Sở dĩ, ngày 15 tháng 10 năm Bính Dần gọi là Ngày
Khai Đạo, vì ngay từ đêm mở Đạo, Đức Cao Đài đã chính thức lần đầu tiên ban cho đôi câu liễn lập giáo:
CAO THƯỢNG CHÍ TÔN ĐẠI ĐẠO HÒA
BÌNH DÂN CHỦ MỤC
ĐÀI TIỀN SÙNG BÁI TAM KỲ CỘNG HƯỞNG TỰ DO QUYỀN *
Chữ “Mục” - “目” nằm trong chữ “Đạo” - “道” tức Đạo quyền
(là cách
nói kiểu hoán dụ) đương đầu với cường quyền thuộc địa Pháp.
Sự ra đời của Đạo Cao Đài
đáp ứng nhu cầu tâm linh của quần chúng Nam Kỳ thời bấy giờ vì ý thức hệ cũ đã
mất sinh lực. Việc xây dựng tôn giáo mới (Cao Đài) trên nền tảng truyền thống
nước ta và Việt hóa các luồng tư tưởng Đông-Tây là việc làm mới mẻ không tránh
khỏi những điều thách đố.
Trong quyển Miền Nam Đầu
Thế Kỷ XX Sơn Nam đã viết “Xây dựng một nếp
sống tinh thần khá ấm áp, bình đẳng lấy tình yêu huynh đệ làm trọng, sống chết
có nhau, giữ trung cang nghĩa khí, khó khăn, hiếu động. Đúng là nếp sống tinh
thần kết tinh Đạo Phật, Lão, Khổng”. Đó là tinh thần Đạo Cao Đài hôm nay.
* Trích trong ĐẠI ĐẠO GIÁO LÝ VÀ TRIẾT LÝ, NXB Tôn
Giáo Chính Phủ, Hà Nội.
Sơn Nam lại tiếp “Khổng Tử là vị Thánh mà dân gian ít ai biết,
nếu biết thì cũng chẳng được trọng vọng cho lắm”.
Còn “Phật giáo ít có điều kiện ăn sâu vào đời sống tinh thần của đại đa số
nông dân” (Đinh Văn Hạnh, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa Của Người Việt Ở Nam Bộ, NXB
Trẻ năm 1999).
Về Đạo Lão, trong “Tiếp Cận Với Đồng Bằng Sông Cửu Long”,
Sơn Nam lại viết “ Trong nhân gian, không
nghe ai nói đích danh Đạo Lão. Không có trường phái nào rõ rệt, chỉ gọi nôm na
là tu tiên” Nhờ Đạo Cao Đài đã làm sống dậy Tam giáo.
Vì thế, Đức Phạm Hộ Pháp
đã viết trong “Rapport adressé par le Sacerdoce Caodaique à M. Le Président de
la commission d’enquête dans les territoires d’Outre Mer” (Sài Gòn Tín Đức Thư Xã 1937) như sau “Đa số chán ngán với tôn giáo cổ truyền… Nhiều cuộc chống đối nổ ra giữa
Lão giáo, Khổng giáo và giáo sĩ Đạo Thiên Chúa đến lưu huyết … Cần thiết tạo ra
một nơi (!) di dưỡng tin thần mới phù hợp với tâm đức của dân Việt”.
Trước đó trong Tờ Khai Tịch
Đạo (7-10-1926), tiền bối Lê Văn Trung gởi lên Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol với lời
lẽ đầy khí phách.
“Nhân danh đông đảo những người Việt Nam hân hạnh
tuyên bố cho ông biết là chúng tôi sẽ truyền bá cho toàn thể nhân loại giáo lý
Thiêng Liêng …”
“… Những người ký tên dưới đây yêu cầu ông hãy
chính thức chấp nhận tuyên ngôn của chúng tôi.”
Tại sao Đạo Cao Đài lập ra
ở Nam Kỳ mà không ở nơi nào khác? Ta trở lại câu liễn Tuyên Ngôn sẽ rõ (dịch ra
quốc ngữ):
Nền Đại Đạo của Chí Tôn rất
cao thượng đem đến HÒA BÌNH, DÂN CHỦ ĐẠO (Đạo là Thánh Đức)
Đạo Kỳ Ba trước Đức Cao
Đài sùng bái sẽ được CỘNG HƯỞNG quyền TỰ DO.
Bốn tiêu chí mà Đức Chí
Tôn đưa ra: Hòa Bình, Dân Chủ, Cộng Hưởng, Tự Do rất phù hợp với nhu cầu tâm
linh của nhân dân Nam Kỳ lúc bấy giờ, vì họ đang bị áp bức, mất tự do dân chủ.
1 . Hòa Bình:
Dân Miền Nam vốn từ Bắc,
Trung di cư vào vùng đất mới. Thạch Phương trong “Văn Hóa Dân Gian Người Việt Ở Nam Bộ” đã viết “Dừng chân trên vùng đất mới, cộng đồng lưu dân dần dần vươn tới một tầm
nhìn, một cách nghĩ khoáng đạt và năng động hơn. Hiện thực bày ra trước mắt người
nông dân rộng mở hơn. Tầm mắt không còn bị lũy tre làng và bờ đê che chắn nữa”.
Tấm lòng họ bình thảng hòa hoãn hơn. Cây ngọt trái lành, đồng xanh vườn rộng
bao la nên tình cảm an bình nảy nở thương yêu mọi người, không phân biệt Việt,
Hoa, Khmer.
Tờ Lục Tỉnh Tân Văn (số 5
trang 3,4) tác giả Tây Hiên đã viết “phải
rõ nghĩa đồng bào và làm sao cho mọi người có ý tưởng như nhau, tin nhau thì việc
gì cũng dễ … mọi việc mới chống thành”. Đó là điều kiện để thành lập tôn
giáo mới, đa tôn giáo, đa sắc tộc.
2 . Dân Chủ:
Nhân dân Miền Nam chân chất
càng về phương Nam chừng nào thì tính thuần hậu càng phát triển chừng ấy. Thạch
Phương lại viết “Càng đi về phương Nam chất
phong kiến nhạt dần, thay vào đó là tinh thần dân chủ, bình đẳng thể hiện ngay
trong đời sống cộng đồng thôn xã cũng như trong đời thường của mỗi gia đình”.
Tình nghĩa tương liên gắn
bó đó là nguồn gốc sâu xa của tính dân chủ bình đẳng của người Nam Kỳ. Chính
người Nam Kỳ đã hòa hợp đồng điệu trong tổ chức Đạo Cao Đài: chỉ có anh lớn-em
nhỏ (hiền huynh, hiền đệ), còn áo mão phẩm trật chức sắc là chỉ để chầu lễ Đức
Chí Tôn và các Đấng, sau lễ là cuộc sống hòa đồng, bình đẳng trong sinh hoạt xã
hội.
* Bút danh của
Ngài Lê Văn Trung
3 . Cộng hưởng:
Nhà người Miền Nam không
có lũy tre che chắn, hay bờ đê làm rào phân cách. Các hiên nhà điều có lu nước
mát cho bất cứ ai, có nơi còn đào giếng thí làm của chung.
Trong “Gia Định Thành Thông Chí”, Trịnh Hoài Đức viết về phong tục ở Nam
Kỳ “có khách đến nhà đầu tiên gia chủ
dâng trầu cau, sau đó dâng cơm bánh, tiếp đãi trọng hậu không kể người thân sơ,
quen lạ tông tích ở đâu đều thâu nạp khoản đãi.”
Thế nên Đạo Cao Đài chỉ
thành lập vài năm, Thánh thất được xây dựng khắp Nam Kỳ, đó là nhờ sự đóng góp
tự nguyện của các đạo hữu và các nhà hảo tâm có thiện cảm với Đạo Cao Đài.
4 . Tự Do:
Thích tự do mới tha phương
cầu thực, về phương Nam lập nghiệp. “Nơi
đất mới (phương Nam) rộng rãi, con người không cần sự bon chen như nơi đất hẹp
người đông. Họ sống rộng rãi cởi mở và hào hiệp hơn. Sự gò bó cứng ngắc, hẹp
hòi được họ cỡi bỏ, để sáng tạo ra một phong cách sống tự do, phóng khoáng hơn”
(Đinh Văn Hạnh, sách đã dẫn). Có lẽ vì thế mà họ dễ dàng chấp nhận Đạo Cao Đài,
một tôn giáo mở thờ cả Tam Giáo Ngũ Chi.
Họ bị đàn áp dưới hai tầng
áp bức phong kiến và thực dân. Trong khi đó Đức Cao Đài phán “Đạo khai là ách nước hầu mãn”. Đạo đã mở
gông xiềng áp bức cho họ, họ được giải thoát, trách làm sao họ không theo Đạo
Cao Đài để được cứu rỗi.
Bà Werner trong chuyên khảo
“Pleasant politics and religious
sectarianism: Peasand and priest in the Cao Dai in Viet Nam” đã viết: “Đạo
Cao Đài là phong trào quần chúng rộng lớn
xuất hiện đầu tiên ở Nam Kỳ… Vào khoảng năm 1930 có từ năm trăm ngàn đến
một triệu nông dân theo Đạo, trong lúc tổng số dân Nam kỳ là từ bốn triệu đến bốn
triệu rưỡi” (trang 4-15).
Trong “Histore et philosophie du Caodaisme”, G.Gobron dẫn theo G.Abadie
cho rằng vào năm 1932 số tín đồ Cao Đài ở Nam kỳ lên tới hơn một triệu trong
lúc số dân Nam kỳ lúc bấy giờ là ba triệu rưỡi.
Tóm lại, bốn tiêu chí mà Đức
Chí Tôn ban ra đã hợp hoàn cảnh, đã hợp
lòng người, tình lý vẹn vẽ đôi đường. Với
chủ trương tín ngưỡng hòa đồng, bao dung, nhân dân Nam kỳ không thấy bất cứ điều
gì ngăn trở: hoàn toàn tự do, hoàn toàn dân chủ và cộng hưởng chung thành quả
mà Đạo đạt được.
Để vỗ về khoảng trống tâm
linh, người dân Nam kỳ đã tìm thấy cái phao cứu nạn ở Đạo Cao Đài: xây dựng cái
mới trên nền truyền thống cũ, mới mẻ mà gần gũi, huyền bí mà thân quen, đơn giản
ở tín đồ, nhưng ràng buộc ở Giáo Hội để chức sắc đủ tư cách dìu dẫn nhơn sanh trên đường Thánh
đức.
Bốn tiêu chí: bình đẳng,
dân chủ, tự do và chung hưởng đã gợi mở cho mọi người Nam kỳ hớn hở đến với Đạo
Tam Kỳ (tên gọi lúc Đạo mới mở).
Bản Tuyên Ngôn Khai Đạo của
Đức Cao Đài đã phản ánh đúng thực trạng đất Nam Kỳ vào thời đầu Khai Đạo
(1926-1932) là chỗ dựa tinh thần của toàn Đạo và là cái phao cứu hộ cho người Nam Kỳ lúc bấy giờ.
CHỮ “MỤC” LÀ MẬT NGỮ TU CHƠN
Vào ngày 25 tháng 02 năm
1926, Đức Cao Đài dạy về việc thờ Thiên Nhãn như sau:
Nhãn thị chủ Tâm
Lưỡng Quang chủ Tể
Quang thị Thần
Thần thị Thiên
Thiên giả, Ngã giả.
Trong chữ “Nhãn” (眼) hàm chứa chữ “Mục” (目). Chín tháng sau (tháng
11 năm 1926), Đức Chí Tôn cho hiển thị chữ “Mục” trong câu liễn Ngày Khai Đạo
(đã dẫn).
Thầy đã dùng phép hoán dụ
(*) chữ “Mục” rất cô đọng, sử dụng như một mật ngữ giúp nhơn sanh đường vào lý
sống đạo đức tu chơn “Tả Mục Thần Quang”.
Đồng đạo đi vào ra cửa
Thánh Thất đều thấy chữ “Mục” mà không nghĩ là chữ Đạo. Chữ “Mục” (目) nằm trong chữ “Đạo” (道), nếu bỏ “Con Mắt” thì không còn Đạo nữa.
Chữ “Mục” là một mật ngữ
tu chơn, vào chùa là phải nghĩ ngay Thiên Nhãn Thầy. Từ mồng 8 tháng tư năm
1926, cơ đã dạy: “Muốn trọn câu phổ độ … phải bày bửu pháp (tu chơn) ra”.
Thấy chữ “Mục” là thấy Đạo,
nhưng chưa am tường cái đích của Đạo là tu chơn. Vì chữ “Mục” hàm chứa Bát
Quái. Bát Quái là cái đích sẽ dẫn ta đến giải thoát.
I . Chữ “Mục” hàm chứa Bát Quái:
Theo “Trung Y nhãn khoa học giải nghĩa”, mắt con người được chia thành 8
khuếch. Mỗi khuếch là một vùng tượng trưng cho một quẻ (con số dưới đây tương ứng
với số trong con mắt trên hình).
1 . Thiên khuếch: Gồm lòng trắng ở
hai bên phải trái của lòng đen, thuộc phổi, tượng CÀN.
2 . Địa khuếch: Gồm mi trên và mi
dưới thuộc tỳ và bao tử tượng KHÔN.
3 . Thuỷ khuếch: Gồm đồng tử thuộc
thận tượng KHẢM.
4 . Hoả khuếch: Gồm hai khoé mắt
thuộc tim và mạng môn thuộc LY.
5 . Lôi khuếch: Gồm lòng trắng
phía trên lòng đen thuộc ruột non, tượng CHẤN.
6 . Sơn khuếch: Gồm vòng giáp đồng
tử và lòng đen thuộc mật tượng CẤN.
7 . Phong khuếch: Lòng đen thuộc
gan, tượng TỐN.
8 . Trạch khuếch: Lòng trắng phía
dưới lòng đen, thuộc bàng quan tượng Đoài.
Đối với ngũ tạng (ngũ
hành), mặt chia thành 5 vùng hợp với các điều trên. Mi mắt thuộc Tỳ - Thổ; hai
khoé mắt thuộc Tâm - Hoả; lòng trắng thuộc Phế - Kim; lòng đen thuộc Can - Mộc;
đồng tử thuộc Thận - Thuỷ.
II . Cái đích dẫn đến Tu
Chơn:
Trong mỗi người điều có
Bát Quái ở mắt và các cơ quan sau:
1. GAN tượng Tốn vì gan và
Tốn đều thuộc MỘC; gan hoá phong () - Tốn tạo gió.
2 . PHỔI tượng Càn vì Phổi
và Càn đều thuộc KIM; phổi chứa khí trời mà Càn () là trời.
3 . TÂM tượng Ly vì tim và Ly đều thuộc Hỏa, tim phát xuất thần minh mà Ly ()
là sáng.
4 . THẬN tượng Khảm vì thận
và Khảm đều thuộc Thủy, thận là cơ quan trọng yếu mà Khảm () là hiểm yếu.
5 . TỲ tượng Khôn vì cùng
thuộc Thổ, Tỳ tạo ra cốc khí mà Khôn () tác thành vật.
6 . MẬT tượng Chấn vì cùng thuộc Mộc, mật xuất phát quết đoán mà Chấn () là sấm
động.
7 . VỊ tượng ấn vì cùng thuộc Thổ, bao tử chứa thức ăn, mà Cấn () là núi chứa
quặng mỏ.
8 . RUỘT GIÀ tượng Đoài vì cùng thuộc Kim, ruột già chứa phẩn mà Đoài () là đầm
lầy chứa bùn lầy.
Theo luật cộng thông của học
thuyết "Thiên Nhân hợp nhất", Thái Cực tương đương với đơn điền (dưới
rốn ba thốn) là trọng tâm sanh mạng, nơi hội tụ năng lượng và chuyển hóa. Luồng
khí năng lượng ấy, hành giả luyện khí gọi là đơn (thuốc).
Lưỡng nghi phân thân thể con người trên dưới
trước sau, phải trái thành ba phương vị vật thể từ tính sinh mạng lớn : đứng thẳng,
dọc ngang lập thành hệ tọa độ ba chiều của nhân thể, năng lượng cơ thể con người
theo đó vận hành không ngừng nghỉ.
Tứ tượng chỉ các mặt nhân
thể. Tất cả mặt từ rốn trở lên tiếp với trời, mặt từ rốn trở xuống liền với đất,
theo Tiên Thiên Bát Quái lấy 2 quẻ Càn Khôn trên dưới biểu thị trời đất, chiều
ngang trái phải Khảm Ly biểu thị nước lửa. Trước sau là chiều dọc với 2 quẻ Cấn
Đoài biểu thị núi đầm thông khí. Trong ngoài là Chấn Tốn biểu tượng sấm gió nỗi
lo toan.
Sanh mạng con người có ba
điểm : Tinh, Khí, Thần. Tinh là hình thể sanh mạng. Khí là năng lượng sanh mạng
vận động. Thần là cơ cấu điều tiết khiến cho âm dương trong người được thăng bằng.
Thế nên, Đức Chí tôn chủ yếu
dạy luyện khí. Luyện khí chủ yếu là điều thần, giữ gìn bên trong thân thể là điều
quan trọng nhất. Thần là cái ngự trị hoạt động sống khử trừ hết thảy tạp niệm
"tâm viên ý mã", mà giữ ý tâm tại đơn điền (dưới rốn ba thốn) nên luyện
khí, còn gọi là luyện đơn.
Đơn điền là cái đỉnh (vạc
có ba chân biểu thị tam bửu) giống như nửa cái nồi, nên cổ thư có câu : "Nửa
cái nồi nấu Càn Khôn, một hạt gạo (đơn)
bao trời đất" (Bán liên oa chử Càn Khôn, nhất lạp mễ bao thiên địa).
Tinh, Khí, Thần là thuốc luyện đơn trong cái đỉnh đó. Hành giả làm thế nào đổ được tam bửu
vào đỉnh. Khí - mặt trời là động lực đầu tiên của vạn vật sinh trưởng, nên Chu
Dịch biểu tượng bằng quẻ Ly, y học gọi là tâm hỏa, là nguồn gốc của thần, người
xưa ví như gái đẹp.
Tinh - mặt trăng là thể để
vạn vật dựa vào, nên Chu Dịch biểu tượng bằng quẻ Khảm, y học gọi là thận thủy,
là nguồn gốc của tinh, người xưa ví như đứa trẻ. Thận thủy theo can mộc, thăng
lên về bên trái. Tâm hỏa theo phế kim hạ xuống về bên phải, gặp nhau ở tỳ ngay
chính giữa. Tỳ thổ là đất mẹ của vạn vật, nên người xưa ví như bà hoàng. Đứa trẻ,
người con gái đẹp lấy bà hoàng làm môi giới, biểu tượng thủy hỏa giao nhau, hai
quẻ Khảm (trên) Ly (dưới) gọi là Ký tế, đưa tam bửu vào đỉnh.
Thuốc tam bửu sau khi vào
đỉnh, trước dùng võ hỏa nấu tức dùng ý niệm đưa hơi thở từ từ vào đơn điền (ruộng
thuốc). Kế đó dùng văn hỏa ôn dưỡng theo âm khơi mạch vào đơn điền, mạch nhâm vừa mở thì các mạch khác
cũng đều mở, khí đến vĩ lư qua giáp tích lên ngọc chẩm tới Nê hoàn (xem “Trường
Dưỡng Tinh Khí Thần” – cùng người viết).
Khi luyện thở, mặt hướng về
sau Bắc Đẩu vì sao Bắc Đẩu là cái gậy
chỉ huy thiên thể vận hành. Cơ thể con người cũng ứng với sao Bắc Đẩu nên lấy
sao đó làm thần. Muốn ý niệm tập trung thì ý phải nương theo hơi thở. Nếu để ý
vu vơ sản sinh thì tâm hỏa thịnh, còn để ý niệm phân tán thì thận thủy hàn. Lúc
đó, hành giả nên ngưng luyện đơn. Theo bà Bát Nương dạy tịnh luyện của cơ Phổ Độ
rất tiến bộ rộng rãi "Phải tìm cho được cái tịnh trong cái động" và
"Muốn tịnh luyện lúc nào cũng được" (Thượng Phẩm CQC, Luật Tam Thể,
trang 168).
III . Trời - Người hiệp nhất:
Theo thuyết "Thiên
nhơn hiệp nhứt", con người là một ảnh hình thu nhỏ của Càn Khôn vũ trụ.
Quan hệ giữa thiên nhiên và con người có tính chất đồng dạng và hợp nhất. Thế
nên, ta chỉ cần quan sát bầu trời với những vì sao mà khi một trẻ sơ sinh mới
ra đời đã chịu ảnh hưởng sâu xa nên có thể qua tinh tú đoán biết được số phận
và tương lai của con người là vậy.
Trong Kinh Dịch, lý thuyết
ngũ hành tương quan với nhân thể từ đi đứng, cử chỉ, lời nói, gương mặt, hộp sọ…
đều chứa đựng các thông tin của quá khứ, hiện tại và tương lai.
Trong nhân tướng học,
khuôn mặt là yếu tố quan trọng nhất. Khuôn mặt con người sánh như bầu trời mà mặt
trời là nhãn cầu trái, mặt trăng là nhãn cầu phải (tức lưỡng quang chủ tể ),
các vì sao là những nốt ruồi và lông mày tượng trưng cho mây.
Năm bộ phận trên khuôn mặt
tương ứng với ngũ hành:
1) Trán và lông mày là Hỏa
thuộc tâm.
2) Đôi mắt là Mộc thuộc
can.
3) Hai mũi là Kim thuộc phế.
4). Cái miệng là Thổ thuộc
tỳ.
5) Hai tai là Thủy thuộc
thận. Còn kích thước hình dáng của hộp sọ nói lên tri thức của một người.
Khuôn mặt của một người
tác thành năm loại: Tròn, vuông, xoan, tam giác, chữ nhật và tương ứng với một
số tính cách nhất định.
Dưới đây là so sánh hình
thái giữa trời và người:
Học thuyết luyện khí của Đạo
Cao Đài và trong Kinh Dịch trùng hợp nhau, nếu không nói là một. Luyện chơn nhứt
khí của Đạo là hợp lai nguyên khí trong người và huyền khí ngoài trời làm một dẫn
xuống biển khí (Khí Hải) dưới rốn ba thốn. Các Đạo sĩ gọi chỗ này là đơn điền
(ruộng đơn thuốc), nên luyện khí còn gọi là luyện đơn.
Bụng là trọng tâm của thân thể con người, là nơi hội tụ chơn khí, nên người ta coi bụng là thái cực vì nơi đó tiếp cận với thần kinh xương
cùn và nhóm thần kinh khoang bụng. Thế nên, khi luyện khí lấy khí mặt trời làm
động lực đầu tiên, dịch lý biểu tượng bằng quẻ Ly. Ly (con mắt) là tâm hỏa, là
nguồn gốc của thần chỉ cần hợp với tinh cơ thể nữa thì Tinh, Khí, Thần gom về một
mối mà đạt đạo bước vào hàng Thánh Thể.
Chức sắc hàng Thánh Thể phải
có Thánh Tính để độ đời, làm nước vinh đạo sáng hầu xây dựng tình huynh đệ đại
đồng.
Ngắn gọn, Đức Chí Tôn ban
cho toàn Đạo Thiên Nhãn, Thiên Mục. Đức Phạm Hộ Pháp ban Thiên Tượng, quẻ Ly
(con mắt) làm phù hiệu cho chư tín hữu đeo (như Thánh Giá bên Thiên Chúa).
Trần Văn Rạng
* Kỷ Niệm NGÀY KHAI ĐẠO Năm Đạo 86
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét