Trong vũ trụ, chính
Đức Cao Đài đã tạo ra vô số tinh cầu và dùng quyền lực của riêng Ngài sinh ra
vạn vật và con người. Con người đó có điển linh quang Ngài ban cho nên có tính
thánh thiện và luôn luôn mong quay về ngôi vị cũ, nơi cõi thiêng liêng hằng
sống. Về thời gian, giáo lý Cao Đài xác nhận có 3 nguơn : Thượng nguơn hay
nguơn Thánh Đức, Trung nguơn hay nguơn tranh đấu và Hạ nguơn hay nguơn Mạt kiếp
còn gọi là nguơn Tái tạo
để trở lại nguơn Thánh Đức. Thời gian trong mỗi tiểu
thiên địa (con người) là một kiếp. Kiếp ấy dài hay ngắn do quyết định của Bạch
Ngọc Kinh (công nhận con người có số mạng nhưng cũng cãi số mạng được do công
quả tu hành). Do quan niệm con người có xác thân, chơn thần và linh hồn. Xác
thân khi chết thì hư hoại, chơn thần mới chuyển kiếp thăng vị, còn linh hồn vốn
là điển linh quang của Đức Chí Tôn nên trọn lành, trọn tốt hướng dẫn chơn thần
lên phẩm cao thăng. Đây là chỗ khác với các tôn giáo cũ : cho rằng linh hồn
chịu luật quả báo luân hồi, đúng ra là chơn thần phần vô hình giống hình tướng
xác thân.
Thần
học Cao Đài nhìn nhận có những tinh cầu tuyệt cao trong không gian phù hợp với
sự tiến bộ của các Đấng thiêng liêng thượng đẳng ở cõi thiêng liêng hằng sống,
nơi sống chung cho nhân loại tu hành đắc quả. Cõi thiêng liêng hằng sống còn có
Ngọc Hư Cung nơi ngự của Đức Cao Đài và Bạch Ngọc Kinh, Kinh đô hành giáo của
chư Phật, Tiên … Đạo Cao Đài cũng nhìn nhận có các tầng vô hình khác thấp hơn,
có thể chia làm 3 hạng :
-
Thượng đẳng thiêng liêng : chư Phật, tiên, Thánh.
-
Trung đẳng thiêng liêng : chư Thần.
-
Hạ đẳng thiêng liêng : chơn thần của bát hồn tập trung nơi Trường Đình (sau khi
chết) từ đó tùy theo tu nhơn tích đức, cãi số mạng xấu ra tốt mà tiến lên Trung
đẳng hay Thượng đẳng thiêng liêng.
Về
thế giới nhân loại (quan niệm nhơn sinh), Thần học Cao Đài xác nhận là tùy theo
sự tiến bộ và phong hóa của mỗi nước mà canh cải cho phù hợp với sinh hoạt, tập
quán địa phương. Riêng về giáo lý thì phải y theo Pháp Chánh Truyền và Thánh
Ngôn buổi đầu.
Như
thế, bất cứ sắc dân nào, bất cứ chế độ nào, người tín đồ Cao Đài cũng là người
công dân lương thiện, giáo lý Cao Đài cũng không hề phản khắc lại phong hóa
truyền thống của dân tộc nào.
Kinh
điển tế tự buổi đầu của Đạo Cao Đài, nó chỉ phản ánh địa phương Việt Nam, cúng
lạy chỉ là hình thức bề ngoài, quan trọng của tôn giáo là sự giác ngộ tâm linh,
nên kinh điển tế tự buổi đầu không phải là bức tường ngăn Đạo Cao Đài truyền bá
ra nước ngoài, Pháp chánh truyền, Thánh ngôn đã được nhiều người dịch ra tiếng
nước ngoài và đã được nhiều giới trí thức Tây Phương hoan nghinh xin theo Đạo.
Việc tế lễ Đức Cao Đài và Phật, Tiên … theo luật không gì trở ngại. Riêng kinh
Tứ thời, ta giữ sắc thái địa phương xuất phát với 2 giọng nam xuân (tức Majeur)
và nam ai (tức Mineur) nhưng phổ nhạc bằng Solfèze (tân nhạc). Lẽ đương nhiên,
kinh điển chỉ chú trọng tinh thần nội dung của tiếng nước theo Đạo, chứ không
theo tiếng Việt Nam. Phần nghi lễ thuộc hình thức dễ dàng vượt qua. Lẽ khác,
khi theo Đạo người nước ngoài đâu chuộng hình thức mà họ nghiên cứu tôn chỉ của
tôn giáo ấy có phù hợp với tiến bộ loài người không, giáo lý ấy có phản khoa
học hay nó là động lực thúc đẩy khoa học thăng tiến, Thần học của tôn giáo ấy
hợp lẽ với quan niệm nhân sinh không … Tôn giáo nào cũng phải qua các màn lọc
trên để vĩnh tồn. Đạo Cao Đài đã vượt qua những thử thách đó (?)
Tóm
lại, Đạo Cao Đài là một nền tân tôn giáo có tầm vóc to lớn phát sinh trong thời
đại nguyên tử phù hợp với ước vọng của mọi sắc dân trên thế giới.
3 . Tôn Trung Sơn
(1866-1925)
Tôn
Trung Sơn tên thật là Tôn Văn, tự Dật Tiên người Quảng Đông. Ông đỗ bác sĩ y
khoa. Sau cuộc vận động Duy Tân nước Trung Hoa thất bại, năm 1894 ông lập Trung
Hưng Hội ở Honolulu (Hạ Uy Di) lấy dân tộc, dân sinh, dân quyền làm chủ nghĩa
Tam Dân.
Năm
1894 Tôn Văn gởi một bức thơ lên vị Đại Thần Lý Hồng Chương để yêu cầu cải cách
nước Trung Hoa nhưng họ Lý từ chối. Từ đó, Tôn Văn bỏ ý tưởng cải cách, chuyển
sang làm cách mạng.
Tháng
11 năm 1894 Tôn Văn sang Honolulu thành lập một tổ chức cách mạng đầu tiên lấy
tiên là Trung Hưng Hội, với cương lịnh là lật đổ nhà Mãn Thanh, khôi phục lại
nước Trung Hoa và thành lập Chánh phủ Dân chủ.
Tháng
2 năm 1895 Tôn Văn trở về Hồng Kông để thành lập Tổng Bộ Trung Hưng Hội chuẩn
bị kế hoạch khởi nghĩa tại Quảng Châu. Có kẻ làm phản, kế hoạch bại lộ, hơn 70
người bị bắt và bị giết chết, Tôn Văn trốn sang Nhật trở lại đạo Hawaii, lại
qua Mỹ rồi sang nước Anh.
Tháng
10 năm 1896,Tôn Văn từ một khách sạn ở Luân Đôn đi ra để gặp thầy giáp Kantlei,
người quen ở Đại học Y khoa Hồng Kông, nhưng bị người của Sứ quán Mãn Thanh tại
Luân Đôn bắt giữ Tôn Văn may mắn được một người Anh đang làm công nhân trong sứ
quán Mãn Thanh chuyển dùm một bức thơ đến thầy Kantlei. Kantlei liền đến cơ
quan cảnh sát Anh nhờ can thiệp để thả Tôn Văn ra, nhưng không được nên Kantlei
nhờ báo chí làm rùm lên. Ngày hôm sau trên các tờ báo lớn tại Luân Đôn đều có
đăng tin : “Hành động bắt người trái phép của Sứ quán Trung quốc”. Những người
Anh ủng hộ Cách mạng Trung quốc kéo đến biểu tình, bao vây Sứ quán Trung quốc,
đòi thả Tôn Văn. Cuối cùng, Sứ quán Trung quốc phải thả Tôn Văn ra.
Năm
1897 Tôn Văn rời Luân Đôn sang Nhựt để tuyên truyền về Trung Hung Hội trong
hàng ngũ Hoa kiều.
Tháng
10 năm 1898 Tôn Văn gặp Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu, đang bôn tẩu tại Nhựt
sau thất bại chính biến Mậu Tuất, Tôn Văn mời hai ông hợp tác với Trung Hưng
Hội việc không thành. Năm 1900, dưới ảnh hưởng của Phong trào Nông dân Nghĩa
Hoà Đoàn, Tôn Văn trở về nước phát động cuộc khởi nghĩa của Trung Hưng Hội ở
Huệ Châu vào ngày 8-10-1900. Không thành công, ông phải lánh nạn qua Nhật lần
thứ hai rồi qua đão Hawaii, Việt Nam, Thái Lan và Mỹ.
Ngày
20-8-1905 tại Tokyo Nhựt bổn,Tôn Văn hợp nhất Trung Hưng Hội với các Chánh đảng
khác có cùng mục đích như Quang Phục Hội , Hoa Hưng Hội thành lập một đảng
thống nhứt lấy tên là Trung quốc Đồng Minh Hội, do Tôn Văn làm Tổng lý, nhằm :
“Lật đổ Mãn Thanh, khôi phục nước Trung Hoa, thành lập nước Trung Hoa dân quốc”
Tháng
11 năm 1905, trên tờ Dân Báo, Cơ quan Ngôn luận của Đồng Minh Hội, Tôn Văn phê
phán gay gắt chủ trương cải lương của 2 ông Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu.
Ông kêu gọi phải tiến hành cách mạng vũ trang và ông đưa ra chủ nghĩa Tam Dân
là Dân tộc, Dân quyền, Dân sinh.
Dân
tộc : Nước Trung Hoa độc lập, Năm dân tộc : Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng trong
nước Trung Hoa phải được bình đẳng.
Dân
quyền : Nước Trung Hoa là nước dân chủ, có Quốc hội do dân trực tiếp bầu ra,
nắm quyền lập pháp. Người dân có quyền ứng cử và bầu cử, quyền sáng chế, quyền
phúc quyết và quyền bãi miễn.
Dân
sinh : Mọi người dân đều sống bình đẳng trong xã hội. nguyên tắc cơ bản là bình
quần địa quyền và tiết chế tư bản, để đi đến mục đích là giải phóng kinh tế, để
toàn dân được hưởng mọi lợi ích.
Từ
năm 1906 đến 1911, Tôn Văn phát động tất cả 10 cuộc khởi nghĩa ở Hồ Nam, Giang
Tây, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, An Huy, Triết Giang. Những cuộc khởi nghĩa
trên tuy thất bại, nhưng đã làm cho nhà Mãn Thanh suy yếu và giúp tinh thần
cách mạng của nhân dân Trung Hoa lên cao.
Cuộc
khởi nghĩa tại Vũ Xương ngày 10-10-1911 (năm Tân Hợi) tức Cách mạng Tân Hợi,
dưới sự lãnh đạo của Tôn Văn và Đồng Minh Hội, đạt được thắng lợi và lan rộng
ra toàn quốc.
Tôn
Văn đang ở Mỹ, nhận được tin Cách mạng thành công, ông tiến hành các hoạt động
ngoại giao với các nước Âu Mỹ để cắt đứt quan hệ với nhà Mãn Thanh.
Cuối
tháng 12 năm 1911, Tôn Văn từ Âu Châu trở về Trung quốc. Trong hội nghị Đại
biểu 17 tỉnh độc lập họp ở Nam Kinh bầu Tôn Văn làm Tổng thống lâm thời.
Ngày
1-1-1912 Tôn Văn nhậm chức Tổng thống tại Nam Kinh và thành lập Chánh phủ Trung
Hoa Dân Quốc.
Tổng
thống lâm thời Tôn Văn tuyên bố một loạt các pháp lệnh cải cách nước Trung Hoa.
Ngày
11-3-1912 ông công bố Ước Pháp Lâm thời của nước Trung Hoa Dân Quốc, coi như là
Hiến pháp tạm thời của nước Trung Hoa Dân Quốc. Tôn Văn cho vẽ lá cờ của nước
Trung Hoa Dân Quốc, gọi là cờ “Thanh niên Bạch Nhật mãn địa hồng” (Trời xanh,
Mặt trời trắng, đầy đất đỏ).
Do
áp lực của các thế lực bảo thủ trong nước, cộng với sự yếu kém của Đảng cách
mạng, Tôn Văn buộc phải chấp nhận các điều kiện của Viên Thế Khải là nhường
chức Tổng thống cho Viên sau khi vua Phổ Nghi thoái vị (12-2-1912).
Tháng
8 năm 1912 Tôn Văn cải tổ Trung quốc Đồng Minh Hội thành Quốc Dân Đảng và kết
hôn với bà Tống Khánh Linh (25-10-1915).
Năm
1916 Viên Thế Khải phản lại triều Mãn Thanh tự lập làm vua, xưng là Đế tại Bắc
Kinh.
Các
tướng quân phiệt nắm quyền quân đội, các vị Tỉnh trưởng nổi lên chống đối quyết
liệt đế chế Viên Thế Khải ưu uất mà chết.
Trong
thời gian đó, Tôn Văn vẫn lãnh đạo Chánh phủ Quân sự ở Quảng Đông (1917-1918)
và làm Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc.
Trong
bản tuyên ngôn của Quốc Dân Đảng vào tháng giêng năm 1923. Ông tuyên bố sẽ dựa
vào quần chúng để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng. Ông chủ trương xây dựng Quảng
Châu thành đại bản doanh cách mạng.
Tháng
8 năm 1923, Ông cử Đoàn đại biểu do Tưởng Giới Thạch cầm đầu sang Liên Xô
nghiên cứu chánh trị xây dựng đảng và cách tổ chức Hồng Quân Liên Xô.
Tháng
giêng năm 1924, Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ nhất của Quốc Dân Đảng nhóm
họp tại Quảng Châu. Tại diễn đàn Đại hội, Tôn Văn tuyên bố 3 chánh sách lớn của
Quốc Dân Đảng : Liên Nga, Liên Cộng, Ủng hộ Công Nông. Trong bản tuyên ngôn,Tôn
Văn giải thích chủ nghĩa Tam Dân mới : Phản đế, Phản phong, Tiết chế Đại tư
bản. Nó trở thành cương lĩnh chung cho Mặt trận Thống nhứt Quốc Cộng hợp tác
chống Nhựt.
Tháng
5 năm 1924,Tôn Văn cho lập Trường Võ Bị Hoàng Phố ở Quảng Châu, tức là trường
Trung Quốc Quốc Dân Đảng Lục Quân Quan Học Hiệu và Tưởng Giới Thạch được cử làm
hiệu trưởng trường này.
Tháng
10 năm 1924 phía Bắc Trung Hoa, Lưu Vĩnh Tường và Trương Tác Lâm đánh thắng Ngô
Bội Phu, buộc Tào Côn từ chức Tổng thống. Hai ông hiệp cùng Đoàn Kỳ Thuỵ đánh
điện mời Tôn Văn lên Bắc Kinh để bàn việc thống nhứt Nam Bắc.
Tôn
Văn về Bắc Kinh, không bao lâu thì bị bịnh nan y và mất ngày 12-3-1925 (âl
18-2-Aát Sửu) hưởng thọ 60 tuổi.
Ông
di chúc lại như sau :
-
Đảng viên Quốc Dân Đảng phải cố gắng cách mạng
-
Triệu tập Quốc Dân Hội Nghị
-
Phế trừ các điều ước bất bình đẳng đối với ngoại quốc.
Sau
14 năm làm cách mạng, kể từ năm 1911 đến năm ông mất 1925, Tôn Văn đã đạt được
2 thắng lợi lớn.
-
Lật đổ được triều đình nhà Mãn Thanh
-
Thành lập nước Trung Hoa Dân Quốc với chế độ Dân Chủ Cộng Hoà.
Đám
tang của Tôn Văn được tổ chức với nghi lễ quốc táng, có hàng chục vạn người đưa
tiễn ông đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Năm
1929, di hài của Tôn Văn được chuyển về an táng tại núi Tử Kim ở Nam Kinh.
Ông
hiển Thánh và giáng cơ xưng là Tôn Trung Sơn, một trong ba vị Thánh ở Bạch Vân
Động. Ông thường giáng cơ dạy Đạo và khuyên nhủ dẫn dắt nhiều người nên giữ đạo
hạnh như ông Phong Chí.
“Này
Phong Chí ! Ai đời tu gì mà như kẻ tục vậy, biểu sao không bị quở . Cười, nếu
không có chị thì anh chắc bị bôi tên trong sổ Thiên Thơ rồi ! ( Đàn đêm
7-9-1927)
“Phong
Chí ! Anh cứ vậy hoài. Chưa đến đây mà em đã biết anh có chuyện …..cứ cầu Chí
Tôn thường thì đắc nguyện. Đừng đến nơi nào chẳng có lịnh Thầy.
Đưa
Lý Giáo Tông đến, anh phải cầu khấn Ngài.
Tái
cầu, Đức Lý giáng :
“Phong
Chí ! Đạo hữu biết tội chăng ? Đạo hữu đã trường trai, Thánh đức đã có mà còn
chưa chịu bỏ những việc phàm. Bần đạo dung cho đó, chớ có tái phạm” (Đàn đêm
10-7-1928)
Phò
loan : Hộ Pháp
Tiếp
Đạo
Đàn
cơ tại Hộ Pháp Đường
Ngày17-10-Bính
Tý (dl 30-12-1936)
TÔN TRUNG SƠN CHƠN NHƠN
Bần
tăng chào quí vị. Cười . . .
Anh
Phong Chí đứng chớ. Làm bộ hoài !
Theo
ý bần tăng tưởng thì buổi nầy chưa phải hợp thế thời cho Đạo phổ thông Trung
quốc, vì 2 lẽ :
Một
là Chánh phủ Pháp với Đông Dương nầy chẳng phải thật tâm trọng Đạo, cố ý giúp
dùm, mà thật sự thì chờ Đạo xuất dương nơi Trung Hoa, đặng mai phục ẩn binh
toan phương hãm hại.
Anh
Phong Chí nè ! Anh chưa bước chân đến nước Tàu mà tên anh đã treo nhỏng nhảnh
nơi Phòng Mật Thám Tsien Tries, ấy là đội anh qua đặng ghim vào bằng cớ tụ họp
thông tư ngoại quốc vì quốc sự, chớ chẳng vì Đạo. Các cớ ấy chúng sẽ làm thế
nào cho quả quyết hiển nhiên đặng toan diệt Đạo nơi đây cho đặng.
Hai
nữa là vì Thiên thơ đã định cho Huê Nhựt hiệp chủng. Hại nỗi lại là tay có
trọng trách nơi phần tạo Tân Thế giới cho Đức Chí Tôn, nên Ngọc Hư bảo trọng
không cho diệt chủng, duy chịu nạn diệt quốc mà thôi …
Bần tăng cho bài thi :
Chém nước chưa ai nắm bửu
đao
Có phong trần mới định anh
hào
Thường mưu trối kệ đời
toan tính
Cái nghiệp thương đời phải
chịu đau
THĂNG
CHƯƠNG IV
THÁNH GIÁO
CỦA ĐỨC THANH SƠN ĐẠO
TRƯỞNG
1 . Văn thơ của Thanh Sơn
Đạo Sĩ
Toà
Thánh, ngày ….tháng 7 năm Tân Vị
(Le
12 September 1931)
Phò
loan : Đức Hộ Pháp và Bảo Văn Pháp Quân
Hầu
bút : Sĩ tải Phạm Văn Ngọ
THANH SƠN ĐẠO SĨ
Chào
chư Tiên Phong
Xin
quyền Giáo Tông bình thân
Cười
… Chư Thiên Phong cũng đã nghe danh Richelieu há ! Bần đạo khi tái kiếp đặng
chuyển chánh trị Pháp triều, lúc ấy cải danh đại sĩ của bần đạo ngày nay chưa
phai lợt.
Hỏi
thử chánh trị Thái Tây coi có phải đã thọ hưởng chánh sách của bần đạo mà lập
thành toàn cường liệt quốc ngày nay chăng ? Bần đạo nói rằng, ngoài chánh sách
của bần đạo thì chưa thể có phương nào hay hơn mà lập liệt quốc cho đặng. Phép phục
thuộc địa, tuy là nước Romain đã có trước thì mặc dầu, chớ kỳ trung nay đoạt
đặng mà làm cho cả vạn quốc Thái -Tây đặng đại danh cũng do nơi bần đạo. Chánh
sách trị thuộc địa là làm cho các sắc dân còn thiếu kem văn minh đặng đoạt
gương mà vào hàng cộng hoà vạn quốc. Nước chẳng đồng văn hoá, chẳng phương nhập
cảnh hoà bình, đem văn hoá văn minh làm biểu hiện mà pha cùng văn hoá các sắc
dân hèn hạ, đặng nâng đỡ cho văn hoá của sắc dân ấy có đến văn minh, hầu sáp
nhập vào hàng văn minh cả thảy thì toàn cầu đặng văn minh chẳng còn sắc dân nào
đè nén nhau đặng. Không đèn nén nhau đặng thì phải hoà nhau, hoà nhau đặng thì
đại động thế giới.
Trái
lại nếu thâu thuộc địa mà còn ép bức dân tình, giục các sắc dân ấy vào cảnh đê
hèn thì không mong chi đồng thể cả. Không đồng thể thì là nghịch nhau, nghịch
nhau thì loạn lạc, loạn lạc thì khó hoà bình thế giới.
Cái
nền chính trị thật cao minh thì nên để cho các sắc dân đều tự chủ. Còn sự an
lập quốc thể thì dùng phương nào cho dân thuộc địa chịu dễ dàng, đừng dùng quyền
áp bức. Nước Đại Pháp cũng còn giữ chánh sách ấy mà làm lý thuyết,còn thực hành
thì lại trái hẳn, chỉ cũng tại ham muốn chosự tiến hoá mở mang thuộc địa may
chóng mà làm cho dân thuộc địa tha nha thiết nhỉ, và tại nơi tham tàn của đám ô
lại tham quan làm hư chánh sách cao thượng ấy đi. Bần đạo rất tiếc.
Ghi chú : Đức Hồng Y Richelieu thuộc dòng quý phái,
tên thật Amand Jean Du Plessis, Hồng Y De Richelieu, sanh năm 1585 ở Paris, quy
vị năm 1642 là một trong chánh khách Pháp, năm 1606 Ngài thọ phong giám mục thị
trấn Lugon, rồi đắc cử dân biểu phái Công Giáo ở hội nghị toàn quốc năm 1614.
Năm 1617, Ngài lìa xứ với hoàng hậu Marie de Médicis (vợ Henri IV) năm 1622
Hồng Y De Luynes gọi Ngài về và năm 1624 Ngài được thâu nhận vào hội đồng Hoàng
gia, nhanh chóng Ngài lãnh đạo hội đồng này.
Đàn
cơ tại Thánh địa Bạch Vân Kim Biên
Ngày
26 tháng 10 Quý Dậu (15-2-1933)
Phò
loan : Đức Hộ Pháp và Ngài Cao Tiếp Đạo
Hầu
đàn : Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
Giáo
sư Thượng Bảy Thanh
THANH SƠN ĐẠO SĨ
Thầy
ngậm ngùi nhớ buổi các con hạ trần, giúp đỡ Ngọc Hư thì Lý Đại Huynh, còn Cực
Lạc thì Hộ Pháp chuyển thế. Thầy chán hiểu rằng phận sự khó khăn quá sức các
con nên khi ấy không cho Trưởng Ca (Là Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn ) của các con
giáng trần, để ở thiêng liêng nắm quyền hành chính. Thầy chẳng trách nào sự oai
nghiêm của nó, nếu các con hiểu thấu thì mới biết rằng trách nhiệm của nó nặng
nề yếu trọng, cầm mối thiên cơ mặt thế xây chuyển cho thuận với thiên điều
không phải dễ,vì cớ mà Ngọc Hư ban quyền thiêng liêng vĩ đại, tùng phục mạng
lịnh Lý Giáo Tông và Hộ Pháp đặng bảo tồn chánh giáo. Thầy (Thầy là Đức Thanh
Sơn Đạo Sĩ xưng hô với chư môn đệ Bạch Vân Động) lại ngăn cản các con chẳng
đặng.
Khi
lãnh lịnh Ngọc Hư các con quá lời quyết định, thề chuyển tân thế, lập Tân Dân.
Thề ấy kiếp này Thầy rất nên sợ sệt. Thầy chỉ cầu nó thương tưởng các con nghĩ
tình bằng hữu trên ngàn kiếp đăng bảo bọc đỡ nâng, gọi ơn muôn một cùng Thầy.
Thầy
cũng nhìn rằng nó cố tâm giữ hứa, song nhiều phen nó đem bằng chứng nói tệ các
con, Thầy khẩn cầu khoan dung lắm lúc. Thầy rất đau lòng đôi phen chịu luỵ gánh
tội các con, nhưng các con cứ lần bần gây thêm ra nữa. Lúc sau này nó dâng sớ
vào Ngọc Hư xin truất bỏ nhiều đứa ra khỏi Thánh Thể Chí Tôn. Thầy đau lòng quá
đỗi, hễ bỏ ra khỏi Hội Thánh thì tội chuyển kiếp luân hồi. Thầy chạy đôn đáo,
khẩn đảo Ngọc Hư đình đãi ít lâu cho các con chuộc tội.
Phục
Thành (Đạo hiểu của giáo hữu Thượng Hoà Thanh do Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cho ) là
đứa thứ nhì trong số. Vậy Thầy xin các con nếu biết thương Thầy rán trao tâm
luyện tánh, đủ Thánh đức đạo tầm hầu làm xong phận sự đặng sum hiệp Thầy trò
kẻo Thầy nhẫn nhớ trông mòn mỏi .
Bần
đạo xin để lời cám ơn Chư Đại Thiên Phong, để lời cố cập cả chư đồ của Bần đạo.
Đa tạ hậu tình. THĂNG
Ông
giáo hữu Đặng Hoà Thanh bị Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn trục xuất ra khỏi Đàn cơ
đêm 27-10-Quý Dậu (14-12-1933)
Xin
ghi luôn theo đây bài Thánh giáo của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cho ông giáo hữu
Thượng Hoà Thanh.
Toà
Thánh, ngày 8 tháng 8 năm Tân Vì
(
Le 15-9-1931)
THANH SƠN ĐẠO SĨ
Hĩ
chư Đại Thiên Phong và chư Đạo hữu nam nữ
Xin
Quyền Giáo Tông bình thân, đa tạ, đa tạ !
Thầy
mừng hai con Phong Chí và Từ Huệ (Phong Chí là đạo hiệu của ông giáo sư Thượng
Bảy Thanh, Từ Huệ là đạo hiệu của ông giáo hữu Thượng Tuy Thanh )
Hoà
! con ngày nay đã định vị. Thầy cũng lắm phen cầu khẩn Ngọc Hư. Cái thâm tình
của Thầy còn rơi dấu tại Thanh Hoá (là nơi cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
từng học với ông bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Lúc sinh thời 18 tuổi, còn am Bạch
Vân của Ngài ở tỉnh Hải Phòng là nơi sinh quán. ), anh em Bạch Vân Động của con
lắm đứa còn nương đất Bắc, chẳng nỡ lìa vì còn dấu tích của Thầy buộc ràng
chúng nó nơi ấy. Vậy Thầy cậy con để hết tâm trí, gieo nguồn Thánh giáo nơi ấy
mà cứu nạn cho quê hương. Con đã rõ Thầy thương mến Bắc địa của mình dường nào
thì con cũng thể lòng yêu mến dường ấy. Thầy lại cậy con để lòng lo sùng tu
Bạch Vân Động hữu vi của Thầy lại, vì là một nơi Thầy lựa chọn rất xứng đáng
cho ngày hội hiệp các con.
Thầy
cho hai câu liễn và nhắc Thánh danh con. Cười..
Phục Thế tại Nhơn Hoà
Thành Cô tùng địa lợi
Lấy
hai chữ đầu đó thì biết danh con. Nội gia đình con Thầy giúp đỡ không chi phòng
ngại. Còn truyền giáo tuy coi khó, nhưng khó ấy là phép làm để cho con. Cười …
Cái
lập thệ của Bạch Vân rất hệ trọng, con khá nghĩ đến mà gắng công. Nếu cả các
con không tròn phận sự thì Thầy cũng phải mất ngôi mà tái kiếp. Khó viết quá !
- THĂNG
Hộ
Pháp Đường, mồng 1 tháng 10 năm Aát Hợi
(dl
26-11-1935)
BẠCH VÂN ĐỘNG THANH SƠN
ĐẠO SĨ
Bần
Đạo chào chư thiên phong và các con Bạch Vân Động.
Kiếu
lỗi cùng chư Đại đức, cho phép Bần Đạo chuyện vãng với chư môn đệ của Bần Đạo
một lát kẻo đã lâu cách biệt tội nghiệp chúng nó.
Các con nghe Thầy :
Nắm chặt khuôn linh sửa
nết trần
Nên hư để phó mặc Hồng
Quân
Chòm mây bạc cũ là Tâm chí
Khối tuyết trong xưa ấy
trí thần
Đường đột đôi phen gầy thế
cuộc
Oàn ào lắm lúc độ nguyên
nhân
Đã hay căn nghiệp là tên
độc
Mà cũng liên hoa thoát tục
trần.
Các
con nhớ lời Thầy căn dặn rằng, may duyên đặng gặp Chơn Quân tại thế, nương bát
nhã độ sanh thì công nghiệp ấy có ảnh hưởng vinh diệu cho Bạch Vân Động lắm.
Ngày nào mà Thầy thấy các con mang áo vinh quang mà chầu tại Bạch Ngọc Kinh cả
thảy là ngày ước vọng của chúng ta đã thoả mãn.
Thầy
đã nói rằng cơ chuyển thế là do luật vô biên ái tình sanh sản, con đường ái
tình ấy các con vẫn thường lui tới, ngày mong mỏi là ngày các con trải khối ái
tình ấy đầy dẫy nhơn tâm mới mong hoà bình đại đồng thế giới.
Ôi
! Thầy đứng đây thấy trong năm châu chư môn đệ hỡi còn lặn lội trong biển khổ
sông mê nên đau đớn. Thầy chỉnh sợ có bấy nhiêu mà không muốn thường giáng
trần, vì mỗi phen đều mỗi giọt lệ tuông vào nơi tục lự. Các con nhớ cái thảm
của Thầy đặng lấy nó làm dây hàn tâm gìn Thánh đức nghe !
Ông
Cao Đức Trọng lúc bấy giờ mới nhập môn vào Đạo chưa có phẩm tước gì, sau này
mới đắc phong Tiếp Đạo H.T.Đ cảm khái mấy bài thi của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ
trong thập thủ liên huờn , xin trích ra bài thứ sáu mà ông đã hoạ nguyên vận :
Thanh
Sơn Đạo Sĩ :
Xa thơ hầu ngã nước nhà
nghiêng
Ai giữ phong cương đặng
vững bền
Đấp luỹ Cổ Loa chưa thấy
mặt
Lấp Hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu
tên
Thăng Long bao thuở nung
hùng khí
Gia Định tự nhiên chấp ấn
quyền
Sông núi dật dờ chờ tạo
khách
Hoá sông nên Đạo, núi nên
Thiền
Hoạ Nguyên Vận
Kính Thanh Sơn Đạo Sĩ ,
Nước nhà điên đảo mấy lần
nghiêng
Giận lũ cầu vinh chí chẳng
bền
Dạ sắt không người cơn gió
lửa
Gan đồng thiếu kẻ lúc mưa
tên
Xót nền xã tắc trung nương
khách
Phá gánh giang san nịnh
dựa quyền
Dâu bể thôi đành chờ máy
tạo
Cồn xây vực thẳm hoạ khi
thiền.
9
Juin 1927
Cao Đức Trọng
Thanh Sơn,
Khi đến bần đạo đặng thi,
Khen đó !
Nghe bần đạo khuyên :
Đã từ vào bút lại ra
nghiên
Chí khí nam nhi gắng giữ
bền
Phong Võ tuy qua chưa định
tánh
Vân Đài nhắm lại có đề
tên.
Trần ai vùng vẫy nên tay
mắt
Đài Các tiêu tao chước
biến quyền
Đủ trí đủ tài tua vẹn đức
Lưu truyền hậu thế một
dòng thiền.
Trạng
Trình
Báo
Ân Đường (Nam Vang) đêm 13-8
Phò
loan : Giám Đạo Lợi Bính Thân (17-9-1956)
Hữu
Phan Quân Thoại
Thanh
Sơn Đạo Sĩ
Bần
Đạo xin chào Hộ Pháp , Bảo Đạo và chư hiền nam nữ.
Thắm
thoát nền Đại Đạo khai nơi Tần Quốc đã 30 năm. Ngày ấy chính Chí Tôn sai Hộ
Pháp đến để gieo hột Thánh cốc. Từ ấy những nay các tay chấp chánh Đạo quyền
nơi này không tỏ bồi thêm, trái lại làm cho phân chia tâm lý. Cớ ấy do chỗ ham
quyền trọng vị. Các chức sắc thiên phong lãnh thiên mạng nơi mình không làm
xong phận. Ngôi thì ham, quyền thì muốn mà hành động cho xứng lại không. Thử
hỏi họ Vưng Thiên mạng đến để làm gì kia chớ ?
Họ
phải cho xứng phận là anh thầy, để gần gũi nhơn sanh, chia việc đau, an ủi điều
khổ.
Hôm
nay, Hộ Pháp đã đến thì cả chức sắc Thiên phong phải rán thiệt thi quyền của
mình, hư thì bỏ, nên thì để, rửa ráy Thánh thể Đức Chí Tôn cho nên hình. Vậy
khá liệu lấy.
Có
Quyền Giáo Tông đến. - THĂNG
TÁI
CẦU :
Phò
loan : Hộ Pháp - Bảo Đạo
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Khi
nãy, Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ có ý khuyên mấy em gắng công hành đạo, chính qua cũng
nhìn nhận mấy em thiếu kém công nghiệp cùng Đạo. Mấy em nam nữ đã thấy rõ vì
thế nào mà Chưởng Đạo Nguyệt Tâm đã từ bỏ chức vụ mà mấy em từ thử hay chăng ?
Mấy
em nhớ lại coi, từ khi Phong Chí (Giáo sư Thượng Bảy Thanh) nắm quyền đến nay,
sự nghiệp Đạo đã hư hoại thế nào ? Thì cũng do nơi bội phản Hộ Pháp và anh em
giành quyền mà sanh ra rối loạn.
Qua
nói thiệt cùng mấy em rằng, vì hổ thẹn ấy mà Chưởng Đạo từ chức và huỷ bỏ Hội
Thánh Ngoại Giáo.
Các
em đã hiểu rõ điều ấy. Qua chỉ thương Thanh Sơn mang tiếng phụ phàng, lỗi tình
cùng Hộ Pháp. Qua đã nhiều phen cầu xin Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tha thứ, nhưng
Ngài quyết hẳn, vì cớ là chúng đã mạo danh Bạch Vân Động đặng chia phe phân
phái lập quyền đời của họ.
Các
em có biết chăng, Đấng đã mang trọn ân của Hộ Pháp là Bạch Vân Hoà Thượng, tức
là Đức Thanh Sơn, vì khi lãnh lịnh Ngọc Hư thì người đã hứa rằng : Hộ Pháp trọn
quyền sử dụng các Chơn linh Bạch Vân Động. Hôm nay lời hứa ấy đã thất.
Qua
nhường cơ lại cho Đức Thanh Sơn Chơn Nhơn.
Mấy
em sẽ hưởng đặng một điều quí báu. - THĂNG
TÁI CẦU :
THANH SƠN CHƠN NHƠN
Bần
đạo trở lại là vì lời kêu nài của Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
Chư
Thiên Phong đủ hiểu rõ rằng : Mạng số Việt Nam nó liên quan mật thiết cùng kiếp
sanh của Bần đạo là thế nào, và vì lẽ gì mà Bần Đạo phải giao trọn quyền điều
khiển Bạch Vân Động cho Hộ Pháp.
Bảo
Đạo ! Thì Bần Đạo cũng đồng tâm bịnh với Hiền hữu. Cười ….Bảo Đạo nghe :
THI
Hoành sơn phân nước trót
đôi lần,
Khí số bấy chừ dứt Nguyễn
quân
Lời sấm đoán văn khi thật
quả
Tiên tri toán số gẫm không
lầm
Aân dân buồn thiếu trang
hiền sĩ
Bảo quốc vui nhờ đức Thánh
quân
Suy thạnh nước nhà do trị
loạn,
Cũng như Đôngmãn tới hồi
Xuân
Đọc
lại rồi kiếm nghĩa đặng hiểu
Bần
đạo sẽ tái giáng đặng hiệp ý cùng nhau. - THĂNG
Đức
Phạm Hộ Pháp giải thích về Bạch Vân Động như sau :
“Xưa
nay nguời ta vẫn coi Nguyệt cầu (mặt trăng) là nơi dừng chân của những vị
Thánh, Thần, trước khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại
Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian
này.
Từ
cổ, Thần thoại đã mệnh danh nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ
giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động).
Giáo
chủ của Bạch Vân Động là Bạch Vân Hoà Thượng miêu duệ của Từ Hàn Đạo Nhơn, dòng
dõi Đức Phật Quan Âm.
Bạch
Vân Hoà Thượng đã 2 lần giáng trần ở Pháp : Một lần là Hồng Y Giáo Chủ
Richelieu, một lần là Quận Công LA Roche Foucault.
Ở
VN, Ngài giáng trần là Trình Quốc Công, Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức gọi là Trạng
Trình”
Sau
đây là nguyên văn thập thủ liên huờn của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ chia làm hai đoạn
: 5 bài trước giáng cơ vào năm 1925, năm bài sau giáng cơ năm 1927, có ba vị nữ
Tiên Diêu Trì Cung về khen tặng :
THẤT NƯƠNG
Chào mấy anh - em xin tặng
Thanh Sơn
Hay Thanh Sơn, giỏi Thanh
Sơn
Trung nghĩa về Tiên cũng
ngậm hờn
Cẩm Tú thêu oan thành khí
giới
Văn chương khảo tội hoá
côn huờn
Tiếng chuông tỉnh thế ba
kỳ thức
Hơi trống truy hồn bá tánh
khôn
Trị loạn sấn tay nâng vạc
ngã
Anh linh muôn kiếp nước Nam dồn
(13 Juin 1927)
BÁT NƯƠNG
Em chào mấy anh - Em cũng
xin tặng :
Tài Thanh Sơn, trí Thanh
Sơn
Câu văn tuyệt bút vẽ nên
hờn
Giục lòng chí sĩ chưa vừa
sức
Múa búa thần tiên đủ chấp
quờn
Dệt thảm lê dân trời cám
cảnh
Khêu sầu xã tắc đất kinh
hồn
Nắn nhồi trí tuệ thành
binh khí
Rèn chất anh thư đắp lũy
dồn
(14
Juin 1927)
LỤC NƯƠNG
Em xin tặng Thanh Sơn
Trung Thanh Sơn, nghĩa
Thanh Sơn
Bởi tại đâu ân oán nuốt
hờn.
Nát mật khó xem nhà vắng
chủ
Bầm gan há chịu nước không
quờn.
Câu văn ái chủng gầy binh
khí
Tiếng sấm ưu hương định
quốc hồn.
Lập chí ôn nhu là đắp luỹ
Nung lòng đạo đức ấy xây
dồn.
(15 Juin 1927)
THẬP THỦ LIÊN HUỜN
Của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ
1 - Âm dương tuy cách cũng trời chung
Thấy trái nên đây mới tỏ
cùng
Thắc dạ thuyền xưa không
đậu bến
Đau lòng hạc cũ chẳng về
tùng.
Cúi đầu đành chịu thân
trăm tuổi
Ngước mặt ngơ trông bậc
chín trùng
Mạnh yếu há ngồi cam chịu
vậy
Hay chi cá chậu với chim
lồng.
2 - Chim lồng bao thuở lại non xanh
Mỏi mắt trông vơi chốn
thoát mình
Dựng nước chẳng ai tài
tướng được
Liều mình thiếu kẻ đấng
hùng anh
Vầy thuyền chi sợ cơn
giông tố
Hiệp chủng còn hơn cuộc
chiến tranh
Thìn dạ chờ Chầu về Hiệp
phố
Nơi mình sự nghiệp mới tan
tành,
3 - Tan lành nhớ
đến gánh giang san
Lòn cúi thương dân lắm buộc ràng
Phú quí mồi câu con hạc
cánh
Đỉnh chung gió thổi đám
mây tan
Đợi thờ toan mượn cần câu
Lữ
Dựng nghiệp tua che mặt
lưới Thang
Ly loạn gặp đời, đời muốn
chán
Công danh phủi sạch hưởng
thanh nhàn
4 - Thanh nhàn ngày tháng lại Tiên
gia
Trị loạn hằng xem thế nước
nhà
Bễ hoãn dập dồn thương bấy
trẻ
Thành sầu chất ngất thẳm
cho già
Bạc đầu non chịu lằn sương
nhuộm
Nhăn mặt nước chờ trận gió
qua,
Thân ái mối dây tua nắm
chặt
Chích chiu ấy cũng một bầy
gà
5 - Bầy gà mất mẹ kiếm bơ vơ
Yếu đuối biết ai để cậy
nhờ
Nắng hạn trông mưa trông
mỏi mắt
Đắng cay mộ nước mộ lòng
chờ
Ngoài khua tiếng giặc,
trong khua nịnh,
Võ thiếu binh nhung, quốc
thiếu cờ
Trí chúa tôi hiền không
gặp chúa
Nào người gánh nỗi mối xa
thơ
6 - Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng
Ai giữ phong cương đặng
vững bền
Đắp luỹ Cổ Loa chưa thấy
mặt
Lấp hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu
tên
Thăng Long bao thuở nâng
hùng khí
Gia Định từ nhiên chấp ấn
quyền
Sông núi dật dờ chờ tạo
khách
Hoá sông nên Đạo, núi nên
thuyền
7 - Nên thuyền thì trước lập nên dân
Chín bệ xem qua chẳng trí
quân
Ích nước xủ tay khoe đẹp
áo
Lợi nhà vổ bụng hưởng tròn
thân
Nam Giao vắng vẽ đường
cung kiếm
Văn Miếu khô khan ngọn bút
thần
Danh vọng ru hồn quên thỗ
võ
Thẹn nòi bộc lại, mộ đai
cân
8 - Đai cân đã có vẻ chi chưa ?
Hay phận tù lao kiếp sống
thừa
Đạp đất gập ghềnh chân trẻ
dại
Ngừa thời điên đảo trí già
xưa
Ngôi hang thương kẻ mang
da chó
Ngự điện ghét quân đội lốt
lừa
Cái nhục giống nòi kia
chẳng rửa
Xoi hang mạch nước ý chưa
vừa
9 - Chưa vừa mộng mị với Tây tà
Vụ xác vong hồn dựa phách
ma
Tiêu huỷ thân cây lằn lửa
táp
Tan tành hình nộm trận
giông qua,
Rước voi phá mã đào Lăng
miếu
Thả rắn xua ong nhiễu điện
toà
Đổ luỵ hỏi người sao chẳng
nhớ
Ngọn rau tấc đất nước nhà ta
10 - Nước
nhà ta có tiếng anh phong
Vẻ đẹp trời đông sắc Lạc
Hồng
Nam Hải trổ nhiều trang
Thánh đức
Giao Châu sanh lắm bực thư
hùng
Tính trung lửa thét thành
Bình Định
Khí liệt gươm đề tỉnh
Quảng Đông
Văn hiến bốn ngàn năm có
sẵn
Chi cần dị chủng đến dâng
công
2 . Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Hán vận :
DƯỠNG SINH THI
Tích khí, tồn tinh, cánh
dưỡng thần,
Thiểu tư, quả dục, vật lao
thân
Thực thôi bán bão, vô kiêm
vị
Tửu chỉ tam phân, mạc quá
tần
Mỗi bả hí ngôn, đa thủ
tiếu
Thường hàm lạc ý, mạc sinh
xân
Nhiệt viêm, biến trá, đô
hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu dao quá
bách xuân
Dịch :
Giữ khí, gìn tinh, lại
dưỡng thần
Ít lo, ít muốn, ít lao
thân
Cơm nên vừa bụng, đừng
nhiều vị
Rượu chỉ vài phân, chớ quá
từng
Miệng cứ câu đùa vui miệng
mãi
Bụng thường nghĩ tốt bụng
lâng lâng
Nhiệt thành, biến trá,
thôi đừng hỏi
Để tớ tiêu dao đến tuổi
trăm
CẢM HỨNG
Thái hoà vũ trụ bất Ngu,
Chu
Hỗ chiến giao tranh tiếu
lưỡng thù
Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ
hữu
Uyên ngư tùng trước vị
thuỳ khu
Trùng hưng dĩ bốc độ giang
mã
Hậu hoạn ưng phòng nhập
thất khu
Thế sự đáo đầu lưu thuyết
trước
Tuý ngâm trạch bạn nhậm
nhàn du
Dịch :
Non sông nào phải buổi
bình thời
Thù đánh nhau chi khéo nực
cười !
Cá vực, chim rừng ai khiến
đuổi ?
Núi xương, sông huyết thảm
đầy vơi
Ngựa phi chắc có hồi quay
cổ
Thú dữ nên phòng lúc cắn
người
Ngán ngẫm việc đời chi nói
nữa
Bên đầm say hát nhởn nhơ
chơi !
Phan
Kế Bính dịch
Nam
Hải dị nhân liệt truyện
(Imprimerie
Tonkinoise, Hanoi)
NGỤ Ý
Danh toại công thành hưu
hĩ hưu
Đẳng, nhàn thế cố nhất hư
châu
Phong lai giang quán lương
nghi hạ
Nguyệt đáo thư lâu minh
chứng thu
Hồng nhật đông thăng tri
đại hải
Bạch vân tây vọng thị thần
châu
Khê sơn diệc túc cung ngô
lạc
Nhẫn phụ tiền minh vạn lý
âu
* Ứng về sau nhà Lê khôi phục được nước
* Ứng về sau nhà Trịnh lại giữ quyền nhà Lê
CƯƠNG THƯỜNG TỔNG QUÁT
Trời phú tính (*) ở mình
ta
Đạo cả cương thường năm
mấy ba (**)
Tôi hết ngay chầu chực
chúa
Con hằng thảo kinh thờ
cha.
Anh em mựa nỡ điều hơn
thiệt
Bầu bạn cho hay nết
thực thà
Nghĩa vợ chồng xem rất
trọng
Ở đầu phong hoá (***)
phép chung nhà
(*) Trời phú tính : Sách trung dung :
"Thiên mệnh chi vi tính" (cái mà trời phú cho gọi là tính). Tục ngữ
cũng có câu : "Cha mẹ sinh con trời sinh tính".
(**) Cương là cái
giường lưới tức cái dân chính của lưới, từ đó móc các sợi làm mắt lưới. Tam
cương : vua (là giường của )tôi , cha (là giường của) con, chồng (là giường của
)vợ. Ngũ thường : năm đức tính con người cần phải có : nhân (thương người), lễ
(phép tắc trong sự ăn ở), nghĩa (lẽ phải), trí (sự sáng suốt), tín (giữ đúng
lời nói)
(***) Ở đầu phong hoá xưa coi tình nghĩa vợ chồng
là mối đầu của phong hoá là cơ sở của xã hội
RĂN ĐẦY TỚ THỜ CHỦ
Đạo làm đầy tớ ở cho ngay
May tơ hào cũng chẳng
tây (*)
Chữ “thận cần”(**) đâu
dám trễ
Niềm “ưu ái” (***) chút
nào khuây ?
Vàng bền há lại lửa còn
sợ ?(****)
Cỏ cứng chi cho gió
được lay ?
Một tiết miễn
thâu(*****) vừng nhật nguyệt
Biết chăng hay chăng,
mặc lòng thầy (******)
(*) Dù một chút nhỏ cũng không vì mình
(**) cẩn thận và siêng năng
(***) Ưu ái là nhiệm vụ kẽ sĩ phu
(****) Há lại lửa còn sợ : há lại còn sợ lửa
(*****) thấu suốt
(******) Thầy là sư (đối với trò) là chủ (đối với tớ) là vua
(đối với bầy tôi)
CON THỜ CHA MẸ
Ngẫm đạo làm con ở rất
nan (*)
Ở cho lọn đạo mới là
ngoan
Hay khi “ôn sảnh”(**)
bề cung dưỡng(***)
Siêng thuở “thần
hôn”(****) việc hỏi han
Dầu giận hờn, càng kính
thuận
Vâng sai khiến, dám phàn
nàn ?
Chữ rằng : “Chưa dễ đền ơn
nặng”
Lọ nỗi riêng tây theo thế
gian ?
(*) Nan : khó khăn
(**) Ôn sảnh : do chữ "đông ôn, hạ sảnh"
bổn phận kẻ làm con chăm sóc cha mẹ
(***) Cung dưỡng : tìm thức ăn nuôi mẹ
(****) Thần hôn : do chữ "hôn định, thần
tỉnh" tối sớm bổn phận kẻ làm con chăm sóc cha mẹ
KHUYÊN ANH EM CHỚ GIÀNH LẪN NHAU
Cùng đội sinh thần một cửa
ra
Anh em trời đã thực cho
ta
Giúp nàn, chống rẻ cùng
nương cậy (*)
Biết kính, hay yêu miễn
thuận hoà
Xui giục chớ tin lời vợ
Yêu thương sá thấy lòng
cha (**)
Chân tay gẫm lại ai hơn
nữa
Tranh cạnh làm chi, lỗi
phép nhà ?
(*) Giúp nàn : giúp đỡ nhau trong lúc nghèo. Chống
rẻ : chống kẻ khinh thường anh em mình
(**) Yêu thương sá thấy lòng cha : Khi anh em có
chuyện xính mích nên nghĩ đến tấm lòng cha yêu thương tất cả mà thuận hoà với
nhau
KHUYÊN CHỒNG ĐỐI VỚI VỢ
Sau ngày đã kể vợ tao
khang(*)
Xin xót (**) cùng nhau hỡi
thế thường
Lỗi nhỏ (***) thứ cho đừng
sá giận
Tình thân nghĩ đến cũng
nên thương
Chi tuồng bòn của, no liền
phụ
Mảng nỗi chê già, ghét lại
ruồng
Kìa kẻ sốt giàu … (****)
Chẳng hay nghãi cả để đầu
giường (*****)
(*) Tao
khang : do câu "Tao khang chi thê bất hạ đường" (hán thư) chỉ người
vợ lấy mình lúc còn hàn vi
(**) Xót : thương xót nhau
(***) Thứ : tha thứ
(****) Kẻ : ở đây là tác giả dẫn điển Ngô Khởi
người thời Chiến quốc vì nóng lòng ham giàu sang nên đã nhẫn tâm giết vợ
(*****) Đầu giường : dịch chữ "cương". Do
câu "hữu phu phụ nhi hậu hữu phụ tử, hữu phụ tử nhi hậu hữu quân
thần", nghĩa là có vợ chồng mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua
tôi.
KHUYÊN NÀNG DÂU THỜ CHA MẸ CHỒNG
Cha mẹ chồng biết kính thờ
Nàng dâu miễn đấy vẹn sau
xưa (*)
Việc làm theo thói nhà
quen chuộng
Nết ở chiều người tính sở
ưa (**)
Yêu nề càng gìn lễ phép
Giận hờn cũng chớ thẩn thơ
Mắng thương (***) người
phải dùng khoan nhặt (****)
Ta giữ cho hay thì mới vừa
(*) Khuyên
nàng dâu biết kính thờ cha mẹ chồng thì mới làm trọn nghĩa trước sau
(**) Đạo làm dâu phải tuỳ theo sự ưa thích của cha
mẹ chồng
(***) Mắng thương : những lời dạy bảo chân tình
xuất phát từ lòng thương yêu của cha mẹ
(****) thong thả và chặt chẽ
KHUYÊN ĐỐI XỬ VỚI BẦU BẠN
Làm người dầu đã bạn cùng
ai
Chữ tín tua nhìn chẳng chút
sai (*)
Đừng có nồng chi rồi lại
lạt
Nếu mà thắm lắm ắt liền
phai (**)
Chợ hàng, miễn chớ tuồng
chơi họp (***)
Rượu bạc, xin thôi sức ép
nài
Sác ắt sơ (****) hằng cần
đấy
Yêu nhau nghĩa ấy mới bền
dai
(*) Tín là
giữ đúng lời hứa, lời hẹn với bạn
(**) người xưa nhắc :"Quân tử chi giao tạm
nhược thuỷ" (tình bạn bè của người quân tử thanh đạm như nước)
(***) Làm bạn với nhau, đừng rũ nhau nhau ăn uống
nay chợ mai hàng
(****) Sát ắt sơ : theo lời của Khổng tử
:"bằng hữu sác tư sơ hĩ" ý nói đối với bầu bạn, nếu mình can ngăn
luôn tất sẽ bị bạn xa lánh (Luận ngữ)
KHUYÊN ĐỐI XỬ VỚI HỌ HÀNG
Dòng dõi suy ra cũng một
nhà
Xem ai hơn nữa họ hàng ta
?
Đỡ đần đành cậy vây cánh
Gửi thác (*) càng tin ruột
rà
Chẳng bỏ được nào, sao
chẳng biết ?
Nên gần cho lắm, há nên xa
?
Cùng nhau bầu bí yêu
thương lấy (**)
Chớ nỡ xem bằng khác tới
qua (***)
(*) Gửi thác
: dịch tức ký thác
(**) Ca dao : "bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn"
(***) họ hàng là phải thương yêu đùm bọc nhau, giúp
đỡ nhau trong lúc hoạn nạn, chớ coi như khách vãng lai
KHUYÊN ĐỐI XỬ VỚI HÀNG XÓM
Nghiệp cha ông…
Ai là cho khỏi chốn gia
hương ?
Miễn thay (*) hằng giữ bề
lương thiện
Dầu vậy, đừng nồng …
Cậy thế chớ bề hiếp chóc
Ra ơn sá miễn (**) yêu
thương
Vắt tay xin nghĩ về sau
với :
Lành giữ muôn đời, tiếng
để làng
(*) khuyên thay
(**) Sá miễn : khuyên nên
RĂN NGƯỜI CÓ LÒNG THAM
Tượng trời (*) âu đã quá
đồng cân
Định cho ai, ắt có phần
Muốn vô nhai (**) khôn lẽ
được
Ơn phi phận (***) khá đều
phân
Đủ no hay vậy xin thong
thả
Sạo sục (****) làm chi,
luống nhọc nhằn !
Nếu tham hơn thì phải thiệt
Hãy ghi lời ấy để mà
răn
(*) Tượng trời : đồng tiền được đúc theo tượng
trời, ắt cũng cân bằng
(**) Muốn vô nhai : Bụng quá tham, không biết
thế nào là bờ
(***) Ơn phi phận : ơn
vốn không phải mình đáng được hưởng
(****) Sạo sục : nôn nóng, bồn chồn
RĂN NGƯỜI HAM MÊ SẮC ĐẸP
Cẩn (*) cho hay, chẳng
phải chơi
Sắc xem dường sóng, dễ
xiêu người (**)
Lửa rơm nếu chửa ngăn lòng
tục (***)
Giường mối đâu còn biết lẽ
trời (***)
Có chồng con bao xiết
nỗi
Hay bùa thuốc ấy thói
đời (****)
Kham hiền (*****) luận
ác “dâm vi thủ” (******)
Cẩn cho hay, chẳng phải
chơi
(*) Cẩn : giữ gìn, đề phòng
(**) Thơ cổ : "
Sắc bất ba đào, dị nịch nhân" Sắc chẳng có sóng mà dễ khiến làm đắm người
(Lý Niên Diên -Đường) cũng có câu "Nhất tiểu
khuynh nhân thành, tái tiểu khuynh nhân quốc" (Người đẹp cười lần nhất làm nghiêng thành, cười lần hai làm nghiêng nước).
(***) Khi gần sắc đẹp nếu chẳng giữ mình, để cho
lòng tục lôi kéo đến chỗ "lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" và lúc đó,
sẽ quên hết lẽ trời.
(****) để làm người khác say mê, người ta có thể
dùng "bùa thuốc"
(*****) Kham hiền : đáng khen là hiền
(******) Luận ác dâm vi thủ : theo Nho giáo luận về
tội ác thì dâm ô là đứng đầu. Người xưa có câu "Bách ác, dâm vi thủ; vạn
thiện, hiếu vi tiên" Trăm điều ác, dâm là đầu, vạn điều lành, hiếu đứng
trước.
RĂN NGƯỜI HAM MÊ CỜ BAÏC
Anh em cùng mặt chẳng cùng
lòng
Cờ bạc ai là ở có sòng (*)
Cười nói tuy rằng
vui miệng vậy
Lật lừa toan…
Xoay vần, nhà chủ (**) đều
vơ cả
Gian lận, con kim (***)
cũng sạch không
Nghề ấy xưa nay…
Có giàu sao được (****)
hãy còn mong ?
(*) Sòng :
thẳng thắn
(**) Nhà mở sòng chứa cờ bạc
(***) người có tiền, tức la øngười đánh bạc
(****) Có giàu sao được : tục ngữ có câu : "Cờ
bạc là bác thằng bần"
RĂN NGƯỜI KIỆN CÁO GIAN GIẢO
Một mình ăn mặc hết bao
nhiêu
Gây làm chi bấy, hỡi điêu
!
Kiếm chước tạo thêu (*)
không hoá có
Tìm điều đặt bỏ (**) ít
nên nhiều
Phải chăng rối lý khôn bề
đoán (***)
Kiện cáo xui người (****)
đến nỗi xiêu (*****)
Phép nước ví dù còn tránh
được
Tội trời khôn thể tránh
đâu nào
(*) Thêu :
thêu dệt cho thành sự thật
(**) Đặt bỏ : bịa đặt điều này, vứt bỏ điều khác,
có ít nói nhiều
(***) làm cho lẽ phải, lẽ trái khó mà xét đoán
(****) xúi giục người
(*****) xiêu cửa, xiêu nhà
RĂN NGƯỜI CẬY MÌNH SANG MÀ KIÊU NGAÏO
Dầu sang trọng cũng là trời (*)
Ta có chi kiêu với ai ?
Rất đỗi thánh xưa còn tốn nhượng (**)
Lọ loại thường nọ há rông
rài ?
Chớ điều cậy thế mình
khinh rẻ
Đến lúc thua cơ nó mỉa mai
Cẩn đấy, một ngày càng một
giữ
Thói kiêu giũ sạch mới ra
người
(*) Cũng là
trời : do trời định
(**) Tốn nhượng : nhún nhường
RĂN NGƯỜI CẬY MÌNH GIÀU MÀ COI THƯỜNG NGƯỜI NGHÈO
Kẻ khó thường làm ích kẻ
giàu
Ở thì phải ngẫm, biết
nhường nhau
Bán kia, chẳng nỡ mua cho
rẻ
Vay nọ, xin đừng lãi lấy
đau
Bớt nỗi sai đời làm độc
khố (*)
Thôi thì đã trả hãy cơ cầu
(**)
Nặng lòng nhân nghĩa, hay
thương khó
Giàu ấy hầu toan mới được
lâu (***)
(*) Khi
khách đến đòi nợ thì giơ đủ mánh khoé độc ác, nào giết gà, đánh chó để ăn. Khi
họ ra về con nợ còn phải có phẩm vật tiển đưa
(**) Hãy cơ cầu : hãy còn cơ cầu ác nghiệt
(***) Người đời khi đã giàu có muốn được bền thì
phải có lòng nhân nghĩa
RĂN KHÔNG NÊN TIN NHẢM TÌM ĐẤT TỐT
Phúc địa chi cho kẻ cưỡng
cầu (*)
Được chăng run rủi bởi cơ
mầu
Ở lành, chẳng rắp hay nên
gặp (**)
Nẻo dữ, tuy tìm lại phải
âu
Quí Nộ phân kim (***) ai
khéo bấy.
Cao Biền (****) ưa thuỷ
phép sai đâu
Ngẫm xem dám …
Phúc địa chi cho kẽ cưỡng
cầu ?
(*) Cưỡng cầu : cầu mong gượng gạo
(**) Chẳng rắp hay nên gặp : chẳng tìm mà lại gặp
(***) Phân kim gọi là phân kim vị kim đứng đầu ngũ
hành. Tìm phương vị là để đặt huyệt đúng hướng.
(****) Cao Biền : quan đô hộ đời Đường kiêm mấy
thầy phù thuỷ xảo nguyệt
VÔ ĐỀ
1
Rất nhân sinh bảy tám mươi
(*)
Làm chi lận đận nhọc lòng
người ?
Một am (**) phong nguyệt,
tớ vui tớ
Hai chữ công danh, ngươi
mặc ngươi
Xa mã cửa …
Cá tôm bữa miếng mọi mùi
tươi
Sang khó miễn yên đòi phận
Rất nhân sinh bảy tám mươi
(*) Viết
thoát ý câu "nhân sinh thất thập cổ lai hy" Đời người ta sống đến 70
tuổi thì xưa nay kể hiếm
(**) Một am : am Bạch Vân
2
Lợi danh từng biết chốn
xôn xao,
Dấu cũ đành mong nối họ
Sào (*)
Đèo núi vỗ tay cười khúc
khích
Rặng thông vắt cẳng (**)
hát nghêu ngao
Đòi nơi phong nguyệt vui
thay đấy !
Dầu phận công hầu bận (***)
được nao ?
Hãy so xem người
thế tục
Aâu ta cũng đã kể làm cao
(*) Họ Sào :
tức Sào P hủ một cao sĩ đời Đường Nghiêu ẩn ở núi Cơ Sơn, dùng câu làm nhà như
một cái ổ nên gọi là Sào Phủ (sào là cái ổ)
(**) Vắt cẳng : ngồi vắt chân chữ ngũ
(***) Bận : bận bịu
3
Phú quý lòng, phú quý danh
(*)
Thân hoà tự tại, thú hoà
thanh
Tiền sen (**) tích để bao
nhiêu thúng
Vàng cúc (***) đâm bông
biết mấy giành (****)
Ngoài cửa mận đào là khách
khứa
Trong nhà cam quýt ấy tôi
mình
Ai xem, ai chẳng hay là chớ (*****)
Lại một ta khen ta hữu tình
(*) giàu về đạo đức hơn là sang trọng về địa
vị
(**)
Lá sen lúc mới nở tròn như đồng tiền
(***) vàng như hoa cúc
(****) rổ nhỏ đan bằng tre
(*****) Ai biết hay chẳng biết cũng thế thôi
4
Người gồng gánh kẻ lầm
than
Ta biết so ta (*) kể thực
nhàn
Đường lợi há theo thị tinh
? (**)
Cảnh thanh chiếm hết giang
san
Ngắm chơi đã trải miền
thôn dã
Hóng mát từng vui chốn
thạch bàn (***)
Một cỏ hoa đều đủ được
Rất vời thong thả cõi
trần gian
(*) Ta
biết so ta : so ta với người gồng gánh, kẻ lầm
than
(**) Thị tỉnh : có nghĩa là thành thị, đô thị
(***) Thạch bàn : phiến đá phẳng dùng điển Khương
Tử Nha câu cá ở Thạch Bàn
3. Sấm Trạng Trình
Người
Trung Hoa phục tài Trạng Trình Việt Nam nên đã có lời ca tụng “An Nam lý học
hữu Trình Tuyền” : Nước Nam về khoa Lý học có
ông Trình Tuyền.
Tương
truyền những sự việc sau đây đã ứng nghiệm đúng theo lời sấm truyền của Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
1 .
Tiên Tri về Nhà Tây Sơn dấy nghiệp :
“Chân cung xuất nhật
Đoài cung vẩn tinh”
Nghĩa là :
Mặt trời xuất hiện ở
phương Đông
Sao sa ở phương Tây.
Theo
Bát Quái có tám quẻ là : Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài. Chấn ở
phương Đông. Theo kinh Dịch cung Chấn chỉ về người trên. Yù nói người anh cả
của họ Nguyễn Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sẽ dấy nghiệp. Sao sa ở phương Tây ý nói
nhà Tây Sơn xuất hiện.
Sáu câu :
“Bao giờ trúc mọc qua sông
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng
non Tây
Đoài cung một sớm đổi thay
Chấn cung sao cũng sa ngày
chẳng còn
Đầu cha lộn xuống chân con
Mười bốn năm tròn hết số
thì thôi”
Sáu
câu nầy ứng vào việc Tôn Sĩ Nghị đem quân Thanh sang cướp nước Nam. Khi đến
Thăng Long,Sĩ Nghị cho quân sĩ lập một chiếc cầu nối bằng tre ngang sông Hồng.
Sau khi dẹp được giặc Thanh. Nguyễn Huệ xưng là Quang Trung Hoàng Đế (hai câu
1-2)
Nhờ
tài ngoại giao của Ngô Thời Nhiệm Quang Trung được vua nhà Thanh là Càn Long
phong chức An Nam Quốc Vương.
Sau
hai năm ở ngôi vua, Hoàng đế Quang Trung mất. Đoài cung câu 3 có nghĩa là
phương Tây. Theo Kinh Dịch, cung Đoài là kẻ dưới, ý nói người em là Nguyễn Huệ
mất. Năm sau, Nguyễn Nhạc vì tức vua Cảnh Thịnh (Nguyễn Quang Toản, con của
Quang Trung) chiếm thành Qui Nhơn nên thổ huyết mà thác (Chấn cung câu 4 ám chỉ
Nguyễn Nhạc, người anh của nhà Tây Sơn). Câu 5 chỉ tên vua Quang Trung và vua
Cảnh Thịnh. Chiết tự chữ “Quang” của vua Quang Trung gồm chữ “Tiều” ở trên mà
chữ “Cảnh” của vua Cảnh Thịnh lại có chữ “Tiều” ở dưới. Thế nên mới nói : Đầu
cha lộn xuống chân con. Câu 6 nói nhà Nguyễn Tây Sơn chỉ làm vua được 14 năm.
2 .
Tiên Tri về việc Phong hầu cho dân làng vĩnh lại
“Bao giờ ngựa đá qua sông
Thì dân Vĩnh Lại quận công
cả làng”
Nghĩa
là :
Khi
nào ngựa đá qua sông được thì dân làng Vĩnh Lại đều được phong hầu.
Khi
vua Lê Chiêu Thống lánh nạn Tây Sơn trốn qua làng Vĩnh Lãi dân chúng ủng hộ nhà
vua chống lại Tây Sơn, vua Lê sẵn ấn tín đem theo mình liên phong tước hầu cho
người cầm đất dân làng. Tin truyền ra dân chúng tranh nhau xin vua phong tước
hầu cho mình. Sợ dân chúng sinh lòng phản trắc, nhà vua liền phong tước hầu cho
tất cả dân làng.
Nhiều
người cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm nhờ nghiên cứu những điều bí ẩn trong bộ sách
Thái Ất Thần Kinh mà thông suốt mọi việc quá khứ vị lai.
3 .
Tiên tri về tương lại của Nhà Nguyễn :
“Phụ nguyên chính thống
hẳn hoi
Tin dê lại mắc phải mồi
đàn dê”
Ý
nói nhà Nguyễn mới là dòng dõi chính thống. Vua Gia Long nhờ sự trợ giúp của
người Pháp để diệt nhà Tây Sơn. Nhưng nhà Nguyễn cũng mất chủ quyền về tay
người Pháp. Chữ “dê” dịch nghĩa Hán là “dương” ám chỉ người Tây Dương.
Bốn câu :
“Để loài bạch quỷ Nam xâm
Làm cho trăm họ khổ trăm
lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh
nguy
Gia đình một ở ba đi dần
dần”
Hai
câu đầu chỉ việc thôn tính của người Pháp ở Việt Nam làm cho dân chúng khốn khổ
“Bạch quỷ Nam xâm” làm nhân dân cực khổ điêu đứng vì cảnh chia lìa.
Hai
câu kế, vì chống lại sự xâm lăng của Pháp, ba vị vua của nhà Nguyễn là Hàm Nghi
(bị đày sang Algérie), Thành Thái và Duy Tân (bị đày sang đảo Réunion) chỉ còn
một mình Khải Định ở lại làm vua ứng nghiệm vào câu: “Gia đình một ở ba đi dần
dần”.
4 .
Tiên tri những cuộc khởi nghĩa kháng Pháp
Kìa kìa gió thổi lá rung
cây
Rung Bắc, rung Nam , Đông tới Tây”
Sau ngày Pháp thôn tính Việt Nam các phong
trào Cần Vương trong nước và Văn Thân đều nổi dậy khắp nơi.
Bốn câu :
Tan tác KIẾN kiều AN đất
nước
Xác xơ CỔ thị sạch AM mây
LÂM giang nổi sóng mùa
THAO cát
HƯNG địa tràn dâng HOÁ
nước đầy.
Ứng
vào cuộc khởi nghĩa Việt Nam Quốc Dân Đảng kháng Pháp tại Kiến An, Cổ Am, Lâm
Thao và Hưng Hoá. Thật là cảnh đất nước xác xơ như cành cổ thụ cắn trụi. Sóng
gió, cát bụi nổi lên mịt trời hoà cùng máu của các chiến sĩ gục ngã để giành
lại chủ quyền độc lập. Câu “Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua” chỉ phong trào
tranh đấu chống thực dân Pháp ở Đô Lương, Hóc Môn, Nghệ An và Thái Nguyên.
5 .
Tiên tri toàn quyền Pasquier tử nạn máy bay
Hai
câu :
“Giữa
năm hai bảy mười ba
Lửa
đâu mà đốt tám gà trên mây”
Tám
gà : Hán văn là Bát kê. Đúng vào năm âm lịch nhuần hai tháng bảy, mười ba
tháng, Toàn quyền Đông Dương Pasquier mãn nhiệm trở về Pháp, dọc đường máy bay
bị nạn, Pasquier bị chết cháy giữa không trung đúng vào câu “Lửa đâu mà đốt tám
gà trên mây”
Sau
đây là Cảm đề và Sấm ký của Trạng Trình
CẢM ĐỀ :
Thanh nhàn vô sự là tiên
Năm hồ phong nguyệt ruỗi
thuyền buông chơi
Cơ tạo hoá
Phép đổi dời
Đầu non mây khói toả
Mặt nước cánh buồm trôi
Hươu Tần mặc kệ ai xua
đuổi
Lầu Hán trăng lên ngẫm
mệnh trời
Tuổi già thua kém bạn
Văn chương gởi lại đời
Dở hay nên tự lòng người
cả
Bút nghiên soi hoa chép
mấy lời
Bí truyền cho con cháu
Dành hậu thế xem chơi
SẤM KÝ :
Nước Nam từ họ Hồng Bàng
Biển dâu cuộc thế, giang
sơn đổi vần
Tự Đinh, Lê, Lý, Trần thuở
trước
Đã bao lần ngôi nước đổi
thay
Núi sông thiên định đặt
bày.
Đồ thư một quyển xem nay
mới rành
Hoà đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông Á nhật xuất
Dị mộc tái sinh.
Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh
Phụ nguyên chi thống
Đế phế vi đinh
Thập niên dư chiến
Thiên hạ cửu bình
Lời thần trước đã ứng linh
Hậu lai phải đoán cho mình
mới tường
Hoà đao mộc hồi dương sống
lại
Bắc Nam thời thế đại nhiễu
nhương
Hà thời biện lại vi vương,
Thử thời Bắc tận Nam
trường xuất bôn
Lê tồn Trịnh tại
Trịnh bại Lê vong
Bao giờ ngựa đá sang sông
Thì dân Vĩnh Lại Quận Công
cả làng
Hà thời thạch mã độ giang
Thử thời Vĩnh Lại nghênh
ngang công hầu
Chim bàng cất cánh về đâu?
Chết tại trên đầu hai chữ
Quận Công
Bao giờ trúc mọc qua sông
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng
non Tây
Đoài cung một sớm đổi thay
Chấn cung sao cũng sa
ngay chẳng còn
Đầu cha lộn xuống thân
con
Mười bốn năm tròn hết
số thì thôi
Phụ nguyên chính thống
hẳn hoi
Tin dê lại phải mắc mồi
đàn dê
Khỉ nọ ôm con ngồi khóc
mếu
Gà kia vỗ cánh trập
trùng bay
Chó nọ vẫy đuôi mừng
thánh chúa
Aên no ủn ỉn lợn kêu
ngàu
Nói cho hay khảm cung
ong dậy
Chí anh hào biết đấy
mới ngoan
Chữ rằng lục thất
nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên
anh tài
Ra tay điều đỉnh hộ mai
Bấy giờ mới rõ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân
Thấy nhân ai chẳng mến
nhân tìm về
Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về
chuồng
Dê đi dê lại tuồn luồn
Đàn đi nó cũng một môn phù
trì
Thương những kẻ nam nhi
chí cả
Chớ vội sang tất tả chạy
rong
Học cho biết chữ cát hung
Biết phương hướng đứng chớ
đừng lầm chi
Hễ trời sinh xuống phải
thì
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì
đợi mong
Kìa những kẻ vội lòng phú
quí
Xem trong mình một tí đều
không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới giăng đâu dễ nên công
mà hòng
Khuyên những đứng thời
trung quân tử
Lòng trung nghiã nên giữ
cho mình
Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
Thái nhâm, thái ất mình
cho hay
Chớ vật vờ quen loài ong
kiến
Hư vô bàn miệng tiếng nói
không
“Ô hô thế sự tự bình bồng,
Nam Bắc hà thời thiết lộ
không
Hồ ẩn sơn trung mao tân bạch
Kình cư hải ngoại huyết
lưu hồng
Kê minh ngọc thụ thiên
khuynh Bắc
Ngưu xuất Lam điền nhật
chính Đông
Nhược đãi ưng lai sư tử
thượng
Tứ phương thiên hạ thái
bình phong”
Ngõ may gặp hội mây rồng
Công danh rạng rỡ chép
trong vân đài
Nước Nam thường có thánh
tài
Sơn hà vững đặt ai hay tỏ
tường ?
So mấy lề đè tàng kim quỹ
Kề sau này ngu bỉ được coi
Đôi phen đất lở cát bồi
Đó đây ông kiến dậy trời
quỷ ma
Ba con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì
tiền
Mão, Thìn, Tý, Ngọ bất yên
Đợi tam tứ ngũ lai niên cũng
gần
Hoành sơn nhất đái
Vạn đại dung thân
Đến thời thiên hạ vô quân.
Làm vua chẳng dễ, làm dân
chẳng lành
Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
Phụ nguyên số đã rành rành
cáo chung
Thiên sinh hữu nhất anh
hùng
Cứu dân độ thế trừ hung
diệt tà
Thái Nguyên cận Bắc đường
xa
Ai mà tìm thấy mới là thần
minh
Uy nghi dung mạo khác hình
Thác cư một góc kim tinh
phương Đoài
Cùng nhau khuya sớm chăn
nuôi
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu
dân
Binh thư mấy quyển kinh
luân
Thiên văn, địa lý, nhân
dân phép mầu
Xem ý trời ngỏ hầu khải
thánh
Dốc sinh ra điều chỉnh hộ
mai
Song thiên nhật nguyệt
sáng soi
Thánh nhân chẳng biết thì
coi cho tường
Thông minh kim cổ khác
thường
Thuấn Nghêu là trí, Cao
Quang là tài
Đấng hiên ngang nào ai
biết trước
Tài thao lược yêm bác vũ
văn
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ hung hăng
với người
Chưa từng thấy nay đời sự
lạ
Chốc lại mòng gá vạ cho
dân
Muốn bình sao chẳng lấy
nhân
Muốn yên sao lại bắt dân
ghê mình
Đã ngu dại Hoàn, Linh đời
Hán
Lại đua nhau quần thán đồ
lê
Chức nầy quyền nọ say
mê
Làm cho thiên hạ khôn
bề tựa nương
Kẻ thì phải thuở hung hoang
Kẻ thì bận của bóng
toan khốn mình
Cửu cửu càn khôn dĩ
định
Thanh minh thời tiết
hoa tàn
Trức đáo dương đầu mã
vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Trường an
Nực cuời những kẻ bàng
quan
Cờ tan lại muốn toan đường
chống xe
Lại còn áo mũ xum xoe
Còn ra xe ngựa màu mè khoe
khoang
Ghê thay thau lẫn với vàng
Vàng kia thử lửa càng cao
giá vàng
Thành ra tuyết tán mây tan
Bấy giờ mới sáng rõ ràng
nơi nơi
Can qua việc nước tơi bời
Trên thuận ý trời, dưới
đẹp lòng dân
Oai phong khấp quỷ kinh
thần
Nhân nghĩa xa gần bách
tính ngợi ca
Rừng xanh núi đỏ bao la
Đông tàn Tây bại sang gà
mới yên
Sửu, Dần thiên hạ đảo điên
Ngay nay thiên số vận niên
rành rành
Long vĩ xà đầu khởi chiến
tranh
Can qua xứ xứ khổ đao
binh
Mã đề dương cước anh
hùng tậu
Thân Dậu niên lai kiến
thái bình
Sự đời tính đã phân
minh
Thanh nhàn mới kể
chuyện mình trước sau
Đầu thu gà gáy xôn xao
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào
Thăng Long
Chó kêu ầm ỉ mùa Đông
Cha con Nguyễn lại bế bồng
nhau đi
Lợi kêu tình thế lâm nguy
Quỷ vương chết giữa đường
đi trên trời
Chuột sa chỉnh gạo nằm
chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời
trước ta
Hùm gầm khắp nẻo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng quỷ ma
tơi bời
Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời
sa tăng
Ngựa lồng quỷ mới nhăn
răng
Cha con dòng họ thầy tăng
hết thời
Chín con rồng lộn khắp nơi
Nhện giăng lưới gạch dại
thời mắc mưu
Lời truyền để lại bấy
nhiêu
Phương Đoài giặc đã đến
chiều bại vong
Hậu sinh thuộc lấy làm
lòng
Đến khi ngộ biến đường
trong giữ mình
Đầu can vô tướng ra
binh
Aát là trăn họ thái
bình âu ca
Thân Kinh Thái Aát suy
ra
Để danh con cháu đem ra
nghiệm bàn
Ngay thường xem thấy quyển vàng
Của riêng bảo ngọc để tàng
xem chơi
Bởi Thái Aát thấy lạ đời
Aáy thuở sấm trời vô giá
thập phân
Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lúc
thất gian
Mỗi đời có một tội ngoan
Giúp chung nhà nước dân an
thái bình
Phú quí hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Hoa thôn đa khuyển phệ
Mục giả giục nhân canh
Bắc hữu Kim thành tráng
Phân phân tùng bách
khởi
Nhiễu nhiễu xuất Đông chinh
Bảo giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên
thành
Rồi đây mới biết thánh
minh
Mừng đời được lúc hiển
vinh reo hò
Nhị Hà một dải quanh co
Chính thực chốn ấy đế
đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nao
nao,
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng ?
Nói đến độ thầy tăng ra mở
nước
Đám quỷ kia xuôi ngược đến
đâu ?
Bấy lâu những cậy phép mầu
Bây giờ phép ấy để lâu
không hào
Cũng có kẻ non trèo biển
lội,
Lánh mình vào ở nội Ngô,
Tề
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả hữu phù trì,cây cỏ
thành binh
Những người phụ giúp thánh
minh
Quân tiên xướng nghĩa
chẳng tàn hại ai
Phùng thời nay hội thái
lai,
Can qua chiến trận để
người thưởng công,
Trẻ già được biết sư lòng
Ghi làm một bản để hòng dở
xem
Đời này những Thánh cùng
Tiên
Sinh những người hiền trị
nước an dân
….
Nầy những lúc thánh nhân
chưa lại
Chó còn nằm đầu khải cuối
thu
Khuyên ai sớm biết khuông
phù
Giúp cho thiên hạ Đường,
Ngu ngõ hầu
Cơ tạo hoá phép mầu khôn
tỏ
Cuộc tàn rồi mới rõ thấp
cao
Thấy Sấm từ đây chép vào
Một mảy tơ hào chẳng dám
sai ngoa
NEXT
/ Tiếp theo / Chương V : Thánh Giáo Của Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn
CHƯƠNG IV
THÁNH GIÁO
CỦA ĐỨC THANH SƠN ĐẠO
TRƯỞNG
1 . Văn thơ của Thanh Sơn Đạo Sĩ
Toà
Thánh, ngày ….tháng 7 năm Tân Vị
(Le
12 September 1931)
Phò
loan : Đức Hộ Pháp và Bảo Văn Pháp Quân
Hầu
bút : Sĩ tải Phạm Văn Ngọ
THANH SƠN ĐẠO SĨ
Chào
chư Tiên Phong
Xin
quyền Giáo Tông bình thân
Cười
… Chư Thiên Phong cũng đã nghe danh Richelieu há ! Bần đạo khi tái kiếp đặng
chuyển chánh trị Pháp triều, lúc ấy cải danh đại sĩ của bần đạo ngày nay chưa
phai lợt.
Hỏi
thử chánh trị Thái Tây coi có phải đã thọ hưởng chánh sách của bần đạo mà lập
thành toàn cường liệt quốc ngày nay chăng ? Bần đạo nói rằng, ngoài chánh sách
của bần đạo thì chưa thể có phương nào hay hơn mà lập liệt quốc cho đặng. Phép
phục thuộc địa, tuy là nước Romain đã có trước thì mặc dầu, chớ kỳ trung nay
đoạt đặng mà làm cho cả vạn quốc Thái -Tây đặng đại danh cũng do nơi bần đạo.
Chánh sách trị thuộc địa là làm cho các sắc dân còn thiếu kem văn minh đặng
đoạt gương mà vào hàng cộng hoà vạn quốc. Nước chẳng đồng văn hoá, chẳng phương
nhập cảnh hoà bình, đem văn hoá văn minh làm biểu hiện mà pha cùng văn hoá các
sắc dân hèn hạ, đặng nâng đỡ cho văn hoá của sắc dân ấy có đến văn minh, hầu
sáp nhập vào hàng văn minh cả thảy thì toàn cầu đặng văn minh chẳng còn sắc dân
nào đè nén nhau đặng. Không đèn nén nhau đặng thì phải hoà nhau, hoà nhau đặng
thì đại động thế giới.
Trái
lại nếu thâu thuộc địa mà còn ép bức dân tình, giục các sắc dân ấy vào cảnh đê
hèn thì không mong chi đồng thể cả. Không đồng thể thì là nghịch nhau, nghịch
nhau thì loạn lạc, loạn lạc thì khó hoà bình thế giới.
Cái
nền chính trị thật cao minh thì nên để cho các sắc dân đều tự chủ. Còn sự an
lập quốc thể thì dùng phương nào cho dân thuộc địa chịu dễ dàng, đừng dùng
quyền áp bức. Nước Đại Pháp cũng còn giữ chánh sách ấy mà làm lý thuyết,còn
thực hành thì lại trái hẳn, chỉ cũng tại ham muốn chosự tiến hoá mở mang thuộc
địa may chóng mà làm cho dân thuộc địa tha nha thiết nhỉ, và tại nơi tham tàn
của đám ô lại tham quan làm hư chánh sách cao thượng ấy đi. Bần đạo rất tiếc.
Ghi chú : Đức Hồng Y Richelieu thuộc dòng quý phái,
tên thật Amand Jean Du Plessis, Hồng Y De Richelieu, sanh năm 1585 ở Paris, quy
vị năm 1642 là một trong chánh khách Pháp, năm 1606 Ngài thọ phong giám mục thị
trấn Lugon, rồi đắc cử dân biểu phái Công Giáo ở hội nghị toàn quốc năm 1614.
Năm 1617, Ngài lìa xứ với hoàng hậu Marie de Médicis (vợ Henri IV) năm 1622
Hồng Y De Luynes gọi Ngài về và năm 1624 Ngài được thâu nhận vào hội đồng Hoàng
gia, nhanh chóng Ngài lãnh đạo hội đồng này.
Đàn
cơ tại Thánh địa Bạch Vân Kim Biên
Ngày
26 tháng 10 Quý Dậu (15-2-1933)
Phò
loan : Đức Hộ Pháp và Ngài Cao Tiếp Đạo
Hầu
đàn : Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
Giáo
sư Thượng Bảy Thanh
THANH SƠN ĐẠO SĨ
……
Thầy
ngậm ngùi nhớ buổi các con hạ trần, giúp đỡ Ngọc Hư thì Lý Đại Huynh, còn Cực
Lạc thì Hộ Pháp chuyển thế. Thầy chán hiểu rằng phận sự khó khăn quá sức các
con nên khi ấy không cho Trưởng Ca (Là Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn ) của các con
giáng trần, để ở thiêng liêng nắm quyền hành chính. Thầy chẳng trách nào sự oai
nghiêm của nó, nếu các con hiểu thấu thì mới biết rằng trách nhiệm của nó nặng
nề yếu trọng, cầm mối thiên cơ mặt thế xây chuyển cho thuận với thiên điều
không phải dễ,vì cớ mà Ngọc Hư ban quyền thiêng liêng vĩ đại, tùng phục mạng
lịnh Lý Giáo Tông và Hộ Pháp đặng bảo tồn chánh giáo. Thầy (Thầy là Đức Thanh
Sơn Đạo Sĩ xưng hô với chư môn đệ Bạch Vân Động) lại ngăn cản các con chẳng
đặng.
Khi
lãnh lịnh Ngọc Hư các con quá lời quyết định, thề chuyển tân thế, lập Tân Dân.
Thề ấy kiếp này Thầy rất nên sợ sệt. Thầy chỉ cầu nó thương tưởng các con nghĩ
tình bằng hữu trên ngàn kiếp đăng bảo bọc đỡ nâng, gọi ơn muôn một cùng Thầy.
Thầy
cũng nhìn rằng nó cố tâm giữ hứa, song nhiều phen nó đem bằng chứng nói tệ các
con, Thầy khẩn cầu khoan dung lắm lúc. Thầy rất đau lòng đôi phen chịu luỵ gánh
tội các con, nhưng các con cứ lần bần gây thêm ra nữa. Lúc sau này nó dâng sớ
vào Ngọc Hư xin truất bỏ nhiều đứa ra khỏi Thánh Thể Chí Tôn. Thầy đau lòng quá
đỗi, hễ bỏ ra khỏi Hội Thánh thì tội chuyển kiếp luân hồi. Thầy chạy đôn đáo,
khẩn đảo Ngọc Hư đình đãi ít lâu cho các con chuộc tội.
Phục
Thành (Đạo hiểu của giáo hữu Thượng Hoà Thanh do Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cho ) là
đứa thứ nhì trong số. Vậy Thầy xin các con nếu biết thương Thầy rán trao tâm
luyện tánh, đủ Thánh đức đạo tầm hầu làm xong phận sự đặng sum hiệp Thầy trò
kẻo Thầy nhẫn nhớ trông mòn mỏi .
Bần
đạo xin để lời cám ơn Chư Đại Thiên Phong, để lời cố cập cả chư đồ của Bần đạo.
Đa tạ hậu tình. THĂNG
Ông
giáo hữu Đặng Hoà Thanh bị Đức Nguyệt Tâm Chơn Nhơn trục xuất ra khỏi Đàn cơ
đêm 27-10-Quý Dậu (14-12-1933)
Xin
ghi luôn theo đây bài Thánh giáo của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cho ông giáo hữu
Thượng Hoà Thanh.
Toà Thánh, ngày 8 tháng 8
năm Tân Vì
( Le 15-9-1931)
THANH SƠN ĐẠO SĨ
Hĩ chư
Đại Thiên Phong và chư Đạo hữu nam nữ;
Xin
Quyền Giáo Tông bình thân, đa tạ, đa tạ !
Thầy
mừng hai con Phong Chí và Từ Huệ (Phong Chí là đạo hiệu của ông giáo sư Thượng
Bảy Thanh, Từ Huệ là đạo hiệu của ông giáo hữu Thượng Tuy Thanh )
Hoà
! con ngày nay đã định vị. Thầy cũng lắm phen cầu khẩn Ngọc Hư. Cái thâm tình
của Thầy còn rơi dấu tại Thanh Hoá (là nơi cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
từng học với ông bảng nhãn Lương Đắc Bằng. Lúc sinh thời 18 tuổi, còn am Bạch
Vân của Ngài ở tỉnh Hải Phòng là nơi sinh quán. ), anh em Bạch Vân Động của con
lắm đứa còn nương đất Bắc, chẳng nỡ lìa vì còn dấu tích của Thầy buộc ràng
chúng nó nơi ấy. Vậy Thầy cậy con để hết tâm trí, gieo nguồn Thánh giáo nơi ấy
mà cứu nạn cho quê hương. Con đã rõ Thầy thương mến Bắc địa của mình dường nào
thì con cũng thể lòng yêu mến dường ấy. Thầy lại cậy con để lòng lo sùng tu
Bạch Vân Động hữu vi của Thầy lại, vì là một nơi Thầy lựa chọn rất xứng đáng
cho ngày hội hiệp các con.
Thầy
cho hai câu liễn và nhắc Thánh danh con. Cười..
Phục Thế tại Nhơn Hoà
Thành Cô tùng địa lợi
Lấy
hai chữ đầu đó thì biết danh con. Nội gia đình con Thầy giúp đỡ không chi phòng
ngại. Còn truyền giáo tuy coi khó, nhưng khó ấy là phép làm để cho con. Cười …
Cái
lập thệ của Bạch Vân rất hệ trọng, con khá nghĩ đến mà gắng công. Nếu cả các
con không tròn phận sự thì Thầy cũng phải mất ngôi mà tái kiếp. Khó viết quá !
- THĂNG
Hộ
Pháp Đường, mồng 1 tháng 10 năm Ất Hợi
(dl
26-11-1935)
BẠCH VÂN ĐỘNG THANH SƠN
ĐẠO SĨ
Bần
Đạo chào chư thiên phong và các con Bạch Vân Động.
Kiếu
lỗi cùng chư Đại đức, cho phép Bần Đạo chuyện vãng với chư môn đệ của Bần Đạo
một lát kẻo đã lâu cách biệt tội nghiệp chúng nó.
Các con nghe Thầy :
Nắm chặt khuôn linh sửa
nết trần
Nên hư để phó mặc Hồng
Quân
Chòm mây bạc cũ là Tâm chí
Khối tuyết trong xưa ấy
trí thần
Đường đột đôi phen gầy thế
cuộc
Oàn ào lắm lúc độ nguyên
nhân
Đã hay căn nghiệp là tên
độc
Mà cũng liên hoa thoát tục
trần.
Các
con nhớ lời Thầy căn dặn rằng, may duyên đặng gặp Chơn Quân tại thế, nương bát
nhã độ sanh thì công nghiệp ấy có ảnh hưởng vinh diệu cho Bạch Vân Động lắm.
Ngày nào mà Thầy thấy các con mang áo vinh quang mà chầu tại Bạch Ngọc Kinh cả
thảy là ngày ước vọng của chúng ta đã thoả mãn.
Thầy
đã nói rằng cơ chuyển thế là do luật vô biên ái tình sanh sản, con đường ái
tình ấy các con vẫn thường lui tới, ngày mong mỏi là ngày các con trải khối ái
tình ấy đầy dẫy nhơn tâm mới mong hoà bình đại đồng thế giới.
Ôi
! Thầy đứng đây thấy trong năm châu chư môn đệ hỡi còn lặn lội trong biển khổ
sông mê nên đau đớn. Thầy chỉnh sợ có bấy nhiêu mà không muốn thường giáng
trần, vì mỗi phen đều mỗi giọt lệ tuông vào nơi tục lự. Các con nhớ cái thảm
của Thầy đặng lấy nó làm dây hàn tâm gìn Thánh đức nghe !
Ông
Cao Đức Trọng lúc bấy giờ mới nhập môn vào Đạo chưa có phẩm tước gì, sau này
mới đắc phong Tiếp Đạo H.T.Đ cảm khái mấy bài thi của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ
trong thập thủ liên huờn , xin trích ra bài thứ sáu mà ông đã hoạ nguyên vận :
Thanh Sơn Đạo Sĩ :
Xa thơ hầu ngã nước nhà
nghiêng
Ai giữ phong cương đặng vững
bền
Đấp luỹ Cổ Loa chưa thấy
mặt
Lấp Hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu
tên
Thăng Long bao thuở nung
hùng khí
Gia Định tự nhiên chấp ấn
quyền
Sông núi dật dờ chờ tạo
khách
Hoá sông nên Đạo, núi nên
Thiền
Hoạ Nguyên Vận
Kính Thanh Sơn Đạo Sĩ ,
Nước nhà điên đảo mấy lần
nghiêng
Giận lũ cầu vinh chí chẳng
bền
Dạ sắt không người cơn gió
lửa
Gan đồng thiếu kẻ lúc mưa
tên
Xót nền xã tắc trung nương
khách
Phá gánh giang san nịnh
dựa quyền
Dâu bể thôi đành chờ máy
tạo
Cồn xây vực thẳm hoạ khi
thiền.
9
Juin 1927
Cao Đức Trọng
Thanh Sơn,
Khi đến bần đạo đặng thi,
Khen đó !
Nghe bần đạo khuyên :
Đã từ vào bút lại ra
nghiên
Chí khí nam nhi gắng giữ
bền
Phong Võ tuy qua chưa định
tánh
Vân Đài nhắm lại có đề
tên.
Trần ai vùng vẫy nên tay
mắt
Đài Các tiêu tao chước
biến quyền
Đủ trí đủ tài tua vẹn đức
Lưu truyền hậu thế một
dòng thiền.
Trạng
Trình
Báo
Ân Đường (Nam Vang) đêm 13-8
Phò
loan : Giám Đạo Lợi Bính Thân (17-9-1956)
Hữu
Phan Quân Thoại
Thanh
Sơn Đạo Sĩ
Bần
Đạo xin chào Hộ Pháp , Bảo Đạo và chư hiền nam nữ
Thắm
thoát nền Đại Đạo khai nơi Tần Quốc đã 30 năm. Ngày ấy chính Chí Tôn sai Hộ
Pháp đến để gieo hột Thánh cốc. Từ ấy những nay các tay chấp chánh Đạo quyền
nơi này không tỏ bồi thêm, trái lại làm cho phân chia tâm lý. Cớ ấy do chỗ ham
quyền trọng vị. Các chức sắc thiên phong lãnh thiên mạng nơi mình không làm
xong phận. Ngôi thì ham, quyền thì muốn mà hành động cho xứng lại không. Thử
hỏi họ Vưng Thiên mạng đến để làm gì kia chớ ?
Họ
phải cho xứng phận là anh thầy, để gần gũi nhơn sanh, chia việc đau, an ủi điều
khổ.
Hôm
nay, Hộ Pháp đã đến thì cả chức sắc Thiên phong phải rán thiệt thi quyền của
mình, hư thì bỏ, nên thì để, rửa ráy Thánh thể Đức Chí Tôn cho nên hình. Vậy
khá liệu lấy.
Có
Quyền Giáo Tông đến. - THĂNG
TÁI CẦU :
Phò
loan : Hộ Pháp - Bảo Đạo
THƯỢNG
TRUNG NHỰT
Khi
nãy, Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ có ý khuyên mấy em gắng công hành đạo, chính qua cũng
nhìn nhận mấy em thiếu kém công nghiệp cùng Đạo. Mấy em nam nữ đã thấy rõ vì
thế nào mà Chưởng Đạo Nguyệt Tâm đã từ bỏ chức vụ mà mấy em từ thử hay chăng ?
Mấy
em nhớ lại coi, từ khi Phong Chí (Giáo sư Thượng Bảy Thanh) nắm quyền đến nay,
sự nghiệp Đạo đã hư hoại thế nào ? Thì cũng do nơi bội phản Hộ Pháp và anh em
giành quyền mà sanh ra rối loạn.
Qua
nói thiệt cùng mấy em rằng, vì hổ thẹn ấy mà Chưởng Đạo từ chức và huỷ bỏ Hội
Thánh Ngoại Giáo.
Các
em đã hiểu rõ điều ấy. Qua chỉ thương Thanh Sơn mang tiếng phụ phàng, lỗi tình
cùng Hộ Pháp. Qua đã nhiều phen cầu xin Nguyệt Tâm Chơn Nhơn tha thứ, nhưng
Ngài quyết hẳn, vì cớ là chúng đã mạo danh Bạch Vân Động đặng chia phe phân
phái lập quyền đời của họ.
Các
em có biết chăng, Đấng đã mang trọn ân của Hộ Pháp là Bạch Vân Hoà Thượng, tức
là Đức Thanh Sơn, vì khi lãnh lịnh Ngọc Hư thì người đã hứa rằng : Hộ Pháp trọn
quyền sử dụng các Chơn linh Bạch Vân Động. Hôm nay lời hứa ấy đã thất.
Qua
nhường cơ lại cho Đức Thanh Sơn Chơn Nhơn.
Mấy
em sẽ hưởng đặng một điều quí báu. - THĂNG
TÁI CẦU :
THANH SƠN CHƠN NHƠN
Bần
đạo trở lại là vì lời kêu nài của Quyền Giáo Tông Thượng Trung Nhựt
Chư
Thiên Phong đủ hiểu rõ rằng : Mạng số Việt Nam nó liên quan mật thiết cùng kiếp
sanh của Bần đạo là thế nào, và vì lẽ gì mà Bần Đạo phải giao trọn quyền điều
khiển Bạch Vân Động cho Hộ Pháp.
Bảo
Đạo ! Thì Bần Đạo cũng đồng tâm bịnh với Hiền hữu. Cười ….Bảo Đạo nghe :
THI
Hoành sơn phân nước trót
đôi lần,
Khí số bấy chừ dứt Nguyễn
quân
Lời sấm đoán văn khi thật
quả
Tiên tri toán số gẫm không
lầm
Aân dân buồn thiếu trang
hiền sĩ
Bảo quốc vui nhờ đức Thánh
quân
Suy thạnh nước nhà do trị
loạn,
Cũng như Đôngmãn tới hồi
Xuân
Đọc lại rồi kiếm nghĩa
đặng hiểu
Bần đạo sẽ tái giáng đặng
hiệp ý cùng nhau. - THĂNG
Đức
Phạm Hộ Pháp giải thích về Bạch Vân Động như sau :
“Xưa
nay nguời ta vẫn coi Nguyệt cầu (mặt trăng) là nơi dừng chân của những vị
Thánh, Thần, trước khi xuống trần giới (Địa cầu) đầu thai. Các vị đó phải ở lại
Nguyệt cầu ít lâu để liên lạc với Địa cầu, để quen lần với đời sống ở thế gian
này.
Từ
cổ, Thần thoại đã mệnh danh nguyệt cầu là Bạch Vân Động (Quảng Hàn Cung). Cơ
giáng ở Âu Châu, mệnh danh là LOGE BLANCHE (Bạch Động).
Giáo
chủ của Bạch Vân Động là Bạch Vân Hoà Thượng miêu duệ của Từ Hàn Đạo Nhơn, dòng
dõi Đức Phật Quan Âm.
Bạch
Vân Hoà Thượng đã 2 lần giáng trần ở Pháp : Một lần là Hồng Y Giáo Chủ
Richelieu, một lần là Quận Công LA Roche Foucault.
Ở
VN, Ngài giáng trần là Trình Quốc Công, Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức gọi là Trạng
Trình”
Sau
đây là nguyên văn thập thủ liên huờn của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ chia làm hai đoạn
: 5 bài trước giáng cơ vào năm 1925, năm bài sau giáng cơ năm 1927, có ba vị nữ
Tiên Diêu Trì Cung về khen tặng :
THẤT NƯƠNG
Chào mấy anh - em xin tặng
Thanh Sơn
Hay Thanh Sơn, giỏi Thanh
Sơn
Trung nghĩa về Tiên cũng
ngậm hờn
Cẩm Tú thêu oan thành khí
giới
Văn chương khảo tội hoá
côn huờn
Tiếng chuông tỉnh thế ba
kỳ thức
Hơi trống truy hồn bá tánh
khôn
Trị loạn sấn tay nâng vạc
ngã
Anh linh muôn kiếp nước Nam dồn
(13 Juin 1927)
BÁT NƯƠNG
Em chào mấy anh - Em cũng
xin tặng :
Tài Thanh Sơn, trí Thanh
Sơn
Câu văn tuyệt bút vẽ nên
hờn
Giục lòng chí sĩ chưa vừa
sức
Múa búa thần tiên đủ chấp
quờn
Dệt thảm lê dân trời cám
cảnh
Khêu sầu xã tắc đất kinh
hồn
Nắn nhồi trí tuệ thành
binh khí
Rèn chất anh thư đắp lũy
dồn
(14
Juin 1927)
LỤC NƯƠNG
Em xin tặng Thanh Sơn
Trung Thanh Sơn, nghĩa
Thanh Sơn
Bởi tại đâu ân oán nuốt
hờn.
Nát mật khó xem nhà vắng
chủ
Bầm gan há chịu nước không
quờn.
Câu văn ái chủng gầy binh
khí
Tiếng sấm ưu hương định
quốc hồn.
Lập chí ôn nhu là đắp luỹ
Nung lòng đạo đức ấy xây
dồn.
(15
Juin 1927)
THẬP THỦ LIÊN HUỜN
Của Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ
1 - Âm dương tuy cách cũng trời chung
Thấy trái nên đây mới tỏ
cùng
Thắc dạ thuyền xưa không
đậu bến
Đau lòng hạc cũ chẳng về
tùng.
Cúi đầu đành chịu thân
trăm tuổi
Ngước mặt ngơ trông bậc
chín trùng
Mạnh yếu há ngồi cam chịu
vậy
Hay chi cá chậu với chim
lồng.
2 - Chim lồng bao thuở lại non xanh
Mỏi mắt trông vơi chốn
thoát mình
Dựng nước chẳng ai tài
tướng được
Liều mình thiếu kẻ đấng
hùng anh
Vầy thuyền chi sợ cơn
giông tố
Hiệp chủng còn hơn cuộc
chiến tranh
Thìn dạ chờ Chầu về Hiệp
phố
Nơi mình sự nghiệp mới tan
tành,
3 - Tan lành nhớ
đến gánh giang san
Lòn cúi thương dân lắm buộc ràng
Phú quí mồi câu con hạc
cánh
Đỉnh chung gió thổi đám
mây tan
Đợi thờ toan mượn cần câu
Lữ
Dựng nghiệp tua che mặt
lưới Thang
Ly loạn gặp đời, đời muốn
chán
Công danh phủi sạch hưởng
thanh nhàn
4 - Thanh nhàn ngày tháng lại Tiên
gia
Trị loạn hằng xem thế nước
nhà
Bễ hoãn dập dồn thương bấy
trẻ
Thành sầu chất ngất thẳm
cho già
Bạc đầu non chịu lằn sương
nhuộm
Nhăn mặt nước chờ trận gió
qua,
Thân ái mối dây tua nắm
chặt
Chích chiu ấy cũng một bầy
gà
5 - Bầy gà mất mẹ kiếm bơ vơ
Yếu đuối biết ai để cậy
nhờ
Nắng hạn trông mưa trông
mỏi mắt
Đắng cay mộ nước mộ lòng
chờ
Ngoài khua tiếng giặc,
trong khua nịnh,
Võ thiếu binh nhung, quốc
thiếu cờ
Trí chúa tôi hiền không
gặp chúa
Nào người gánh nỗi mối xa thơ
6 - Xa thơ hầu ngã nước nhà nghiêng
Ai giữ phong cương đặng
vững bền
Đắp luỹ Cổ Loa chưa thấy
mặt
Lấp hồ Hoàn Kiếm bấy nhiêu
tên
Thăng Long bao thuở nâng
hùng khí
Gia Định từ nhiên chấp ấn
quyền
Sông núi dật dờ chờ tạo
khách
Hoá sông nên Đạo, núi nên thuyền
7 - Nên thuyền thì trước lập nên dân
Chín bệ xem qua chẳng trí
quân
Ích nước xủ tay khoe đẹp
áo
Lợi nhà vổ bụng hưởng tròn
thân
Nam Giao vắng vẽ đường
cung kiếm
Văn Miếu khô khan ngọn bút
thần
Danh vọng ru hồn quên thỗ
võ
Thẹn nòi bộc lại, mộ đai cân
8 - Đai cân đã có vẻ chi chưa ?
Hay phận tù lao kiếp sống
thừa
Đạp đất gập ghềnh chân trẻ
dại
Ngừa thời điên đảo trí già
xưa
Ngôi hang thương kẻ mang
da chó
Ngự điện ghét quân đội lốt
lừa
Cái nhục giống nòi kia
chẳng rửa
Xoi hang mạch nước ý chưa
vừa
9 - Chưa vừa mộng mị với Tây tà
Vụ xác vong hồn dựa phách
ma
Tiêu huỷ thân cây lằn lửa
táp
Tan tành hình nộm trận
giông qua,
Rước voi phá mã đào Lăng
miếu
Thả rắn xua ong nhiễu điện
toà
Đổ luỵ hỏi người sao chẳng
nhớ
Ngọn rau tấc đất nước nhà
ta
10 - Nước
nhà ta có tiếng anh phong
Vẻ đẹp trời đông sắc Lạc
Hồng
Nam Hải trổ nhiều trang
Thánh đức
Giao Châu sanh lắm bực thư
hùng
Tính trung lửa thét thành
Bình Định
Khí liệt gươm đề tỉnh
Quảng Đông
Văn hiến bốn ngàn năm có
sẵn
Chi cần dị chủng đến dâng
công
2. Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm
Hán vận :
DƯỠNG SINH THI
Tích khí, tồn tinh, cánh
dưỡng thần,
Thiểu tư, quả dục, vật lao
thân
Thực thôi bán bão, vô kiêm
vị
Tửu chỉ tam phân, mạc quá
tần
Mỗi bả hí ngôn, đa thủ
tiếu
Thường hàm lạc ý, mạc sinh
xân
Nhiệt viêm, biến trá, đô
hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu dao quá
bách xuân
Dịch :
Giữ khí, gìn tinh, lại
dưỡng thần
Ít lo, ít muốn, ít lao
thân
Cơm nên vừa bụng, đừng
nhiều vị
Rượu chỉ vài phân, chớ quá
từng
Miệng cứ câu đùa vui miệng
mãi
Bụng thường nghĩ tốt bụng
lâng lâng
Nhiệt thành, biến trá,
thôi đừng hỏi
Để tớ tiêu dao đến tuổi
trăm
CẢM HỨNG
Thái hoà vũ trụ bất Ngu,
Chu
Hỗ chiến giao tranh tiếu
lưỡng thù
Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ
hữu
Uyên ngư tùng trước vị
thuỳ khu
Trùng hưng dĩ bốc độ giang
mã
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất
khu
Thế sự đáo đầu lưu thuyết
trước
Tuý ngâm trạch bạn nhậm
nhàn du
Dịch :
Non sông nào phải buổi
bình thời
Thù đánh nhau chi khéo nực
cười !
Cá vực, chim rừng ai khiến
đuổi ?
Núi xương, sông huyết thảm
đầy vơi
Ngựa phi chắc có hồi quay
cổ
Thú dữ nên phòng lúc cắn
người
Ngán ngẫm việc đời chi nói
nữa
Bên đầm say hát nhởn nhơ
chơi !
Phan
Kế Bính dịch
Nam Hải dị nhân liệt truyện
(Imprimerie
Tonkinoise, Hanoi)
NGỤ Ý
Danh toại công thành hưu
hĩ hưu
Đẳng, nhàn thế cố nhất hư
châu
Phong lai giang quán lương
nghi hạ
Nguyệt đáo thư lâu minh
chứng thu
Hồng nhật đông thăng tri
đại hải
Bạch vân tây vọng thị thần
châu
Khê sơn diệc túc cung ngô
lạc
Nhẫn phụ tiền minh vạn lý
âu
* Ứng về sau nhà Lê khôi phục được nước
* * Ứng về sau nhà Trịnh lại giữ quyền nhà Lê
CƯƠNG THƯỜNG TỔNG QUÁT
Trời phú tính (*) ở mình
ta
Đạo cả cương thường năm
mấy ba (**)
Tôi hết ngay chầu chực
chúa
Con hằng thảo kinh thờ
cha.
Anh em mựa nỡ điều hơn
thiệt
Bầu bạn cho hay nết
thực thà
Nghĩa vợ chồng xem rất
trọng
Ở đầu phong hoá (***)
phép chung nhà
(*) Trời phú tính : Sách trung dung :
"Thiên mệnh chi vi tính" (cái mà trời phú cho gọi là tính). Tục ngữ
cũng có câu : "Cha mẹ sinh con trời sinh tính".
(**) Cương là cái
giường lưới tức cái dân chính của lưới, từ đó móc các sợi làm mắt lưới. Tam
cương : vua (là giường của )tôi , cha (là giường của) con, chồng (là giường của
)vợ. Ngũ thường : năm đức tính con người cần phải có : nhân (thương người), lễ
(phép tắc trong sự ăn ở), nghĩa (lẽ phải), trí (sự sáng suốt), tín (giữ đúng
lời nói)
(***) Ở đầu phong hoá xưa coi tình nghĩa vợ chồng
là mối đầu của phong hoá là cơ sở của xã hội
RĂN ĐẦY TỚ THỜ CHỦ
Đạo làm đầy tớ ở cho ngay
May tơ hào cũng chẳng
tây (*)
Chữ “thận cần”(**) đâu
dám trễ
Niềm “ưu ái” (***) chút
nào khuây ?
Vàng bền há lại lửa còn
sợ ?(****)
Cỏ cứng chi cho gió
được lay ?
Một tiết miễn
thâu(*****) vừng nhật nguyệt
Biết chăng hay chăng,
mặc lòng thầy (******)
(*) Dù
một chút nhỏ cũng không vì mình
(**) cẩn thận và siêng năng
(***) Ưu ái là nhiệm vụ kẽ sĩ phu
(****) Há lại lửa còn sợ : há lại còn sợ lửa
(*****) thấu suốt
(******) Thầy là sư (đối với trò) là chủ (đối với tớ) là vua
(đối với bầy tôi)
CON THỜ CHA MẸ
Ngẫm đạo làm con ở rất
nan (*)
Ở cho lọn đạo mới là
ngoan
Hay khi “ôn sảnh”(**)
bề cung dưỡng(***)
Siêng thuở “thần
hôn”(****) việc hỏi han
Dầu giận hờn, càng kính
thuận
Vâng sai khiến, dám phàn
nàn ?
Chữ rằng : “Chưa dễ đền ơn
nặng”
Lọ nỗi riêng tây theo thế
gian ?
(*) Nan :
khó khăn
(**) Ôn sảnh : do chữ "đông ôn, hạ sảnh"
bổn phận kẻ làm con chăm sóc cha mẹ
(***) Cung dưỡng : tìm thức ăn nuôi mẹ
(****) Thần hôn : do chữ "hôn định, thần
tỉnh" tối sớm bổn phận kẻ làm con chăm sóc cha mẹ
KHUYÊN ANH EM CHỚ GIÀNH LẪN NHAU
Cùng đội sinh thần một cửa
ra
Anh em trời đã thực cho
ta
Giúp nàn, chống rẻ cùng
nương cậy (*)
Biết kính, hay yêu miễn
thuận hoà
Xui giục chớ tin lời vợ
Yêu thương sá thấy lòng
cha (**)
Chân tay gẫm lại ai hơn
nữa
Tranh cạnh làm chi, lỗi
phép nhà ?
(*) Giúp nàn
: giúp đỡ nhau trong lúc nghèo. Chống rẻ : chống kẻ khinh thường anh em mình
(**) Yêu thương sá thấy lòng cha : Khi anh em có
chuyện xính mích nên nghĩ đến tấm lòng cha yêu thương tất cả mà thuận hoà với
nhau
KHUYÊN CHỒNG ĐỐI VỚI VỢ
Sau ngày đã kể vợ tao
khang(*)
Xin xót (**) cùng nhau hỡi
thế thường
Lỗi nhỏ (***) thứ cho đừng
sá giận
Tình thân nghĩ đến cũng
nên thương
Chi tuồng bòn của, no liền
phụ
Mảng nỗi chê già, ghét lại
ruồng
Kìa kẻ sốt giàu … (****)
Chẳng hay nghãi cả để đầu
giường (*****)
(*) Tao khang : do câu "Tao khang chi thê bất
hạ đường" (hán thư) chỉ người vợ lấy mình lúc còn hàn vi
(**) Xót : thương xót nhau
(***) Thứ : tha thứ
(****) Kẻ : ở đây là tác giả dẫn điển Ngô Khởi
người thời Chiến quốc vì nóng lòng ham giàu sang nên đã nhẫn tâm giết vợ
(*****) Đầu giường : dịch chữ "cương". Do
câu "hữu phu phụ nhi hậu hữu phụ tử, hữu phụ tử nhi hậu hữu quân
thần", nghĩa là có vợ chồng mới có cha con, có cha con rồi sau mới có vua
tôi.
KHUYÊN NÀNG DÂU THỜ CHA MẸ CHỒNG
Cha mẹ chồng biết kính thờ
Nàng dâu miễn đấy vẹn sau
xưa (*)
Việc làm theo thói nhà
quen chuộng
Nết ở chiều người tính sở
ưa (**)
Yêu nề càng gìn lễ phép
Giận hờn cũng chớ thẩn thơ
Mắng thương (***) người
phải dùng khoan nhặt (****)
Ta giữ cho hay thì mới vừa
(*) Khuyên nàng dâu biết kính thờ cha mẹ chồng thì
mới làm trọn nghĩa trước sau
(**) Đạo làm dâu phải tuỳ theo sự ưa thích của cha
mẹ chồng
(***) Mắng thương : những lời dạy bảo chân tình
xuất phát từ lòng thương yêu của cha mẹ
(****) thong thả và chặt chẽ
KHUYÊN ĐỐI XỬ VỚI BẦU BẠN
Làm người dầu đã bạn cùng
ai
Chữ tín tua nhìn chẳng
chút sai (*)
Đừng có nồng chi rồi lại
lạt
Nếu mà thắm lắm ắt liền
phai (**)
Chợ hàng, miễn chớ tuồng
chơi họp (***)
Rượu bạc, xin thôi sức ép
nài
Sác ắt sơ (****) hằng cần
đấy
Yêu nhau nghĩa ấy mới bền
dai
(*) Tín là
giữ đúng lời hứa, lời hẹn với bạn
(**) người xưa nhắc :"Quân tử chi giao tạm
nhược thuỷ" (tình bạn bè của người quân tử thanh đạm như nước)
(***) Làm bạn với nhau, đừng rũ nhau nhau ăn uống
nay chợ mai hàng
(****) Sát ắt sơ : theo lời của Khổng tử
:"bằng hữu sác tư sơ hĩ" ý nói đối với bầu bạn, nếu mình can ngăn
luôn tất sẽ bị bạn xa lánh (Luận ngữ)
KHUYÊN ĐỐI XỬ VỚI HỌ HÀNG
Dòng dõi suy ra cũng một
nhà
Xem ai hơn nữa họ hàng ta
?
Đỡ đần đành cậy vây cánh
Gửi thác (*) càng tin ruột
rà
Chẳng bỏ được nào, sao
chẳng biết ?
Nên gần cho lắm, há nên xa
?
Cùng nhau bầu bí yêu
thương lấy (**)
Chớ nỡ xem bằng khác tới
qua (***)
(*) Gửi thác
: dịch tức ký thác
(**) Ca dao : "bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy
rằng khác giống nhưng chung một giàn"
(***) họ hàng là phải thương yêu đùm bọc nhau, giúp
đỡ nhau trong lúc hoạn nạn, chớ coi như khách vãng lai
KHUYÊN ĐỐI XỬ VỚI HÀNG XÓM
Nghiệp cha ông…
Ai là cho khỏi chốn gia
hương ?
Miễn thay (*) hằng giữ bề
lương thiện
Dầu vậy, đừng nồng …
Cậy thế chớ bề hiếp chóc
Ra ơn sá miễn (**) yêu
thương
Vắt tay xin nghĩ về sau
với :
Lành giữ muôn đời, tiếng
để làng
(*) khuyên thay
(**) Sá miễn : khuyên nên
RĂN NGƯỜI CÓ LÒNG THAM
Tượng trời (*) âu đã quá
đồng cân
Định cho ai, ắt có phần
Muốn vô nhai (**) khôn lẽ
được
Ơn phi phận (***) khá đều
phân
Đủ no hay vậy xin thong
thả
Sạo sục (****) làm chi,
luống nhọc nhằn !
Nếu tham hơn thì phải thiệt
Hãy ghi lời ấy để mà
răn
(*) Tượng
trời : đồng tiền được đúc theo tượng trời, ắt cũng cân bằng
(**) Muốn vô nhai : Bụng quá tham, không biết
thế nào là bờ
(***) Ơn phi phận : ơn
vốn không phải mình đáng được hưởng
(****) Sạo sục : nôn nóng, bồn chồn
RĂN NGƯỜI HAM MÊ SẮC ĐẸP
Cẩn (*) cho hay, chẳng
phải chơi
Sắc xem dường sóng, dễ
xiêu người (**)
Lửa rơm nếu chửa ngăn lòng
tục (***)
Giường mối đâu còn biết lẽ
trời (***)
Có chồng con bao xiết
nỗi
Hay bùa thuốc ấy thói
đời (****)
Kham hiền (*****) luận
ác “dâm vi thủ” (******)
Cẩn cho hay, chẳng phải
chơi
(*) Cẩn : giữ gìn, đề phòng
(**) Thơ cổ : "
Sắc bất ba đào, dị nịch nhân" Sắc chẳng có sóng mà dễ khiến làm đắm người
(Lý Niên Diên -Đường) cũng có câu "Nhất tiểu
khuynh nhân thành, tái tiểu khuynh nhân quốc" (Người đẹp cười lần nhất làm nghiêng thành, cười lần hai làm nghiêng nước).
(***) Khi gần sắc đẹp nếu chẳng giữ mình, để cho
lòng tục lôi kéo đến chỗ "lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" và lúc đó,
sẽ quên hết lẽ trời.
(****) để làm người khác say mê, người ta có thể
dùng "bùa thuốc"
(*****) Kham hiền : đáng khen là hiền
(******) Luận ác dâm vi thủ : theo Nho giáo luận về
tội ác thì dâm ô là đứng đầu. Người xưa có câu "Bách ác, dâm vi thủ; vạn
thiện, hiếu vi tiên" Trăm điều ác, dâm là đầu, vạn điều lành, hiếu đứng
trước.
RĂN NGƯỜI HAM MÊ CỜ BẠC
Anh em cùng mặt chẳng cùng
lòng
Cờ bạc ai là ở có sòng (*)
Cười nói tuy rằng
vui miệng vậy
Lật lừa toan…
Xoay vần, nhà chủ (**) đều
vơ cả
Gian lận, con kim (***)
cũng sạch không
Nghề ấy xưa nay…
Có giàu sao được (****)
hãy còn mong ?
(*) Sòng :
thẳng thắn
(**) Nhà mở sòng chứa cờ bạc
(***) người có tiền, tức la øngười đánh bạc
(****) Có giàu sao được : tục ngữ có câu : "Cờ
bạc là bác thằng bần"
RĂN NGƯỜI KIỆN CÁO GIAN GIẢO
Một mình ăn mặc hết bao
nhiêu
Gây làm chi bấy, hỡi điêu
!
Kiếm chước tạo thêu (*)
không hoá có
Tìm điều đặt bỏ (**) ít
nên nhiều
Phải chăng rối lý khôn bề
đoán (***)
Kiện cáo xui người (****)
đến nỗi xiêu (*****)
Phép nước ví dù còn tránh
được
Tội trời khôn thể tránh
đâu nào
(*) Thêu : thêu dệt cho thành sự thật
(**) Đặt bỏ : bịa đặt điều này, vứt bỏ điều khác,
có ít nói nhiều
(***) làm cho lẽ phải, lẽ trái khó mà xét đoán
(****) xúi giục người
(*****) xiêu cửa, xiêu nhà
RĂN NGƯỜI CẬY MÌNH SANG MÀ
KIÊU NGẠO
Dầu sang trọng cũng là trời (*)
Ta có chi kiêu với ai ?
Rất đỗi thánh xưa còn tốn nhượng (**)
Lọ loại thường nọ há rông
rài ?
Chớ điều cậy thế mình
khinh rẻ
Đến lúc thua cơ nó mỉa mai
Cẩn đấy, một ngày càng một
giữ
Thói kiêu giũ sạch mới ra
người
(*) Cũng là
trời : do trời định
(**) Tốn nhượng : nhún nhường
RĂN NGƯỜI CẬY MÌNH GIÀU MÀ COI THƯỜNG NGƯỜI NGHÈO
Kẻ khó thường làm ích kẻ
giàu
Ở thì phải ngẫm, biết
nhường nhau
Bán kia, chẳng nỡ mua cho
rẻ
Vay nọ, xin đừng lãi lấy
đau
Bớt nỗi sai đời làm độc
khố (*)
Thôi thì đã trả hãy cơ cầu
(**)
Nặng lòng nhân nghĩa, hay
thương khó
Giàu ấy hầu toan mới được
lâu (***)
(*) Khi
khách đến đòi nợ thì giơ đủ mánh khoé độc ác, nào giết gà, đánh chó để ăn. Khi
họ ra về con nợ còn phải có phẩm vật tiển đưa
(**) Hãy cơ cầu : hãy còn cơ cầu ác nghiệt
(***) Người đời khi đã giàu có muốn được bền thì
phải có lòng nhân nghĩa
RĂN KHÔNG NÊN TIN NHẢM TÌM ĐẤT TỐT
Phúc địa chi cho kẻ cưỡng
cầu (*)
Được chăng run rủi bởi cơ
mầu
Ở lành, chẳng rắp hay nên
gặp (**)
Nẻo dữ, tuy tìm lại phải
âu
Quí Nộ phân kim (***) ai
khéo bấy.
Cao Biền (****) ưa thuỷ
phép sai đâu
Ngẫm xem dám …
Phúc địa chi cho kẽ cưỡng
cầu ?
(*) Cưỡng
cầu : cầu mong gượng gạo
(**) Chẳng rắp hay nên gặp : chẳng tìm mà lại gặp
(***) Phân kim gọi là phân kim vị kim đứng đầu ngũ
hành. Tìm phương vị là để đặt huyệt đúng hướng.
(****) Cao Biền : quan đô hộ đời Đường kiêm mấy
thầy phù thuỷ xảo nguyệt
VÔ ĐỀ
1
Rất nhân sinh bảy tám mươi
(*)
Làm chi lận đận nhọc lòng
người ?
Một am (**) phong nguyệt,
tớ vui tớ
Hai chữ công danh, ngươi
mặc ngươi
Xa mã cửa …
Cá tôm bữa miếng mọi mùi
tươi
Sang khó miễn yên đòi phận
Rất nhân sinh bảy tám mươi
(*) Viết
thoát ý câu "nhân sinh thất thập cổ lai hy" Đời người ta sống đến 70
tuổi thì xưa nay kể hiếm
(**) Một am : am Bạch Vân
2
Lợi danh từng biết chốn
xôn xao,
Dấu cũ đành mong nối họ
Sào (*)
Đèo núi vỗ tay cười khúc
khích
Rặng thông vắt cẳng (**)
hát nghêu ngao
Đòi nơi phong nguyệt vui
thay đấy !
Dầu phận công hầu bận
(***) được nao ?
Hãy so xem người
thế tục
Aâu ta cũng đã kể làm cao
(*) Họ Sào : tức Sào P hủ một cao sĩ đời Đường
Nghiêu ẩn ở núi Cơ Sơn, dùng câu làm nhà như một cái ổ nên gọi là Sào Phủ (sào
là cái ổ)
(**) Vắt cẳng : ngồi vắt chân chữ ngũ
(***) Bận : bận bịu
3
Phú quý lòng, phú quý danh
(*)
Thân hoà tự tại, thú hoà
thanh
Tiền sen (**) tích để bao
nhiêu thúng
Vàng cúc (***) đâm bông
biết mấy giành (****)
Ngoài cửa mận đào là khách
khứa
Trong nhà cam quýt ấy tôi
mình
Ai xem, ai chẳng hay là chớ (*****)
Lại một ta khen ta hữu tình
(*) giàu về đạo đức hơn là sang trọng về địa
vị
(**)
Lá sen lúc mới nở tròn như đồng tiền
(***) vàng như hoa cúc
(****) rổ nhỏ đan bằng tre
(*****) Ai biết hay chẳng biết cũng thế thôi
4
Người gồng gánh kẻ lầm
than
Ta biết so ta (*) kể thực
nhàn
Đường lợi há theo thị tinh
? (**)
Cảnh thanh chiếm hết giang
san
Ngắm chơi đã trải miền
thôn dã
Hóng mát từng vui chốn
thạch bàn (***)
Một cỏ hoa đều đủ được
Rất vời thong thả cõi
trần gian
(*) Ta
biết so ta : so ta với người gồng gánh, kẻ lầm
than
(**) Thị tỉnh : có nghĩa là thành thị, đô thị
(***) Thạch bàn : phiến đá phẳng dùng điển Khương
Tử Nha câu cá ở Thạch Bàn
3 . Sấm Trạng Trình
Người
Trung Hoa phục tài Trạng Trình Việt Nam nên đã có lời ca tụng “An Nam lý học
hữu Trình Tuyền” : Nước Nam về khoa Lý học có
ông Trình Tuyền.
Tương
truyền những sự việc sau đây đã ứng nghiệm đúng theo lời sấm truyền của Trạng
Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
1 . Tiên Tri về Nhà Tây Sơn dấy nghiệp :
“Chân cung xuất nhật
Đoài cung vẩn tinh”
Nghĩa là :
Mặt trời xuất hiện ở
phương Đông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét