Theo Bát Quái có
tám quẻ là : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Chấn ở phương Đông.
Theo kinh Dịch cung Chấn chỉ về người trên. Yù nói người anh cả của họ Nguyễn
Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sẽ dấy nghiệp. Sao sa ở phương Tây ý nói nhà Tây Sơn
xuất hiện.
Sáu câu :
“Bao giờ trúc mọc qua sông
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng
non Tây
Đoài cung một sớm đổi thay
Chấn cung sao cũng sa ngày
chẳng còn
Đầu cha lộn xuống chân con
Mười bốn năm tròn hết số
thì thôi”
Sáu
câu nầy ứng vào việc Tôn Sĩ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước Nam. Khi đến
Thăng Long,Sĩ Nghị cho quân sĩ lập một chiếc cầu nối bằng tre ngang sông Hồng.
Sau khi dẹp được giặc Thanh. Nguyễn Huệ xưng là Quang Trung Hoàng Đế (hai câu
1-2)
Nhờ
tài ngoại giao của Ngô Thời Nhiệm Quang Trung được vua nhà Thanh là Càn Long
phong chức An Nam Quốc Vương.
Sau
hai năm ở ngôi vua, Hoàng đế Quang Trung mất. Đoài cung câu 3 có nghĩa là
phương Tây. Theo Kinh Dịch, cung Đoài là kẻ dưới, ý nói người em là Nguyễn Huệ
mất. Năm sau, Nguyễn Nhạc vì tức vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản, con của
Quang Trung) chiếm thành Qui Nhơn nên thổ huyết mà thác (Chấn cung câu 4 ám chỉ
Nguyễn Nhạc, người anh của nhà Tây Sơn). Câu 5 chỉ tên vua Quang Trung và vua
Cảnh Thịnh. Chiết tự chữ “Quang” của vua Quang Trung gồm chữ “Tiều” ở trên mà
chữ “Cảnh” của vua Cảnh Thịnh lại có chữ “Tiều” ở dưới. Thế nên mới nói : Đầu
cha lộn xuống chân con. Câu 6 nói nhà Nguyễn Tây Sơn chỉ làm vua được 14 năm.
2 . Tiên Tri về việc Phong hầu cho dân làng vĩnh
lại
“Bao giờ ngựa đá qua sông
Thì dân Vĩnh Lại quận công
cả làng”
Nghĩa
là :
Khi
nào ngựa đá qua sông được thì dân làng Vĩnh Lại đều được phong hầu.
Khi
vua Lê Chiêu Thống lánh nạn Tây Sơn trốn qua làng Vĩnh Lãi dân chúng ủng hộ nhà
vua chống lại Tây Sơn, vua Lê sẵn ấn tín đem theo mình liên phong tước hầu cho
người cầm đất dân làng. Tin truyền ra dân chúng tranh nhau xin vua phong tước
hầu cho mình. Sợ dân chúng sinh lòng phản trắc, nhà vua liền phong tước hầu cho
tất cả dân làng.
Nhiều
người cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm nhờ nghiên cứu những điều bí ẩn trong bộ sách
Thái Ất Thần Kinh mà thông suốt mọi việc quá khứ vị lai.
3 . Tiên tri về tương lại của Nhà Nguyễn :
“Phụ nguyên chính thống
hẳn hoi
Tin dê lại mắc phải mồi
đàn dê”
Ý
nói nhà Nguyễn mới là dòng dõi chính thống. Vua Gia Long nhờ sự trợ giúp của người
Pháp để diệt nhà Tây Sơn. Nhưng nhà Nguyễn cũng mất chủ quyền về tay người
Pháp. Chữ “dê” dịch nghĩa Hán là “dương” ám chỉ người Tây Dương.
Bốn câu :
“Để loài bạch quỷ Nam xâm
Làm cho trăm họ khổ trăm
lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh
nguy
Gia đình một ở ba đi dần
dần”
Hai
câu đầu chỉ việc thôn tính của người Pháp ở Việt Nam làm cho dân chúng khốn khổ
“Bạch quỷ Nam xâm” làm nhân dân cực khổ điêu đứng vì cảnh chia lìa.
Hai
câu kế, vì chống lại sự xâm lăng của Pháp, ba vị vua của nhà Nguyễn là Hàm Nghi
(bị đày sang Algérie), Thành Thái và Duy Tân (bị đày sang đảo Réunion) chỉ còn
một mình Khải Định ở lại làm vua ứng nghiệm vào câu: “Gia đình một ở ba đi dần
dần”.
4 .
Tiên tri những cuộc khởi nghĩa kháng Pháp
Kìa kìa gió thổi lá rung
cây
Rung Bắc, rung Nam , Đông tới Tây”
Sau ngày Pháp thôn tính Việt Nam các phong
trào Cần Vương trong nước và Văn Thân đều nổi dậy khắp nơi.
Bốn câu :
Tan tác KIẾN kiều AN đất
nước
Xác xơ CỔ thị sạch AM mây
LÂM giang nổi sóng mùa
THAO cát
HƯNG địa tràn dâng HOÁ
nước đầy.
Ứng
vào cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quốc Dân Đảng kháng Pháp tại Kiến An, Cổ Am, Lâm
Thao và Hưng Hoá. Thật là cảnh đất nước xác xơ như cành cổ thụ cắn trụi. Sóng
gió, cát bụi nổi lên mịt trời hoà cùng máu của các chiến sĩ gục ngã để giành
lại chủ quyền độc lập. Câu “Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua” chỉ phong trào
tranh đấu chống thực dân Pháp ở Đô Lương, Hóc Môn, Nghệ An và Thái Nguyên.
5 .
Tiên tri toàn quyền Pasquier tử nạn máy bay
Hai
câu :
“Giữa năm hai bảy mười ba
Lửa đâu mà đốt tám gà trên
mây”
Tám
gà : Hán văn là Bát kê. Đúng vào năm âm lịch nhuần hai tháng bảy, mười ba
tháng, Toàn quyền Đông Dương Pasquier mãn nhiệm trở về Pháp, dọc đường máy bay
bị nạn, Pasquier bị chết cháy giữa không trung đúng vào câu “Lửa đâu mà đốt tám
gà trên mây”
Sau
đây là Cảm đề và Sấm ký của Trạng Trình
CẢM ĐỀ :
Thanh nhàn vô sự là tiên
Năm hồ phong nguyệt ruỗi
thuyền buông chơi
Cơ tạo hoá
Phép đổi dời
Đầu non mây khói toả
Mặt nước cánh buồm trôi
Hươu Tần mặc kệ ai xua
đuổi
Lầu Hán trăng lên ngẫm
mệnh trời
Tuổi già thua kém bạn
Văn chương gởi lại đời
Dở hay nên tự lòng người
cả
Bút nghiên soi hoa chép
mấy lời
Bí truyền cho con cháu
Dành hậu thế xem chơi
SẤM KÝ :
Nước Nam từ họ Hồng Bàng
Biển dâu cuộc thế, giang
sơn đổi vần
Tự Đinh, Lê, Lý, Trần thuở
trước
Đã bao lần ngôi nước đổi
thay
Núi sông thiên định đặt
bày.
Đồ thư một quyển xem nay
mới rành
Hoà đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông Á nhật xuất
Dị mộc tái sinh.
Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh
Phụ nguyên chi thống
Đế phế vi đinh
Thập niên dư chiến
Thiên hạ cửu bình
Lời thần trước đã ứng linh
Hậu lai phải đoán cho mình
mới tường
Hoà đao mộc hồi dương sống
lại
Bắc Nam thời thế đại nhiễu
nhương
Hà thời biện lại vi vương,
Thử thời Bắc tận Nam
trường xuất bôn
Lê tồn Trịnh tại
Trịnh bại Lê vong
Bao giờ ngựa đá sang sông
Thì dân Vĩnh Lại Quận Công
cả làng
Hà thời thạch mã độ giang
Thử thời Vĩnh Lại nghênh
ngang công hầu
Chim bàng cất cánh về đâu?
Chết tại trên đầu hai chữ
Quận Công
Bao giờ trúc mọc qua sông
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng
non Tây
Đoài cung một sớm đổi thay
Chấn cung sao cũng sa
ngay chẳng còn
Đầu cha lộn xuống thân
con
Mười bốn năm tròn hết
số thì thôi
Phụ nguyên chính thống
hẳn hoi
Tin dê lại phải mắc mồi
đàn dê
Khỉ nọ ôm con ngồi khóc
mếu
Gà kia vỗ cánh trập
trùng bay
Chó nọ vẫy đuôi mừng
thánh chúa
Aên no ủn ỉn lợn kêu
ngàu
Nói cho hay khảm cung
ong dậy
Chí anh hào biết đấy
mới ngoan
Chữ rằng lục thất
nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên
anh tài
Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới rõ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến
nhân tìm về
Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về
chuồng
Dê đi dê lại tuồn luồn
Đàn đi nó cũng một môn phù
trì
Thương những kẻ nam nhi
chí cả
Chớ vội sang tất tả chạy
rong
Học cho biết chữ cát hung
Biết phương hướng đứng chớ
đừng lầm chi
Hễ trời sinh xuống phải
thì
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì
đợi mong
Kìa những kẻ vội lòng phú
quí
Xem trong mình một tí đều
không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới giăng đâu dễ nên công
mà hòng
Khuyên những đứng thời
trung quân tử
Lòng trung nghiã nên giữ
cho mình
Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
Thái nhâm, thái ất mình
cho hay
Chớ vật vờ quen loài ong
kiến
Hư vô bàn miệng tiếng nói
không
“Ô hô thế sự tự bình bồng,
Nam Bắc hà thời thiết lộ
không
Hồ ẩn sơn trung mao tân bạch
Kình cư hải ngoại huyết
lưu hồng
Kê minh ngọc thụ thiên
khuynh Bắc
Ngưu xuất Lam điền nhật
chính Đông
Nhược đãi ưng lai sư tử
thượng
Tứ phương thiên hạ thái
bình phong”
Ngõ may gặp hội mây rồng
Công danh rạng rỡ chép
trong vân đài
Nước Nam thường có thánh
tài
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ
tường ?
So mấy lề đè tàng kim quỹ
Kề sau này ngu bỉ được coi
Đôi phen đất lở cát bồi
Đó đây ông kiến dậy trời
quỷ ma
Ba con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì
tiền
Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên
Đợi tam tứ ngũ lai niên
cũng gần
Hoành sơn nhất đái
Vạn đại dung thân
Đến thời thiên hạ vô quân.
Làm vua chẳng dễ, làm dân
chẳng lành
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
Phụ nguyên số đã rành rành
cáo chung
Thiên sinh hữu nhất anh
hùng
Cứu dân độ thế trừ hung
diệt tà
Thái Nguyên cận Bắc đường
xa
Ai mà tìm thấy mới là thần
minh
Uy nghi dung mạo khác hình
Thác cư một góc kim tinh
phương Đoài
Cùng nhau khuya sớm chăn
nuôi
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu
dân
Binh thư mấy quyển kinh
luân
Thiên văn, địa lý, nhân
dân phép mầu
Xem ý trời ngỏ hầu khải
thánh
Dốc sinh ra điều chỉnh hộ
mai
Song thiên nhật nguyệt
sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì
coi cho tường
Thông minh kim cổ khác
thường
Thuấn Nghêu là trí, Cao
Quang là tài
Đấng hiên ngang nào ai
biết trước
Tài thao lược yêm bác vũ
văn
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ hung hăng
với người
Chưa từng thấy nay đời sự
lạ
Chốc lại mòng gá vạ cho
dân
Muốn bình sao chẳng lấy
nhân
Muốn yên sao lại bắt dân
ghê mình
Đã ngu dại Hoàn, Linh đời
Hán
Lại đua nhau quần thán đồ
lê
Chức nầy quyền nọ say
mê
Làm cho thiên hạ khôn
bề tựa nương
Kẻ thì phải thuở hung hoang
Kẻ thì bận của bóng
toan khốn mình
Cửu cửu càn khôn dĩ
định
Thanh minh thời tiết
hoa tàn
Trức đáo dương đầu mã
vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Trường an
Nực cuời những kẻ bàng quan
Cờ tan lại muốn toan đường
chống xe
Lại còn áo mũ xum xoe
Còn ra xe ngựa màu mè khoe
khoang
Ghê thay thau lẫn với vàng
Vàng kia thử lửa càng cao
giá vàng
Thành ra tuyết tán mây tan
Bấy giờ mới sáng rõ ràng
nơi nơi
Can qua việc nước tơi bời
Trên thuận ý trời, dưới
đẹp lòng dân
Oai phong khấp quỷ kinh
thần
Nhân nghĩa xa gần bách
tính ngợi ca
Rừng xanh núi đỏ bao la
Đông tàn Tây bại sang gà
mới yên
Sửu, Dần thiên hạ đảo điên
Ngay nay thiên số vận niên
rành rành
Long vĩ xà đầu khởi chiến
tranh
Can qua xứ xứ khổ đao
binh
Mã đề dương cước anh
hùng tậu
Thân Dậu niên lai kiến
thái bình
Sự đời tính đã phân
minh
Thanh nhàn mới kể
chuyện mình trước sau
Đầu thu gà gáy xôn xao
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào
Thăng Long
Chó kêu ầm ỉ mùa Đông
Cha con Nguyễn lại bế bồng
nhau đi
Lợi kêu tình thế lâm nguy
Quỷ vương chết giữa đường
đi trên trời
Chuột sa chỉnh gạo nằm
chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời
trước ta
Hùm gầm khắp nẻo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma
tơi bời
Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời
sa tăng
Ngựa lồng quỷ mới nhăn
răng
Cha con dòng họ thầy tăng
hết thời
Chín con rồng lộn khắp nơi
Nhện giăng lưới gạch dại
thời mắc mưu
Lời truyền để lại bấy
nhiêu
Phương Đoài giặc đã đến
chiều bại vong
Hậu sinh thuộc lấy làm
lòng
Đến khi ngộ biến đường
trong giữ mình
Đầu can vô tướng ra
binh
Aát là trăn họ thái
bình âu ca
Thân Kinh Thái Aát suy
ra
Để danh con cháu đem ra
nghiệm bàn
Ngay thường xem thấy quyển vàng
Của riêng bảo ngọc để tàng
xem chơi
Bởi Thái Aát thấy lạ đời
Aáy thuở sấm trời vô giá
thập phân
Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lúc
thất gian
Mỗi đời có một tội ngoan
Giúp chung nhà nước dân an
thái bình
Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Hoa thôn đa khuyển phệ
Mục giả giục nhân canh
Bắc hữu Kim thành tráng
Phân phân tùng bách
khởi
Nhiễu nhiễu xuất Đông
chinh
Bảo giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên
thành
Rồi đây mới biết thánh
minh
Mừng đời được lúc hiển
vinh reo hò
Nhị Hà một dải quanh co
Chính thực chốn ấy đế
đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nao
nao,
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ?
Nói đến độ thầy tăng ra mở
nước
Đám quỷ kia xuôi ngược đến
đâu ?
Bấy lâu những cậy phép mầu
Bây giờ phép ấy để lâu
không hào
Cũng có kẻ non trèo biển
lội,
Lánh mình vào ở nội Ngô,
Tề
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả hữu phù trì,cây cỏ thành
binh
Những người phụ giúp thánh
minh
Quân tiên xướng nghĩa
chẳng tàn hại ai
Phùng thời nay hội thái
lai,
Can qua chiến trận để
người thưởng công,
Trẻ già được biết sư lòng
Ghi làm một bản để hòng dở
xem
Đời này những Thánh cùng
Tiên
Sinh những người hiền trị
nước an dân
…
Nầy những lúc thánh nhân
chưa lại
Chó còn nằm đầu khải cuối
thu
Khuyên ai sớm biết khuông
phù
Giúp cho thiên hạ Đường,
Ngu ngõ hầu
Cơ tạo hoá phép mầu khôn
tỏ
Cuộc tàn rồi mới rõ thấp
cao
Thấy Sấm từ đây chép vào
Một mảy tơ hào chẳng dám
sai ngoa
CHƯƠNG V
THÁNH GIÁO
CỦA ĐỨC NGUYỆT TÂM CHƠN
NHƠN
1. Nguyệt Tâm Chơn Nhơn ban kinh
Đức
Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đã giáng cơ ban cho Đạo sáu bài kinh Thiên Đạo và Thế Đạo
như sau:
Kinh Tam Thánh
Kinh cầu hồn khi
hấp hối
Kinh khi đã chết
rồi
Kinh tẩm liệm
Kinh đưa linh cửu
Kinh hôn phối
Xin
xem nguyên văn trong Kinh Thiên Đạo- Thế Đạo
2 . Văn thơ Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn
Thánh Thất Kiêm Biên, ngày 14 tháng 2 Nhâm Thân
Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
Bần
Đạo chào Quyền Giáo Tông, Hộ Pháp, Tiếp Đạo và Hội Thánh Ngoại Giáo.
Nam
nữ Thiên phong xin nghe : nước Thiên Đường thì ít kẻ, cửa Địa ngục vẫn nhiều
người, chưa từng thấy hạng nhơn sanh nào mà tự trong thân hình, chẳng hữu ích
chi cho cả cơ Tạo mà đoạt vị Thần, Thánh, Tiên, Phật. Ngôi vị Thiêng liêng chẳng
phải do nơi sự cầu may mà đoạt đặng.
Bần
Đạo khi đắc lịnh làm Chưởng Đạo lập Hội Thánh giáo đạo tha phương, thì tùng
lòng bác ái của Chí Tôn mở rộng thế cho nhơn sanh dâng công đổi vị, Bần Đạo
chẳng kể là nguyên nhân, hoá nhân hay quỉ nhân, ví biết lập công thì thành Đạo,
Bần Đạo để cho mỗi người tự do định phận lại tuỳ thế khó khăn mà gầy thành công
quả; ấy vậy, nếu lấy phép công bình thì tự nhiên, nên thì thâu, hư thì bỏ. Bần
Đạo đã chấn thấy kẻ bất lực rất nhiều. Vậy Bần Đạo để lịnh cho mỗi vị Thiên
phong xét mình khai tội cùng Giáo Tông và Hộ Pháp, rồi sau mới định rõ đều
thưởng phạt. - THĂNG
Giáo Tông Đường, đêm 13-4-Đinh Hợi (1948)
Bạch
Vân Động Chưởng Đạo
Chào
chư chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng
Bần
Đạo kính lời cảm tạ Hộ Pháp cùng Hội Thánh có lòng nhớ đến mà tổ chức lễ kỷ
niệm của Bần Đạo long trọng. nơi Kiêm Biên cơ Đạo phải chịu một thời điêu tàn
rồi sẽ đến giờ chấn hưng lại. Bởi dân Tần còn lắm nỗi tai ương, điều ấy đã tiên
tri không thể nào tránh đặng. Phận sự của Bần Đạo lãnh lịnh ngoại giáo là trong
chư quốc, chẳng phải một nước Tần mà thôi.
H.T.
mọi hành động của con có các Đấng vô hình tiên liệu, dầu đi đến nước nào cũng
có đệ tử Bạch Vân ở nước ấy, nói chi nước Pháp hay là Trung Hoa. Con cứ tiến
hành thì đắc thẳng.
Bần
Đạo tỏ lời cảm tạ cuộc lễ và tỏ sự vui vẻ của nước Việt Nam đã được nổi danh
cùng lân bang. Nhất là Cao Đài được lừng tiếng tung hô từ năm 1946, đến nay các
nước đều để ý đến.
Hiện
giờ sự tín nhiệm Đạo Cao Đài đối với các Đảng phái được phần chú ý hơn. Vậy mọi
hành trình chỉ dùng sự chân thật là thắng hết.
Bần
đạo cám ơn chư vị có đủ lòng bác ái kết chặt mối tương thân cùng bạn đồng chủng
của Bần đạo. Ấy cũng là lòng từ bi của Chí Tôn muốn vậy mới tròn câu phổ độ
toàn nhân loại mà lập thành một mối Đại Đồng Tôn Giáo. - THĂNG .
Hội Thánh Ngoại Giáo tại Toà Thánh
Đêm 23-6-Kỷ Sửu (14-10-1949)
Nguyệt
Tâm Chơn Nhơn
Chào
chư chức sắc Hiệp Thiên Đài, Cửu Trùng .
Mấy
lúc qua, Hội Thánh Ngoại Giáo ngưng trệ vì thiên thơ tiền định. Các vị lãnh
lịnh Hội Thánh đã thi hành nguyện vọng, xét ra cũng theo lối xưa là bất đồng
tâm, bất tựu lý cùng nhau nên kẻ vầy người khác, cuộc tiến hành không căn bản,
giảm quyền Hội Thánh Ngoại Giáo. Đức Hộ Pháp đã tiên liệu có ngày, Ngài sẽ đến
phục hưng nơi ấy. Hiện tình khó khăn là bởi thời cuộc biến chuyển, cần gìn cho
còn danh thế là đủ, để các Đấng sắp đặt phương châm định thành vẻ vang hậu cận.
Xin khuyên vị Tân Chủ Trưởng cần phải bền lòng sẽ thấy nhiều kết quả từ từ đến.
Việc
làm có khó mới có công, hành Đạo có chuyển biến mới tiến triển tinh thần đạo
đức là một bài học hay cho các bậc bền chí đạt nguyện, có chi mà lo ngại. Cứ an
tâm.
Nhớ
về trước các Đấng đã tiên tri rồi “Thương thảm cho nòi giống nhà Tần”. Vì vậy
mà các hành tàng của Đạo phải chịu định phận thuận với thiên thơ. Nói ít chư
hiền khá để tâm suy gẫm mà tuỳ phương lo lắng trọn bổn phận mình.
Bần
đạo căn dặn chư hiền gắng thêm công quả, lập đức cho dày chẳng vì lẻ mọn của
đời người mà phế vong đại sự. - THĂNG .
Giáo Tông Đường, Đêm 13-4-Đinh Hợi (1948)
Bạch
Vân Động Chưởng Đạo
Chào
chư vị Chức sắc Hiệp Thiên, Cửu Trùng.
Bần
đạo kính lời cảm tạ Hộ Pháp cùng Hội Thánh có lòng nhớ đến tổ chức cuộc lễ kỷ
niệm của Bần đạo long trọng. Nơi địa phận Kiêm Biên có Đạo phải chịu một thời
điêu tàn rồi sẽ đến giờ chấn hưng lại. Bởi dân Tần còn lắm nỗi tai ương, điều
ấy đã tiên tri không thế nào tránh đặng. Phận sự của Bần đạo lãnh lịnh ngoại
giáo nay đã đến lớp tuồngnên phải lo ám trợ.
H.T
mọi hành trình của con có các Đấng vô hình tiên liệu dầu đi đến nước nào cũng
có đệ tử Bạch Vân ở nước ấy, nói chi nước Pháp hay là Trung Hoa, con cứ tiến
hành thì đắc thắng
Bần
đạo tỏ lời cảm tạ cuộc lễ và tổ sự vui vẻ của nước Việt Nam đã được nổi danh
cùng lân bang. Nhứt là Cao Đài được lừng tiếng tung hô từ năm 1946 đến nay các
nước đều để ý đến.
Hiện
giờ sự tín nhiệm Cao Đài đối với các Đảng phái được phần chú ý hơn. Vậy mọi
hành trình dùng sự chân thật là thắng hết. Họ thất bại là vì thiếu sự thật, nên
nhớ một điều ấy là đủ thắng giặc tinh thần.
Bần
đạo cám ơn chư vị có đủ lòng bác ái kết chặt mối tương thân cùng bạn đồng chủng
của Bần đạo ấy cũng là lòng từ bi của Chí Tôn muốn vậy mới tròn câu phổ độ toàn
nhơn loại mà lập thành một mối Đại Đồng tôn giáo. - THĂNG .
Saint- Siège de Tay Ninh (Hộ Pháp Đường) le
23-7-1937
(16
è jour du 6è mois de l’année Đinh Sửu)
Médiums
:
Hộ
Pháp & Tiếp Đạo
Présents
à la séance :
G.S
Thượng Chữ Thanh
Et
quelques dignitaires
De
la Mission Etrangère
NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN OU
VICTOR HUGO
Bonjour
Hộ Pháp et mes chers amis
Cao
Tiếp Đạo j’ai à vous parler personnel- lement au sujet de Charles
(Il
s’agit du Giáo sư Thượng Chữ Thanh ou Charles Hugo)
Vous
êtes idéaliste. Il suffit de vous dire que toute autorité qui mérite son nom
doit être respectée de gré ou de force. L’avenir de la mission Etrangère nous
réserve encore beaucoup de surprises au poin de vue sacrifices. Sachez bien que
Charles a été désigné par moi pour réaliser un plan très complexe. L’honneur de
tous les Missionnaires est placé au premier plan. Il dépend d’une réelle
énergie dans les paroles et dans les actes pour mettre chacun à la hauteur de
sa tâche. Le Corps entier est imbu de toutes sortes se corrup-tions, aussi bien
chez les hommes que chez les femmes, par d’effroyables procédés. Or, un
assainissement radical est absolument nécessaire. Donc, la désignation de
Charles est murement con-cue, je reconnais qu’il n’a pas tout fait pour
réussir. Il y a vraiment des défaillances, mais les résultats obtenus sont
aussi assez élogieux.
Je
vous serais donc infiniment reconnaissant de l’ai-der puissament dans sa tâche
pour aplanir les difficultés qui peuvent se produire dans l’accomplissement du
dessein de Dieu.
Cao
Tiếp Đạo répond : Je vous obéis. Je m’entendrai avec Sa Sainteté pour aider
Charles
Merci
. - A DIEU .
THƠ CỦA NGUYỆT TÂM CHƠN NHƠN
1
Đã ở nước Tần xứ sở xa
Phải coi thời thế liệu
phương nhà
Trí cao hằng giữ đường gay
trở
Mưu khéo toan lo lẽ thuận
hoà
Níu mối kinh luân đâu cũng
phận
Gìn lòng đạo đức há than
già
Trên đầu đã sẵn Thầy nâng
đỡ
Bơn bớt đừng lời hỏi thiết
tha
NTCN, 25-7-1927
2
Lễ là hạnh mến của Thần
Tiên
Khá giữ lễ nghi cứ vậy bền
Trước mặt phàm xem tuy
chẳng thấy
Chín tầng lộng lộng phép
Bề Trên.
Dặn Phong Chí đêm
9-8-1927
3
Phải biết nhứt tâm đối với
Trời
Dầu cho kín mặt khó trông
nơi
Dẫu quyền Tạo Hoá đời chưa
thấy
Lộng lộng tâm kia níu chất
đời
Dạy Đông Y Võ Văn
Sự đàn 18-8-1927
4
Mộc tặc, phòng phong tuyết
bạch đầu
Trần bì, thục địa ám minh
châu
Đào căn, chỉ thiệt hồng
hoa kiến
Nhãn nhục, xuyên tâm hoả
lựu sầu
Quân tử, mạch môn, cam
thảo thuận
Kỳ nam, viễn chí, khổ qua
mâu
Hồ giao, lộc giác, y căn
thủ
Trạch tả, càn cương thiếu
khách hầu
Trách Ông Sự đàn
20-8-1927
5
Hữu tài vô đạo bất vi nhân
Tạo thị xuyên âm thị mịch
thần
Hám lợi vô mưu hà kế đắc
Chỉ tri nhứt nhựt độ vinh
thân
NTCN báo tin Chí Tôn xá
tội Ô. Sự
Đàn 28-8-1927
6
Phụng đến bờ dương trổi
tiếng kêu
Gió mê vừa lạc lạnh phòng
tiêu
Đỡ nâng vạc cả nhờ Chung
Thị
Gánh nỗi ngôi thiên tưởng
Tiểu Kiều
Mở mắt hồng nhan hờn đức
kém
Rạng mày thục nữ giận tài
nhiều
Bóng trăng khuất núi trời
hầu tối
Liệu thử phương hay trở
bóng thiều.
Đàn 22-9-1927
7
Trần thế luôn gây náo
nhiệt trường
Lánh nguy nguồn Đạo vẹn
tìm phương
Vùi sầu nay gắng chung vai
gánh
Hưởng phước sau may hiệp
bước đường
Cay đắng lần soi gương trí
tuệ
Chia phôi chờ trãi lối
tang thương
Dặn mình tua chặt trong
gang tấc
Sau trước lòng son giữ
đặng thường
Đàn 9-4-1928
8
Vinh hiển tuy chưa toại
thửa nguyền
Phép nhà vẹn giữ cũng nên
duyên
Thảo ngay lòng nhớ lâu
truyền hiếu
Chánh trực xa nghe giỏi
tấc thiền
Dặn gió chờ ngay đài các
đến
Trường danh có lúc đề nêu
tên
Coi mình khá giữ mình cho
vẹn
Cái đạo trượng phu thế mới
bền
Ban cho Hiển Trung
tháng 6-28
Và câu đối làm Đạo Hiệu
:
HIỂN tổ vinh tông khả
dĩ trượng phu chi Đạo
TRUNG quân ái quốc thị
tri thần tử chi tâm
9
Mặt nhựt rạng nhờ trời
thanh bạch
Cõi trần nay nhờ khách
đức dày
Mùi thơm sen Phật cao bay
Từ bên Đông Á phô bày Tây
Aâu
Nước hằng sống nửa đầu thế
sự
Chuyển chơn linh đối dữ ra
lành
Vạn bang dẹp cuộc chiến
tranh
Lập cơ thoát khổ độ sanh
muôn loài
Kể vì mị đoái hoài giả đạo
Kẻ hay tin quái giáo gây
trò
Nguyên nhân lỡ bước ai lo
Dẫn đường Cực Lạc đưa đò
mê tân
Khách mở ngõ thiền lâm cho
chóng
Các ngươn linh trông ngóng
bấy lâu
Biết thân lại đợi ai cầu
Lục Nương tiếp :Cầm gươm
thần huệ xây lầu tuyệt oan
(Lục Nương DTC tức bà
Jeanne d’Arc )
Giục thế sự an nhàn lấy
phận
Lửa thiên cơ khỏi vấn
vương oan
Để chân vào chốn Niết Bàn
Thoát vòng luân chuyển
mong đàng thiện duyên…
Đàn 16-2-Tân Vị
(1-1932)
Vào
ngày 20 tháng 4 năm 1930, Đức Hộ Pháp chấp bút, Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn giáng
cơ dạy về quyền lực của Đấng tạo ra Càn Khôn và Vạn vật.
Nguyên
văn tiếng Pháp trong HISTOIRE ET PHILOSOPHIE DU CAODAISME dưới đây là bản dịch
của Đức Hộ Pháp.
Đức
Hộ Pháp hỏi :
Nhờ
Ngài cho biết về do lai Đức Chí Tôn và quyền hành Người tạo ra Càn Khôn cùng
vạn vật.
Đức
Nguyệt Tâm Chơn Nhơn đáp :
Hiểu cho đặng huyền vi khó
nổi
Tra khuông hồng tỏ mối
không minh
Theo tôi nghĩ thế giới
mình
Ngoài ra còn có lắm hình
Càn Khôn
Nhiều thế khác biệt phân
lớn nhỏ
Sinh tồn loài vật nhỏ y
nhau
Một ngôi nào đó lên cao
Về thần hồn với về loài
chúng sinh
Cũng có lúc giống mình y
hệt
Tiến hoá nâng khí phách
nên hiền
Mây trời đẹp vẻ thiên
nhiên
Vật loài đều hưởng trọn
quyền Chí Linh
Các quả cầu thái bình yên
tịnh
Cả chúng sanh dốt tánh
can qua
Tương đối dứt, tuyệt đối ra
Chơn hồn tranh đấu về khoa
tánh lành
Sanh chi cũng quang minh
cách trí
Quyền linh hồn chủ quỉ
phàm tâm
Thế hèn luật cũng không
cần
Tương thân chỉ cậy nhờ
phần đức tin
Cái chết bị tâm linh đánh
bại
Sống chết dường trái phải
không phân
Thương sanh truyền khắp xa
gần
Hồn và người vốn Thánh
Thần hiển nhiên
Như thế giới Càn Khôn ta
có
Sanh hoạt này quả có nên
nhiều
Địa cầu chừng đặng cao
siêu
Các Ngài rõ giá những điều
phân phô
Đức Hộ Pháp :
Chừng nào địa cầu
nầy hưởng đặng điều ấy ?
Đức Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn :
Thần linh dụng tiếng giúp
Ngài hiểu
Cho tỏ tường phẩm hiệu
dường bao
Qua luyện tôi, Thánh chất
vào
Còn lâu nữa mới lâm trào
Phật Tiên
Muốn biết đặng căn nguyên
từ pháp
Ở cùng người hoặc đạt hiểu
người
Chẳng hồn nào quyết định
bồi
Thích Ca thì cũng để lời
phỏng ngôn
Chớ coi trọng lời tôn bày
tỏ
Tôi thuật lời tưởng ngỡ
chơn linh
Tỉ như lúc trước chí linh
Có sanh ở một cành hình
Càn Khôn
Người cũng đấng phẩm hồn
hậu bổ
Vật nên người, người trở
nên hiền
Lần hồi lên phẩm thiêng
liêng
Khai thiên người mới đạt
quyền chí linh
Đã chịu lắm sinh sinh tử
tử
Đủ quyền linh làm chủ trí
khôn
Lại thay thâu phục chơn
hồn
Đặng làm thần độ vĩnh tồn
triều nghi
Đài thiên cảnh vừa khi
đặng lớn
Dắt triều đình vào chốn
không trung
Đức
Hộ Pháp :
Vậy
khi ấy Người đã có Thiên cung riêng của Người rồi hay sao ?
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn :
Phải, mỗi đứa riêng trong cảnh giái
Cửa chúng ta tạo lại linh hồn
Hồn người do bởi giác hồn
Tạo nên cảnh giới cộng làm chánh cung
Trong các Đấng lòng trung vẫn ít
Phần đông do kẻ nghịch oan khiên
Tu chơn bỏ máy diệu huyền
Thì ta mở lối cảnh thiên quỉ vào
Quỉ vương hỏi nơi nào mà đến
Cứ tầm chân dừng tiến giả truyền
Chắc do trong đám triều thiên
Chí linh khó sửa chờ truyền chánh tâm
Ta hằng bị tình thân phản nghịch
Đố kị cùng vui thích hại ta
Hộ Pháp tay Ngài tê quá thay là
Đêm mai tôi tiếp nói
qua chuyện này
10
giờ đêm 21-11-1930
Lại tiếp chuyện khai thiên tôi nhận
Cùng kính phương
học vấn của Ngài
Chí Tôn tới chốn Dạ đài
Bình an phẳng lặng không loài động sanh
Trong thứ không danh
mây nước
Vật chất sinh ngũ ước
vô chừng
Hào quang bao phủ mây
vàng
Vật không biến hoá, thú
ngừng không sanh
Đức Hộ Pháp :
Thưa có
phải là hình nước trong Sấm truyền Đạo Thánh đã nói đó không ?
Đức Nguyệt Tâm :
Phải, thứ khí kêu tên thuỷ
khí
Đông đặc nhiều xem kỹ
đứng đầu
Rằng trời, mặt nước ngự
chầu
Thì nên phải hiểu cao
sâu thế này
Chơn thần người dẫy đầy áng sáng
Lấy dương quang ấp đảng vô
năng
Sinh làn hoả khí bao giăng
Âm dương tương khắc nổ làn
thiên thanh
Thái cực nổ với hình nguyên
thuỷ
Hai quyền năng dục khí hoá
cơ
Vật tiêu hoá khí, khí nhơ
Tiêu thành nguyên khí đến
giờ sanh quang
Khí sanh quang ấy toàn
linh cảm
Định linh hồn sống chết
nơi tay
Dị thường sanh hoá rất hay
Sau nầy tôi cũng thấy hoài
huyền linh
Vật chi do tài tình sư
phụ
Ta không phương hiểu thấu
cho cùng
Lửa Thái cực lớn vô cùng
Dẫy cùng thế giới muôn
trùng hoả tinh
Phân phát hoá nên hình
phải tuyệt,
Cùng Càn Khôn rải riết
không ngằn
Hoả tinh lớn hoá nhựt
quang.
Nhựt tinh nguội lạnh cả
tràng thế gian
Nơi nào ánh dương quang
chiếu diệu
Vạn vật gồm đại tiểu đều
thông
Chí linh tánh đức bao trùm
Hữu sanh ai cũng dự cùng
nhứt linh
Các ngươn khí ánh linh
chiếu thấu
Khí trược ngưng, thứ xấu
trạch hình
Thổ mộc, thú,nhơn, vạn
linh
Bán thanh sanh khí, thanh
thành hạo nhiên
Khối linh cảm ban truyền
vạn loại
Tuỳ theo hàng phẩm lại vừa
chừng
Hồn linh sang hưởng hồng
ân
Còn bên thể phách về phần
sanh quang
Ngài đã rõ hành tàng sót
lại
Tới đây tôi đành phải
ngưng văn
Đức
Hộ Pháp :
Sự
hung ác và sự vô ích của loài người, loài vật và thảo mộc, các đức tánh của vật
loại khó lấy trí khôn người là mức khen cho đặng.
Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
Không vô ích dữ hiền mặt
thế
Sống phải toan tìm kế nuôi
thân
Chí Tôn con cái đều cân,
Lòng thương kia phải dành
phần lợi sanh
Cho tấn hoá Người hành đau
thảm
Người phải cho mô phạm bảo
thân
Dưới đời mấy mặt hiền nhân
Với ta gọi dữ họ cần ích
riêng
Sao đăng tiếng Thánh Hiền
các Đấng
Sử nhơn gian bằng chứng
chép ghi
Đấu tranh mạnh yếu thường
khi
Xem ra thấy mạnh cũng thì
phần hơn
Lẽ mạnh yếu thiệt hơn
chiến đấu
Năng trí mưu cơ xảo nên
hay
Cảnh phàm tương đối là đây
Dữ vô dụng ấy là lời bia
danh
Nơi hoàn vũ cá sanh có chỗ
Các trời kia lớp ngõ học
đường
Càn khôn thế giới là
trường
Chư hồn đến học cho thường
mới hay
Kẻ nào những bỏ bài trốn
mãi
Không đặng lên học lại bài
xưa
Các hồn ai cũng mến ưa
Sách thiêng liêng đọc mấy
tờ vĩnh sanh
Ai cũng ước công thành
danh toại
Phải nhiều thời, nhiều
phép, nhiều kinh
Vật hèn tối phẩm, tối linh
Con đường đi biết mấy
nghìn thời gian
Chung cuộc hiểu hành tàng
ta đã
Sau mới tường căn quả Chí
Linh
Biệt phân đẳng cấp tánh
tình
Là phương dành để cho mình
sánh cân
Trong học thức Ngài cần
quãng đại
Phân tánh người nơi cái
tài ba
Đem người phàm tách cho
ra
Ngoài vòng Thánh chất
chánh tà phân minh,
Lấy gương tốt để dành Hội Thánh ,
Năng dạy khuyên các cánh
bất trung.
Đừng nên ghét kẻ gian
hùng,
Coi phần hồn trọng độ giùm
là hay
Cứ thương mãi giúp cho
nhân loại
Chơn lý kia cạn giải đôi
lời
Từ bi, bác ái, và Trời.
Đức Hộ Pháp :
Hễ làm cha thì làm
cha, còn làm thầy thì làm thầy cớ sao Đại Từ Phụ lại xưng Thầy rất ư khó hiểu ?
Đức Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn :
Người cũng vốn cha Thầy
luôn Một
Cả chơn linh hài cốt nơi
Người .
Nuôi mình dùng vật xanh
tươi
Tạo hồn lấy phép tột rồi
Chí Linh
Nơi người vốn quang minh
cách trí
Tấn hoá hồn phép quí không
ngưng.
Vật hèn trước mặt thành
trần,
Hồn hèn Người lại dành
phần Phật Tiên
Luật thương yêu quyền là
công chánh
Gần thiện căn xa lánh phàm
tâm
Làm cha nuôi sống âm thầm,
Làm Thầy lại nhượng phẩm
Thần ngôi Tiên.
3 .
Thơ của Victor Hugo
STELLA
Je m’étais endormi la nuit
près de la grève
Un vent fraism’eveilla, je
sortis de mon rêve,
J’ouvris les yeux, je vis
l’étoile du matin
Elle resplendissait au
fond du ciel loitain
Dans une blancheur molle,
infinie et charmante
A quilon s’enfuyait
emportant la tourmente
L’astre éclatant changeait
la nuée en duvet
C’était une clarté qui
pensait, qui vivait;
Elle apaisait l’écueil où
la vague déferle;
On croyait voir une âme à
travers une perle
Il faisait nuit encor,
l’ombre régnait en vain,
Le ciel s’illuminait d’un
sourire divin
La lueur argentait le haut
du mât qui penche;
Le navire était noir, mais
la voile était blanche;
Des goelands debout sur un
escarpement ,
Attentifs, contemplaient
l’étoile gravement
Comme un oiseau céleste et
fait d’une étincelle.
L’océan qui ressemnle au
peuple allait vers elle,
Et, rugissant tout bas, la
regardait briller.
Et semblait avoir peur de
la faire envoler.
Un ineffable amour
emplissait l’étendue.
L’herbe verte à mes pieds
frissonnait éperdue,
Les oiseaux se parlaient
dans les nids; une fleur
Qui s’éveillait me dit :
c’est l’étoile ma soeur.
Et pendant qu’à longs plis
l’ombre levait son voile
J’entendis une voix qui
venait de I’étoile
Et qui disait : - Je suis
l’astre qui vient d’abord
Je suis celle qu’on croit
dans la tombe et qui sort
J’ai lui sur le Sina, j ai
lui sur le Taygète
Je suis le caillou d’ or
et de feu que Dieu jette
Comme avec une fronde, au
front noir de la nuit
Je suis ce qui renait
quand un monde est détruit
O nations ! je suis la
Poésie ardente
J’ai brillé sur Moise et
j’ ai brillé sur Dante
Le lion océan est amoureux
de moi
J’arrive , Levez-vous,
vertu, courage, foi !
Penseurs, esprits, montez
sur la tour, sentinelles
Paupìeres,
ouvreg-vous, allumeg-vou, prunelles
Terre, émeus le sillon, vie, éveille le bruit ,
Debout, vous qui dormez !-car celui qui me suit
,
Car celui qui m’envoie en avant la première,
C’est
l’ange Liberté, c’est le géant Lumière. Jersey, 31 aout 1853
VÌ SAO SÁNG
Đêm qua ta ngủ bên ghềnh
Một cơn
gió thoảng làm tan giấc nồng
Ngẩng nhìn trong khoảng
mênh mông,
Sao Mai lấp lánh hiện
trong sương mơ,
Gió bấc thổi cơ hồ bão tố.
Aùnh sao ngời rạng rỡ mây
tuông,
Aùnh sao linh động vô
cùng.
Đánh tan hiểm hoạ chận
ngừng phong ba
Ngọc trong suốt hồn hoa
một điểm
Trời còn đêm mà tối dường tan
Nụ cười nở nét cao sang
Bạc như dội ánh ngọn buồm
nghiêng nghiêng
Thuyền đen thẫm buồm lên
trắng xoá,
Đàn chim khuya lặng ngắm
bên triền.
Ngắm nhìn trong khoảng vô
biên,
Sao như thần điểu trong
đêm sáng ngời.
Trùng dương từ khắp nơi
viễn xứ.
Đều tiến về coi tỏ bóng
sao.
Nhẹ gầm sợ tiếng sóng
trào,
Sao kia vụt biến khôn nào
lại trông.
Đức bác ái khắp trong muôn
vật
Từ cỏ xanh chuyển gót chân
ta.
Tổ êm chim cũng thiết tha.
Thầm thì to nhỏ chan hoà niềm vui
Đoá hoa tỉnh giấc mai
kể le,å
Và tâm tình “sao ấy chị
ta”.
Khi đêm cuốn bức rèm
hoa
Tai nghe vọng tự phương xa đưa về
Sao nhắn nhủ : Ta muôn thu
trước
Mà loài người tưởng thác
đã lâu
Hiện về từ đáy mồ sâu,
Đã từng soi sáng thuở nào
Si-na.
Về Thánh địa giữa đêm tăm
tối,
Lúc suy vi ta lại hiện ra.
Lửa thần, vàng rắc chói loà,
Ta : thơ
hùng tráng, hỡi này Thế nhân !
Từng soi bóng Môi (Moise)
Đăng (Dante) muôn thuở
Biển oai hùng cũng phải nể
vì
Ta đã tới ! Hãy đứng lên !
Hãy đem dũng cảm , lòng
tin đặt vào
Hỡi bao những bậc vĩ nhân
Thapo Đời hãy thử nghiêng
mình mà coi
Mở bừng sáng chiếu ngời
nhãn lực
Lòng đất rung chuyển mạnh
nhịp đời
Đứng lên ! tỉnh dậy đi
thôi
Ta đây sứ giả vâng lời
hiện ra
Báo tin trước gần xa Chúa
ngự
Đức Chí Tôn, nguồn sáng
bao la
Là nguồn hạnh phúc tự do
ĐĐNS
UNITÉ
Par-dessus l’horizon aux collines brunies,
Le soleil, cette fleur des splendeurs infinies
,
Se penchait sur la terre à l’heure du couchant;
Une humble marguerite, éclose au bord d’un
cham,
Sur un mur gris, croulant parmi l’avoine folle
Blanche, épanouissait sa candide auréole;
Et la petite fleur , par-dessus le vieux mur,
Regardait fixement dans l’éternel azur
Le grand astre épanchant sa lumière immortelle
Et moi, j’ai des rayous aussi ! lui
disait-elle.
Granville,
juillet 1830
Dịch
bài UNITÉ
CHỈ MỘT
Chân trời xa lộng bóng triền đồi
Bất tận chói chang hoa mặt trời
Nghiêng chiếu trần gian
giờ cúi lặn
Ven đồng cúc dại nở
gương soi
Tường lam đỗ giữa lúa
hoang điên
Nở trắng trinh nguyên
ánh hiển vinh
Hoa nhỏ vươn cao trên vách cũ
Ngắm nhìn bầu vĩnh cửu
thiên thanh
Mặt trời luôn toả hào
quang xuống
“Hoa nhủ trong tôi có
ánh linh”
Vân
Đằng dịch
Ý thơ : Trời và hoa “Vạn vật đồng nhất thể”, thể và dụng : “nhất tức nhất
thiết, nhất thiết tức nhất”. Thế nên bất cứ đâu cũng có đạo, bất cứ giờ nào
cũng có thơ, chỉ cần cái tâm hoà vào vũ trụ.
CHƯƠNG VI
NHẬN ĐỊNH VỀ DANH NHÂN
CỦA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU
1 . Về
Nguyễn Trãi :
A / Quan niệm về lòng nhân ái :
Nguyễn Trãi đấu tranh để giải
phóng dân tộc cũng là để đạt được sự thương yêu nhau giữa con người với con nguời,
là sự quý trọng nhau, dân chủ và
côngbằng. Để chống xâm lược, Nguyễn Trãi đề cao chính nghĩa để tập hợp nhân
dân. Đó là hợp quy luật và hợp lòng người. Do đó mà có sức mạnh.
Ông
nói:
“Dựng gậy làm cờ, bốn
phương dân cày tập hợp
Rượu hoà nước, dưới trên
đều một bụng cha con
Rút cục, lấy đại nghĩa mà
thắng hung tàn,
Lấy chí nhân mà thay cường
bạo”.
(Bình
Ngô Đại Cáo- Nguyễn Trãi toàn tập, tr.79, NXB KHXH, H 1996)
Nguyễn
Trãi đã nhận thức được hai mặt đối lập của chiến tranh, nhận thức được mâu
thuẫn trong chiến tranh, một mâu thuẫn vô cùng gay gắt. Đó là :
Ít
địch nhiều
Yếu
đánh mạnh
Và
tìm cách thống nhất hai mặt đối lập đó, biết cách giải quyết mâu thuẫn.
Cách
thứ nhất bằng sức mạnh chính trị, tinh thần, bằng ý thức độc lập, tự do của
toàn dân,
“Xét như
nước Đại Việt ta,
Thật là một nước văn hiến
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trải Triệu, Đinh, Lý,
Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống,
Nguyên đều chủ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc lác
nhau
Mà hào kiệt không bao
giờ thiếu”
(Bình Ngô Đại Cáo, sđd,
tr. 77)
“Khi bão mới hay là cỏ
cứng
Thuở nghèo thì biết có
tôi hiền”
(Quốc Âm Thi Tập, sđd , tr. 40)
Sau sức mạnh chính trị tinh thần, Nguyễn Trãi mới nói đến tài thao lược :
“Ta
đã tuyển quân, chọn hiểm để bẽ gãy mũi dùi (bẽ gãy tiền phong) Lại điều kỵ binh
đón đường cắt lương thực”
Và
“Giặc
cùng đường kiệt sức,chờ chết bó tay
Ta
mưu phạt đánh vào lòng, không chiến và cũng thắng (không đánh mà tự khuất)”
(Sđd
, tr. 80)
“Được thời có thể, thì mất
biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn
Mất thời không thể, thì
mạnh hoá ra yếu, yếu lại thành nguy”
(Quân
trung từ mệnh tập, sđd, tr. 132)
Ông
thấy ham mặt đối lập của sự vật, thấy mâu thuẫn của sự vật, thấy sự vật là có
vận động, biến hoá và con người phải đấu tranh để thích nghi với sự vật. Ông
nói :
“ Yếu đánh mạnh hay đánh
bất ngờ
Ít địch nhiều thường dùng
mai phục”
(Bình
Ngô Đại Cáo, sđd tr. 79)
Nguyễn
Trãi còn thấy mối quan hệ giữa chủ quan và khách quan và có tư tưởng thích nghi
với khách quan nên ông đã có tính năng động của chủ quan, tính quyết định của
khách quan trong mối quan hệ với khách quan. Ông nói :
“Khi Linh Sơn lương cạn
mấy tuần
Lúc khôi luyện quân không
một lữ
Bởi trời muốn thử ta để
trao trách nhiệm
Nên ta cùng quyết chí để
vượt gian nan”
(Bình Ngô Đại Cáo, sđd. Tr. 85)
Đã do trời mà biết thời
Lại có chí để công
thành”
(Phú núi Chí Linh, sđd, tr. 85)
Chữ “trời” này của Nguyễn Trãi có thể là trời và cũng có thể là hoàn cảnh
khách quan, là thời thế .
Và :
“Kể ra thời có khi thịnh khi suy, thế có kẻ mạnh kẻ yếu, cũng là lẽ trời
lòng người thuận hay nghịch hướng theo hay trái ngược”
(Quân
trung từ mệnh, sđd. Tr. 157)
Qua
những tư tưởng này của Nguyễn Trãi có thể nói ông đã bước một chân sang địa hạt
duy vật;
Nguyễn
Trãi là một nhà tư tưởng vĩ đại của dân tộc ta;
Ngày
giỗ ông con cháu đời đời biết ơn, tưởng nhớ Cụ và mãi mãi học tập Cụ, gìn giữ
văn hoá Việt Nam .
(Theo
tạp chí Xưa& Nay)
B /
Quốc âm thi tập
Trong
“Ức Trai Thi Tập” thì “Quốc Âm Thi Tập” là sản vật quý nơi di sản Nguyễn Trãi
để lại
Nguyễn
Trãi thi hào, danh nhân văn hoá, nhà chính trị quân sự, ngoại giao lỗi lạc. Bên
những điều ghi nhận thoả đáng đó, trong ý thức tôi, hình ảnh ông-một nhà
chínhtrị, một trung thần của triều Lê vẫn gây ấn tượng mạnh mẽ hơn cả. “Quốc Âm
Thi Tập” xuyên suốt 254 bài thơ, thắp lên tấm lòng của một trung thần trung
thành với triều đình với công cuộc kiến quốc của nhà Lê.
Hiển
nhiên, cuộc đời và sự nghiệp Nguyễn Trãi gắn liền với sự hưng thịnh của nhà Lê
nhất là với vị vua đầu tiên khai lập triều đại này : Lê Thái Tổ mãi mãi tên
tuổi Nguyễn Trãi xối qua thời gian vẫn là tấm lòng của một trung thần.
Ông
làm thơ, là thơ của một hiền triết buổi chưa gặp chúa để thờ, và khi về ở ẩn
(thôi làm quan).
Không
là tuyên ngôn nhưng “Quốc Âm Thi Tập” đã tỏ rõ điều này :
“Càng một ngày càng ngặt
đến xương
Ắt vì số mệnh, ắt văn
chương”
Văn
chương chưa bao giờ là mục đích và sự nghiệp của nhà chính trị Nguyễn Trãi. Mục
đích của sự nghiệp đời ông là kinh bang tế thế. Dù khi lâm vào cảnh bi quan
nhất, không được mang tài đức để phụng sự non sông, trong ông vẫn ngùn ngụt
ngọn lửa của khát vọng dựng xây xã tắc :
“Những vì chúa thánh ân
đời trị
Há kể thân nhàn tiếc tuổi
tàn”
Quốc
Âm Thi Tập là thơ của người ở ẩn, cảnh sắc là cảnh sắc ở ẩn “Giũ bao nhiêu bụi
bụi lầm/ Giơ tay áo đến tùng lâm” “Am trúc hiên mai ngày tháng qua”. Nhưng, nỗi
niềm trong thơ lại của người ôm mộng việc dân, việc nước. “Bát cơm xơ nhờ ơn xã
tắc/ gian lều cỏ đội đức Đường Ngu” “Cối lạnh hồn thanh chăng khứng hoá/ Aâu
còn nợ chúa cùng cha”, “Quân thân chưa báo lòng cánh cánh/ Tình phụ cơm trôi áo
cha”, “BỤI MỘT TẤC LÒNG ƯU ÁI CŨ/ ĐÊM NGÀY CUỒN CUỘN NƯỚC TRIỀU ĐÔNG”
Hầu
như cuộn chảy xoáy xiết, suốt “Quốc Âm Thi Tập” dồn dập dâng dậy tấm lòng của
một con người không một phút ngưng nghỉ, hướng về xã tắc với niềm khắc khoải chưa
thấu thoả, dội lên vầng sáng của một khối ý chí hừng hực khát vọng hiến dâng
sức mình vào đại sự nước nhà.
“Vua Nghiêu Thuấn, dân
Nghiêu Thuấn
Dương như ta đà phí sở
nguyền”
Ý
chí của một tấm lòng chưa thoả nguyện cập đến thân phận KHUẤT NGUYÊN như một
niềm tương ngộ “Ngâm sách thằng chài trong thuở ấy/ Tiếng trào dậy khắp Thương
Lang”, “Thương Lang mới khẳm một thuyền câu; “Ca khúc Thương Lang biết trọc
thành”..
Thơ
ông khi vận đến KHUẤT NGUYÊN nguyện chia sẻ nỗi niềm trắc ẩn của mình.
Tôi
bắt gặp bóng dáng thi nhân của Nguyễn Trãi, ở những nơi cảm phiền này. Nỗi lòng
phiền muộn của ông được cất giữ quá sâu kín, nó chỉ kịp thoát ra đôi chỗ thẳng
hoặc trong khối lượng 254 bài thơ “Quốc Âm Thi Tập”. Còn lại ngự trị và khắc
dụng trong ông là tấm lòng mang vời vợi khát vọng của con người luôn hướng công
nghiệp của xã tắc. Chính điều này phổ lên thơ Nguyễn Trãi sự bề thế của triết
lý một thế giới quan sâu rộng.
Sở
dĩ hậu thế biến đến ông như một thi hào, bởi tấm lòng cũng như khối tình của
ông gắn với non sông xã tắc quá lớn lao sâu đậm, đến đỗi khi ông mượn thơ để tỏ
lòng và gửi cùng nỗi niềm của mình, tự điều đó đã lan toả thành thứ ánh sáng kỳ
diệu khởi phát từ một tâm hồn vạm vỡ trầm kết.
Văn
chương đối với ông chưa bao giờ là mục đích, là sự nghiệp. Nhưng, văn chương
cũng không phải là xa lạ “Một thân lẩn quất đường khoa mục/ Hai chữ mơ màng
việc quốc gia”, “Thừa chỉ ai rằng thời khó ngặt/ Túi thơ chứa hết mọi giang
san”
Thơ
ông trùng khít với khối tâm sự của một tấm lòng trung quân ái quốc. Tâm sự của
ông vượt qua thế sự, vượt qua cái triều đại mà ông hằng canh cánh bên lòng.
Vầng sáng của nó toả đến hậu thế, là ánh sáng vằng vặc của một khối tình gắn
chặt với non sông xã tắc.
(Theo Dương Kiều Minh)
2 .
Nguyễn Bỉnh Khiêm
A/
Quan điểm mỹ học :
Chúng
ta được thấy ở Nguyễn Bỉnh Khiêm mọi tư duy triết học cũng như mọi tư duy hình
tượng của ông qua thơ văn đều lấy con người làm trung tâm. Ông ước mơ cảnh thái
bình cho nhân dân, ông đau lòng nhìn nhân tình thế thái đổi thay, xa rời đạo lý
cũng vì con người. Về mặt mỹ học, đó là lý tưởng cao nhất, lý tưởng nhân văn mà
mọi nhà hiền triết, mọi nhà cách mạng chân chính đều tự trao cho mình trách
nhiệm phải đấu tranh thực hiện. Sống trong thời kỳ đen tối của lịch sử dân tộc,
Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dành cả cuộc đời mình vào việc giáo dục con người theo lý
tưởng thẩm mỹ ấy. Qua thơ văn ông đã gửi lòng ưu ái và những lời khuyên răn đến
mọi tầng lớp người, từ vua chúa đến thứ dân, chỉ mong những lời thơ, câu văn ấy
có thể giúp cho người đời trở về cuộc sống thiện. Theo ông, cái đẹp cao cả không
tách rời với cái thiện (ở lành, làm lành) và cái thiện ấy phải xây dựng trên cơ
sở của sự thật đang diễn ra trong cuộc đời. Không từ cái chân thiết thực ấy,
cái đẹp cũng chỉ là những lời nói suông, những ước mơ hão.
Vì
vậy, trong thơ văn của ông, nổi hằn lên rõ nét con người của xã hội đương thời,
sự tha hoá con người trong quan hệ lẫn nhau, đồng thời ông cũng nêu lên những
nét đẹp của con người có đạo lý .
Đối
với một nho sĩ có bề dày học vấn như Nguyễn Bỉnh Khiêm, quan niệm như trên về
cái đẹp gắn liền với cái thiện và cái chân, lấy con người làm trung tâm, quả là
một hiện tượng hiếm có. Thậm chí có những tư tưởng rất gắn với chúng ta hôm
nay, ví dụ đối tượng của ông trong thơ và nhạc không phải là con người chung
chung mà là con người lao động, người dân cày, chài lưới bình thường. Sở dĩ ông
vượt lên người đồng thời với quan điểm bình dân ấy là do bản lĩnh độc lập về
nhận thức tư tưởng của ông và cũng do tác động của hiện thực đời sống của đất
nước vào thế giới quan, nhân sinh quan của ông. Người thầy học uyên bác Lương
Đắc Bằng đã hết lòng truyền dạy cho ông về dịch lý cả Hán nho, cả Tống nho,Tống
nho có nhiều phái : Chu Đôn Hy, Anh em họ Trình, Chu Hy, Thiệu Ung …. Đối với
Nguyễn Bỉnh Khiêm là cả một sự chọn đường sao cho thích hợp với nhân cách của
mình và có ích cho đời. Nhiều nhà nghiên cứu còn phân vân chưa biết Nguyễn Bỉnh
Khiêm chịu ảnh hưởng của phái nào trong Tống nho (Giáo sư Phan Văn Các), giáo
sư Bùi Văn Nguyên có nhắc tới Thiệu Ưng nhưng chưa có thái độ khẳng định trên
cơ sở khoa học đang còn tìm hiểu. Bình sinh, Nguyễn Bỉnh Khiêm rất coi trọng
thực tiễn, âu đó cũng là thái độ của các nhà trí thức chân chính của dân tộc.
Chính Hồ Quí Ly một trí thức lớn của ta từng nói về Tống nho như sau: “Trình,
Chu đều học giỏi, nhưng cả hai đều không biết gì về thực tế, chỉ biết ăn cắp
văn của tiền nhân..”
Hồ
Quí Ly đã mạnh dạn đề cao yếu tố thực tiễn trong vấn đề triết học Tống nho.
Nguyễn Bỉnh Khiêm tỏ rõ gần với Thiệu Ung hơn là với các bậc thầy khác trong lý
học. Hai bậc hiền giả này giống nhau ở hoàn cảnh sống, ở cung cách xử thế. Cả
hai đều sống nghèo và cùng hoà đời mình trong đời sống của dânchúng. Thiệu Ung
là một viên quan nhỏ, nhà thanh bần, có lúc sống lang thang trong tầng lớp
nghèo hèn, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng xuất thân như vậy, chỉ trừ tám năm làm quan
sau khi đỗ trạng nguyên. Khi lui về Trung Am, ông lại trở về với môi trường
quen thuộc của mình, giữa các bô lão các lão nông, láng giềng thôn xóm nghìn
đời. Gia tộc Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải là một thế gia vọng tộc, cha và ông
nội của Nguyễn Bỉnh Khiêm được phong tước công là do lệ truy phong và thế tập
của triều đình sau khi ông được phong Trình quốc công lúc mất (bản thân các vị
nói trên cũng chỉ là những người bình thường). Do cuộc sống riêng mình và hiện
thực chiến tranh, Nguyễn Bỉnh Khiêm rõ ràng đã định hướng tư tưởng cho mình là
đứng về phía nhân dân, đứng về phía hoà bình và nhân ái. Ông đã chủ động xử lý
những huấn điều của đạo Khổng một cách hợp lý,chỉ giữ tinh hoa tích cực là
khuynh hướng triết học nhập thế, lấy chữ nhân và chữ gốc dân làm chuẩn. Về lý
học, ông không theo Thái Aát thần kinh mang tính Đạo giáo với khuynh huớng lánh
đời và vị kỷ của Đường Hùng, mà nghiêng về quan vật (trên cơ sở quan sát sự
vật) của Thiệu Ung, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp tục nền học của Tống nho với bản
lĩnh độc lập của mình.
Nguyễn
Bỉnh Khiêm quan tâm nhiều nhất đến văn chương và âm nhạc. Nói về văn chương
chúng ta thấy ông hay dùng chữ : cái bả văn chương, cái luỵ văn chương như
những câu sau đây : Bình sinh vô hạn, văn chương ngộ (trong cuộc sống vô hạn,
phạm phải cái lầm làm văn chương) - Trung Tân ngụ ý 3.
Văn
chương đa ngộ chung vi luỵ (lầm vướng cái bả văn chương nên phải luỵ) - Lão
cuồng. Sinh bình danh bả văn chương ngộ (Sống ở đời, trót lầm phải cái bả văn
chương)-Trung Tân quán ngụ hứng -16
Nhưng
không nên vì những lẽ ấy mà nghĩ rằng Nguyễn Bỉnh Kiêm chê trách đổ tội cho văn
chương đã làm cho mình chịu luỵ. Hai chữ văn chương ở đây nên được hiểu là từ
chương khoa cử, phương tiện dẫn đến công danh, điều mà ông phải đắng cay trải
qua tám năm tham chính dưới triều nhà Mạc. Cho đến lúc cáo quan về nghỉ rồi,
cái nợ công danh vẫn còn đeo đẳng mãi vì triều đình vẫn đến quấy rầy ông, lúc
thì hỏi han ý kiến, lúc thì yêu cầu đi tảo phạt theo quân, những việc ông không
hề muốn làm.
Ngâm
tình vô hạn trục vân yên (Thú ngâm thơ không bờ bến, có khi cao hứng vượt lên
tới làn mây khói- Tự thán).
Thơ
nhạc có tác dụng đem lại cho đời sống sự thuận hoà, bình yên.
Người khuyên ta luyện đàn
thơ
Tính tình hoà hợp, tâm tư
thanh bình
Ta rằng : học giỏi, đàn
tinh
Đàn xưa nước Lỗ âm thanh
còn truyền
(Bài
ca khuyến học-dịch)
Văn
thơ là nơi gởi gắm tâm tình giải sầu u uất, giúp cho tâm hồn thanh thản :
Bất ý miệng ngâm câu quốc
ngữ
Giải phiền tay chuốc chén
quỳnh xuân
(Thơ nôm, bài 93)
Say mùi đạo, trà ba chén
Tả lòng phiền, thơ tám câu (tả : rửa)
(Thơ nôm, bài 122)
Không
những thơ có hiệu lực thanh lọc mình như ở những câu thơ trên đây mà thơ còn có
khả năng gợi lên những ước mơ lành mạnh, tạo cho con người một niềm hy vọng :
Sách
văn chương đọc đời Nghiêu Thuấn
Phúc
thanh bình nhớ chúa Vũ Thanh
Nghiêu,Thuấn,
Vũ, Thanh là những ông vua minh triết đã đem lại cho nhân dân một cuộc sống
thái bình, hạnh phúc.
Thơ
là một vũ khí, một phương tiện đào tạo những trang anh hùng có ích cho đời
Tác
thành khuê trác tại văn chương
(Xây
người tuấn kiệt lấy văn chương)
Nghĩ
về văn chương nghệ thuật, Nguyễn Bỉnh Khiêm thường nói đến thơ và nhạc, hai
loại hình gần gũi và có tác dụng giống nhau. Trong thực tiễn sáng tác, chúng ta
cũng thấy thơ và nhạc có vai trò hỗ trợ cho nhau về nhiều mặt. Bài hát có giá
trị thường là bài thơ hay. Bài thơ đã đi vào lòng người và được người ta nhớ là
bài thơ giàu nhạc tính. Trong nhiều bài thơ của ông, Hán cũng như Nôm, chúng ta
thường gặp thơ và nhạc cùng đi với nhau như trong Bài ca khuyến học nói trên,
hoặc như bài thơ thứ 120 sau đây
Lẻ tẻ bên giang bảy tám
nhà
Thư nhàn từng thấy bạn
ngâm nga
Thơ nên, ngồi đợi vầng đan
quế
Rượu chúc, hoa lầm ngõ
hạnh hoa
Lục ỷ tiếng thanh đêm tựa
ngọc
Lan châu chèo vỗ nước bằng là
Ít nhiều ngày tháng qua
thì chớ
Tiêu sái ta thìn vẹn chí ta
Nguyễn Bỉnh Khiêm bằng lòng với
cuộc sống đạm bạc của mình, thú vui ấy không có gì cầu kỳ, chỉ cần bảy tám nhà
ven sông, có bạn thơ cùng ngâm ngợi với nhau. Làm thơ khi chờ trăng lên, đêm thanh tựa bên
người ngọc nghe tiếng đàn lục ỷ (Lục ỷ là chiếc đàn của Tư Mã Tương Như ngày
xưa, người nổi tiếng tài hoa và đa tình).
Chỉ
cần chừng ấy, ông cũng đã thấy cuộc sống thanh nhàn hợp ý rồi.
Thanh phong minh nguyệt tuý ngâm biêu .
(Ngụ hứng bài 5)
Đối với ông, thơ nhạc là cầu nối giữa tâm hồn nhà thơ với thiên nhiên , có mối
đồng cảm sâu sắc và thường xuyên.
Uống
rượu ngâm thơ, gió trong, trăng sáng luôn là bạn bên mình .
Đoản địch thanh phong nhàn
xứ lộng
Cô phàm minh nguyệt tuý
trung qui
(Khi
rỗi, thừa hứng có gió mát, lấy sáo ngắn thổi chơi Khi say, lúc đêm có trăng,
gương cánh buồm một mình về bến- Vấn ngư giả)
Non
nước có mầu lòng khách chứa
Trúc
mai làm bạn hứng thơ nồng (Thơ nôm bài 33)
Sống
trong sự hài hoà với thiên nhiên, không chỉ có gió trăng khích lệ con người làm
thơ và đàn hát, mà chính thiên nhiên cũng có tâm hồn đồng điệu. Có lẽ đó cũng
là phong thái của những con người lớn. Hạnh phúc biết bao khi được đọc những
câu thơ :
Côn
Sơn có khe
Tiếng
nước chảy rì rầm
Ta
lấy làm đàn cầm ….(Nguyễn Trãi)
. .
. . .
Tâm
hồn chúng ta hoà quyện với cái bao la của thiên nhiên, con người được nâng lên
đến sự trong sáng và thiên nhiên cũng trở thành một thành viên trong cuộc đời
chung của con người. Các Mác có một câu nói rất hay : “Thiên nhiên như là một
phần vô cơ của con người”. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã dành cho con người niềm
hạnh phúc chan hoà ấy khi ông viết:
Dắng
dỏi bên tai cầm suối
dập
dìu trước mặt tán sen … (Thơ Nôm bài 123)
Lánh
trần, náu đến chốn sơn lâm
Lá
thông đàn tiếng trúc cầm (Thơ Nôm bài 135)
Nhưng
không phải tiếng đàn hát của bất cứ ai cũng đem đến cho ông sự sảng khoái.
Trong thái độ sống gần dân, ông thích nghe tiếng hát của những người lao động
trên sông. Bạch Vân Am hàng ngày vẫn thấy thuyền chài qua lại quán Trung Tân
cũng được xây dựng ngay trên bến sông, nên ông quen nghe tiếng ca ngư phủ :
Giang
quán đăng lâm nhất hướng tà
Thừa
nhàn bá tửu, thính ngư ca…
(Buổi
chiều, mặt trời xế bóng, ta lân la đến quán bên sông)
Rảnh
rang, tay cầm chén rượu, tai nhe tiếng hát người thuyền chài-Ngụ hứng, bài 1)
Trái
lại, tiếng đàn hát thâu đêm trên lầu son gác tía của nhà quyền qúi chỉ làm ông
không vui,vì nó quấy phá giấc ngủ của ông :
Ký ngôn tử các hồng lâu
khách
Mạc ba sinh ca quát tuý
miên
(Ngụ hứng, bài 2 )
(Nhắn lời cho những người ở gác tía lầu hồng kia
Đừng
có khua đàn hát mà làm náo động giấc ngủ say của ta)
Không
những thế, ông còn nhắc đến tác hại của sự say mê đàn hát, đắm đuối của những
kẻ giàu sang trong thanh sắc :
…Còn
luỵ trường ca biến bể sầu
(Thơ
nôm, bài 103)
Trong
bài “Thạch khánh ký” còn ghi lại ở chùa Trang Hoa (Vĩnh Bảo) Nguyễn Bỉnh Khiêm
đã cho biết rõ quan điểm của ông về nguyên lý âm nhạc, nguyên lý ấy cũng xuất
phát từ quan điểm lấy dân làm gốc. Ông viết “Ôi trong nhạc bát âm thì tiếng
khánh đá là âm chủ, thuộc cung Ggiốc, rất khó hoạ…Trong nhạc cổ có năm cung :
cung, thương, giốc, chuỷ, vũ, thì cung giốc giọng trầm ở giữa, làm nền cho
thanh âm”. Vị trí trung tâm tiêu biểu cho lẽ phải, cho đạo lý làm người, cho
phẩm chất của kẻ sĩ quân tử. Cung giốc là nền, là gốc, có ý nghĩa lấy dân làm cơ
bản cho âm nhạc. Chúng ta thấy ở đây tư tưởng quán xuyến cả cuộc đời Nguyễn
Bỉnh Khiêm như ông từng đã tuyên bố trong Văn bia quán Trung Tân.
Theo
ông, nội dung của âm nhạc là hướng đến sự hài hoà, ổn định, lấy điều thiện để
xây dựng quan hệ giữa con người với nhau. Trong đoạn kết bài Thạch khánh lý,
ông viết :
“Ta
muốn nói rằng : bậc thánh nhân muốn lấy việc thiện để giáo dục đạo đức, muốn
lấy âm thanh để hài hoà lòng người. Cho nên chế ra nhạc khí cũng chỉ có ý nghĩa
đó thôi. Ôi ! hài hoà là chủ đích của âm nhạc, làm việc thiện là cái gốc của
giáo hoá. Một khi khánh đá treo lên thì tiếng của nó vang dội không cùng…”
Đọc
tác phẩm của Nguyễn Bỉnh Khiêm để tìm hiểu quan niệm của ông về lý tưởng thẩm
mỹ, chúng ta thấy được một điều nhất quán : đó là tính thiện, cơ sở đã tạo nên
những tác phẩm văn chương nghệ thuật mang đậm tình người đó là cái đẹp gắn bó
với cuộc sống. Văn chương nghệ thuật chỉ có giá trị khi nói lên được ước mơ
hạnh phúc của con người
(Tạp
chí Diễn Đàn Văn Nghệ VN)
B /
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà văn hoá lớn :
(Trích
diễn văn đọc tại lễ kỷ niệm 500 năm, năm sinh danh nhân văn hoá Nguyễn Bỉnh
Khiêm, tổ chức tại Trung tâm Văn Miếu Hà Nội)
“
Cũng như Nguyễn Trãi và các nhà nho nhập thế khác, Nguyễn Bỉnh Khiêm mang nặng
tư tưởng trung quân, luôn luôn canh cánh trong lòng trách nhiệm báo đền ơn nước
và lý tưởng “Trị quốc, bình thiên hạ”
Ngoài
những suy nghĩ mang tính chất quy phạm, bề tôi phải tận trung kẻ sĩ phải hành
đạo, lập công danh…Nguyễn Bỉnh Khiêm còn tỏ ra là một con người đầy bản lĩnh,
đầy tự tin. Ông đã cho phép mình không gắn chặt tất cả số phận, tài năng với
một tập đoàn phong kiến nào mà tự đứng tách ra và thường đứng cao hơm mọi lực
lượng, mọi phe phái, mọi sự đối đầu. Tất cả những ảo tưởng chính trị, quyền
lực, những bã mồi phú quý vinh hoa không dễ gì chuyển lay một con người như
ông. Rõ ràng sự vào đời muộn màng đã là điều kiện để khẳng định một tính cách
đã thành bền vững, một quan niệm xử thế và một phương châm sống không dễ chuyển
lay, không dễ bị bó buộc, biến cải theo một khuôn mẫu quan phương nào. Điều đó
có cái căn nguyên ở việc mấy chục năm đọc sách, nghiền ngẫm cái lý của trời đã
đất, của sự hưng suy, những kinh nghiệm dày dặn của cuộc sống, những quan sát,
phản xét về thế tình. Với trí thức uyên bác, vốn sống phong phú và ở cái tuổi
45, giữa độ “tứ thập nhị bất hoặc” và “ngũ thập tri thiên mệnh”, Nguyễn Bỉnh
Khiêm trong khi tham gia chính trường đã trở thành nhà tư tưởng, nhà hiền triết
có uy vọng lớn trong giới trí thức và trong nhân dân. Các vua Mạc cũng như các
tập đoàn phong kiến khác đã không thể tuỳ ý sai khiến được ông, thì đành phải
lợi dụng uy tín của ông, thậm chí nương bóng vào ông để thực hiện những ý đồ
của mình. Bằng cớ là Nguyễn Bỉnh Khiêm với đức độ của người thầy học đã khuyến
dụ được Nguyễn Quyện học trò mình bỏ Lê-Trịnh về với nhà Mạc (1557). Đó là việc
có thực, nhưng còn một loạt truyền thuyết khác, như việc ông khuyên Phùng Khắc
Khoan về với Lê-Trịnh, hướng đạo cho Nguyễn Hoàng “Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ
dung thân” mách nước cho chúa Trịnh “Năm nay mất mùa, lấy giống lúa cũ mà ngâm
mạ” “ Giữ chùa thờ phật thì được ăn sản”, cũng như đã báo trước cho Mạc Mậu Hợp
thấy : “Vận nhà Lê đã đến hồi tái tạo” do đó “ Sau này quốc gia hữu sự thì đất
Cao Bằng tuy nhỏ cũng có thể kéo dài thêm mấy đời” …Trong số những điều kể
trên, sự việc nào là xác thực và thể hiện tầm nhìn chiến lược sâu sắc của
Nguyễn Bỉnh Khiêm, thể hiện thái độ ủng hộ của ông đối với một tập đoàn nào
đấy, hay chỉ do các thế lực chính trị muốn mượn cái “uy lực” và “trí tuệ” của
ông để gây niềm tin cho thiên hạ, ngày nay chưa dễ khẳng định được. Dù sao, tất
cả những huyền thoại được truyền tụng trên cũng có một cái lối sự thực.
Nguyễn
Bỉnh Khiêm mất ngày 18 tháng 11 năm Ất Dậu tính ra dương lịch là ngày 17 tháng
giêng năm 1586 thọ 95 tuổi, ông có những cống hiến hết sức lớn lao cho trí thức
và văn hoá Đại Việt. Sau khi ông qua đời, các sử gia phong kiến, học trò đã
đánh giá cao đức độ của ông : “Chí ông muốn mọi vật đều được sống dẫu hèn mọn
như kẻ tàn tật, mù loà cũng dạy cho nghề hát, nghề bói để kiếm ăn” ông sửa chữa
lại chùa thờ Phật, thường dắt sư già đi chơi, có lúc thả chiếc thuyền nhỏ ra
biển Đồ Sơn xem đánh cá, ông chống gậy đi dép trèo khắp các núi Yên Sơn, Ngoạ
Vân, Kính Chủ, Đồ Sơn. Đến đâu thích ý thì ngâm vịnh, hoặc nhẩn nha đi lại suốt
ngà. Mỗi khi gặp bóng cây xanh rợp, tiếng chim theo múa hát thì đắc ý, vui
thích. Họ đồng cảm sâu sắc về những giá trị nghệ thuật của thơ văn ông : “Đọc
qua văn ông, dù nghìn năm còn tưởng như trăng trong gió mát” Họ khâm phục trước
sự uyên thâm về triết học dịch lý của ông Trình Tuyền Hầu, đủ thấy người Nam
hay người Trung Quốc đều ngưỡng mộ ông như vậy.
Ôn
lại những trang đời và những phương diện chính tạo nên cốt cách, bản lĩnh con
người Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta càng hiểu rõ hơn những đóng góp
lớn lao của ông đối với kho tàng lịch sử tư tưởng văn hoá dân tộc. Với tư cách
một chứng nhân của thời đại, Nguyễn Bỉnh Khiêm không những là một người đã có
công đóng góp, tác động, và chi phối phần nào đối với xu thế phát triển của xã
hội Việt Nam trong thế kỷ XVI,mà điều đáng nói hơn là cái di sản văn hoá ông để
lại, cũng như phẩm cách cao khiết của ông đã trở thành mẫu hình trong lòng
nhiều lớp người hậu thế, là cả một giá trị mở, một hệ thống mở, để ngày nay
chúng ta tiếp tục tìm hiểu, luận bàn. Dường như càng qua thời gian thì những
giá trị văn hoá đó càng toả hào quang, càng ánh xạ nhiều sắc màu mà cho đến nay
ta vẫn chưa thể bao quát hết, càng chưa thể phát hiện và phát huy được đầy đủ.
Và như thế, kỷ niệm 500 năm ngày sinh Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm lần này
chúng ta có thêm một dịp nghiên cứu sâu sắc hơn giá trị tư tưởng và thơ văn
ông, kể cả việc lý giải mối quan hệ giữa Nguyễn Bỉnh Khiêm với vương triều Mạc,
việc khảo sát tác phẩm từ gốc độ tư duy triết học, việc vận dụng những yếu tố của
khoa học dự báo để xác định đối tượng được gọi là “Sấm Trạng Trình” lý giải cho
quần chúng nhân dân hiểu rõ hơn những huyền thoại đã định hình trong tầm thức
dân gian, tồn tại từ xứ Đông-Hải Phòng đến việc tôn thờ Trạng Trình bên cạnh
một đại văn hào Pháp Victor Hugo, một Tôn Trung Sơn thời cận đại Trung Quốc ở
tận tỉnh Tây Ninh gần biên giới phía Tây Nam của đất nước.
Để
đi tới hạnh phúc, văn minh kịp với bước tiến hoá của thời đại, một thời đại
trong đó bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc kết hợp với tinh hoa văn hoá nhân loại
được xem là nền tảng, là nhân tố điều tiết đích thực cho sự phát triển, chắc
chắn di sản văn hoá tinh thần của Nguyễn Bỉnh Khiêm sẽ được kế thừa và phát huy
mạnh mẽ, nhằm biến điều ước mong tâm niệm của ông : “Ngoài chưng phận ấy, cầu
chi nửa? Còn một cầu xem thuở thái bình” thành hiện thực trên nước Việt Nam
thân yêu của chúng ta. “
C / Nghĩ về khả năng dự báo của Nguyễn Bỉnh Khiêm
(Trích
bài đăng trên tạp chí Kiến Trúc Phổ Thông số 16)
Dự
báo, tiên tri dự đoán những sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai, đó là vấn đề
được người đời sau truyền tụng ở tài năng của nhà văn hoá Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Những tập sấm ký của Trạng Trình được xuất bản trước . . . đã ghi lại những
điều tiên đoán, nhưng nhiều khi không phải là đích thực của ông, mà là những
việc thêm thắt về sau, dựa vào danh tiếng của ông mà hư tạo nên. Vậy, tài năng
tiên đoán của Nguyễn Bỉnh Khiêm là như thế nào, hư thực đến đâu và sao ông lại
có tài năng ấy, đó là những vấn đề đang được nghiên cứu, chưa có ai khẳng định
được suy luận của mình là chính xác.
Chúng
ta đều biết rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm am hiểu sâu sắc Kinh Dịch, tinh thông Thái
Ất Thần Kinh của Dương Hùng đời Hán, chuyên sâu quan điểm duy vật (quan sát sự
vật) và tác phẩm Hoàng Cực Kinh Thế của Thiệu Ung thời Bắc Tống, qua sự truyền
dạy của người thầy uyên bác là Bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Tinh thần cốt lõi của
các học thuyết nói trên là xây dựng những định lý của sự sinh thành và phát
triển vũ trụ, Kinh Dịch dần dần ở các giai đoạn sau đi vào nhiều lĩnh vực : Lý
học, Số học, tượng số học, thể hiện đầu tiên bằng những số hiệu trong Bát Quái
Đồ của Phục Hy (năm 2850 tr. CN) từ Thái Cực (thể thống nhất đầu tiên) đến chia
hai (lưỡng nghi) rồi chia bốn (tứ tượng) và tiếp tục mãi mãi, lập thành những
hào quẻ vô cùng biến hoá để nói lên mọi hiện tượng, từ trời đất đến nhân sinh.
Khởi phát là một ký hiệu học thô sơ, nhưng về sau nhiều kẻ đã lợi dụng, phủ lên
một tính chất hoang đường, huyền hoặc. Chúng ta cần phân biệt giá trị khoa học
của dịch lý và những luận điểm dị đoan để giữ lại tinh tuý của một nền học
thuật hết sức sâu xa mà khoa học hiện đại đang tiếp tục khai thác.
Điều
rõ ràng là Nguyễn Bỉnh Khiêm rất giỏi lý số và ông từng áp dụng kiến thức về
mặt này để phát biểu ý kiến của mình đối với thời thế, mang tính dự báo khá chính
xác … Những ý kiến tiên đoán đều đã được chứng minh trong lịch sử, cho thấy khả
năng nhìn trước của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khả năng ấy xuất phát từ việc tinh thông
lý học của ông, từ kinh nghiệm cuộc sống, sự nắm chắc tình hình và tương quan
lực lượng của các thế lực cát cứ lúc bấy giờ. Sự thông tuệ của ông đã cho phép
ông suy nghiệm và đoán trước những việc xảy ra trong nước, trên cơ sở thực
tiển. Nếu nghĩ rằng đó chỉ là kết quả của việc bói toán mang tính thần bí thì
chúng ta sẽ phạm sai lầm và đánh giá thấp nhà văn hoá lớn của chúng ta. Trước
đền thờ Nguyễn Bỉnh Khiêm có vế đối : “Lý học thâm uyên Trình tiên giác” cũng
đã nói rõ sự tiên giác của Nguyễn Bỉnh Khiêm là do ông uyên thâm về lý học,
cộng với cuộc đời gần một thế kỷ của ông.
Trước
. . . nhiều nhà xuất bản đã ra sách, hoặc một số báo chí đã đăng những Sấm ký
của Trạng Trình, đề cập đến những sự kiện lịch sử sau Nguyễn Bỉnh Khiêm gần hai
trăm năm. Bài thơ song thất lục bát dài dòng ấy lại kết thúc bằng hai câu 4 chữ
: Lê tồn Trịnh bại, Lê bại Trịnh vong…. chưa có chứng cứ gì khẳng định bài ấy
là của Nguyễn Bỉnh Khiêm cả. Cũng hai câu thơ lục bát thuộc Sấm Trạng Trình :
Bao giờ Tiên Lãng chia
đôi
Sông Hàn lại nối thì
tôi lại về
Được giảng giải bằng thực trạng của huyện Tiên Lãnh đã khơi lại con sông
đào đã chảy trên đất huyện, và năm 1985 sông Hàn đuợc bắc cầu phao trùng với dịp
kỷ niệm 400 năm ngày mất của nhà thơ lớn. Hai câu lục bát ấy hình như chỉ mới được
nghe gần đây, có thể cho phép chúng ta nghĩ rằng đó là một sáng tác dân gian
mới có. Vả lại, xét về quá trình hình thành thể loại văn học của nước ta, thì
thời kỳ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm chưa có thể thơ lục bát, cho nên chúng
ta có thể khẳng định rằng những Sấm truyền viết bằng thể thơ lục bát không thể
là của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Cũng
có trường hợp cần được nghiên cứu kỹ lưỡng mới có thể đi đến kết luận một cách
khoa học được. Ví dụ : Trong một cuốn sách của nhà xuất bản Đại La in năm 1948
về Sấm ký Trạng Trình có bài thơ chữ Hán bốn câu, có dáng dấp như một bài kệ :
Cửu cửu kiền côn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa
tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập
Tràng An
Càn khôn đã định rằng chín lần chín 81 năm vào tiết thanh minh sức địch đã
tàn. Đến đầu năm dê và đuôi ngựa (1954) tám vạn lính cụ Hồ tiến vào kinh đô (AB
444, AB 355 thư viện Viễn đông Bác cổ Hà Nội). Sự việc dự đoán từ lâu trước khi
trở thành hiện thực, đặt cho chúng ta cần suy nghĩ đối với khả năng tính toán
của dịch lý…
…. Qua những việc trên, chúng ta có thể hiểu thêm Nguyễn Bỉnh Khiêm về phương diện dự báo.
Với một vốn tích luỹ học vấn uyên tâm, một vốn sống cả cuộc đời trong một thời
thế đầy biến động mà ông là người trong cuộc ông lại nắm được quy luật biện
chứng về hoá sinh, sinh hoá của dịch lý kết hợp với thực tiển tình hình, nên
khả năng dự đoán bước đi của thời cuộc là có thể được. Tuy vậy, mọi phát triển
khoa học, nhất là những dự đoán tương lai, vẫn có thể được điều chỉnh với sự
phát sinh những sự kiện mới của xã hội loài người, những phát minh mới về khoa
học kỹ thuật.
Hiện
nay trên thế giới có một học thuyết mới, đó là Tương lai học (Futurologie).
Tương lai học cũng đã có những cống hiến nghiêm chỉnh về bước phát triển của xã
hội dựa trên cơ sở thực tiễn mà dự đoán trước. Các nhà tương lai học không phải
là những nhà thần bí, công việc của họ là kết quả của trí tuệ, của ý thức, chứ
không phải từ vô thức dù vô thức là một lĩnh vực cần được tiếp tục nghiên cứu.
Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng ta tin rằng ông có căn cứ hiểu biết khi đưa ra
những điều dự báo.
D /
Những ý tưởng văn hoá hòa bình của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Trong
tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm để có hoà bình thì mọi người phải nỗ lực. Ông ca
ngợi lao động và gợi mở cho mọi người đến với tự nhiên vì ở đó mọi người đều
lao động và sẽ đối xử tốt với nhau. Ở đó dù là vua chúa hay người nông dân đều
hít hơi thở khoáng đạt của tự nhiên, đều ngắm trăng lồng cổ thụ, đều thả hồn
vào tám hướng tranh treo. Tự nhiên là của chung, ở đó là hồn của núi sông, con
người sẽ thoả chí yêu quê hương đất nước mà không có lực lượng xã hội nào kìm
trói được.
Khát
khao đến với tự nhiên là khát khao vì ý tưởng hoà bình lâu dài của Nguyễn Bỉnh
Khiêm. Nhiều người nói rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đi trốn trong tự nhiên,đã ở ẩn
trong tự nhiên, đã thực hiện triết lý nhàn trong tự nhiên. Đúng là trong thơ
văn Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết rất nhiều chữ nhàn ( An nhàn ngã thị đại trung
tiên - an nhàn ta là tiên trên đời). Nhưng mà không một nhà nghiên cứu nào về
Nguyễn Bỉnh Khiêm cảm nhận được Nguyễn Bỉnh Khiêm sống an nhàn, thanh nhàn. Ông
đã lao động đến say mê, ông đã trăn trở đến nhức nhối. Hầu như ngày nào ông
cũng bận bịu. Ông lo cho muôn dân, ông gắng sức rèn luyện học trò. Văn phẩm của
ông để lại cho đời hàng nghìn bài trong Bạch vân am thi tập và Bạch vân quốc
ngữ thi tập. Triết thuyết của ông gửi vào muôn trùng sông núi và ăn sâu vào ý
thức xã hội. Sao lại nói rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm nhàn hạ được ? Trong bài tế
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đinh Thời Trung đã viết rằng : “Tiên sinh không bao giở mất
bóng thu dương sáng mãi…Tiên sinh là núi Thái Sơn. Đạo Tiên sinh còn muôn
thuở”.
Chữ
nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm gắn bó chặt chẽ với lý tưởng hoà bình của ông. Các
nhà thơ lớn, các nhà tư tưởng xuất sắc ở phương Đông thường lấy thiên nhiên để
thể hiện tình cảm cao thượng, phong cách ung dung tĩnh tại của mình, Lão Tử,
Trang Tử đã khuyên con người lấy chữ tâm, điều thiện mà hoà mình vào tự nhiên.
Triết học của Lão Tử gắn với sự khoan dung, chất phác và hoà bình. Hoà nhập với
thiên nhiên là hoà nhập với đất trời và khí thiêng liêng sông núi, khát vọng
của nhân dân. Nguyễn Bỉnh Khiêm là người vừa theo quan điểm xích tử chi tâm của
Đạo giáo vừa tòng “thi ngôn chí” của Nho giáo. Trong bài tựa cuốn Bạch vân am
thi tập Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nói rõ quan điểm thẩm mỹ và đạo đức của mình trong
ý tưởng này. Ông “thích cái đẹp của sơn thuỷ, vui cái mỹ lệ của hoa, trúc, mượn
sự việc mà tự thuật”. Thích cái đẹp của tự nhiên, gắn đạo đức người quân tử với
cây tùng, cây bách đó là lý tưởng chung về cái thiện, cái mỹ. Lý tưởngnày là cơ
sở của một nền hoà bình lâu dài.
Chất
người Nguyễn Bỉnh Khiêm, tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm toát lên một chủ nghĩa nhân
văn sâu rộng. Nối kết các mâu thuẫn dằng xé, hướng sự vận động của các mâu
thuẫn ấy đến đối thoại các giá trị đó là biện chứng tích cực trong tư tưởng hoà
bình của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đất nước năm phe, bảy phái, phái nào cũng đến hỏi ý
kiến ông. Nhân dân muôn ngàn thống khổ khác nhau, người nào cũng muốn được ông
mách bảo. Để thực hiện được điều ấy,học rộng tài cao là không thể đủ.Ở đây phải
có cả một tấm lòng bao la, hiểu đời không cùng, thương người vô hạn. Các hoạt
động nhân đạo ở Nguyễn Bỉnh Khiêm là cơ sở tập hợp được khát vọng hoà bình của
thế kỷ XVI
Người
ta truyền tụng nhiều về các dự báo của Nguyễn Bỉnh Khiêm đối với thời cuộc.
Người ta nhớ tới các lời khuyên bảo ngắn gọn đầy thuyết phục của ông về vận
mệnh tương lại của một triều đại. Các lời “sấm truyền” của Trạng Trình quả thật
đã sống nhiều thế kỷ trong dân gian hướng tới một nền hoà bình bền vững.
Vì
đâu mà một số tư tưởng quan trọng của Trạng Trình có sức sống lâu bền trong đời
sống xã hội? Trước hết là lý tưởng hoà bình lâu dài của ông rồi đến sự thông
tuệ của Trạng Trình đối với tri thức cao nhất mà phương Đông đã đạt được vào
thế kỷ XVI. Sau nữa, cách nhìn sự vật và thời thế của ông không tĩnh tại. Ông
coi thế gian luôn biến đổi “thoi nhật nguyệt đưa thoăn thoắt”. Nhìn sự vận
động, sự phát triển trong các mối giây liên hệ, cùng với lý tưởnghoà bình và sự
thông đạt tri thức thời đại,bằng mẫn cảm tuyệt vời, Nguyễn Bỉnh Khiêm bắt gặp
hướng phát triển rất xa của một logic vận động đến hoàn thiện. Yù tưởng về
thiện-ác là trục c hính xoay quanh các dự báo về một nền hoà bình lâu dài của
ông. Ông tin rằng cái thiện, cái mỹ là khuynh hướng tất yếu của sự phát triển.
Cái thiện sẽ chiến thắng cái ác, đó là “đạo trời lồng lộng chẳng hề sai”. Yù
tưởng cái thiện thắng cái ác, cái đẹp thắng cái xấu là một ý tưởng nhân văn cao
đẹp. Tất cả các nhà văn hoá lớn ở phương Đông tuy mỗi người mỗi vẻ nhưng không
aithiếu khát vọng về cái thiện và cái mỹ. Đó là khát vọng chung để nhân loại
gặp gỡ và hiểu biết nhau. Mỗi người đều sống cho tốt, ăn ở cho đẹp, mọi hoạt
động sáng tạo đều lấy cái tốt và cái đẹp làm điểm đạt tới thì xã hội sẽ tràn
ngập tình yêu và ánh sáng thiên hạ sẽ chung hưởng thái bình .
Trên
cơ sở doanh hư, cơ ngẫu, tiêu trưởng, lý số, phân tích xã hội trong sự vận động
và nhìn thấu suốt tận cùng cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái mỹ với cái ác
và cái xấu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã chỉ ra thế đất, thế nước và biện chứng của một
nền hoà bình bền vững dài lâu.
Trong
nhà văn hoá lớn Nguyễn Bỉnh Khiêm có một điều rất kỳ lạ, đầu óc ông minh mẫn
cho đến khi ngừng suy nghĩ. Ông sống gần tròn một thế kỷ. Gần một trăm năm
không thấy có một dấu hiệu gì về sự “lẩn thẩn”, “lẩm cẩm”. Ông yêu đời, yêu
người, yêu học trò, yêu làng xóm, quê hương, yêu tổ quốc và yêu nhân dân đến
tận hơi thở cuối cùng. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí có
chép rằng “Lòng Trạng không một lúc nào quên đời”. (Văn học Nghệ thuật số 218)
* * *
Cái
nam phong được hai vị Thánh tiên tri. Côn Sơn Thượng Sĩ Nguyễn Trãi trong Ức
trai thi tập (quyển 6) đã viết : “Tương truyền vua nước ta dòng dõi vua Viêm Đế
(Thần Nông). Vua Đế Minh đi tuần phú đến Hải Nam gặp con gái bà Vụ Tiên lấy làm
vợ sinh ra Lộc Tục, vua phong Lộc Tục làm chủ nước Việt Nam” còn Thanh Sơn Đạo
Sĩ (Nguyễn Bỉnh Khiêm) có viết tập thơ Việt Nam sơn hà hải cương thưởng vịnh
(vịnh về non sông đất nước Việt Nam) Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ biểu tượng Nam phong
toàn vẹn.
Mặt
khác, sự xuất hiện Đạo Cao Đài với tư tưởng tiến bộ cách mạng làm lay chuyển
các giá trị truyền thống, tuyên ngôn xã hội bình đẳng, nam nữ bình quyền, chống
việc tế lễ bằng súc vật của thầy pháp, thầy bùa đề cao giá trị đời sống nội tâm
lòng chay lạc; quyết liệt chống tinh thần Đại Hán Nho gia chỗ dựa vững chắc của
chế độ phong kiến mà Hồ Đề (Bát Nương DTC là đại biểu), chống cả thực dân Pháp
“Trăm họ than van nòi bộc lại, Ba Kỳ uất ức phép Tây tà” và cả quyết “một nước
nhỏ nhoi….mai sau làm chủ….”. Bởi lẽ, Đạo Cao Đài gieo trong tâm người mầm giác
ngộ và mạc khải nhân loại là anh em, bình đẳng thương yêu.
3 . Về Victor Hugo
A/ Victor Hugo ở Việt Nam
Không phải vì người Pháp kính trọng thái quá một trong những tinh hoa
lỗi lạc nhất của dân tộc mình nên trong suốt năm nay được gọi là là năm
Victor Hugo (1802-1885) để kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông, họ sẽ tổ chức
nhiều hoạt động mang ý nghĩa văn hoá và văn học về V.Hugo cùng những di sản
tinh thần của ông mà từ hơn một thế kỷ nay tên tuổi và tác phẩm của ông đã trở thành
tài sản vô giá của toàn nhân loại.
Ở Việt Nam , do có
những xung đột lịch sử với phương Tây nói chung và Pháp nói riêng, trong thời
kỳ cận-hiện đại mà người Việt có dịp tiếp xúc với nền văn hoá trong đó có
văn học của họ.
Trong
thực tế, có thể là còn sớm hơn, song về mặt văn bản thì ngay từ năm 1913 đã có
không ít trí thức “Tây học” Việt Nam biết đến Hugo có lẽ qua thiên tiểu thuyết
Những người khốn khổ của ông.
Có
lẽ V.Hugo là một trong số ít các nhà văn học nước ngoài được giới thiệu nhiều ở
Việt Nam hầu hết các tác phẩm chủ yếu và quan trọng của Hugo đều đã được xuất
bản dưới mọi hình thức mà số lần ấn hành cũng khá nhiều với số lượng tương đối
lớn.
Hiện
tượng tác phẩm của Hugo được phổ biến rộng rãi ở nước ta từ các cấp học đường
đến đông đảo quần chúng và giới thiệu nghiên cứu văn học, có thể nói là một
hiệu ứng kép : một mặt, nó phản ánh sự ham hiểu biết những thế giới bên ngoài
và nguyện vọng cách tân của người Việt vốn tiềm ẩn từ lâu, nhưng cho đến tận
cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX mới có điều kiện bộc lộ: mặt khác, nó cũng chứng
tỏ những tác phẩm của Hugo, dù ở thể loại nào chăng nữa, cũng đều đáp ứng được
nhu cầu đa dạng của nhiều tầng lớp độc giả. Vì những lẽ đó, tác phẩm đặc biệt
là tiểu thuyết của Hugo trong nhiều năm nay luôn ở trong tư thế được tái bản.
Ở
một xứ mà số người đọc sách thường xuyên vốn đã không đông đảo lắm, và hình như
có xu hướng ngày càng giảm như ở nước ta mà tác phẩm của Hugo luôn được xuất
bản như vậy, có thể coi là hiếm có, chỉ riêng Những người khốn khổ thiên tiểu
thuyết tiêu biểu của Hugo và của các nhà văn lãng mạn Pháp thể kỷ XIX được in
thành sách tới 12 lần vào nhiều thời điểm với những tên gọi na ná nhau của
nhiều dịch giả và nhóm dịch thuật, cũng đủ nói lên tác phẩm của V.Hugo đã ảnh
hưởng đến đời sống tinh thần của người đọc nước ta sâu sắc đến chừng nào.
Không
chỉ ảnh hưởng đến người đọc, tác phẩm của Hugo còn tác động đến tư duy sáng tác
của nhiều nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Ngoài Ngọn cỏ gió đùa (1926)- một truyện
dài của Hồ Biểu Chánh (1885-1958) được mô phỏng theo Những người khốn khổ ,
người yêu văn học còn có thể bắt gặp đâu đó trong không ít tác phẩm văn học
Việt Nam hiện đại những bóng dáng, hơn hướng những hình tượng văn hoạc của
V.Hugo mặc dù đề tài nhân vật, không gian và thời gian nghệ thuật cũng như lý
thưởng thẩm mỹ và phương pháp sáng tác của các nhà văn nước ta khác xa V.Hugo
Các
nhà nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại, và cả bạn đọc bình thường không mấy
khó khăn để có thể nhận thấy ở các nhà văn như Nguyễn Đình Thi, Nguyên Hồng,
Nguyễn Huy Tưởng, Vũ Trọng Phụng …. những luồng cảm xúc,những ám ảnh về thân
phận con người, tiếp nhận được từ tiểu thuyết hoặc kịch của V.Hugo.
Những
ấn tượng, hơn hết là những nhân vật điển hình của V.Hugo còn ánh xạ trực tiếp
đến tư duy hình tượng đầy cảm tính của các nhà thơ theo trào lưu lãng mạn hoặc
theo khuynh hướng lãng mạn cách mạng Việt Nam như Xuân Diệu, Nguyễn Xuân Sanh,
Thế Lữ, Vũ Đình Liên …Tố Hữu, Tế Hanh …một “chú bé loắt choắt” (Lượm) trong thơ
Tố Hữu, một con hổ nằm dài trong cũi sắt (Nhớ rừng) trong thơ Thế Lữ, một ông
đồ xưa (Ông đồ) của Vũ Đình Liên…đều khiến người ta liên tưởng đến những hình
tượng nhân vật của V.Hugo hoặc bút pháp lãng mạn tuyệt trần của ông.
Thời
gian ngày một lùi xa cái ngày thi hào V.Hugo được an táng trong điện Panthéon
thì người ta càng nhận thức được tầm vóc lớn lao và chiều sâu của những tác
phẩm mà ông gửi lại cho hậu thế .
Ở
Việt Nam, có thể nói mà không sợ lỡ lời rằng : Victor Hugo là một trong số rất
ít các tác giả văn học nước ngoài còn được các thế hệ người đọc kế tiếp nhau
đọc đi đọc lại không biết chán, không bao giờ chán ! Người ta nhận thấy Victor
Hugo-một thiên tài trác việt và được tôn thờ. (Tạp chí sách số 5)
B / Victor Hugo trở về Pháp sau 19 năm lưu vong
Năm
1869, chế độ Napoléon III muốn sụp đổ. Từ khi lên ngôi Hoàng đế, muốn có uy
tín, ông ta theo gót Napoléon I đem quân tấn công các nước khác như Nga (chiến
tranh Crimée), Áo (chiến tranh Ý) nhưng ông bất tài nên chỉ hao binh hổn tướng.
Tới khi Pháp đại bại ở Mexique thất bại về ngoại giao ở Aâu, thì dân chúng bất
bình, tờ tuần báo La Lanterne bắt đầu công kích, mỗi số in trăm ngàn bản, bán
hết veo. Các ký giả cũ của tờ l’Evénement (phần đông là con và bạn của Hugo)
bèn cho ra tờ Le Rappel cũng đối lập, cũng được nhân chúng hoan nghênh. Hugo ở
Guet-nesey hay tin đó mừng lắm, biết rằng cuộc đời lưu vong của mình sắp hết.
Ông
rời đảo, tới Lausanne (Thuỵ Sĩ) dự một hội nghị Hoà bình của Châu Aâu. Trên
đường xe lửa, dân chúng hoan hô ông : “Vạn tuế Hugo ! Vạn tuế chế độ Cộng hoà”
Ông đọc một diễn văn hô hào “Các công dân Liên Bang Châu Aâu” giọng rất gay
gắt, chẳng có chút gì là “hoà bình” cả “Chúng ta muốn gì? Muốn hoà bình…mà điều
kiện đầu tiên của hoà bình là giải thoát. Muốn giải thoát thì nhất định phải có
một cuộc cách mạng, và hỡi ôi có lẽ phải có một chiến tranh nữa, chiến tranh
cuối cùng..”.
Một
tháng sau, Napoléon III lại ban lệnh ân xá nửa, Ông đáp lại :
“Trong kịch Cromwell có câu này :
Thôi, tôi tha cho ông đấy-Tên bạo chúa kia có quyền gì mà tha ?”
Khi trở về, ông ghé thăm cảnh cũ ở sông Rhin .
Năm sau 1870, Bismark, vua Phổ, gây hấn với Pháp, Hugo rất khó xử : Pháp mà
thắng thì ngai vàng của Napoléon III càng vững thêm, Phổ mà thắng thì cả dân
tộc Pháp bị nhục. Có nên về chiến đấu với Phổ không? Ông bảo Juliette thu xếp
hành lý cứ về Bruxelles rồi sẽ hay.
Ngày mùng chín tháng tám, Pháp thua luôn ba trận. Ngày 15 , ông xuống tàu,
ngày 19 tới Bruxelles, lại sứ quán Pháp xin giấy thông hành để về nước xung vào
đạo Vệ quốc quân.
Nhưng biến cố dồn dập mau quá: ngày mùng ba tháng chín, Napoléon III đầu
hàng, hôm sau Đệ tam Cộng Hoà được thành lập, ngày mùng năm, Victor Hugo lại ga
xe lửa Bruelles giọng run run vì xúc động, bảo bán cho một vé đi Paris. Ông
nhìn đồng hồ rồi nói với Jules Claretie, một văn sĩ đi theo ông : “Mười chín
năm qua tôi mong đợi phút này đây”. Hai người con của ông, một người bạn và
Juliette cùng lên xe với ông và Claretie. Tới biên giới, thấy quân lính Pháp
rút lui, mệt nhọc chán nản, ông hô lớn : “Nước Pháp muôn năm! Quân
đội Pháp muôn năm!” mà nước mắt chảy ròng. Họ ngơ ngác nhìn ông già râu bạc phơ
đó mà không biết là ai.
Chín
giờ rưỡi xe lửa tới Paris, một đám đông vĩ đại ra đón ông ở ga. Người ta hoan
hô “Victor Hugo muôn năm !” có người ngâm thơ Les Chatiments Quần chúng muốn
đưa ông lại Đô sảnh. Ông la lớn : “Không các bạn ! Tôi về không phải chống mà
để ủng hộ Chính phủ tạm thời!”
Đúng
như ông đã nói : “Đồi Calvaire ở đầu đường mà hào quang cũng ở đó”
Nhưng
chỉ là hào quang cho ông, chứ không phải cho dân tộc Pháp.
LẠI HOẠT ĐỘNG CHÍNH TRỊ
Mới
về được ít bữa, mới viết bài kêu gọi người Đức nên ngưng chiến đi, nếu không
thì “tôi, lão rồi,cũng sẽ tay không ra chiến đấu với các người” thì Paris đã bị
bao vây…
Trong
nhiều rạp hát, người ta ngâm thơ Le Chatiments dùng tiền bán vé đúc được ba
khẩu đại bác, một khẩu đặt tên là Victor Hugo.
Không
thể tiếp tục chiến đấu được nữa.
Phải
bầu cử một Quốc Hội rồi thương thuyết với Phổ. Hugo ra ứng cử ở quận Seine và
trúng cử. Nhưng Quốc hội không có chủ trương Cộng hoà như ông, Quốc dân không
ưa bọn Bonaparte chịu trách nhiệm về sự đại bại đó; họ cũng chưa muốn theo Đảng
Cộng Hoà nên họ bầu cho phái Quân chủ để cầu hoà. Hữu phái thắng thế, đưa Thiers
lên nắm quyền hành pháp, Gambetta, Louis Blanc, Clémenceau bầu Hugo làm Chủ
tịch tả phái. Ông hoạt động rất hăng nhưng hữu phái vẫn thắng.
Ngày
28 tháng hai 1871, Thiers xin Quốc hội phê chuẩn một “hiệp ước ghê tởm” : cắt
hai tỉnh Alsace và Lorraine cho Phổ, chịu bồi thường một số tiền rất nặng. Vậy
là hai đế chế của Napoléon I và Nepoléon III đều kết thúc một cách nhục nhã và
tai hại cho dân tộc Pháp.
Hugo
phản kháng, Ông bảo : “Lấy được chứ không phải là làm chủ được…Xâm chiếm chỉ là
thái độ cướp bóc, thế thôi, Alsace và Lorraine vẫn muốn thuộc về Pháp,dù sao
cũng mặc hai tỉnh đó sẽ còn là của Pháp vì Pháp là Cộng hoà là Văn minh ..”
Ít
lâu sau, ông ra khỏi Quốc hội vì không thể ở trong một cơ quan mà ông khinh
được. Khi ông khép mạnh cửa Quốc hội, ông cũng tiếc rằng chương trình của ông :
“Bỏ tội tử hình, cải thiện tư pháp, dự bị thành lập liên bang Châu Aâu, giáo
dục miễn phí và cưỡng bách, tăng quyền lợi của phụ nữ…” chưa thực hiện gì cả
chương trình đó tới nay vẫn chưa thực hiện được hết.
NGHỆ THUẬT LÀM ÔNG
Ra
khỏi Quốc hội rồi, ông lại sống đời của người cầm bút, sáng tác hai truyện :
L’Année terrible và Quatre vingt treize đều bất hủ.
Và
vẫn làm thơ tặng người đẹp : nàng Sarah Bernhardt một đào hát, trẻ, yểu điệu,
mắt to,tiếng rất trong; cô Judith Gautier, con gái của Théophile Gautier, hoa
hậu thời đó, tóc đen nhánh, da trắng và hơi hồng hồng, có một vẻ đẹp bí ẩn; rồi
cả chục ả nữa, đặc biệt là một chị hầu phòng của ông tên là Blanche, ông gọi là
Alba.
Juliette
gần bảy mươi tuổi mà còn ghen với Blanche, doạ ả rằng nếu Hugo mà chết trong
tay ả thì ả sẽ bị tuỳ mọt gông, cho ả một số tiền, cưới một anh chồng cho ả nữa
và bắt ả phải đi nơi khác. Ả miễn cưởng vâng lời, nhưng vẫn thường lại nhà Hugo
nhìn lén ông mà chính ông cũng còn tiếc ả.
Hồi
này, ông ít tới Hàn Lâm Viện mà sau hai mươi lăm năm vắng mặt, trong viện cũng
ít ai biết ông. Bảy mươi hai tuổi, ăn vẫn khoẻ, leo bốn cầu thang mà không mệt.
Các ban chính trị như Louis Blanc, Jules Simon, Gambetta, Clémenceau lại rủ ông
hoạt động nữa. Đầu năm 1876 ông được bầu vào Thượng Nghị viện, làm được một
việc là hô hào bất tín nhiệm tổng thống Mac Mahon khiến Mac Mahon phải từ chức.
Năm
1877, tập thơ L’Art d’être Grand-père ra đời. Con trai con gái người đã chết,
người ở xa, nên ông rất quyến luyến hai đứa cháu ngoại Georges và Jeanne, chơi
với chúng, kể chuyện cho chúng nghe, vẻ chân dung của chúng. Những lời ngây thơ
của chúng được ông đặt thành thơ.
Độc
giả rất hoan nghênh những cảm xúc giản dị, êm đềm, tươi mát đó, những tiếng ríu
rít của trẻ, những nụ cười của ông lão đó, những mái tóc đen nhánh và bạc phơ
kề nhau đó. Từ trước các thi sĩ chỉ ca tụng người đẹp, lần đầu tiên Hugo ca
tụng em bé và nhờ ông mà tuổi thơ xuất hiện trong văn nghệ. Chỉ sau vài ngày
tập thơ đã được tái bản
TOLSTOL VÀ HUGO SAO MÀ
GIỐNG NHAU THẾ
Lạ
lùng ! Con người đó sao mà có nhiều nét Tolstol thế. Rất thọ, cường tráng phi
thường, lúc nào cũng thèm khát đàn bà, đôi khi cũng biết vậy là xấu xa, tự sỉ
vả mình thậm tệ là “nhớp nhúa như con vật”
“Tôi
có cảm tưởng tôi sắp thành một thứ chó má ghê tởm nhưng rồi cũng không tự nén
nổi lòng”. Có lần ông phí sức quá sắp nguy tới tánh mạng, các bác sĩ khuyên ông
phải xa đàn bà đi, ông đáp một cách rất ngây thơ “Nhưng đáng lý hoá công phải
báo trước cho tôi chứ !”
Hoá
công đã cảnh cáo bao nhiêu lần, nhưng qua cơn nguy rồi thì tính nào tật nấy.
Trong nhật ký ngày nào cũng ghi : 500 quan trợ cấp - 300 quan : việc thiện -
tiếp theo là những địa danh : Crimée, Star-Month, thực ra chỉ người. Toàn là
những số tiền cho gái cả. Vì khi Blanche bị đuổi đi rồi thì cả chục ả khác thay
chân liền. Thật là một con quỉ !
Mà
Juliette sao cũng giống bà Tolstoi thế : thực tận tâm với ông, còng lưng chép
bản thảo cho ông đến bạc đầu thì không phàn nàn, trái lại rất thích thú, mà
ngoài bảy mươi vẫn còn ghen kinh khủng, cũng lục túi áo, ngăn kéo của ông, đọc
nhật ký của ông. Bà không doạ uống thuốc độc, nhảy xuống giếng như bà Tolstoi,
nhưng cũng khóc lóc, nghiến răng, nhảy lên đông đỏng, doạ bỏ đi và ông lại phải
vỗ về.
Hình
như văn nghệ sĩ sáng tác mạnh nhờ một thứ hạch nội tiết nào đó rất cường thịnh,
mà những hạch này cũng làm cho tính dục của họ cuồng loạn. Tolstoi, Hugo,
Dumas-cha đều như vậy, Balzac cũng gần như vậy…Nhưng luật đó chỉ đúng với
phương Tây mà không đúng với phương Đông (ít nhất là phương Đông thời cổ) chăng
? Đời của Tô Đông Pha chẳng hạn trái ngược hẳn đời của Hugo, của Tolstoi, họ Tô
cũng là nghệ sĩ bậc nhất của nhân loại, cũng viết rất nhiều mà có cái đạo cốt
ai cũng mến phục, trong nhà tuyệt nhiên không có những bi hài kịch như gia đình
Tolstoi, Hugo.
Văn
thơ của phương Tây nhiều khi như mặt biển trong cơn dông, văn thơ của phương
Đông luôn luôn như mặt hồ thu. Thi sĩ phương Đông không ưa tả biển, không biết
tả biển, nhưng tả những thanh phong minh nguyệt thì thật là thần bút. Do bản tính
của họ hay do một hệ thống triết lý, một nền văn minh?
Thôi
hoạt động chính trị, Hugo càng được dân chúng trọng vọng, khắp Châu Aâu đều
ngưỡng mộ ông. Tolstoi đọc chương tả trận Waterloo trong Những kẻ khốn nạn nên
thêm hứng mà tả trận Austerlitz.
Hoàng
đế Brésil, Don Pedro, qua Paris lấy tư cách một độc giả lại thăm ông, Hugo nói
“Tôi xin giới thiệu các cháu với Hoàng thượng”. Don Pedro đáp : “Ở đây chỉ có
mỗi một Hoàng thượng là Victor Hugo”.
Năm
1882, ngày lễ bát tuần của Hugo được cử hành như một quốc khánh. Người ta dựng
một khải hoàn môn ở đại lộ Eylau. Dân chúng Paris diễn qua trước nhà thi sĩ,
Thủ tướng Jules Ferry đại diện chính quyền tới chúc thọ ông, có đại diện khắp
các tỉnh nữa. Học sinh các trường trong nước mà bị phạt, đều được tha hết. Hugo
đứng giữa, hai cháu Georges và Jeanne hai bên, từ trên bao lơn đáp lại lời chào
của một đoàn sáu trăm ngàn người ngưỡng mộ ông. Đại lộ Eylau được mang tên mới:
Đại lộ Hugo và gởi thư cho ông, người ta đề : Ông Victor Hugo ở đại lộ của ông.
Tuần
sau ông tới Thượng Nghị Viện, cả viện đứng dậy vỗ tay. Ông không bận lễ phục
vàng son mà chỉ bận một bộ vải đen như một người thợ mộc hay thợ nề, làm nổi
bật thêm mớ tóc như tuyết.
Năm
sau, 1883Jeliette bị ung thư bao tử, không ăn uống được gì, nhưng nửa đêm hễ
nghe tiếng ông ho là thức dậy, pha thuốc cho ông liền. Bà tắt nghỉ tháng năm
năm đó, thọ bảy mươi bảy tuổi. Ông không tục huyền với bà nhưng mấy năm về sau,
bạn bè con cháu ai cũng coi bà là vợ chính thức của ông. Ba tháng trước khi bà
mất ông tặng bà một tấm hình của ông với hàng chữ : “Năm chục năm yêu nhau,
không còn cuộc hôn nhân nào đẹp hơn nữa”.
Bà
đã được ông dắt vào lịch sữ. Ngày nay đọc bài thơ bất hủ Tristesse d’Olympio
(Olympio là tên ông dùng trong thơ để tự gọi mình, cũng như tên Childe Harold
của Byron, Stello của Vigny, Fortunio và Fantasio của Musset, Lélla của George
Sand…Olympio là chữ Olympe tên một dãy núi ở Hi-Lạp chỗ các vị thần ngự trị
theo truyền thuyết Hi-Lap) nổi danh ngang với bài Le Lac của Lamartine ai cũng
nhớ lại mối tình của ông bà:
Que peu de temps suffit pour
changer toutes choses !
…………………………………………………….
Chưa bao lâu mà mọi sự đã thay đổi!
Từ khi bà mất, ông mỗi ngày một
thêm lẫn, mụ Blanche tìm cách tiếp xúc với ông nữa, gởi thư cho ông, nhưng ông không
còn nhớ mụ. Mụ tới nhà thì người nhà đuổi đi.
Mấy năm trước, chồng của mụ, một tên vô lại bắt được những thư từ ông gởi cho
mụ từ xưa, doạ làm rùm beng lên, người thân của ông phải mua lại hết những thư
đó.
Bây
giờ thì ông chỉ nghĩ tới ngày từ giã cõi trần. Năm 1831 ông đã lập di chúc :
“Tặng bốn chục ngàn quan cho người nghèo, liệm ông trong cỗ quan tài của hạng
người nghèo, bản thảo tặng thư viện Quốc gia ở Paris mà ông mong sau sẽ thành
Thư viện của Liên bang Châu Aâu”. Những tài liệu đó hiện nay được trân tàng tại
“Nhà Victor Hugo” ở Paris.
Những
lúc tỉnh táo ông vẫn làm thơ. Câu thơ cuối cùng của ông là :
C’est
ici le combat du jour et de la nait
(Đây
là cuộc chiến đấu của ánh sáng và bóng tối)
Tháng
năm năm 1885, ông sưng phổi và mất ngày 22 thọ 83 tuổi. Vừa hay tin cả Thượng
viện lẫn Hạ viện ngưng họp để tang ông. Dân Pháp làm quốc táng cho ông : quan
tài sẽ đặt ở dưới khải hoàn môn và di hài sẽ được đưa vào đền Panthéon, nơi
chôn những danh nhân có công lớn với dân tộc.
Đêm
31 tháng đó, toàn dân Paris thức để dự đám. Mười hai thi sĩ trẻ chấp phất đi
hai bên.
Tới
khi linh cữu đưa từ Khải hoàn môn tới điện Panthéon thì hai triệu người đi theo
quan tài. Suốt hai bên đường cắm đầy những cột đeo những biển sơn tên của tác
phẩm : Les Misérables, Les Feuilles d’ Automne, Les Con-templations, Quatre
vingt treize. Giữa ban ngày, đèn phố cũng thắm và phủ tấm sa đen. Lần đầu tiên
dân tộc Pháp đưa một thi sĩ vào yên giấc ngàn thu bên cạnh những quốc vương và
danh tướng của họ. Thực xứng đáng; chưa có một thi sĩ Pháp nào nguồn thơ dào
dạt, phong phú, mạnh mẽ như ông,làm chủ được Pháp ngữ như ông diễn được những tình
cảm chung của nhân loại như ông : tình yêu nước, tình thương người nghèo, tình
yêu con nít, tình yêu cảnh đẹp và người đẹp, tình khoan hồng đại độ, tình quí
trọng người khuất, đặc biệt là các vị anh hùng …
(Nguyễn
Hiến Lê, các cuộc đời ngoại hạng, Sài gòn 1969)
CHƯƠNG KẾT
TAM THÁNH
BIỂU TRƯNG CAO ĐÀI QUỐC
ĐẠO
Qua
các chương trước ta đã nghiên cứu về tiểu sử của Tam Thánh, cuộc đời ngoại hạng
của chư Tam Thánh và những sinh hoạt nơi cõi thiêng liêng của chư vị
Tam
Thánh đã thay mặt loài người ký đệ tam hoà ước đại ân xá kỳ ba bằng bút lông
(vũ hịch) báo hiệu sự khẩn thiết, mau tu kẻo trễ kỳ.
“Thầy
đến lập trong nước các con một nền chánh đạo, đủ tư cách độ rỗi chúng sanh
(TNHT1, Tr.77)”
“Mở
một mối Đạo chẳng phải là sự thường mà sanh nhằm đời đặng gặp một mối Đạo chẳng
phải dễ” (TNHT1, tr.63)
“Thì
đây trong nước Nam duy chỉ có một Đạo chơn thật là Đạo Thầy đến lập cho các con
gọi là Quốc Đạo (TTHT1, tr.43)
1 .
Thiên nhơn hoà ước
Thiên
nhơn hoà ước là bản hoà ước ký giữa Trời và Người.
Kể
từ loài người phát sinh và hình thành trên trái đất đến nay giữa Trời và Người
đã ba lần ký Thiên nhơn hoà ước, tương ứng với ba thời kỳ phổ độ nhân loại.
-
Đệ nhất Thiên nhơn hoà ước ký giữa Trời và Thiên sứ Moise.
-
Đệ nhị Thiên nhơn hoà ước ký giữa Trời và Chúa Jésus Christ.
-
Đệ tam Thiên nhơn hoà ước ký giữa Trời và Tam Thánh Bạch Vân Động
a) Đệ nhất Thiên nhơn hoà ước :
Khi
loài người xuất hiện thời hoang sơ, Đức Chí Tôn phái 100 ức nguyên nhân giáng
trần để khai hoá chúng sanh có nếp sống đạo đức chân thật.
Vì
lòng thương xót chúng sanh nên Đức Chí Tôn mở ra Nhứt kỳ phổ độ lập Đạo Thánh
nơi nước Do Thái do Thánh Moise làm thiên sứ và công bố 10 điều răn. Đó là đệ
nhứt Thiên nhơn hoà ước mà Đức Chúa Trời đã ban cho Thánh Moise trên đỉnh núi
Sinai.
Thánh
Moise giải thích, nếu ai giữ đúng Mười điều răn sẽ được Đức Chúa Trời ban cho
tước phẩm và rước về Thiên đàng. Mười điều răn này được chép vào Kinh Thánh của
Đạo Do Thái, về sau người ta gọi là Cựu ước đối với Tân ước của Nhị kỳ phổ độ.
Với
đệ nhất Thiên nhơn hoà ước chỉ hoá dân được sáu ức nguyên nhân lên thiên đàng,
còn lại để cho hai kỳ phổ độ sau :
b) Đệ nhị Thiên nhơn hoà ước :
Các
tôn giáo mà Đức Chí Tôn mở ra trong Nhứt kỳ phổ độ bị loài người cải sửa làm
cho bao người tu luyện không đạt thành chánh quả.
Vì
lòng đại từ đại bi, Đức Chí Tôn lại lập ra nhiều tôn giáo như Thiên Chúa giáo ở
Trung Đông rồi chuyển sang Châu Aâu, Phật giáo ở Ấn Độ rồi chuyển sang Châu Á, Lão
giáo và Khổng giáo ở Trung Hoa , Thần giáo ở Hi Lạp, Ai Cập, Nhật Bản; Hồi Giáo
ở các nước Ả Rập.
Thời
kỳ các nguyên nhân bị nhiễm trần nặng nề nên Đức Chí Tôn ban Đệ nhị Thiên nhơn
hoà ước cho Đức Jésus Christ công bố. Đó là bản Tân ước để phân biệt với bản
Cựu ước của Nhứt kỳ phổ độ.
Đây
là thời kỳ Thượng mưu thượng lực dùng sức lực mưu mẹo của mình để tước đoạt của
cải kẻ khác, xa rời đường đạo đức, nên Nhị kỳ phổ độ chỉ cứu rỗi được hai ức
nguyên nhân mà thôi.
c) Đệ tam Thiên nhơn hoà ước :
Con
người ta trong thời Nhị kỳ phổ độ tu nhiều mà thành thì ít nên nhân sanh kêu
than “Phật giả vô ngôn” nên Đức Chí Tôn quyết dùng diệu cơ bút mở Tam kỳ phổ độ
mà đối thoại với nhân loại.
Đức
Chí Tôn mở lòng đại độ ký với Tam Thánh Bạch Vân Động bản Đệ tam Thiên nhơn hoà
ước mở ra thời kỳ Thượng Đức tức Thượng ngươn Thánh Đức.
Bản
Đệ tam Thiên nhơn hoà ước được Tam Thánh công bố bằng hai thứ tiếng
-
Chữ Hán cũng là chữ Việt nho , chữ của các nước đồng văn hoá Nhật Bản, Hàn Quốc
-
Chữ Pháp cùng mẫu tự chữ quốc ngữ VN, mẫu chữ của các nước Châu Aâu, Châu Mỹ,
Châu Đại Dương ….
Đức
Thanh Sơn Đạo Sĩ viết các chữ Việt nho (phiên âm) là :
THIÊN
THƯỢNG THIÊN HAÏ BÁC ÁI CÔNG BÌNH
Đức
Nguyệt Tâm Chơn Nhơn viết chữ Pháp là
DIEU et HUMANITÉ AMOUR et
JUSTICE
Như vậy, Đệ tam Thiên nhơn
hoà ước chỉ bao gồm 4 chữ
BÁC
ÁI . . . . . . CÔNG BÌNH
AMOUR
. . . . . . JUSTICE
Đạo
hữu (bạn đạo) nào thực hiện tròn vẹn bốn chữ Bác Aùi-Công Bình thì Đức Chí Tôn
sẽ rước về cõi Thiêng liêng hằng sống. “nên Thầy cho một quyền rộng rãi cho cả
nhơn loại Càn khôn thế giới, nếu biết ngộ kiếp một đời tu đủ trở về cùng Thầy
đặng”
“Thầy
đến độ rỗi các con, vậy đắc đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng
muốn. Nếu chẳng đi đến trường thầy lập mà đạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi
nào khác mà đắc đạo bao giờ” (TNHT)
Đức
Hộ Pháp giảng đạo về bác ái (thương yêu) và công bình (công chánh) như sau :
“Các
liệt cường ký với nhau khoản nầy khoản nọ, khoản kia đủ thứ, ký không biết bao
nhiêu khoản, với Đức Chí Tôn chỉ có 2 khoản thôi :
1/ LUẬT : Thương yêu. Ngài định luật cho chúng ta là Thương
yêu, không phải thương yêu nhơn loại mà thôi mà còn phải thương yêu toàn cả Vạn
linh nữa.
2/ QUYỀN : Ngài chỉ định là Quyền Công Chánh
Từ
thử, ta chưa thấy Hoà ước nào đơn sơ như thế”
(
Trích trong thuyết đạo của Đức Hộ Pháp, quyển 2 tr.168)
“Đức
Chí Tôn Ngài đến, do tay Ngài ký một Hoà ước với một sắc dân nô lệ, sắc dân hèn
mọn, đặng Ngài nài nỉ xin cho đặng 2 điều trọng yếu làm cho nhơn loại sống tồn
tại là : Luật Thương yêu và Quyền công chánh.
Ngài
đã ký, Ngài đã hứa với Thánh thể của Ngài, tức nhiên là cả quốc dân nầy đặng
tạo ra hình ảnh Luật thương yêu. Nếu toàn cả quốc dân VN lấy Quyền Công Chánh
làm thành tướng ra, rồi Ngài sẽ lấy tướng diện của nó Ngài làm môn thuốc cứu
sanh mạng của nhơn loại đó vậy”.
“Ngài
đã ký kết với nhơn loại bản Hoà ước thứ ba.
Hai
hoà ước kỳ trước, nhơn loại đã phản bội, không giữ sở tín của mình, vì cớ cho
nên phải thất Đạo, nhơn loại đi trong con đường diệt vong, tương tranh tương
sát nhau.
Vì
lòng bác ái từ bi, Đức Chí Tôn đến ký Hoà ước thứ ba nữa để trong Luật điều.
Chúng ta thấy các Đấng Thiêng liêng chỉ tấm tượng Tam Thánh biểu nhơn loại tín
ngưỡng :Thiên thượng thiên hạ, về Luật có Bác ái, Pháp có Công bình, ngoài ra
dầu luật pháp muôn ngàn hình tướng, Hội Thánh Đạo Cao Đài dìu dẫn tâm lý nhơn
sanh, chỉ dẫn họ vô mặt luật tối cao là Luật Bác ái và vô một nền Chơn pháp tối
trọng là Pháp công bình.
Luật
pháp của Đạo Cao Đài, ngoài Luật Bác ái và Pháp công bình, tất cả điều khác đều
là phương pháp lấy giả tạo chơn mà thôi” (Thuyết đạo của Đức Phạm Hộ Pháp).
Nội
dung của Đệ tam Thiên nhơn hoà ước gồm 4 chữ rất đơn sơ, nhưng muốn thực hiện
trọn vẹn 4 chữ đó không phải là điều dễ dàng, mà cũng không phải quá khó khăn
để không thể thực hiện được.
Có
lòng Bác ái mới rõ lẽ Công bình. Muốn có lòng bác ái, phải có lòng nhân, phải
biết bố thí. Sự bố thí làm cho ta có cảm xúc tinh thần trước những nỗi đau khổ
của nhơn sanh. Từ đó, chúng ta mới thể hiện được tình thương yêu trên muôn loài
vạn vật, tức là Bác ái vậy, và nhờ đó, chúng ta mới biết rõ được lẽ Công bình
của Tạo hoá.
Nói
một cách khác, muốn thực hiện Bác ái và Công bình thì chúng ta phải làm công
quả phụng sự chúng sanh. Nói như thế tức là việc làm công quả phụng sự chúng
sanh là hình thức tốt nhất để thực thi Bác ái và Công bình,tức là thực thi Đệ
tam Thiên nhơn hoà ước vậy. Mà thực thi được Đệ tam Thiên nhơn hoà ước là đắc
đạo và được Đức Chí Tôn rước về Bạch Ngọc Kinh.
Bởi
lẽ đó mà Đức Chí Tôn nhiều lần dạy bảo và khuyên nhủ nhơn sanh phải lo làm công
quả.
“Thầy
đến độ rỗi các con là lập thành một trường công đức cho các con nên đạo. Vậy
đắc đạo cùng chăng là tại nơi các con muốn cùng chẳng muốn. Nếu chẳng đi đến
trường Thầy lập mà đoạt thủ địa vị mình thì chẳng đi nơi nào khác mà đắc đạo
bao giờ” (TNHT)
“Vì
vậy mà Thầy hằng nói cùng các con rằng : Một Trường thi Công quả, các con muốn
đến đặng nơi Cực Lạc thì phải đi tại cửa nầy mà thôi” (TNHT)
Tắt
một lời, 92 ức nguyên nhân còn lại muốn được cứu rỗi phải nhập môn theo Đạo Tam
Kỳ. Đến Hội Long Hoa Đức Di Lạc đem thuyền Bát Nhã rước về Bạch Ngọc Kinh mà
qui hồi cựu vị.
2 .
Truyện ký Tam Thánh
Bên cạnh bức bích hoạ Tam Thánh, có bản chú thích bằng năm thứ tiếng :
tiếng Việt, tiếng Pháp, tiếng Trung Quốc, tiếng Anh và tiếng Đức.
Nguyên văn như vầy :
“Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà tiên tri danh tiếng ở đời Mạc Lê, thi đậu Trạng
nguyên tước vị là Trình Quốc Công, tục gọi là Trạng Trình, giáng cơ tự xưng là Thanh
Sơn Đạo Sĩ tức là sư phó của Bạch Vân Động (Le Maitre de la Loche Blanche)
Cụ
Victor Hugo nhà thi gia trứ danh của Pháp quốc, giáng cơ tự xưng là Nguyệt Tâm
Chơn Nhơn, tức là đệ tử của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Bạch Vân Động.
Cụ
Tôn Dật Tiên, đại cách mạng gia nước Trung Hoa, nhũ danh là Tôn Văn, giáng cơ
tự xưng là Trung Sơn Chơn Nhơn, tức là đệ tử cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Bạch Vân
Động.
Ba
vị Thánh nhơn trên đây là Thiên sứ đắc lịnh làm Hướng đạo cho nhơn loại để thực
hành Đệ tam Thiên nhơn hoà ước”
3 .
Lai lịch bức bích hoạ Tam Thánh
Dưới
đây là bài tường thuật của Luật Sự Võ Quang Tâm (Tốc ký viên) về buổi lễ Đức
Phạm Hộ Pháp trấn thần bức bích hoạ Tam Thánh hoà ước.
“Cuộc
lễ rước tượng Tam Thánh ký Hoà ước khởi hành vào lúc 8 giờ sáng ngày 10-7-Mậu Tý
(dl 11-8-1948).
Hiện
diện : Chư chức sắc HTĐ, CTĐ, Phước Thiện, Chức việc, Đạo hữu nam nữ, Chư
thượng Hạ Sĩ quan tham dự.
Đúng
giờ, Lễ Viện và Dàn Nhạc đến Hộ Pháp Đường rước Đức Hộ Pháp qua văn phòng Quốc
Sự vụ vì nơi đây là nơi khởi đầu cuộc rước tượng ảnh.
Lộ
trình, trước hết hai hàng Đồng nhi nam nữ, kế Bảo thể cầm đồ Lỗ bộ đi hai bên
Dàn nhạc, có 4 Lễ sĩ mặc áo phái Ngọc (áo tràng đỏ), 2 vị cầm lọng, 2 vị cầm
tàn, hầu hai bên bàn đưa tượng ảnh, có 4 vị Lễ sanh thuộc Hội Thánh Ngoại Giáo
khiêng đi.
Bức
tượng Tam Thánh này do vị Hiền tài Lê Minh Tòng vâng lịnh Đức Hộ Pháp truyền
hoạ, khuôn khổ : 2m80 x 1m90 = 5,32 m2 = 5+3+2 = 10.
Hình
tượng bằng người thường, Đức Thanh Sơn cầm bút lông mèo, Đức Nguyệt Tâm Chơn
Nhơn cầm bút lông ngỗng, và ĐứcTôn Sơn cầm nghiên mực.
Hai
Đấng đang viết trên bia đá những chữ :
Hán văn : THIÊN THƯỢNG THIÊN HẠ- BÁC ÁI CÔNG BÌNH
Pháp Văn : DIEU et HUMANTITÉ-AMOUR et JUSTICE
Đi tiếp bàn đưa có Đức Hộ Pháp
mặc Tiểu phục vàng, đội Tam quang mạo, kế đó là Ngài Bảo Thế, Khai Đạo mặc Tiểu
phục trắng, đội Tam quang mạo, kế tiếp là Chức sắc HTĐ, CTĐ, Phước Thiện, Chức
việc, Sĩ quan, Đạo hữu và trên 200 học sinh Đạo Đức Học Đường đi sau rốt.
Đến Đền Thánh, đi vào cửa hông
phía Đông, tiến lên Cung Đạo, day mặt tượng ảnh vào Bát Quái Đài, Bảo thể cầm
đồ Lỗ bộ đứng hầu hai bên.
Trước hết, Đức Hộ Pháp xông
tay vào lư hương và áp vào mặt 3 lần, rồi Ngài bước xuống cầm lư hương xông
tượng ảnh 3 lần để khử trược. Xong rồi, Đức Hộ Pháp lấy nước Âm Dương hoà lại,
rải lên tượng ảnh 3 cái, bắt đầu từ Đức Thanh Sơn đến Đức Nguyệt Tâm, rồi đến
Đức Trung Sơn.
Rồi
Đức Hộ Pháp lấy 9 cây nhang trấn thần Tam Thánh : Đức Thanh Sơn trước, Đức
Nguyệt Tâm kế đó, và sau rốt là Đức Tôn Trung Sơn
Đồng
nhi đứng trên lầu HTĐ đọc kinh xưng tụng công đức. Khi dứt kinh, Đức Hộ Pháp
giải rằng :
“Trấn
Thần 3 vị Thánh rất khó, vì phải kêu chơn linh họ đến nhập vào tượng ảnh, mà
muốn chơn linh họ đến, phải thấu đáo cả căn kiếp của họ mới đặng. Còn 9 cây
nhanh dùng để trấn thần là 9 cái thang bắc lên Cửu Trùng Thiên cho các chơn
linh nương theo đó. Chẳng biết họ ở từng Trời thứ mấy, mình cứ đưa lên đủ, họ
gặp họ tới ngay, quan hệ là trước khi trấn thần, phải xem lại coi có tắt cây
nhanh nào không. Thảng như họ ở từng thứ 7 mà cây nhang thứ 6 rủi tắt đi, thành
ra bị cách khoảng, họ không thể tới được.”
Đức
Đức Hộ Pháp trấn thần tượng ảnh Tam Thánh xong, cả nhân viên tùng sự lui theo
cửa hông trở ra, vòng ra cửa trước, đi vào HTĐ, thỉnh Thánh tượng đặt lên vách
tường, ngó mặt ra trước cửa Đền Thánh.
Đức Hộ Pháp giải
thích :
1 . Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
2 . Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ
3 . Đức Tôn Trung Sơn
là
đại diện của Hội Thánh Ngoại Giáo, các Ngài là những Thiên mạng truyền giáo
Ngoại quốc (Missionnaires étrangers) cho nên tượng ảnh để ở Hiệp Thiên Đài, day
mặt ra ngoài cho thiên hạ đều thấy mà hưởng ứng theo tiếng gọi thiêng liêng của
các Ngài.
Cả
3 vị Thánh đều mặc cổ phục. Cái nghiên mực trên tay Đức Tôn Trung Sơn có hào
quang chiếu diệu, tượng trưng sự rực rỡ của nền văn minh tối cổ Trung Hoa.
Cái
khuôn xi măng đúc trên vách HTĐ, từ ngày tạo tác Tổ đình, là để dành ngày nay
đặt tượng ảnh Tam Thánh lên đó. Trước kia, Bần đạo cũng không hiểu để làm gì,
chỉ biết tạo theo lịnh của Đức Lý Giáo Tông.
Ngày
nay thời cuộc biến thiên,vị Hiền tài Lê Minh Tòng ở Hải đảo trở về đây, Đức Lý
truyền lịnh cho vẽ tượng ảnh nầy, mới hiểu rằng : Đức Lý chờ người mà Ngài cần
dùng đến.
Trước
tượng ảnh không có bàn thờ chi hết vì chơn linh đã nhập vào đó như người sống
vậy.
Kể
từ ngày 10-7-Mậu Tý (dl 19-8-1948) tượng ảnh Tam Thánh đã đặt lên vách tường
Hiệp Thiên Đài, là biểu hiện cho chủ nghĩa Đại Đồng của Đạo Cao Đài, mở đầu một
giai đoạn tiếp dẫn chúng sanh Vạn quốc vào cửa Đại Đạo, mà cũng là ngày khởi
đoan sự bành trướng ngoại giáo
Cuộc lễ bế mạc lúc
9 giờ cùng ngày”
4 .
Cao Đài Quốc Đạo
Nhìn
bức bích hoạ Tam Thánh, chúng ta thấy toát lên năm đề cương khiết lãnh của Đạo
: tôn chỉ (vạn giáo qui nhứt bổn), mục đích (đại đồng nhân loại), tuyên ngôn
(chỉ một đấng cha chung), triết lý (trời người hợp nhất), giáo lý (bác ái công
bình).
Đạo
Cao Đài chủ trương Tam Giáo qui nguyên nên trải qua nhiều giai đoạn : Thiên
Khai huỳnh đạo (Lão), Phật giáo chấn hưng, Nho tông chuyển thế. Không có nghĩa
là Đạo Cao Đài lấy nguyên thể tam giáo ráp vào thành đạo mình mà chỉ thừa kế có
sáng tạo, phát huy rồi tổng hợp thành một tôn giáo mới rõ ràng.
Tuy
chủ trương Nho Tông chuyển thế, nhưng trong Hạnh Đường, trường huấn luyện chức
sắc đi hành đạo lại thờ Đức Mạnh Tử với tôn chỉ “Dân vi quí xã tắc thứ chí,
quân vi khinh”. Trong khi Khổng giáo khư khư “Trung thần bất sự nhị quân” Khổng
Tử còn khẳng định “Khắc kỷ phục lễ duy nhân”, trong khi đó Nguyễn Du lại quả
quyết “Thiện căn ở tại lòng ta”. Những điều đó nói lên Đạo Cao Đài lấy dân làm
gốc và tính thiện vốn ở trong lòng mọi người.
Đạo
Cao Đài chủ trương Tam Giáo qui nguyên là tiếp nối Tam Giáo Đồng Nguyên của các
thời đại Đinh,Lý, Trần, Lê mà tổ tiên ta dày công xây dựng riêng cho đất nước
mình một giáo lý tổnghoà tinh thần từ ba đạo : Phật, Nho, Lão mà tạo thành văn
hoá Việt Nho, theo nguyên lý An Vi mà trong đó hành vi con người đều bị chi
phối bởi nội tại, chớ không phải do những tác nhân từ bên ngoài điều khiển
(theo tạp chí Văn hoá nghệ thuật).
Thật
vậy, Tam Thánh đã sống và đi vào lòng dân ta. Đại thần Nguyễn Trãi một nhà văn
hoá lỗi lạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà tiên tri thần toán, Nguyễn Du nhà thơ xuất
chúng với Truyện Kiều. Trong thân thể họ đã kết tinh những phong hoá nhà Nam.
Nguyễn Bỉnh Khiêm biết đau cái nỗi đau của người dân (ảnh hưởng Phật giáo), nên
hạch tội bọn tham quan rồi lui về ở ẩn (ảnh hưởng Lão Trang) sâu đậm nhất là
theo cách xử thế Nho phong.
Trong
truyện Kiều của Nguyễn Du trải rộng hình ảnh Tam giáo, Kim Trọng, Vương Quan đi
học rồi ra làm quan là biểu tượng Nho giáo. Kiều luôn luôn bị Đạm Tiên ám ảnh
(Đạm Tiên là Tiên Cô). Khi lâm nguy, Kiều được vãi Giác Duyên (Phật) cứu hộ.
Như vậy, Tam Nguyễn thể hiện đủ Tam Giáo mà Tam vị là danh nhân thế giới, họ
mang cái Nam phong đi vào nhân loại, mở đường cho Đạo Cao Đài tiếp bước nhân
rộng và phát triển thành : “Nam phong thử nhựt biến Nhơn phong”. Cái phong hoá
nhà Nam hôm nay sẽ biến thành thuần phong của nhân loại ngày mai. Những điều ấy
tiệm tiến không có gì lớn và quá đáng, không có gì cản trở để không thể thực
thi được.
Tắt một lời
(lập ý theo Tam đoạn luận)
Tam Giáo đồng nguyên là
quốc đạo
Cao Đài qui nguyên Tam giáo
Vậy Cao Đài là quốc Đạo.
Và Đức Chí Tôn đã giáng dạy: “Nam Bắc cùng rồi ra ngoại quốc” là lý
đương nhiên
CHUNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét