọi tệ nạn xã hội vì
nền kinh tế phát triển cao đưa đến khủng hoảng đạo đức. Chẳng hạn nước Mỹ bạo
lực đang hoành hành, ở Anh.
chấp nhận nữ sinh đi học được mang thai hoặc dẫn con
theo. Sự băng hoại xã hội vào Hạ nguơn chưa thời kỳ nào bằng.
Văn hóa bao gồm khoa học
tự nhiên (mà Bảo Sanh quân là tiêu biểu) và khoa học xã hội (mà Bảo Văn Pháp
Quân là tiêu biểu). Văn hóa là sản phẩm tinh thần (nên tôn giáo cũng nằm trong
phạm trù văn hóa) bắt nguồn từ đời sống xã hội, nên văn hóa dân tộc trong thời
đại thông tin điện toán chắc chắn sẽ giao lưu với văn hóa nhân loại. Đó là lúc
"Nam phong thử nhựt biến nhơn phong".
Chức năng của văn hóa (vốn
là vẻ đẹp) là khám phá cái sai, cái ác để lượt lấy cái đung cái thiện hầu đạt
chân, thiện, mỹ. Thế nên văn hóa tạo điều kiện cho con người từ thô lỗ, cổ xưa
tiến đến văn minh tiến bộ. Vì thế, Đạo Cao Đài chỉ lấy tiến bộ hiểu biết làm nền
tảng chớ không cần lấy mê hoặc chúng sanh làm lợi khí.
Văn hóa cao thì tuổi thọ
cũng cao. Bà Hồ Hương Lự đại thọ biểu tượng đức tranh bền lâu trong Dịch Lý.
Các nhà nhân chủng học định rằng : Các nước tiên tiến có trên 60 tuổi thọ trên
đầu người, còn các nước đang phát triển dưới 50 tuổi thọ đầu người.
Xét về Quốc Đạo Nam Phong
trong lịch sử nước nhà qua các triều đại đều có sự hiện diện các Tiên Thánh của
Đạo Cao Đài cứu đời và uốn nắn con người giữ vẹn nếp Nam Phong.
Trong cuộc khởi nghĩa
giành độc lập đầu tiên của Hai Bà Trưng thì hai nữ tướng Hoàng Thiều Hoa và Hồ
Đề vốn là Nhứt Nương và Bát Nương ở Diêu Trì Cung. Đến thời Lê bà Liễu Hạnh
hiển Thánh nhiều lần hiện thân giúp đồng bào. Bà vốn là Ngũ Nương DTC và bà Lê
Ngọc Gấm (hậu thân là nữ sĩ Đoàn Thị Điểm) đã làm cho nền văn hóa nước ta khởi
sắc. Người dẫn đường cho chúa Nguyễn Hoàng lập nghiệp ở phương Nam là Tam Nương
DTC và các Chúa Nguyễn hậu duệ là Cửu Nương DTC. Bà Lục Nương Hồ Thị Huê còn
ban cho Vua Minh Mạng đứa con nối dòng. Chính bà Thất Nương đã hộ trì vẻ đẹp
của Hòn Ngọc Viễn Đông. Nhất là nhờ đề cao Tam giáo đồng nguyên mà các triều
Đại Lý, Trần, Lê có nền văn hóa hưng thịnh vào bậc nhứt.
Đức Phạm Hộ Pháp đã từng
giảng đạo : "Chúng ta thử coi nền quốc đạo của chúng ta sẽ trở nên nền Tôn
giáo của toàn cầu được chăng và phong hóa của chúng ta có thể thay thế cho cả
nhơn loại này chăng ? Bần đạo quả quyết rằng nó phải như vậy đó".
* NAM BẮC CÔNG RỒI
RA NGOẠI QUỐC
Từ đây nòi giống
chẳng chia ba
Thầy hiệp các con lại một nhà
Chủ quyền chơn
đạo một mình ta.
Đây là lời
tiên tri cũng như lời dạy bảo các môn đồ của Đức Cao Đà. Nếu ta lấy chiều Nam Bắc nước Việt
Nam làm ranh âm dương trong Thái Cực đồ, rồi vẽ vòng tròn bao quanh gồm cả đảo
Hải Nam (Trung Quốc) và Biển Hồ của Camphuchia. Ta có được hình sau :
Đó là Việt Nam Thái Cực
Đồ. Bên phải là đất (Hải Nam) trong nước như âm trong dương. Bên trái là nước
(biển hồ) trong đất như dương trong âm.
Đức Cao Đài dạy "Nam
Bắc cùng rồi ra ngoại quốc". Thật vậy, năm 1927 Đức Nguyệt Tâm lập Hội
Thánh ngoại giáo (Mission Étrangère) ở Campuchia sau đó Giáo sư Thượng Bảy
Thanh được lịnh truyền đạo ở Vân Nam (Trung Quốc). Thế là "ra ngoại
quốc" rồi. Unesco thống kê : Việt Nam là một trong 34 nước có nền văn hóa
lớn.
Thật vậy, xã hội Việt Nam
có luật lệ, có lễ giáo, có kỷ cương. Nếp sống văn minh nông nghiệo là sắc thái
truyền thống của văn hóa dân tộc. Xã hội đề cao : tiên học lễ, hậu học văn,
nhân nghĩa là chữ tín, cần kiệm, liêm chính. Đức Chí Tôn dạy lấy lễ nhạc dân
tộc làm nhạc lễ tế tự Ngài và các đấng. Vì theo lễ ký : nhạc gây xúc động trong
lòng. Lễ gây xúc động bên ngoài. Cùng tột của nhạc là hòa, cùng tột của lễ là
thuận. Trong ngoài hòa thuận, hữu vô, nói theo Dịch Ký đó là âm dương, Càn
Khôn, tâm vật hình hành thì thế giới an lành, hưng thịnh.
Tóm lại, với chủ trương
qui Tam giáo, Hiệp Ngũ Chi, thống hợp các nền văn hóa nhân loại là một tuyên
ngôn chính thống phù hợp với thời kỳ hiện đại đưa đất nước tiến lên và vượt
trội trong tương lai :
Một nước nhỏ nhoi trong vạn quốc
Mai sau làm chủ mới là kỳ !
4/ -
Phạm trù Càn Khôn
Dịch Hệ từ viết :
"Cương nhu tương dịch, duy biến sở thích". Trong Thái Cực, âm dương
bên nhau đương nhiên có sự trao đổi lẫn nhau. Âm hút dương, dương hút âm để thể
hiện sự quân bình của vũ trụ. Trong Hậu Thiên Bát Quái chẳng hạn : Khí dương
của Càn hút khí âm Khôn đoạt khí dương, Càn để biến thành các quẻ Tốn, Ly,
Đoài. Đó là luật nhị khí giao cảm, hóa sinh vạn vật. Mọi sự việc trên đời đều
có cặp mâu thuẫn đối đãi mang tính tất nhiên và phổ biến như âm dương.
Bàn về quan niệm vũ trụ,
Dịch Hệ thượng viết : "Dịch có Thái Cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng
Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái". Thánh ngôn của Đạo Cao Đài
cũng dạy : "Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ
Tượng sinh ra Bát Quái, Bát Quái biến hóa vô cùng" (TNHT quyển II, trang
62). Hai ý trên nhứt định có cùng một gốc.
Trong Dịch Hệ thượng, Đức
Khổng Thánh lưu ý : từ chất co giãn vô hình. Thái Cực chia ra hai Nghi là Aâm
dương rồi biến hóa ra Tứ Tượng thành Bát Quái. Bát Quái biểu tượng cho vạn vật.
Thế thì, vũ trụ được hình thành từ vô thỉ đến vô chung, từ vô hình qua hữu hình
với quá trình biến hóa đi lên của nó. Quả thật "vũ trụ có những mãnh lực
bí mật lớn lao đã hợp nhất lại và vô số hình thể sống động của nó đã đảm bảo sự
liên tục cho chúng". (Les
grands forces mystérieuses de la Nature étaient désormais unifiées Les
imnomsbrables formes vivantes affirmaient leur enchainement (RENÉJUDRE, Les
Nouvelles Enigmes de Funivers, Paris 1951, trg 14)
Vì thế Kinh dịch mới nói "sinh rồi lại
sinh thì gọi là Dịch". Cái gì sinh ? Chu Hy lý giải : "Âm sinh Dương, Dương sinh
Âm, kỳ biến vô cùng (CHU HY, Chu Dịch Bản Nghĩa, Hệ Từ Thượng, Chương VI.). Đức
Chí Tôn cũng dạy "Đạo Thầy không chi lạ, không ngoài hai lẽ Âm
Dương". Tắt một lời, quan niệm vũ trụ theo phương Đông, trời đất, vạn vật
chịu ảnh hưởng của hai yếu tố căn bản là Âm Dương, biến hóa luôn luôn, chảy
quanh khắp nơi, khắp chốn một cách vô thường. Đó là Đạo, Đạo vốn không có hình,
nhưng ở đâu cũng có Đạo, thiếu Đạo thì không có sự vật nào tồn tại được.
Theo Soothll
: "Trong vũ trụ đều là Âm hay Dương. Trời, ánh sáng, khí nóng, đàn ông, cha, sức
mạnh, sự sống là Dương, Đất, bóng tối, hơi lạnh, đàn bà, mẹ, sức yếu, sự chết
là Âm" (Tout est Yin ou yang dans la Nature. Le Ciel, la lumière, la
chaleur, I'homme, le père, la force, lavie sont Yang. La terre, I'obscurité, le
froid, la femme, la mère, la faiblesse, la mort sont Yin (W.E.SOOTHILL. Les
trois religions de la Chine. Paris 1946, trg 161.)
Âm Dương là Thái Cực, là
Đạo vì "nhất âm nhất dương chi vi Đạo". Trước Thái Cực còn có khoảng
trốn không gọi là vô cực. Thánh Ngôn dạy : "Khí Hư Vô sinh một Thầy, Thầy
là Thái Cực". Từ vô cực qua Thái Cực, Thái Cực phân cực âm dương, âm dương
sinh ngũ hành mà tạo thành vạn vật. Châu Liên Khê viết trong Thái Cực đồ thuyết
như sau :
"Vô cực mà là Thái
Cực. Thái Cực động thì sinh Dương, động cực thì tĩnh, tĩnh thì sinh Âm, tĩnh
cực lại động, một động một tĩnh cùng làm căn bản cho nhau. Rồi khi đã phân chia
ra âm dương thì Lưỡng Nghi thành tập. Đến lúc dương biến, âm hợp thì Thủy, Hỏa,
Mộc, Kim, Thổ sinh ra. Năm khí đó nếu được xếp đặt thuận hợp với nhau thì bốn
mùa sẽ vận hành đều đặn.
Ngũ hành nếu hợp nhất thì
thành âm dương. Aâm và Dương nếu hợp nhất thì thành Thái Cực. Thái Cực có gốc
Vô Cực, Ngũ hành sinh hóa đều có tính chất duy nhất. Cái chân không của Vô Cực
cái tính chất của Âm Dương và Ngũ Hành, tất cả phối hợp một cách kỳ diệu và kết
tụ lại với nhau. Thế rồi, Đạo Càn làm thành trai, Đạo Khôn làm thành gái, hai
khí giao cảm mà sinh ra muôn vật, muôn vật sinh rồi lại sinh, sinh sinh mãi mãi
và biến hóa vô cùng" (TRẦN THÚC LƯỢNG, LÝ TÂM TRANG, Tống Nguyên học án,
Tập I, quyển 9 trang 131)
Thật vậy, "Trong lịch
sử, có lẽ không có gì chính xác hơn việc biến dịch. Vật đổi thay. Người đổi
thay. Đất đổi thay. Phong tục, quan niệm tư tưởng đổi thay" và Tôn giáo
cũng đổi thay cho phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại (Perhaps nothing is
more certain in history than change. Animals change. Men change. The Earth
changes customs, opinions and ideas change (PLANTTN an DRUMMOND M.J Our worl
through the ages, New York 1959, trang 6)
Về nhân sinh quan, sự hình
thành con người cũng do sự giao thoa của âm dương mà hóa thành, nên trong mỗi
con người đều có gien âm dương. Chu Hy quả quyết rằng "Người người đều có
một Thái Cực, vật vật cũng đều có một Thái Cực" (Nhân nhân các hữu nhất
Thái Cực, vật vật các hữu nhất Thái Cực (CHU HY, Ngữ loại.). Chu Hy còn viết
thêm : "Thái Cực tự nó bao gồm cái lý động tịnh, chớ không thể lấy trạng
thái động tịnh mà phân thể dụng. Bởi vì, tịnh là thể của Thái Cực, còn động là
dụng của Thái Cực" (TRẦN THÚC LƯỢNG, LÝ TÂM TRANG, Tống Nguyên học án, Tập
Ii, quyển 44 trang 505). Nếu ta coi động tịnh là hai trường hợp khác nhau của
Thái Cực thì "Âm Dương chỉ là một khí. Khí âm lưu hành tức khí dương, khí
dương ngưng tụ tức là khí âm. Thực chẳng có chuyện hai vật chống đối nhau bao
giờ" (TRẦN THÚC LƯỢNG, sđđ, trang 505).
Thật vậy, luật "đồng
thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" của âm dương trong Kinh Dịch rất tâm
đắc. Theo G.Lakhousky trong thuyết "Dao động tế bào" (Oscillation
cellulaire), mỗi vật đều phát ra một luồng sóng đặc biệt : có cảm mới có ứng,
có tương đồng mới có thể giao cảm. Đó là nguồn gốc cơ bút và cách trị bệnh bằng
nhân điện trong Đạo Cao Đài buổi đầu.
Cẵp Âm Dương giống như cặp
Ác Thiện, tuy thấy như mâu thuẫn, nhưng chẳng bao giờ rời nhau. Khi ta gọi là
dương vì phần dương lấn phần âm. Khi gọi là âm vì phần âm lấn phần dương. Thế
nên, người tu phải biết vượt lên trên Thiện Ác, Thị phi mới thanh thoát. Nếu
còn bị ràng buộc trong giả tướng của hiện tượng giới thì chưa có thể giác ngộ
vào cõi Phật. Nên nhớ, "Những
kẻ đại gian ác là những kẻ đại Thánh Thiện (Les grands pécheurs seront de
grands Saints). Madeleline trước khi thành Thánh là người đàn bà sa đọa, Thánh
Augustin thuở nhỏ cũng là kẻ nhiều lầm lỗi, còn Thập Bát La Hán nguyên là những kẻ trộm cưới giết người. Trong
"Con đường thiêng liêng hằng sống", Đức Hộ Pháp xác nhận "quỷ
vương là phần trượt của Thượng Đế" (Satan est la doublure de Dieu). Xem
thế, Thần hay Quỉ ở tại bản thân của mỗi chúng ta. Hồ Cư Nhân cũng nói :
"Thần của mộc, hỏa sinh vật ở hướng Đông nam. Quỉ của kim, thủy diệu vật ở
hướng Tây Bắc" (HỒ CƯ NHÂN, Dịch Tượng Sao, quyển I, trang 2). Nói một
cách khác "U uẩn hay rõ ràng, sống hay chết, quỉ cũng như Thần, tất cả đều
là biến tướng của âm dương" (CHU HY, Dịch Hệ Thượng, Chương IV). Như thế,
quỉ thần không xa ta. Thiên Đàng hay Địa Ngục đều nằm trong tâm của mọi người.
Tránh hạng người "Thân Công Báo" (đâm bị thóc, thọc bị gạo) họ là kẻ
mở cửa ma giới trần gian đó. Họ gây xáo trộn trong mỗi con người : hữu vi
(xác), vô vi (hồn) lìa nhau. Đạo đời không còn tương đắc, Âm (xác) Dương (hồn)
rời rã…
Hãy nghe Pháp Chánh Truyền
giải thích về ĐAÏO ĐỜI TƯƠNG ĐẮC. "Hội Thánh có hai phần tại thế. Phần hữu
hình là Cửu Trùng Đài, tức là Đời, nghĩa là xác; một phần bán hữu hình là Hiệp
Thiên Đài là chơn thần, nghĩa là nửa Đời, nửa Đạo, còn phần vô vi là Bát Quái
tức là hồn, ấy là Đạo". Rõ ràng PCT phân giải Đạo là Bát Quái Đài, còn Cửu
Trùng Đài là Đời (nhân sanh của Đạo), chớ không phải Đời là chỉ người ngoại
đạo. Chẳng hạn Thế Đạo là Đời của Đạo, chỉ những người Đạo còn sống lẫn lộn với
Đời. Đọc tiếp PCT ta sẽ thấy rõ hơn : "Thầy là chúa tể của sự vô vi, ắt
Bát Quái Đài của Hồn. Hồn hiệp với xác bởi chơn thần. Aáy vậy chơn thần là trung
gian của Hồn và Xác. Xác nhờ Hồn mà nên, thì Cửu Trùng Đài cũng phải nhờ Hiệp
Thiên Đài mới mong đạt Đạo", nói cách khác, nếu muốn cho sự vô vi (Đạo) và
sự hữu hình (Đời) đặng TƯƠNG ĐẮC thì cả hai ông chúa (Đạo, Đời) phải liên hiệp
với nhau" (Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, Paris 1952, trang 87)
Chúng ta phải làm như thế
nào như Lord Acton nói : "Tôn giáo la cái chìa khóa của lịch sử". (La religion est la clé de I'historie
(CHRISTOPHER DAWSON, La religion et la formtion de la civilisation occidentale,
Paris 153, trang 9.). Bởi lẽ, "Nếu không có Tôn giáo thì lịch sử hẳn hoang
lương
tiêu điều, cuộc đời hẳn cũng giảm sinh thú. Ngoài tính chất thẩm mỹ, tôn giáo
còn có một ảnh hưởng quan trọng đối với nền văn minh nhân loại" (NGUYỄN
HỮU LƯƠNG, sđđ, trang 58.)(6)
CHƯƠNG III
TƯƠNG QUAN GIỮA
KINH DỊCH VÀ ĐẠO CAO ĐÀI
Thầy Khai Bát Quái (Cao Đài) mà
tác thành CÀN KHÔN thế giái . TNHTL-tr48
Hoàng Việt Châu viết :
"Học Dịch là học về Trời". (Phù học Dịch, học Thiên dã) và nói :
"Đạo sinh Trời,Trời sinh Đất, Đất sinh vạn vật. Thái Cực chỉ là một âm một
dương". (Đạo sinh Thiên, Thiên sinh Địa, Địa sinh vạn vật. Thái Cực nhất
âm nhất dương dã). Lại nói "Vạn vật qui về Đất, Đất qui về Trời, Trời qui
về Đạo, âm dương chỉ là Thái Cực" (Vạn vật qui Địa, Địa qui Thiên, Tiên
qui Đạo, âm dương nhất Thái Cực dã) (THIỆU UNG, SĐĐ, quyển VII thượng, trang
23).
Theo quan niệm của Thiệu
Tử thì Đạo Dịch tức Đạo sinh thành. "Sinh là tính của trời, thành là hình
của đất. Sinh mà thành, thành mà sinh. Đó là Đạo Dịch". (Sinh dã, tính
Thiên dã, thành dã, hình địa dã. Sinh nhi thành, thành nhi sinh. Dịch chi Đạo
dã) (THIỆU UNG, SĐĐ, trang 23). Theo Trần Thuần trong "Bắc Khê ngữ
lục" thì "Đạo vốn lưu hành trong khoảng Trời Đất, không nơi nào là
không có, không vật nào là không có". Trời do Đạo mà sinh, Đất do Đạo mà
thành. Trời, Đất, người, vật tuy khác nhau, nhưng đối với Đạo thì chung một mà
thôi.
Phần Thoán truyện (quẻ
Hằng) trong Kinh Dịch có câu "Cái Đạo của Trời Đất trường cửu, chẳng bao
giờ hết" (Thiên Địa chi Đạo hằng, cửu nhi bất dĩ dã). Trình Y Xuyên thêm :
"Trời nếu chuyên về một mặt thì gọi là Đạo, nếu phân ra mà nói : về hình
thể là Trời, về chủ tể gọi là Đế, về công dụng gọi là Quỉ, về diệu dụng gọi là
Thần, về tính thì gọi là Càn". (Thiên chuyên ngôn chi tắc Đạo dã, phân nhi
ngôn chi dĩ hình thể vị chi Thiên, dĩ chủ tể vị chi Đế, dĩ công dụng vị chi
Quỉ, dĩ diệu dụng vị chi Thần, dĩ tính vị chi Càn) (LÝ QUÁ, Tây Khê Dịch
thuyết, quyển I, quẻ Càn)
Xem thế, Thần học của Đạo
Cao Đài về ý nghĩa thờ tự nằm trong Kinh Dịch. Hệ Từ Thượng, Chương XII đã viết
: "Hình nhi thượng gọi là Đạo, hình nhi hạ gọi là Khí". Hình nhi
thượng thuộc Tiên Thiên Bát Quái, còn hình nhi hạ thuộc Hậu Thiên Bát Quái vì
các động lực nhạc lễ tạo thành Khí là ngũ hành. Còn Trung Thiên Bát Quái được
long mã tãi trên nóc Cửu Trùng Đài (tức Nhơn) nói lên sự đứng giữa trung hòa
giữa Tiên Thiên Bát Quái (tức Thiên) và Hậu Thiên Bát Quái (tức Địa).
"Từ thế kỷ XXVII
(TTL), thiên văn Trung Quốc phản ánh một nền triết lý siêu hình rất đặc biệt,
phảng phất tính chất Tôn giáo". (Dès le 27è siècle, I'astronomic chinoise reflète une métaphysique très
remarquable affectant un caractère religieux) (Léopold De Saussrure, Les
origines de l'astronomie chinoise. Paris 1930, trang156). Mãi đến đầu thế kỷ XX
STL, Đạo Cao Đài mới thể hiện tính chất Tôn giáo đó, làm cho nó trở thành Đạo,
mang đậm triết lý và màu sắc phương Đông.
Thật vậy, "Kinh Dịch
trong truyền thống Trung Quốc có một địa vị tương đương với địa vị của quyển
Kinh Thánh / Bible trong truyền thuyết Cơ Đốc Giáo phương Tây hay cuốn Kinh
Thánh Coran trong truyền thuyết Hồi giáo. Đó là một tác phẩm (Dịch) được coi
như một Thánh Kinh mà ảnh hưởng của nó đã được biểu chứng trong những luồng tư
tưởng lớn của Trung Quốc : Khổng Giáo, Lão Giáo và mãi về sau hàng bao thế kỷ
vẫn còn là đầu đề suy luận của những tư tưởng gia trứ danh Trung Quốc". (Le Yiking ou livre des multations possède dans
la tradi - tions chinois une place comparable à celle de la Bible dans la
tradition occidentale chritienne ou du koran dans la tradition de l'islam. C'est
un ouveage considéré comme sacré don't l'influence se constate dans les grands
courants de la pansée chinoise : le cofucianisme et le taois me, et qui ne
cesse, au cours de siècle, de faire 'objet des flexions et des commentaires des
plus remarquables esprites de l'Empire du Milieu) (Xem "Đại Đạo giáo lý và
triết lý" cùng người viết).
1/ -
Thầy Khai Bát Quái
Đức Chí Tôn đã dạy :
"Khi chưa có Trời Đất thì Khí Hư Vô sanh có một Thầy và ngôi của Thầy là
Thái Cực. Thầy phân Thái Cực ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sanh Tứ Tượng, Tứ Tượng
sanh ra Bát Quái biến hóa vô cùng mà lập ra Càn Khôn thế giái" (Thánh Ngôn
Hiệp Tuyển TNHT, quyển II, trang 62) . "Nếu không có Thầy thì không có chi
trong Càn Khôn thế giới" (TNHT, quyển I, trang 31)
Thái Cực là Nhất nguyên lưỡng
cực (principe polarisé) đồ hình là ; Lưỡng Nghi là âm ( ), dương ( ); Tứ Tượng
là Thái Dương (=), Thái Âm (= =), Thiếu Dương ( ), Thiếu Âm ( ) và Bát Quái là
Càn ( ), Khảm ( ) Cấn ( ) Chấn ( ), Tốn ( ), Ly ( ), Khôn ( ), Đoài ( )
Bát Quái có tám đức : Càn
thì mạnh vì Càn có 3 vạch đều dương nên cương. Khôn thì thuận vì Khôn có 3 vạch
đều là âm nên nhu. Chấn thì động vì Chấn 1 dương ở dưới, 2 âm ở trên (Dịch tính
từ dưới lên trên, nghĩa hào 1 ở dưới, hào 3 ở trên). Đức Khổng Tử nói :
"Chấn là dấy lên, dấy lên thì động". Tốn thì vào vì Tốn 1 âm ở dưới,
2 dương ở trên, không phải thế mà âm chống dương. Phu Tử nói : "Tốn là
khuất phục, phục thì vào". Khảm thì hãm vì Khảm 1 dương mất ngôi kẹt giữa
2 âm nên bị hãm. Ly thì sáng vì Ly 1 âm được vị, giúp 2 dương nên sáng. Cấn
<i> thì ngừng vì Cấn có 1 dương ở trên, 2 âm ở dưới vâng theo nên ngay
chính, tĩnh chỉ. Đoài thì vui vì Đoài 1 âm ở trên, 2 dương ở dưới tiếp sức,
tính của nó hòa hoãn mà vui thích.
Tại Bát Quái Đài Đền
Thánh, thiết trí một Thiên Bàn hình tám cạnh, trên đặt quả Càn Khôn, ngang quả
Càn Khôn vẽ một Thiên Nhãn tức con MẮT TRÁI MỞ RỘNG. Đó là Thái Cực, trong con
mắt có 2 phần : trắng biểu tượng cho dương, đen biểu tượng cho âm. Âm Dương
hiệp nhứt trong Thái Cực gọi là ĐẠO. Nên nhớ, Thầy dạy vẽ Thiên Nhãn trên cung
Bắc Đẩu, thực tế ta vẽ ngang giữa Thiên Xích Đạo (chớ không phải Địa Xích Đạo)
vì người Miền Nam thấy sao Bắc Đẩu ngang tầm mắt (Xem "Đại Đạo giáo lý và
triết lý" cùng người viết) (3). Bát Quái trong Thiên Nhãn phù hợp với 8
quẻ của Trung Thiê BQ.
Trên Thiên Bàn, hình tám
cạnh ấy có vạch tám quẻ Bát Quái. Theo hướng Đông Tây (phương vị Đền Thánh) là
quẻ Chấn Đoài, theo hướng Bắc Nam là quẻ Ly Khảm. Hai quẻ Cấn Tốn xếp hai bên
trái phải của quẻ Chấn (trong Bát Quái Đài nhìn ra); còn hai quẻ Càn Khôn thất
vị phải đứng hai bên quẻ Đoài (Các Thánh Thất không cùng phương vị với Tòa
Thánh là Bát Quái Đài, mà không vẽ 8 quẻ, nếu vẽ sai pháp (xem lại TL,PCT,
Paris 1952, trang 71))
Thánh giáo dạy : Khí âm
cướp một phần chơn dương của ngôi Càn, Càn ( ) mới hóa ra Ly ( ), Ly là Thái
dương mặt Nhựt, Khôn ( ) đặng chơn dương thành Khảm ( ), Khảm là Thái Âm mặt
Nguyệt. Càn mất một hào dương mà lẫn phần âm vào nên bị khí âm trầm xuống làm
Càn lìa ngôi mà Khôn thất vị". Càn Khôn về cung, lục tử thế vì tức Kỳ Ba
phổ độ thay Chí Tôn bằng hình ảnh Hội Thánh. Hội Thánh gồm 6 phẩm : đứng đầu là
anh cả Giáo Tông, tới C Pháp, ĐSư, PS,GS,GH. Chính vì Càn Khôn thất vị nên Ly
Khảm thế ngôi. Do đó, Đức Chí Tôn mới khai đệ tam Bát Quái. Vì Thầy đã mở đạo
Tam Kỳ qui Tam giáo khai đạo Hạ nguơn, Ký Đệ Tam hòa ước, lý đương nhiên,
"Thầy khai Bát Quái (Cao Đài) mà tác thành Càn Khôn thế giái". (TNHT
quyển I, trang 48)
Thầy chỉ sơ con đường
Trung Đạo Đạo Trung Hòa Thánh Giáo phát minh Trung là nguồn cội Nhơn sanh,
Không chinh không đảo, chung quanh (Tám quẻ) qui về (Thái Cực) BQ Cao Đài hay
Trung Thiên Bát Quái bố trí theo hệ thống tương liên : Càn, Khảm, Cấn, Chấn,
Tốn, Ly, Khôn, Đoài mà ngôi tứ chính là Khảm, Ly, Chấn, Đoài.
Càn lui về Tây Nam vì trời
cao đã định ngôi, Khôn lui về Tây Bắc vì đất thấp đã định vị. Thế nên, Tốn là
Trưởng Nữ phải thay mẹ làm việc (hành đạo) và Chấn là Trưởng nam phải về phương
Đông gánh vác mọi việc (đại sự). Vậy hai trai gái đầu phải hợp lực nhau mà hành
đạo.
Theo thứ tự hệ thống tương
liên trên, tám quẻ trong Trung Thiên Bát Quái xoay theo chiều dương (chiều
ngược kim đồng hồ theo Dịch Lý). Trong khi đó, cùng thứ tự trên như vậy, Hậu
Thiên Bát Quái xếp theo chiều âm (chiều thuận kim đồng hồ) . Nhờ chiều dương
của Trung Thiên Bát Quái mà Thầy đã đem khí dương sinh sưởi ấm cho vạn loài.
Trở lại lời dạy của Đức
Chí Tôn : "Khí Hư Vô Sanh có một Thầy và ngôi Thầy là Thái Cực".
"Đến như Vô cực mà Thái Cực, đó là nói lúc âm dương còn hỗn độn chưa phân
chia, tức là lúc có tượng của Thái Cực. Nếu suy tới trước nữa, lúc chưa phân âm
dương thì cái lý tuy là chí cực, nhưng cái tượng vẫn còn trong trạng thái Hư
Vô. Cho nên ta nói Thái Cực bắt nguồn từ Vô cực. Đó là việc trước lúc còn hỗn
độn. Đến khi dương động bốc lên, âm tịnh động xuống thì Trời Đất an, Lưỡng Nghi
phân chia xong. Khi tính chất của mọi dương ngưng đọng lại làm thành mặt trăng,
thì Tứ Tượng hiển hiện ra. Do đó, khí dương lưu lộ mà thành gió (Tốn), sấm
(Chấn), khí âm kết tụ lại thành ra núi (Cấn), đầm (Đoài). Bát Quái lúc đó định
ngôi". (Chí sở vị Vô Cực nhi Thái Cực giả, cái âm dương hỗn độn vị phân
chi thời, tức Thái Cực chi tượng giả. Kỳ chi chí vị hữu âm dương chi tiền, kỳ
lý tuy vi chí cực, kỳ tượng thượng tại hư vô, cố viết : Thái Cực bản Vô Cực dã.
Thử thị hỗn độn dĩ tiền chi sự. Cạp chí dương động nhi thượng phù, âm tĩnh nhi
hạ ngưng, tắc Thiên thành Địa ninh, nhi Lưỡng Nghi phán yên. Chúng dương chi
tinh ngưng nhi vi Nhật, chúng âm chi tính ngưng nhi vi Nguyệt, tắc Tứ Tượng
trình yên. Do thử nhi dương khí chi lưu lộ giả vi phong, lôi, âm khí chi kiết
tụ giả vi sơn, trạch, tắc Bát Quái định yên) (HỒ CƯ NHÂN, sđđ)
Kinh Dịch trong Hệ Từ
Truyện viết : "Dịch có Thái cực, Thái Cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh
Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái". Còn Thiệu Tử nói : "Một chia làm
hai, hai chia làm bốn, bốn chia làm tám. Càn 1, Đoài 2, Ly 3, Chấn 4, Khảm 6,
Cấn 7, Khôn 8. Từ Càn đến Khôn đều được những quẻ chưa sanh, nếu suy ngược lại
thì có thể sánh với bốn mùa. Thứ tự 64 quẻ phỏng theo đó". (Thiệu Tử viết
: nhất phân vi vị, nhị phân vi tứ, tứ phân vi bát dã. Càn nhất, Đoài nhị, Ly
tam, Chấn tứ, Tốn ngũ, Khảm lục, Cấn thất, Khôn bát. Tự Càn Khôn giai đắc vị
sinh chi quái, nhược nghịch suy, tứ thời chi tỉ dã. Hậu lục thập tứ quái thứ tự
phỏng thử) (CHU HY, Chu Dịch Bản nghĩa, trg 7)
Tóm lại, đầu cuối vốn chỉ
có một mà biến hóa vốn lẽ sống của loài người. Thế nên, từ Thái Cực, người xưa
dùng một vạch (-) để chia Lưỡng Nghi , hai vạch để phân Tứ Tượng , chia đôi nữa
thành Bát Quái mà sanh hóa vô cùng
2/ - Bát Quái Cao Đài Duy Nhân
Nhằm có sự nhất quán trong
công trình kiến tạo vũ trụ và vạn vật, đồng thời giúp cho Tiên Thiên BQ và Hậu
Thiên BQ tương quan mật thiết, Thầy khai Trung Thiên BQ). Chữ "Trung"
trong Trung Thiên BQ như Thánh Giáo dạy : Không có ý nghĩa về thời gian mà chỉ
có ý niệm về Trung Dung, Trung Hòa đứng giữa Tiên Thiên và Hậu Thiên Bát Quái.
Bảng Can chi
"Trung Hòa là tính tự
nhiên của Trời Đất, Trung dung là đức hạnh của con người. Trung là giữa, không
thiên về bên nào, Dung là thường. Trung Dung là đem cái Đạo Trung mà làm lẽ
sống hằng ngày" (TRUNG DUNG, Chương I)
Kinh Dịch giải như thế nào
về Đạo Trung Dung ? Ví dụ quẻ Thuần Càn ( ) có sáu vạch (mỗi vạch gọi là 1 hào)
- THƯỢNG - 6 + Những hào
1,3,5 thuộc dương
- NGŨ - 5 + Những hào
2,4,6 thuộc âm
- TỨ - 4 + Hào 1 cảm ứng
với hào 4
- TAM - 3 + Hào 3 cảm ứng
với hào 6
- NHỊ - 2 + Hào 2 cảm ứng
với hào 5
- SƠ - 1 + Hào 2,5 là
Trung, nhưng Trung có chính và bất chính.
Ví dụ : quẻ ký tế số 63
chỉ sự đã thành, Ly ( ) dưới, Khảm ( ) trên.
Hào 5 gọi là Trung chính
vì đúng vị trí (hào dương ở dương quái)
Hào 2 gọi là Trung chính
vì đúng vị trí (hào âm ở âm quái)
Ví dụ : quẻ vị tế số 64
chỉ việc chưa xong, Khảm dưới, Ly trên.
Hào 5 gọi là Trung bất
chính vì không đúng vị trí (hào âm ở dương quái)
Hào 2 gọi là Trung bất
chính vì không đúng vị trí (hào dương mà ở âm quái)
Xem thế, đứng giữa chưa
hẳn là Trung dung. Trung Dung phải ở vị trí thích hợp với mối quan hệ của mình
trong tập thể.
Đạo Trung dung là lẽ tự
nhiên trong sự biến hóa của Trời Đất, vạn vật, có trước sau, trên dưới, không
thái quá mà cũng không bất cập, lấy đạo đức làm nền tảng "Trung Dung là lý
tưởng đại đồng trong triết học Khổng giáo" (TRẦN QUANG THUẬN, Tư tưởng
chính trị trong Triết học Khổng Giáo, Sàigòn 1961, trang 195)
Trung Thiên Bát Quái của
Đạo Cao Đài, phương vị 4 hướng chính gần giống như Hậu Thiên Bát Quái vì cùng
phát sau khi Trời Đất định ngôi. Trục Chấn - Đoài (hướng Đông - Tây) y nhau,
nhưng trục Ly - Khảm của Hậu Thiên BQ là Nam - Bắc, còn Trung Thiên BQ là Bắc -
Nam. Bởi lẽ, người xưa coi phương Nam là phương cao quý nhất, ngược lại, Đạo
Cao Đài coi phương Bắc là phương sùng kính nhất, ngôi vị Bắc Đẩu, nơi ngự của
Đứa Chí Tôn.
"Cao như Bắc Khuyết
nhân chiêm ngưỡng"
Âm nghi, dương nghi trong
Tiên Thiên BQ có lẫn trong âm có dương, trong dương có âm. Trái hẳn Trung Thiên
BQ, trong Lưỡng Nghi đều thuần âm hoặc thuần dương.
CÀN (cha), Khảm (Trung
Nam), Cấn (Thiếu Nam), Chấn (Trưởng Nam).
KHÔN (mẹ), Đoài (Thiếu
nữ), Ly (Trung nữ), Tốn (Trưởng nữ).
Tại sao xếp quẻ Ly ở
phương Bắc mà không xếp quẻ Càn hay quẻ Khảm ? Bởi vì :
- Tiên Thiên BQ chủ nhất
Càn - Đạo vi Thái Cực giả thị (Đạo là Thái Cực đó vậy).
- Trung Thiên BQ chủ nhất
Ly - Tâm vi Thái Cực giả thị (Tim cũng là Thái Cực).
Vì Tâm thuộc Hỏa mà Ly
cũng thuộc Hỏa. Quẻ Ly trên áo Giáo Tông đặt trên tim mà Ly lại là CON MẮT. Thế
nên, Đức Chí Tôn dạy : "Nhãn thị chủ tâm" là vậy.
Vả lại "Tâm tức Đạo,
Đạo là Trời. Biết Tâm ắt biết Đạo, biết Trời' (Tâm tức Đạo, Đạo tức Thiên. Tri
Tâm tức tri Đạo, tri Thiên) (ĐÀO TRINH NHẤT, Vương Dương Minh, trang 131).
Mặt khác, "Đức Khổng
Tử sau khi làm chương Bát Quái, rõ ràng đưa Ly làm cương lĩnh cho muôn đời,
chứng tỏ các bậc Thánh có đức, có vị từ xưa đều được ở ngôi Ly, chỉ cần một quẻ
Ly cũng đủ làm nên một học phái cho ngàn đời, chẳng còn nghi ngờ gì nữa".
(Khổng Tử thủy tác Bát Quái chương lậu, minh minh đề xuất Ly lai, dĩ vi thiên
cổ cương lĩnh, hiện thiên cổ hữu đức vi chi Thánh Nhơn câu đắc lưu vu Ly, nhi
Ly chi nhất quái cụ vi thiên cổ học mạch, vô nghi hỉ) (HỒ CƯ NHÂN, Dịch tượng
sao, quyển I, trang 33).
Thế thì, tạo hóa đã phó
thác Vũ Trụ cho Ly thì Ly phải giữ ngôi Chí Tôn ở phương Bắc. Khảm giúp Ly nên
giữ trục ở Nam. Ly Khảm thay thế Càn Khôn thì Càn Khôn phải dời di chỗ khác. Do
đó, Ly tiến tới thay thế Càn để Càn lui về Tây Nam.
Tám quẻ còn biểu tượng cho
các cơ quan trong cơ thể như sau : Càn là đầu, Khôn là bụng, Chấn là chân, Tốn
là đùi, Cấn là tay, Đoài là miệng, Khảm là tai, Ly là mắt (phương vị Bát Quái
trên áp đại phục của Giáo Tông hơi khác) vậy Ly là Mắt mà mắt là Thiên Nhãn.
Thiên Nhãn phải vẽ trên cung Bắc Đẩu, nên phải đặt quẻ Ly ở phương Bắc mà không
thể đặt quẻ nào khác được.
Khác hơn các quẻ khác, các
hào trong quẻ Ly đều đắc chính. Trái lại các hào trong quẻ Khảm đều bất chính.
Do đó, Ly Khảm thể hiện rõ sự phân cực của âm dương. Ly Khảm đều có tính cô tụ
vào giữa gọi là TINH. Hễ có tinh khí thì có tinh huyết, có tinh dương thì có
tinh âm.
Quẻ Ly có khí tinh âm kết
tụ ở giữa và tỏa khí dương sáng chói ra ngoài để nuôi dưỡng các hành tinh,
thường gọi là tinh tú. Cái tinh âm đen ở giữa ấy đạo học gọi là HUYỀN KHUNG hay
tinh huyền, khoa học gọi là "lỗ đen".
Theo Dịch Lý "âm tiêu
dương thẳng" và "âm cực sinh dương" nên tinh tú và tinh huyền có
mối chuyển hóa hổ tương qua lại với nhau : một âm một dương, một đen một sáng,
một tĩnh một động… cứ mãi vận hành. Ta thấy tinh tú phát ra ánh sáng, còn tinh
huyền là cái lỗ đen thu năng lượng. Lỗ đen càng lớn mạnh thì tinh sao càng chết
lạnh (theo luật bảo toàn năng lượng). Lỗ đen tụ hội đến cực độ thì đột biến nổ
lớn, phóng thích năng lượng tạo thành những tinh vân, kết thành tinh tú, vạn
vật theo dịch "vạn vật xuất hồ chấn". Rồi các tinh tú lại chết lạnh
thành lỗ đen. Lỗ đen kết tụ lại nổ… Thế nên vũ trụ có lúc co giãn không ngừng
nhưng không qua khỏi tầm thúc phược huyền khung sơ khai (lỗ đen ban đầu).
Trước đạo khai trên 15
năm, nhà cách mạng gốc đạo sĩ TRẦN CAO VÂN (1866-1916) đã cầu Kinh Minh sư
trong có câu : "Con cầu Phật Tổ Như Lai, con cầu cho thấu Cao Đài Tiên
Ông" và đã nghiên cứu về Trung Thiên Dịch (Cụ HT Kháng là Q. Chủ tịch nước
VN Dân Chủ Cộng Hòa năm 1946), ông bỏ dở công việc vì bị Pháp bắt rồi bị giết,
khiến cụ Huỳnh Thúc Kháng phải than :
Văn (vương) sau, Phục (Hi)
trước vẫn Kinh (dịch) này.
Riêng giữa TRUNG THIÊN đứng
một đây.
Học thuyết đem bầu tâm
huyết nhuộm,
Trời Nam, Dịch mới tiếc
không Thầy :
Giáo lý Cao Đài tổng hợp
Tiên Thiên và Hậu Thiên BQ để đưa ra triết lý nhập thế của con người dấn thân.
Trong 64 quẻ của Kinh Dịch
chỉ có hai quẻ tượng trưng cho linh thú. Đó là quẻ Càn 1/64 biểu tượng con RỒNG
và quẻ Tiệm 53/64 biểu tượng con chim HỒNG (Sếu mồng đỏ), hình ảnh về con
người. Càn chồng lên Khôn mới sanh ra quẻ Tiệm (Tốn trên Cấn dưới), tức âm
dương tương hợp mới sanh ra con người.
Khi quẻ Càn di chuyển
chồng lên quẻ Khôn thì quẻ Tốn cũng di chuyển chồng lên quẻ Cấn mà sinh ra quẻ
Tiệm.
Trong Kinh Dịch, phần Hạ
Kinh nức nở từng hào của quẻ Tiệm như sau :
"Xét 4 hào ở giữa
quẻ, từ hào 2 đến hào 5, hào nào cũng đắc chính (nghĩa là hào âm ở vị trí âm và
hào dương ở vị trí dương). Cho nên Thoán Từ khuyên giữ vững đạo trung chính như
những hào đó thì tốt".
Kinh Dịch giảng ý nghĩa
từng hào của quẻ Tiệm :
Hào 1 : Chim Hồng tiến đến
bờ nước
- 2 : Chim
Hồng tiến đến phiến đá to
- 3 : Chim
Hồng tiến đến đất bằng
- 4 : Chim
Hồng bay lên cây, may tìm được cành ngay mà đậu.
- 5 : Chim
Hồng lên gò cao
- 6 : Chim
Hồng bay bổng lên mây.
Nhà nghiên
cứu Nguyễn Hiến Lê cho rằng :
"Trong
64 quẻ, không có quẻ nào mà hào trên cùng ( ? ) cho ta cảm tưỡng nhẹ nhàng
khoan khoái như quẻ này. Thật là phơi phới cùng cánh chim Hồng bay bổng tuyệt
vời".
Đại Tượng truyện trong
Kinh Dịch cho rằng quẻ Tiệm nói riêng về con người : "Người quân tử nên
theo tượng quẻ này mà tu thân, tiến dần cho được thành người hiền, rồi thành
bậc Thánh để cải thiện phong tục cho dân".
Thật không có quẻ nào hợp
với phương tu Đại Đạo bằng quẻ này. Giáo lý Cao Đài dạy : lo tròn Nhơn Đạo mới
bước qua đường Thiên Đạo tu thành bậc Thánh mà giáo thiện nhân sanh.
Nhà Dịch học Dương Từ Hồ
cũng viết : "Dịch là chính mình, chớ chẳng phải làm gì khác… Lấy Dịch làm
cuộc biến hóa của Trời Đất mà chẳng lấy Dịch làm cuộc biến hóa cho mình thì
chẳng thể tốt được".
Chính việc thờ quẻ Càn
Khôn (Càn trên Khôn dưới) mà vận chuyển chồng lên Cấn sanh ra quẻ Tiệm. Quẻ
Tiệm chỉ con người mà Đạo Khai năm Dần là năm của con người (Nhân sanh ư dần),
lấy Bính Dần (1926) làm năm đầu lịch Đại Đạo, giống như Võ Vương (thay lịch nhà
Hạ) lấy năm Bính Dần (1134 trước Tây Lịch) làm năm đầu nhà Châu tức lịch Can
Chi.
3/ -
Tương quan giữa
Bát Quái và giáo phẩm
Đạo Cao Đài là nhất nguyên
lưỡng cực (principe polarisé) một mà hai : Đó là Càn (cha), Khôn (mẹ). Nếu chia
bằng đều thì Khôn ắt lấy Càn làm chủ. Hai mà bốn mà tám : đó là Càn Khôn với
lục tử (6 con) : Ly, Khảm, Chấn, Cấn, Tốn, Đoài. Nếu lại bình quân nữa thì lục
tử ắt tôn cha mẹ làm chủ. Càn Khôn giáp giới Đoài nên liệt ở phương Tây, do
xuất ở Chấn phân nửa thuộc dương nên trưởng nam, trưởng nữ hành việc thay thế cha
mẹ (Giáo Tông, Đầu sư thay quyền Thầy) mà giáo hóa nhơn sanh. Khảm, Ly là nơi
qua lại của Càn Khôn nên toàn thể gia đình giao cho Khảm Ly, còn Chấn Đoài là
cửa ra vào của Tạo Hóa. Khi xuất ở Chấn (trưởng nam) hoạt động tiến lên, Đoài
(Thiếu nam) ở lại sau. Trưởng nam ra để hành Đạo, trưởng nữ (Tốn) vào để giúp,
mục đích đều gặp Ly. Khi nhập ở Đoài, Khôn (mẹ) dùng đạo tàng ẩn mà vào trước.
Càn (cha) lấy đạo chỉ huy mà vào sau, cùng về Khảm (trung nam) nên cả thảy đều
vào. Bởi lẽ, Càn Khôn thất vị (So với Tiên Thiên BQ) nên phải dùng lục tử (6
con) hành đạo, nhưng Càn Khôn vẫn làm chủ và điều khiển sáu con theo tôn chỉ và
mục đích đại đồng nhân loại.
Theo Thiệu Tử : "Càn
Khôn tung mà lục tử hoành, đó là Thể của Dịch. Chấn Đoài hoành mà lục tử tung,
đó là Dụng của Dịch "Trung Thiên Bát Quái trung hòa Thể dụng là nhất
nguyên". Tiên Thiên, Hậu Thiên BQ là vô gián vì Hà Đồ hay Lạc Thư đều lấy
số Một của Thượng đế làm cơ bản sinh hóa" (BẢO BA, Chu dịch nguyên chỉ,
quyển 7, trang 39.).
Thuyết quái truyện nói :
"Càn là Trời nên gọi là Cha. Khôn là đất nên gọi là Mẹ. Chấn là một lần
cầu, được trai nên gọi trưởng nam. Tốn một lần cầu được gái nên gọi trưởng nữ.
Khảm hai lần cầu được trai nên gọi thiếu nam. Đoài ba lần cầu được gái nên gọi
thiếu nữ". (Càn thiên dã, cố xưng hồ phụ. Khôn địa dã, cố xưng hồ mẫu.
Chấn nhất sách nhi đắt nam, cố vị chi trưởng nam, cố vị chi trung nam. Ly tái
sách nhi đắc nữ, cố vị chi trung nữ. Cấn tam sách nhi đắt nam, cố vị chi thiếu
nam. Đoài tam sách nhi đắc nữ, cố vị chi thiếu nữ) (BẢO BA sđđ, trang 44).
Càn Khôn là nguồn gốc Kinh
dịch sinh được 6 quái : 3 âm, 3 dương. Đức Đại Từ Phụ, Đại Từ Mẫu cũng tạo hình
6 con mà "Giáo Tông là anh cả", "Giáo sư là anh ruột lo cho các
em" (TÂN LUẬT, trang 3 và 5)
"Trong Thánh Thể của
Đức Chí Tôn, từ Giáo Hữu, Giáo Sư , Phối Sư, Đầu Sư, Chưởng Pháp, duy lên tới
Giáo Tông mới được quyền là Anh cả mà thôi" (ĐHP. TĐ ngày 15/4/Quý Tỵ -
1953). Đó là 6 con của Đức Chí Tôn.
Thế nên, phải thay hệ
thống Bát Quái Tiên Thiên từ chỗ phản ánh các hiện tượng tự nhiên thành mô hình
xã hội. Đó là gia đình 2 cha mẹ và 6 con. Hai ngôi Bắc Nam nhường cho Ly Khảm,
tức cặp Trung nữ, Trung nam, cặp duy nhất vừa có sức mạnh của tuổi trẻ và trí
tuệ của tuổi già. Theo lối tư duy của người phương nam : Ly vốn là quẻ dương về
mặt tự nhiên (Tiên Thiên), khi chuyển sang xã hội (Trung Thiên) nó chuyển thành
quẻ âm, nằm ở hướng Bắc lạnh, ứng với Trung nữ. Còn Khảm vốn là quẻ âm về mặt
tự nhiên, khi chuyển sang mặt xã hội nó chuyển thành quẻ dương, nằm ở phương
Nam nóng (gần xích đạo), ứng với Trung Nam, phù hợp với Bát Quái Cao Đài.
Tóm lại, Càn Khôn thất vị
trong thời kỳ Hạ Nguơn nên lục tử thừa hành. Trưởng Nam (Cấn), Trưởng Nữ (Tốn)
tức Giáo Tông, Hộ Pháp… đã làm xong nhiệm vụ của mình trong lời khai nguyên Đại
Đạo. Tiếp nối Trung Nam (Khảm) Trung Nữ (Ly), cặp duy nhất vừa có sức mạnh tuổi
trẻ, vừa có trí tuệ của tuổi già hành đạo cho phù hợp với thời đại liên hành
tinh. Vì lẽ, "chẳng lấy Kinh Dịch làm cuộc biến hóa cho mình thì chẳng tốt
hơn được".
4/ -
Tương quan giữa
Kinh Dịch và Giáo Lý Cao Đài
Dị biệt lớn giữa Tiên
Thiên Bát Quái và Hậu Thiên BQ là không giống nhau về ngôi vị, âm dương, vì thế
cũng đổi chiều và đường ranh cũng đổi. Dương nghỉ ở Tiên Thiên BQ gồm : Càn,
Đoài, Ly, Chấn, Âm nghi : Tốn, Khảm, Cấn, Khôn. Trong khi đó, ở Hậu Thiên BQ,
Dương nghi gồm : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Âm nghi : Tốn, Ly, Khảm, Đoài. Đường
ranh Lưỡng nghi cũng khác : Tiên Thiên BQ chạy dọc Bắc Nam, còn Hậu Thiên BQ
xuyên qua Đông Tây (xem hình trang 10).
Hà Đồ (TTBQ) vận hành sang
trái tương sinh, còn Lạc Thư (HTBQ) rẻ sang phải tương khắc theo luật Ngũ Hành.
Sự mâu thuẫn này chính là do sự khác biệt giữa các số. Hà Đồ gồm có 10 số, tổng
số từ 1 đến 10 (1+2+3+4+5+6+7+8+9+10) là 55. Lạc Thư gồm 9 số, tổng số từ 1 đến
9 (1+2+3+4+5+6+7+8+9) là 45. Tương sinh ngụ trong tương khắc, tương khắc ngụ
trong tương sinh. Mâu thuẫn mà thống nhất thì mâu thuẫn đó không đâu bằng Hà
Lạc và thống nhất cũng không đâu bằng Đồ Thư. Nhờ Hà Đồ, Phục Hi lập Tiên Thiên
BQ diễn tả vũ trụ đã hình thành. Thế nên, Hà Lạc chỉ là hai công trình xây dựng
vũ trụ quan liên tục thời trời đất còn hồng mong đến khi định hình. Do vậy, có
Tiên Thiên BQ mà không có Hậu Thiên BQ thì quan niệm về vũ trụ chưa toàn diện.
Có Hà Đồ mà không có Lạc Thư thì Thể và Dụng không kiêm ích. Cái Thể của Tiên
Thiên thì âm dương tương hàm (ngậm lấy nhau). Cái dụng của Hậu Thiên thì âm
dương hữu biệt mà giúp[ nhau về cứu cánh. Thế nên, Hà Đồ, Lạc Thư không phải
hai đồ, nếu đạt hiểu được cái thâm sâu của nó.
Tiên Thiên BQ cứ trên âm
dương mà lập quẻ. Hậu Thiên BQ cứ trên ngũ hành mà trù định. Âm dương là vô vi,
ngũ hành là hữu vi. Có hình phải có bóng. Do đó âm dương, ngũ hành cũng chỉ là
một (xem hình 1, trang 80). Chỉ khác nhau về biến hóa sinh thành. Âm Dương sinh
thì ngũ hành thành để tạo lập vạn vật. Ta thấy mặt trời, mặt trăng tạo ra sáng
tối, đêm ngày, nóng lạnh, năm tháng… Tất cả chỉ là hình thái của âm dương dùng
để biểu thị ngũ hành, năm yếu tố cơ bản kiến tạo vạn vật.
Như vậy, theo Kinh Dịch,
Tiên Thiên BQ là hình nhi thượng giả vị chi Đạo là vô vi tức Trời và Hậu Thiên
BQ là hình như hạ giả vị chi khí là hữu hình tức vạn vật. Chính Long Mã tải
Trung Thiên BQ Đồ và Lạc Thiên thư nơi Nghinh Phong Đài trên Cửu Trùng Đài tức
Ngôi Trung hòa giữa Tiên Thiên BQ và Hậu Thiên BQ, nói cách khác, Trung Thiên
BQ trung gian làm cầu nối giữa Trời Đất vạn vật làm hữu vi và vô vi không còn
xung khắc. Vì lẽ đó, Đạo Tâm, nhơn tâm không phải là hai tâm, nếu đạt lý đạo.
Long mã tãi Trung Thiên BQ
chạy về hướng Tây quay đầu về hướng Đông vì "Đạo phát ư đông, di ư Tây,
phản hồi Đông". Bởi lẽ đó, phương Tây cho rằng "Ánh sáng từ phương
Đông đến" vì Châu Á là nơi phát xuất nhiều Tôn giáo như Bái Vật giáo, Ấn
Độ giáo, Phật Giáo, Do Thái giáo, Ky Tô giáo… Và Đầu thế kỷ này là Cao Đài
giáo. Văn minh nhân loại chuyển theo không thời gian từ thời tứ tượng, nghĩa là
từ Đông sang Tây. Thế nên, khi Đạo Cao Đài chủ trương "Nam phong thhử nhựt
biến nhơn phong" không có nghĩa là lội ngược thời gian sống với cái cổ xưa
mà thực sự ước mơ dọn đường cho một cuộc BÌNH MINH THÁNH ĐỨC (theo kiểu thời
đường đại chớ không kiểu thời cổ đại), sau cơn ác mộng dài sâu xé của loài
người.
Chu kỳ văn minh nhân loại
vần xoay theo chu kỳ Tứ Tượng : Thiếu dương (vào mùa xuân), Thái dương (Hạ),
Thiếu âm (Thu), Thái âm (Đông), hễ Đông mãn thì Xuân sang (hình 5 trang 86),
dương khí khởi đầu ở cung Tý (thủy) tức Thiên khai ư Tý, 12 giờ đêm, thuộc
Thiếu dương số 1, ứng vào quẻ Phục , Dương khí lên đến cực độ ở cung Tị thuộc
quẻ Càn thì bắt đầu suy. Dương cực âm sinh ! Đến cung Ngọ (số 7 dương cực) thì
nhất âm sinh, ứng vào quẻ Cấn ( là gặp gỡ). Dương khí đến cung Dậu số 9 thì
tận. Nói cách khác, số 1 là Thái Cực, số 3 gần nhất và số 7,9 xa nhất đối với
Thái Cực (xem hình 5, tr 86).
Trong sách "Thái
Huyền", Dương Hùng có viết : "Tiết Đông chí (khởi ở cung Tý) là cái
tượng GẦN NHẤT với Đạo. Dương khí đang tiến, hưng mà chưa đầy nên mới gọi là
GẦN ĐẠO. Tiết Hạ chí (khởi ở cung Ngọ là cái tượng XA ĐẠO, tiến gần đến chỗ
cùng rồi trở lại).
Dịch Thuyết quái viết :
"Đế xuất ở Chấn (Đông), mừng vui ở Đoài (Tây). (Đề xuất hồ Chấn, duyệt
ngôn hồ Đoài). Điều đó giúp ta khẳng định : Tòa Thánh chọn đúng phương về địa
lý và Bát Quái. Đạo phát khởi ở Phương Đông (tức Chấn) đem sự yên vui ở Tây
(tức Đoài). Mặt khác, "Học Dịch là học về Trời. Trời đâu có chia làm sau
làm trước, thế sao lại chia ra Tiên Thiên, Hậu Thiên ?" (THIỆU UNG, sđđ,
quyển 7, trang 13)(1). Trung Thiên BQ chủ yếu về Đạo Nhân, đứng giữa Thiên và
Địa trong Tam Tài. Tiên Thiên đồ là Đạo Trời, Hậu Thiên đồ là Đạo Đất và Trung
Thiên đồ là Đạo Người. (xem hình 4, trang 86). "Ở Trời là âm dương, ở Đất
là cương nhu, ở người là nhơn nghĩa, gom Tam Tài lại mà gấp đôi vạch lên, nên
Dịch có 6 vạch thì thành quẻ". (Tại Thiên vị âm dương, tại Địa vị Cương
nhu, tại Nhân vị Nhơn nghĩa, Kiệm Tam Tài nhi lưỡng kỳ hoạch, cố Dịch lục hoạch
nhi thành quái) (TRẦN TỔ NIỆM, sđđ, quyển 6, trang 2)
Nhìn lên mặt tiền Tòa
Thánh hai chữ NHÂN NGHĨA bằng chữ Nho hiện ra chủ thuyết giáo dân của Đạo Cao
Đài quá rõ. Tắt một lời, Trung Thiên BQ đồ như mối Đạo tam Kỳ phát khai là để
trung hòa giữa Tiên Thiên BQ và Hậu Thiên BQ, giữa các nần Đạo xem như khác
nhau trên hoàn vũ mà thật ra "Bách trí nhi vạn lự, đồng qui nhi thù
đồ" cùng về một mối.
Mặt khác, người phương
Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng, nhất là giới nông dân. Người ta cảm
thấy trời, đất và người có một sợi dây vô hình thiêng liêng ràng buộc lấy nhau,
khó tác rời ra được. Thiên nhiên ruộng vườn đã góp phần lớn vào cuộc sống của
họ. Vũ trụ với nhơn sanh hầu như không có ranh giới : Họ tin trời với người vốn
là một, cùng một gốc chớ không thể hai, theo quan niệm "Trời người hợp
nhất" (Thiên Nhân ợp nhất). "Thầy là các con, các con là Thầy"
trong giáo lý của Đạo Cao Đài. "Mọi vật, mọi việc đều biến dịch theo định
luật của vũ trụ, nhưng diễn tiến bất ly tâm mà luôn luôn tìm đường quay về gốc
hoặc quay về với Đạo". (NGUYỄN HỮU LƯƠNG, sđđ, quyển 6, trang 2)
Ý tưởng đó thể hiện rõ
trên bức bích họa Tam Thánh tại Tịnh Tâm điện của Đền Thánh. Đó là "Thiên
Nhơn hòa ước" ký giữa Trời và Người mà nội dung là "Thiên Thượng
Thiên Hạ, Công Bình, Bác Ái". Sự hợp nhất ấy qua trung gian các đồng tử để
thực hiện một thế giới Đại Đồng Huynh Đệ. Thật ra, "chỉ có kẻ chí thành
trong thiên hạ mới có thể thấu được thiên mệnh, thấu được mệnh Trời thì mới
hiểu rõ được tính người, mà hiểu rõ tính người mới có thể hiểu tính vật, hiểu
tính vật mới giúp được việc hóa dục của Trời Đất, giúp được việc hóa dục của
Trời Đất thì mới có thể tham dự sánh cùng Trời Đất" (TIỀN MỤC, Tứ thư
thích nghĩa, quyển II, trang 59)
Thế nên, giới nông dân
không phân biệt họ với thiên nhiên vì "Trời Đất muôn loài cùng một
thể". (Le Ciel, 1a Terre et
l'Homme constituent les trois composants de l'univers fncièrement UN) (Helmuth
de GLASENAPP, Les cing grandes religions du monde, Paris 1954, tr176). Họ không
thể xa cái Đạo Tam Tài. Cho nên, "Sáng được nghe Đạo, dù chiều chết cũng
cam lòng". (Triệu Văn Đạo, tịch tử khả hỉ - Khổng Tử).
Tóm lại, "Trời do Đạo mà sanh, Đất do Đạo
mà thành. Trời Đất, Người tuy khác biệt nhưng đối với Đạo thì chung Một mà
thôi". (Thiệu Tử, quan vật nội thiên). Thật vậy, Thiên Nhơn hiệp nhứt hoặc
"Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể" đối với phương Đông được coi như
chân lý tất yếu" (NGUYỄN HỮU
LƯƠNG,
sđđd, trg 275)
Sự tương quan giữa Kinh
Dịch và giáo lý của Đạo Cao Đài bàn bạc khắp nơi trong Thánh Ngôn, Kinh điển,
Kiến trúc… chẳng hạn, bài "Ngọc Hoàng Kinh" không lý giải bằng Kinh
Dịch thì khó lấy sách gì thích nghĩa được, như đã trình bày "Lục
Long" ở một đoạn trước.
Ngoài ra, những danh từ
Cửu Trùng Thiên, Cửu Trùng Đài trong Đạo rút từ số 9 của Lạc Thư. Người xưa đem
ứng số 9 số trong 9 cung của Lạc Thư mà chia vòm trời thành 9 vùng gọi là Cửu
Thiên, Cửu Trùng (chín tầng). Theo Từ Nguyên định nghĩa Cửu Trùng là Trời và
cho biết thêm : "Thời Thanh sơ, Dương Mã Nặc trước tách sách Thiên Vấn lộ
nói Cửu Trùng là Trời".
Phép HOÁN ĐÀN trong Đại lễ
thời Tý biểu tượng pháp luân thường chuyển âm dương khí hóa để vạn vật sinh
thành theo Dịch lý : "Sinh sinh chi vị Dịch".
Lễ Tứ Thời : Tý, Ngọ, Mẹo,
Dậu dâng Tam Bửu là hiến cả hình hài, trí não và tinh thần lên Đại Từ Phụ, Đại
Từ Mẫu. Thời Tý là thời cực âm sanh dương, nguơn khí của Đức Chí Tôn phát khởi.
Thời Ngọ là nguơn khí của Đức Chí Tôn cực thịnh, đủ dương quang bủa khắp vũ
trụ. Thời cực dương của Thái Dương. Thời Dậu là nguơn thần Đức Chí Tôn giáng
hạ, âm dương giao thoa, thủy hỏa ký tế. Thời Mẹo là nguơn thần của Đức Chí Tôn
phát khởi biến hóa, vạn loại hữu sanh.
Lễ Tứ tiết : Xuân, Hạ,
Thu, Đông là 4 mùa nhớ ơn Cha Mẹ và tiền bối. Mùa Xuân mồng 9 tháng giêng Vía
Đức Chí Tôn, Đại Từ Phụ của toàn sanh chúng. Mùa Thu, Lễ Hội Yến Diêu Trì Cung
ngày 15-08 hằng năm, nhớ công ơn Phật Mẫu, Đức Mẹ hiền từ. Hoa cúc vàng : các
bậc làm mẹ dâng lên Đức Đại Từ Mẫu để tỏ lòng hiếu kỉnh. Hoa cúc trắng : các
con dâng mẹ còn sống để tỏ ân sâu, nghĩa nặng cưu mang. Mùa Hạ, Vía Đức Hộ Pháp
mồng 10-4 (và 5-5 Âm lịch), ghi công những bậc tiền bối thời tiền khai Đại Đạo.
Mùa Đông, Lễ Hạ Nguơn Khai Đạo Cao Đài vào ngày 15-10-âm lịch tôn vinh Đức Chí
Tôn và Thần, Thánh, Tiên, Phật giáng trần giáo đạo và cầu cho "Thiên hạ
thái bình".
5/ - Luật hữu hạp biến sanh
Trong Kinh
Phật Mẫu có đoạn viết :
Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh,
Càn Khôn sản xuất hữu hình
Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh.
Càn Khôn là âm dương, là Trời Đất. Thiên
Địa sinh thành, ngũ hành biến hóa. Dương động, âm tịnh nên Dương lúc nào cũng
tác động mạnh mẽ khắp vũ trụ để gây ra mầm sinh, còn âm lặng lẽ hóa thành những
cái gì mà dương đã biến sanh. Quá trình sinh thành trải qua hai giai đoạn :
1/ - Từ số 1 đến số 5
(theo Hà Đồ) thuộc Âm Dương nên VÔ HÌNH.
2/ - Từ số 6 đến số 10
thuộc Ngũ Hành nên HỮU HÌNH ( -> Xem hình )
Theo Dịch lý, năm số lẽ
1,3,5,7,9 gọi là cơ thuộc dương chỉ Trời (vô hình), năm số chẵn 2,4,6,8,10 gọi
là ngẫu thuộc âm chỉ Đất (hữu hình). Do đó, ta thấy :
Trời 1 sinh thủy. Đất 6
thành nước, Đất 2 sinh hỏa; Trời 7 thành lửa; Trời 3 sinh mộc, đất 8 thành gỗ;
đất 4 sinh kim, Trời 9 thành vàng, Trời 5 sinh thổ, Đất 10 thành đất.
Theo luật hữu hạp (cứ vào
Hà Đồ) : 1 đi với 6,2 với 7,3 với 8,4 với 9,5 với 10 (xem trang 86 hình 2) có
vị trí cố định như vậy, nên Ngũ hành cũng có phương nhất định : Đông là Mộc mùa
Xuân, Nam là Hỏa mùa Hạ, Tây là Kim mùa Thu, Bắc là Thủy mùa Đông, Trung Ương
là Thổ (xem hình 5). Trong Ngũ Hành thì mỗi hành đều hàng âm dương. Chẳng hạn,
hướng Bắc có Dương thủy và âm thủy vì nước thì có nước cứng nước mềm. Nước cứng
có lẫn Cali, Magnésie trọng trược nên thuộc âm, nước mềm nhẹ thuộc dương như
nước giếng (xem trang 86, hình 3)
"Phân vật lúc sơ sinh
có hình nước. Nước là thể có trước nhất của mọi vật hữu sinh. Một năm: 12
tháng, một ngày : 12 giờ… hết thảy đều nảy mầm ở Tý (12 giờ đêm). Tý là ngôi
của nước. Nước sinh ở dương, thành ở âm.
Khi khí động thì dương
sinh ra (thể hơi). Khi khí tụ và tịnh thì biến thành nước. Vậy nói : Trời 1
biến sinh thủy, Đất 6 hòa thành nước. Đó là lấy lúc đầu sinh Thủy thì 1 đến khi
thành nước thì 6" (HỒ CƯ NHÂN, Dịch tương sao, quyển I, trang 8)
Như thế, ta có thể tóm tắt
thứ tự sinh thành (xem lại hình 1) như sau : Trời Đất sinh thành nước trước
nhất, rồi tới lửa, gỗ, vàng, đất. Hết một chu kỳ từ số 1 đến số 10 thì Ngũ hành
: Thủy, Hỏa, Mộc, Kim, Thổ hình thành. Tuy Âm dương sinh Ngũ hành, nhưng nhờ
Ngũ hành, Âm dương mới biến sanh hình thể vạn vật được. "Càn Khôn sản xuất
hữu hình" là vậy đó.
"Có người cho
1,2,3,4,5 là số sinh của Ngũ hành; 6,7,8,9,10 là số thành của Ngũ hành"
(PHƯƠNG DỰC TÔN, Tung Sơn độc châu Dịch Ký, quyển I, trang 2). Họ Phương lại
thêm" 1 hợp với 5 thành 6,2 hợp với 5 là 7,3 hợp với 5 là 8, 4 hợp với 5
là 9, 5 hợp với 5 là 10, 1 và 6 là Tủy, 2 và 7 là Hỏa, 3 và 8 là Mộc, 4 và 9 là
Kim, 5 và 10 là Thổ, 10 tức 5+5 vậy" (PHƯƠNG DỰC TÔN, sđđ, trang 3)
Ta thấy lý luận của họ
Phương là thực hiện bài toán cộng 5 trong Hà Đồ (xem hình 4, trang 86). Họ
Phương lại viết : "1,3,5,7,9 đó là 5 số Trời, 2,4,6,8,10 đó là 5 số Đất. Năm
vị tương đắc đều hữu hạp. Ấy là Trời Đất đều không lìa số 5. số Trời 1 biến
sinh Thủy, số đất 6 hóa thành nước, đó là 5 cộng 1 thành 6. Số Đất 2 biến thành
Hỏa, số Trời 7 hóa thành lửa, đó là 5 cộng 2 thành 7. Số Trời 3 biến sinh mộc,
số 8 hóa thành gỗ, đó là 5 cộng 3 thành 8. Số Đất 4 biến thành Kim, số Trời 9
hóa thành vàng, đó là 5 cộng 4 thành 9. Số Trời 5 biến sinh Thổ, số Đất 10 hóa
thành đất, đó 5 cộng 5 thành 10" (PHƯƠNG DỰC TÔN, sđđ, quyển 17, trang 19)
Họ Phương đã chứng minh Âm
Dương (Vô hình) sinh ra Ngũ hành (hữu hình) và hành khiển Ngũ hành biến hóa vô
cùng mà tạo thành vạn vật.
"Hỏa, Mộc dụng việc
thì vật sinh, cho nên nói : Tinh, Khí làm vật. Kim, Thủy dụng việc thì vật
biến, cho nên nói : du hồn làm biến. Du hồn là quỉ, nơi trở về của vật khi tiêu
diệt. Tinh, Khí, Thần chỗ tin của vật khi sinh ra. Thần của Mộc, Hỏa sinh vật ở
hướng Đông Nam. Quỉ của Kim, Thủy diệt vật ở hướng Tây Bắc. Tình trạng của hai
trường hợp này giống như tình trạng của Xuân Hạ sinh ra vật, Thu Đông thì diệt
vật" (3 ?). ( -> Xem hình ).
Trong Kinh Dịch, Tiên
Thánh không dùng nghĩa thông thương, quỉ thần thực ra có ý nghĩa khoa học,
triết học cao hơn; Quỉ Thần tượng trưng cái biến thể của hai khí Âm Dương lưu
hành trong vũ trụ.
Về ăn chay, theo truyền
thống văn hóa nông nghiệp, cơ cấu bữa ăn người Việt thiên về thực vật. Tục ngữ
có câu "Đói ăn rau, đau uống thuốc" hay "ăn cơm không rau như
nhà giàu chết không kèn trống".
Trong bữa ăn đặc thù là
rau muống và dưa cà. "Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà
dầm tương"… Đức Thánh Gióng nhờ ăn cà mà trở thành người to lớn. Các loại
gia vị như hành, gừng, ớt, tỏi, rau răm, rau húng, tía tô, lá lốp… vừa là rau
vừa là phương thuốc trị bệnh.
Theo Dịch lý, thức ăn của
loài người như mọi vật trong vũ trụ đều chịu sự chi phối của hai đông lực đối
nghịch là âm dương. Âm có tính chất ly tâm, giản nở, phân tán… Dương ngược lại
có tính hướng tâm, co rút, tích tụ…
Chính George Ohsawa cứ vào
đặc tính đó của Dịch Lý đã đề xuất việc ăn uống chú trọng nhiều đến ngũ cốc,
gạo lức, rau đậu ngoài thiên nhiên, nhằm tái lập quân bình âm dương trong cơ
thể con người mà giữ gìn sức khoẻ và phòng bệnh. Đạo Cao Đài từ lúc lập giáo,
Đức Cao Đài đã buộc tín đồ phải ăn chay, hợp với truyền thống dùng ngũ cốc của
dân tộc Việt Nam.
Về thiền định, đi đứng nằm
ngồi đều thiền được, không buộc ép xác. Thiền định của Đạo Cao Đài là vô sư, vô
ngã theo câu "Đạo Hư Vô, Sư Hư Vô", vượt lên trên mọi nền văn hóa và
Tôn giáo, bất cứ Tôn giáo nào cũng thấy Đấng Chí Tôn của mình trong khi thiền.
Thiền Cao Đài là đỉnh cao về đạo vươn tới thế giới đại đồng.
Nếu Đạo Đức Kinh là bộ
Kinh Dịch không có quẻ, nhưng có Cửu chuyển đơn thành (9x9=81 chương) thì bộ
Kinh Dịch có 64 quẻ mà quẻ thứ 63 là Ký tế nghĩa là đã xong, nhưng đến quẻ thứ
64 lại là vị tế (hỏa trên, thủy dưới) tức chưa xong. Theo Thần học Cao Đài,
loài người cần tiến hóa mãi từ khoáng chất, thảo mộc, thú cầm rồi thành người
nhưng chưa xong mà phải tiến lên đỉnh cao của nó là ngôi vị Tiên Phật. Ta thấy,
Đức Chí Tôn lập hình thể của Ngài tại thế là Giáo Tông, Hộ Pháp đã xong, lại
tạo cái chưa xong, để cho các đệ tử Ngô Minh Chiêu, Thượng Trung Nhựt tu lên
cao hơn.
PHẬT MẪU CHƠN KINH
có câu :
Thập Thiên can bao hàm vạn tượng
Tùng ĐỊA CHI hóa trưởng Càn Khôn
Theo thuyết Nhị Trung (hai
số giữa) trong "hoàng Cực Tiên Thiên Tạo Hóa đồ" thì Trời lấy số 5
làm số giữa gấp đôi thành 10, 10 là số thập can. Đất lấy số 6 làm số giữa, gấp
đôi 6 lên thành 12, 12 là số của Địa chi.
Hệ CAN gồm 10 yếu tố :
Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý.
Hệ CHI gồm 12 yếu tố : Tý,
Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi gồm 6 cặp âm dương do
ngũ hành biến hóa vì hành thổ chứa dương thổ và âm thổ cộng với 4 hành thủy,
hỏa, mộc, kim mà thành 6. Số 6 chẵn là số âm nên gọi là Thập nhị Địa chi. Xem hình
trang
Hệ can và hệ chi có thể
dùng riêng như hệ đếm 10 và 12. Trong Đạo hệ chi phổ biến hơn để chỉ : Thập nhị
Khai thiên, Thập nhị thời quân, Thập nhị Bảo quân…
Phối hợp hệ can chi có hệ
đếm ngày, tháng, năm, gồm 60 đơn vị với các tên gọi như Giáp Tý, Ất Sửu, Quí
Hợi… Gọi là hệ can chi hay lục giáp. Cứ 60 năm gọi là một hội. Họi đầu tiên bắt
đầu thứ tư sau Tây lịch và hội Hiện Kim bắt đầu năm 1984. Từ đầu Tây lịch đến
nay có 33 hội.
Trong Đạo Cao Đài dùng năm
âm lịch, dương lịch song hành, có khi sơ xuất chỉ viết một loại năm, cách tìm
năm mất như sau :
1/- Cách đổi năm dương
lịch sang năm can chi
C = d (D-3) : 60
Trong công thức này : C là
tên năm Can Chi (xem bảng), D là năm dương lịch, d là số dư của phép chia. Ví
dụ muốn biết tên Can Chi của năm 1995, ta có : d (1995-3) : 60 = 12. Tra bảng
thấy 12 là mã số của năm Ất Hợi (xem trang )
2/ - Cách đổi năm Can Chi
sang năm dương lịch :
D = C + 3 + (h ) x 60
Trong công thức này : D là
năm dương lịch, C là m4 số năm Can Chi, h là số hội đã qua. Bất kỳ năm nào cùng
hội với năm tìm, lấy năm đó chia cho 60 sẽ tìm được h. ví dụ muốn đổi năm Bính
Ngọ (mã số 43) ra năm dương lịch. Ta lấy 1973 chia 60 được h = 32 (bỏ số dư)
rồi ghi các số vào công thức : 43+3+ (32x60) = 1966. Vậy Bính Ngọ là năm 1966.
Để áp dụng vào việc tìm
các mối quan hệ giữa người ứng với các can chi, ta áp dụng quy luật tương sinh
tương khắc theo luật "tam hợp" và "tứ xung" (xem hình).
Hệ thống 12 chi còn xác
định các thành phần của các bộ phận trên cơ thể.
Những điều trên lý giải
lời nói của cổ nhân : chín phương Trời ứng với số 9 Lạc Thư, số 9 là số lẻ
thuộc dương, mười phương Phật ứng với số 10 Hà Đồ và mười hai phương Đất, số 12
là số chẵn thuộc âm, theo Dịch Lý. Lời nói trên cũng phù hợp với câu kinh
"Khai Thiên Địa vạn vật chi tiên". Chớ không ai nói 12 tầng trời bao
giờ (vì 12 là số âm) mà chỉ nói (chín tầng Trời Đất…)
Tóm lại, Giáo lý Cao Đài
đặt trên nền tảng Kinh Dịch không thể nghi ngờ gì nữa. Quả Càn Khôn được biểu
tượng bằng một Thiên Cầu trùm lên địa cầu, âm trong dương. Quả Càn Khôn đường
kính 3 thước, 3 tấc, ba phân (3+3+3=9) là CHÍN, số cửu thiên khai hóa.
Thánh ngôn dạy chư đạo hữu
phụng tự Phục Hy, vị Thánh Nhứt Kỳ Phổ Độ, sáng tạo ra Tiên Thiên Bát Quái, thờ
Đức Khổng Tử, vị thánh Nhị Kỳ Phổ Độn, san định Kinh Dịch và tôn kính Đức Thanh
Sơn đạo trưởng, vị Thánh trong Tam Kỳ Phổ Độ, người Thầy của Dịch Lý, vị sư phó
của Bạch Vân Động.
Tất cả ba vị ấy cấu thành
tư tưởng và giáo lý Cao Đài. Song trên hết vẫn là Đức Chí Tôn thống ngự trên
Quả Càn Khôn. Tám quẻ trong Thiên Nhãn rất phù hợp với phương Bát Quái Cao Đài.
Đầu mắt hướng về Bắc ngay quẻ Ly mà Ly là con Mắt. Phía trên lòng đen thuộc quẻ
Chấn (hướng Đông), phía dưới lòng đen thuộc quẻ Đoài (hướng Tây)… (xem lại hình
ở trang 25). Những điều đó chỉ có Đức Cao Đài mới sắp xếp được : THIÊN NHÃN -
QUẢ CÀN KHÔN - BÁT QUÁI - BÁT PHƯƠNG (Địa lý) phù hợp với vũ trụ quan và nhân
sinh quan. Từ đó đặt ra mối quan hệ giữa thiên nhiên và con người : "Thuận
Thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong".
Về mặt thực tiễn, nhà
triết y học Nhật Bản là Sakuravawa Nyoichi đã xây dựng một hệ thống khoa học
thực nghiệm tên là "Vô song nguyên lý" hay "Nguyên lý thống nhất
trật tự vũ trụ". Qua đó, ông nêu lên 12 định lý âm dương biện chứng của
thế giới tương đối mà áp dụng vào cuộc sống con người.
Tóm lại, hình tượng quả
Càn Khôn, Đức Cao Đài đã dạy các môn đồ về khoa học tâm linh : Trời người hiệp
nhất qua cơ bút và thiền học, khoa học thực tiễn qua Trung Thiên Bát Quái chỉ
ra con đường Trung Đạo, không nghiêng về duy tâm hay duy vật. Bởi lẽ, thế giới
là một thực tiễn toàn vẹn không thể ly cách, trong tâm có vật, trong vật có
tâm. Nếu ta tách vật ra khỏi tâm thì làm sao biết được vật, bởi vì sự tồn tại
là do ý thức, chớ không có sự tồn tại nào nằm ngoài ý thức. Ngược lại, tách tâm
ra khỏi vật thì khó giải thích được tâm từ đâu mà có, còn nói tâm do vật sinh
ra thì hóa ra cái không đẻ ra cái có. Tâm và vật hay sinh thể và khoáng thể đã
tiềm tàng trong vũ trụ, nhận thức như vậy cho ta giải thích vì sao chủ thể nhận
thức được khách thể vì cả hai thể là đồng chất, đồng thể.
Nhờ có quan niệm "tâm
vật bình hành" đúng đắn nên phù hợp với lòng người, đưa nhân loại đến cảnh
Đại Đồng Huynh đệ mà đạo thọ truyền tới THẤT ỨC NIÊN.
Đức Chí Tôn giảng dạy :
"Khi chưa có Trời Đất thì khí Hư Vô sanh có Một Thầy và ngôi của Thầy là
Thái Cực (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển 2, trang 62) "Thầy phân Thái Cực ra
Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng biến ra Bát Quái, Bát Quái biến
hóa vô cùng mà tạo lâp Càn Khôn thế giái" (TNHT2, trang 62).
Ta dùng Chu Dịch để lý
giải lời Thánh Ngôn trên. Hệ Từ Thượng viết : "Dịch dử thiên địa chuẩn
(Kinh Dịch lấy trời đất làm chuẩn) Trời là Thái Cực.
Tự quái viết : "Hữu
thiên địa nhiên hậu hữu vạn vật" (có trời đất rồi sau mới có muôn vật).
Thánh giáo dạy : "Khí
Hư Vô sinh Một Thầy. Thầy là Thái Cực". Chu Đôn Hy cho rằng "Vô Cực
Nhi Thái Cực" (Vô Cực mà Thái Cực). Vô cực không hình mà Thái Cực là thể
có hình. Mọi thứ đều từ cái không đến có, nên có câu "hữu sinh ư vô"
(cái có sinh từ cái không).
Về mặt dụng "Thái Cực
nguyên Khí hàm tam vi nhất" (nguyên khí Thái Cực gom ba làm một). Đức Chí
Tôn gom ba ngôi A,Ă,Â.
Thánh Ngôn dạy :
"Thái Cực sinh Lưỡng Nghi". Lưỡng Nghi là âm dương hai biểu tượng
trong đạo học, đời sống và khoa học.
Chu Dịch cho rằng muôn vật
đều có âm dương sản sinh, nên Hệ Từ Thượng viết : "Nhất âm nhất dương chi
vi đạo" (Một âm một dương gọi là Đạo).
Hay "Cương nhu tương
thôi nhi sinh biến hóa" (cứng (dương) mềm (âm) đòn đẩy nhau mà sinh ra
biến hóa).
Âm dương là biểu tượng hai
tính chất khẳng định và phủ định biến hóa hổ tương, dương cực đại sinh âm, âm
cực đại sinh dương, đó là quy luật căn bản về âm dương.
Trong thiên nhiên, trăng
tròn thì lại khuyết, bốn mùa nóng lạnh thay nhau. Con người có sống phải có
chết. Trong khoa học, điện lực có dòng điện chính (dương) dòng điện phụ (âm),
số học có số chẵn (âm) số lẻ (dương), phép nhị tiến trong tinh học ngày nay
dòng số 0 và 1 cũng là số chẵn và số lẽ.
Qui luật âm dương, vì thế
bất luận ở lãnh vực nào : tự nhiên, con người hay tư tưởng luôn luôn tồn tại.
Thánh Ngôn dạy : "Tứ
Tượng sanh Bát Quái, "Tứ Tượng" là bốn mùa, là bốn quẻ chính Khảm,
Ly, Chấn, Đoài (đã lý giải ở trước).
Bát Quái là khái quát tự
nhiên của vũ trụ Hệ Từ Hạ, chương II viết :
"Ngày xưa họ Bào Hy
(Phục Hy) cai trị thiên hạ, ngẩn (mặt) lên xem các hiện tượng trên trời, cúi
xuống xem các phép tắc dưới đất… gần thì lấy ở thân, xa thì lấy ở vật, nhờ thế
làm ra Bát Quái".
Tám quẻ của Bát Quái do
hai hào âm dương hợp lại và biến hóa mà thành. Hệ Từ Thượng, chương XI viết :
"Dịch hữu Thái Cực
thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái"
(Dịch có Thái Cực, Thái Cực sinh ra Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ
Tượng sinh ra Bát Quái).
Thánh Ngôn dạy: "Bát
Quái biến hóa vô cùng". Từ tám quẻ ban đầu, xếp chồng lên nhau, chuyển đổi
từng đôi một thành 64 quẻ mang nhiều nội dung phong phú.
Thiệu Ung lý giải bằng hai
số chẵn lẻ biến đổi. Thái Cực là duy nhứt, chia tác thành một âm, một dương tức
một chẵn mà biến hóa vô cùng.
"Nhất biến nhi nhị,
nhị biến nhi tứ, tam biến nhi bát quái thành hỉ. Tứ biến nhi thập lục, ngũ ngũ
biến nhi tam thập nhị, lục biến nhi lục thấp tứ bị lử" (Một lần biến thành
hai, hai lần biến thành bốn, ba lần biến thành tám quẻ. Bốn lần biến thành mười
sáu, năm lần biến thành ba mươi hai, sáu lần biến là đủ sáu mươi tư quẻ. Thiệu
Ung quan vật ngoại thiên). Quả thật, Chu Dịch là quyển đầu của các kinh (quần
kinh thủ) bao trùm cả giáo lý, tư tưởng của Đạo Cao Đài.
Cái tư tưởng lớn nhất là
"Trung Dung Khổng Thánh chỉ rành" là kinh nhựt tụng của người Đạo.
"Trung giả vô quá vô
bất cập chi danh dã. Dung bình thường dã" (Trung là không quá bất cập.
Dung là bình thường - Luận ngữ, Tập chú).
"Trung dung giả, bất
thiên bất ỷ, vô quá vô bất cập" (Đạo Trung Dung không thiên không lệch,
không quá, không bất cập - Trung Dung chương cú).
Đạo Trung Dung đó, Chu
Dịch gọi là trung hành. Quẻ Ích, lời hào thứ 4, âm nói :
"Trung hành, cáo công
tòng, lợi dụng vi y thiên quốc" (Đạo trung báo với bậc công theo, lợi dụng
đạo trung nương tựa mà dời đô).
Quẻ Quải, lời hào thứ 5,
dương viết : "Hiền lục quải quải, trung hành vô cữu" (như rau sam mà
quả quyết, giữ đạo trung không có lỗi).
Trung hành của Chu Dịch và
đạo Trung Dung của Khổng Tử đều dạy "phải giữ đạo trung ở trong lòng"
(các thiết trung vu nãi tâm) để tu dưỡng tâm tính đề cao nhân cách, nhờ đó mà
coi trọng tinh thần và bản tánh của người khác.
Trung Dung là đức tốt cực
điểm, lâu nay ít ai đạt được (Trung Dung chi vi đức dã, kỳ chí thỉ hồ. Dân tiến
cửu hỉ - Luật ngữ, Ung dã).
2 - Trung Thiên Bát Quái Cao-Đài Xếp Trên Lạc Thơ
CHÚ THÍCH :
1 . Quẻ Ly (con mắt) nằm trên
cung 3 (Tam Kỳ)
2 . Càn 6, Khôn 8 thất vị
3 . Ly 3, Khảm 7 làm chủ
phải tu để chiết Khảm điền Ly
3 . Âm
dương vận hành (giống phép Hoán Đàn)
theo Lạc Thư
- Số trời tròn (lẻ) :
1,3,7,9
- Số đất vuông (chẵn)
: 2,4,6,8
- Một là Trời, Hai là Đất, Ba là Người
4 .
Phân biệt âm dương (Lưỡng Nghi)
5 . Ý
nghĩa tám quẻ chính
6 . Minh họa quẻ Ly (Thiên Nhãn) 3 hào
7 .
Minh họa tương quan Ngũ quái 5 quẻ với Ngũ hành
8 . Minh Họa Tứ Tượng có hai hào
9 . Minh họa quẻ Càn Khôn 6 hào
10 . Minh họa quẻ D8ịa Thiên Hỏa có 9 Hào
Khi quẻ CÀN di chuyển
chồng lên quẻ KHÔN thì quẻ TỐN cũng di chuyển chồng lên quẻ CẤN mà sinh ra quẻ
TIỆM.
CHƯƠNG IV
MƯỜI HAI QUẺ CỦA ĐẠO DỊCH
Bát Quái biến hóa vô cùng (TNHT 2, tr.62)
Bát Quái là văn tự đầu tiên Quốc học khái luận, Đài
Bắc 1958
Ngoài những lãnh vực văn
hóa đã viết ở trước, Bát Quái và các trùng quái còn bàn về chính trị kinh tế,
xã hội, bói toán…
Hoàng Đế, Nghiêu Thuấn rủ
xiêm y mà thiên trị đó là nhờ lấy tượng ở quẻ Càn, quẻ Khôn (Hoàng Đế, Nghiêu
Thuấn thùy y thường nhi thiên hạ trị, cái thủ chư Càn khôn - Phan Kế Bính - Nam
Hải dị nhân liệt truyện)
Một phương diện khác nữa
rất đặc biệt là Phục Hy "lấy Bát Quái tương trùng để bói xem kiết hung họa
phúc" (Dĩ Bát Quái tương trùng vi cát hung họa phúc chi chiêm). Đó là chủ
điểm của chương này.
Trong Bát Quái trung
thiên, bốn quẻ chính là Càn, Khôn, Ly, Khảm, ta trùng quái hoán vị trên dưới
sinh ra 12 quẻ kép à : Thái, Bỉ, Ký Tế, Vị Tế, Đồng nhận, Đại hữu, Trung, Nhu,
Tấn, Minh Di, Sư, Tỵ. Khôn Càn là Thượng Nguơn Thánh Đức, còn Ly Khảm Hạ Nguơn
mạt kiếp. Loài người phải tu luyện để chiết đường Khảm, điền vào âm Ly mới qui
hồi cựu vị.
1. - Khôn trên Càn dưới là quẻ THÁI
Kinh Dịch viết : Thái Tiểu
vãng, đại lai, cát hanh (Quẻ Thái nhỏ đi, lớn lại, lành tốt hanh thông)
Chu Dịch bản nghĩa giải : Thái là hanh thông,
là quẻ trời đất thông nhau, hai khí âm dương thông nhau, nên gọi là Thái, quẻ
ứng vào tháng Giêng. Nhỏ là âm, lớn là Dương, tức Khôn đi ở ngoài, Càn đến ở trong. Hào sáu
đi ở ngôi Tư, hào chín lại ở ngôi Ba. Người được quẻ này có đức cương dương tốt
lành và hanh thông.
Lời Thoán nói rằng : quẻ
thái nhỏ đi lớn lại, tốt lành và hanh thông, trời đất giao nhau mà vạn vật hanh
thông, trên dưới giao nhau mà chí giống nhau. Trong dương mà ngoài âm, trong
mạnh mà ngoài thuận, trong quân tử mà ngoài tiểu nhân. Đạo quân tử lớn lên thì
đạo tiểu nhân tiêu đi vậy.
Lời Tượng nói rằng : Trời
Đất giao nhau là quẻ Thái, Vua coi theo mà sử nên Đạo của Trời Đất, giúp mọi sự
phải để đỡ đần sanh chúng.
2 .
Càn trên Khôn dưới là quẻ Bĩ
Kinh Dịch viết : Bĩ chi
phi nhân. Bất lợi quân tử trinh, đại vãng tiểu lai của người quân tử, lớn đi,
nhỏ lại).
Chu Dịch bản nghĩa giải :
Bĩ là bế tắc, tức là quẻ tháng bảy, trái với quẻ Thái. Cho nên nói là "Phi
nhân", nghĩa là không phảo đạo người. Lời chiêm đoán của nó không lợi về
đường chánh đạo quân tử.
Bởi lẽ, Càn ở ngoài, Khôn
ở trong, nó lại do quẻ Tiệm mà lại, nên hào thứ chín ở vào ngôi Tư, hào Sáu ở
vào ngôi Ba. Người ta nghi ngờ ba chữ "chi phi nhân" là thừa vì nó ở
hào Sáu Ba của quẻ Tỵ (coi dưới) mà ra.
Lời Thoán nói rằng : Bĩ
đó, chẳng phải đạo người, chẳng lợi cho sự chính bền của người quân tử, lớn đi,
nhỏ lại thì trời đất không thông nhau nên vạn vật không thông, trên dưới không
thông nhau nên thiên hạ không có nước. Trong âm mà ngoài dương, trong mềm mà
ngoài cứng, trong bọn tiểu nhân mà ngoài người quân tử. Aáy là đạo tiểu nhân
lớn lên nên đạo người quân tử tiêu đi.
Lời Tượng nói rằng : Trời
Đất không thông nhau là eủ Bĩ, người quân tử coi đó để dè chừng đức hạnh, lánh
nạn, không thể vẽ vang bằng lợi lộc.
3 .
Càn trên Ly dưới là quẻ ĐỒNG NHÂN
Kinh Dịch viết : Đồng nhân
vu dã, hanh lợi, thiệp đại xuyên, lợi quân tử trinh (cùng người ở đồng, hanh
thông, lợi về sự sang sông lớn, lợi cho sự chính bền của người quân tử).
Chu Dịch bản nghĩa giải :
Ly có vạch như âm mắt ở giữa hai vạch dương, nên đức là văn minh, là mắt, tượng
là lửa, là điện, là mặt trời. Đồng nhân là chung cùng với mọi người. Ly gặp quẻ
Càn, lửa lên cùng với trời.
Hào Sáu Hai được ngôi ở
trên ứng với hào Sáu Năm. Trong quẻ chỉ có một hào âm mà cùng chung với các hào
dương, nên gọi chung cùng với mọi người. Ý nói vậy xa mà không riêng tư chỉ có
đạo hanh, lấy đức mạnh mà đi, nên có thể sang sông. Đồng nhân là quẻ trong văn
minh, ngoài cương kiện. Hào Sáu Hai trung chính mà có vẻ ứng, ấy là Đạo người
quân tử. Người được quẻ này thì hanh thông có thể vượt qua nơi hiểm yếu. Còn
người mà mình cùng chung phải hợp với đạo quân tử thì mới có lợi.
Lời Thoán nói rằng : Quẻ
Đồng Nhân, mềm được ngôi, được chỗ giữa mà ứng với Càn nên gọi là đồng nhân.
4 .
Càn dưới Ly trên là quẻ ĐẠI HỮU
Kinh Dịch viết : Đại hữu
nguyên hanh (Quẻ Đại hữu cả lớn hanh thông).
Chu Dịch bản nghĩa giải :
Đại hữu là sự "có lớn". Ly ở trên Càn tức lửa ở trên trời, không gì
không soi rọi. Lại nữa, hào Sáu Năm là hào âm ở ngôi tôn, được chỗ giữa mà năm
hào dương ứng theo nó, nên gọi là "có lớn". Càn mạnh, Ly sáng, ở ngôi
tôn mà ứng với trời nên có cơ hanh thông. Người được quẻ này có đức ấy thì rất
tốt và hanh thông.
Lời Thoán nói rằng : Quẻ
Đại hữu chỉ kẻ mềm được ngôi tôn cả giữa mà trên dưới ứng nhau gọi là Đại hữu.
Đức cứng mạnh mà văn vẻ sáng láng, ứng nhau với trời mà đi là đíng thời, nên cả
lớn hanh thông.
Lời Tượng nói rằng : lửa ở
trên trời là quẻ Đại hữu. Người quân tử coi đó mà ngăn ngừa kẻ ác, biểu dương
người thiện, thuận theo mệnh tốt của trời.
5 .
Càn dưới Khảm trên là quẻ NHU
Kinh dịch viết : Nhu hữu
quang, hanh, trinh, cát, lợi thiệp đại xuyên (quẻ Nhu có đức tin sáng lạng hanh
thông, chính bền tốt. Lợi sang sông lớn).
Chu Dịch bản nghĩa giải :
Nhu là đợi. Quẻ Càn mạnh, Khảm hiểm, sức mạnh gặp chỗ hiểm mà không vội vàng,
tiến để mắc vào chỗ hiểm đó. Ấy là cái nghĩa chờ đợi.
Quẻ này hào Chín Năm là
thể Khảm bên trong đã đầy, lại có nhiều tính dương cương trung chính mà ở ngôi
Tôn, tức cái tượng "có đức tin được ngôi chính". Khảm là nước ở phía
trước, Càn là mạnh kế tới sau, ấy là cái tượng "sắp sang sông lớn mà chưa
tiến lên một cách khinh thường".
Thế nên, người được quẻ
này, nếu có điều chờ đợi mà tự mình sẵn đức tin thì sẽ sáng láng hanh thông,
nếu được chính bền thì tốt và lợi về việc sang sông lớn. Chính bền thì không có
gì là không tốt, mà sự sang sông càng quý ở chỗ chờ đợi. Ấy là, không vì lòng
ham muốn mau chống mà phạm vào chỗ hiểm nạn.
Lời Thoán nói rằng : Nhu
tức là đợi, chỗ hiểm ở trước vậy. Cứng mạnh mà không bị hãm, nghĩa là không thể
khốn cùng.
6 .
Càn trên Khảm dưới là quẻ TỤNG
Kinh Dịch viết : Tụng hữu
phu chất dịch, trung cát, chung hung, lợi kiến đại nhân, bất lợi thiệp đại
xuyên (Kiện tụng có thật bị lấp, phải sợ, vừa phải : tốt; theo đuổi đến chót :
xấu; lợi về sự thấy người lớn, không lợi về sự sang sông lớn)
Chu Dịch bản nghĩa giải :
Kiện tụng là tranh biện. Trên Càn dưới Khảm, Càn thì cứng, Khảm thì mềm. Người
trên dùng điều cứng để chế kẻ dưới, kẻ dưới dùng sự hiểm để dòm người trên.
Quẻ này, hào Chín Hai giữa
đặc mà không có kẻ ứng cùng mình nên thêm lo. Vả lại, theo quái biến, nó từ quẻ
Độn mà hại, tức kẻ cứng đến ở hào Hai mà nhắm vào giữa thể dưới, có sự thật bị
lấp che, biết sợ mà hợp với lẽ vừa phải. Hào chín trên quá cứng ở cuối sự kiện,
có tượng theo đuổi việc đến cùng. Hào Chín Năm cứng mạnh, trung chính ở giữa
ngôi tôn, có tượng người lớn, lấy tư cách dương cương cỡi lên chỗ hiểm, ấy là
sự đầy đặc xéo vào chỗ hãm, có tượng không lợi về sự sang sông lớn. Thế nên,
người được quẻ này chắc có sự tranh tụng và tùy theo thế của mình ăn ở mà biến
thành lành hay dữ.
Lời Thoán nói rằng : Quẻ
Tụng trên cứng dưới hiểm, hiểm mà mạnh là quẻ Tụng.
Lời Tượng nói rằng : Trời
với nước đi trái nhai là quẻ Tụng, người quân tử coi đó mà dấy việc mưu tính
lúc đầu.
7 .
Khôn trên Khảm dưới là quẻ SƯ
Kinh Dịch viết : Sư trinh
trượng nhân cát, vô cữu. (Quân chinh, bậc trượng nhân tốt, không lỗi).
Chu Dịch bản nghĩa giải :
Sư là quần chúng, dưới Khảm trên Khôn. Khảm hiểm mà Khôn thuận. Khảm là nước,
Khôn là đất, thời xưa ngụ hình ở nông, che cái rất hiểm ở chỗ lớn thuận, dấu
cái không lường trong chỗ rất tĩnh.
Trong quẻ, chỉ hào Chín
Hai là hào dương ở giữa quẻ dưới là tượng làm tướng. Trên dưới năm hào âm đều
phải thuận ma theo, là tượng làm quân binh. Hào Chín Hai lấy tư cách dương
cương ở dưới làm việc. Hào Sáu Năm là hạng mềm yếu ở trên mà dùng người, tức
cái tượng vua sai tướng ra quân, nên quẻ này gọi là sư. Cái đạo dùng quân, lợi
về đường chính đáng, nên dùng người lão thành mới tốt mà không có lỗi. Đó là
lời răn người được quẻ này.
Lời Thoán nói rằng : Sư là
nhiều người, trinh là chính, khiến được nhiều người chính đính, thì có thể làm
nên nghiệp vương bá.
Lời Tượng nói rằng : Trong
đất có nước là quẻ Sư. Người quân tử xem đó mà dung dân, nuôi chúng.
8 .
Khôn dưới Khảm trên là quẻ TỊ
Kinh Dịch viết : Tị cát
nguyên phệ nguyên, vĩnh, trinh, vô cữu. Bất minh phương lai, hậu phu hung (Liền
nhau tốt, trung nguyên việc bói, khởi đầu lớn, lâu dài, chính bền, không lỗi.
Chẳng an mới lại, sau trễ tượng phu, hung).
Chu Dịch bản nghĩa giải :
Tị là gần nhau liền nhau. Hào Chín Năm lấy dương cương ở giữa quẻ trên mà được
chỗ chính. Năm hào âm ở trên và dưới đều gần lại mà cái tượng một người võ về
muôn nước, bốn bể trông lên một người.
Người được quẻ này sẽ được
người thân theo bám mình. Nếu có đức cả lành, dài lâu, chính bền thì mới để cho
người khác theo về mà không có lỗi. Còn người chưa gần có điều không ổn mà sắp
sửa theo về thì người này giao kết chặt chẽ, còn kẻ kia đi lại đã muộn khiến có
sự hung. Những ai muốn gần với người thì nên lấy đó mà tính ngược lại.
Lời Thoán nói rằng : Tỵ là
tốt, tị là giáo lại. Người dưới thuận theo, truy nguyên việc bói, đầu cả, lâu
dài, chính bền, không lỗi, vì cứng ở giữa, không an mới lại, trên dưới ứng
nhau, sau trượng phu, hung vì đạo cùng.
Lời Tượng nói rằng : Trên
đất có nước là quẻ Tị. Đấng Tiên Vương coi đó mà dựng nước, thân cận chư hầu.
9 .
Khôn dưới Ly trên là quẻ TẤN
Kinh Dịch viết : Tấn,
Khang hầu dung tích mã phồn tứ, trú nhật tam tiếp (quẻ tấn, tước hầu yên dùng
cho ngựa giậm nhiều, ban ngày ba lần tiếp)
Chu Dịch bản nghĩa giải :
Tấn là tiến lên, tước hầu yên là tước làm an được nước. Ngựa cho giậm nhiều,
ban ngày ba lần tiếp nối, nghĩa là chịu nhiều ơn lớn, được thân mật kính lễ một
cách rõ ràng.
Quẻ này trên Ly dưới Khôn,
có tượng mặt trời mọc trên đất. Bốn hào xuôi thuận bám vào nơi cả sáng sủa, du
từ quẻ Quan biến lại, thành hào Sáu Bốn mềm yếu mà tiến lên cho tới hào Năm.
Người được quẻ này có ba
điều ấy thì cũng có sự yên ấy.
Lời Thoán nói rằng : Tấn
là tiến. Sáng soi trên đất mà bám vào nơi sáng lớn, mềm tiến mà đi lên. Cho
nên, tước hầu yên dùng cho ngựa giậm nhiều, ban ngày ba lần tiếp nối.
Lời tượng nói rằng : Lửa ở
trên đất là quẻ Tấn, người quân tử coi đó mà tự hành động cho rõ đức sáng của
mình.
10 .
Khôn trên Ly dưới là quẻ MINH DI
Kinh Dịch viết : Minh di
lợi gian trinh (Quẻ Minh di lợi về khó nhọc trinh chính)
Chu Dịch bản nghĩa giải :
Di là đau. Quẻ này Ly dưới, Khôn trên, mặt trời vào trong đất, tức cái tượng
sáng mà bị đau, nên gọi là Minh di.
Sáu hào trên quẻ này chủ
sự tối mà hào Sáu Năm ở gần nó. Vì vậy, người được quẻ này, lợi về điều khó
nhọc để giữ sự chính mà tự che sự sáng của mình.
Lời Thoán nói rằng : Sáng
chiếu vào trong đất là quẻ Minh di.
Lời Tượng nói rằng : Sáng
vào trong đất. Người quân tử coi đó để trị dân chúng, dùng tối mà được sáng.
11 .
Khảm trên Ly dưới là quẻ KÝ TẾ
Kinh Dịch viết : Ký tế
hanh, tiểu lợi trinh sơ cát, chung loạn (quẻ Ký tế hanh thông, nhở lợi về chính
bền, đầu tốt, chót loạn).
Chu Dịch bản nghĩa giải :
Đã xong thì việc đã nên. Ký tên là quẻ nước lửa giao nhau, thứ nào đều dùng thứ
nấy. Ngôi sáu hào đều được chính đính nên "đã sang". Chữ "banh
nhỏ" nên đổi thành "nhỏ hanh".
Quẻ này, lời chiêm đoán
của sáu hào đều có ý răn đe, làm được thì nên.
Lời Thoán nói rằng : Quẻ
Ký tế hanh tức cái nhỏ hanh thông. Lời Tượng nói rằng : Nước ở trên lửa là quẻ
Ký tế. Người quân tử coi đó để suy nghĩ lo lắng mà ngăn ngừa.
12 . Ly
trên Khảm dưới là quẻ VỊ TẾ
Kinh Dịch viết : Vị tế
hanh, tiểu hồ hất tế, nhu kỳ vĩ, vô du lợi (quẻ vị tế hanh, con cáo nhỏ hầu
sang, ướt đuôi, không lợi).
Chu Dịch bản nghĩa giải :
Quẻ vị tế nói lúc việc chưa thành. Nước lửa chẳng giao nhau, chẳng hổ tương
nhau. Sáu hào trong quẻ đều mất ngôi, nên "chưa xong", hầu sang (sắp
xong) mà ướt đuôi là chưa xong.
Người được quẻ này không
có lợi gì.
Lời Thoán nói rằng : Quẻ
Vị tế hanh, mềm được ở giữa. Cáo nhỏ hầu sang, ướt đuôi không lợi, mà chẳng nối
chót được. Tuy chẳng đăng ngôi nhưng cứng mềm ứng với nhau.
Lời tựa nói rằng : Lửa ở
trên nước, là quẻ Vị tế. Người quân tử coi đó mà cẩn thận và phân biệt các sự
vật.
Mười hai quẻ chia làm ba
bậc : thượng, trung, hạ. Thượng gồm có 5 quẻ : Thái, Đồng nhân, Đại hữu, Tấn và
Ký tế. Trung cũng gồm có 5 quẻ : Nhu, Tụng, Sư, Tị, Minh di. Hạ gồm có 2 quẻ :
Bĩ và Vị tế.
Ai được quẻ thượng thì
thảnh thơi, quẻ trung thì cẩn thận và quẻ hạ phải e dè chỗ hiểm.
Lời giải văn tự cổ xưa,
sâu kín cần đọc đi đọc lại để hiểu ý nghĩa uyên thâm trong đó. Muốn cầu được
quẻ, ta dùng tràng hạt Dịch lý để chiêm đoán (xem mục 14 ở sau), bấm đúng số
nào thì chọn số đó làm quẻ rồi đọc lời giải quẻ mà tìm ra tốt xấu, thuận
nghịch.
13 . Thời kỳ mạt kiếp sanh tượng tàng
(từ hai quẻ Bĩ vàTụng)
Vào đêm rằm tháng 8 năm Ất
Sửu (1925), ở Phú Quốc, Đức Quan Thánh và Lý Bạch giáng cơ tiên tri về thời
cuộc từ 1925 về sau :
"QUAN mà hiểu rộng LÝ cao quyền,
THÁNH Phật phân rành THÁI độ duyên.
ĐẾ sắc nêu cao nguồn BẠCH tự,
GIÁNG lâm đàn nội, GIÁNG qui nguyên.
"Lão vâng lịnh Tam
Giáo tòa lâm đoàn để đôi lời tiên tri, lẽ tuần hoàn chuyển đổi…
"Chúng sanh khá nhớ :
" Cao vi càn, càn vi Thiên. Đài Khảm, Khảm vi thủy tức là quẻ Thiên thủy
tụng, thì chạy đâu cho khỏi số trời định binh lửa bốn phương. Những kẻ không tu
đành cam số phận…".
"Năm Ất Sửu
(1925) để lời Lão phán,
Qua Bính Dần
(1926) đặng rạng cơ mầu,
Lập thành nguồn đại Á châu
Đắp xây nền móng sùng Ân đời đời.
Nên thấy rõ đạo Trời chánh giáo,
Cảnh Tây Ninh đào tạo Thánh Tòa.
Lập thành cơ
đạo chia ba,
Tiền, trung với hậu cũng là đồng môn.
Nắm cơ quan bảo tồn sanh chúng,
Dựng lên rồi chia trúng mười hai.
Trên tường thiên lý dăm dài,
Lập thành Đại Đạo Cao Đài độ dân.
Năm Mậu Dần sắp gần binh cách,
Ấy là điều tai ách nhơn sanh.
Bốn năm dân chủ tung hoành,
Tây Ninh thừa thế lập thành cơ binh.
Để bảo hộ chúng sinh bổn đạo,
Dân Xã lo đào tạo quan quân.
Quốc gia nổi dậy tưng bừng.
Tân Dân thành lập lẫy lừng quốc dân,
Nền độc lập lần lần ra mặt.
Vĩnh Thụy lầm tưởng thật chi hành,
Đến ngày hội cả nhơn sanh.
Kỳ ba súng nổ lập thành quốc gia,
Để phát động sơn hà thống nhứt.
Hiệp Tam Giang nổ lực tấn công,
Bảo Sanh Nhơn nghĩa Đại Đồng.
Hòa bình thế giới ở trong đạo Trời,
Chớ lầm tưởng quyền đời sức mạnh.
Dễ lướt qua luật chánh thiêng liêng,
Hậu sau ra đứng trước tiền,
Do Tòa Tam Giác lịnh truyền thường răn.
Đức Di Lạc cầm cân cứu thế,
Hội Long Hoa tên để phong Thần.
Thượng nguơn đời lập Tân Dân,
Dựng nền dân quốc, xa lần chủ quân.
Quâ hương hiện cảnh xuân thơ thới,
Đạo nhà Nam vạn đại lưu truyền.
Gia vô bế hộ êm đềm,
Phật, Tiên, Thánh, Thần giáng miền trần gian.
Đạo gom trọn nhơn gian vũ trụ,
Gieo giống lành làm chủ năm châu.
Từ đây khắp cả hoàn cầu,
Âu ca lạc nghiệp dưới bầu trời chung.
* Bài tứ tuyệt trên hiện
rõ sự mầu nhiệm của cơ bút. Nếu đọc khoán thủ ta thấy : Quan Thánh Đế Quân
giáng, khoán tâm ta lại thấy : Lý Thái Bạch giáng và sau 2 chữ Thánh Đế ta thấy
2 chữa Phật Sắc tức Phật Bà Quan Âm. Bài này tiên tri Tam Trấn thay mặt Tam giáo
dạy Đạo kỳ ba.
*Bài song thất lục bát
tiên tri, Đạo Cao Đài lập trước nhất ở Tiền Giang rồi Hậu Giang và sẽ phân chia
12 chi phái. Đạo lập quân đội và Hòa Hảo lập Dân xã Đảng. Sau đó, Bảo Đại bị
Ngô Đình Diệm lừa gạt truất phế. Trải qua ba cuộc đảo chánh mới lật đổ được Ngô
triều.
Đến cuối thế kỷ này
"phân tiền vi hậu", Đức Di Lạc Vương Phật ra đời lập Hội Long Hoa để
tuyển ngôi vị Phật, dựng đời Thượng Ngươn Thánh Đức, Đức Di Lạc là bậc Minh
Vương hiền triết thông kim đạt cổ tạo cảnh thái bình "gia vô bế hệ".
Lúc đó, đạo nắm trọn huyền
vi vũ trụ và !! Đất dậy, trời thay xác, chư Phật, Tiên, Thánh xuống ở
trần". Nhân loại lạc nghiệp âu ca, chung bầu trời : "Đại Đồng thế
giới".
Đây là bài thi độc nhứt vô
nhị do Tam Trấn giáng chung Đức Lý Thái Bạch và Quan Thánh chủ động ban ý tưởng
còn Phật Quan Âm chứng lễ đàn.
14 .
Luật lưỡng phân, lưỡng hợp (từ 2 quẻ Ký tế, Vị tế)
a/ - Phân giải lưỡng nghi : theo Chu Hy, nhân sinh vạn
vật đều có một thái cực. Thái cực phân ra lưỡng nghi là âm dương.
Âm Dương là hai yếu tố
tương phản nhau như nam và nữ, sáng và tối, ngày và đêm… Nhờ sự tương phản mà
âm dương đùn đẩy biến hóa vô cùng.
Tuy bản chất đối nghịch
nhau, trong cái này lại có cái kia như trong dương thịnh (Thái Dương) thì có
chút âm (Thiếu âm) và ngược lại.
Thật ra cả hai yếu tố âm
dương luôn luôn hòa lẫn nhau và đóng vai trò quan trọng trong sự sinh thành của
vạn vật. Âm trưởng thìdương tiêu, dương trường thì âm tiêu. Âm tăng lên đến chỗ
cực thịnh thì dương sẽ phát sinh và âm sẽ phải thoái đầu, và ngược lại. Đó luật
lưỡng phân, lưỡng hợp.
b/ -
Tràng hạt Dịch lý hay xâu chuỗi tự pháp :
Đức Thanh Sơn Đạo sĩ, tổ
sư Dịch lý của Đạo Cao Đài dạy làm chuỗi tràng hạt Dịch lý, có 64 hột phân làm
hai. Một đoạn 62 hi (6+2=8) biểu tượng Bát Quái. Đoạn kế 2 hội biểu tượng Lưỡng
Nghi (âm dương) đồng thời chỉ quẻ Ký tế số 63 và Vị tế số 64.
Khi dương trưởng thì 2 hội
âm dương ngang vai trái và khi âm trưởng thì mang 2 hột âm dương ngang vai
phải, vào giờ cầu nguyện hay tiếp điển hay tịnh luyện.
Trong trời đất, khí dương
tăng trưởng từ giờ Tý đến giờ Tỵ vào tháng 11 đến tháng 4 âm lịch, từ tiết Đông
Chí đến tiết Lập Hạ. Một dương sanh tử quẻ Phục rồi cực thịnh ở quẻ Càn. Còn
khí âm tăng trưởng từ giờ Ngọ đến giờ Hợi vào tháng 5 đến tháng 10 âm lịch, từ
tiết Hạ Chí đến tiết Lập Đông. Một âm sanh từ quẻ Cấn rồi cực thịnh ở quẻ Khôn
có 6 âm.
Muốn như ý nguyện, người
tu phải dựa vào các mốc thời gian đó. Trong ngày phải thiết lễ vào thời Tý,
Ngọ, Mẹo, Dậu. Trong năm vào các tiết Đông Chí, Hạ Chí, Xuân Phân và Thu Phân.
Vào thời Tý và Đông Chí có
một dương sanh nên tấn dương hỏa. Vào thời Ngọ và Hạ Chí có một âm sanh nên
thối âm phù. Còn thời Mẹo, Dậu, Xuân phân, Thu phân thì mộc dục để bảo dưỡng
khí dương.
Dưới đây là 2 biểu đồ âm
tiêu dương trưởng và dương tiêu âm trưởng.
*Âm tiêu dương trưởng :
Muốn hỏi việc ở cõi vô
hình thì tùy thuộc vào sự di động của hai hạt âm dương, chỉ có người trong cuộc
mời thông linh được.
Trong Kinh Dịch quẻ chót
tức quẻ thứ sáu mươi bốn là quẻ Hỏa Thủy Vị tế nghĩa là chưa xong. Theo Bát
Quái Cao Đài, Hỏa Thủy Vị tế là quẻ Càn chồng lên quẻ Khôn và quẻ Ly chồng lên
quẻ Khảm biểu tượng của sự chưa xong. Vì theo Bà Bát Nương dạy con người phải
tu luyện để biến hóa từ Kim Thạch, thảo mộc, cầm thú rồi mới thành người.
Khi đã thành người chỉ là
tạm xong còn phải tu sửa để thành Thần, Thánh, Tiên, Phật mới gọi là Thủy Hỏa
Ký tế. Lúc đó Càn Khôn (Bĩ) trở thành Khôn - Càn (Thái) và Ly - Khảm biến thành
Khảm Ly mà người ta gọi là Chiết Khảm điền Ly (lấy quẻ dương của Khảm điền vào
chỗ quẻ âm của Ly để thành quẻ Càn) biểu tượng cho sự thanh khiết đạt thành
chánh quả.
Người tín hữu Cao Đài
trước là tu thân sửa mình trục bỏ cái âm, những điều xấu ác để trở thành thuần
dương thánh thiện. Nếu mọi tín hữu đều tu luyện theo tôn chỉ của Đại Đạo là góp
phần to lớn chuyển đổi vận Bĩ của thế giới thành vận Thái, đã thực hiện xong
lời nguyện thứ tư cũng là lời nguyện to lớn nhất của Đạo Cao Đài.
Tứ
nguyện thiên hạ thái bình.
Vía Đức Chí Tôn
lần thứ 48
TVR
Tài Liệu Tham Khảo:
BẢO BA - Chu Dịch
nguyên chỉ - Thương vụ ấn thư quán - Thượng Hải.
BỬU CẦM - Tìm hiểu Kinh Dịch, Sàigòn 1957.
CHU HY - Chu Dịch bản nghĩa (Kinh Dịch tạp chú),
Hương Cảng.
DUMONT - L.Homo Hierarchicus : The caste Systau and
its Implications Chicago 1970
ĐÀO TRINH NHẤT - Vương Dương Minh, Sai gon, Tân
Việt
ĐỖ ĐÌNH TUÂN, Dịch học nhập môn, Sàigòn 1973
GLASENAPP Helmuthde - Les cing Grands religions du Monde - Paris, Payot
1954.
HARLEZ CHARLES de Le liver des mutations (Yi.king) Paris 1959.
JASPERS Karl - Triết học nhập môn (Lê Tôn Nghiêm dịch) Huế 1958.
KINH THƯ - Thẩm Quỳnh dịch, Sài gòn
1965.
LÃO TỬ - Đạo Đức Kinh (Nguyễn Duy Cần dịch), NXBVH 1992.
LÊ VĂN QUÁN - Chu Dịch Vũ Truị Quan - Hà Nội 1975.
LIỄU DI TRỪNG - Trung Quốc Văn Hóa sử. Đài Bắc 1948
LUẬN NGỮ - Lê Phục Thiện dịch, Sài gòn 1962
LÝ QUÁ - Tây Khê Dịch thuyết, Thương vụ ấn thư quán Thượng Hải.
LƯƠNG KIM ĐỊNH - Triết Đông chuyên biệt. Sài Gòn
1962
NGÔ TẤT TỐ - Kinh Dịch, TP.HCM 1991
NGÔ QUẾ SÂM - Chu Dịch tượng thuận - Thượng Hải
NGUYỄN DUY TINH - Kinh Chu Dịch (dịch bản nghĩa)
Sài Gòn 1968
NGUYỄN MẠNH BẢO - Dịch Kinh tân khảo. Sài gòn 1958
NGUYỄN HỮU LƯƠNG - Kinh Dịch với vũ trụ quan đông
phương, Sài gòn 1971 - TP.HCM 1992
NGUYỄN HIẾN LÊ - Kinh Dịch NXB Văn học 1992
PLATT Nathaniel &
DRUMMON Muriel Jean - Our word Through the ages. New York 1959
PHAN BỘI CHÂU - Chu
Dịch, Sài gòn khai trí.
PHAÏM CÔNG TẮC - Lời
thuyết Đạo, quyển I, II, III, IV, V
PHƯƠNG THỰC TÔN - Trung
sơn độc châu Dịch kí, Thượng Hải.
SAUSSURE Léopold - Les origines de l'astronomie chinoise, Paris 1930
SUDRE René - Les nouvelles énigmes de l'uni-ver, Paris 1951
SOOTHILL W.E - Lestrois religions de la Chine, Paris 1946
TÂN LUẬT, PHÁP CHÁNH TRUYỀN - Bản in ở Paris, Gasnier 1952
TIỀN MỤC - Tứ thư thích nghĩa. Đài Bắc 1955
THÁNH NGÔN HIỆP TUYỂN - Quyển I 1964, quyển II 1963
THU GIANG NGUYỄN DUY CẦN - Trang tử tinh hoa,
Chu dịch huyền giải. TP.HCM 1992
THIỆU UNG - Hoàng cực kinh tế, Thượng Hải
TRANG TỬ - Nam Hoa kinh, Sài gòn 1970
TRẦN ĐÌNH HỰU - Nho
giáo đã thành vấn đề như thế nào với nước VIỆT NAM ngày nay
- Văn hóa và Đời sống tạp chí táng 11 - 1992.
TRẦN QUANG THUẬN - Tư tưởng chính trị trong triết
học Khổng Giáo, Sài Gòn, Thư lâm 1961
TRẦN TRỌNG KIM - Nho giáo Sài Gòn, Tân Việt in lần
thứ tư.
TRẦN THÚC LƯỢNG và Lý Tâm Trang - Tống Nguyên học
án, Trung Hoa
TRẦN VĂN RẠNG - Đại Đạo sử cương I, II, III,
Tìm hiểu Cổ Pháp Đạo Cao Đài
TRẦN TỔ NIỆM - Dịch Dụng Tứ Khố Toàn thư trân bản.
Thượng Hải
TRANG TỬ - Nam Hoa Kinh (Thu Giang dịch). Sài gòn
1962
TRUNG DUNG - Phan Khoang dịch, Mai Lĩnh 1944
WEBER Charles - La phifosophie Moderne, Paris 1954
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét