Thượng Sanh Cao Hoài Sang - Thập Nhị Bảo Quân - 1 / 3 (HT. Trần Văn Rạng)


Lii Đầu
Trong ba vị Thiên sứ sáng lập ĐĐTKPĐ tôi có dịp đến học Đạo với Đức Cao Thượng Sanh vào cuối những năm sáu mươi của thế kỷ này. Khi biết tôi giữ Nhiệm Văn hoá BTĐ, Ngài nói rõ là: bí pháp Đạo Cao Đài ngoài Đức Phạm Hộ Pháp, Cao Thượng Phẩm và Ngài thì ít ai thấu rõ bổn nguyên nền Đại Đạo. Ngài nói: “Qua muốn các em phải làm sáng tỏ các nét chính của Đạo Cao Đài như dưới đây để tránh sự ngô nhận của người ngoại giáo”.
1 . Về tôn giáo : Ngài xác nhận Cao Đài là một tôn giáo bắt nguồn từ khoa học tâm linh của các Hội Thần Linh Học, Thông Thiên Học ở Tây Phương và nhất là phong trào xây bàn ở Châu Âu vào thế kỷ XX. Cho nên Đạo Cao Đài là nền khoa học tâm linh kết hợp với tư tưởng thần linh của Á Đông nói chung, hay nói riêng tư tưởng của Đạo Cao Đài chung đúc, mang xã hội tính Việt Nam qua nhiều triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần-Phật, Khổng, Lão và gần đây Thiên Chúa Giáo. Chính vì vậy, buổi đầu nhiều vị Hoà thượng, Yết Ma, nhiều vị theo Lão Giáo, Khổng Giáo gia nhập Đạo Cao Đài. Và chính những vị này khi viết sách cho Đạo mới,vô hình trung họ chỉ thấy bản sắc Đạo cũ của mình. Do đó làm cho khách ngoại Đạo càng khó hiểu Đạo nhà. Có người đi xa hơn cho Đạo Cao Đài là những mảnh vỡ của nền văn hoá Việt Nam được ghép lại. Người ta quan niệm sai lầm như vậy là tại ta chưa làm sáng tỏ bổn nguyên tư tưởng Đại Đạo.
Đức Thượng Sanh tiếp Bảo Học Quân  (Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc)

2 . Về việc thờ Thiên Nhãn : Ngoài bốn câu giải nghĩa của Đức Chí Tôn : “Nhãn thị chủ tâm…”, Thầy còn dạy thêm : “Chưa đến lúc các con hiểu được”. Qua được chỉ dạy : con mắt là cửa ngõ của tâm hồn. Mắt là cơ quan linh hoạt thích ứng với mọi hoàn cảnh. Do đó, mắt biểu thị sự uyển chuyển, bao dung. Còn trái tim là cấu trúc hoàn hảo tinh tế nhất của Đức Chí Tôn, chưa có bộ máy nhân tạo nào chạy liền từ 60 năm trở lên mà không hư hoại ngừng nghỉ như tim, chưa kể đến tính năng chịu đựng bền bĩ của nó. Do đó, tim biểu thị sự nhẫn nhục,chịu đựng và trường cửu.

Những tính chất uyển chuyển, bao dung, nhẫn nhục, chịu đựng và trường cửu là những đức tánh của mỗi tín đồ phải có.

3 . Việc thờ Đức Phật Mẫu : Đây là điểm đặc biệt của nền tân tôn giáo.

4 . Về kinh sách Đạo : Buổi ban sơ, ba vị Thiên sứ được lịnh Đức Chí Tôn, dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Vương Quan Kỳ (gốc người Hội Minh Lý tức Tam Tông Miếu) qua Hội Minh Lý xem cách hành lễ và thỉnh Kinh Tứ Thời mà thôi. Về sau có một số người thỉnh thêm bản Kinh Sám Hối, Xưng Tụng Thần, Thánh,Tiên, Phật…Việc này Thầy có dạy: “Tuỳ tâm một ít môn đệ, chớ Đạo Thầy không phải như vậy, không mê tín dị đoan”.

Đức Cao Thượng Sanh dạy thì nhiều, nhưng tôi chỉ có khả năng ghi lại bấy nhiêu ý chính. Ngài còn chỉ tôi tìm học Đạo với Bà Tư Đầu Sư và Ngài Trương Hiến Pháp. Còn việc viết tiểu sử Ngài thì đợi khi nào Ngài qui thì sẽ viết. Do đó, sách này viết lâu nhưng chưa in là vậy.
Kỷ niệm ngày Giỗ đầu của Đức Cao Thượng Sanh
TRẦN VĂN RẠNG
Đức Thượng Sanh giới thiệu một tân tín đồ Pháp.
CHƯƠNG I

MỘT NGƯỜI THANH LIÊM

Đức Cao Thượng Sanh quí danh là Cao Hoài Sang, sinh ngày 11/9/1900 tại xã Thái Bình, tỉnh Tây Ninh. Thân sinh là cụ Cao Hoài Ân, một vị Thẩm Phán đầu tiên tại Miền Nam, và thân mẫu là Bà Hồ Hương Lự (được ân phong Nữ Đầu Sư). Đức Ngài là con út trong gia đình có ba anh em. Người anh cả là Ngài Cao Đức Trọng. Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài và chị là Giáo Sư Cao Hương Cường (Giám đốc Cô nhi viện Tây Ninh).
Sau khi thi đỗ bằng thành chung, Đức Ngài vào làm việc tại Sở Thương Chánh (tức Quan thuế Sài gòn) cho đến chức Tham Tá Thương Chánh rồi hồi hưu. Thuở thanh niên, Ngài lập gia đình hạ sinh 9 người con, năm trai và bốn gái. Người con đầu lòng là Hiền tài Cao Hoài Hà và người con út là Cao Minh Tâm.

Trong thời gian làm viên chức, Ngài còn là một nhạc sĩ tài hoa của trường Quốc Gia Aâm Nhạc Saigon. Ngươn linh Ngài vốn là Lữ Đồng Tân thổi tiêu, một người thích tiêu dao với thiên nhiên cùng tiếng nhạc dìu dặt. Ngài đã mời nhiều đoàn nghệ sĩ về Thánh Địa diễn các vở tuồng do Ngài biên soạn được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt.

Suốt quãng đời làm viên chức Nhà nước, Đức Ngài nổi tiếng là thanh liêm dù làm nganh quan thuế có nhiều cám dỗ. Vào những năm 40 của thế kỷ này, nhiều du khách Việt Nam thường sang Pháp rồi về, trong số đó có một bà ở Đakao, từ Paris về Saigon có mang về nhiều hàng quí nhưng khai báo không rành, nên bị quan thuế giữ lại. Bà này được một người bạn của Đức Ngài giới thiệu và nhờ giúp đỡ. Ngài vui lòng chỉ dẫn thủ tục và lấy được kiện hàng êm xuôi. Vài hôm sau, Bà đó tìm đến nhà Ngài, có mang tặng Ngài một tượng Phật bằng đồng cao độ hai tấc. Ngài cảm ơn và nói rằng:
-Bà tặng cho tôi tượng Phật là điều hợp với lý tưởng của tôi đang theo. Nhưng một người đã quyết tụng Kinh niệm Phật thì trong lòng phải "rổng" sạch, tiền bạc không ham, danh lợi không màng.

Tượng Phật bằng đồng giá không đáng là bao nhiêu, nhưng trong ruộc nó, Bà kia đã để một cuộn tiền trong đó, vì Bà sợ đưa thẳng thì Ngài khó nói và chắc chắn Ngài không nhận. Tuy bà đã để tiền kín và trét đít tượng Phật lại, mà Ngài vẫn biết, từ chối một cách khéo léo. Bà kia phải xin lỗi và đem tượng Phật ra về.

Một lần kia, Ngài xét duyệt đơn khiếu nại của một số hồ sơ, trong đó có một đơn với lời khai không thành thật, nên ở giữa có kèm tiền. Ngài gọi đơn sự lại trả đơn và nhắn nhủ :

-Tôi làm "quan" cần hai tiếng thanh liêm, anh làm dân đối đãi với nhân dân cần hai tiếng thành thực, nếu giúp cho anh mà thiệt cho người khác thì lương tâm tôi không bao giờ cho phép, còn giúp cho anh có lợi khác mà không thiệt hại cho ai, tôi sẵn sàng giúp mà không cần sự cầu báo vì đạo người đã ghi tạc nơi lòng tôi như vậy.

Xem thế ta nhận rõ bản chất Ngài là người có tinh thần đạo đức cao độ, biết thương người, giúp đỡ người mà không cần người trả ơn. Những người bạn đồng thời với Ngài cùng làm quan thuế ai cũng nhà cao cửa rộng, riêng Ngài trước sau vẫn ở một hẻm tại đường Cô Bắc (Saigon), sống một cuộc đời đạm bạc thanh cao.

Bởi lẽ, Đức Ngài quan niệm rõ ràng về người tu sống giữa xã hội như vầy : "Người tu hành phải thành thật, nagy thẳng, trước là tự thành thật với mình, rồi mới có thể thành thật đối với bạn đạo và đồng loại … Người tu sĩ Cao Đài phải biết vì đời mà chịu khổ, thật thành chủ nghĩa vị tha, dám quên mình mới thực là xả thân cầu Đạo, đem đời sống hiến trọn cho Đạo và cho nhơn sanh". Sự quả quyết hy sinh do nơi lòng trắc ẩn trước mọi đau khổ thế gian. Tình thương phải được lan tràn vây kín đám nhơn sanh. Nhứt là đám dân bần hàn khốn khổ để thực hiện câu : đem đạo cứu đời, nếu thiếu lòng thương yêu, không làm được những điều Đức Chí Tôn dạy bảo.

"Bởi thế, luật thương yêu không phải một đề nghị, một ý kiến có thể chấp nhận hay không. Luật thương yêu là một thế mạnh linh thiêng mà chúng ta phải nhận lãnh vô điều kiện. Vì sự thương yêu đưa chúng ta đến gần với Đức Chí Tôn và sự ghét đưa chúng ta vào hàng tôi tớ của quỉ vương…"

"Thầy Tăng Tử xưa là một bậc hiền triết mà còn "Nhứt nhựt tam tĩnh ngộ thâu", tức là hằng ngày xét mình trong ba điều. Một là lo việc cho người không hết lòng bằng việc mình có thế chăng ? Hai là giao du với bạn bè mà đem lòng giả dối, có vậy chăng? Ba là nghe lời Thần dạy bảo mà hay lãng xao, có thế chăng ? Ước mong hằng ngày của ta chỉ xét mình một điều duy nhứt thì nên Đại Đạo lấy làm may mắn mà nhơn sanh cũng lấy làm hữu phước …"

Đức Phật Thích Ca dạy rằng : "Ngươi hãy tự kiểm ngươi". Theo ý Đức Phật thì ngươi hãy suy nghĩ và xét mình đặng biết mình là ai, mình thật biết mình rồi mới biết định giá trị của người khác. Thường người ta chỉ lo tìm kiếm những điều ở ngoài mình, chớ không tìm kiếm những cái ở trong con người của mình.

"Thế nên dây oan kết mãi, nghiệp chướng càng mang nặng, biết chừng nào mới tỉnh ngộ đặng phân bổn hườn nguyên ?" (Lời thuyết Đạo của Đức Cao Thượng Sanh đêm 23 tháng 12 năm Canh Tuất, DL : 19-1-1971) tại Đền Thánh.

Đức Ngài có quan niệm khắc khe với bản thân như vậy, vì dù còn ở thế, làm việc cho chính phủ mà trong thâm tâm lúc nào cũng nghĩ mình là hàng giáo lãnh của một tôn giáo, phải là tấm gương sáng.

CHƯƠNG II

NGỘ ĐẠO VÀ ĐẮC PHONG THƯỢNG SANH
(1925-1937)

Về việc xây bàn cầu tiên, xin lược trích trong Đạo Mạch Truy Nguyên của ông Huệ Chương như sau :
"Một ngày kia, lối hạ tuần tháng Juillet 1925, nhằm đêm thứ sáu, tôi thấy nào là chú tư tôi, chú tám tôi, là M. Phạm-Công-Tắc, anh con nhà bác họ của tôi là M. Cao-Hoài-Sang, và vài người bạn nữa, đến mời ông thân tôi đi chơi. Tôi hỏi M. Sang cho biết mấy ổng đi đâu, thì ảnh lại nói với tôi rằng:
- Đi sai bàn.
- Sai bàn là chi?
- Là cầu các Linh-hồn, về nói chuyện chơi.
Nghe ảnh nói vậy, tôi lấy làm lạ, liền nom theo mấy ổng, đặng coi làm thế nào cho biết. Đoạn mấy ổng, đều kêu xe kéo, vô nhà anh Cao-Hoài-Sang; rồi vầy nhau ngồi xung quanh một cái bàn tròn ba chưn, để nơi trước hàng ba, lại có chưng bình bông tươi tốt, và đốt nhang, sắp đặt trên một cái bàn nhỏ, để vựa vách kế đó.
Tôi cũng ngồi kề bên ông thân tôi, chừng mấy ổng biểu:" Lẵng-lặng định thần " thì mỗi người đều để hai tay úp lên mặt bàn, tôi cứ việc làm theo.

Giây lâu, tôi thấy bàn nghiêng qua bên chú tư tôi, chú lại rầy chú tám Tắc, mà biểu đừng xô, cứ ngồi cho tịnh. Bàn lại ngã qua phía ông thân tôi, ông lại rầy nữa! Cách một chập, coi bộ mấy ổng mỏi tay, nên thảy đều tan ra nghỉ hết.

Tôi có ý coi, trong mấy ổng, chưa ai thạo việc ấy cả, vì thấy cải lẫy nhau hoài; kẻ nói vầy người luận khác, phân phân bất nhứt.

Khi ấy, anh Cao-Hoài-Sang nói với mấy ổng rằng:" Mình cứ tịnh tâm, ngồi im điềm, chừng nào có vong nhập, thì chắc là họ gỏ chơn bàn, nghe cắc cắc chớ gì ". Nghe đến đó, tôi có hơi dùng mình, vì tánh tôi nhát.

Đến khi vầy nhau lại nữa, chú tư tôi ngồi xếp bằng trên ghế, tỏ ý rằng sợ hồn ma vào gỏ bàn, mà đụng cẳng, nên cả thảy đều rút chơn lên, kẻ chồm hổm, người xếp bằng, té ra mấy ổng cũng không dạn gì cho mấy!

Lúc ấy đã khuya, coi ông nào cũng mệt, phần thì muỗi chích chơn, hễ thò tay xuống gải, thì lại động, làm cho cái bàn không yên tịnh, lớp lại buồn ngủ. Chú tư tôi lại suy nghĩ, rồi luận rằng: " Thế khi chúng ta để trong nhà, nên các hồn ma không dám vào. Vậy khiêng bàn ra ngoài Trời trống trải, họa may họ mới nhập đặng ". Đoạn mấy ổng hè-huội áp nhau khiêng bàn ra sân. Ngồi một hồi lâu, bàn cũng cứ dở lên để xuống, làm cho mấy ổng rầy nhau, rồi cười hoài. Gặp lúc khuya, trời tối, muỗi lại cắn hơn nữa! Mấy ổng chịu đà hết nỗi, mới đành dẹp nghỉ, nhưng hẹn tối mai, sẽ hiệp nhau, làm cho hết ý. Ai nấy đều vui chịu, liền từ giã nhau ra về.

Qua đến mai, gặp nhằm thứ bảy, lối chín giờ, thảy đều tựu đến đủ mặt, cũng sửa soạn như bữa trước, rồi vầy nhau lại ngồi chung quanh, để tay úp trên mặt bàn. Nhưng nay, chú tư tôi lại dặn, phải sè bàn tay ra, hai ngón tay cái của mỗi người đều đâu đầu lại, rồi ngón tay út, của người khác, làm cho có thế, các bàn tay liền nhau trọn cái vòng bàn. Mấy ổng nghe theo. Tịnh một chập, bàn dở lên cao, ngả vào góc tường. Rủi cho chú tám tôi, ngồi phía trong kẹt, làm cho chú tưởng rằng, anh Cao-Hoài-Sang, đương ngồi ngang mặt, cố ý muốn cợt chơi, nên chú la um- sùm rằng:
- " Sang! Sang! Đừng phá mầy, chơi giống gì kỳ quá, mắc kẹt tao sao mậy! Ráng ngồi tử-tế coi mà!

Ai nấy thấy vậy, đều cười rộ lên, mặt bàn nghiêng lại như cũ. Chú tư tôi liền năn-nỉ với mấy ổng, xin đừng giỡn, để ý ráng làm cho tận-tâm coi thế nào cho biết. Khi nghe chú tư tôi nói dứt lời, thì thảy đều ngồi lẳng-lặng. Chú tư tôi thường hay có tánh giả ngộ, hễ nghe bàn cục-kịch, lại trợn mắt, ngó mấy ông kia. Tôi dòm thấy, ai ai cũng sợ cả, lại áp nhau cười rộ lên nữa! Làm như vậy, đã trót vài giờ, mà bàn cũng cứ dở lên để xuống mãi; mà hễ thấy vậy, thì mấy ổng lại rầy nhau, tưởng rằng tại người xô mà thôi.

Chừng tịnh lần nầy, cả thảy ngồi im điềm; thoạt nhiên, bàn dở lên gỏ lia gỏ lịa. Mấy ổng cũng cho là nội bọn phá, bèn hỏi thăm nhau. Ai nấy đều tỏ rằng, cả thảy đều để thật lòng mà thử cho hết sức, nên không xô đẩy chi; ấy là bàn diêu-động tự nhiên. Khi đó, người thì nói tê tay, kẻ lại nghe rần điển. Trong cơn mấy ổng hỏi nhau, bàn dứt gỏ, nhưng cũng còn linh-chinh, dường như có sự sống vậy. Chừng nghi rằng có vong nhập, thảy đều kinh tâm; mấy ổng lụi-đụi, không biết phương chi mà thông-đồng với vong đặng.

Chú tư tôi liền dặn mấy ổng để như cũ, đừng ai lấy tay ra khỏi bàn, mà làm xao động, e vì vong xuất ngoại. Dứt lời, chú tư tôi lại nói với vong rằng:
- Xin khoan đi, để cho hỏi ít lời... Bây giờ chưa kiếm đặng thế nào cho hiểu nhau, thì duy cứ gỏ hai, nghĩa là: Ừ chịu, có hoặc phải (Oui). Còn gỏ một là: Không, hay là chẳng phải (Non).

Vong tiếp gỏ hai: Tỏ rằng chịu theo lời dặn.

Đoạn chú tư tôi liền ngụ ý, rồi nói với vong như vầy: Ta hiểu theo đây, thì có thể nói chuyện với nhau tiện hơn. Nếu tôi hỏi chi, muốn trả lời lại, cứ tùy theo vần Alphabet quốc-ngữ mà gỏ, mỗi chữ mỗi gỏ, đến chữ nào dùng thì ngưng lại, nghĩa là lấy chữ chót; rồi bắt đầu trở lại mà nối chữ khác, xong rồi sẽ ráp lại mà đọc, giống như điệu dây thép vậy.

Vong liền gỏ hai ( Ừ chịu ).

Hiểu nhau rồi, bàn gỏ, chú tư tôi khởi đọc. Nhưng sự chi cũng vậy, lúc đầu sao cũng lộn-xộn năm bảy phen, đọc cho đến hết hai mươi mấy chữ vần, mà cũng còn gỏ mãi. Tức mình, chú tư tôi cắt nghĩa lại một lần nữa. Thật lấy làm tội nghiệp cho vong quá, lại cũng thương cho mấy ổng, vì muốn thấu đáo, nên ráng chịu khó đến cùng. May sao, lối mỏn hơi rồi, chú tư tôi đọc từ a, ă, â, b, c, d, đ ........... tới chữ L thì dứt gỏ. Chú tư tôi dặn M. Cao-Hoài-Sang nhớ chữ ấy, đủ rồi sẽ chép lại. Đoạn bàn tiếp gỏ quận thứ nhì. Chú tư tôi đọc a, ă, â, b, c, d, đ, ........... cho đến chữ Ư, bàn ngừng lại rồi cũng cứ nối điệu theo như trước, cho đến khi ráp đặng ba chữ: " Lượng- Cao-Quỳnh ".

Khi tiếp đặng mấy chữ ấy rồi, thì mấy ổng hớn-hở vui cười. Dứt tiếng, chú tư tôi suy nghĩ rồi nói rằng:" Như phải là Cao-Quỳnh-Lượng, thì chắc biết mấy người ngồi đây; vậy cứ nói tên mỗi người coi có trúng chăng?"

Vừa dứt lời bàn gỏ, chừng ráp nguyên chữ thì thành ra tên: Diêu, Cư, Tắc, Sang, Đức, Thân, Nguyên, thảy đều rộ cười lên, còn cái bàn thì hỏng lên một chưng, lắc qua, lắc lại, dường như cũng cười theo vậy.

Khi ấy, ông thân tôi tiếp hỏi Lượng rằng:
- Con có ở hầu ông Nội chăng?
- Có.
- Mời ông Nội đến đây, tiện không?
- Đặng.

Dứt lời, thì bàn dở lên rồi để xuống, không còn diêu-động như khi nảy nữa. Chú tám tôi nói rằng: " Bộ khi nó đi rồi ". Nghe vậy, mấy ổng đều dan ra nghỉ hết. Chừng ấy, tôi có ý coi thì thấy ông nào ông nấy, cũng lấy làm lạ, mà nhứt là ông thân tôi, với chú tư tôi. Vì tự ấu chí trưởng, hai người không tin chi hết, cho kiếp chết là mất rồi, chẳng tin là có hồn. Nay lại thấy điều lạ kỳ như vậy, thì hai ổng ngồi nhìn nhau, tình hình như trời đã hé cửa cho mấy ổng dòm, thấy đặng sự bí-mật vậy.

Cách nữa giờ, vầy nhau ngồi, để tay lên, cũng tịnh như trước; kỳ nầy mấy ổng có màu kiêng dè, không dám cười giỡn nữa! Đoạn bàn gỏ. Chú tư tôi tiếp đặng chữ, ráp lại như vầy:" Cao-Quỳnh-Tuân "

ƒy là tên của ông Nội tôi, cả thảy đều đứng dậy xá, rồi ngồi xuống. Ông thân tôi hỏi sơ ít điều đã qua rồi, kế chú tư tôi tiếp nói rằng:" Vì buổi thầy quá vãng, anh em con vẫn còn nhỏ dại, cho đến đỗi, anh của con đã trộng, còn không nhớ đặng hình ảnh của thầy, huống chi là con còn nhỏ quá. Duy buổi lớn khôn, nghe người truyền ngôn lại cái hạnh đức của thầy mà thôi. Nếu có thể tiện, xin thầy dùng dịp nầy, cho anh em con một bài thi tự thuật, hầu để rọi truyền ngày sau, cho con cháu làm kỷ niệm ". Ông nội tôi chịu cho, liền tiếp đánh ra bài thơ như vầy:

Ly trần tuổi đã quá năm mươi,
Mi mới vừa nên ước đặng mười.
Tổng mến lời khuyên bền mộ chép,
Tình thương câu dặn gắn tâm đời.
Bên màng đòi lúc trêu hồn phách,
Cõi thọ nhiều phen đặng thảnh thơi.
Xót nỗi vợ hiền còn lụm cụm,
Gặp nhau nhắn nhủ một đôi lời.

Khi làm đến câu chuyện, thì cả thảy đều nao lòng, rưng rưng nước mắt; chừng qua câu kết, thì ông thân tôi, chú tư tôi, và chú tám Tắc, vùng khóc lớn lên một lượt; còn mấy ông kia với anh Cao-Hoài-Sang thấy vậy cũng mủi lòng khóc theo. Lúc đó, đâu cũng hai giờ khuya, lối xóm nghe khóc rùm lên, vài nhà lân cận đến dòm, thấy việc kỳ quái quá, thì họ đứng coi một hồi, nhưng không hiểu chi, họ đều lui về nhà ngủ hết.
Dứt bài rồi, thì ông nội tôi tiếp mấy chữ: " Thầy xin kiếu ", đoạn bàn dở lên cao, rồi để xuống nhẹ hễu, không còn hơi động địa như khi trước nữa. Mấy ổng nói:" Đi rồi, đi rồi ". Khi ấy mấy ổng xúm nhau đem vô đèn, chép mỗi người một bài, coi đi đọc lại rồi trầm-trồ khen mãi. Thấy vậy, tôi cũng để chút lòng tin, song chưa hiểu rõ cái huyền-bí ấy là thế nào. Còn ông thân tôi, chú tư tôi cùng mấy ổng vầy nhau, bàn luận truy kiếm cho biết vì đâu mà hóa ra chuyện lạ ấy. Tôi có ý coi, ông nào cũng ngơ-ngơ, ngáo-ngáo, chớ tìm không ra mối.

Ai nấy đều lui về nghỉ, duy có ông thân tôi chẳng chịu về nhà. ˜ng theo chú tư tôi, mà thức luôn trót đêm, cứ đọc đi đọc lại bài thi ấy lại hoài, rồi bàn bàn, luận luận, suốt luôn cả ngày chúa nhựt nữa! Ngồi đâu cũng nói có bao nhiêu đó mà thôi. Thậm chí cho đến buổi cơm, mà ổng cũng ở luôn, mà dùng với chú tư tôi. Hai ông ngồi phân phân với nhau, cho đến mệt lũi, rồi nằm dài trên ván, mà cũng còn nói nói. Riết cho đến khi ngủ mòm, hồi nào tôi không hay, chừng ngó lại, thấy đồng hồ gần bốn giờ xế chiều, tôi mới về nhà mà nghỉ.

Lật bật, kế bảy giờ tối, ông thân tôi về kêu tôi dậy, hối dọn cơm ăn, đặng hiệp nhau, đi vô anh Cao-Hoài-Sang nữa. Lần hồi, kẻ trước người sau, lối chín giờ rưởi, thảy đều đủ mặt; rồi thì cũng vầy nhau lại xung quanh cái bàn, đốt nhang lên. Đêm nay coi mòi mấy ổng sửa soạn đoan trang hơn bữa trước lắm.

Tôi cũng bước lại, ngồi kề bên ông thân tôi. Cách chẳng bao lâu, bàn dở lên đánh chữ, ráp vần lại như vầy:" Thác vì tình ". Nghe đến đó, thảy đều rỡn ốc. Chú tư tôi bèn hỏi vong ấy tên chi? Đàn ông hay đàn bà? Trả lời rằng:" Đoàn-ngọc-Quế, con gái ".

Tên họ đều trùng, mà chữ lót cũng giống tên họ của một người bạn thiết với ông thân tôi, đương ngồi kề bên chú tám Tắc đó. Mấy ổng đều ngó M. Quế cười rộ lên. Đoạn chú tư tôi nói với vong ấy, xin một bài thi tự thuật.

Vong chịu, liền khởi đánh ra như vầy:
Nỗi mình tâm sự tỏ cùng ai,
Mạng bạc còn xuân uổng sắc tài.
Những ngỡ trao duyên vào ngọc các,
Nào dè phủi nợ xuống tuyền đài.
Dưỡng sinh cam lỗi tình sông núi,
Tơ tóc thôi rồi nghĩa trước mai.
Dồn-dập tương-tư oằn một gánh,
Nỗi-niềm tâm-sự tỏ cùng ai.
                                                           Ký tên: Đoàn-ngọc-Quế

Xong bài thi rồi thì mấy ổng trầm trồ, người cho rằng, câu văn thanh tao; kẻ nói trạng luận đối rất chỉnh. Nhưng vì nghi cho nàng ấy dối tên, nên chú tư tôi để lời mời nàng, năng đến chuyện vãn chơi cho thường, hầu hỏi cho biết rõ căn cội, nàng khứng chịu. Từ ấy, mỗi đêm đều qui tựu nơi nhà anh Cao-Hoài-Sang. Trót tuần lễ, khi thì ông thân của anh Cao-Hoài-Sang về, lúc thì chú ách Đồng, là anh ruột của chú tám tôi, về mà chuyện vãn. Mấy ổng hỏi nhiều việc đã qua rồi, các vong cũng đều trả lời trúng hết, nhưng tôi coi ý mấy ổng chưa có lòng tin cho lắm. Cả thảy đều cho là một việc chơi cho tiêu-khiển, nên mỗi đêm mấy ổng đều có tựu nhau, vui chơi bao nhiêu đó thôi. Lâu ngày, vì thức quá mà mỏn lần hồi, rốt lại còn có sáu người là: ông thân tôi, chú tư Cư, chú tám Tắc, anh Cao-Hoài-Sang, Nguyễn-tải-Thân và tôi mà thôi.
Một buổi tối thứ bảy kia, nhằm tối thượng tuần tháng Aout 1925, ba ông hiệp nhau chơi, còn ông thân tôi, vì mắc việc nên vắng mặt; còn tôi với em tôi, thì cứ theo chú tư tôi. Bữa ấy, có cô Đoàn-ngọc-Quế về bàn, đàm luận một hồi, rồi ba ổng xin kết anh em với cô. Cô bằng lòng, bèn kỉnh:
Chú tư tôi là Trưởng-ca,
Chú tám Tắc Nhị-ca.
Anh Cao-Hoài-Sang, Tam-ca,
Phần cô, thì Tứ-muội.

Còn hai anh em tôi, cô kêu bằng em cả, đoạn cùng nhau trò chuyện. Lần hồi, chú tư tôi vì nghi cô trá tên, nên năn-nỉ hỏi cô cho đến cùng. Cô liệu khó giấu, nên tỏ thiệt là: V.T.L.
Chú tôi hỏi thăm mồ mả, cô cũng chỉ rõ. Rạng ngày, ba ông dẩn nhau đi tìm đặng nhà mồ của cô, rất nên đẹp đẽ, gần nơi Phú-Thọ, rõ ràng có tên tuổi cô, đề trên mộ bia. Khi kiếm được rồi, mấy ổng mừng rỡ chẳng xiết, bèn đứng trước mộ, khấn vái với cô, xin theo về nhà ông thân tôi nói chuyện chơi, có ý thử coi ban ngày, chư vong có thế nhập bàn đặng chăng?

Khi ba vị về đến nhà lối 9 giờ ban mai, thuật chuyện tìm đặng mả của cô lại cho ông thân tôi hay, đoạn đem bàn ra mà cầu cô. Thật quả, có cô đến đàm luận, rồi nhìn cái mộ mà ba ông đã đến viếng, là nơi xác của cô an nghỉ đời-đời kiếp-kiếp.

Kể từ mấy ổng hiểu đặng chút ít trong việc mầu nhiệm của Trời Đất, lại có thế cầu chư vong trong buổi bạch nhựt, thì mấy ổng càng hứng chí hơn nữa. Ngày đêm không kể đến sự mệt nhọc, ông thân tôi, thì hiệp với anh Cao-Hoài-Sang, nơi nhà tôi mà chuyện vãn với chư vong, còn chú tám với chú tư tôi, thì vầy nhau nơi nhà chú tôi, cũng trong một con đường Boudais, hai cái nhà ở ngang, trịch nhau chừng vài căn phố.

Từ ấy, mấy ông đã chia nhau hai bên hằng ngày hằng đêm kiếm tìm về việc huyền-bí, mà học hỏi với nhiều vị khuất mặt. Cách ít lâu, có hai vị Tiên-trưởng đến làm thi văn, bên chú tư tôi thì ông Thanh-Sơn, còn bên ông thân tôi, lại có ông Nhàn-Âm Đạo, cả hai nhà đều đặng mỗi bên, mười bài thi (Thập-thủ-liên-hườn) khác nhau.

Một đêm kia, nhằm lúc bốn ông hiệp lại, lập bàn hương-án, khẩn cầu Đức Tả-Quân. Người đã có lòng thành, nên Ngài cũng giáng vào, đề một bài thi, nhưng lâu ngày tôi đã quên phức.

Lại có đêm nọ, mấy ổng vầy lại, vừa ngồi vào bàn, thì có cô V.T.L. đến giáng, cô lại trình diện một người chị em theo với cô, xin vào ra mắt mấy ổng. Cô nói rằng, vị nầy thi-phú cũng hay lắm! Mấy ổng mừng rỡ, bèn mời tân khách giáng vào.

Đoạn người ấy tiếp vô xưng rằng:
- Em là Hớn-Liên-Bạch, xin hiến một bài thi, ra mắt mấy anh, song xin mấy anh chớ nệ chi về văn chương hay dở.

Anh Cao-Hoài-Sang liền tiếp rằng:
- Tôi vừa nghe cô Vương nói rằng, thi văn của cô rất hay; vậy tôi xin ra đề.(Ý M. Cao-Hoài-Sang chưa tin cho mấy, e vì mấy ông kia bịa đặt mà giả mạo gạt ảnh.)
Cô liền khứng chịu, anh Cao-Hoài-Sang ngồi suy nghĩ rồi ra đề: " Tiển biệt tình lang ".

Cô tiếp dở bàn gỏ, không ngừng chút nào cả. Mấy ổng ráp lại bài thi như vầy:
Chia gương căn dặn buổi trường-đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rẽ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thinh.
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Đêm bặt đèn khuya một bóng nhìn.
Lần lựa cô phòng xuân thỏn-mõn,
Xa xui ai thấu nỗi đinh-ninh.

Dứt bài thi, mấy ổng rộ lên khen cô rằng: " Văn thiệt là quáng thế!"
Lại xin cô tiếp một bài nữa, lấy đề " Hoài-Lang " mà làm. Cô chẳng suy nghĩ chi, cứ đề một bài rằng:
Động-đình nhớ buổi tạm chia đường,
Bốn giọt nhìn nhau lối rẽ cương.
Trời thảm mây giăng muôn cụm ủ,
Biển sầu nước nhuộm một màu thương.
Cờ thần chạnh lúc vầy đôi bạn,
Tiệc ngọc nào khi hội nhứt trường.
Mượn vận lương-nhân xin nhắn-nhủ,
Vườn xưa tiếng nhạn luống kêu sương.

Thật là tuyệt bút! Mấy ổng khen ngợi chẳng cùng; nhờ nơi đây, mà phục đặng lòng tín-ngưỡng của mấy ổng chút ít nữa.
Khi khác mấy ổng lại kiếm nhớ những bạn tác nào, lúc còn sanh tiền, biết làm thi mà mời về, đặng thử nữa! Đoạn nhớ đến M. Huỳnh-thiên-Kiều, là người buổi sống giúp việc sở tuần thành, bổ vào dinh Đốc-lý Sàigòn, coi về sở Patentes. Người ấy, còn ai ở Sàigòn mà chẳng biết, khi ở thế có nhập vào Hội-Thi-Xã. Mấy ổng bèn vái tên họ của M. Huỳnh-thiên-Kiều. Trong giây lát, nhập vào bàn đề thi rằng:
Nhắn-nhủ mấy anh một ít lời,
Làng mây hồn trẻ đã xa chơi.
Mẹ già nỗi hiếu chưa rồi đạo,
Vợ yếu niềm duyên chẳng trọn đời.
Chạnh nhớ quê xưa lòng xót-xáy,
Buồn trông cảnh cũ dạ bời-bời.
Ai về gởi lại tình sông núi,
Kiếp khác ân sinh sẽ đáp bồi.
                                                           Ký tên: Huỳnh-thiên-Kiều tự Quí-Cao

Ngày kế đó, M. Nguyễn-trung-Hậu, nguyên là một người bạn trong Thi-Xã-Hội với M. Huỳnh-thiên-Kiều vì thấy bài thi bữa trước, cũng có ý không tin; nên ngày sau, M. Hậu làm một bài đem đến. Khi đem bài thi đến, vái rồi đốt, đoạn mấy ổng vầy nhau lại ngồi, cầu M. Huỳnh-thiên-Kiều. Trong giây lát, M. Huỳnh-thiên-Kiều vào tiếp họa bài thi như vầy:
Một tiếng u-minh giống cửa không,
Phồn hoa vụt tỉnh giấc đương nồng.
Ngồi thuyền Bát-nhả qua tình biển,
Mượn nước nhành-dương tưới lửa lòng.
Cuộc thế lạnh-lùng lằn gió lọt,
Đường đời ngán-ngẩm bụi trần lồng.
Kiếp tu xưa tiếc chưa nên Đạo,
Oan trái phủi rồi phép Phật thông.
                                                                                  Ký tên: Quí-Cao

Gặp lối mấy ông đương mê thi-văn, lại có người tuyệt-bút, đến giáng vào đề một bài:
Vịnh Xuân
Ngàn liễu khoe xuân cảnh rỡ màu,
Xuân nồng vườn ngự vẻ thanh tao.
Chào xuân ác lố trăm lằn rạng,
Ghẹo liễu trăng soi một sắc làu.
Thơ-thới cành hôm, hoa đọng ngọc,
Êm-đềm dạo tối, cỏ đeo châu.
Đượm bầu nhân sự xuân qua lại,
Khuất bóng xuân sang khách luống sầu.
                                                                                  Hớn-Liên-Bạch kỉnh hiến.

Hằng đêm, hằng có chư-vị đến, mấy ổng thử cũng hết sách, mà cũng nhờ vậy, mới phục đặng lòng của mỗi người. Như có một buổi, anh Cao-Hoài-Sang buồn, đề một bài thi Tự-thuật, có ý than thân trách phận, sao lăn-lóc với tình đời, tuy tuổi chưa bao nhiêu mà đã mòn-mỏi. Ảnh đem ra nhà cho ông thân tôi coi, và cũng muốn để cho mấy ổng họa lại chơi cho vui. Nói chuyện với nhau rồi lẩn-quẩn cũng cầu chư-vị nữa! Vào ngồi trong năm phút đồng hồ, thì có ông thân của ảnh, là bác Cao-Hoằng-Ân giáng đến. Thuở bác còn sanh tiền, làm việc Tòa-Án, lại cũng có đổi đi vùng miệt Tây-ninh, Bạc-liêu, và nhiều chỗ khác nữa. Rốt sau, lại về ở Sàigòn rồi mới quá vảng, tôi tưởng nhiều người biết bác lắm. Khi ấy, chú tư tôi thưa với bác rằng: Sẵn dịp anh về đây, nhằm lúc Sang làm một bài thi tự-thán, cậy mấy anh em tôi họa, vậy anh họa chơi luôn thể. Ông thân tôi lại nói, anh cứ việc đề thi, dạy nói thế nào, thì anh định lấy, nhưng tùy theo vận của Từ-Thứ, mà lâu nay làng thi chịu phục là: Voi, mòi, còi, roi, thoi mà làm. Dứt lời, bác Cao-Hoằng-Ân tiếp liền, chẳng đợi phút nào cả. Bài thi như vầy:
Thuyền khơi gió ngược khá nương voi,
Vận thới hầu nên đã thấy mòi.
Vườn cúc hôm nay muôn cụm rỡ,
Rừng tòng buổi trước một cây còi.
Hồng nương dặm gió chi sờn cánh,
Ngựa ruổi đường hòe há nhọc roi.
Nín nẳm chờ qua cơn bĩ cực,
Thìn lòng chừng có lượng đôi thoi.

Vừa tiếp bài thi ấy, mấy ổng trầm trồ chưa hết, kế gặp vị Đại-Tiên nầy, giáng đề một bài:
Chiêu tập hồn thi bước Đạo điều,
Non xưa chớp cánh nhạn trông theo.
Trời thanh khách gắng lần qua suối,
Đêm rạng trăng soi lướt khỏi đèo.
Mây khỏa đãnh Tần màu gió cuộn,
Thuyền khơi sông Bích cánh buồm treo.
Giang-san một dãy nền chung dựng,
Biển cả chi nao ít mái chèo. "

Xem thế từ những bài thi tình tứ , đấng vô hình lần đưa các ông vào đường Đạo. Những sự kiện này được Đức Cao Thượng Sanh xác nhận như sau :
“Trước thời kỳ chức sắc Hiệp Thiên Đài được lịnh dùng Đại Ngọc Cơ trong việc truyền giáo, thì chỉ là một giai đoạn chơi giải trí của ba vị, cùng kết bạn đồng tâm để vui thú cầm thi trong khi nhàn rỗi.

Cuộc chơi giải trí từ đó là việc “Xây bàn “ và ba vị nói trên chính là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang. Vốn là các nhà thi sĩ chất chứa nơi tâm nỗi căm hờn vì nước nhà bị đô hộ, ba vị này mượn thú xây bàn, mời vong linh những người quá vãng để cầu hỏi về vận mạng tương lai của tổ quốc, hoặc làm thi, hoặc xướng hoạ chơi cho tiêu khiển.

Lúc sơ khởi gặp nhiều khó khăn, vì trong đêm đầu ba vị đốt nhanh khấn vái, ngồi để tay trên bàn từ 9 giờ tới 2 giờ khuya mà không có kết quả chi hết; cố tâm nhẫn nại ba vị ngồi thêm đêm thứ nhì (nhằm ngày 26 tháng 7/1925) thì đúng 12 giờ khuya có một vong linh nhập bàn, gõ chữ ráp thành bài thi Đường luật.

Thấy sự hiển linh và huyền diệu trong sự tiếp xúc với cõi vô hình, ba ông tích cực say mê việc xây bàn đêm nào cũng hợp nhau ngồi cho tới 3 hoặc 4 giờ sáng.

Từ đó đến sau thì các vị Tiên Thánh thường nhập bàn, khi thì cho thi phú hoặc luận về vận mạng nước nhà, đánh trúng chổ yếu điểm tâm hồn ba ông, khiến cho cả ba đều ngây ngất trong niềm vui sướng.

Tiếp được bài thi nào hay thì khi dứt cuộc xây bàn ba ông nán lại : hai ông rao đờn, một ông nhâm nhi, rồi cùng nhau mượn chung rượu để gợi hứng niềm hoài cảm. Nhờ chơi xây bản mà ba ông Cư, Tắc, Sang học hỏi đạo lý trao dồi trí thức cho tới ngày Đức A-Ă-Á dạy ba ông vọng Thiên bàn ngoài sân quỳ giữa trời mà cầu đạo” (Đạo sử I, trang )

Đến ngày 3.8.1925 (15.7.Ất Sửu) các ông thiết đàn xây bàn được cô Quế báo tin có một Đấng đến tiếp xúc
THI
Ớt cay, cay ớt gẫm mà cay
Muối mặn ba năm muối mặn dai
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ăn bòn chẳng chịu tấp theo ai
A Ă Â

Ngài Phạm Công Tắc nghe dứt bài thơ lấy làm khó chịu, Ngài Cao Quỳnh Cư hiểu ý liền nói với Ngài rằng:
- Ậy, em ngồi lại cho qua hỏi, vị này không phải tầm thường đâu em.
Ngài Cao Quỳnh Cư liền hỏi :
- Ông A Ă Â mấy chục tuổi ?

Đấng A Ă Â gõ bàn hoài không ngừng, đếm đến mấy trăm cái cũng không thôi. Ông Cư sợ không dám hỏi nữa.
Tròi trọi mình không mới thiệt bần
Một nhành sen trắng náu nương chân
Ơû nhà mượn đám mây xanh kịt
Đỡ gót nhờ con hạc trắng ngần
Bố hoá người đời gây mối đạo
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân
Chừng nào đất dậy trời thay xác
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.

Đến ngày 18.8.1925 (1.8.Ất Sửu), Cô Đoàn Ngọc Quế giáng bàn, các Ngài hỏi rằng :
Em còn có chị em nào nữa biết làm thi xin cầu khẩn đến dạy ba anh em qua làm thi.

Cô Quế nhịp bàn trả lời : “Có chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương, Nhứt Nương làm thi hay lắm” và cô lại thêm : “Ba anh muốn cầu thì ngày đó ba anh phải ăn chay mới cầu được”.

Đến ngày 25.8.1925 (8.8.Ất Sửu) Đấng A Ă Â giảng dạy ba ông, vào rằm tháng 8 đó, thiết tiệc chay thỉnh Đức DIêu Trì Kim Mẫu và chư vị Cửu Nương đến dự. Đúng ngày ước hẹn, các Ngài xây bàn, Đấng A Ă Â giáng cho thi, rồi đến Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên Nương. Riêng bà Lục Nương thì giáng cho thêm một bài (Xem Đại Đạo Sử Cương quyển 1. 1970 trang ) và mời ba Ngài làm thi liên ngâm

Lục Nương :
Trót đã đa mang cái nợ đời
Gánh đời nặng lắm khách trần ơi

Cao Quỳnh Cư :
Oằn vai thần đạo non sông vác
Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.

Phạm Công Tắc :
Thương hải tang điền xem lắm lúc
Công danh phú quí nhắm trò chơi

Cao Hoài Sang :
Ở đời mới hẳn rằng đời khó
Khó một đôi năm dễ khó đời

Lục Nương :
Ở thế sao chê tiếng thế buồn
Buồn vui hai lẽ lấy chi đong

Cao Quỳnh Cư :
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng

Phạm Công Tắc :
Chiếc bách dập dồn dòng bích thuỷ
Phồn hoa mờ mịt giấc quỳnh lương

Cao Hoài Sang :
Bờ đương chừ đặng phong trần rảnh
Quảy gánh thơ đàn dạo bốn phương

Nhờ tình thân mật đó, Lục Nương cho ba vị biết cô Đoàn Ngọc Quế là Thất Nương Diêu Trì Cung.
Việc xây bàn của các Ngài lan rộng trong nhân quần, kẻ hiếu kỳ đến xem, người không tin muốn thử coi chân giả. Một phật tử hỏi Đấng A Ă Â làm thế nào để phân biệt thật giả. Đấng A Ă Â nhịp bàn cho thi :
THI
Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường
Chẳng để mũi gần chẳng biết hương
Hiền ngõ rủi sanh thời bạo ngược
Dầu trong Thánh đức cũng ra thường

Người Phật tử ấy lại hỏi tiếp : “Làm sao biết được chánh tà?” Đấng A Ă Â đáp :
THI
Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà
Chánh tà hai lẽ đoán sao ra
Sao ra Tiên Phật, người trần tục
Trần tục muốn thành phải đến ta

Sau đó, có nhiều nhân vật tò mò đến tìm hiểu hư thực việc xây bàn thỉnh Tiên như các ông Nguyễn Trung Hậu, Trương Hữu Đức, Lê Thế Vĩnh, Phạm Minh Kiên lần lượt đều là đệ tử Đấng A Ă Â.

Đến ngày 12.12.1925 (27.10.Ất Sửu) Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng dạy:
“Mùng 1 tháng 11 này tam vị đạo hữu Vọng Thiên Cầu đạo”. Ba Ngài không hiểu cầu đạo là thế nào, nên xây bàn mời Thất Nương đến hỏi, Thất Nương nhập bàn đáp : “Không phải phận sự của em”.

Các Đấng khác cũng không chỉ rõ mà bảo hỏi ông A Ă Â.
Ngày 30.10.Ất Sửu (15.12.1925) đấng A Ă Â giáng dạy : “ngày mồng 1 tháng 11 này (16.12.1925) tam vị phải Vọng Thiên Cầu Đạo, tắm gội cho tinh khiết, ra quỳ giữa trời cầm chín cây nhang mà vái rằng : “Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang vọng bái Cao Đài Ngọc Đế ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà quy chánh”.

Các Ngài chưa rõ Cao Đài Ngọc Đế là ai, nhưng được lịnh ơn trên dạy bảo phải làm theo. Trong lúc ba ngài Vọng Thiên Cầu Đạo, ngoài đường kẻ qua người lại dập dìu, họ hiếu kỳ dừng chơn lại coi ba ngài cúng vái ai mà quỳ ngoài sân. Bỗng đâu thi sĩ Bồng Dinh đến vịn cái bàn, chỗ ba ngài quỳ mà ngâm thi. Mọi người đến coi càng đông hơn. Nhưng các Ngài cũng tâm nguyện chờ cho chín cây nhang tàn mới vào nhà, đoạn thiết đàn cầu Ngọc cơ.

Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng cho thi :
THI
Thiên đàng nhứt thế biến lôi âm
Tận độ chúng sanh thoát tục phàm
Chánh giáo phát khai thiên thế mỹ
Thâu hồi hiệp nhứt đạo kỳ tam
                                                                       Cao Đài Thượng Đế

Vọng niệm phân thuỳ sự sự phi
Cá lý thiên tâm thường thế nhân
Thiên tâm tu hướng cá trung cầu
Quân vấn thiên tâm mạc thi tường
                                                                       Cao Đài Thượng Đế

Các Ngài không thông suốt được các bài thi, nên thỉnh đấng A Ă Â xin giải nghĩa. Được giải như vầy :
“Ngọc Hoàng thượng đế là trời, viết là dạy rằng Cao Đài chỉ nho giáo, Tiên Ông chỉ đạo giáo, Đại Bồ Tát Ma Ha Tát chỉ Thích giáo, giáo đạo Nam Phương là dạy đạo phương Nam. Nghĩa là trời giáng trần qui Tam giáo : Nho, Thích, Đạo dạy đạo ở phương Nam”

Bài sau dịch ra từng chữ một :
“Cầu ước, phân thửa, việc việc, chẳng phải
Nơi, lẽ, trời, lòng, thế nhịn
Trời, lòng, tua, ngó theo, nơi, giữa, khẩn
Bây, hỏi, trời, lòng, biết, rõ”.
            Nghĩa xuôi :
            “Việc cầu ước đều chẳng phải
            Mỗi lẽ do lòng Trời phải đợi lịnh
            Lòng trời tua ngó theo mỗi việc đều cầu khẩn
            Bây hỏi lương tâm chưa biết rõ sao ?
            Lòng trời : Consciense”

Ta thấy rằng Đức Cao Đài có thái độ khác hẳn lúc đầu mới dạy Đạo mang thú vui tao nhã, muốn các thiên sứ của Ngài phải tu học nhiều hơn nữa, như các bài dưới đây :
Mừng thay gặp Đạo Cao Đài
Bởi Đức ngày xưa có bữa nay
Rộng mở cửa răn, năng cứu chuộc
Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai
                                                           A Ă Â

Tưởng nên nhắc lại là sau ngày Hội Yến Diêu Trì Cung (15.8.Ất Sửu) để tiện bề học hỏi Đạo Trời, các ông tác ra làm hai nhóm : bên các ngài Cư, Tắc thì cầu Ngọc Cơ, bên các ngài Diêu, Sang thì vẫn xây bàn. Thật ra thì ngài Cao Quỳnh Cư chỉ cầu Ngọc Cơ khi có lịnh ơn trên, còn thường thì cũng xây bàn.

Bên các ngài Cư, Tắc thì được Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cho 10 bài liên hoàn giải đáp về tình hình đất nước. còn bên các ngài Diêu, Sang thì được đức Nhàn Âm đạo trưởng, Quan Thánh, Tiên cô Thanh Tâm Tài Nữ dạy đạo đượm màu sắc triết lý như sau đây :
Mượn nguồn đạo đức khoả màu trần
Luyến thế ngày qua khó kịp xuân
Bên khổ trương buồm thuyền đợi khách
Non tiên trở cánh hạc chờ xuân
Xuân mờ mịt bao nhiêu cảnh ủ
Cụm rừng tòng lá xủ tranh sầu
Biết bao mấy nỗi tang đau
Bóng trăng kia đã đứng đầu tuổi xanh
Xanh vàng ngọn cỏ trải mồ hoang
Oan trái trả vay khách nhộn nhàng
Nhàn cảnh mấy ai tìm đến chốn
Chốn bi ai luống nhọc nhằn than
Than rằng : cõi phù sinh nháy mắt
Trăm năm đâu biết chắc rủi may
Đua tranh sánh của so tài
Của tài phủi sạch đường dài thoát qua
Gắng lo xa
                                                                                              Thanh Tâm Tài Nữ

Việc thôi thúc tìm học Đạo Trời của Tiên cô Thanh Tâm Tài Nữ dưới đây càng rõ rệt :
THI
Liệu mà day trở bước thanh xuân
Một dặm đường qua, Đạo một gần
Sóng dậy tang thương hồng chích cánh
Trời dìu thưởng phạt hoá đồng cân
Cân thiêng liêng chất đồng tội phước
Gặp thời tua vẹn đức trọng nhân
Dịp may dễ có mấy lần
Dò đường đến chốn non Thần mới hay
Hay biết đời sao, Đạo lại sao ?
Hay gần cửa Thánh bước lần vào
Hay tìm nẻo chánh, tà xa lánh
Hay tập thanh cao, chí mới cao
Cao khôn với, thấp nào dễ bước
Khó mà lần đến được mới mầu
Chỉ mành rối khá lo âu
Liệu chơn thoát khỏi vực sâu sau này.
                                                           Thanh Tâm Tài Nữ

Thầy tu núi Bà Đen là Huệ Mạng Trường Phan cũng dẫn dắt các Ngài Cư, Tắc : “Xin chư vị gắng tu thấp thỏi như tôi, nhờ trọn tin Phật Trời, còn được ân thưởng Huệ Mạng Kim Tiên, huống hồ chơn linh cao trọng như quý vị, nên chịu tu ngày sau phẩm vị nơi Thiên đình còn cao đến bực nào”
Bên các Ngài Diệu, Sang, thầy Huệ Mạng mô tả cảnh nhàn của người tu để gây ý thức tu luyện với các Ngài như sau :
THI
Rảnh nợ thế, rừng thung vui thú
Chiều hứng nghe vượn hú chim chuyền
Một ngày thong thả là Tiên
Suối trong rửa sạch não phiền trần gian
Vòng cương toả buộc rành danh lợi
Chốn hí trường lui tới lăng xăng
Phép quan luật nước thúc dần
Đỉnh chung rốt cuộc mơ màng chiêm bao
Đâu là thấp, đâu cao phẩm thế
Nhục vinh kia ai dễ trọn đời
Cõi trần kiếp sống mấy hơi
Phủi tay chốc đã châu rơi ngọc trầm
Hỡi ai là khách tri âm

Đức Nhàn Âm chơn nhơn cũng giáng bàn gõ nhịp cho thi khuyên tu :
THI
Nhàn du bạch dạ tuyến phong đình
Aâm tảng diệt kỳ chiếu đẩu tinh
Chơn tịch quyền khai Thiên vị đắc
Nhơn bang hữu cộng liệt trân đình

Rèm gió đêm tràn bóng rạng thinh
Nghêu ngao non tuý thú riêng mình
Thu về hứng cảnh đôi bầu cúc
Hạ đến vui say mấy tiệc quỳnh
Nhàn dạo vẫn vơ theo nhật nguyệt
Rảnh ngồi chậm rãi tụng Huỳnh Đình
Tranh đua rủ sạch lằn thi phị
Gặp buổi giang hồ với chúng sanh

Một hôm (13.7.1928) các Ngài Sang, Diêu thiết lễ xây bàn, có một người Pháp xin tham dự và yêu cầu được nghe lời dạy của Đấng vô hình, Đức Thánh Pierre giáng bàn và cho bài thi như sau :
1 . “L’homme a ses maux, le roseau a ses plaintes
De ta Destinée a pris soin le Créateur
En t’épargnant de la vie toutes contraites
En semant à tes pas, déjà l’astre du jour

5 . À l’horizon lointain, déjà l’astre du jour
Commence à décliner, ne perds pas de temps
Pour qu’a ce séjour si heureux, sois de retour
Purgatoire accompli et esprit sans tournant.

9 . Frôlant souventefois les sombres nuages
À perdre ton éclat, ton étoile est prête
Mais une main divine à ton avantage
D’un geste en chanteur dissipe la tempête.

13 . Pour des entreprises lointaines, tu n’es pas fait.
Reste à ton sillon, ton compte est arrêté
Le bonheur bien concu n’est-il’pas le plus vrai ?
Réserve ces faveurs à ta postérité

17 . Profite de ton présent, fais ta vie à venir
Répare tes erreurs passées, sois bon père
Marche vers le chemin de Dieu sans ralentir
La vie a des ailes, alle n’est qu’éphémère..
Tâche de me comprendre

(Những bài thi trên do Đức Thượng Sanh tặng riêng cho soạn giả Trong “Les Messages Spirites” nói bài này của Đức Quan Thánh Đế Quân (trang ... ))

Dịch thi :
1 . Đời người như sậy, lắm lo âu
Tạo hoá an bày định mệnh sâu
Gieo khắp bước đường đầy hy vọng
Ngăn trừ tất cả những niềm đau

5 . Ánh dương soi sáng tít chân trời
Nghiêng bóng bước mau khẻo trễ thời
Ngôi cũ quay về bao sung sướng
Khổ đau dứt nghiệt, tinh thần vui

9 . Mây đen che khuất lắm lần rồi
Mắt hẳn sáng sao cả ánh ngời
May mắn nhờ tay Trời độ rỗi
Phép mầu tiêu tán bão dông lui

13 . Vinh dinh lợi lộc tránh xa vời
Tiền bạc dẹp qua chẳng để đời
Hạnh phúc thế kia là thật đúng
Để dành ân huệ cháu con noi.

17 . Lấy trước dựng sau mới đáng cha
Hối cải những điều lầm đã qua
Theo hướng đường Trời đừng chậm trễ
Cuộc đời ngắn ngủi chóng bay xa
Hãy gắng tâm thành để hiểu ta

Nhờ được sự dẫn dắt vào đường đạo tận tình của các Đấng mà các Ngài từ đây thật sự tin tưởng vào Đức Cao Đài. Đàn đêm 14.1.1926 Đức Cao Đài dạy rằng :
Thành tâm niệm Phật
Tịnh, tịnh, tịnh, tỉnh, tỉnh
Tịnh là vô nhứt vật
Thành tâm hành Đạo.

Cô Thất Nương Đoàn Ngọc Quế cũng giáng đàn nhắn nhủ : “Em cảm ơn quý anh, xin quý anh gắng công học Đạo, dưỡng luyện tinh thần, ắt ngày sau đắc đạo, coi bửu vị làm trọng, đừng ham luyến hồng trần mà phải đoạ. Đôi lời thành thật xin quý anh thương tình gìn giữ. Mắc hầu, em không thể nán lại lâu, em xin kiếu. Lâu lâu em sẽ về nói rõ.”
Sau đó việc xây bàn thay bằng phò Ngọc Cơ, hai ngài Cao Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc làm đồng tử chánh. Vì vậy ngài Cao Hoài Sang xây bàn riêng nơi nhà ngài Cao Quỳnh Diêu rồi dần dần ít đi hầu đàn chánh. Đức Cao Thượng Phẩm xin với Đấng Cao Đài để lời dạy bảo. Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng dạy rằng : “Nó thật thà, vả lại nó mang xác phàm. Ai dưới thế này đặng trọn vẹn, các con chỉ Thầy coi? “

Các ngài đã thọ làm môn đệ Đấng Cao Đài từ lâu nhưng chưa thờ vì chưa biết cách thức thế nào, nên mới cầu xin cách dạy để thời, thì Đấng Cao Đài Thượng Đế dạy : “Đến Chiêu xem cách thức nó thờ Thầy, bảo nó hiệp một với các con”.

Ngày 15.12. Ất Sửu, Thánh tượng Thiên Nhãn được thượng lên ở nhà ngài Lê Văn Trung, có mặt các ngài Ngô Văn Chiêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu và nhiều vị khác nữa. Đấng Cao Đài giáng cơ dạy : “Thầy vui thấy các con thuận hoà cùng nhau, thầy muốn các con như vầy hoài. Ấy là lễ hiến cho thầy rất trân trọng.

Chẳng quản đồng tông mới một nhà
Cùng nhau một đạo tức một cha
Nghĩa nhân đành gửi thân trăm tuổi
Dạy lẫn cho nhau một chữ hoà”
                                                                       Cao Đài Tiên Ông

Qua đến ngày mồng 9 tháng giêng năm Bính Dần nhằm vía Đức Chí Tôn. Ông Vương Quan Kỳ thiết đàn tại nhà riêng, Đức Thượng Đế giáng cơ, quan phủ Ngô Văn Chiêu xin Đức Thượng Đế lấy tên mấy người đệ tử mà cho bài thi, Đức Thượng Đế thuận cho:
“CHIÊU, KỲ, TRUNG độ dẫn HOÀI sanh
BẢN đạo khai SANG, QUÍ, GIẢNG thành
HẬU, ĐỨC, TẮC, CƯ thiên địa cảnh
Hườn, Minh, Mân đáo thủ đài danh”

Mười hai chữ lớn trong ba câu đầu là tên của 13 vị môn đệ đầu tiên , vì 2 ngài Cao Hoài Sang và Võ Văn Sang điểm cung một tên (Tiểu sử quan phủ Ngô Minh Chiêu, Saigon 1962, trang )

Đến ngày 25.4.1926(15.3. Bính Dần) thì thiết lễ Thiên phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn. Các vị được thọ phong là ngài Phạm Công Tắc thọ phong Hộ Pháp, ngài Cao Quỳnh Cư thọ phong Thượng Phẩm, ngài Cao Hoài Sang thọ phong Thượng Sanh, ngài Lê Văn Trung thọ phong Đầu sư Thượng Trung Nhựt, ngài Lê Văn Lịch thọ phong Đầu sư Ngọc Lịch Nguyệt.

Các vị sau đây được phong vị để phò cơ :
“Đức, Hậu phong Tiên đạo phò đạo sĩ
Cư phong Tá cơ tiên hạc đạo sĩ
Tắc phong Hộ giá tiên đồng tá cơ đạo sĩ

Hai ông Thượng phẩm và Hộ pháp hợp thành một cặp đồng tử chấp cơ phong thánh, truyền giáo, lập Pháp Chánh Truyền và Tân luật”.

Ngoài cặp cơ Cư - Tắc còn có cặp cơ : Sang, Diêu, Hậu, Nghĩa, Tràng, Tươi, Chương, Kim, Đãi, Mai,Nguyên, Mạnh, Phước, Thâu, Vĩnh (Trương Hiến Pháp, Đạo sử (bản đánh máy) Tây Ninh 1962)

Vì có nhiều cặp cơ hơn nữa đàn Cầu Kho không cung ứng cho hoàn cảnh, nên có thêm 5 đàn nữa là Chợ Lớn, Tân Kim (Cần Giuộc), Lộc Giang, Thủ Đức,Tân Định.

Để việc phổ độ chúng sanh khỏi bị ngăn trở, các ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang….tất cả 28 vị đứng tên đưa tờ khai tịch đạo lên Thống đốc Nam Kỳ là ông Le Pol vào ngày 7.10.1926. vì chế độ thuộc địa giống như việc cai trị ở chính quốc Pháp, nên tờ Khai tịch Đạo không cần đợi chính quyền Đông Dương cho phép, mà coi như tờ thông báo chính thức rồi hành giáo và truyền giáo. Thật sự không có bản văn kiện nào trả lời hoặc cho phép về tờ khai đạo trên cả.

Sau khi lập tờ khai tịch đạo, việc phổ độ các tỉnh được phát triển mạnh. Đến đêm 14 rạng 15 tháng 10 năm Bính Dần (18.11.1926) là đêm chính thức khai đạo Cao Đài tại Gò Kén (Tây Ninh) và làm lễ khánh thành Thánh Thất Từ Lâm đầu tiên của nền Đại Đạo. Những đêm kế tiếp thì lập Pháp Chánh Truyền , Tân Luật. Nền tảng chánh trị Đạo được hình thành từ đó.

CHƯƠNG III

ĐAU LÒNG VÌ NỀN ĐẠO BỊ PHÂN CHIA
(1937-1940)

Trước sự bành trướng và lớn mạnh của Đạo Cao Đài, chính quyền Pháp sợ Đạo trở thành một phong trào ái quốc (Gouvermement Géúeral de l'Inaochine, contribution à l'histcire des nouvement collitunes de l'Indochine francsise, quyển VII la Caodaisme Hà Nội 1934), sẽ gây khó khăn cho họ, họ tìm đủ mọi cách để ly gián làm cho người Đạo nghi kỵ lẫn nhau mà chia rẽ. Từ năm . Từ năm 1931, khởi đầu là ông Nguyễn Văn Ca tách khỏi Tòa Thánh Tây Ninh về lập phái đạo ở Cầu Vỹ (Mỹ Tho) rồi Nguyễn Ngọc Tương về Bến Tre lập Ban Chỉnh Đạo, đến năm 1940 thì đủ 12 chi phái.
Trong tình trạng các nhà hướng đạo ý hướng bất nhứt, Ngài Thượng Sanh Cao Hoài Sang tập hợp lại đa số Thập Nhị Thời Quân để chấn chỉnh và thống nhất lại nền đạo.

Ngày 10/11/1937 Ngài Thượng Sanh đứng đầu danh sách ra tờ Kỉnh Cáo như sau :

ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
KỈNH CÁO

"Hiện thời, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Đô đã sai biệt với Chơn Truyền, bất đồng tín ngưỡng, mất trật tự tôn ti, kém tinh thần liên lạc. Điều ấy dù không giải rõ tưởng chư Đạo hữu cũng chán biết.
"Đem chúng sanh trở về Chánh giáo, nối chặt dây thân ái đặng cùng chung một tín ngưỡng chơn chánh, một tôn chỉ bác ái từ bi, ấy là trách nhiệm hiện thời của Chức sắc HTĐ do theo mạng lịnh Đức Lý Đại Tiên, Nhứt Trấn Oai Nghiêm ngày 22 .......1937

"Không thái quá mà cũng không bất cập, Chức sắc HTĐ sẽ cẩn thận từ ly từ bước một trong việc hành đạonguyện đem hết dạ vô tư chí thành liêm khiết đặng bảo thủ Chơn Truyền và nêu cao danh thể Chí Tôn nơi cõi Việt.

"Ngày ......Novembre 1937, Chức sắc Hiệp Thiên Đài vì muốn giữ trọn nghĩa vụ Chức sắc đối với ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc nơi Tòa Thánh Tây Ninh, nên lần cuối cùng có gởi cho người một bức thơ. Oâng Phạm Công Tắc không lấy chánh danh mình trả lời, lại để cho một kẻ khác đứng tên trả lời.

"Vậy chiếu theo điều lệ thứ ba trong Hiến Pháp và ................ Luật Hiệp Thiên Đài lập tại Tòa Thánh ngày ........................ chức sắc Hiệp Thiên Đài không nhìn nhận ông Phạm Công Tắc là Hộ Pháp Hiệp Thiên Đài nữa.
Phú Nhuận, ngày 10 Novembre 1937
HIỆP THIÊN ĐÀI
"THƯỢNG SANH CAO HOÀI SANG"

Hầu hết Thập Nhị Thời Quân đều ký tên vào tờ Kỉnh Cáo này, trừ có bào huynh của Ngài Cao Thượng Sanh là Tiếp Đạo Cao Đức Trọng và Khai Pháp Trần Duy Nghĩa.

Thật ra, điều thứ ba Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài ghi như vầy : "Nếu Hộ Pháp chuyên quyền không do theo phần đông thì phần đông ấy đặng phép không tuân lịnh của Hộ Pháp và công bố cho Hội Thánh Cửu Trùng Đài biết đặng đợi ngày cầu xin Đức Chí Tôn phán xét". (Theo Hiến Pháp Hiệp Thiên Đài năm Nhâm Thân 1932)

Đầu xuân 19..........., tôi có đến Giáo Tông đường, nơi Ngài Cao Thượng Sanh làm việc để tỏ về việc viết tiểu sử của Ngài. Ngài rất từ tốn không nói gì nhiều, chỉ cho tôi một ít bài mà trong buổi đầy học Đạo Ngài đã xây bàn với Ngài Bảo Văn Pháp Quân, vì các sách trong Đạo hiện chưa có những bài này. Trong suốt quá trình công phu, công quả, Ngài tùy cho nhơn sanh định lượng, Ngài chỉ nhấn mạnh về tờ kỉnh cáo năm 1937 mà Ngài cho là bị nhiều người trích điểm nhất, nhưng chẳng bao giờ Ngài chính thức biện hộ cho mình, mà để công luận và lịch sử soi xét. Ngài nói :

"Khi có sống trong những năm tháng nền Đạo suy vi chia rẽ thì mới thấy những nỗi khổ tâm, lo lắng của những người có sứ mạng lúc bấy giờ. Bao nhiêu Thánh Thất .............. thuộc về ông Tương. Các vị Thời Quân thì bấp bênh trước lời kêu gọi của ông Tương đang ......... một bộ phận Hiệp Thiên Đài, chư Đạo Hữu chẳng biết ngã về đâu ? Tờ kỉnh cáo có tác dụng trấn an các vị Thời Quân và chư Đạo hữu từ vùng Sài Gòn trở xuống Hậu Giang. "Chư đạo hữu muốn hỏi điều chi về việc Đạo xin do nơi Văn phòng tạm thời của HTĐ ở Từ Vân Tự, Phú Nhuận, Gia Định". Câu này hàm ý ngăn chặn không để một ai ngã về Chi phái. Theo Ngài con đường nào rồi cũng về Tòa Thánh Tây Ninh.

Thật vậy, ngày 27/11/1930, ngày lễ Khai Đạo tại Bến Tre, ông Nguyễn Ngọc Tương cò mời Ngài Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân đảm nhiệm cơ quan Hiệp Thiên Đài. Ngài Thượng Sanh và Thập Nhị Thời Quân không ai đến Bến Tre dự lễ cả, nhưng Ngài có gởi Chương Trình Hành Đạo ()........"Lịch sử Cao Đài" Sài Gòn Cao.......1972, Xuyên tạc là "Ông Thượng Sanh Cao Hoài Sang hành đạo tại Hội Thánh Bến Tre".) , coi như một lời cảnh giáo, một lời khuyên bảo đạo đức, chớ không phải khế ước hiệp tác, vì Ngài không có đến dự hội.

Chương trình hành đạo gồm 10 khoản như sau :
"1 - .................... sự giáo hóa tín đồ bằng cách thuyết đạo và xuất bản sách Đạo.
"2/ - ......... lập hàng sản mà thi hành các điều cần ích hiện thời các nhơn sanh nhờ.
"3/ - Lập cơ sở và tạo tác công cuộc có ích về hình thức và tinh thần như trường học, thư viện, ấu trĩ viện ...
"4/ - Thâu nhận những tín đồ thất nghiệp vô sản đặng cố dụng vào các cơ quan của đạo.
"5/ - Lo lắng về phần nhơn đạo, quan hôn, tang tế chẳng cang phân biệt giai cấp, "nhứt gia hữu sự bá gia ưu" đặng thật hành tròn câu phổ độ.
"6/ - Lo trau dồi chức sắc về nghĩa lý đạo đức, lấy chủ nghĩa thương đời un đúc cho ra một chức sắc của đạo.
"7/ - Nơi nhà tu nữ phái phải Giáo hóa về tinh thần đạo đức.
"8/ - Mở cửa rước nhân tài, những tín đồ này được biệt đãi.
"9/ - Mỗi thời kỳ ba tháng phải có một "Ban Vấn An" đi khắp các Thánh Thất xem xét tình hình cơ Đạo.
"10/ - Lập Hiến Pháp hai đài Hiệp Thiên và Cửu Trùng".

Lời cuối cùng của "Chương trình hành Đạo" là một lời ............. : "Chủ trương của Ban Chỉnh Đạo lúc nào cũng phải thiên về việc trở về Tòa Thánh Tây Ninh, là nơi nguồn cội của Đạo".

Như thế, Ngài Cao Thượng Sanh đã thi hành nhiệm vụ của Ngài là đưa những người lầm đường lạc lối trở về nguồn Đạo.

Thế thường người ta giải thích việc phân chia chi phái có cái lợi là chia vùng ảnh hưởng để phổ thông Đạo trời, Pháp đóng chi này thì con chi kia, có người lại đổ lỗi cho các nhà hướng đạo ham quyền cố vị. Những giải thích đó là phiến diện, không bới tạn gốc của vấn đề, không minh thuyết một cách biện chứng khách quan.

Là người Đạo, chúng ta đều chấp nhận "mọi chi chi đều có Thầy ở trong". Đó là định luật an bày của Đấng Tạo Hóa, sanh rồi diệt "nhánh có trái bông nhánh cụt còi". Đã bao nhiêu chi phái cụt còi, Tòa Thánh Tây Ninh thì một ngày một tươi sáng và phát triển, là tại sao ? Tại vì Tòa Thánh là Thánh Địa "nơi nào Thầy ngự, nơi đó là Thánh địa". Thầy xác nhận trung tâm quyền lực Tôn giáo ở Tây Ninh chớ không nơi nào khác (Tân Luật ... tr 117.) .

Người ta không giải thích vấn đề chia rẽ chi phái một cách công bằng và khoa học, mà đổ lỗi cho người này, người nọ, chỉ gây thêm niềm thù lẫn nhau mà không giải quyết được vấn đề gì. Toàn bộ quyển hai "Lịch sử Cao Đài ĐĐTKPĐ" của ĐT (xuất bản 1972) là nhằm triệt hạ hai cơ đạo lớn nhứt là Tòa Thánh Tây Ninh và Tòa Thánh Bến Tre, sao người ta không nói đến mấy ông Hộ Pháp, Thượng Sanh, Thượng Phẩm ở ....................(Bạc Liêu) hay một vài ông nơi khác ?

Gần 50 năm (tính đến 1972), tất cả tín đồ trực thuộc Tòa Thánh Tây Ninh và những Thánh Thất ..................... có cảm tình với Tòa Thánh Tây Ninh, không ai mắc lừa ! Không một vị Thập Nhị Thời Quân nào bỏ Tổ Đình Tây Ninh.

Chưa kể nhiều Thánh Thất cũng qui về Tây Ninh, trong đó có Từ Vân Tự, nhiều chi pháo lớn như nhóm Nguyễn Bửu Tài, nhiều anh lớn nổi danh cũng trở về thọ phong như Bác sĩ Trương Kế An được Thiên ân Bảo ...... Quân ... Nếu Tòa Thánh Tây Ninh không theo luật pháp Đạo, sao phát triển mau lẹ, sao có nhiều vị đại chơn tu, đại khoa bảng đến tìm hiểu và xin nhập môn như Luật sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Lộc.

Ông ĐT rất sai lầm khi viết : "Trên thực tế các chi phái Đạo Cao Đài (ngoài Tây Ninh) đều không tôn thờ ông Hộ Pháp Phạm Công Tắc như ở Tòa Thánh Tây Ninh". (ĐỒNG TÂN, sđđ, tr .......) "Hai ông Thượng Phẩm và Hộ Pháp hợp thành một cặp đồng tử chấp cơ phong Thánh, truyền giáo, lập Pháp Chánh Truyền và Tân Luật, tức là Hiến Chương của nền đạo hiện giờ.

"Chúng ta phải nhìn nhận đầu công của hai ông này vào bực nhứt, trước hết và trên hết, Đức Chí Tôn mượn tay và thần lực của hai ông mà lập thành Đại Đạo. Nếu không có bàn tay xây dựng của hai ông thì :
" - Đâu có Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ
" - Đâu có chức sắc Thiên phong nam nữ
" - Đâu có Hội Thánh và các cơ quan trong Đạo
" - Đâu có Pháp Chánh Truyền và Tân luật
" - Đâu có đại nghiệp hiện giờ cho nhân sanh thừa hưởng"

(TRƯƠNG HIẾN PHÁP, Đạo sử Cơ Bút - Tây Ninh 1969)
Và một người tín đồ Cao Đài chân chính không ai nhận định như ĐT, theo đạo mà chối bỏ người lãnh đạo, người Đạo thì trước sau như nhứt, chớ không phải là người đời : vừa là ông Hộ Pháp, vừa không là Hộ Pháp, không biết góc ở đâu mà có ngọn, có chi. Mặt khác, đã theo đạo phải chấp nhận đời sống tâm linh là cao trọng. Ông Phạm Công Tắc ngươn linh là Ngự Mã Thiên Quân Hộ Pháp Vi Đà , khi niệm danh Ngài thì đã tôn sùng Ngài rồi, chẳng lẽ ĐT muốn nói có nhân (?) thì phàm xác thịt của ông Phạm Công Tắc ? Thầy đã dạy : "Ai dưới thế này hoàn toàn đâu, con chỉ Thầy coi ?"

Ông ĐT để cả một quyển sách đề cao Ngài Ngô Minh Chiêu, đến nỗi gán cho Ngài nhiều thành tựu không phải của Ngài, vô tình làm giảm uy tín Ngài. Ngài là bậc chơn tu : "Hữu xạ tự nhiên hương, hà tất dương phong lập", đâu cần sắc tướng bề ngoài. Ở Tây Ninh không ai chiếm ngôi Giáo Tông, trong lịch sử Đạo (**** ?) đâu có ai quên Ngài. Ngài Lê Văn Trung là Quyền Giáo Tông, chỉ có quyền về phần xác thôi. Nhiệm vụ của các Ngài xây dựng nền tảng Đạo đã xong, Đạo có Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, nền Đạo có trên, có dưới, có vô vi, có hữu hình, bỏ một chối hai thì què quặt (thống nhất lại).

Thế hệ chúng ta phải phát triển cái tinh túy của Đạo, phải nhớ câu : "Nhơn vô thập toàn" mà dẹp qua những điều không đáng nói. Không ai dưới thế này được nhân loại tạc tượng thờ mà sống trong nhung lụa, không làm điều gì cho nhơn sanh có nghĩa là biến thiên theo sự thăng trầm của sanh chúng, có lên có xuống, có vinh có nhục. ...............

Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc Ngài rất lo âu khi nhận nhiệm vụ lịch sử của nhân sanh và Hội Thánh Cao Đài trao phó, nhưng nếu sợ trở ngại, sợ trích điểm thì làm sao bảo vệ được Đạo, làm thế nào để có nền đạo ngày hôm nay. Đó là việc Đại hội 3 ngày 8,9,10 tháng 11 năm 1935 đã đồng thanh tín nhiệm Đức Hộ Pháp cầm quyền thống nhất Chánh trị Đạo cho đến ngày có Đầu Sư Chánh vị.

"Đại hội đồng bỏ thăm tín nhiệm Chánh sách độc tài của Đức Hộ Pháp và xin đem hết tâm trí giúp Ngài đưa cả chúng sanh đi trên con đường Thánh Đức của Đức Chí Tôn".
"Thuận nhơn tân ắt thuận Thiên lý", hợp với chủ trương cố hữu của nền Tân Tôn giáo : "Trời người hiệp nhứt" mà ĐT thường nhắc đi nhắc lại trong quyển lịch sử của ông sao ?

Thuận nhơn tâm chỗ nào, giải thích được điều này là giải thích được nguồn gốc sâu xa cua việc phân chia chi phái.

Trước hết ta phải chấp nhận qui luật lịch sử cũng là luật của Tôn giáo : "Luật tương quan nhân quả", nhân nào quả đó và giá trị thành tựu của một tổ chức, một cuộc cách mạng, một cuộc kháng chiến tại sao Nguyễn Huệ kháng Thanh thành công mà Hồ Quý Ly chống Minh thất bại, có phải lòng dân không theo không ? Tại sao phái Cầu Vĩ của ông Nguyễn Văn Ca tiêu vong, khi gọi ông Phạm Công Tắc là độc tài lại bảo vệ, xây dựng và phát triển cơ đạo ngày càng tiến bộ, có phải hiệp lòng nhơn sanh không ?

Qui luật thứ hai là triết thuyết của Karl Marx "xã hội nào con người ấy", xã hội phong kiến thì con người phong kiến gồm hai giai cấp chính là nông dân và địa chủ.

Đạo Cao Đài phát sinh, phát triển trong lòng xã hội phong kiến, từ năm ............. đến năm 1945, Việt Nam dưới sự cai trị của nhà Nguyễn và thực dân Pháp. Như thế, Việt Nam không có truyền thống dân chủ nào, còn thực dân Pháp nhỏ giọt loại dân chủ què quặt, lai................ thuộc địa loại dân chủ lạ lùng của kẻ thống trị.

Trong khi Pháp Chánh Truyền của đạo Cao Đài đưa ra một loại siêu dân chủ, nghĩa là một loại dân chủ chưa có trong xã hội loài người. Ngoài ba quyền Lập Pháp, Tư Pháp, Hành Pháp như chế độ dại ngai của Phương Tây, nền Hành Chánh Đạo, trên hết "có Giáo Tông vị lãnh đạo tôn giáo, dưới có ba vị Chưởng Pháp có quyền xem xét luật lệ trước buổi thi hành" ( Tân Luật, Pháp Chánh Truyền) . Vì việc chi chi đều phải có ba cái ấn của ba vị mới được thi hành. ba vị này như thế giữ vai trò của Viện Bảo Hiến.

Dưới ba vị Chưởng Pháp là ba vị Đầu Sư, có Đầu Sư Đường riêng, không làm việc chung ở Giáo Tông Đường. Nói một cách khác : "Đầu Sư ..........quyền luôn cả chính trị và luật lệ... Đầu Sư có quyền cai trị phần Đạo và phần Đời của chư môn đệ" ( Tân Luật, Pháp Chánh Truyền) . Đạo lịnh nào cũng phải đủ ba cái ấn của ba vị Đầu Sư mới được thi hành, ba vị Đầu Sư giữ vai trò Tam ........... như một Thủ Tướng.

Xem thế, tổ chức guồng máy Đạo Cao Đài quá ư dân chủ, .......bảo hiến có ba vị "Chủ........." phần hành pháp cũng có ba vị "Thủ Tướng" đồng quyền, nếu một trong ba vị không đồng ý thì Đạo Lịnh đó coi như bãi bỏ. Tổ chức guồng máy như vậy không thể nào linh động ứng phó tình thế khó khăn được .................. còn những hội nghị . . . . . .

Là quá trình ban quyền cho con người, Đức Chí Tôn đã thấy rõ 'Kẻ nào nắm cả trọn phần hữu hình và phần thiêng liêng thì là độc chiếm quyền chính trị và luật lệ, mà hễ độc chiếm quyền chính trị và luật lệ vào tay thì nhơn sanh chẳng phương nào thoát khỏi vòng áp chế" (Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, sđđ, tr 22-23). Do đó mà Thầy tách quyền hành ra nhiều vị ............. kiềm chế lẫn nhau. Nhưng hại thay, nhân sanh còn nặng đầu óc tôn ......... (tức chấp nhận độc tài) và chưa có quá trình dân chủ nào. Những vị lãnh đạo tôn giáo phát xuất từ địa chủ, công chức của Pháp, nên có tính lấn áp Thiên mạng, ai cũng muốn có một sản nghiệp riêng, xuống phục tùng nhau : "Tôi là Đốc Phủ Sứ, tôi không chịu dưới quyền tên thu lại". Các vị buổi đầu có sứ mạng thiêng liêng nhưng chưa được tu, lại ảnh hưởng sâu đậm xã hội phong kiến, thích kẻ khác đề cao mình thay vì hạ mình để độ rỗi kẻ khác. Đó là đầu dây mối nhợ của sự phân chia chi phái. Những vị lãnh đạo có thiêng mạng hơn người nhưng vẫn ở trong vòng chế độ phong kiến, cái hạn chế đó là mắc mứu cho sự thống nhất nền Đạo. Chớ không phải lỗi tại ông này bà kia, các vị đã nhận lãnh cái bộ áo mão Thiên Phong quá cao rộng hơn tài vóc của mình thì tránh sao kẻ có tham vọng lại không muốn mặc thử ?

Người ta không lấy cái quằng xiên cao van của mình mà giải thích cho tận gốc như trên, trái lại nhiều khi còn gây mâu thuẫn nội bộ Thập Nhị Thời Quân, ông ĐT dùng xảo thuật cám ơn "Anh lớn Thượng Sanh Cao Hoài Sang, chị lớn Chánh Phối Sư Hương Hiếu" ( Đồng Tân - sđđ, tr . . .) coi như những vị này đã góp phần cho nội dung quyển sách. Chẳng qua các Ngài thấy một kẻ hậu sinh muốn tìm hiểu Đạo mà các ngài muốn dạy Đạo cho, chớ tuyệt nhiên các Ngài có đọc chữ nào trong một quyển sách của ĐT mà người tu theo chủ nghĩa vị tha đại đồng Tôn giáo không bao giờ nên đọc.

Mâu thuẫn hơn nữa là lời tựa của Ngài Cố Bảo Pháp Nguyễn Trung Hậu viết ngày ......................, mãi đến năm 1972 ông ĐT mới in thành sách. Chúng tôi được người trưởng nam của Ngài Bảo Pháp là Hiền tài Nguyễn Trung Ngôn, chủ nhiệm nhựt báo Tiếng Việt gởi một bức thư cho Ban Thế Đạo, nhiệm Giáo lý, giải lý rõ vụ này như sau :

"Vào giữa năm 1961, ông ĐT có đến học hỏi việc Đạo nơi Thân Phụ tôi, nghiêm từ có gởi tặng ĐT một số Thánh ngôn dạy Đạo buổi đầu. Tập bản thảo lúc đó không dày như sách in và cũng không có những chú thích có "định kiến" nào. Mười năm sau đó (năm 1971), ông ĐT còn đi hỏi việc Đạo với nhiều người khác nữa như ông Mai Thọ Truyền bà Bạch Tuyết (. . . ?) . Những điều đó chứng tỏ sau khi thân phụ chúng tôi qui tiên, ông ĐT còn thêm thắc sửa chữa theo ý đồ của mình. Thế nên, chúng tôi (. . . ?) xác nhận lời tựa của thân phụ chúng tôi là vô hiệu lực, vì không đúng với nội dung bản thảo ban đầu".

Trong quá trình phân chia chi phái, ông ĐT cũng bóp méo sự thật khi giúp người ngoại cuộc hiểu về Đạo Cao Đài như ông H.B Smith giáo sư trường Viễn Đông và Thi Châu thuộc Viện Đại Học Luân Đôn vẽ một sơ đồ phân chia chi phái (. . . ?) mà Ngài ................Bảo Đạo cho là "nhận định không chính xác". Đến nỗi sau đó, một người Mỹ nghiên cứu về Đạo Cao Đài phải từ Wasington đáp máy sang Sàigòn nhờ ông Khâm Châu Đạo Sài Gòn huớng dẫn lên Tây Ninh tìm hiểu sự thật và có đến tư gia tôi hỏi về nguồn gốc Đạo Cao Đài. (Lúc đó, tôi đã hoàn thành xong tiểu luận Cao học sử về Tôn giáo Cao Đài sau nhiều năm nghiên cứu). Trong câu chuyện, tôi luôn luôn quan niệm Cao Đài chỉ có một nguồn gốc chung, một khối duy nhứt.

Các hàng Giáo phẩm lãnh đạo Cao Đài là những bậc chơn tu. Sự xích mích nhau giữa các thi phàm là một đương nhiên, chỉ có những kẻ xấu miệng hiểu cục diện mới lấy bé xé ra to. Sự phân chia chi phái nên coi đó là một hiện tượng chớ không phải bản chất. Vì bản chất Đức Cao Đài là duy nhất, vạn vật đều từ Ngài mà có, sự thiện ác trên đời cũng do Ngài tạo ra, điều ác thúc đẩy điều thiện lên, có việc tà thuật mới làm nổi bật nền Chánh giáo, hãy nhìn đại thể nền Đạo rồi nghiền ngẫm mới thấy được triết lý cao siêu của Đức Cao Đài ban cho nhơn loại trong thờii kỳ tận thế này.

Sau đó, vào ngày khai Đạo (..............) năm........ .................... thủ lãnh Hưng Đạo..........., Trung Hưng Bửu Tòa .................... hướng dẫn phái đoàn về dự lễ, có gặp tôi tại sân lễ Đại Đồng Xã (cũng nên biết ĐT xuất thân từ THBT), đạo huynh có khen ngợi tôi viết sử với tâm tư người chánh đạo không đụng chạm chi phái nào (có lẽ đạo huynh muốn so sánh với quyển sử ĐT). Sau đó, từ Sài Gòn đạo huynh có gởi cho tôi một bức thư khá dài nói về việc đạo. Trong đó anh có hỏi về nguồn cội Thập Nhị Bảo Quân mà trong Sử ĐT chưa viết tới, còn trong tập "Sử đại cương" của tôi, tôi đã xác nhận đây chỉ là những văn kiện lịch sử Đạo chớ chưa viết lịch sử Đạo Cao Đài, vì Tòa Thánh Tây Ninh đã co Ban Đạo Sử làm việc đó. Tôi chỉ góp phần vào kho tài liệu chung. Tuy nhiên, vẫn có liệt kê về Thập Nhị Bảo Quân rồi ( TRẦN VĂN RAÏNG, Đại Đạo Sử Cương II, Tây Ninh 19711, tr 14).

Tóm lại, viết lịch sử Đạo là một điều khó, cần nhiều năm nghiên cứu cảm thể, triết lý để thấy việc phân chia chi phái là một thực thể giáo vụ, nên phải giải quyết bằng hiện trạng xã hội, do tri thức những thi phàm còn thấp so với Giáo pháp, chớ thật ra nền Đạo xét theo bí pháp Tôn chỉ và cơ cấu tổ chức buổi đầu Đức Chí Tôn ban cho thì còn nguyên vẹn. Những người nắm bí pháp thông công với các đấng vô hình vẫn còn nguyên vẹn, vẫn là một khối thống nhất.............. chung chỉ một. Đó là tam .................của Hiệp Thiên Đài vàThập Nhị Thời Quân, chỉ có những vị này mới được cầu cơ lập giáo, phong Thánh và phổ độ. Sự phát sanh ba vị Hộ Pháp, Thượng Phẩm, Thượng Sanh không phải do tham vọng mà có, thiên cơ chuyển các vị từ việc ngâm thi nhàn tản rồi các đấng dẫn vào đường Đạo. Trái lại, các chi phái thành hình cơ quan đồng tử có mục đích tham vọng theo một quá trình ngược lại (nghĩa là lập giáo hội rồi mới phong đồng tử), họ bất đồng chính kiến với một số giáo lãnh tại Tòa Thánh, tách rời lập Hội Thánh như Hội Thánh Bến Tre chẳng hạn.

Ông G. Gobron trong quyển "L'historire du Caodaisme" liệt kê 11 chi phái. Rồi sau cứ tưởng như thế là đúng mà nói theo. (?)

Ta nên xem đó chỉ là biến cố Đạo sự hoặc một cuộc khảo dượt ".......lấy gạo trơn bỏ trấu ra" hoặc đó là cái xác không hồn (vì thiếu bộ phận HTĐ) trước sau gì rồi cũng tiêu tán với thời gian ...

Ơû đây ta xét bản chất, xem những việc trên chỉ là hiện tượng, vì nền Đạo cho tới nay vẫn thống nhất. Bộ phận HTĐ vị nào cũng có về Tòa Thánh Tây Ninh hành Đạo. Chỉ có một ít chức sắc Cửu Trùng Đài phân ly mà thôi. Việc phân chia chi phái gọi từ ngữ cho đúng là một "thực trạng giáo vụ" giữa con người với nhau, nên con người phải ngồi lại với nhau, nhơn ý đã lấn Thiên ý trong địa hạt này. Chừng nào con người chưa giác ngộ cao, chưa thấy rõ mình mất nguồn, còn ràng buộc với tư phương mình, thì chừng ấy "thực trạng giáo vụ" (chi phái) chưa giải quyết được.

Nhân tấm lòng ưu tư vì nền Đạo bị ý phàm lấn át phân chia của Đức Cao Thượng Sanh, người chép sử mạo muội xét lại vấn đề như trên để nói lên sự phiền muộn của Ngài là chính đáng. Ngài cố gắng hàn lại tấm gương bể, cho đến lúc Ngài cầm giềng mối Đạo cũng cho triệu tập nhiều hội nghị để thống nhất việc ban giao hành Đạo. ( Xem thêm Đại Đạo Sử Cương III)

Một trong những hàng giáo lãnh Hiệp Thiên Đài, một cơ quan trọng đại nhất trong nền Đạo Cao Đài, Ngài tỏ thái độ của mình trước biến cố là trở về sống cuộc đời Thế đạo, tạo một truyền thống nhơn đạo tốt cho nhiều tín đồ noi theo.

CHƯƠNG IV & V

TẠO TRUYỀN THỐNG
CHO CON ĐƯỜNG TU NHƠN ĐẠO
(1941-195......)

Đây là giai đoạn khó khăn nhất của Đạo Cao Đài, Đức Hộ Pháp và năm vị Chức sắc bị Pháp bắt lưu đài. Thắng-1941, Tỉnh trưởng Tây Ninh hỏi mượn Tòa Thánh cho lính vào ở, Đức Thượng Sanh rất ưu tư, nhiều người đến gặp Ngài ở Sài Gòn mong được Ngài về Tây Ninh lèo lái nền Đạo, Ngài thấy thời cơ đen tối, vai trò Ngài chưa tới nên Ngài vẫn tiếp tục con đường thế đạo, độ đời đưa vào cõi Đạo.
Có người viết sử cho Đạo Cao Đài có hai phần vô vi và hữu hành (phổ độ) như vậy là mất cân đối mà vô vi thì không phổ độ hay sao ? Phổ độ theo kiểu của vô vi chứ thật ra, Đạo Cao Đài theo luật "nhất dĩ hoán chi', chỉ có một, nhưng PHƯƠNG TU ĐAÏI ĐẠO (. . . ?) theo Tân Luật, Pháp Chánh Truyền, con đường nào cũng đưa về cõi thiêng liêng hằng sống, con đường hành đạo theo Cửu Phẩm Thần Tiên, hay Tam Thừa vô vi (hạ thừa, trung thừa và thượng thừa) tức tu tỉnh .....???...........ngộ.

Phương tu thứ nhất là con đường Hành Đạo, tu theo hàng Giáo phẩm, phổ độ chúng sanh, đây là mặt nổi của nền đạo, chư vị các Đạo theo con đường này là Phạm Hộ Pháp, Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung ...

Phương tu thứ hai là con đường Thiên Đạo vô vi hay con đường tu luyện tắt. Con đường vô vi lặng lẽ nhưng rất trù phú về tâm linh. Người đắc đạo theo lối tu này là Đức Ngô Minh Chiêu, Đức Cao Thượng Phẩm ....

Đức Thượng Sanh là hình ảnh, là mô thức con đường Thế Đạo. Pháp Chánh Truyền ghi : "Trong các kiếp hữu sanh, duy có phẩm người là cao hơn hết, nên gọi là Thượng Sanh".

Lập Tam Kỳ Phổ Độ này, Thầy............. các chơn linh ......... nguyên sanh hay là hóa sanh lên phẩm vị nhơn loại mới trọn câu phổ độ :

"Chơn linh các nguyên nhân bị đọa trần nay hóa nhân thăng cấp đều nhờ Thượng Sanh độ rỗi (ấy là Thế Độ) nên Thượng Sanh làm chủ của Thế Đạo, nắm luật thế nơi tay mà dìu dẫn cả chúng sanh vào cửa Đạo.
"Thượng Sanh là cây cờ đầu của ..........thì Thượng Sanh nơi đó" (24 ?).

Đức Cao Thượng Sanh một trong những hàng giáo lãnh buổi đầu của nền Đạo, Ngài cũng có bổn phận thi hành Thiên mạng mà Đức Chí Tôn giao phó. Nếu Đức Phạm Hộ Pháp, Đức Cao Thượng Phẩm để lại những gương hành đạo tận tụy, vô ưu, đại độ cho chư tín đồ thì Đức Cao Thượng Sanh tạo ra một truyền thống về phần Nhơn Đạo, Ngài là điển hình mẫu mực cho con người Thế Đạo, làm khuôn thước cho người đời noi theo. Thế nên, từ năm 1941 đến 1956, Ngài ở lẫn lộn với đời để độ đời, vì "đời nơi nào thì Thượng Sanh nơi đó".

Cái nếp sống nhơn đạo, giữ gìn thế luật thể hiện qua những nét lớn như sau ; vừa làm vừa tu, giữ gìn thế luật , độ Đời vào Đạo, làm tròn nhơn đạo mong được cứu rỗi. Chữ NHƠN trong chữ Nhơn Đạo gồm chữ Nhơn đứng và chữ Nhị, có nghĩa là từ hai người trở lên mới thấy được lòng nhơn, nói cách khác nhơn đạo là cách đối xử giữa người này và người kia trong mối tương quan tam cang ngũ thường, tứ đức tam tùng, thành ý, chánh tâm ... Muốn được vậy "ăn ở chơn chánh, hành động đơn giản" (cư kính như hành giản) và "người có nhân hễ muốn tự lập thì họ lập cho người còn muốn đạt đích thì làm cho người cùng đạt, hễ xử với mình thế nào thì cũng xử với người như thế" (Luận Ngữ). Thế thì lối tu giữa chợ Sài Gòn mà Đức Cao Thượng Sanh thử nghiệm là lối tu khó nhất, bị quyến rũ và khảo đảo hơn lối tu núi (Lão), tu Chùa (Phật), tu tề (Nho) còn Đạo Cao Đài là tu tâm,trị cái tâm bướng bỉnh, phải lo tròn Nhơn Đạo mới bước qua Thiên Đạo. Giáo lý Cao Đài không từ chối cuộc sống hiện tại, không mơ ước một Thiên đường xa mờ mà trái lại, Thần học Cao Đài vẫn coi cuộc sống này là một phần của đời sống vĩnh cửu phải làm cho nó tốt đẹp : Thiên đường trần gian. Con người đang sống trong hiện tại, cũng là sống trong trường cửu. Nói một cách khác ý niệm về thời gian hiện tại và trường cửu vẫn là một. Cho nên giá trị về nhơn đạo trong Đạo Cao Đài rất tinh tế và siêu thoát. Chưa sống giữa con người, chưa chịu sự khảo đảo của thế gian thì tu không thể thành đạt, vì "tu thân dĩ Đạo, tu Đạo dĩ nhân".

Đặc điểm đầu tiên của Đức Cao Thượng Sanh là vừa đi làm việc đời vừ tu tại gia cho đến lúc hồi hưu dưỡng lão. Nhiều vị theo chân Ngài như Trương Hiến Pháp, Phạm Hiến Đạo ... và đa số các phái Đạo.

Khi làm việc tại cơ quan Nhà nước, Ngài luôn luôn giữ gìn thế luật : "ra giao thiệp với đời thì giữ tánh ôn, lương, cung, khiêm, nhượng" (25 ?). Còn "đối với hàng đạo hữu nuôi nấng cái tính thù tạc với nhau cho khắng khít cái cây liên lạc' (26 ?). Đối với hàng tín đồ, trong những việc tang, hôn, Ngài đều đến thăm viếng. Đối với những vị Thời Quân cư ngụ tại Sài Gòn, Ngài đến bang giao hành Đạo rất tương thân tương ái, phải nói cả số vị Thời Quân .......... quan điểm về việc hành Đạo của Ngài. Đối với hàng Giáo lãnh Hiệp Thiên Đài và như Đức Cao Thượng Phẩm, Đức Hộ Pháp, Ngài cũng cộng ưu chung sự.

Năm 1928, Đức Cao Thượng Phẩm bị nạn, Ngài về Tòa Thánh viếng thăm và chia buồn, an ủi, Đức Cao Thượng Phẩm cám cảnh nảy ra rồi tự thán :

THI
Công trình gầy dựng Thất Tây Ninh
Bằng địa sóng xao khiến rập rình
Tà mị phàm rung rinh chất Thánh
Mùa màng sâu phá hoại hồn kinh
Xưa Tòa Thánh dập dìu lai vãng
Nay Bửu đình hiu quạnh lụy nhìn
Thương Đạo mến Thầy xin sớm liệu
Cộng tâm chung trí chớ làm thinh (27 ?)

Thông cảm được nỗi oan khiên của Đức Ngài, Đức Cao Thượng Sanh đã họa bài thi trên như vầy :
HỌA VĂN
Dập dìu nào buổi Thất Tây Ninh,
Hiu quạnh hôm nay gió rập rình
Trước ngõ lơ thơ vài đạo hữu
Sau hiên meo mốc mấy pho kinh
Rừng xơ vẻ thắm chim không đỗ
Cảnh lợt màu tươi khách biếng nhìn
Xây dựng là ai, ai phá hoại
Sụt sùi để bước khó làm thinh.

Tuy Ngài không ở tại Tòa Thánh hành đạo buổi đầu, nhưng tâm tư Ngài lúc nào cũng hướng về Tổ Đình. Cảm nhận niềm đau của Đức Cao Thượng Phẩm làm cái đau của Ngài, vì "con ngựa đau cả tàu bỏ không ăn cỏ", niềm vui của Đức Hộ Pháp là niềm vui của Ngài, của toàn Đạo.

Năm 1946, Đức Phạm Hộ Pháp được chính phủ Pháp trả tự do từ Madagascar về Việt Nam rồi về Tây Ninh. Ngày 4-8-Bính Tuất, ngài về Tòa Thánh đến thăm Đức Phạm Hộ Pháp và có làm một bài thơ cảm tác như sau :
CẢM TÁC
Nhành lá rừng tòng đã điểm tươi,
Còn non còn nước lại còn người.
Xa nhà bỏ lúc thương pha hận,
Gặp oan vầy khi khóc lộn cười.
Nguồn Đạo xưa trông, đôi cảnh nghịch
Thuyền từ nay lướt một dòng xuôi.
Trời Nam thử điểm trang tân sử,
Đổ lệ cùng nhau gượng để lời.
                                                           CAO THƯỢNG SANH

Đức Cao Thượng Sanh ở lại cúng Hàm, dự lễ Hội Yến Diêu Trì Cung, bà Bát Nương giáng cơ cho Đức Hộ Pháp bài thi :
THI
Đào Nguyên lại trổ trái hai lần
Ai ngõ Việt Thường đã thấy lân.
Cung Đẩu ví xa gươm xích quỉ,
Thiên cung mở rộng cửa Hà Ngân.
Xuân thu định vững ngô-lương-tề,
Phật chủ quét tan lũ nịnh thần.
Thổi khí vĩnh sanh lau xã tắc,
Mở đường quốc thể định phong vân.
                                                           BÁT NƯƠNG (28)

HỌA VẬN
Dựng gầy xã tắc bấy nhiêu lần,
Mong mỏi vùng Nam đặng thấy lân.
Đảnh Việt Trời cho gìn cảnh trí
Thuyền Nam Đạo vững lướt dòng ngân.
Đài hoa tạc để gương anh kiệt,
Thiên khiên dành riêng đám tội thần.
Gặp phải nước nhà cơn loạn lạc,
Làm trai tua vẹn chí thanh vân.
                                                                       CAO THƯỢNG SANH

Cái phong cách vừa làm việc đời vừa tu của Đức Cao Thượng Sanh không những phù hợp với tuyệt đại đa số tín đồ mà còn ảnh hưởng đến nhiều hàng Giáo lãnh, nhất là ở các phái Đạo. Ở các Thánh Thất tự lập người ta không phế đời hành đạo, ly gia cắt ái mà sống giữa dòng đời để độ đời vào Đạo. Nhưng ai ai cũng giữ gìn Thế luật : trai kỳ 10 ngày, tiếp tục sống chung lộn với vợ con, "rủi có chích lẻ giữa đường thì được chấp nối' (29 ?). Đức Cao Thượng Sanh đã thực hiện điều thứ 9 của Thế Luật, tuy đã được Thiên Phong từ năm 1925, nhưng đến năm 1946 vợ vẫn còn sanh người con út và nhiều Chức sắc khác đời sống vợ chồng vẫn được tiếp nối.

Đây là quan niệm rất nhân bản, và rất mới mẻ của giáo lý Đạo Cao Đài, vì thế giới loài người phải tồn tại, các ngươn Đạo là chu trình kín tiếp nối nhau, con người phải luôn luôn luân lưu chuyển kiếp để được thánh thiện. Đạo Cao Đài xác định quan điểm trên bằng cách thờ Thần Shiva (Civa), Thần tình ái mà nhân dân Ấn Độ tôn sùng để hộ trì cho nước họ được miên trường, Thần có vợ là Parvati phò trợ cho tình yêu của thanh niên nam nữ Ấn Độ (30 ?). Đến kỷ nguyên Cao Đài thì Thần Shiva được các vị Phật, được tạc tượng thờ trên nóc Bát Quái Đài, quay mặt về hướng Bắc, chân đạp trên thất đầu xà tượng trưng cho diệt thất tình, khỏi hôn mê tình ái như lúc còn là Thần (nên đọc tiểu sử Thần Siva để biết rõ hơn).

Việc thờ Phật Shiva bên ngoài Tòa Thánh xác nhận Đạo Cao Đài coi việc bảo tồn giống nòi là cần thiết (chớ không noi theo cả hành vi của Thần Shiva), nhưng đó không phải là căn cốt của giáo lý Đạo Cao Đài, mà giáo lý chính truyền nằm trong nội điện Tòa Thánh.

Bàn những điều trên để thấy rằng Đạo Cao Đài rất nhân bản, gần gủi con người, thuận khoa học, tôn trọng luật tự nhiên của Tạo Hóa. Thượng Sanh theo Pháp Chánh Truyền thì "Trong các kiếp hữu sanh, duy có con người là cao hơn hết nên gọi là Thượng Sanh". Vậy Cao Thượng Sanh chỉ là một người biểu hiện đầy đủ tính người, nghĩa là cũng có đầy đủ đời sống tình ái vợ con, công ăn việc làm như mọi người. Nhưng Ngài có cái khác hơn là mang Thiên lịnh "độ dân các nguyên nhân đọa trần vào cửa Đạo", Ngài phải mặc áo màu tu sĩ để dẫn dắt người đời từ giữ gìn thế luật sang Thiên luật Đạo Pháp, mà muốn độ được đời thì phải giống đời, sống trong đời, nếu khác người thì người làm sao theo đạo được.

Vả lại luật đạo không ngăn cấm tu sĩ lập gia đình, hoặc theo Đạo thì đứt tình vợ con, nhưng Đức Chí Tôn cũng không bao giờ buộc con cái Ngài phải trầm luân mãi trong vòng trần tục. Thế nên, chữ nhơn đạo của Ngài không bắt buộc phải thỏa mãn vấn đề tình dục giữa một nam và một nữ.

"Cái quyền tự chủ định phận lấy mình, Ngài đã giao trọn nơi tay chúng ta ... cái trí não tinh thần của một cá nhân vốn chẳng đồng nhau nên chẳng có sự buộc ràng nào về mặt sinh lý giữa một nam và một nữ. Trong quyển "Phương tu đại đạo", Đức Hộ Pháp khi luận về đạo vợ chồng, Ngài đã công khai nhắc nhở thanh niên nam nữ rằng : liệu như hoàn cảnh mình không đủ sức đùm bọc đời sống cho nhau thì đừng tạo thêm vòng oan trái.

"Như vậy nhơn đạo không nằm trong sự ràng buộc về sinh lý giữa hai thể xác nam nữ mà nằm trong mối tương quan có tính cách giao tế giữa hai con người, khi hai kẻ ấy đã tự mình ký thỏa ước chung về cùng nghiệp là lập gia đình....

"Vòng thê tử luôn luôn có cái nhân của nó, cái nhân ấy do chính chúng ta gây ra, nhưng chúng ta lại sợ hãi quả nghiệp nên cái trí tinh ranh, xảo quyệt của ta mới tìm ra những luận lý sắc bén để trấn an tâm thức rằng đó là cái đạo làm người, rằng Đức Chí Tôn muốn thế. Cái trí xảo quyệt của chúng ta còn tìm cách xuyên tạc Thánh giáo. Đại ý nói rằng nhơn đạo tròn mới bước qua Thiên Đạo, như là một điều kiện bắt buộc ai ai cũng phải có vợ, có chồng rồi mới có thể tu theo đường Thiên Đạo.

"Buổi mới khai đạo, nhiều người vừa thức tỉnh mộng tràn, toan tìm đường lên non luyện thuốc trường sanh, phế bỏ việc làm ăn sinh sống của gia đình, trút hết gánh nặng của mình đã tạo ra, bỏ mặc cho xã hội, tìm đường chạy trốn cho được yên thân, gọi là tu hành (?). Ngài thấy vậy, biết chắc kết quả chẳng đến đâu, bởi luật công bình không dung thứ cho kẻ trốn nợ đời, nên mới có lời khuyên như trên, tuyệt đối Ngài không hề khuyến khích tiếp tục cuộc ân ái gối chăn ...

"Tuyệt nhiên Ngài không hề xác nhận rằng việc nối dõi tông đường là một bổn phận về nhơn đạo mà Ngài chỉ cho phép nếu ý chúng ta như vậy. Đây là một điểm trọng hệ, vì nếu điều luật này hiểu một cách máy móc thì học thuyết Cao Đài sẽ có những điểm mâu thuẫn nội tại, hai tiếng Đại Đạo sẽ thành ảo tưởng, cái cơ duyên ........... dung hợp tất cả ............giáo thuyết sẽ không còn nữa" (31 ?)

Khi tâm thức bừng sáng ánh Đạo ở điểm nào thì ta bước ngay sang đường Thiên Đạo ở điểm đó, mà không chút ngần ngại.

Tóm lại, Phương Tu Đại Đạo có ba con đường : Vô Vi Thiên Đạo, Đạo Pháp Thiên Đạo (Hành Đạo) và nhơn đạo, thì con đường nhơn đạo trù phú vì gần gũi với dục tâm con người hơn cả. Đức Cao Thượng Sanh là một người phản ảnh đầy đủ sắc thái của nếp sống nhơn đạo : thi hành Thế luật ................giữ ngũ giới cấm, tứ đại điều qui, tam cang ngũ thường và những bổn phận con người trong xã hội. Hạng tín đồ và tuyệt đại đa số các phái Đạo đã coi Ngài là cái gương phản chiếu trong cuộc sống, vì lo tròn nhơn đạo là được cứu rỗi rồi.

Thật vậy, Đức Cao Thượng Sanh đã để lại cho hậu thế một truyền thống tu theo đường nhơn đạo, làm nền nếp cho mọi tín đồ khi bước chơn vào cửa đạo noi theo

HÀNH ĐẠO TẠI TÒA THÁNH
(1956 - 1971)

Thiên mệnh của Đức Cao Thượng Sanh là độ đời vào cửa đạo, Ngài đã tạo xong mẫu mực của con đường nhân đạo, nhưng cái gốc của Ngài là một Chức sắc Đại Thiên Phong, ngươn linh là Lữ Đồng Tân trong Bát Tiên, Ngài cần phải lo cho phần Thiên Đạo, cầm giềng mối Đạo lèo lái thuyền Từ lướt qua mọi thác ghềnh trong cơn đột biến.
"Số là vào đầu tháng ......... năm Ất Mùi, vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội Đạo Cao Đài khi đã được quốc gia hóa, ra lịnh lập Ban Thanh trừng bắt nhiều Đạo hữu giam cầm. Còn chính Đức Hộ Pháp cũng bị giam lỏng tại Hộ Pháp Đường từ .......... Aát Mùi (19.....) đến ngày .......1-Bính Thân (19....). Vì quá buồn tủi cho cảnh đồng đạo tương tàn, đức Hộ Pháp buộc lòng cùng nhiều Chức sắc tùy tùng rời Thánh Địa nhắm thủ đô ........... quốc trực chi (Diễn văn của Đức Cao Thượng Sanh đọc nhân lễ kỷ niệm Triều thiên của Đức Phạm Hộ Pháp năm 1964)

Khi Đức Hộ Pháp sang Campuchia thì công việc tại Tòa Thánh tạm thời do vị Thời Quân Bảo Thế Lê Thiện Phước nắm giữ ngày 17 tháng Giêng năm Bính Thân (1956) Ngài Bảo Thế đại diện Hội Thánh ký với đại diện chính quyền Ngô Đình Diệm "Bản thỏa ước Bính Thân" nhằm xác nhận là Đạo Cao Đài từ đây tách rời chính trị ra khỏi Đạo.

Đến ngày 10-3-Đinh Dậu (dl 9-4-1957) do vi bàng của Hội Thánh Cửu Trùng Đài và Phước Thiện nam nữ yêu cầu Đức Cao Thượng Sanh và các vị Thời Quân về Tòa Thánh cầm giềng mối đạo.

Trong thời gian hành đạo tại Tòa Thánh, Đức Ngài đã làm nhiều việc lưu hậu thế đáng kể như sau :
- Đưa Đạo Cao Đài ra ngoài các ảnh hưởng chính trị, trở về hoạt động thuần túy tôn giáo.
- Tạo tư cách pháp nhân cho nền Đại Đạo theo Hiến chương ngày19 tháng 12 năm Giáp Thìn (21 tháng 1 năm 1965 d.l.) và được ông Tổng Thống VNCH ký sắc luật số 003/65 ngày 12 tháng 7 năm 1965 d.l thừa nhận.
- Cuối năm 1965, Ngài ký ban hành Qui điều Ban Thế Đạo. Ban Thế Đạo manh nha từ trước ngày............... Quí Tỵ, Đức Lý Giáo Tông cho phép thành lập và được Đức Phạm Hộ Pháp duyệt qua Qui điều ngày ...........(......).

Vì cây cờ Thế nằm trong tay Đức Thượng Sanh nên mãi đến lúc Ngài nắm quyền mới ra mặt đời. Ban Thế Đạo là cơ quan thuộc về phần đời, bắt nguồn từ cửa đạo phát xuất làm dây nối liền cho Đạo Đời tương đắc, tương liên, ngõ hầu tạo lập một đời sống thanh bình cho nhân loại trong thời chuyển thế. Chức sắc Ban Thế Đạo tuy có 4 phẩm : Hiền Tài, Quốc Sĩ, Đại Phu, Phu Tử, nhưng Hội Thánh HTĐ chỉ chọn Chức sắc các bậc Hiền tài. Đợt tấn phong đầu tiên đồng loại vào ngày 7/8/Bính Ngọ nhằm ngày 21/9/1966 và đợt tấn phong do Ngài chủ trì lần thứ 3 là ngày 8/2/Canh Tuất (19/3/19.......) trước khi Ngài qua đời Ngài huấn dạy trong buổi lễ tấn phong :

"Quý vị may duyên sanh nhằm thời trên đất nước được có nền Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ do Đấng Chí Tôn khai sáng với tôn chỉ tận độ chúng sanh, cứu vớt 92 ức nguyên nhân đọa trần thoát vòng khổ hải.

Mở rộng trường thi công quả để tiếp đón nhân tài, Hội Thánh chỉ mong ước cho quí vị thấm nhuần đạo đức, lập chí tu thân, trước là tròn bổn phận làm người, sau nữa có thể thi thố tài năng giúp đời trợ Đạo tùy theo địa vị và hoàn cảnh của mỗi người.

Một đấng Hiền tài là một nhân vật có phẩm giá đặc biệt, đầy đủ đức độ và chân tài. Cái tài do sự học, cái đức là do lập chí tu thân theo Đạo Thánh hiền mà được.

Nếu có tài mà không có đức thì cũng như đóa hoa có sắc mà không hương, cái tài đó cũng không phải là tài hữu dụng.

Những ông hiền được đời mến phục vì những đấng ấy có tư tưởng cao siêu, hành vi xuất chúng, lúc nào cũng cứ ngay thẳng mà làm điều lành, điều phải, không vì tư tâm tư lợi mà hại đạo lý. Giàu sang không thể làm cho đổi được cái chí của mình, uy quyền võ lực không thể làm khuất được cái khí của mình.

Lúc nào bậc hiền nhân cũng không tự dối với mình và dối thiên hạ, cho nên ngẩng lên không xấu với Trời, cúi xuống không thẹn với người, cùng khổ không mất nghĩa, hiến đạt không lìa Đạo "Ngưỡn bất quí ư Thiên, phủ bất tạc ư nhân, cùng bất thất nghĩa, đạt bất ly Đạo".

Các bậc hiền thời xưa được có cái tiết tháo như vậy là nhờ biết phân biệt cái tước của Trời cho và cái tước của ngừoi cho.

Nhân. Nghĩa, Trung, Tín, vui làm điều lành không mỏi mệt là cái tước của Trời cho tức là Thiên Tước; công khanh, đại phu là cái tước của người cho tức là Nhơn Tước.

Người xưa lo sửa cái Thiên Tước, thì cái Nhơn Tước theo sau và được bền bỉ. Người đời nay chỉ lòe mình có cái Thiên Tước để cầu cái Nhơn Tước. Khi đã được cái Nhơn Tước rồi thì dẹp bỏ cái Thiên Tước. Không màng đến nữa. Như thế thật là quá nông nổi, vì rốt cuộc thành ra mất hết, cái Nhơn Tước cũng không giữ được bao lâu.

Mở rộng Ban Thế Đạo, Hội Thánh Hiệp Thiên Đài do theo nhã ý của Đức Hộ Pháp, ban phẩm Hiền Tài cho những bậc hữu học để khích lệ hạng trí thức nhập vào trường công quả hầu có dịp tiến đức tu thân theo chí hướng của mình.

Thật ra sự giúp Đạo của quý vị không có tính cách bắt buộc. Hội Thánh để cho quý vị thư thả định liệu, phải tùy cơ hội, tùy dịp may mà thực hành.

Là Chức Sắc Hiệp Thiên Đài, chúng tôi cần có thật nhiều bậc nhơn tài để làm bạn đồng chí giúp sức với chúng tôi trong việc thức tỉnh nhơn tâm quay về với THIÊN LƯƠNG và ĐẠO ĐỨC.

Chính quý vị là những đồng chí đó, chính quý vị là những gạch nối liền làm cho Đạo, Đời tương đắc, tạo cảnh thuận tiện cho Chức sắc Hành Chánh Đạo nêu cao ngọn cờ cứu khổ khắp đất nước".

Sau đó Ngài cho chấn chỉnh lại guồng máy Đạo cho xây hoặc tu sửa lại các Thánh Thất, Điện Thờ Phật Mẫu cho các Châu Đạo, Phận Đạo. Tại Tòa Thánh Ngài cho xây cổng Chánh Môn và mười hai cổng phụ chung quanh Tòa Thánh.

Ngài chấp thuận cho xây Văn phòng Ban Thế Đạo, nên vào trung tuần tháng 3/1970 toàn thể Chức sắc Ban Thế Đạo Nam Nữ các nơi đều về tề tựu tại giảng đường lớn để hội thảo và kiểm điểm công tác trong năm qua và đặt kế hoạch hoạt động, kiến thiết Văn phòng Ban Thế Đạo, Ngài đã đến chủ tọa và ban Huấn Từ.

Ngài chấp thuận giải pháp Ban Thế Đạo đưa Hiền tài ra tranh cử Hội Đồng Tỉnh năm 197.... tại 4 quận trong tỉnh Tây Ninh và một vài nơi trong toàn quốc. Riêng tại .......... Phú Khương đã có 5 Hiền Tài được chọn làm đại diện Ban Thế Đạo ra tranh cử đều đắc cử vẻ vang.

Nhằm phát triển tình hữu nghị và thắt chặt tình hòa hợp nhân loại giữa một Giáo phái ở Thổ Nhĩ Kỳ và Đạo Cao Đài ở Việt Nam, Ngài đã cho thiết lập sự liên lạc giữa Tòa Thánh Tây Ninh với Thành Phố Xeynia nước Thổ Nhĩ Kỳ.

Năm 1970, Ngài đặt nặng việc cứu trợ Việt kiều hồi hương từ Campuchia và chư Đạo hữu ở Thánh Thất Kiêm Biên về Tây Ninh hoặc vùng Thánh Địa Cao Đài. Ngài đã chỉ thị cho Truyền Trạng ........ gởi cho ông Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một bản văn về Việt kiều bị thảm sát tại Campuchia.

"À son Excellence secrétaire général de I'C.N.U - New York
Froiondément émus massacre commis contre Vietnamiens Résidents campodge stop.
Klerton CNU pour inteiventin an faveur Vietnamiens au conscience et Droit de I'home - stop.
Frions excellence agir en son nom personnel en Vue arrêtar acte similare - stop"
  Home       1 ]  [ 2 ]  [ 3 ]

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét