Lời
Tựa
Trong tủ sách GIÁO LÝ TÙNG THƯ còn thiếu đề tài VĂN NHÂN ĐẤT THÁNH. Thiết nghĩ,
nền Đạo Cao Đài truyền bá rộng rãi được ngoài Kinh, Thánh Ngôn, còn phải nhờ
sách báo hỗ trợ, triển khai và xiển dương mới đồng bộ phát triển lâu dài tới thất ức
niên.
Tập VĂN NHÂN ĐẤT THÁNH như
tên gọi, chỉ những người đã sống ở Thánh Địa Cao Đài dù ngắn hạn vẫn được giới
thiệu, nếu sách của các văn
nhân ấy phù hợp với chơn truyền của Đại Đạo.
Sách được chia làm hai
phần:
1) Phần đầu: Giới thiệu
sách của các chức sắc Đại Thiên Phong. Họ là những người tiếp xúc với các Đấng
Tiêu Linh, học Đạo trực tiếp với Thiêng Liêng như Ngài Phạm Công Tắc, Cao Hoài
Sang, bà Nguyễn Hương Hiếu…
2) Phần thứ hai: Giới
thiệu sách của các bạn Đạo. Họ là những người Đạo dòng tu học, nghiên cứu mà
viết nên sách như các ông Huệ Chương, Huệ Phong, Vân Đằng…
Sau khi giới thiệu tác
giả, tác phẩm, phần cuối là nhận định về các Văn nhân: tránh phê bình trích
điểm mà chỉ nâng cao phần viết sâu, nghĩ cao của các tác giả.
Sách này chắc còn thiếu
sót nhiều vị vì không được thông tin về các ông/bà viết âm thầm đó.
Về các thi nhân viết thơ
ca truyền thống Đường thi là khá đông. Đó là nhờ từ năm 1950, thi sĩ Huyền
Quang lập Đạo Đức Văn Đàn tập hợp các nhà thơ trong Đạo. đến năm 1957, thi sĩ
Thuần Đức phục hồi ĐĐVĐ mà Ông làm Trưởng Ban, ông Thây Quang làm phó ban.
ĐĐVĐ có in 2 tập thơ:
Văn thi hiệp tuyển I và
II. Mãi đến năm 1996, các ông Chơn Tâm, Vân Đằng, Hoàn Nguyên tái lập Đạo Đức
Văn Đàn. Từ đó phong trào thư phát triển rộng khắp trong tỉnh. Nhà bạn thơ nào
có lẽ quen luôn tang tế gởi thư mời thì các thi hữu đáp ứng nồng nhiệt.
Bốn lễ truyền thống trên
lễ nào cũng có hai phần: nghi lễ trước rồi hội thơ sau, chen giữa 2 phần đó có
ẩm thực vui vẻ. Gia chủ tập họp thơ in phát không cho các thi hữu.
Rất tiếc, thi nhân đất
thánh không thuộc đối tượng nghiên cứu của tập sách này.
Xin mời đọc giả xa gần
lắng tâm vào vườn hoa Đại Đạo.
Đất Thánh, năm Đạo
86
Ths.TRẦN
LỜI DẪN
(Quá Trình Viết
& In Sách Đạo)
Năm 1966, một biến chuyển
lớn trong nền Đại Đạo, lần đầu tiên Hội Thánh tuyển chọn Hiền Tài Ban Thế Đạo.
Sau đó, nhiều vị được ban phẩm: Giáo Hữu, Giáo Sư, Phối Sư để trí thức hoà
guồng máy Hành Chánh Đạo.
Ban Thế Đạo lập ra tờ báo
Thế Đạo do Hiền Tài Trần Văn Rạng chủ biên để cổ suý việc canh tân với sự cộng
tác của nhiều Hiền Tài, trong đó có Hiền Tài Nguyễn Long Thành hăng hái nhất.
Một buổi họp tại Ban Thế Đạo, các Hiền Tài đồng thuận viết báo song song với
viết sách.
Năm 1970, Đại Đạo Tầm Nguyên
ra đời do Hiền Tài Trần Văn Rạng & Hiền Tài Đặng Mỹ Lệ viết. Bìa sách do
nhà in Lê Thành của Hiền Tài Lê Văn Màng hiến, ruột Ronéo ở văn phòng quận Phú
Khương (do Hiền Tài Nguyễn Văn Mới làm Quận Trưởng). Nhờ đó, các Hiền Tài mới
nảy ý thu gom Lời Thuyết Đạo Của Đức Hộ Pháp quay Ronéo và phát hành cùng năm
đó. Đồng thời Hiền Tài Nguyễn Long Thành viết quyển Con Đường Của Người Đệ Tử
Cao Đài. Rất tiếc, Hiền Tài Thành sớm
qua đời.
Năm 1971, Hiền Tài Trần
Văn Rạng dạy giáo lý ở Đạo Đức Học Đường, đào tạo đội ngũ kế thừa gồm Tú Xương,
Hồng Đào,…chẳng may Tú Xương cũng qua đời.
Sau na8m 1975, các bạn
viết văn nhìn lại các sách, sửa chữa, tăng bổ và đánh máy thành sách chuyền tay
với sự giúp đỡ của Hiền Tài Phạm Thành Ngộ (Đại Đạo Danh Nhân), Hiền Tài Nguyễn
Văn Hồng (đánh máy 03 quyển: Ngôi Thờ Đức Chí Tôn, Đại Đạo Giáo Lý & Triết
Lý, Công Đức Đức Phật Mẫu). Phải ca ngợi Hiền Tài Nguyễn Văn Hồng, sau đó nổi
lên như một người viết văn chuyên nghiệp. Rất tiếc, Hiền Tài Hồng cũng sớm qua
đời, không còn cống hiến cho Đạo.
Sau nhiều lần họp trù bị,
vào ngày 20 tháng 12 năm Kỷ Sửu, một buổi họp mặt tại Bạch Vân Quán, bàn về
việc viết sách và in sách Đạo. Kết quả Hiền Tài Đoàn Kim Sơn viết và in 02
quyển; Nguyên Thuỷ: 02 quyển; Cao Hùng in 02 quyển của Hiền Tài Nguyễn Long
Thành; Hiền Tài Rạng viết và in Tuyên Ngôn Khai Đạo Của Đức Cao Đài, thu vào
đĩa CD: Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống của Đức Hộ Pháp; sách Trường Dưỡng
Tinh Khí Thần.
Nhìn về quá khứ, song ngẫm
lại hiện tại và nhằm phát triển tương lai trong các em trẻ tuổi giao trọng
trách bảo vệ và phát huy nền Văn Hoá Đại Đạo vững bền mai sau.
Một Giáo Sư Nhật hỏi: “Nền
Văn Hoá mới Đạo Cao Đài hình thức thể nào?” Một Thượng Toạ hỏi: “Một nước nhỏ
nhoi trong vạn quốc – Mai sau làm chủ mới là kỳ” ?! Làm chủ cái gì, làm chủ thế
nào? Ai giải đáp đây?
Nghĩ mình: chức mọn tài
sơ, tuổi quá thất thập cổ lai hy, chỉ còn giúp các cháu trẻ tuổi viết quyển Văn
Nhân Đất Thánh coi như góp phần nhỏ bé trong nền Văn Hoá Đại Đạo. Mong các bậc
thức giả ra tay cứu độ.
Đất Thánh, năm Đạo
thứ 86
Trần Văn Rạng
PHẦN THỨ NHỨT
Chương I
Húy danh: Phạm Công Tắc
Bút danh: Ái Dân
I . TÁC GIẢ:
1/ - Thưở Thiếu Thời.
Vào tiết
Đoan Ngọ (5-5) năm Canh Dần (21-06-1890), bên bờ sông Vàm Cỏ Tây, thuộc làng
Bình Lập, tại Tỉnh lỵ Tân An (nay là Long An), một chơn linh giáng lâm trong
gia đình ông Phạm Công Thiện, một công chức. Đó là Phạm Công Tắc (1). Ngài sanh
nhằm năm Thành Thái thứ hai. Lúc bấy giờ, Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, do Pháp
trực tiếp cai trị. Vì thế, Nam Kỳ coi như một phần lãnh thổ của Pháp. Phủ
Thống đốc Nam Kỳ đặt tại Sài Gòn.
Ông Phạm
Công Thiện kết hôn với bà La Thị Đường, sanh được 8 người con mà Ngài Phạm Công
Tắc là người con thứ tám. Song thân Ngài trước ở làng An Hòa, quận Trảng Bàng, Tỉnh
Tây Ninh. Vì là công chức, ông Phạm Công Thiện về sau được đổi đến Long An.
Thưở thiếu thời Ngài Phạm
Công Tắc là một thiếu niên khỏe mạnh, tư chất thông minh đĩnh ngộ. Có điều lạ,
vì sanh nhằm ngày Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, cũng là ngày Lưu
Thần, Nguyễn Triệu nhập Thiên thai, nên thỉnh thoảng Ngài ngủ thiếp đi như
người chết, linh hồn lạc khuất đâu đâu, khiến cho huyên đường lo âu, nhất là bà
cụ cố tỏ vẻ buồn rầu sợ Ngài mệnh bạc.
(1) Theo giấy tờ hộ tịch thì Ngài sanh tại Bình Lập, và
cũng được xác nhận trong quyển "Tiểu sử Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc"
xuất bản năm 1954 lúc Ngài còn sanh tiền.
Cảnh trạng Ngài chết đi sống lại như thế, cả làng xã đều biết (2). Người ta
cố gắng lo thuốc thang cho Ngài, nhưng vốn tiền định, lâu lâu Ngài ngủ lịm đi
đôi ba giờ, có khi kéo dài nửa ngày.
Năm 1896, đến tuổi cắp sách đến trường tiểu học, có lúc học chữ Nho rồi sau
theo học trường Chasseloup-Laubat (nay là trường Jean-Jacques Rouasseau, đường
Hồng thập tự, Sài Gòn). Bằng hữu ai cũng thích Ngài, vì tánh tình khoan hòa, ưa
hoạt động, nhất là nhiều sáng kiến, bày biện các cuộc chơi, hay đánh đổ một vài
nhân vật trong lịch sử nước Pháp. Việc này khiến cho các bạn ái ngại xa lánh
Ngài. Từ đó, Ngài cảm thấy cô đơn, nhiều câu tự vấn : Tại sao nước Pháp có
nhiều anh hùng? Nhìn lại quê hương Việt Nam thì rách nát, Pháp phân chia để
trị. Bắc kỳ và Trung kỳ là hai xứ bảo hộ, nhà vua có đó như bù nhìn. Viên Toàn
Quyền Pháp là chúa tể, nắm tất cả quyền hành. Việt Nam là người, mà người Pháp
cũng là người, tại sao người Nam cuối đầu nô lệ, chịu nhục. Mối hờn vong quốc
bừng sôi trong huyết quản của tuổi trẻ Ngài.
(2) Nhật báo Điện tín ra ngày 9/9/1971 có đăng tin : "Một thiếu niên
19 tuổi sau khi đỗ Tú tài thì đôi mắt tự nhiên lòa hẳn đi, kéo dài trong 1
tháng thì thiếu niên lâm trọng bịnh. Trong lúc mê sảng thiếu nêin cho cha mình
biết là anh được Thiên tướng xống đưa về Thiên đình chữa bệnh. Anh sẽ chết rồi
khoảng 15 ngày sau mới sống dậy, miễn đừng đem chôn và ngày ngày vẫn cho anh
uống 3 lần nước lạnh vào 6 giờ sáng, 12 giờ trưa và 18 giờ tối". Dẫn
chuyện xảy ra ở Tân Châu (Châu Đốc), để chứng tỏ chuyện thiếp đi của Ngài Phạm
Công Tắc là một chuyện thật.
Hoàn cảnh đất nước lúc bấy
giờ hết sức sôi động. Triều đình Huế, vua Thành Thái (1889-1907) bị phế
(3-9-1907), vua Duy Tân (1907-1916) lên kế vị (8/9/1907), nhưng từ bỏ ngôi hợp
với Trần Cao Vân chống Pháp và bị bắt (6/5/1916). Theo sách Việt sử của Trần
Văn Rạng (ấn hành năm 1963) diễn tả lại việc Pháp bắt nhà vua như sau:
"Le Fol cất nón chào
nhà vua:
- Thế nào, Hoàng Thượng
ngự giá đến đây là hết rồi chứ ?
Vua Duy Tân nhún vai rồi
đáp bằng tiếng Pháp:
Các ông chẳng hiểu được
đâu (Vous ne pouvez pas comprendre).
Viên Khâm sứ Charles mỉm
cười bắt tay Ngài:
- Bệ hạ bằng lòng cuộc du
ngoạn chớ ?
Vua Duy Tân đã trả lời
xẳng 1 câu bằng tiếng Pháp:
- Không, bởi vì nó đã thất
bại. (Non, puisqu'elle n'a pas
réussi).
Ngài giữ thái độ oai nghi lãnh đạm, cho đến khi
bị đày qua đảo Rénion cùng với vua Thành Thái (13/5/1916).
Cái chí khí kiêu hùng và bất khuất của vị vua
17 tuổi, nung thêm chí căm hờn ngoại chủng của Ngài. Với khí thế tuổi trẻ, Ngài
muốn vọt lên phá tan xiềng xích nô lệ, để đòi lấy quyền sống và giải thoát gông
cùm ngự trị trên giống nòi. Nhưng tuổi nhỏ, Ngài đành chấp nhận hoàn cảnh, gia
nhập phong trào Đông Du năm 1907, khi vua Duy Tân nối ngôi, để mong học hỏi
thêm kinh nghiệm tranh đấu của nước người.
Phong trào Đông Du
(1904-1907) do Kỳ Ngoại Hầu Cường Để làm Minh chủ và hai nhà cách mạng Phan Bội
Châu và Phan Châu Trinh khởi xướng để nâng cao dân trí, bằng cách gởi các thanh
niên du học ngoại quốc nhất là Nhật Bản.
Tại sài Gòn phong trào
Đông Du do hai ông Gilbert Chiếu (tức Trần Chánh Chiếu) và Dương Khắc Ninh lãnh
đạo. Các ông thành lập các kinh thương hội như "Minh Tân công nghệ"
và khách sạn "Nam Trung" làm nơi lưu trú hội họp cho đảng viên. Ngài
Phạm Công Tắc dù đang theo học năm thứ hai trường Chasseloup-Laubat cũng lén bỏ
học đến họp với anh em.
Hai ông Gilbert Chiếu và
Dương Khắc Ninh tập hợp các đảng viên chia nhiều nhóm để xuất dương. Ba nhóm đã
sang tới Nhật, Ngài được ghi tên vào nhóm thứ tư. Lòng Ngài như mở hội, bao
nhiêu mộng hải hồ viễn phương kéo lũ lượt qua võng mô Ngài. Bút nghiên tạm xếp,
hành trang sẵn sàng chờ ngày lên đường. Đùng một tiếng phong trào bị khám phá.
Mật thám đến tra xét cơ sở Minh Tân công nghệ. Ông Dương Khắc Ninh đã lẹ tay
hành động, tiêu hủy tất cả hồ sơ và tài liệu nên không ai bị lôi thôi gì cả.
Tuy nhiên, mật thám vẫn chú ý, luôn theo dõi, dò xét các nhà lãnh đạo và chính
Ngài cũng bị chúng để ý và nhà trường lưu tâm. Buộc long Ngài phải nghỉ học về
làng An Hòa (Tây Ninh) tạm tránh sự dòm ngó của mật thám Pháp. Khi tình hình êm
dịu, Ngài lại lăn mình vào trường tranh đấu. Lần này Ngài hoạt động cẩn thận
hơn, rồi tham gia viết báo như : Công luận, La Cloche fêlée (Chuông rè) của
Nguyễn An Ninh, La voielibre … Tiếng nói tự do), Nông cổ Mín đàm, Lục Tỉnh Tân
văn (Tờ Lục Tỉnh Tân văn của ông Pierre Jeantet, ông Gilbert Chiếu làm chủ
bút). Ngài cộng tác thường xuyên với tờ này vì là đồng chí. Hơn nữa, ông Chiếu
ngấm ngầm làm cơ quan tuyên truyền chống Pháp và kích động lòng yêu nước của
nhân dân rất đắc lực. Các bài "Thượng bất chánh, hạ tắc loạn" (đăng
ngày 12/12/1907), bài "Dân tộc đoàn kết và thời đàm" (đăng ngày
23/1/1908) là những lời thẳng thắng cảnh cáo nhà cầm quyền Pháp. Khi ông Chiếu
bị bắt, tờ báo đình bản, Ngài lại về quê.
Vì ảnh hưởng cách mạng và
các Tiên Vương, về sau, Ngài lập Báo Quốc Từ, bôn ba sang Nhật rước tro Cường
Để, về Sài Gòn rước linh vị Thành Thái và Duy Tân đem thờ nơi Báo Quốc Từ (gần
chợ Long Hoa). Ngoài ra cơ quan thông tin Cao Đài sưu tầm và phổ biến các hình
ảnh Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học … Tất cả sự việc đó để tấm
lòng nuôi dưỡng ý chí các liệt sĩ bất khuất và di dưỡng vang bóng một thời của
tuổi trẻ hào hùng.
Âu cũng là thiên thơ dĩ
định, mộng Đông Du không thành, bạn bè cùng chí hướng mỗi người một ngã, Ngài
chẳng lẽ ngồi đây nhìn quê hương mỗi ngày thêm tan nát, hay chỉ biết làm bạn
cùng cây cỏ gió trăng. Đêm rằm tháng giêng năm Đinh Mùi, Ngài nhìn vầng trăng
hư ảo mà khẽ ngâm bài "Nhân nguyệt vấn đáp", rồi tâm thần dần dần tê
mê theo cơn gió nhẹ ru. Khi mở mắt ra Ngài đã lạc đến Thiên cung, rất có lợi
cho cuộc đời hành Đạo của Ngài sau này.
2/ -
Thời trưởng thành :
Năm 1910, vì hoàn cảnh
thanh bạch, Ngài vào làm thơ ký Sở Thương chánh (Sài Gòn). Năm sau lên hai mươi
mốt tuổi, Ngài vâng lệnh mẫu thân thành lập gia đình với bà Nguyễn Thị Nhiều,
hạ sanh được ba (?) người con, hiện còn hai cô Phạm Hồ Cầm và Phạm Hương Tranh.
Bà Hương Nhiều (tức Nguyễn Thị Nhiều) đắc vị Chánh Phối sư, chưởng quản Nữ phái
Phước Thiện, và cô Hương Tranh thọ phong Giáo sư (là một phẩm chức sắc trong
Cao Đài giáo).
Đời sống công chức không
làm cho Ngài thích thú, còn nếp sống gia đình điều điều buồn chán không trói
buộc được Ngài. Ngài đam ra mê lý tưởng hướng Đạo, "làm những việc thiện
hằng ngày để giúp đỡ những kẻ cô đơn xung quanh. Ngài giàu tình thương đời,
nhất là những kẻ cô đơn trụy lạc. Ngài đã làm một cử chỉ rất ý nghĩa. Đang làm
công chức Sở Thương Chánh, đồng tiền chẳng được dồi dào chi lắm, vậy mà Ngài
dám vay nợ đặng giải phóng một đoàn nhi nữ ra khỏi chốn thanh lâu, cho họ thoát
vòng nhục nhã, được trở về đời sống lương thiện, hưởng hạnh phúc gia
đình". (Theo tiểu sử Hộ Pháp PCT ấn hành 1954).
Người Pháp thấy Ngài có
hành động khác thường, họ liệt Ngài vào hàng có tâm huyết nên họ tìm cách đổi
Ngài đi Cái Nhum (hậu Giang) sau đó đổi ra Qui Nhơn (Trung phần), rốt cùng lại
đổi về sài Gòn, để rồi những ngày sẽ tới, Ngài hiến trọn cuộc đời cho Đạo Pháp.
3/ -
Ngộ Đạo :
Vào năm Ất Sửu (1925) để
tìm hiểu huyền vi và bí mật Thiêng liêng, Đức Ngài cùng quý ông Cao Quỳnh Cư,
Cao Hoài Sang, Cao Quỳnh Diêu … họp nhau "XÂY BÀN" tại nhà ông Sang
gần chợ Thái Bình. Vong linh nhập bàn đầu tiên là cụ Cao Quỳnh Tuân (thân sinh
của ông Cao Quỳnh Cư) cho một bài thi bát cú thất ngôn. Trong các chơn linh
giáng xuống cho thi phú, có một vị không chịu xưng tên mà chỉ cho 3 chữ A, Ă,
Â, (xin xem ÐẠI ÐẠO SỬ CƯƠNG cùng tác giả).
1/- Thọ Thiên Phong :
Mãi đến đêm 24 tháng 12
năm 1925, Ông A,Ă, mới cho biết chính Ngài là Đấng Thượng Đế đến lập Đạo tại
Nam Phương để giải thoát chúng sanh, tá danh là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma
Ha Tát.
Vào ngày 25/4/1926
(14/3/Bính Dần) tại nhà Ngài Đầu sư Thượng Trung Nhựt, Ngài thọ Thiên ân Hộ
Pháp, Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài, đắc vị Thiên phong trước hết. Đức Ngài là
người nắm cơ mầu nhiệm của Đạo, cả luật của đời, xét xử chư Chức sắc Thiên
phong và tín đồ, giữ dạ vô tư, tạo lập bí pháp đưa các đẳng chơn hồn vào Bát
Quái Đài để hiệp cùng Thần, Thánh, Tiên, Phật.
2/ - Hành Đạo Kiêm Biên (Kampuchia) :
Sau khi khai Đạo
(14/10/Bính Dần) tại Thánh Thất Từ Lâm, xảy ra việc tà quái ngoài ý muốn, nhưng
người theo Đạo mỗi ngày một đông, người Pháp dòm ngó, hăm he các Chức Sắc và
lập hồ sơ đen các người theo Đạo.
"Riêng phần Bần Đạo
là công chức, khi vâng lịnh Đức Chí Tôn đến chùa Gò Kén mở Đạo, Bần Đạo có xin
phép nghỉ 6 tháng đến chừng trở lại làm việc, người ta đổi Bần Đạo lên Kiêm
Biên. Nơi đó Bần Đạo vừa làm việc vừa lo mở Đạo. Riêng phần mấy anh lớn trong
hàng phủ, huyện bị người ta dọa nạt đủ điều. Cả toàn con cái Đức Chí Tôn buổi
nọ, còn lại có ba người. Ba người ấy là Đức Quyền Giáo Tông, Đức Cao Thượng
Phẩm và Bần Đạo. Chúng tôi nhứt tâm nhứt trí quyết làm cho Đạo thành, cho vừa
lòng Đức Chí Tôn" (Trích bài thuyết Đạo ngày 13 tháng 10 năm Giáp Ngọ,
1954).
Nhờ làm việc tại Kampuchia
mà Đức Ngài độ được Ngài Tiếp Đạo Cao Đức Trọng, bấy giờ làm Phòng Chưởng Khế
tại đây (1927), và anh em vua Cao Miên là Sisowark qua trung gian Tổng Trưởng
Sơn Điệp. Trong Hoàng Cung hiện nay vẫn còn thờ Thiên Nhãn.
3/ -
Xây dựng Tòa Thánh :
Công nghiệp lớn lao của
Đức Ngài là xây dựng Tòa Thánh. Đặt viên gạch đầu tiên năm 1933, qua năm 1936
mới khởi công xây cất và đến năm 1941 công cuộc kiến trúc bên ngoài vừa hoàn
thành. Nhưng chưa kịp trang hoàng thì Đức Ngài bị lưu đày. Năm 1946, Đức Ngài
trở về nước tiếp tục sửa sang. Năm 1954 thì hoàn tất và lễ Khánh thành được tổ
chức vào đầu tháng giêng năm Aát Mùi (1955).
Đây là một công trình kiến
trúc tân kỳ vĩ đại, khiến cho người ngoại quốc thầm kính phục một khối óc vĩ
nhân vượt hạn. Đền Thánh dài 145 thước, rộng 40 thước, cao 36 thước về phía gác
chuông Hiệp Thiên Đài, 25 thước nơi Cửu Trùng Đài và 38 thước nơi Bát Quái Đài.
Công trình tạo tác đồ sộ nguy nga như thế mà Đức Ngài vẫn khiêm nhường cho rằng
chỉ làm theo lịnh dạy của Đức Chí Tôn ((1) Ban Đạo Sử : Tài liệu lưu trữ).
4/ -
Chưởng Quản Nhị Hữu Hình Đài :
Sau khi Đức Quyền Giáo
Tông Thượng Trung Nhựt đăng tiên (19/11/1934), vào ngày lễ Đại Tường
(8/11/1935), một Đại Hội Đồng gồm Hội Thánh và Hội Nhơn Sanh đồng bầu cử Đức
Ngài cầm quyền thống nhất Chính Trị Đạo cho đến ngày có Đầu sư Chánh Vị.
Từ đó Đức Ngài Chưởng Quản
Nhị hữu Hình Đài, Hiệp Thiên Đài và Cửu Trùng Đài hết lòng xây dựng nghiệp Đạo
và đem phương sách hay cho nhơn sanh.
5/ -
Thời Pháp Nạn :
Vào ngày 23 / 7 / Canh
Thìn (1940), lính mật thám Pháp vào châu vi Thánh Địa xét giấy tờ và đóng cửa
Báo Ân Từ.
Ngày 25/5/Tân Tỵ (1941),
Chánh phủ Pháp ra lịnh cấm công nhân tạo tác Tòa Thánh. Ngày 4/6/ năm đó, vào 8
giờ sáng, mật thám bắt Đức Ngài. Ba ngày sau họ vào Tòa Thánh đuổi hết mọi
người về tỉnh, về nguyên quán. Chúng xung công tất cả Văn Phòng và chiếm đóng
trong chu vi. Chúng đày Đức Ngài sang Mã Đảo (Madagascar) trên chiếc tàu
Compiège vào ngày 27/7/1941 cùng 5 vị Chức Sắc. Trong chuyến tàu này ngoài Đức
Ngài còn có các nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Thế Sang … Khi đến Mã
Đảo, Ngài và chư Chức Sắc bị giam đến ngày 24/11/1944, mới được ra ngoài làm
lụng.
Năm 1945, phe Đồng minh
thắng, De Gaulle giải phóng nước Pháp, Đức Ngài được đưa về Việt Nam ngày
1/10/1046. tính lại thời kỳ đồ lưu hải ngoại là 5 năm, 2 tháng, 3 ngày.
6/ -
Việc thành lập Quân Đội Cao Đài : Khi Đức Ngài trở về Tòa Thánh thì Quân Đội Cao
Đài đã lập từ năm 1945 với danh Nội Ứng Nghĩa Binh. Vì hoàn cảnh đất nước và
đạo sự lúc bấy giờ, Đức Ngài phải để quân đội thành hình và xuất quân ngày 8/1
ÂL (1947).
"Quân đội các con
thành lập đặng do toàn thể trụ cả năng lực trên nền tảng Nghĩa Nhân, Đạo Đức.
Ngọn cờ Cứu Khổ của các con xuất hiện nơi nào thì nhân sanh nơi ấy đều phải
đặng các con bảo vệ, cứu khổ phò nguy mà làm rạng danh anh tuấn của non sông
chủng tộc"
(trích bài huấn dụ các cấp
chỉ huy Quân Đội Cao Đài của Đức Phạm Hộ Pháp đầu xuân Giáp Ngọ 1954).
Trong bản tuyên ngôn tại
Phnôm-Pênh, ngày 30/4/1956 Đức Ngài viết : "Khi Đức Bảo Đạo về nước, chính
Bần Đạo đã giao trọn quyền sử dụng Quân Đội Cao Đài cho Đức Ngài điều khiển
trong hàng ngũ Quân lực Quốc gia. Khi Đức Ngài đi Pháp mới tạm giao quân lực ấy
lại cho Bần Đạo. Trong lúc vắng mặt, Đức Ngài đã ra lịnh cho hai Chính Phủ
Nguyễn Văn Tâm và Bửu Lộc thi hành hợp pháp quốc gia hóa Quân Đội Cao Đài.
Nhưng sự thi hành ấy kéo dài cho tới ngày Chánh Phủ Ngô Đình Diệm thọ phong
toàn quyền cũng chưa quyết định. Bần Đạo buộc phải nhắc nhở và cầu cho Chánh
Phủ Ngô Đình Diệm quốc gia hóa Quân Đội Cao Đài một cách hợp pháp. Bần Đạo
không buổi nào muốn giải quyết vận mạng nước nhà với quân lực, mà chỉ dùng
phương pháp Đạo Đức đặng đem hòa bình hạnh phúc lại cho giống nòi mà
thôi".
7/ -
Chấn chỉnh các cơ quan Đạo :
Đức Ngài lo chấn chỉnh nội
bộ từ Cửu Trùng Đài, có đủ 3 sắc phái (Đạo Nghị Định số 5), hiến thân hành Đạo,
cơ quan Phước Thiện thành Hội Thánh Phước Thiện có thập nhị đẳng cấp Thiêng
liêng. Với toàn Đạo thì Đức Ngài cho phá rừng lập chợ Long Hoa, một hình thức
kiến trúc theo Bát Quái, phố xá rộng rãi đường thênh thang dự trù cho hàng trăm
năm sau. Công việc đang tiến hành thì một biến động xảy đến cho Đức Ngài, niềm
đau chung cho toàn Đạo.
8/ -
Trên đất khách :
"Vào đầu tháng 8 năm
Aát Mùi (1955), vị Tổng Tư Lệnh Quân Đội Cao Đài, khi được Quốc gia hóa, ra
lệnh thành lập Ban Thanh Trừng, bắt nhiều đạo hữu giam cầm. Một số thiếu nữ
trong Đạo cũng bị câu lưu mấy tháng và bị ép buộc phải khai nhiều điều khiếm
nhã cho Đức Ngài.
"Còn chính Đức Ngài
cũng bị cầm lỏng tại Hộ Pháp Đường chung quanh có quân đội võ trang canh phòng,
từ 20 tháng 8 Ất Mùi (1955) đến mùng 5 tháng 1 Bính Thân (1956). Vì quá đau
buồn cho cảnh đồng đạo tương tàn, Đức Hộ Pháp buộc lòng cùng nhiều Chức Sắc tùy
tùng rời khỏi Thánh Địa lúc 3 giờ khuya ngày ấy nhắm thủ đô Miên quốc trực
chỉ". (Trích diễn văn của Đức Thượng Sanh, theo Đại Đạo nguyệt san số
5/64)
Việc ra đi được Đức Ngài
tuyên ngôn như sau :
"Bần đạo buộc mình
phải xuất ngoại đặng bảo thủ tự do cá nhân của Bần Đạo, hầu đem ra một giải
pháp mới mẻ có thống nhứt hoàn đồ và chủng tộc là phương pháp Hòa Bình và Chung
Sống".
Hành động rời Tổ Đình,
không những để bảo vệ tự do cá nhân để chủ thuyết của Đức Ngài được quảng bá
sâu rộng trên toàn thế giới và các giáo lãnh tôn giáo mà còn một sự hy sinh cao
cả "tránh cảnh đồng đạo tương tàn" như Đức Cao Thượng Sanh thuyết.
Chẳng khác nào như Đức Jésus Christ hy sinh trên Thập tự giá để cứu nhân loại.
Người ta nói "Lấy nhục làm vinh. Ở đây không hề có việc đó và Đức Chúa
Trời cũng không hề làm như vậy. Hy sinh mình để cứu người đó là hành động của
vĩ nhân, của bậc cái thế siêu phàm, của chơn linh có nguyên động lực mạnh. Phải
lấy cái nhìn của một triết nhân, của hàng cao đồ mới thấy sự ra đi của Đức Ngài
ngụ nhiều ý nghĩa mà người phàm khó hiểu được ( Xem thêm "Chân dung Hộ
Pháp Phạm Công Tắc" cùng người viết).
9/ -
Trở về ngôi xưa cảnh cũ :
Dù sống trên đất Chùa Pháp
an toàn, nhưng lúc nào Đức Ngài cũng hướng về quê hương khói lửa, đang bị súng
đạn dày vò. Lòng chịu đựng có hạn, mà đời người lại có tuổi. Mặt khác Đức Chí
Tôn có lẽ định đem Đức Ngài về giúp ích cho Đạo nhiều hơn. Thế nên, ngọa bịnh
không bao lâu, Đức Ngài liễu đạo nhằm mùng 10 tháng 4 Kỷ Hợi (17-5-1959), hưởng
thọ 70 tuổi.
Việc qui Thiên của Đức
Ngài được đài Thông Thiên Học chứng nhận và thông báo trên mặt báo cho toàn thế
giới biết. Ngay khi thi thể chưa liệm Đức Ngài giáng cơ cho bài thi nhiều ẩn ý
sau :
Trót đã bao năm ở xứ người,
Đem thân đổi lấy phút vui tươi.
Ngờ đâu vạn sự do Thiên định,
Tuổi đã bảy mươi
cũng đủ rồi.
Nhớ tiếc sức phàm thừa chống chỏi
Buồn nhìn cội Đạo luống chơi vơi
Rồi đây ai đến cầm chơn pháp
Tô điểm non sông Đạo lẫn Đời.
II . TÁC PHẨM:
Văn
Phương-Tu Đại-Đạo: tác-giả
Ái-Dân viết năm 1928. In lần thứ
nhất 1969 do Hội-Thánh Phước - Thiện. In lần thứ hai cùng năm 1969 phân làm hai
quyển:
- Quyển thứ
nhứt: phần phát đoan có viết: "Ai ai đã mang mãnh xác phàm nầy thì cũng
tùng theo ba cái luật thiên nhiên là: luật đời, luật đạo và luật Trời. Ba luật
tương
tự, cũng phù hợp với luật điều Tam Giáo.
- Luật đời (Đời của Đạo) gồm
có: phận anh, phận chị, phận em trai, phận làm cha. Mỗi quyển chỉ có 32 trang.
Bài Thuyết- Đạo
Gồm những bài thuyết-đạo
từ năm 1946 đến 1955 của Đức Phạm Hộ-Pháp do Ban Tốc-Ký ghi chép và quay Ronéo:
1) - Lời thuyết đạo của
Đức Hộ-Pháp (Quyển I), in năm Canh-Tuất (1970) gồm 134 trang.
Lời tựa của Ngài Tiếp-Pháp
Trương văn Tràng, kiêm Trưởng-Ban Đạo-Sử như sau: "Những lời thuyết-đạo
trong quyển sách nầy là lời vàng tiếng ngọc của Đức Hộ-Pháp, một vị Giáo-chủ
của Đại-Đạo Tam Kỳ Phổ-Độ, một bậc vĩ-nhân của thế-hệ, nên Ủy-Ban Sưu tầm và
Biên tập được thành lập có Đức Thượng-Sanh chấp thuận. Nay cuộc sưu tầm và biên
tập đã có kết quả mỹ mãn, nên Ủy-Ban đem ra ấn-tống cho toàn đạo thưởng
thức".
2) - Lời thuyết đạo của
Đức Hộ-Pháp (Quyển II), Ban Đạo-Sử in năm Quý Hợi (1973), gồm 175 trang, chủ
yếu thuyết về "Quốc-Đạo kim triêu thành Đại-Đạo. Nam Phong thử nhựt biến
Nhơn Phong".
3) - Lời thuyết đạo của
Đức Hộ-Pháp, Quyển III, quyển IV (1974), quyển V đều đã in xong.
4) - Nam Phong Quốc-Đạo,
do nhóm phụng-sự Đại-Đạo ở Kiến-Phong sưu tập trong những lời thuyết đạo của
Đức Hộ-Pháp năm 1948, gồm chín bài, 64 trang, in năm 1971.
5) - "Bí-Pháp"
& "Con đường Thiêng-liêng Hằng Sống", hai quyển nầy cũng nằm
trong chương-trình thuyết đạo 10 năm (1946-1955) của Đức Hộ-Pháp.
Riêng quyển "Con
Đường Thiêng-Liêng Hằng Sống" gát những bài không phù hợp chuyên đề, còn
lại 29 (30 ?) bài, dưới các tiểu mục có chủ đề như sau:
1 . Từ Hiệp-Thiên Đài đến Cung-Đạo.
2 . Cung Thể Thiên Hành-hóa.
3 . Cung Thể Thiên Hành-hóa (tiếp theo).
4 . Bát-Quái-Đài.
5 . Cung Tạo Hóa Thiên.
6 . Diêu-Trì Cung (Bát hồn).
7 . Ngọc-Hư Cung.
8 . Hoa Hội.
9 . Triết-lý về tứ khổ.
10 . Tôn-giáo làm nhơn-tâm bất nhứt.
11 . Vấn nạn tín ngưỡng.
12 . Luật thương-yêu, Quyền công-chánh.
13 . Hiệp Thiên Hành-Hóa, Bác-ái Công Bình.
14 . Tông-đồ các Tôn-Giáo.
15 . Cung Diêu-Trì, tiền kiếp Đức Phật-Mẫu.
16 . Người đẹp và con thú.
17 . Ngọc-Hư Cung - Nam -Tào Bắc-Đẩu.
18 . Hiệp Thiên Hành-Hóa, các Tông-Đường.
19 . Cung Phục-Linh.
20 . Cung Phục-Linh, các Ngươn Đạo.
21 . Cung Phục-Linh, cơ giải-thoát.
22 . Linh Tiêu Điện.
23 . Linh Tiêu Điện (tiếp).
24 . Cực-Lạc Thế-giới, Niết-Bàn.
25 . Cửu Thiên khai hóa.
26 . Cõi Niết-Bàn.
27 . Giám-khảo Kim Quang Sứ.
28 . Cung Thượng-Thiên
Hổn-Ngươn.
29 . Lôi-Âm Tự, Bạch-Ngọc Kinh.
5) - "Trí-Huệ Cung": do Phạm-Môn in năm
1973, có 32 trang chủ-yếu bài "Phương Luyện Kỷ đặng vào con đường thứ ba
Đại-Đạo" do Đức Hộ-Pháp ký ban hành ngày 14 tháng Giêng năm Đinh-Hợi
(1947) và 6 bài thuyết-đạo dạy về phép tu chơn.
Thi
Thiên-Thai Kiến Diện - do
Đức Hộ-Pháp viết từ năm 1927, bằng thể Thất ngôn Đường Luật, gồm 77 bài. Nhà
sách Minh-Tâm xuất bản và phát-hành năm 1964, có 24 trang. Sách gồm 2 phần:
- 1 . Thiên-Thai kiến diện có 7 bài.
- 2 . Tam Thập lục Thiên
ký bút có 70 bài mà bài thứ 74 như sau:
Bài 74
Dời ra hướng Bắc đặng xem qua,
Mới rõ chánh kia chẳng nệ tà.
Tà chánh Thế-gian không biện biệt,
Chánh tà tâm nội có đâu xa.
Khử tà thân chánh, tà kiên chánh,
Phụ chánh cận tà, chánh biến tà,
Người có chơn-hồn, hồn ấy mất,
Muốn xem hí mắt ngó sao xa.
Thi
Tuyển
Ai-Điếu Ca Bảo-Đạo
Cởi Hạc anh đà tách cõi Tây,
Từ nhau oằn oại gánh tình nầy.
Muôn lằn sóng thảm nơi trần tục,
Ngàn dặm bước nhàn tách gió mây.
Cõi thọ anh nương theo huệ bóng,
Thân phàm em trẻ chịu chia bầy.
Vui buồn sớt thảm ơn xưa tạc,
Càng nhớ càng sầu khó giải khuây.
19.10 Mậu-Thìn
(1927)
Dạo Đàn Cảm Tác
(của bà Bát Nương,
Ái-Dân họa-vận)
Năm âm mượn bực tỏ tơ lòng,
Đờn
"bắc" ra "ai" oán dội song.
Tiếng
thảm làm cơm tràn quá chén,
Hơi sầu dồn gối chất nên chồng.
Tranh Tần ghẹo khóc người Cung Lãnh,
Tỳ Hớn khêu đau khách ải đồng.
Nhạn lạc lìa cung đành lỗi nhịp,
Cậy lằn phong nguyệt nhắc duyên nồng.
21.02.1929
Người Tu-Hành
Chẳng ham danh lợi chẳng mê trần,
Thạch-động thanh nhàn thêm độ thân.
Biển Bắc mặc dầu con sóng bủa,
Non Nam chi quản đám mây vần.
Ngày ăn hai bữa nuôi Tinh huyết,
Đêm ngủ ba canh dưỡng Khí Thần.
Quyết đoán công-phu thân vận động,
Đường Tiên, cửa Phật mới mong gần.
1935
Nhắn Bạn Quyền
Giáo-Tông
Hồ-lô ai để ở nơi đâu?
Ái quốc Việt-Nam nghĩ bể đầu.
Cứu thế hồng-ân chưa rãi khắp,
Nâng thuyền lòng nước vốn còn sâu.
Nhân tài nảy nở tuy trăm bụng,
Dân-trí biến sanh bởi một đầu.
Ví nhướng mắt Tiên xem rõ trận,
Cuộc cờ thắng bại tận phao câu.
11.09 Bính-Tuất
(1946)
Thần Lý Ngưng Dương
Du Nam
Bầu linh gậy sắt quảy du Nam,
Nương bóng Từ-bi đến cõi phàm.
Độ thế so đồng vầng nhật nguyệt,
Phục-sinh đổ trọn giỏ hoa-lam.
Nẻo Tiên lối cũ thân dầu toại,
Bợn tục đường xưa bước đã nhàn.
Bảy bạn ai còn nơi cõi thế,
Đông-Du xin nhắc
vụ ông Lam (Thể-Hòa).
Đêm 12.10 Kỷ-Sửu
(1949)
Cảm Tác Vía Đức
Quyền Giáo-Tông
Nguyện vọng như anh đã thỏa rồi,
Cố tâm kế chí có thằng tôi.
Bầu linh gậy sắt ông an thế,
Chày Gián Xử Ma tớ giúp đời.
Vững tiến xa thơ già gắng đẩy,
Xuôi chèo Bác Nhã trẻ đua bơi.
Khuôn hồng trước thấy trời quang đảng,
Kế nghiệp mai sau vẫn có người.,
18.11.1954
Kinh
Ngoài văn
thi, Đức Phạm Hộ-Pháp còn viết kinh. Mười bài kinh Song Thất Lục Bát in trong phần Kinh
Thế-Đạo, giọng Nam-Xuân là:
Kinh thuyết pháp, Kinh
nhập-hội, Kinh xuất-hội, Kinh đi ra đường, Kinh khi đi về, Kinh khi đi ngủ,
Kinh khi thức dậy, Kinh vào học, Kinh vào ăn cơm, Kinh khi ăn cơm rồi, Kinh
Hôn-Phối.
Tất cả mười bài đều làm
theo thể song thất lục bát, chỉ có bài Kinh nhập hội là 6 vế, hầu hết đều 4 vế;
chỉ trừ hai bài Kinh ăn cơm là hai vế mà thôi.
Mười bài đều xen nhiều chữ
Hán và điển-tích, đã được Hiền-Tài Đặng Mỹ Lệ soạn thảo dưới nhan-đề:
"Giải nghĩa Kinh Thế-Đạo".
Văn Tế
Tiểu-tường Đức
Quyền Giáo-Tông
(Ngày 16.10
Ất-Hợi)
Đoái Nam đãnh mây giăng,
Lượn Long-Giang sóng bủa.
Hồn Linh-điện đeo sầu trang Chí-Sĩ,
Tòa Cao-Đài chưa
lụy mặt anh-hùng.
Nước Việt-Thường ghi tạc mặt tài-danh,
Nòi Hồng-Lạc roi truyền gương tiết nghĩa.
Phương độ thế dầu lỡ làng chưa mãn địa,
Phép hóa-thân cũng mai mỉa đủ kinh Thiên.
Ba mươi năm lăn lộn cửa quyền,
Hay quan tiền vũ hậu,
Để tài tình ích nước lợi dân.
Trọn một đời người vinh diệu đai cân.
Thường suy cỗ nghiệm kim,
Đủ trí thức an bang tế thế.
Sanh gặp lúc ruộng dâu hóa bể,
Phong di tục diệt,
Nhìn nước non tha thiết tấm trung thành.
Ở phải hồi dĩ Lữ diệt Đinh,
Hiền vong ác thạnh.
Tìm không môn, xa lánh cửa công-khanh,
Nhưng mà: Toan cỡi lao ẩn dật chốn non xanh. Thương
chủng-tộc lao đao vòng tử xích,
Chuông cảnh tỉnh rán khua đêm tịch-mịch,
Trống chiều già gượng khích bóng trời mơi.
Trút bầu linh đổ Cam-lồ rưới nơi nơi,
Đưa gậy sắt dẹp sầu than cùng chốn chốn.
Qui tâm lý đem nhơn sanh về một bổn,
Lấy Thiên-lương làm thiên-hạ hiệp trăm nhà.
Cầm cờ Tang (*) cầu Vạn-Quốc dẹp can qua.
Đưa gươm huệ khuyên giống nòi thôi loạn lạc.
Mang thiên mạng Chí-Tôn phú thác.
Độ quần-linh giải thoát trầm luân.
Bố hồng-oai Hội-Thánh gội-nhuần,
Dắt nhơn-loại lánh thân ác Đạo.
Thuyền Bác-Nhã chở đầy khổ não,
Liền trở lui Bồng-Đảo bến xưa.
Chử Thiền lâm im tịnh mây mưa,
Vội rào chặc Tây-phương nẽo cũ.
Anh cả ơi!
Này sự nghiệp nhà Nam đầy nghĩa-vụ,
Anh lòng nào bỏ phú cho đám em khờ?
Kìa giang-san đất Việt những cơ đồ,
Anh sao nỡ nấy giao cho đàn em dại?
Nhìn dấu bước
ưu chơn nơi hồ hải,
Giục nhớ người nặng quảy gánh đồ thơ.
Nghe chày kình khua tiếng chốn đền thờ,
Giục nhớ khách giõi khai đường tận độ.
Ngôi còn đó,vị còn đó, Đạo còn đó, đời còn đó,
Nhà ở đây, vợ ở đây, con ở đây, bạn ở đây,
Anh sao nỡ vui miền Cực-Lạc!
Hay là giận nhơn-tình tráo chác?
Bến Ngân-Hà tắm mát tâm hồn.
Hay là hờn thế-sự dại khôn,
Vào Bát-Quái bảo tồn tri giác.
Vài từng rượu lạt,
Ít chén cơm chay.
Hỡi ơi! Thương thay!
Linh thiêng chứng chiếu.
(Đức Hộ-Pháp đọc
tại Đại-Đồng Xã)
Đức Hộ-Pháp Giáng-Cơ
Đạo Nghị-Định thứ tám của
Đức Lý Giáo-Tông và Đức Hộ-Pháp lập vào ngày 15.07 Giáp-Tuất (1934) có nói về
Chi Phái. Năm 1957, đàn cơ tại Cung-Đạo đêm 17.10 Đinh-Dậu, Đức Lý Giáo-Tông
giáng dạy:
"Chư Hiền hữu
Hiệp-Thiên-Đài! Về Đạo Nghị-Định của Lão đối với chi phái là phương pháp lúc
trước để phổ-độ nhơn-sanh mà thôi. Hiện giờ cửa Đạo đã mở rộng, thì cơ qui nhất
thế nào cũng sẽ thực-hiện được".
Mặt khác, Đàn cơ tại
Giáo-Tông Đường đêm 10 tháng 4 năm Giáp-Thìn (1964), Đức Hộ-Pháp giáng dạy:
"Ngày giờ gần đến,
nên Bần-Đạo để lời khuyên cả chức-sắc và toàn đạo rán thế nào thống nhứt Đạo
cho được, mới có đủ sức mạnh để làm gương cho vạn quốc".
Đêm mùng 4 tháng 7 Kỷ-Dậu
(16.08.1969). tại Giáo-Tông Đường có đủ mặt Đức Thượng-Sanh và các chức-sắc cao
cấp, Đức Hộ-Pháp giáng dạy:
"Kính chào Hiền-tỷ
Đầu-Sư, bạn Thượng-Sanh, chư Hiền-Hữu Hiến-Pháp, Hiến-Đạo, Khai Đạo và các em
Hiệp-Thiên, Cửu-Trùng.
"Bần-Đạo rất vui mừng
về việc hội ngộ hôm nay của chúng ta. Bần Đạo tin rằng các bạn có việc gì hay
muốn tỏ bày. Vậy bạn Thượng-Sanh khá cho biết ...
"Cười! Cũng là việc
hữu hình nữa, nếu các bạn đã để trọn tâm chí vào việc ấy (Qui-Điều Ban Thế-Đạo)
mà tu chỉnh thì hay thêm, chớ có sao. Vậy Bần-Đạo chấp-thuận ...
"Đức Lý Đại-Tiên có
thảo-luận với Bần-Đạo về việc tuyển chọn chức-sắc cao cấp Cửu-Trùng Đài, thì
nên tìm kiếm nhân-tài trong hoặc ngoài Ban Thế-Đạo, sẵn lòng tình nguyện hiến
thân phục-vụ cho Đạo. Đức Lý sẽ đặc cách ân phong quyền tước để phụng-sự cho có
hiệu-lực hơn".
Đêm 10 tháng 03 năm 1971,
tại Thánh-Thất Nam-Thành (Sàigòn), Đức Hộ-Pháp giáng cơ dạy Đạo:
"Hoa mai nào không
trổ vào mùa Đông? Người sứ mạng ưu thế nào không trổ mặt lúc thế sự loạn ly,
nhơn-tâm tán-loạn? ...
"Cái đau đớn nhất của
tình cốt nhục là tự cắt tay nhau cho thành người tàn phế". "Đạo có
sáng chói nơi mọi người, thì xã hội đời mới an.
"Sống dưới
Thánh-Đường uy nghiêm, đọc thuộc làu từ câu văn Đạo-Luật, Thánh-Ngôn, cũng chưa
chắc hiểu trọn vẹn Cao-Đài Chủ-Nghĩa. Câu văn chỉ là hình thức, phương tiện vẽ
nên chơn lý Đạo-Pháp, chớ không là Đạo-Pháp. Thánh-Đường ngoại thể đã huy
hoàng, thì Thánh-Đường nội tâm sẽ sáng chói.
"Thế cuộc đã mở màn.
Cơ Trời đang vận chuyển. Bần-Đạo muốn nói với chư Hiền là đừng nghĩ tới, đừng
bàn tới cái gì về phân-hóa, cái gì về thống nhất, duy nhất hay hiệp nhất nữa,
mà phải chấp nhận tất cả. Bao nhiêu kinh nghiệm đã thấy rồi ... Hãy siết chặc
tay nhau, tìm những giải pháp để làm chung một lối về cho tất cả các con cái
của Đức Chí-Tôn ...".
III . NHẬN ĐỊNH CỦA TỰ PHÁP VÂN
ĐẰNG:
Đặc biệt Đức Phạm Hộ Pháp
số văn nói nhiều hơn văn viết, quan điểm và tư tưởng nằm trong các bài thuyết
Đạo.
Sau đây xin nhận định về
tác phẩm “ Con đường Thiêng Liêng Hằng Sống “ của Đức Phạm Hộ Pháp dạy về tu
chơn vào cõi tiên: Vân du Thiên ngoại.
“CON ĐƯỜNG THIÊNG LIÊNG
HẰNG SỐNG là một quyển kinh khó đọc, khó am hiểu. Bởi vì, những bài thuyết Đạo
trong đó nói về chuyện cõi Trời. Người tốc ký, người nghe í tai đã thành đạt
hay chứng ngộ lối tu vô vi trong đó? Lại còn nhiều trắc trở khác, ta có thể
phân làm ba khó khăn: trình độ tu luyện, thời gian và thuật ngữ.
1) Trình
độ tu:
Trong Đạo Cao Đài có
trường học năm lớp: Nhơn Đạo, Thần Đạo, Thánh Đạo, Tiên Đạo, Phật Đạo. Các tốc
ký viên và tín đồ chỉ mới là Địa Thần, làm sao nghe và hiểu nổi các con đường
tu cao hơn. Còn các chức sắc lại tu theo kiểu Cửu Phẩm Thần Tiên, chưa am tường
những thuật ngữ cõi trên.
Các tốc ký viên lấy lời
mình mà ghi ý Sư Phụ, nhiều khi không đạt lý vì triết lý đó khỏi tầm cao của
họ. Sách lại chưa được Sư Phụ duyệt lại nên còn lắm nhiêu khê ?
2) Thời
gian giảng Đạo:
Đức Hộ Pháp bắt đầu giảng
“ Con Đường Thiêng Liêng Hằng Sống” vào đêm 13–18-Mậu Tí ( 16-09-1948 ) đến
ngày 30-3-Kỷ Sửu ( 1949 ) , tính ra mới hơn 7 tháng rưởi. Đó là thời gian quá
ngắn để tạo thành một năm học, nói chỉ việc tu luyện.
3) Thuật ngữ và trùng phục:
Triết học, Thần học đều có
riêng thuật ngữ để diễn đạt, nếu không am tường nhuần nhuyễn thì có thể lẫn lộn
từ này với từ kia.
Khởi đầu là cung Thế Thiên
Hành Hóa, qua cầu Bích Hải nơi cõi Trần và cõi Trời.
Cung Hiệp Thiên Hành Hóa
nơi thờ Tam Trấn: Thái Bạch, Quan Âm, Quan Thánh ( bài 8 ).
Cung Tạo Hóa Thiên, Đức
Ngài liên hệ vô hình tới Diêu Trì Cung, Ngọc Hư Cung…
Cung Phục Linh chỉ là cung
nhánh của Cung Hồn Ngươn. Đọc lại Kinh Di Lạc ta thấy vị Phục Linh tánh Phật ở
trong tầng Thượng Thiên Hỗn Ngươn ( tầng Trời thứ chin ).
Tên các vị Phật ở tầng bảy
không phải là quí danh mà là chức danh như Thủ Luân Phật, Chưởng Hậu Phật…
Cung Hỗn Ngươn là tầng
Trời thứ chin có Diêu Trì Cung, Ngọc Hư Cung, Linh Tiêu Điện, Bạch Ngọc Kinh.
Xa xa về phía mặt là Niết
Bàn, Lôi Âm Tự.“
Tờ báo Le Populaire [Bình
Dân] (xuất bản tại Sài Gòn ngày 18-11-1935) loan tin : Ở Tây Ninh, Ngài Phạm
Công Tắc kế vị Ngài Lê Văn Trung và trở thành Giáo Tông của Đạo Cao Đài :
“ Nhơn dịp lễ kỷ niệm ngày
mất của Ngài Lê Văn Trung, Giáo Tông của Đạo Cao Đài, Tòa Thánh Tây Ninh tổ chức đại lễ trong ba ngày: 8, 9 và 10
tháng 11 vừa qua, có hơn 5 ngàn tín đồ dự lễ.
“ Một Đại hội gồm : Hội
Nhơn Sanh và Hội Thánh được tổ chức vào hai ngày 11 và 12 tháng 11, sau khi
chấm dứt các buổi lễ, để giải quyết vấn đề khó khăn là việc kế vị Ngài Lê Văn
Trung.
“ Hội Nhơn Sanh và Hội
Thánh đồng thanh tín nhiệm giao chức vụ nặng nề nầy cho Đức Hộ Pháp Phạm Công
Tắc. Tất cả kiến nghị tín nhiệm đều được Đại hội biểu quyết đồng ý.
“ Như thế, một vấn đề gây
ra sự chú ý nhiều lần của công luận đã được giải quyết đúng qui tắc.
“ Chúng tôi mong rằng,
dưới quyền lãnh đạo của vị Giáo Tông mới, Đạo Cao Đài sẽ tiến bước êm đềm.
Tờ báo còn thông báo các
buổi lễ :
“ Nhơn dịp lễ Kỷ niệm ngày
mất của Ngài Lê Văn Trung, Quyền Giáo Tông của Đạo Cao Đài, các cuộc lễ lớn
diễn ra trong các ngày: 8, 9, 10 và 11 tháng 11 tại Tòa Thánh Tây Ninh. Đây
là chương trình các buổi lễ :
“ Ngày 8 tháng 11, lúc 14
giờ: Đại lễ mãn tang tại Giáo Tông Đường.
“ Ngày 9 tháng 11, lúc 19
giờ: Thỉnh linh vị vào Đền Thánh; 20 giờ: Cúng tế.
“ Ngày 10 tháng 11, lúc 19
giờ: Thỉnh linh vị ra Đại Đồng Xã.
“ Ngày 11 tháng 11, lúc 6
giờ: Lễ Cúng tế trước Cửu Trùng Thiên. Điếu văn của các Chức sắc Đại Thiên
phong.”
Nhơn dịp Lễ Kỷ niệm Khai Đạo lần thứ 10, tờ
báo La Presse indochinoise [Báo chí Đông Dương] (ngày 3-9-1936) nhắc lại cho
công chúng Đông Dương biết rằng, Đạo Cao Đài hay là Phật giáo canh tân :
“ Đạo Cao Đài, một Tân tôn
giáo phát sanh tại Đông Dương vào năm 1926, đã ban cho những người được khai
tâm đầu tiên những bài Thánh giáo của Đức Chí Tôn, Đấng Cao Đài, dưới hình thức
là những thông điệp huyền bí mà các đồng tử đã nhận được một cách thận trọng để
lưu truyền lại cho đời sau.
“ Vật làm thông công môi
giới của Thần linh học cho phép tiếp nhận nhiều thông điệp phát ra từ các bậc
đại hiền triết của thời cổ, từ cõi vô hình, giáng điển xuống Tòa Thánh Tây Ninh
(Nam Kỳ) một cách đều đặng.
“ Các tín đồ của Đạo Cao
Đài càng lúc càng nhiều, được dạy cho biết các kiến thức về giáo lý và luật
pháp của Ba Đấng Giáo chủ: Đức Phật
Thích Ca, Lão Tử, Khổng Tử.
“ Những điều giáo huấn
tổng quát của Phật giáo là: không sát sanh, không trộm cướp, không muốn vợ của người khác, không làm chứng dối,
không uống rượu. Phật giáo còn tiến rất xa trong việc tìm đến sự toàn thiện, vì
Phật dạy thương yêu kẻ thù, lời giáo huấn mà phương Tây của chúng ta xem như là
một chuyện buồn cười, bởi vì nó đem đến một cảnh tượng đau buồn của lòng thù
hận, của sự hung dữ, của sự trả thù mà lịch sử đã ghi lại.
“ Lão giáo mà giáo lý lấy
trọn trong sách Đạo Đức Kinh, khai triển song song đến các tư tưởng triết lý tuyệt diệu của Thiên Chúa giáo,
mặc dù Lão giáo xuất hiện trước Thiên Chúa giáo gần 600 năm. Lão giáo dạy tôn
thờ sự thật và giữ gìn đức tánh. Điều nầy chứng tỏ rằng người ta có thể gặp nơi
các quốc gia (Á đông) xem như còn mọi rợ đối với một Âu châu già nua của chúng
ta, sự thực hành những câu phương ngôn dịu hiền và nhân từ, cốt yếu giữ gìn sự
hòa hợp và lòng lương thiện giữa loài người.
“ Nho giáo (Khổng giáo) mà
những lời giáo huấn không phản đối tinh thần khoa học tân thời của chúng ta,
luôn luôn tỏ ra lo âu là muốn nâng cao nhơn loại lên trên các thú tánh bằng
cách mở mang phát triển các phẩm chất tốt đẹp, tạo ra một tinh hoa tinh thần và
trí thức, để dẫn dắt đến hạnh phúc cho những người bất lực, dốt nát, bởi họ
thiếu các yếu tố ban đầu về sự thông minh, lý trí và hiểu biết.
“ Giáo lý của Ba Đấng Giáo
chủ thêm vào tôn giáo lòng bác ái và nhân từ của Đấng Christ, sự kính trọng
người chết và sự thờ cúng tổ tiên.
“ Tóm lại, Đạo Cao Đài là
bằng chứng của lòng khoan dung đại độ đối với tất cả các tôn giáo hiện hữu, bởi
vì nó bao gồm tất cả, nó tự cho mình có mục đích là chống lại tà giáo, gieo vào dân chúng lòng
thương yêu điều thiện và thương yêu vạn vật của Thượng Đế, thực hành đạo đức,
học tập sự yêu mến công lý và sự nhẫn nhục, phát hiện về luật quả báo các hành
động của con người sau khi chết, sự tẩy trược tâm hồn.”
“ Tòa Thánh Cao Đài Tây
Ninh từ mấy ngày nay rất nhộn nhịp. Hàng ngàn tín đồ ráo riết làm việc để hoàn
thành các việc chuẩn bị lễ Kỷ niệm người quá cố cho xứng đáng.
Cuộc lễ bắt đầu từ thứ năm
ngày 26 tháng 11 lúc 19 giờ, kéo dài trong 3 ngày. Hội Thánh sẽ thiết lễ. Cũng
trong dịp nầy, sự tự do thờ cúng mà chủ nghĩa tự do của Chánh phủ Pháp được ban
cho tôn giáo. Tất cả địa phương của Đạo Cao Đài ở Đông Dương đều được kêu gọi
về Tòa Thánh dự lễ.
Một chương trình vĩ đại
được tiên liệu: Đốt đuốc, cộ hoa rực rỡ, pháo bông. Một đại lễ sắp diễn ra.
Người ta quả quyết rằng,
đây là cuộc lễ lớn nhứt từ khi lập Đạo Cao Đài.”
Tờ báo La Vérité [Sự thật]
(ngày 20-11-1936) báo cáo những sự việc vui vẻ bằng từ ngữ : “ Nơi Tòa Thánh
Cao Đài, 20 ngàn tín đồ làm lễ Kỷ niệm Khai Đạo lần thứ 10 và lễ mãn tang Đức
Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung.”
“ Ngày 28 tháng 11, đặc
phái viên của chúng tôi gởi về : Từ tất cả các nơi ở Nam Kỳ, Cao Miên, cả vài
bộ tộc thiểu số (Mọi), hàng ngàn tín đồ đi đến Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh vào
các ngày nầy để dự lễ Đại Tường và tiếp theo là lễ mãn tang Đức Quyền Giáo Tông
Lê Văn Trung.
“ Đúng 2 năm, Đức Quyền
Giáo Tông của Đạo Cao Đài từ trần - dùng một từ ngữ tỏ ý tôn kính : qui Thiên.
“ Sự chia rẽ trong Đạo Cao
Đài thành hai phe lớn đối nghịch nhau sắp hoàn toàn tiêu hủy nhơn dịp bổ nhiệm
người kế vị. Nơi Thánh địa, Hội Thánh thận trọng chỉ định Ngài Phạm Công Tắc
vào chức vụ lãnh đạo tối cao tạm thời, nhưng không cho một danh hiệu chánh thức
của tôn giáo.
“ Còn ở Mỹ Tho, ông Nguyễn
Ngọc Tương được ban cho danh hiệu Giáo Tông bởi vài trăm tín đồ. Vị Giáo Tông
mới nầy được bổ nhiệm như thế, được hộ tống bởi một đám đông ủng hộ, đến Tòa
Thánh Tây Ninh để nhậm chức và cũng để tham dự lễ Đại Tường.
“ Cổng vào Tòa Thánh của
Đạo Cao Đài bị cấm, không cho vị đứng đầu chi phái Mỹ Tho vào, bởi vì chỉ có
nơi Thánh địa, lời nói chơn thật và thiêng liêng (của Đức Chí Tôn) truyền dạy
các Chức sắc cao cấp của Đạo do cơ bút của đồng tử. Phải chăng Đấng Cao Đài đã
chỉ định Ngài Phạm Công Tắc vào phẩm vị lãnh đạo tối cao của Đạo ?
“ Người ta hiểu rằng, từ đây, tại sao các vị
lãnh đạo Cao Đài tổ chức lễ Đại Tường huy hoàng hiếm có. Những cộ hoa đi diễn
hành trong tỉnh lỵ Tây Ninh không bị Tỉnh trưởng ngăn cấm. Chúng tôi nghĩ rằng,
sự ngăn cấm đó không chánh đáng, bởi vì tất cả đều diễn ra trong bình yên ở
khắp nơi. Cộ hoa, rước đuốc, pháo bông trong 3 ngày lễ làm tăng thêm sự vui
mừng của dân chúng. Ánh sáng đèn điện rực rỡ làm cho vùng Thánh địa có vẻ là
một thành phố nhỏ náo nhiệt.
“ Chúng tôi có gặp các vị
lãnh đạo cao cấp nhứt. Người đứng đầu hiện thời của Đạo mà chúng tôi trước đây
đã sát cánh cùng nhau trước khi cải sang Đạo Cao Đài, đã làm việc trong Sở Thương chánh, trong lúc đó,
người bạn thời niên thiếu của chúng tôi là Lê Thế Vĩnh, Trưởng ban Nghi lễ, đã
chiến đấu như là “Thanh niên Việt Nam” để cải thiện số phận của dân tộc Việt
Nam.
“ Chiều nay là lễ mãn tang
Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung, những bài diễn văn sẽ được đọc lên cho chúng
ta biết về tình hình hiện tại của nền Đạo Cao Đài, những khuynh hướng, những
khả năng và về tương lai của Đạo.
“ Người ta biết rằng, Đạo
Cao Đài phát sinh từ năm 1926, dưới sự
thúc giục của phong trào xây bàn nhập cảng từ nước Pháp. Nhưng có điều
quần chúng không biết là có một người Pháp lai, độc giả trung thành của Léon
Denis và Allan Kardec, đã bỏ tiền túi ra để đi truyền bá những tư tưởng về Thần
linh học trong thuộc địa, việc nầy góp phần không ít vào sự phát triển nhanh
chóng lạ thường của nền Tân tôn giáo, đặt trên cùng một hàng Bốn Đấng Giáo chủ:
Khổng Tử, Lão Tử, Thích Ca và Jésus Christ. Chủ nghĩa tổng hợp lạ thường nầy
giải thích rõ hơn nữa sự thành công mau lẹ của phong trào bên cạnh những người
VN và cả người Cao Miên nữa.
“ Chánh phủ Pháp có thể lo
sợ trong một lúc nào đó về nền Tân tôn giáo phát sinh chậm trễ giữa thế kỷ 20
nầy, nhưng về sau, những nhà lãnh đạo tôn giáo của chúng ta được phép truyền
đạo nơi Bắc Kỳ, những phái bộ truyền giáo Cao Đài được đi Pháp, Trung hoa.
“ Sự biểu lộ hiện thời tại
Tây Ninh, phải chăng là điểm khởi đầu cho sự củng cố và bành trướng phong trào,
đã bị ngưng trệ trong suốt năm qua ?
“ Phải chăng các vị lãnh
đạo tôn giáo Cao Đài nuôi tham vọng trở thành những nhà lãnh đạo tinh thần của
một phần Viễn Đông nhờ vào sự phát triển của Đạo Cao Đài ?
“ Một tương lai không xa
sẽ cho chúng ta cái chìa khóa của những bí ẩn nầy.”
SROK - SAROU
(Đặc phái viên)
Đạo Cao Đài càng lúc càng
hướng đến sự hợp nhứt. Hợp nhứt giữa các tôn giáo bên ngoài vào chính nó, hợp
nhứt nội bộ, hòa hợp đẹp đẽ chung quanh Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc, Ngài là một
trong những tín đồ đầu tiên được lựa chọn và được chỉ định bởi Đấng Cao Đài,
THẦY thiêng liêng, và là một trong những vị sáng lập Đạo Cao Đài.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
là vị chưởng quản, là đồng tử cảm hứng được chỉ định của Hiệp Thiên Đài, Hội
Đồng tối cao của các đồng tử. Đây là một loại Thánh Vụ để tuyên bố và bảo toàn
giáo lý thuần khiết, cũng phụ trách cơ quan tư pháp của Đạo.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
được tuyên bố là lãnh đạo tối cao của Đạo Cao Đài bởi Hội Nhơn Sanh và bởi Hội
Thánh, để thay thế Cố Quyền Giáo Tông Lê
Văn Trung đã thoát xác qui Thiên năm
1934.
Đức Hộ Pháp Phạm Công Tắc
là một đồng tử cảm hứng có tính cách thần bí cao siêu và giống như, một cách
tổng quát, Đức Ngài là người thần bí thực sự và Đức Ngài cũng là một người vĩ
đại về thực hiện và tổ chức.
Đức Ngài là một nhà kiến
trúc đặc sắc vì chính Đức Ngài đã thiết kế họa đồ xây cất Đền Thờ của Đạo Cao
Đài ngày nay là Tòa Thánh mà trong quyển sách nầy có nhiều bức ảnh in lại. Đức
Ngài thiết kế các họa đồ và đích thân coi sóc từng điểm một, tất cả các chi
tiết của việc xây dựng và của việc trang trí rất lộng lẫy.
Nhận định của Gago.
Nhớ lại vào cuối năm học
1952 – 1953, trường trung học Trung Nghĩa Thục Lê Văn Trung tổ chức phát thưởng
ở rạp hát Mộng Vân ( gần cửa số 7 ) có Đức Phạm Hộ Pháp dự kháng. Khi xem xong
tiểu phẩm “ Say quốc sĩ “ do Hồ Văn Hoàng đóng vai Võ Tánh, và Trần Văn Rạng
đóng vai Ngô Tùng Châu. Do cả hai điều nhảy lên dàn hỏa tử tiết nên Đức Ngài
gọi hai trò xuống tặng trò Hoàng bao thơ và trao cho trò Rạng câu: “ Thầy ban
Đạo hiệu cho con trong 2 câu thơ cuối bài Kinh Nhập Học “. Đó là bút danh Vân
Đằng, tôi nhớ mãi không bao giờ quên.
TP. VÂN ĐẰNG
( Đệ tử Bạch Vân
Động )
CHƯƠNG II
Húy danh: Cao Hoài Sang
Bút danh: Huệ Giác
I . TÁC GIẢ:
Đức Cao Thượng Sanh quí
danh là Cao Hoài Sang, sinh ngày 11/9/1900 tại xã Thái Bình, tỉnh Tây Ninh.
Thân sinh là cụ Cao Hoài Ân, một vị Thẩm Phán đầu tiên tại Miền Nam, và thân
mẫu là Bà Hồ Hương Lự (được ân phong Nữ Đầu Sư). Đức Ngài là con út trong gia
đình có ba anh em. Người anh cả là Ngài Cao Đức Trọng. Tiếp Đạo Hiệp Thiên Đài
và chị là Giáo Sư Cao Hương Cường (Giám đốc Cô nhi viện Tây Ninh).
Sau khi thi đỗ bằng thành
chung, Đức Ngài vào làm việc tại Sở Thương Chánh (tức Quan thuế Sài gòn) cho
đến chức Tham Tá Thương Chánh rồi hồi hưu. Thuở thanh niên, Ngài lập gia đình
hạ sinh 9 người con, năm trai và bốn gái. Người con đầu lòng là Hiền tài Cao
Hoài Hà và người con út là Cao Minh Tâm.
Trong thời gian làm viên
chức, Ngài còn là một nhạc sĩ tài hoa của trường Quốc Gia Aâm Nhạc Saigon.
Ngươn linh Ngài vốn là Lữ Đồng Tân thổi tiêu, một người thích tiêu dao với
thiên nhiên cùng tiếng nhạc dìu dặt. Ngài đã mời nhiều đoàn nghệ sĩ về Thánh
Địa diễn các vở tuồng do Ngài biên soạn được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt.
Suốt quãng đời làm viên
chức Nhà nước, Đức Ngài nổi tiếng là thanh liêm dù làm ngành quan thuế có nhiều
cám dỗ. Vào những năm 40 của thế kỷ này, nhiều du khách Việt Nam thường sang
Pháp rồi về, trong số đó có một bà ở Đakao, từ Paris về Saigon có mang về nhiều
hàng quí nhưng khai báo không rành, nên bị quan thuế giữ lại. Bà này được một
người bạn của Đức Ngài giới thiệu và nhờ giúp đỡ. Ngài vui lòng chỉ dẫn thủ tục
và lấy được kiện hàng êm xuôi. Vài hôm sau, Bà đó tìm đến nhà Ngài, có mang
tặng Ngài một tượng Phật bằng đồng cao độ hai tấc. Ngài cảm ơn và nói rằng:
-Bà tặng cho tôi tượng
Phật là điều hợp với lý tưởng của tôi đang theo. Nhưng một người đã quyết tụng
Kinh niệm Phật thì trong lòng phải "rổng" sạch, tiền bạc không ham,
danh lợi không màng.
Tượng Phật bằng đồng giá
không đáng là bao nhiêu, nhưng trong ruộc nó, Bà kia đã để một cuộn tiền trong
đó, vì Bà sợ đưa thẳng thì Ngài khó nói và chắc chắn Ngài không nhận. Tuy bà đã
để tiền kín và trét đít tượng Phật lại, mà Ngài vẫn biết, từ chối một cách khéo
léo. Bà kia phải xin lỗi và đem tượng Phật ra về.
Một lần kia, Ngài xét
duyệt đơn khiếu nại của một số hồ sơ, trong đó có một đơn với lời khai không
thành thật, nên ở giữa có kèm tiền. Ngài gọi đơn sự lại trả đơn và nhắn nhủ :
- Tôi làm "quan"
cần hai tiếng thanh liêm, anh làm dân đối đãi với nhân dân cần hai tiếng thành
thực, nếu giúp cho anh mà thiệt cho người khác thì lương tâm tôi không bao giờ
cho phép, còn giúp cho anh có lợi khác mà không thiệt hại cho ai, tôi sẵn sàng
giúp mà không cần sự cầu báo vì đạo người đã ghi tạc nơi lòng tôi như vậy.
Xem thế ta nhận rõ bản
chất Ngài là người có tinh thần đạo đức cao độ, biết thương người, giúp đỡ
người mà không cần người trả ơn. Những người bạn đồng thời với Ngài cùng làm
quan thuế ai cũng nhà cao cửa rộng, riêng Ngài trước sau vẫn ở một hẻm tại
đường Cô Bắc (Saigon), sống một cuộc đời đạm bạc thanh cao.
Bởi lẽ, Đức Ngài quan niệm
rõ ràng về người tu sống giữa xã hội như vầy : "Người tu hành phải thành
thật, ngay thẳng, trước là tự thành thật với mình, rồi mới có thể thành thật
đối với bạn đạo và đồng loại… Người tu sĩ Cao Đài phải biết vì đời mà chịu khổ,
thật thành chủ nghĩa vị tha, dám quên mình mới thực là xả thân cầu Đạo, đem đời
sống hiến trọn cho Đạo và cho nhơn sanh". Sự quả quyết hy sinh do nơi lòng
trắc ẩn trước mọi đau khổ thế gian. Tình thương phải được lan tràn vây kín đám
nhơn sanh. Nhứt là đám dân bần hàn khốn khổ để thực hiện câu : đem đạo cứu đời,
nếu thiếu lòng thương yêu, không làm được những điều Đức Chí Tôn dạy bảo.
"Bởi thế, luật thương
yêu không phải một đề nghị, một ý kiến có thể chấp nhận hay không. Luật thương
yêu là một thế mạnh linh thiêng mà chúng ta phải nhận lãnh vô điều kiện. Vì sự
thương yêu đưa chúng ta đến gần với Đức Chí Tôn và sự ghét đưa chúng ta vào
hàng tôi tớ của quỉ vương…"
"Thầy Tăng Tử xưa là
một bậc hiền triết mà còn "Nhứt nhựt tam tĩnh ngộ thân", tức là hằng
ngày xét mình trong ba điều. Một là lo việc cho người không hết lòng bằng việc
mình có thế chăng ? Hai là giao du với bạn bè mà đem lòng giả dối, có vậy
chăng? Ba là nghe lời Thần dạy bảo mà hay lãng xao, có thế chăng ? Ước mong
hằng ngày của ta chỉ xét mình một điều duy nhứt thì nên Đại Đạo lấy làm may mắn
mà nhơn sanh cũng lấy làm hữu phước …"
Đức Phật Thích Ca dạy rằng
: "Ngươi hãy tự kiểm ngươi". Theo ý Đức Phật thì ngươi hãy suy nghĩ
và xét mình đặng biết mình là ai, mình thật biết mình rồi mới biết định giá trị
của người khác. Thường người ta chỉ lo tìm kiếm những điều ở ngoài mình, chớ
không tìm kiếm những cái ở trong con người của mình.
"Thế nên dây oan kết
mãi, nghiệp chướng càng mang nặng, biết chừng nào mới tỉnh ngộ đặng phân bổn
hườn nguyên ?" (Lời thuyết Đạo của Đức Cao Thượng Sanh đêm 23 tháng 12 năm
Canh Tuất, DL: 19-1-1971) tại Đền Thánh.
Đức Ngài có quan niệm khắc
khe với bản thân như vậy, vì dù còn ở thế, làm việc cho chính phủ mà trong thâm
tâm lúc nào cũng nghĩ mình là hàng giáo lãnh của một tôn giáo, phải là tấm
gương sáng.
Vào hạ tuần tháng 7 năm
1925 các ông Cao Quỳnh Cư (chú Ngài), ông Phạm Công Tắc thư ký sở Thương Chánh
cùng Ngài họp tại nhà Ngài tại phố Hàng Dừa (chợ Thái Bình Saigon) họp nhau xây
bàn theo lối Thông Linh học Tây Phương. Đêm đầu tiên không kết quả, qua đêm sau
cũng họp mặt tại nhà Ngài, một chiếc bàn được đem đặt ra ngoài sân, các ông để
tay lên, bàn nhịp lia lịa. Ôâng Cao Quỳnh Cư mới nói rằng:
- Nếu có vong hồn xin
khoan đi để cho hỏi ít lời, mật ước với nhau, nếu "ừ" (oui) thì xin
gõ hai cái, nếu "không" (non) thì xin gõ một cái.
Ông Cư nói vưa dứt, cái
bàn gõ hai cái tỏ ý chịu. Các vong nhập đàn viết đủ thứ tiếng, họ giành nhau
làm bàn xao động. Đến ngày 6-6-Ất Sửu (26-7-1925) Cao Quỳnh Lượng, gọi ông Cư
bằng chú, nhập vào bàn rồi Cao Quỳnh Tuân, thân sinh ông Cư cũng nhập bàn cho
thi (2).
Thứ bảy tuần sau
(30/7/1925) các ônglại tập hợp nhà Ngài để xây bàn. Đến chín giờ rưỡi bàn gõ
"thác vì tình" và xưng tên là Đoàn Ngọc Quế (trùng tên với một người
bạn thân của ông Cao Quỳnh Diêu, hiện có mặt trong buổi xây bàn). Các ông đều
nhìn ông Diêu mà cười, rồi ông Cư xin cho thi tự thuật. (3)
(2) & (3) Xin xem
thêm "Tiểu sử Đức Cao Thượng Phẩm" cùng soạn giả. )
Vào thượng tuần tháng 8
năm 1925, các ông cũng xây bàn. Cô Quế về nhập bàn. Các ông xin kết tình bằng
hữu với cô. Cô đồng ý và gọi ông Cư là Trưởng ca, ông Tắc là Nhị ca và Ngài
(Cao Hoài Sang) là Tam ca, còn cô xưng mình là Tứ muội. Sau khi kết nghĩa các
ông năn nỉ cho biết tên thật của cô, bàn gõ ba chữ tắt "V.T.L".
Các ông khó khăn lắm mới
tìm được mộ cô. Nơi nhà bia có khắc hình cô, dưới đề tên Vương Thị Lễ. Các ông
xây bàn, cô xác nhận là các ông đã tìm đúng ngôi mộ cô. Nhờ đó các ông càng
phấn khởi xây bàn. Ngài Cao Hoài Sang ra đề "tiễn biệt tình lang",
bàn liền gõ không ngừng :
Chia gương căn dặn buổi trường đình,
Vàng đá trăm năm tạc tấm tình.
Bước rẻ ngùi trông cơn ác xế,
Lời trao buồn nhớ lối trăng thanh.
Ngày chờ mây áng ngàn dâu khuất,
Đêm bật đèn khuya một bóng nhìn.
Lần lữa cô phòng xuân thỏn mỏn,
Xa xui ai thấu nỗi đinh ninh.
Sầu dài ngày vắn dễ chi vui
Toan tính thâu canh ruột rối nùi.
Ngược sóng thuyền đầy cơn gió dập
Xuôi dòng nước lớn dạt bèo trôi
Bước đường danh lợi thêm gay trở
Ngoảnh lại tang thương luống ngậm ngùi.
Lần lữa xuân hè năm tháng lụn,
Thôi thôi, đến thế, thế thì thôi.
Cô Đoàn Ngọc Quế
nhập bàn và họa nguyên văn :
Chung tình đoạn gánh khó làm vui,
Lần lữa chưa xong chỉ rối nùi.
Lời hẹn xưa còn vầng nguyệt chứng,
Hương thề nay thả giữa dòng trôi.
Kim rời cải rụng lòng ngao ngán,
Đá nát vàng phại dạ ngậm ngùi.
Một khối tuyền đài tình khó dứt,
Ráp gương kiếp khác quyết chờ thôi.
Một hôm, các ông xây bàn,
ông Cao Hoài Ân thân sinh ông Cao Hoài Sang giáng. Oâng Cư xin vong linh lấy
vận Từ Thứ mà nhắn nhủ ông Sang, vong linh cụ Ân nhập bàn cho bài thi :
Thuyền khơi gió ngược khá nương voi,
Vận thới hầu nên đẽ thấy mòi,
Vườn cúc hôm nay muôn cụm rở,
Rừng tòng buổi trước một cây còi,
Hồng nương dậm gió chi sờn cánh,
Ngựa ruỗi đường hòe há nhọc nhọc roi
Níu nẳm cho qua cơn bĩ cực.
Thìn lòng chứng có lượng đôi thoi.
Kế đó Đức Nhàn Âm Đạo
Trưởng giáng cho thi :
Chiêu tập hồn thi bước đạo điều,
Non xưa chớp cánh nhạn trông theo.
Trời thanh khách gắng lần qua suối,
Đêm rạng trăng soi lướt khỏi đèo
Mây khỏa đảnh Tần màu gió cuốn
Thuyền khơi sông Bích cánh bườm treo
Giang san một giản nên chung dựng
Biển cả chi nao ít mái chèo !
Xem thế, từ những bài thi
tình tứ, đấng vô hình lần đưa các ông vào đường Đạo. Những sự kiện này được Đức
Cao Thượng Sanh xác nhận như sau :
"Trước thời kỳ chức
sắc Hiệp Thiên Đài được lịnh dùng Đại Ngọc Cơ trong việc truyền giáo, thì chỉ
là một giai đọan chơi giải trí của ba vị, cùng kết bạn đồng tâm để vui thú cầm
thi trong khi nhàn rỗi.
Cuộc chơi giải trí từ đó
là việc "Xây bàn" và ba vị nói trên chính là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công
Tắc, Cao Hoài Sang. Vốn là các nhà thi sĩ chất chứa nơi tâm nỗi căm hờn vì nước
nhà bị đô hộ, ba vị này mượn thú xây bàn, mời vong linh những người quá vãng để
cầu hỏi về vận mạng tương lai của Tổ quốc, hoặc làm thi, hoặc xướng họa chơi
cho tiêu khiển.
Lúc ơ khởi gặp nhiều khó
khăn, vì trong đêm đầu ba vị đốt nhang khấn vái, ngồi để tay trên bàn từ 9 giờ
tới 2 giờ khuya mà không có kết quả chi hết, cố tâm nhẫn nại ba vị ngồi thêm
đem thứ nhì (nhằm ngày 26/7/1925) thì đúng 12 giờ khuya có một vong linh nhập
bàn, gõ chữ ráp thành bài thi Đường luật.
Thấy sự hiển linh và huyền
diệu trong sự tiếp xúc với cõi vô hình, ba ông tích cực say mê việc xây bàn đêm
nào cũng hợp nhau ngồi cho tởi hoặc 4 giờ sáng.
Từ đó đến sau thì các vị Tiên
Thánh thường nhập bàn, khi thì cho thi phú hoặc luận về vận mạng nước nhà, đánh
trúng chổ yếu điểm tâm hồn ba ông, khiến cho cả ba đều ngây ngất trong niềm vui
sướng.
Tiếp được bài thi nào hay
thì khi dứt cuộc xây bàn ba ông nán lại : hai ông rao đờn, một ông ngâm thi,
rồi cùng nhau mượn chung rượu để gợi hứng niềm hoài cảm. Nhờ chơi xây bàn mà ba
ông Cư, Tắc, Sang học hỏi đạo lý trau dồi trí thức cho tới ngày Đức A-Ă-Â dạy
ba ông vọng Thiên bàn ngoài sân quỳ giữa trời mà cầu Đạo" (4).
Đến ngày 3/8/1925 (15/7/Ất
Sửu) các ông thiết đàn xây bàn được cô Quế báo tin có một Đấng đến tiếp xúc :
THI
Ớt cay, cay ớt gẫm mà cay
Muối mặn ba năm muối mặn dai.
Túng lúi đi chơi nên tấp lại,
Ân bòn chẳng chịu tấp theo ai.
A-Ă-Â
Ngài Phạm Công Tắc nghe
dứt bài thơ lấy làm khó chịu, Ngài Cao Quỳnh Cư hiểu ý liền nói với Ngài rằng :
- Ậy, em ngồi lại cho qua
hỏi, vị này không phải tầm thường đâu em.
Ngài Cao Quỳnh Cư liền hỏi
:
- Ông A-Ă-A mấy chục tuổi ?
Đấng A-Ă-A gõ bàn hoài
không ngừng, đếm đến mấy trăm cái cũng không thôi. Ông Cư sợ không dám hỏi nữa.
Tròi trọi mình không mới thiệt bần
Một nhành sen trắng náu nương chân
Ở nhà mượn đám mây xanh kịt,
Đỡ gót nhờ con hạc trắng ngần
Bố hóa người đời gây mối đạo
Gia ân đồ đệ dựng nền nhân
Chừng nào đất dậy trời thay xác
Chư Phật, Thánh, Tiên xuống ở trần.
Đến ngày 18/8/1925 (1-8-Ất
Sửu), cô Đoàn Ngọc Quế giáng bàn, các Ngài hỏi rằng:
- Em còn có chị em nào nữa
biết làm thi xin cầu khẩn đến dạy ba anh em qua làm thi.
Cô Quế nhịp bàn trả lời :
"Có chị Hớn Liên Bạch, Lục Nương, Nhứt Nương làm thi hay lắm" và cô
lại thêm "Ba anh muốn cầu thì ngày đó ba anh phải ăn chay mới cầu
được".
Đến ngày 25/8/1925
(8-8-Aát Sửu), Đấng A-Ă-Â giảng dạy ba ông, vào rằm tháng 8 năm đó, thiết tiệc
chay thỉnh Đức Diêu Trì Kim Mẫu và chư vị Cửu Nương đến dự. Đúng ngày ước hẹn,
các Ngài xây bàn, Đấng A-Ă-A giáng cho thi, rồi đến Đức Phật Mẫu và Cửu Vị Tiên
Nương. Riêng bà Lục Nương thì giáng cho thêm một bài (5) và mời ba Ngài làm thi
liên ngâm :
LỤC NƯƠNG :
Trót đã mang cái nợ đời.
Gánh đời nặng lắm khách trần ơi.
CAO. Q. CƯ :
Oằn vai thần đạo non sông vác,
Chịu kiếp trần ai gió bụi vùi.
PHẠM. C. TẮC :
Thương hải tang điền xem lắm lúc
Công danh phú quí nhắm trò chơi
CAO. H. SANG :
Ở đời mới hẳn rằng đời khó,
Khó một đôi năm dễ khó đời.
LỤC NƯƠNG :
Ở thế sao chê tiếng thế buồn
Buồn vui hai lẽ lấy chi đong ?
CAO-Q-CƯ :
Cân đai tuế nguyệt trêu hồn bướm,
Tên tuổi phong ba lắm bụi hồng.
PHẠM-C-TẮC :
Chiếc bách dập dồn dòng bích thủy
Phồn hoa mờ mệt giấc quỳnh long
CAO-H-SANG :
Bờ đương chừ đặng phong trần rảnh
Quảy gánh thơ đờn dạo bốn phương.
(5) Xem Đại Đạo Sử Cương (quyển I,
1970) trang 35)
Nhờ tình thân mật đó Lục
Nương cho ba vị biết cô Đoàn Ngọc Quế là Thất Nương Diêu Trì Cung.
Việc xây bàn của các Ngài
lan rộng trong nhân quần, kẻ hiếu kỳ đến xem, người không tin muốn thử coi chân
giả. Một Phật tử hỏi Đấng A-Ă-Â làm thế nào để phân biệt thật giả. Đấng A-Ă-Â
nhịp bàn cho thi :
THI
Chi lan mọc lẫn cỏ hoa thường,
Chẳng để mũi gần chẳng biết hương
Hiền ngõ rủi sinh thời bạo ngược
Dầu trong Thánh đức cũng ra thường.
Người Phật tử ấy hỏi tiếp
: "Làm sao biết được chánh tà?". Đấng A-Ă-Â đáp :
THI
Lẽ chánh tự nhiên có lẽ tà,
Chánh tà hai lẽ đoán sao ra
Sao Tiên Phật người trần tục
Trần tục muốn thành phải đến ta
Sau đó có nhiều nhân vật
tò mò đến tìm hiểu hư thực việc xây bàn thỉnh Tiên như các ông Nguyễn Trung
Hậu, Trương Hữu Đức, Lê Thế Vĩnh, Phạm Minh Kiên lần lược đều là đệ tử Đấng
A-Ă-Â.
Đến ngày 12-12 năm đó
(27/10/Ất Sửu), Đức Diêu Trì Kim Mẫu giáng dạy :
"Mùng 1 tháng 11 này
tam vị đạo hữu VỌNG THIÊN CẦU ÐẠO". Ba Ngài không hiều cầu đạo là thế nào,
nên xây bàn mời Thất Nương đến hỏi, Thất Nương nhập bàn đáp : "Không phải
phận sự của em".
Các Đấng khác cũng không
chỉ rõ mà bảo hỏi Ông A-Ă-Â.
Ngày 30/10/Aát Sửu
(15/2/1925) Đấng A-Ă-Â giáng dạy : "Ngày 1/11 này (16/12/1925) tam vị phải
VỌNG THIÊN CẦU ÐẠO. Tắm gội cho tinh khiết, ra quì giữa trời cầm chín cây nhang
mà vái rằng : "Ba tôi là Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang vọng
bái Cao Đài Ngọc Đế, ban ơn đủ phúc lành cho ba tôi cải tà qui chánh".
Các Ngài chưa rõ Cao Đài
Ngọc Đế là ai, nhưng được lịnh ơn trên dạy bảo phải làm theo. Trong lúc ba Ngài
Vọng Thiên cầu đạo, ngoài đường kẻ qua người lại dập dìu, họ hiếu kỳ dừng chân
lại coi ba Ngài cúng vái ai mà quì ngoài sân. Bỗng đâu có thi sĩ Bồng Dinh (tức
Giáo Sỏi) đến vịn cái bàn chỗ ba Ngài quì mà ngâm thi. Mọi người càng đến coi
đông hơn. Nhưng các Ngài cũng tâm nguyện, chờ cho 9 cây nhang tàn mới vào nhà,
đoạn thiết đàn cầu Ngọc cơ :
Đấng Cao Đài Thượng Đế
giáng cho thi :
THI
Thiên đàng nhứt thế biến lôi âm
Tận độ nhơn sanh thoát tục phàm,
Chánh giáo phát khai thiên thế mỹ,
Thâu hồi hiệp nhứt đạo tam kỳ.
CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ
Vọng niệm phân thùy sự sự phi
Cá lý thiên tâm thường thế nhân
Thiên tâm tu hướng cá trung cầu
Quân vấn thiên tâm mạc thị tường
CAO ĐÀI THƯỢNG ĐẾ
Các Ngài không thông suốt
được các bài thi nên thỉnh Đấng A-Ă-Â xin giải nghĩa, được giải như vầy :
"Ngọc Hoàng Thượng Đế
là Trời, viết là dạy rằng : Cao Đài chỉ Nho giáo, Tiên ông chỉ Đạo giáo, Đại Bồ
Tát Ma Ha Tát chỉ Thích giáo, giáo đạo Nam Phương là dạy Đạo ở phương Nam.
Nghĩa là Trời giáng trần qui Tam giáo Nho Thích Đạo dạy Đạo ở phương Nam".
Bài sau dịch ra
từng chữ một :
"Cầu ước, phân thừa, việc việc, chẳng phải
Nơi, lẽ, trời, lòng, thương, thế nhịn
Trời, lòng, tua, ngó, theo, nơi giữa, khẩn
Bây, hỏi, trời, lòng, biết, rõ".
Nghĩa xuôi :
"Việc cầu ước đều chẳng phải
Mỗi lẽ do lòng Trời phải đợi lịnh
Lòng trời tua ngó theo mỗi việc đều cầu khẩn
Bây hỏi lương tâm chưa biết rõ sao ?
Lòng trời :
Consciense
Ta thấy rằng Đức Cao Đài
có thái độ khác hẳn lúc đầu mới dạy Đạo mang thú vui tao nhã, muốn các thiên sứ
của Ngài phải tu học nhiều hơn nữa, như các bài dưới đây:
Mừng thay gặp gỡ Đạo Cao Đài,
Bởi đức ngày xưa có bữa nay,
Rộng mở cửa răn, năng cứu chuộc
Gìn lòng tu tánh chớ đơn sai.
A-Ă-Â.
Tưởng nên nhắc lại là sau
ngày Hội Yến Diêu Trì Cung (15/8/Aát Sửu) để tiện bề học hỏi Đạo Trời, các ông
tách làm hai nhóm : bên các Ngài Cư, Tắc thì cầu Ngọc cơ, bên các Ngài Diêu,
Sang thì vẫn xây bàn. Thật ra thì Ngài Cao Quỳnh Cư chỉ cầu Ngọc Cơ khi có lịnh
ơn trên, còn thường thì cũng xây bàn.
Bên các Ngài Cư, Tắc thì
được Đức Thanh Sơn Đạo Sĩ cho 10 bài liên hoàn giải đáp về tình hình đất nước.
Còn bên các Ngài Diêu, Sang thì được Đức Nhàn Âm Đạo Trưởng, Quan Thánh, tiên
Cô Thanh Tâm Tài Nữ dạy Đạo đượm màu sắc triết lý như sau đây:
Mượn nguồn đạo đức khỏa màu trần
Luyến thế ngày qua khó kịp xuân,
Bến khổ trương buồm thuyền đợi khách
Non tiên chở cánh hạc chờ xuân.
Xuân mờ mịt bao nhiêu cành ủ
Cụm rừng tòng lá xủ tranh sầu
Biết bao mấy nỗi tang dâu
Bóng trăng kia đã đứng đầu tuổi xanh.
Xanh vàng ngọn cỏ trải mồ hoang
Oan trái trả vay khách nhộn nhàng
Nhàn cảnh mấy ai tìm đến chốn
Chốn bi ai luống nhọc nhằn than
Than rằng : cỏi phù sinh nháy mắt,
Trăm năm đâu biết chắc rủi may,
Đua tranh sánh của so tài
Của tài phủi sạch đường dài thoát qua
Gắng lo xa.
Thanh
Tâm Tài Nữ
Việc thôi
thúc tìm đọc Đạo Trời của Tiên Cô Thanh Tâm Tài Nữ dưới đây càng rõ rệt :
THI
Liệu mà day trở bước
thang xuân
Một dặm đường qua, Đạo một gần
Sóng dậy tang thương hồng chích cánh
Trời dìu thường phạt hóa đồng can
Cân thiêng liêng chất đồng tội phước
Gặp thời tua vẹn đức trọng nhân
Dịp may dễ có mấy lần
Dò đường đến chốn non Thần mới hay.
Hay biết đời sao, Đạo lại sao ?
Hay gần cửa Thánh bước lần vào
Hay tìm nẻo chánh, tà xa lánh
Hay tập thanh cao, chí mới cao.
Cao khôn với, thấp nào dễ bước
Khó mà lần đến được mới mầu,
Chỉ mành rối khá lo âu
Liệu chơn thoát khỏi vực sâu sau này.
Thanh Tâm Tài Nữ
Thầy tu Núi Bà Đen là Huệ
Mạng Trường Phan cũng dẫn dắt các Ngài Cư, Tắc : "Xin chư vị gắng tu, thấp
thỏi như tôi, nhờ trọn tin Phật Trời, còn được ân thưởng Huệ Mạng Kim Tiên,
huống hồ chơn linh cao trọng như quý vị, nên chịu tu ngày sau phẩm vị nơi Thiên
đình còn cao đến bực nào".
Bên các Ngài Diêu, Sang,
thầy Huệ Mạng mô tả cảnh nhàn của người tu để gây ý thức tu luyện với các Ngài
như sau :
THI
Rãnh nợ thế, rừng thung vui thú,
Chiều hứng nghe vượn hú chim chuyền
Một ngày thong thả là Tiên,
Suối trong rửa sạch não phiền trần gian.
Vòng cương
tỏa buộc ràng danh lợi
Chốn hí trường lui tới lăng xăng,
Phép quan luật nước thúc dần,
Đỉnh chung rốt cuộc mơ màng chiêm bao
Đâu là thấp, đâu cao phẩm thế,
Nhục vinh kia ai dễ trọn đời
Cõi trần kiếp sống mấy hơi
Phủi tay chốc đã châu rơi ngọc trầm
Hỡi ai là khách tri âm.
Đức Nhàn Âm chơn nhơn cũng
giáng bàn gõ nhịp cho thi khuyên tu :
THI
NHÀN du bạch dạ tuyết phong đình
ÂM tảng diệt kỳ chiếu đẩu tinh
CHƠN tịch quyền khai Thiên vị đắc,
NHƠN bang hữu cộng liệt trân đình.
Rèm gió đêm tràn bóng rạng thinh
Nghêu ngao non túy thú riêng mình.
Thu về hứng cảnh đôi bầu cúc
Hạ đến vui say mấy tiệc quỳnh.
Nhàn dạo vẩn vơ theo nhật nguyệt
Rảnh ngồi chậm rãi tụng Huỳnh Đình
Tranh đua rũ sạch lằn phi thị
Gặp buổi giang hồ với chúng sinh.
Một hôm (13-7-1928) các
Ngài Sang, Diêu thiết lễ xây bàn, có một người Pháp xin tham dự và yêu cầu được
nghe lời dạy của Đấng vô hình, Đức Thánh Pierre giáng bàn và cho bài thi như
sau :
1/ -
"L'homme a ses maux, le roseau a ses plaintes
De ta Destinée a pris soin le Créateur
En t;épargnant de la vie toutes contraintes
En semant à tes pas, espoir et non malheur.
5/ - À l'horizon
lointain, déjà l'astre du jour
Commence à décliner, ne perds pas de temps
Paur qu'ace séjour si heureux, sois de retour
Purgatoire accompli et esprit sans tournant.
9/ - Frôlant
souventefois les sombres nuages
À perdre ton éclat, ton étoile est préte
Mains une main divine à ton avantage
D'un geste en chanteur dissipe la tempête.
13/ - Pour des
entreprises lointaines, tu n'es pas fait,
Reste à ton sillon, ton complte est arrêté
Le bonheur bien concu n'est-ilpas le plus vrai ?
Réserve ces faveurs à ta postérité.
17/ - Profite de
ton présent, fais ta vie à venir,
Répare tes erreurs passées, sois bon père
Marche vers le chemin de Dieu sans ralentir
La vie a des ailes, elle n'est qu'éphémère …
Tâche de me compreudre" (6)
Dịch thi :
1/ - Đời người như sậy, lắm lo âu,
Tạo hóa an bày định mệnh sâu
Gieo khắp bước đường đầy hy vọng
Ngăn trừ tất cả những niềm đau.
5/ - Ánh dương soi sáng tít chân trời,
Nghiêng bóng bước mau kẻo trễ thời
Ngôi cũ quay về bao sung sướng
Khổ đau dứt nghiệt, tinh thần vui
9/ - Mây đen che khuất lắm lần rồi
Mắt hẳn sáng sao cả ánh ngời.
May mắn nhờ tay Trời độ rồi
Phép mầu tiêu tán bão dông lui
13/ - Vinh dinh lợi lộc tránh xa vời
Tiền bạc dẹp qua chẳng để đời
Hạnh phúc thế kia là thật đúng
Để dành ân huệ cháu con noi.
17/- Lấy trước dựng sau mới đáng cha
Hối cải những điều lầm đã qua
Theo hướng đường Trời đừng chậm trễ
Cuộc đời ngắn ngủi chóng bay xa
Hãy gắng tâm thành để hiểu ta.
(6) Những bài thi trên do Đức Thượng
Sanh tặng riêng soạn giả. Trong "Les Messages Spirites" nói bài này
của Đức Quan Thánh Đế Quân (tr. 47)
Nhờ được sự dẫn dắt vào đường đạo tận tình của
các Đấng mà các Ngài từ đây thật sự tin tưởng vào Đức Cao Đài. Đàn đêm
14/1/1926 Đức Cao Đài dạy rằng:
Thành
tâm niệm Phật
Tịnh,
tịnh, tịnh, tỉnh, tỉnh
Tịnh
là vô nhứt vật
Thành
tâm hành đạo.
Cô Thất Nương Đoàn Ngọc Quế cũng giáng đàn nhắn
nhủ : "Em cảm ơn quý anh, xin quý anh gắng
công học Đạo, dưỡng luyện tinh thần, ắt ngày sau đắc đạo. Coi hữu vị làm trọng,
đừng ham luyến hồng trần mà phải đọa. Đôi lời thành thật xin quý anh thương tình gìn giữ. Mắc hầu, em không thể nán lại lâu,
em xin kiếu. Lâu lâu em sẽ về nói rõ".
Sau đó việc xây bàn thay bằng phò Ngọc cơ, hai Ngài Cao
Quỳnh Cư và Phạm Công Tắc làm đồng tử chánh. Vì vậy Ngài Cao Hoài Sang xây bàn
riêng nơi nhà Ngài Cao Quỳnh Diêu rồi dần dần ít đi hầu đàn chánh. Đức Cao
Thượng Phẩm xin với Đấng Cao Đài để lời dạy bảo. Đấng Cao Đài Thượng Đế giáng
dạy rằng :
"Nó thật thà, vả lại
nó còn mang xác phàm. Ai dưới thế này đặng trọn vẹn, các con chỉ Thầy coi
?"
Các Ngài đã thọ làm môn đệ
Đấng Cao Đài từ lâu nhưng chưa thờ vì chưa biết cách thức thế nào, nên mới cầu
xin cách dạy để thờ, thì Đấng Cao Đài Thượng Đế dạy: "Đến Chiêu xem cách
thức nó thờ Thầy, bảo nó hiệp một với các con".
Ngày 15/12/Ất Sửu, Thánh
Tượng Thiên nhãn được thượng lên ở nhà Ngài Lê Văn Trung, có mặt các ngài Ngô
Văn Chiêu, Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang, Nguyễn Trung Hậu và
nhiều vị khác nữa. Đấng Cao Đài giáng cơ dạy: "Thầy vui thấy các con thuận
hòa cùng nhau, Thầy muốn các con như vậy hoài. Ấy là lễ hiến cho Thầy rất trân
trọng.
Chẳng quản đồng tông mới một nhà
Cùng nhau một đạo tức một cha
Nghĩa nhân đành gửi thân trăm tuổi
Dạy lẫn cho nhau một chữ hòa".
Cao Đài Tiên Ông.
Qua đến ngày mồng 9 tháng
giêng năm Bính Dần nhằm vía Đức Chí Tôn, ông Vương Quan Kỳ thiết đàn tại nhà
riêng, Đức Thượng Đế giáng cơ, quan phủ Ngô Văn Chiêu xin Đức Thượng Đế lấy tên
mấy người đệ tử mà cho bài thi Đức Thượng Đế thuận cho :
"CHIÊU, KỲ, TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG, QUÍ, GIẢNG thành
HẬU, ĐỨC, TẮC, CƯ thiên địa cảnh
Hườn, Minh, Mân đáo thủ đài danh".
Mười hai chữ lớn trong ba
câu đầu là tên của 13 vị môn đệ đầu tiên, vì 2 Ngài Cao Hoài Sang và Võ Văn
Sang điểm chung một tên (7).
Đến ngày 25/4/1926 (15-3-Bính
dần) thì thiết lễ Thiên Phong tại nhà Ngài Lê Văn Trung ở Chợ Lớn. Các vị được
thọ phong là Ngài Phạm Công Tắc thọ phong Hộ Pháp, Ngài Cao Quỳnh Cư thọ phong
Thượng Phẩm, Ngài Cao Hoài Sang thọ phong Thượng Sanh, Ngài Lê Văn Trung thọ
phong Đầu Sư Thượng Trung Nhựt, Ngài Lê Văn Lịch thọ phong Đầu Sư Ngọc Lịch
Nguyệt.
(7) Tiểu sử quan phủ Ngô Minh Chiêu, Saigon 1962, trang 41)
Các vị sau đây được phong
vị để phò cơ :
"Đức, Hậu phong Tiên đạo phò cơ Đạo sĩ
Cư phong Tá cơ tiên hạc đạo sĩ
Tắc phong Hộ giá tiên đồng tá cơ đạo sĩ
Hai ông Thượng Phẩm và hộ
Pháp hợp thành một cặp đồng tử chấp cơ phong Thánh, truyền giáo, lập Pháp Chánh
Truyền và Tân Luật".
Ngoài cặp cơ Cư - Tắc còn
có cặp cơ: Sang, Diêu, Hậu, Đức, Nghĩa, Tràng - Tươi, Chương, Kiên, Đãi, Mai,
Nguyên, Mạnh, Phước-Thâu, Vĩnh. (8)
Vì có nhiều cặp cơ, hơn
nữa đàn Cầu Kho không cung ứng cho hoàn cảnh, nên có thêm 5 đàn nữa là Chợ Lớn,
Tân Kim (Cần Giuộc), Lộc Giang, Thủ Đức, Tân Định.
Để việc phổ độ chúng sanh
khỏi bị ngăn trở, các ngài Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang … tất cả
28 vị đứng tên đưa tờ khai tịch đạo lên Thống đốc Nam Kỳ là ông Le Fol vào ngày
7/10/1926. vì chế độ thuộc địa giống như việc cai trị ở chính quốc Pháp, nên tờ
khai tịch đạo không cần đợi chính quyền Đông Dương cho phép, mà coi như tờ
thông báo chính thức rồi hành giáo và truyền giáo. Thật sự không có bản văn
kiện nào trả lời hoặc cho phép về tờ khai đạo trên cả.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét